Y đức và trách nhiệm

Y đức và trách nhiệm

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 1:02 Sáng 8/04/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (08.04.2013) – Reader’s Digest – Ngày 7 tháng 4 là ngày Sức Khỏe Thế Giới. Homer định nghĩa: “Sức khỏe là một tinh thần trong sạch trong một thân thể tráng kiện”. Người Việt nói: “Sức khỏe là vàng”. Còn với thầy thuốc thì phải có y đức. Vậy bác sĩ phải làm gì khi bị bắt buộc sát nhân? Một sự giằng co mãnh liệt, một cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác. Phải can đảm và dứt khoát mới có thể vượt qua được chính mình. Đây là câu chuyện có thật đã xảy ra với một bác sĩ trẻ, y như trong phim vậy. Hãy chung tay xây dựng văn minh tình thương, văn hóa sự sống, vì ai cũng có quyền cơ bản nhất là QUYỀN SỐNG!

Ngày 24-12-1989, một bệnh viện ở miền Nam Trung quốc rất nhộn nhịp từ sáng sớm. BS Wong, 24 tuổi, gặp một tình huống rất khó xử. Đêm đó là ca trực của bác sĩ trẻ này, trách nhiệm mới và đầy hãi hùng. Anh rất mệt vì đã nhịn đói suốt 8 giờ qua. Đó là một ca sinh ba.

Đến 1 giờ sáng anh mới được ngả lưng, nhưng anh không tài nào chợp mắt được. Anh nghĩ đến 3 trẻ sơ sinh, và nghĩ đến cha mẹ mình. Anh đã chọn nghề bác sĩ, một nghề mà ở Trung quốc chỉ được trả lương bằng 1/3 số lương của người phu quét đường. Anh thường nói: “Công việc cao quý nhất là cứu sống người khác”.

BS Wong được nhiều người quý mến vì anh sống khiêm nhường, ăn mặc giản dị, đến cái túi xách đã hư khóa kéo mà anh vẫn xách theo đi làm hằng ngày. Anh quan niệm: “Dụng cụ không làm nên bác sĩ, chính kiến thức và lòng trắc ẩn mới làm nên bác sĩ”.

Khi cảm thấy buồn ngủ, BS Wong chợt nhớ hôm đó là lễ Giáng Sinh. Như hàng triệu người Trung quốc khác, song thân anh cũng là tín đồ Cơ Đốc Giáo. Gia đình anh đã từng mừng lễ Giáng Sinh, trang trí cây Nô-en, và hát bài “Silent Night” (Đêm Thánh Vô Cùng) của Nhạc sĩ Franz Xaver Gruber.

Tiếng gõ cửa làm anh thức giấc. Một nữ hộ sinh nói với anh: “Mau lên, chúng tôi cần anh làm việc này”. Anh bước nhanh theo cô hộ sinh 20 tuổi kia. Anh nghe thấy tiếng khóc chào đời của đứa trẻ. Khi anh tới phòng sinh, một phụ nữ nhễ nhại mồ hôi đang quằn quại trên giường, miệng la to: “Đừng, đừng mà!”.

Cô hộ sinh hút chất iodine vào ống tiêm. Cô cho BS Wong biết rằng phụ nữ này sợ phá thai. Chị đã có một con và đang mang thai con thứ hai được 8 tháng, nhưng luật pháp Trung quốc cấm sinh con thứ hai. Ủy ban kế hoạch hóa gia đình đã bắt chị vào bệnh viện để phá thai. Nhưng đứa bé vẫn sống sau khi trục thai ra. Cô hộ sinh nói: “Tôi yêu cầu người ta chôn sống đứa bé nhưng trời mưa quá, không đem nó đi chôn được”. Gần bệnh viện có một ngọn đồi nhỏ để chôn các thai nhi như vậy.

Là người trực, BS Wong có trách nhiệm không được để cho ai biết chuyện. Nghĩa là tiêm 20 ml iodine hoặc rượu vào đầu đứa bé, và nó sẽ chết ngay trong vòng vài phút. BS Wong cảm thấy “chết đứng” khi nhận ống tiêm từ tay cô hộ sinh. Anh không do dự về ca phá thai đầu tiên của 3 tháng trước khi bắt đầu hành nghề bác sĩ, nhưng lần này khác hẳn. Từ khi anh làm ở bệnh viện này, anh luôn để cho các bác sĩ khác làm nhiệm vụ thay mình. Lần này, người mẹ của đứa bé nhìn anh bằng ánh mắt van lơn. Chị biết mũi kim oan nghiệt kia mang ý nghĩa gì. Chị khóc: “Xin hãy thương hại cháu!”.

Trước vẻ phản đối của người mẹ, anh đi vào phòng tắm. Bên cạnh thùng rác là thùng nhựa màu đen có hàng chữ trên nắp: “Các trẻ em chết”. Tiếng cục cựa và tiếng khóc vang lên. Anh quỳ xuống xin cô hộ sinh mở nắp thùng ra. Anh tưởng tượng ra những đứa trẻ sơ sinh đang ở lằn ranh giữa sự sống và sự chết. Trong thùng có một bé trai nặng khoảng 2,5 kg đang nắm chặt hai tay và đạp chân. Môi nó tím bầm vì thiếu ô-xy. Anh bế nó lên, sờ vào thóp (soft spot) thấy vẫn ấm. Tim anh đập mạnh và nghĩ: “Đây là sự sống, là một con người”.

Tiếng người mẹ vẫn gào lên: “Bác sĩ ơi! Dừng tay lại!”. Cô hộ sinh dúi ống tiêm vào tay anh. Không dưng sao anh thấy nó trĩu nặng. Anh bị giằng co giữa cái thiện và cái ác. Ngay lúc đó, đứa bé đạp chân làm cho ống tiêm đâm vào người nó. Anh liền rút kim ra. Anh nghĩ: “Hôm nay là lễ Giáng Sinh, tôi không thể làm điều này!”. Anh đưa tay sờ lên môi đứa bé. Nó liền bú đầu ngón tay anh. Nó đói. Nó muốn sống. Anh như chết lặng và làm rơi ống tiêm xuống nền nhà và vỡ tan tành!

Anh bảo cô hộ sinh đưa đứa bé tới phòng săn sóc đặc biệt. Anh xin được trực tiếp săn sóc đứa bé. Anh tin rằng một bác sĩ sản khoa ngoài 50 tuổi sẽ không nỡ làm hại một đứa bé vô tội. Anh nói với bà: “Có một bé trai còn sống sau khi đã bị chích thuốc. Xin bà cho nó vào phòng săn sóc đặc biệt”. Bà cương quyết: “Tuyệt đối không được! Đây là đứa con thứ hai rồi!”. Anh năn nỉ: “Nhưng nó vẫn khỏe mạnh. Bà nhìn nó mà xem”. Bà vẫn nhất định không chịu: “Tại sao anh yêu cầu tôi làm như thế? Anh biết chính sách mà!”. Giọng bà đanh lại khiến anh sợ, nói “xin lỗi” rồi bế đứa bé đi.

Tại buổi họp ban cán sự bệnh viện, bác sĩ trưởng thường nhắc nhở tầm quan trọng của chính sách hạn chế sinh sản, và cho biết đã có người phải vào tù vì để cho đứa bé sống. Đó là một đàn ông mập mạp, ít nói, hơn 50 tuổi, chuyên đi buôn bán trẻ em. Mỗi lần được trả 30 tệ. Trung bình mỗi ngày được 4 đứa. Như vậy số tiền ông ta kiếm được gấp đôi lương tháng của một bác sĩ. Anh hỏi một đồng nghiệp: “Sao nhiều vậy?”. Người bạn trả lời: “Vì không ai dám làm như ông kia”. Nghĩa là sau khi trục thai mà đứa trẻ còn sống thì ông ta sẽ chôn sống nó, dù sao thì cũng buộc phải tuân thủ chính sách hạn chế sinh sản của nhà nước.

Vài tuần sau, một cô hộ sinh đưa đến một thai nhi bị trục ra mà vẫn còn sống, rồi bỏ nó bên vệ đường. Nghe tiếng khóc, viên cảnh sát phát hiện và xin được can thiệp. Sau đó liền có lệnh: “Không được đưa thai nhi còn sống ra khỏi bệnh viện, phải tiêm thuốc cho chết”.

Trở lại phòng sinh, BS Wong gặp một đàn ông với khuôn mặt bị nhiều vết roi da. Đàn ông này vội nắm lấy tay anh và nói: “Bác sĩ ơi! Đây là đứa con trai mà chúng tôi mong đợi. Xin đừng giết nó!”. Anh tới phòng tắm. Đứa bé vẫn nằm trên sàn nhà. Anh hỏi cô hộ sinh: “Tại sao cô không làm theo hướng dẫn của tôi?”. Cô hỏi: “Nhưng ai sẽ đưa đứa bé này đi?”. Cô có ý nói đứa bé không có quyền sống. Cô ngạc nhiên khi thấy BS Wong đưa đứa bé đi và đặt nó vào chiếc nôi.

Dưới ánh đèn tia cực tím, với sự hỗ trợ của các ống dẫn dưỡng khí chụp vào mũi và miệng, chân tay đứa bé hồng hào dần. Anh còn cẩn thận quấn cho nó một lớp chăn mềm.

Cô hộ sinh chuẩn bị một ống tiêm khác – lần này là rượu – và đặt trên chiếc khay bên cạnh chiếc nôi. Người mẹ lại khóc lóc, van lơn. BS Wong đặt tay lên vai chị và trấn an: “Chị bình tĩnh. Tôi không muốn hại con của chị đâu. Tôi đang tìm cách cứu nó”. Sản phụ nhẹ giọng: “Tôi sẽ mang ơn bác sĩ suốt đời”.

Cô hộ sinh hỏi bản báo cáo, BS Wong nói: “Đừng viết gì hết!”. Cô hộ sinh thất vọng bỏ đi. Nhìn đứa bé có khuôn mặt kháu khỉnh, tóc đen, anh nghĩ: “Cuộc sống này là QUÀ TẶNG CỦA THƯỢNG ĐẾ, không ai có quyền lấy đi. Có phải đây là cách mà Thượng Đế nói với con người chăng?”.

Anh đến gặp bác sĩ trưởng: “Xin lỗi, tôi không thể làm khác hơn. Tôi cảm thấy đó là tội sát nhân, và tôi không muốn là kẻ sát nhân”. Bác sĩ trưởng hét lên: “Làm sao mà anh nhận mình là bác sĩ sản khoa được chứ? Đừng làm phiền tôi nữa. Cứ làm theo mệnh lệnh!”.

Trở lại phòng sinh, anh thấy đứa bé đang ngủ ngon. Anh chạm tay vào miệng nó thì nó lại bú tay anh. Anh bật khóc và nói: “Vẫn đói hả bé?”. Anh chợt thấy sợ. Anh nhớ tới cha mình. Người có thể giúp gì chăng? Anh gọi điện về nhà. Lương tâm nhắc nhở anh: “KHÔNG ĐƯỢC GIẾT NGƯỜI!”. Cha anh nói với anh qua điện thoại: “Ba rất hãnh diện về con, con trai ạ!”. Mẹ anh cũng xúc động nói: “Mẹ cũng vậy. Nhưng con phải cẩn trọng đấy. Đừng viết gì hoặc để lại bất kỳ dấu vết nào, con trai nhé!”.

Anh hiểu. Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, Wong mới 8 tuổi. Cha anh đã bị bắt vì cứu một viên chức bị coi là chống đối chính quyền. Cha anh bị đi đày tới một vùng quê hẻo lánh, còn mẹ anh bị đưa đi tập trung lao động. Lúc đó, Wong và em trai 4 tuổi phải sống nhờ hàng xóm. Hoàn cảnh rất khó khăn!

Anh lưỡng lự, nhưng cha anh nói: “Con có một cuộc sống, đứa bé kia cũng vậy. Giết nó là giết đồng loại của mình”. Anh cúp máy và vội vàng tới phòng sinh. Cửa khóa chặt, cha của đứa bé đập cửa và kêu la: “Xin đừng giết con tôi!”.

Anh chạy vào phòng bằng cửa hông. Bác sĩ trưởng đã có mặt bên chiếc nôi của đứa bé và đưa tay sờ vào thóp nó. Khăn quấn và ống dưỡng khí đã bị lấy đi. Nó đang khóc dữ dội. Anh gào lên khi đưa tay giật lấy ống tiêm: “Xin đừng tiêm nó!”. Bác sĩ trưởng la lên: “Anh làm cái quái gì vậy?”. BS Wong không sợ, tâm hồn anh bình an. Anh nói: “Đứa bé này vô tội. Sao lại giết nó?”. Bác sĩ trưởng lườm anh, và gằn giọng: “Nếu anh tiếp tục cãi lệnh, anh không bao giờ được hành nghề thầy thuốc nữa”. Anh nói: “Tôi thà không làm bác sĩ chứ tôi không giết nó”. Bác sĩ trưởng lầm bầm: “Mày điên rồi!”. Bác sĩ trưởng bỏ đi, anh lại cho đứa bé thở dưỡng khí.

8 giờ sáng, BS Wong bị gọi lên văn phòng để chịu khiển trách và làm bản kiểm điểm: “Tại sao anh không làm tròn trách nhiệm của mình? Họ là bạn bè hay thân nhân của anh sao? Anh nhận tiền của họ à?”. Anh nổi nóng: “Tôi không hiểu ngôn ngữ của họ thì làm sao tôi biết họ muốn gì? Còn tiền ư? Cứ khám tôi sẽ rõ!”.

Các nhân viên trong Ủy ban Kế hoạch hóa Gia đình đến bắt buộc anh tiêm thuốc cho đứa bé chết, nhưng anh nhất định từ chối. Và anh bị bắt. Sau đó, họ giết chết đứa bé bằng một mũi thuốc. BS Wong đã cố gắng hết sức nhưng vẫn không cứu được đứa bé.

Tuy nhiên, lương tâm anh vẫn thanh thản vì anh không giết người, lương tâm anh không bị cắn rứt, không bị dày vò. Anh rất nhân đạo. Anh là một bác sĩ còn trẻ tuổi đời và tuổi nghề, nhưng anh hành nghề y với cả y đức và trách nhiệm của người thầy thuốc: Cứu người chứ không giết người.

Anh bị đẩy lên cao nguyên, vùng sâu vùng xa, rồi sau đó anh trốn sang Hoa Kỳ. Anh đã thay tên đổi họ là Yin Wong để tránh hậu họa.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Reader’s Digest)

CHÚA Ở QUANH TA

CHÚA Ở QUANH TA

Lm. Vĩnh Sang, dcct.

nguồn:conggiaovietnam.net

Trong tất cả các trình thuật về biến cố Chúa Giêsu hiện ra sau khi đã phục sinh : Buổi sáng ngày thứ nhất trong tuần (Ga 20, 11 – 18); buổi chiều với hai môn đệ trên đường Emmaus (Lc 24, 12 – 35); buổi sáng nơi bờ biển với các môn đệ sau một đêm đánh cá (Ga 21,1 – 19). Không lần nào chúng ta thấy Chúa xuất hiện trong dáng vẻ của người cao sang quyền thế, trong y phục lộng lẫy sang trọng, bên những đoàn quân tiền hô hậu ủng. Ngược lại, buổi sáng hôm ấy nơi tha ma nghĩa địa, Chúa làm cho bà Maria Magdalena lầm tưởng là người làm vườn, ắt hẳn rằng Chúa đã mặc áo quần cũ kỹ, đã khoác lên người những mảnh vải bạc màu, đã giản đơn với đôi dép nhẹ, đã để lộ đôi bàn tay sần sùi chai cứng. Ắt hẳn buổi chiều hôm đó, cả một đoạn đường dài từ Giêrusalem về hơn 11 cây số, Chúa đã “thất thểu” trong bộ dáng người lữ khách, áo phong sương nhuốm bụi đường, bình thường đến độ quá tầm thường vì không di chuyển bằng xe, bằng lừa ngựa, nhưng làm người khách bộ hành nghèo đường xa. Sáng hôm đó nơi bờ biển vắng lặng, ắt hẳn Chúa đã đi lại trên bờ thế nào, dáng vẻ tềnh toàng kèm theo lời xin “có gì ăn không ?” (Ga 21, 5) để các đồ đệ của mình lầm tưởng “người ăn xin” lang thang nào đó !

Chúa Giêsu không chỉ làm người nghèo trong thời gian sinh sống làm người giữa nhân loại, nhưng ngay cả khi đã phục sinh vinh hiển, thì chất nghèo vẫn quyện lấy Con Thiên Chúa làm người dù đã vinh thắng. Chắc chắn chọn lựa này của Thiên Chúa không phải là một chọn lựa tình cờ, cũng chẳng phải là một chọn lựa nhất thời, nhưng là một chọn lựa mang tính dứt khoát và quyết liệt. Thiên Chúa quyết định hoá thân và định cư vĩnh viễn nơi người nghèo. Phải hiểu và xác tín như vậy, không còn cách nghĩ nào khác khi trong Mt 25 Thiên Chúa tuyên bố:

“ Khi xưa Ta đói ngươi đã cho ăn,

Ta khát ngươi đã cho uống….”

Càng không ngần ngại khẳng định : 

“Việc gì ngươi làm cho một người anh em bé mọn nhất ấy làm làm cho chính Ta”.

Ngay khi khởi đầu sứ vụ, Chúa dõng dạc lên tiếng :

“Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó,

vì Nước Trời là của họ”.(Mt 5)

Hình ảnh vị tân Giáo hoàng Phanxicô tiếp tục làm thế giới rúng động, không chỉ là tin tức nhưng có cả hình ảnh kèm theo. Một đôi lần ngài đã không dùng xe riêng nhưng di chuyển cùng với đoàn tuỳ tùng bằng xe chung, vẫn tấm áo dài trắng nhưng ngồi chung với anh em, không cách biệt. Hàng ngày vẫn sống trong căn hộ dành cho khách của Toà Thánh nơi nhà trọ Thánh Mattha và chỉ chấp nhận dọn lên một căn hộ có hai phòng vì cần phải tiếp nhiều vị khách. Hàng ngày vẫn ăn cơm với các Hồng y, các nhân viên đang trú ngụ tại nhà trọ Thánh Mattha và vẫn dâng lễ mỗi sáng với mọi người cho các nhân viên đang phục vụ cùng tham dự. Với bằng đó thông tin trên các phương tiện truyền thông kể cả trên báo chí của nhà nước Việt Nam (báo Pháp Luật, Tuổi Trẻ, Người Lao động …) là những cơ quan tuyên truyền của đảng cộng sản vốn dĩ “xa lạ” với Giáo hội Công giáo Roma, chúng ta có thể nghĩ ngài như vẫn là một vị Hồng y đến sinh sống và làm việc ở Vatican chứ không phải là vị lãnh đạo tinh thần số một của Giáo hội Công giáo.

Thứ Năm Tuần Thánh vừa qua, hình ảnh truyền đi khi ngài đến thăm nhà tù dành cho các trẻ em vị thành niên ở Roma, không chỉ thăm, ngài cử hành Thánh lễ chiều thứ Năm Tuần Thánh, ngài đã cúi xuống rửa và hôn chân mười hai phạm nhân, trong đó có hai phạm nhân nữ người Hồi giáo. Cái gì vậy ? Chúng ta có mơ ngủ không ? Nếu Đức Thánh Cha rửa chân cho phạm nhân vị thành niên, hôn chân phụ nữ Hồi giáo thì chúng ta sẽ phải làm gì ?

Khi tôi còn phụ trách một họ đạo, tôi đề nghị rửa chân cho những thanh niên “hư hỏng” trong cộng đoàn (chỉ thanh niên thôi không dám là phụ nữ), họ là những người rượu chè be bét, họ là những người vướng vào ma tuý, cờ bạc, tôi đã gặp phải sự chống đối quyết liệt của những người đạo đức và gương mẫu trong cộng đoàn, khi tôi cương quyết thực hiện họ tìm cách đe doạ và gây áp lực cho những người được chọn không thể đến, đã có năm tôi chỉ có sáu người để rửa chân, ngày ấy tôi mang tiếng là ông cha cấp tiến, chướng ! Cũng may việc này đã làm cho một số anh em được rửa chân suy nghĩ lại và sửa chữa đời sống.

Đức Thánh Cha đã chọn lựa một cách hành động thể hiện tinh thần nghèo, khiêm tốn và thuộc về người nghèo. Qua lá thư nhận định và góp ý của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (01/03/2013), Hội Thánh Việt Nam cũng đã chọn lựa đứng về phía người nghèo, người bị bỏ rơi, người bị tước đoạt những quyền lợi căn bản.

Còn chúng ta, chúng ta đã dứt khoát đứng về một phía với Hội Đồng Giám Mục Việt Nam chưa ? Chúng ta có dứt khoát chọn lựa như vị cha chung của chúng ta đã chọn lựa chưa, hay chúng ta chỉ đọc lá thư nhận định và góp ý cho có đọc, chỉ xem tin tức cho có xem, hoặc chỉ ca ngợi nhưng không hề chuyển biến, lương tâm người Kitô hữu tra vấn chúng ta.

Lm. Vĩnh Sang, dcct.

Phục Sinh 2013.

Hôm nay, hôm qua và ngày mai.

Các phương tiện truyền thông VN thời gian nay hay kể chuyện chiến tranh, chuyện “Once upon a time” quá, nói cách khác là “Ăn mày dĩ vãng”. Đọc câu chuyện này thấy rất thú vị, quá khứ dù có đẹp đến đâu cũng không thể thay thế hiện tại và tương lai.

“Một lớp của trường tiểu học Mỹ có 26 học sinh đặc biệt vì chúng đều có những quá khứ tội lỗi: em thì đã từng tiêm chích, em thì đã vào trại cải tạo, thậm chí có một học sinh nữ trong một năm đã phá thai ba lần.

Gia đình đã từ bỏ chúng, các thầy cô giáo và nhà trường cũng coi chúng là đồ bỏ đi. Cuối cùng, lớp học được giao cho cô giáo Phila chủ nhiệm.

Ngay ngày đầu tiên của năm học, Phila đã không dọa nạt, ra oai với chúng như những giáo viên trước mà cô nêu ra cho cả lớp một câu hỏi sau: “Cô kể cho các em một số điểm trong quá khứ của 3 ứng cử viên như sau:

Người thứ nhất luôn tin vào y thuật của thầy cúng. Ông ấy từng có hai người tình, ông ta hút thuốc và nghiện rượu trong nhiều năm liền.

Người thứ hai đã từng bị đuổi việc hai lần. Ngày nào ông ta cũng ngủ đến trưa, tối nào cũng uống một lít rượu brandy và cũng từng hút thuốc phiện.

Người thứ ba từng là anh hùng trong chiến đấu. Ông ta luôn giữ thói quen ăn kiêng, không hút thuốc, thỉnh thoảng mới uống rượu, thường uống bia nhưng không uống nhiều. Thời thanh niên chưa từng làm gì phạm pháp”.

Cô hỏi cả lớp trong 3 người, ai sau này sẽ cống hiến nhiều nhất cho nhân loại. Các em học sinh đồng thanh chọn người thứ 3, nhưng cô giáo làm cho cả lớp kinh ngạc khi trả lời:

“Các em thân mến, cô biết chắc chắn các em sẽ cho rằng chỉ có người thứ ba mới có thể cống hiến được nhiều cho nhân loại. Nhưng các em đã sai rồi đấy.

Ba người này là những nhân vật nổi tiếng trong thế chiến thứ 2:

Người thứ nhất là Franklin Roosevelt, tuy tàn tật nhưng ý chí kiên cường, ông đảm nhận chức vụ tổng thống Mỹ trong bốn nhiểm kỳ liên tiếp.

Người thứ hai là Winston Churchill, thủ tướng nổi tiếng nhất trong lịch sử nước Anh.

Người thứ ba là Adolf Hitler, con ác quỷ phát xít đã cướp đi sinh mạng của hàng chục triệu người dân vô tội”.

Khi cô nói xong, tất cả học sinh đều ngây người nhìn cô và như không tin nổi những gì chúng vừa nghe thấy. Cô giáo nói tiếp:

“Các em có biết không, những điều mà cô nói về ba nhân vật này là quá khứ của họ. Còn sự nghiệp sau này của họ, là những việc mà họ đã làm sau khi họ thoát ra khỏi cái quá khứ đó. Các em ạ, cuộc sống của các em chỉ mới bắt đầu, vinh quang và tủi nhục trong quá khứ chỉ đại diện cho quá khứ. Cái thực sự đại diện cho cuộc đời một con người chính là những việc làm ở hiện tại và tương lai. Hãy bước Ra từ bóng tối của quá khứ, bắt đầu làm lại từ hôm nay, cố gắng làm những việc mà các em muốn làm nhất trong cuộc đời mình, các em sẽ trở thành những người xuất chúng… “.

Sau khi những học sinh này trưởng thành, rất nhiều người trên cương vị công tác của mình đã đạt được nhiều thành tích đáng tự hào: Có người trở thành bác sĩ tâm lý, có người trở thành quan tòa, có người trở thành nhà du hành vũ trụ. Điều đáng nói là, Robert Harrison, cậu học sinh thấp nhất và quậy phá nhất lớp, giờ đây trở thành giám đốc tài chính trẻ nhất của phố Wall”.

Trong cuộc đời của con người, mỗi ngày đều có thể là một sự bắt đầu mới mẻ và hướng thiện, những vinh quang và tủi nhục của ngày hôm qua đều trở thành dĩ vãng. Chỉ cần bạn thực sự chịu trách nhiệm với bản thân, chịu trách nhiệm với tương lai, tích cực nỗ lực để gia nhập vào đội ngũ những người cầu tiến, ngày mai chắc chắn bạn sẽ thành công.

Sau khi xuất bản, một người bạn gởi thêm những lời vàng ngọc lượm lặt từ “đám mây kiến thức”:

Đừng quá xem trọng điều gì. Hãy tiếp nhận mọi sự may rủi một cách nhẹ nhàng (Jefferson).

“Trong những lúc khó khăn nhất của cuộc sống, đừng cố gắng trở thành một người thành công hay hạnh phúc, tốt hơn hãy trở thành một người có giá trị” (Albert Einstein).

Đừng khóc vì nước mắt chỉ làm đầy thêm bể khổ, đừng cười vì ngạo mạn sẽ làm tan vỡ cả tương lai

Kẻ nào nghĩ mình là giỏi, thì biết rằng kẻ ấy vẫn còn quá ngu dốt. Người nào nghĩ mình vẫn còn kém cỏi mà vẫn không tự ti, luôn cố gắng thì đó là 1 suy nghĩ đúng

Cuộc sống của chúng ta có lắm thăng trầm. Thăng vì đôi lúc chúng ta biết khiêm hạ nhưng trầm vì chúng ta còn mắc bệnh khoe khoang

Người nào hay bị kích động, người đó có một tinh thần yếu đuối. Người nào không bị kích động, người đó có một tinh thần mạnh mẽ

Hãy khôn ngoan như rắn và hiền lành như chim bồ câu

Can đảm không phải là dám chết mà là dám sống và làm ích lợi cho đời

Có nhiều điều kỳ diệu chợt đến trong cuộc sống, nhưng hầu hết những điều tuyệt vời trong đời là do ta thận trọng vun đắp, nỗ lực đeo đuổi hoặc đòi hỏi sự kiên trì bền bỉ mới có được

Người không chịu sửa mình mà muốn có tiếng thơm để đời thì khác nào mặt xấu mà muốn có cái hình đẹp trong gương

Nếu không tìm thấy hạnh phúc ngay trong chính bản thân mình thì không thể tìm được ở nơi nào khác

Sự tôn trọng không đến từ công việc mà bạn đang làm, nó đến từ cái cách mà bạn đang làm công việc đó

Bạn có thể không thể lựa chọn được những gì xảy đến với mình nhưng bạn hoàn toàn có thể lựa chọn thái độ tích cực nhất để đối mặt với chúng

Khi ta chưa có địa vị, ai nói gì mình cũng nhịn được, nhưng có địa vị rồi, tâm lại trở nên hẹp hòi, cho nên được ca ngợi thì mình mới vui, ai xem thường thì mình khổ đau

Người không ham giàu thì nghèo không là nỗi khổ; không thương yêu thì xa nhau không tiếc nhớ; không ghét nhau thì gần nhau không bực bội; không tự ái thì bị nhục mạ không khó chịu; không cần danh vọng thì mất chức không là nỗi bận tâm

Người ta buồn vì có vui (hết vui thì thấy buồn) và người ta vui vì có buồn (hết buồn thì thấy vui). Chỉ có những người thiết lập được sự bình an, tâm tư lắng đọng không bị cảnh bên ngoài chi phối, vượt lên sự buồn vui thường tình mới thực sự vững chải, an trú trong hạnh phúc và tịnh lạc

Đối với những người nóng giận, nhìn thái độ biểu hiện bên ngoài, tưởng chừng những người hay giận dữ có một bản tính mạnh mẽ, nhưng thực chất, họ có một nội tâm yếu ớt. Vì tâm và thân vốn ngược nhau. Người có thân mạnh là người làm được nhiều việc, hăng hái, năng nổ nhưng tâm chưa hẳn đã mạnh. Tâm mạnh là tâm trầm tĩnh, không dễ dàng bị kích động

Ta phải sống khiêm hạ nhưng không hèn hạ, khúm núm. Khi gặp người khác, chúng ta luôn tôn trọng họ nhưng tuyệt đối không khúm núm, không có thái độ của một kẻ cầu cạnh vì đó là thái độ của người mất tư cách

Sự trả thù là dấu hiệu của một tinh thần yếu ớt, bất lực không thể chịu đựng được những sự lăng mạ.

nguồn: từ ngocnga và Nguyễn Kim Bằng

Hôm nay, hôm qua và ngày mai.

Các phương tiện truyền thông VN thời gian nay hay kể chuyện chiến tranh, chuyện “Once upon a time” quá, nói cách khác là “Ăn mày dĩ vãng”. Đọc câu chuyện này thấy rất thú vị, quá khứ dù có đẹp đến đâu cũng không thể thay thế hiện tại và tương lai.

“Một lớp của trường tiểu học Mỹ có 26 học sinh đặc biệt vì chúng đều có những quá khứ tội lỗi: em thì đã từng tiêm chích, em thì đã vào trại cải tạo, thậm chí có một học sinh nữ trong một năm đã phá thai ba lần.

Gia đình đã từ bỏ chúng, các thầy cô giáo và nhà trường cũng coi chúng là đồ bỏ đi. Cuối cùng, lớp học được giao cho cô giáo Phila chủ nhiệm.

Ngay ngày đầu tiên của năm học, Phila đã không dọa nạt, ra oai với chúng như những giáo viên trước mà cô nêu ra cho cả lớp một câu hỏi sau: “Cô kể cho các em một số điểm trong quá khứ của 3 ứng cử viên như sau:

Người thứ nhất luôn tin vào y thuật của thầy cúng. Ông ấy từng có hai người tình, ông ta hút thuốc và nghiện rượu trong nhiều năm liền.

Người thứ hai đã từng bị đuổi việc hai lần. Ngày nào ông ta cũng ngủ đến trưa, tối nào cũng uống một lít rượu brandy và cũng từng hút thuốc phiện.

Người thứ ba từng là anh hùng trong chiến đấu. Ông ta luôn giữ thói quen ăn kiêng, không hút thuốc, thỉnh thoảng mới uống rượu, thường uống bia nhưng không uống nhiều. Thời thanh niên chưa từng làm gì phạm pháp”.

Cô hỏi cả lớp trong 3 người, ai sau này sẽ cống hiến nhiều nhất cho nhân loại. Các em học sinh đồng thanh chọn người thứ 3, nhưng cô giáo làm cho cả lớp kinh ngạc khi trả lời:

“Các em thân mến, cô biết chắc chắn các em sẽ cho rằng chỉ có người thứ ba mới có thể cống hiến được nhiều cho nhân loại. Nhưng các em đã sai rồi đấy.

Ba người này là những nhân vật nổi tiếng trong thế chiến thứ 2:

Người thứ nhất là Franklin Roosevelt, tuy tàn tật nhưng ý chí kiên cường, ông đảm nhận chức vụ tổng thống Mỹ trong bốn nhiểm kỳ liên tiếp.

Người thứ hai là Winston Churchill, thủ tướng nổi tiếng nhất trong lịch sử nước Anh.

Người thứ ba là Adolf Hitler, con ác quỷ phát xít đã cướp đi sinh mạng của hàng chục triệu người dân vô tội”.

Khi cô nói xong, tất cả học sinh đều ngây người nhìn cô và như không tin nổi những gì chúng vừa nghe thấy. Cô giáo nói tiếp:

“Các em có biết không, những điều mà cô nói về ba nhân vật này là quá khứ của họ. Còn sự nghiệp sau này của họ, là những việc mà họ đã làm sau khi họ thoát ra khỏi cái quá khứ đó. Các em ạ, cuộc sống của các em chỉ mới bắt đầu, vinh quang và tủi nhục trong quá khứ chỉ đại diện cho quá khứ. Cái thực sự đại diện cho cuộc đời một con người chính là những việc làm ở hiện tại và tương lai. Hãy bước Ra từ bóng tối của quá khứ, bắt đầu làm lại từ hôm nay, cố gắng làm những việc mà các em muốn làm nhất trong cuộc đời mình, các em sẽ trở thành những người xuất chúng… “.

Sau khi những học sinh này trưởng thành, rất nhiều người trên cương vị công tác của mình đã đạt được nhiều thành tích đáng tự hào: Có người trở thành bác sĩ tâm lý, có người trở thành quan tòa, có người trở thành nhà du hành vũ trụ. Điều đáng nói là, Robert Harrison, cậu học sinh thấp nhất và quậy phá nhất lớp, giờ đây trở thành giám đốc tài chính trẻ nhất của phố Wall”.

Trong cuộc đời của con người, mỗi ngày đều có thể là một sự bắt đầu mới mẻ và hướng thiện, những vinh quang và tủi nhục của ngày hôm qua đều trở thành dĩ vãng. Chỉ cần bạn thực sự chịu trách nhiệm với bản thân, chịu trách nhiệm với tương lai, tích cực nỗ lực để gia nhập vào đội ngũ những người cầu tiến, ngày mai chắc chắn bạn sẽ thành công.

 

Sau khi xuất bản, một người bạn gởi thêm những lời vàng ngọc lượm lặt từ “đám mây kiến thức”:

Đừng quá xem trọng điều gì. Hãy tiếp nhận mọi sự may rủi một cách nhẹ nhàng (Jefferson).

“Trong những lúc khó khăn nhất của cuộc sống, đừng cố gắng trở thành một người thành công hay hạnh phúc, tốt hơn hãy trở thành một người có giá trị” (Albert Einstein).

Đừng khóc vì nước mắt chỉ làm đầy thêm bể khổ, đừng cười vì ngạo mạn sẽ làm tan vỡ cả tương lai

Kẻ nào nghĩ mình là giỏi, thì biết rằng kẻ ấy vẫn còn quá ngu dốt. Người nào nghĩ mình vẫn còn kém cỏi mà vẫn không tự ti, luôn cố gắng thì đó là 1 suy nghĩ đúng

Cuộc sống của chúng ta có lắm thăng trầm. Thăng vì đôi lúc chúng ta biết khiêm hạ nhưng trầm vì chúng ta còn mắc bệnh khoe khoang

Người nào hay bị kích động, người đó có một tinh thần yếu đuối. Người nào không bị kích động, người đó có một tinh thần mạnh mẽ

Hãy khôn ngoan như rắn và hiền lành như chim bồ câu

Can đảm không phải là dám chết mà là dám sống và làm ích lợi cho đời

Có nhiều điều kỳ diệu chợt đến trong cuộc sống, nhưng hầu hết những điều tuyệt vời trong đời là do ta thận trọng vun đắp, nỗ lực đeo đuổi hoặc đòi hỏi sự kiên trì bền bỉ mới có được

Người không chịu sửa mình mà muốn có tiếng thơm để đời thì khác nào mặt xấu mà muốn có cái hình đẹp trong gương

Nếu không tìm thấy hạnh phúc ngay trong chính bản thân mình thì không thể tìm được ở nơi nào khác

Sự tôn trọng không đến từ công việc mà bạn đang làm, nó đến từ cái cách mà bạn đang làm công việc đó

Bạn có thể không thể lựa chọn được những gì xảy đến với mình nhưng bạn hoàn toàn có thể lựa chọn thái độ tích cực nhất để đối mặt với chúng

Khi ta chưa có địa vị, ai nói gì mình cũng nhịn được, nhưng có địa vị rồi, tâm lại trở nên hẹp hòi, cho nên được ca ngợi thì mình mới vui, ai xem thường thì mình khổ đau

Người không ham giàu thì nghèo không là nỗi khổ; không thương yêu thì xa nhau không tiếc nhớ; không ghét nhau thì gần nhau không bực bội; không tự ái thì bị nhục mạ không khó chịu; không cần danh vọng thì mất chức không là nỗi bận tâm

Người ta buồn vì có vui (hết vui thì thấy buồn) và người ta vui vì có buồn (hết buồn thì thấy vui). Chỉ có những người thiết lập được sự bình an, tâm tư lắng đọng không bị cảnh bên ngoài chi phối, vượt lên sự buồn vui thường tình mới thực sự vững chải, an trú trong hạnh phúc và tịnh lạc

Đối với những người nóng giận, nhìn thái độ biểu hiện bên ngoài, tưởng chừng những người hay giận dữ có một bản tính mạnh mẽ, nhưng thực chất, họ có một nội tâm yếu ớt. Vì tâm và thân vốn ngược nhau. Người có thân mạnh là người làm được nhiều việc, hăng hái, năng nổ nhưng tâm chưa hẳn đã mạnh. Tâm mạnh là tâm trầm tĩnh, không dễ dàng bị kích động

Ta phải sống khiêm hạ nhưng không hèn hạ, khúm núm. Khi gặp người khác, chúng ta luôn tôn trọng họ nhưng tuyệt đối không khúm núm, không có thái độ của một kẻ cầu cạnh vì đó là thái độ của người mất tư cách

Sự trả thù là dấu hiệu của một tinh thần yếu ớt, bất lực không thể chịu đựng được những sự lăng mạ.

nguồn: từ ngocnga và Nguyễn Kim Bằng

MƯỜI NGUYÊN TẮC THỌ THÊM NHIỀU TUỔI

MƯỜI NGUYÊN TẮC THỌ THÊM NHIỀU TUỔI

1. Câu châm ngôn thứ nhất:

“Trong thiên hạ, không có chuyện làm biếng mà có thể có một thân thể khỏe mạnh.”
2. Câu châm ngôn thứ hai:
-Ði với những việc không vui vẻ của dĩ vãng và nghịch cảnh, không thấy khó chịu.
-Ðối với những ngày sắp tới không có ước vọng quá cao, nhưng luôn cầu bình an hạnh phúc.
Ba DƯỠNG
1. Bảo dưỡng.
2.Dinhdưỡng.
3. Tu dưỡng.
Bốn QUÊN
1. Quên tuổi tác.
2. Quên tiền tài.
3. Quên con cái.
4. Quên buồn phiền.

Năm PHÚC
1. Có thân thể mạnh khỏe, gọi là phúc.
2. Có vui thú đọc sách, gọi là phúc.
3. Có bạn bè tri kỷ, gọi là phúc.
4. Có người nhớ đến anh, gọi là phúc.
5. Làm những việc mà mình thích làm, gọi là phúc.
Sáu VUI
1. Một vui là hưu nhưng không nghĩ.
2. Hai vui là con cái độc lập.
3. Ba vui là vô dục tắc cương.
4. Bốn vui là vui vẻ vấn tâm mà không xấu hổ..
5. Năm vui là có nhiều bạn hữu.
6. Sáu vui là tâm tình không già.
Bẩy SUNG SƯỚNG
1. Biết đủ thường sung sướng.
2. Biết giải trí khi nhàn rỗi.
3. Biết đắc chí tìm niềm vui.
4. Khi cấp thời biết tìm niềm vui.
5. Biết dùng người làm vui.
6. Biết vui khi hành thiện.
7. Bình an là vui nhất.

Tám CHÚT XÍU
1. Miệng ngọt ngào thêm một chút nữa.
2. Ðầu óc hoạt động thêm một chút nữa.
3. Nóng giận ít thêm một chút nữa.
4. Ðộ lượng nhiều hơn một chútnữa.
5. Lòng rộng rãi thêm một chút nữa.
6. Làm việc nhiều thêm một chút nữa.
7. Nói năng nhẹ nhàng thêm chút xíu nữa.
8. Mĩm cười nhiều thêm chút nữa.

Chín THƯỜNG

1. Răng thường ngậm.
2. Nước miếng thường nuốt.
3. Mũi thường vê.
4. Mắt thường động.
5. Mặt thường lau.
6. Chân thường xoa (bóp).
7. Bụng thường xoay.
8. Chi thường vươn.
9. Hậu môn thường co bóp


MƯỜI NGUYÊN TẮC KHỎE MẠNH
1. Ít thịt, nhiều rau.
2. Ít mặn, nhiều chua.
3. Ít đường, nhiều trái cây.
4. Ít ăn, nhai nhiều.
5.Ít áo, tắm nhiều.
6. Ít nói, làm nhiều.
7. Ít muốn, bố thí nhiều.
8. Ít ưu tư, ngủ nhiều hơn.
9. Ít đi xe, đi bộ nhiều.
10. Ít nóng giận, cười nhiều hơn.
Anh Nguyễn v Thập gởi

LẠY CHÚA LÀ THIÊN CHÚA CỦA CON

LẠY CHÚA LÀ THIÊN CHÚA CỦA CON

Trong tạp chí Guidepots, bác sĩ Scott Harrison, một chuyên viên phẫu thuật bàn tay có viết rằng: lần nào giải phẫu ông cũng đều kêu lên vào một lúc nào đó: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”.  Ông có thói quen lạ lùng nầy từ hồi ông còn ở Việt Nam.  Một đêm nọ, vừa mới rời trường Y, ông được kêu đi gắp một viên đạn bị kẹt trong tay một người lính.  Đã vậy, ông còn phải giải phẫu dưới ánh sáng của ngọn đèn pin.  Cuộc giải phẫu ấy khiến ông cảm xúc sâu xa đến nỗi sau khi cuộc chiến kết thúc, ông đã quyết định đi chuyên ngành giải phẫu bàn tay.  Nhờ đi sâu vào lãnh vực chuyên môn nầy, ông đã thẩm định được cách sâu sắc cơn đau khủng khiếp do một vật gây ra, chẳng hạn như một viên đạn, khi vật ấy xuyên thủng lớp xương, lớp gân và những sợi dây thần kinh nơi bàn tay con người.  Nhà phẫu thuật ấy kể rằng ông thường giật thót người mỗi lần nghĩ đến cơn đau kinh khiếp Chúa Giêsu phải chịu khi đôi tay Ngài bị đóng đinh vào thập giá.

Khi chia sẻ bài Tin Mừng hôm nay, ông nói rằng theo ông, tiếng kêu “lạy Chúa là Thiên Chúa của con” của Thánh Tôma không chỉ là một lời tuyên xưng đức tin, mà còn là tiếng kêu đầy rung động khi vị tông đồ nhìn thấy dấu vết của đôi bàn tay bị xé toạc ra của Chúa Giêsu.  Chỉ đến lúc đó, Tôma mới hoàn toàn nhận thức được cơn đau đớn Chúa Giêsu đã phải chịu trên thập giá.  Theo nhận định của nhà phẫu thuật, khám phá nầy hầu như vượt quá mức chịu đựng của Tôma.  Và ông đã kết thúc bản văn đầy cảm động đó với lời chứng sau đây: “Mỗi lần giải phẫu mà nhìn phía dưới làn da của bàn tay con người, tôi luôn nhớ tới Chúa Kitô đã hy sinh đôi tay toàn hảo của Ngài cho tôi, và cũng như Tôma, tôi thốt lên: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con”.

********************************************

Câu chuyện trên làm nổi bật một điểm thuộc về đức tin mà chúng ta rất thường hay quên.  Đó là mỗi người chúng ta phải tiếp xúc trực tiếp với Chúa Giêsu qua đức tin.  Không phải vì cha mẹ, họ hàng, bạn hữu chúng ta tin nên chúng ta tin theo.  Đức tin của họ giúp ích cho chúng ta rất nhiều, nhưng chỉ như thế mà thôi thì chưa đủ.  Chúng ta phải tiếp xúc trực tiếp bằng đức tin với Chúa Giêsu giống như nhà phẫu thuật trong câu chuyện, hoặc giống như Thánh Tôma trong Tin Mừng hôm nay.  Ông nghĩ mình có quyền được xem thấy Chúa sống lại như các anh em khác.  Các tông đồ kia lúc đầu cũng chẳng ai tin Chúa đã sống lại.  Các ông chỉ tin sau khi được tiếp cận với Chúa Giêsu, được sờ đến thân xác Ngài, được ăn uống với Ngài.  Vì thế, Tôma thấy mình thiệt thòi và thua kém.  Cho nên ông cương quyết không chịu tin lời anh em kể lại và ông đòi phải được sờ vào những dấu đinh ở tay Ngài.

Ông Robert Cleath, một tác giả viết sách đã trở lại với đức tin khi ông suy niệm về sự biến đổi kỳ diệu đã đến với các môn đệ Chúa Giêsu vào dịp lễ Phục Sinh.  Trước biến cố nầy, họ là đám người thất vọng thảm bại, thế mà sau biến cố nầy, họ đã được biến đổi kỳ diệu và còn có năng lực làm phép lạ nữa.  Ông nói: “Không có cách giải thích nào hữu lý về sự biến đổi của họ hơn là sự giải thích của chính họ: đó là vì họ đã nhìn thấy Chúa Giêsu hiện đang sống”.

Blaise Pascal, nhà thiên tài toán học, được hấp dẫn đến với đức tin khi ông suy niệm về sự kiện, không có sự đe dọa giết chóc nào có thể ngăn cản các môn đệ Chúa Giêsu nói thật to cho thế giới biết rằng, Chúa đã sống lại.  Pascal nói ông tin chắc chắn vào kẻ nào dám sẵn sàng chịu “chém đầu” vì lời rao giảng của mình.

Trong cuốn sách mang tựa đề “Ngang qua thung lũng sông Kwai”, Ernest Gordon đã kể lại câu chuyện hai ngàn tù binh đã bị chết vì bệnh tật và vì bị đối xử tàn tệ.  Thế nhưng, họ được lôi cuốn đến với đức tin qua cảm nghiệm riêng tư về quyền năng Chúa Giêsu đang hoạt động trong cuộc sống của họ.  Chúng ta hãy nhớ lại những tù binh nầy từng lao động đầu trần chân đất dưới cơn nóng cháy da miền nhiệt đới.  Trong chỉ vài tuần lễ, từ những người đàn ông lực lưỡng, họ đã biến thành những bộ xương biết đi.  Tinh thần họ bị xuống đến mức tệ nhất.  Người ta lo sợ sắp có điều gì xảy ra.  Thế nhưng vào ngay thời điểm ấy, hai tù nhân đã đứng lên tổ chức nhóm tù còn lại thành những nhóm tìm hiểu Kinh Thánh.  Nhờ suy tư tìm hiểu Kinh Thánh, các tù nhân đã học biết rằng Chúa Giêsu Phục Sinh đang ở giữa họ.  Họ chỉ việc tiếp xúc với Ngài.  Và sau khi tiếp xúc với Ngài, các tù nhân đã được biến đổi kỳ diệu trong cuộc sống từng người.  Chính cảm nghiệm thiêng liêng nầy khiến họ quỳ gối xuống thưa Chúa Giêsu “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con”.

Chúng ta cũng phải biểu lộ niềm tin trực tiếp vào Chúa Giêsu như thế.  Chúng ta cũng phải tìm được lý do riêng tư thôi thúc chúng ta quỳ gối xuống thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”.  Dĩ nhiên chúng ta không thể leo lên cỗ máy thời gian, bay ngược dòng lịch sử cách đây hơn 2000 năm để dự lễ Phục Sinh đầu tiên.  Chúng ta cũng không thể đặt ngón tay vào lỗ đinh nơi tay Chúa Giêsu giống như Thánh Tôma.  Vậy thì chúng ta có thể làm gì?

Chúng ta có thể làm như những tù nhân ở bờ sông Kwai.  Chúng ta có thể tin vào Tin Mừng, có thể tiếp xúc với Chúa Giêsu bằng đức tin, có thể cảm nghiệm được Chúa Giêsu Phục sinh đang ngự giữa chúng ta: Ngài sẵn sàng giúp đỡ chúng ta như Ngài từng giúp đỡ đám tù binh nọ.  Đây là lời mời gọi mà Tin Mừng hôm nay dành cho chúng ta.  Đây là lời mời gọi Chúa Giêsu ngỏ với chúng ta như Ngài nói với Thánh Tôma: “Tôma, vì con đã thấy nên con mới tin, nhưng phúc cho kẻ nào không thấy mà tin”.

Khi Chúa Giêsu nói với Thánh Tôma: “Phúc cho ai không thấy mà tin” là Ngài đang ngỏ lời với chính chúng ta, cũng như với triệu triệu Kitô hữu trong suốt dòng lịch sử.  Phúc cho chúng ta nếu chúng ta tin vào Tin Mừng.  Phúc cho chúng ta nếu chúng ta tiếp xúc với Chúa Giêsu bằng đức tin.  Thật vậy, phúc cho chúng ta, vì cũng như các tù binh nọ, chúng ta sẽ khám phá được Chúa Giêsu đã sống lại, và hiện đang sống ngay lúc nầy đây giữa chúng ta, và luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng ta.

Cuối cùng, đức tin còn phải được nuôi dưỡng bằng những dấu hiệu, dấu chỉ.  Không có các bí tích, không có Thánh Thể, chúng ta sẽ tìm đâu ra cơ hội để gặp thấy sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh? Một khi đức tin của chúng ta đã được các dấu hiệu, các bí tích nầy thức tỉnh rồi, thì mọi sự sẽ có thể trở thành dấu hiệu về sự hiện diện của Chúa Kitô: các biến cố, các hoàn cảnh, tha nhân…  Mỗi giây phút đưa chúng ta đến với một cuộc gặp gỡ và chúng ta lại có thể tuyên xưng như Thánh Tôma tông đồ: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”.

Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’

From: langthangchieutim và

Anh chị Thụ & Mai gởi

MỘT NỀN TẢNG CHO NIỀM TIN VÀO CHÚA PHỤC SINH

MỘT NỀN TẢNG CHO NIỀM TIN VÀO CHÚA PHỤC SINH

(Suy niệm Tin Mừng thánh Gioan (Ga 20, 19-31)

Tác giả: Lm Inhatio Trần Ngà

nguồn:conggiaovietnam.net

Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, sau biến cố tử nạn đau thương, Chúa Giê-su phục sinh bất thần hiện ra giữa các môn đệ đang họp nhau trong phòng đóng kín khiến các ông ngạc nhiên đến sững sờ.

Thấy các môn đệ hoang mang vì tưởng mình là hồn ma hiện về, Chúa Giê-su cho các ông xem tay và cạnh sườn, để chứng thật đây chính là Giê-su có thân xác chứ chẳng phải là hồn ma. Bấy giờ các môn đệ vui mừng khôn xiết vì Thầy Giê-su đã thực sự sống lại.

Thế nhưng hôm ấy ông Tô-ma vắng mặt nên không thể chứng kiến biến cố trọng đại nầy. Khi được các môn đệ khác thuật lại cho hay sự kiện đó, Tô-ma tỏ ra ngờ vực và đòi kiểm chứng: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” (Ga 20,25)

Hôm nay, để vững tin vào biến cố Chúa Giê-su phục sinh, chúng ta không thể đòi cho được “thấy dấu đinh ở tay Người” hoặc “xỏ ngón tay vào lỗ đinh và đặt bàn tay vào cạnh sườn Người” như ông Tô-ma ngày xưa, vì Chúa Giê-su không còn hiện diện cách hữu hình giữa chúng ta, nhưng chúng ta có thể nhận biết Chúa Giê-su đã thật sự sống lại dựa vào sự kiện các tông đồ của Người đã hiến cả mạng sống và đổ máu mình ra mà minh chứng.

Nếu Chúa Giê-su chết đi mà không sống lại như lời Người báo trước, thì các tông đồ sẽ có những phản ứng sau đây:

* Các ông sẽ ngộ ra rằng Thầy Giê-su mà họ đem lòng tin tưởng, yêu mến và ngưỡng mộ bấy lâu không phải là Con Thiên Chúa như lời Người nói mà chỉ là người phàm lại tự xưng mình là con Thiên Chúa. Như thế, Người là một tên lừa bịp và tất nhiên các ông sẽ oán ghét Người, phế bỏ Người.

* Các ông sẽ không bịa đặt chuyện Chúa Giê-su phục sinh rồi đi rao truyền khắp nơi để lừa bịp người khác; vì khi làm như thế, các ông chẳng những chẳng được lợi lộc gì mà còn mất tất cả, kể cả mạng sống mình.

* Các ông sẽ không điên rồ đến nỗi từ bỏ gia đình, cha mẹ, vợ con, lại phải chịu đòn vọt, xiềng xích, tù đầy và chịu chết để đi loan truyền một điều láo khoét là Chúa Giê-su sống lại.

Trong thực tế, các phản ứng kể trên không hề xảy ra. Trái lại, các tông đồ đã hy sinh tất cả, từ bỏ gia đình, cha mẹ, vợ con, chấp nhận đòn vọt, tù đày và chấp nhận chịu chết để tôn vinh Đức Giê-su là Chúa, để loan truyền cho mọi người biết Chúa Giê-su đã thực sự sống lại từ cõi chết.

Chỉ khi tận mắt chứng kiến Đức Giê-su thực sự sống lại thì các tông đồ mới tin Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và sẵn sàng vâng lệnh Chúa Giê-su để loan báo cho mọi người nhận biết Người là Đấng Cứu Độ muôn dân, cho dù phải hy sinh tất cả, kể cả mạng sống mình.

Vậy, ta có thể kết luận rằng:

Sự kiện các tông đồ của Chúa Giê-su tiếp tục từ bỏ gia đình, cha mẹ, vợ con và nhất là từ bỏ cả mạng sống để làm chứng rằng Đức Giê-su sống lại, thì đó là một lời chứng hoàn toàn đáng tin. Không ai liều chết và đánh mất tất cả chỉ vì một điều bịa đặt bao giờ.

Khi người làm chứng dám chịu chết để minh chứng mình nói thật, thì lời chứng của người đó là chân thật. Các tông đồ của Chúa Giê-su đã chấp nhận lãnh lấy án chết để minh chứng rằng Chúa Giê-su đã thực sự sống lại, vậy sự kiện Đức Giê-su sống lại là hoàn toàn chắc chắn.

Lạy Chúa Giê-su,

Nhờ các tông đồ hy sinh mạng sống để làm chứng Chúa đã phục sinh nên chúng con mới được vững tin vào Chúa là Đấng cứu độ và được hạnh phúc làm môn đồ của Chúa. Xin cho chúng con biết noi gương các ngài, hy sinh thời gian, công sức, khả năng và trí tuệ của mình để làm cho nhiều người được tin Chúa là Đấng đã sống lại và là Đấng cứu độ trần gian.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Tản mạn ngày Lễ Phục Sinh

Tản mạn ngày Lễ Phục Sinh

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 1:07 Sáng 1/04/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (01.04.2013) – Sài Gòn – Người Việt có câu “cửa miệng” rất bình dân: “Chó chết là hết chuyện”. Nói vậy là sao? Vì “chó” là loài động vật “phổ biến” đối với dân Bắc (mà miền Bắc là “gốc” của Việt quốc, miền Nam là do “giành dân chiếm đất” từ cuộc Nam Tiến xưa kia).

Câu nói đó giản dị mà thâm thúy, liên quan nhiều thứ, thậm chí liên quan cả đức tin Kitô giáo. Tại sao? Có nói ngoa không? Thưa là “không”. Tại sao là “không”? Thánh Phaolô xác định: “Nếu kẻ chết không sống lại, thì Đức Kitô đã không trỗi dậy” (1 Cr 15:13). Đức Kitô phục sinh là “ấn tín” chắc chắn rằng chúng ta cũng sẽ sống lại như Ngài. Bài “Công bố Tin Mừng Phục Sinh” (Exultet), trong đêm Vọng Phục Sinh, nói rõ: “Nếu không được ơn cứu chuộc khỏi tội khiên, chúng ta sinh ra nào có ích chi!”.

Nếu Đức Kitô không phục sinh vinh thắng, tất nhiên chúng ta cũng không bao giờ sống lại, thế thì niềm tin của chúng ta là hão huyền, cuộc sống của chúng ta vô ích, chúng ta chẳng khác gì “chó chết”, sống rồi chết, người ta ăn tiết canh và “sống trên đời ăn miếng dồi chó”, thế là xong, và thế là “hết chuyện”. Thế thì chúng ta chẳng hơn gì loài động vật hoặc sinh vật. Động vật có giác hồn (sống và biết buồn, biết vui,…), sinh vật có sinh hồn (sống mà không biết vui, buồn,…), nhưng ct có linh hồn (sống và biết buồn, biết vui,… đặc biệt là có đời sống tâm linh).

Sống cũng có những cách sống khác nhau, sống cũng có “điều kiện”. Thánh Phaolô xác quyết: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người” (Rm 6:8). Đó mới thực sự là niềm tin của chúng ta.

Tiếng A-lê-lu-ia quá quen thuộc với Kitô hữu, nhất là trong Mùa Phục Sinh. Tôi không rành khoa ngôn ngữ (ngữ học), chỉ mày mò Việt ngữ cũng chưa “nên thân”, dĩ nhiên là không dám “múa rìu qua mắt thợ”, nhưng thấy người ta nói rằng âm Việt ngữ đọc là A-lê-lu-ia, theo tiếng Hy Lạp là Αλληλούϊα (Ha-lê-lu-ia), thấy các nhà ngữ học trích dẫn Kh 19:3 ghi: “Ha-lê-lui-a! Khói lửa thiêu nó cứ bốc lên đời đời kiếp kiếp!” (Καὶ δεύτερον εἴρηκεν, Ἁλληλούϊα: καὶ ὁ καπνὸς αὐτῆς ἀναβαίνει εἰς τοὺς αἰῶνας τῶν αἰώνων).

Hallelujah, Halleluia, Allelluja, Alleluia, thậm chí có người còn viết là Alleluya. Viết thế nào? Thực ra đó chỉ là quy ước của nhân loại. Chẳng biết Tây hay Ta, mà chỉ là “ba rọi”, theo thiển ý của tôi, âm “ia” phát âm gần giống Việt âm là “da”, thế thì sao không Việt hóa luôn? Cứ đọc “toạc móng heo” ra là Ha-lê-lu-da hay A-lê-lu-da cho… “khỏe”. Nửa nạc nửa mỡ, chả ai biết thế nào, mà dân Việt mình đâu có vốn ngoại ngữ nhiều, không khéo lại hóa “ngại ngữ” đấy! (Vì cách phiên âm của Việt Nam không thống nhất. Vì dụ: Giê-su hay Giê-xu?).

Viết này viết nọ rồi “minh chứng” là “h aspiré” hoặc “haleine” để làm gì? Có thực sự cần không? Có chăng chỉ cần đối với các nhà nghiên cứu hoặc người biết loại ngôn ngữ đó. Giới bình dân có mấy ai hiểu? Còn hơn là “vịt nghe sấm”. Sao không nói dùng Việt ngữ là “câm” cho mọi người cùng hiểu? Tục ngữ Việt Nam có câu hay lắm: “Thà chết đống hơn sống một mình”. Chí lý thật!

Sự thật mất lòng, nói thẳng như ruột ngựa chứ “vòng vo tam quốc” chi cho rắc rối. Mà bản chất ngôn ngữ là giản dị, nói sao người ta hiểu đúng ý là được, “màu mè” và “rườm rà” chỉ là dạng “chảnh”, muốn chứng tỏ “đẳng cấp” của mình. Khi dịch từ tiếng nước này sang tiếng nước nọ cũng vậy, ai cũng “mắc dịch”, vừa khôi hài vừa thâm ý! Thế nên người ta thường phải sử dụng “ngôn ngữ cơ thể” – Hán Việt gọi là “thể ngữ”.

Chị Maria Mađalêna đã từng bị người ta lôi ra ném đá và được Chúa Giêsu tha bổng (x. Ga 8:2-11), Chị cũng lại bị người ta chê trách khi Chị lấy dầu thơm hảo hạng xức chân Chúa và lấy tóc mình mà lau (x. Ga 12:1-8), rồi Chị còn hoảng hốt khi thấy mộ trống, tưởng thi hài Thầy bị lấy mất (Ga 20:1-2). Thế nhưng Chị lại là người đầu tiên được thấy Chúa Giêsu Phục Sinh (x. Ga 20:11-18). Sau khi được Chị báo tin, Giáo hoàng tiên khởi Phêrô còn ngớ người ra khi thấy mộ trống. Đặc biệt là trong Lễ Phục Sinh, Giáo Hội còn có phần Ca Tiếp Liên nói về việc này. Ai dám nói gì thêm không???

Chúa Giêsu phục sinh, đó là niềm hạnh phúc tột đỉnh của nhân loại, của mỗi tội nhân chúng ta. Phàm ngữ không thể đủ từ ngữ để diễn tả, điều duy nhất chúng ta có thể làm là chỉ còn biết cúi đầu cảm tạ không ngừng, đồng thời phải loan truyền về Đức Kitô Phục Sinh hằng ngày, qua từng động thái!

TRẦM THIÊN THU

Chúa Nhật Phục Sinh – 2013

May còn có những người hàng xóm nghèo xung quanh chia sẻ lẫn nhau

May còn có những người hàng xóm nghèo xung quanh chia sẻ lẫn nhau

Đăng bởi lúc 12:51 Sáng 1/04/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (01.04.2013) – Đồng Nai – Ánh mắt Chúa sáng lên trong những thân phận nghèo khổ. Chúa đã chịu chết vì chúng con, và hôm nay Chúa sống lại, chúng con đi loan báo Tin Mừng. Chúng con không có gì nhiều, ngoài duy nhất niềm tin nơi Chúa. Ngôi nhà mà chúng con ghé đến cách Sài Gòn khoảng 125km, thuộc huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.

Trong ngôi nhà đó là 3 con người neo đơn của 3 thế hệ và một mầm sống yếu ớt đang lớn lên từng ngày trong bụng người phụ nữ đáng yêu thương. Ngôi nhà được xây tạm bợ bằng gạch không tô trên một nền đất chật hẹp, nó rộng khoảng 10m2. Không có quạt, không có gió vì họ không có tiền để kéo điện vào nhà sử dụng, không khí nóng bức của vùng đất khô cằn khiến người ta khó chịu. Trong nhà chỉ có một chiếc tủ cũ được chằng sợi mắt xích mỏng, một chiếc bàn nhỏ và chạn bát đặt góc phải, chỗ giường nằm của 3 người được che bằng chiếc màn hoa.

Người đàn ông là cha của cô gái mang bầu, năm khoảng năm mấy tuổi, công việc của ông chỉ có vào mùa mưa, ông đi tưới tiêu, mỗi ngày được khoảng 50 ngàn đồng, còn vào những ngày nắng không mưa thế này, ông đi lượm nhặt ve chai đem bán kiếm được vài ngàn một ngày. Cô gái mang bầu mặc dù đã được 8 tháng nhưng ngày ngày vẫn cùng bà nội năm nay đã 74 tuổi đi mót bắp nuôi miệng. Mẹ cô đã bỏ cô từ ngày cô còn nhỏ xíu cho nội và cha nuôi. Năm 10 tuổi cô gái đã vào Sài Gòn bán cháo cùng bà nội, đến 18 tuổi thì đi làm công cho hãng da giầy, số tiền kiếm được trong suốt thời gian đã chính là căn nhà 10m2 tạm bợ đang có. Sau khi bị người đàn ông ở Trà Vinh dụ ngọt, cô có bầu và bị bỏ rơi. Thế nhưng cô gái 22 tuổi quyết không từ bỏ đứa trẻ vô tội, cô về quê cùng nội và cha kiếm miếng ăn từng ngày.

Chỉ còn hơn 1 tháng nữa là đến ngày sinh nở, nhưng không biết phải nương vào ai, điện thoại cũng đâu có vì nhà không có điện, nhưng cũng may còn có những người hàng xóm nghèo xung quanh chia sẻ lẫn nhau. Chúng con với tinh thần hoan hỉ trong ngày lễ phục sinh đã ghé đến để cầu chúc bình an cho cả gia đình ấy, nhất là cô gái và đứa bé trong bụng.

Chúng con cầu xin lòng thương xót Chúa trong chúng con.

Monica TRỊNH KIM TIẾN

Theo: https://www.facebook.com/trinhkimkim

CÂU TRẢ LỜI CỦA NGÔI MỘ TRỐNG

CÂU TRẢ LỜI CỦA NGÔI MỘ TRỐNG (Ga 20,1-9)

The Empty Tomb 05-A

“Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào.  Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20,8).

Hai hôm sau ngày Chúa Giê-su chịu chết và được táng xác trong huyệt đá, trời vừa hửng sáng, Ma-ri-a Ma-đa-lê-na đi ra thăm mộ Chúa Giê-su và thấy tảng đá đậy cửa mộ đã bị lăn đi, còn mộ thì trống không.

Bà chạy về báo tin cho ông Si-mon Phê-rô và người được mệnh danh là “môn đệ Chúa Giê-su thương mến”. Cả ba cùng hối hả chạy ra mộ.

Họ đã cùng chứng kiến cảnh ngôi mộ trống không, khăn liệm xếp lại gọn gàng.  Nhưng trong thâm tâm, mỗi người lại có những suy nghĩ khác nhau:

Bà Ma-ri-a Ma-đa-lê-na cứ đinh ninh rằng xác Chúa Giê-su đã bị đánh cắp (Ga 20,13-15).

Ông Phê-rô thì rất đỗi ngạc nhiên vì sự việc đã xảy ra (Lc 24,12).

Còn “người môn đệ Chúa Giê-su thương mến” thì tin chắc rằng Chúa Giê-su đã sống lại như lời Ngài đã tiên báo (Ga 20,9).

Cùng một sự kiện, nhưng lại có nhiều thái độ đức tin khác nhau.

Điều này vẫn thường xảy ra trong đời sống của mỗi Ki-tô hữu.

*******************************

Sống đức tin là biết nhìn tất cả mọi việc theo quan điểm của Thiên Chúa và trong ý hướng của Thiên Chúa.

Sống đức tin là xác tín rằng Thiên Chúa đang thực hiện chương trình của Ngài xuyên qua mọi biến cố trong cuộc đời.

Nhưng làm thế nào để biết được ý Chúa?

Cách thế duy nhất và hữu hiệu nhất là sống bằng chính Lời của Ngài.

Lời Chúa sẽ soi sáng cho chúng ta biết rõ ý Chúa, sẽ giúp chúng ta củng cố, phát triển và kiện toàn đức tin.

*******************************

Chúa Ki-tô đã sống lại, chỉ còn ngôi mộ trống không.

Trong cuộc sống, chẳng thiếu gì lúc chúng ta gặp thấy ngôi mộ trống này.

Đó là những lúc chúng ta kiếm tìm một dấu chứng để củng cố lòng tin đang bị lung lay của mình.

Nhưng thay vì một chứng cớ rõ ràng, Chúa Ki-tô lại chỉ đưa ra cho chúng ta một biến cố tạo nghi vấn.

Thay vì trả lời, Ngài lại bắt chúng ta tự đặt ra câu hỏi cho chính mình:

“Như thế nghĩa là gì?”

Quả thật lắm lúc chúng ta đã bối rối phân vân trước câu hỏi bỏ ngỏ ấy.

“Chúa muốn nói gì?”

Thật khó mà xác tín được!

*******************************

Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta trả lời câu hỏi ấy:

Cũng như cái chết và sự sống lại của Chúa Giê-su đã được tiên báo trong Kinh Thánh, sứ mạng của mỗi người chúng ta cũng đã được Thiên Chúa tỏ lộ bằng cách này hay cách khác trong chính cuộc đời chúng ta.

Thiên Chúa cũng đã mở sẵn cho chúng ta một tương lai bằng cách chuẩn bị cho chúng ta những bước đường trong quá khứ.

Xuyên qua những hỗn độn trong cuộc sống, Thiên Chúa đã tỏ ý của Ngài cho chúng ta bằng những biến cố bỏ ngỏ, những “ngôi mộ trống” mà Ngài đặt trước mắt chúng ta.

Muốn biết được những “ngôi mộ trống” ấy muốn nói gì, chúng ta phải duyệt xét lại quãng đời đã qua của mình, để nắm bắt những dữ kiện chính và xếp đặt chúng lại dưới ánh sáng của Tin Mừng.

Với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ nhận ra được thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời mình.

*******************************

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa đã sống cuộc sống trần gian, đã chịu chết và đã sống lại để mở ra cho nhân loại đường về cõi trường sinh.

Con tin chắc một điều là Chúa cũng muốn con sống, chết và sống lại như thế.

Nhưng để được sống lại như Chúa, con phải theo con đường nào để hiến tế bản thân con?

Đâu là đỉnh núi Sọ của con?

Xin Chúa dạy con biết nhìn để thấy được điều Chúa muốn con thi hành.

Và xin Chúa trợ giúp để con đủ nghị lực hoàn thành điều Chúa muốn.

Những lúc Chúa cho con xem thấy “ngôi mộ trống”, thì xin Chúa cũng cho con luôn nhớ rằng Chúa đã phục sinh. A-men!

Trầm Tĩnh Nguyện

từ ngocnga và anh chị Thụ & Mai gởi

BAO GIỜ ?

BAO GIỜ ?

Tác giả: Lm. Vĩnh Sang, DCCT

nguồn:conggiaovietnam.net

Từ ngày 13 tháng 3 năm 2013, ngày Đức Phanxicô đắc cử ngôi Giáo hoàng, thông tin của các trang mạng Công giáo cho chúng ta chứng kiến nhiều hành động, nhiều câu nói của vị tân Giáo hoàng Giáo hội Công giáo Roma, những dấu hiệu nổi bật về một vị đứng đầu Giáo hội Công giáo Roma đang tiếp tục loan đi, báo trước về một triều đại dành cho người nghèo, người bị áp bức, người bị bỏ rơi, báo trước về một triều đại mà vị giáo chủ sẽ quan tâm nhiều đến công bằng xã hội, đến công lý, đến hoà bình và đến môi trường như những lời ngài đã nói khi chọn tước hiệu Phanxicô.

Thành phố Assisi ngày nay của thánh Phanxicô vẫn tiếp tục giữ tinh thần khó nghèo, bình an và thân thiện môi trường như những gì mà vị thánh sáng chói của Giáo Hội mong muốn. Một bầu khí êm đềm thân thiện với mọi người, một phòng ăn lớn đơn giản đón tiếp tất cả mọi người, nhiều khu vườn và đặc biệt khu vườn hoa hồng (không có gai) cuốn hút khách hành hương thưởng lãm và cầu nguyện, những hành lang hun hút thinh lặng chìm đắm trong bầu khí tâm linh, một tổ bồ câu nghe nói đã nhiều thế hệ, cả trăm năm vẫn cứ sinh sống, làm tổ, đẻ trứng ấp ra con, cứ thế hệ này nối tiếp thế hệ kia sống chung với con người, sống chung trong tu viện, sống trong tinh thần của vị thánh yêu thiên nhiên, yêu muôn loài muôn vật.

Nghe, đọc, nói về vị Giáo hoàng mới chúng ta không khỏi khắc khoải, rồi đây thân phận của những người nghèo, người bị áp bức ở Việt Nam có được cải thiện chút nào không ? Có còn hàng đoàn lũ dân oan kéo nhau đi khiếu kiện khắp nơi không ? Hay chẳng còn ai đi nữa vì muốn khiếu kiện phải đóng tiến thế chân, kiện thua thì mất mà còn phải chịu án phí ? Người nghèo, người bị mất của cải do chính mồ hôi nước mắt mình làm ra, chính máu xương của mình làm ra cứ dần đội nón ra đi “hợp pháp” ? Uất ức, tức tưởi nhìn những mảnh đất nhuộm máu và mồ hôi của mình sang tay các nhà tư bản với những giá tiền cao ngất ngưởng mà cả đời không bao giờ dám nghĩ tới ?

Nơi bầu trời trong lành, yên tĩnh êm ả ở Assisi có biết đến con kênh Nhiêu Lôc, tiêu tốn biết bao tiền bạc thuế dân nhưng vẫn đặc trưng một mầu đen, đặc trưng một mùi hôi không đâu có. Vừa qua cá chết nổi trắng kênh bốc mùi hôi thối ! Những khu rừng xanh thẳm bao quanh Assisi có biết đến hàng ngàn cánh rừng ở Việt Nam quằn quại tan nát chảy máu đỏ cả một góc trời ? Còn bao nhiêu điều để thân thưa với đấng đứng đầu Giáo Hội.

Chiều hôm nay, chiều thứ năm Tuần Thánh, chương trình thông báo Đức Giáo Hoàng đến thăm và dâng lễ tại một nhà tù ở Roma, thật phúc cho những người tù ở đất nước “dân chủ kém ngàn lần” đất nước chúng ta, ở tù mà được các tuyên uý viếng thăm ban các bí tích, ở tù mà thứ năm Tuần Thánh được Đức Giáo hoàng viếng thăm và dâng lễ, những bậc cao cấp của Hội Thánh ở Việt Nam chẳng bao giờ mơ được chuyện đó. Tội nghiệp cho những tù nhân ở đất nước “dân chủ gấp ngàn lần” Roma, ở nơi “dân chủ gấp ngàn lần” này không bao giờ một giáo sĩ được phép vào thăm, dù là để ban các bí tích cuối cùng cho tù nhân. Tạ Phong Tần người tù Công giáo muốn có được một chuỗi hạt để cầu nguyện nhưng cũng không được. Em của Tần kể lại gương mặt Tần nhăn nhúm đau khổ biết chừng nào, Tần đã gầm lên khi người nữ công an giật chiếc tràng hạt do em của Tần mang vào khi đi thăm và tiếp tế cho Tần. Tần ơi, Chúa biết hết mọi sự, Chúa biết Tần đặt niềm tin cậy nơi Chúa, Chúa biết Tần yêu mến Chúa, yêu mến đồng bào ruột thịt, Chúa biết Tần cần sự nâng đỡ của ơn Chúa, Chúa sẽ bù đắp cho Tần những gì Tần chịu thua thiệt. “Phúc cho ai bị ngược đãi vì chính đạo, vì họ sẽ được nước Thiên Chúa”. Luật sư của Phương Uyên đang lên tiếng “xin” được gởi mắt kính cận thị vào cho Phương Uyên, Phương Uyên bị cận thị bẩm sinh và mang tật ở mắt, không có kính Phương Uyên thường xuyên chóng mặt, nhức đầu ảnh hưởng rất nhiều đến sức khoẻ, chỉ cái quyền được đeo kính do bệnh tật cũng phải xin nhưng chưa chắc đã cho. Nếu Phương Uyên là con, là em, là cháu, là người thân của mình, chúng ta nghĩ sao ?

Giáo hội Công giáo Roma với vị Giáo chủ mới sẽ mang lại điều gì cho cả một thế giới nghèo khổ bất công, cách biệt giữa đông tây, chênh lệch giữa nam bắc. Giáo Hội chắc chắn không làm chính trị, không tham gia quyền lực thế gian, những Giáo Hội vẫn phải là ngọn đèn, là niềm hy vọng không bao giờ tắt, là sự ủi an nâng đỡ, là ánh sáng chiếu soi, là địa chỉ tin cậy của nhân loại. Không lý thuyết viễn vông, không ước mơ trừu tượng, bao giờ người mang thân tù tội ở Việt Nam được viếng thăm và được hưởng các bí tích cần thiết ?

Lm Vĩnh Sang, dcct.

Thứ Năm Tuần Thánh 2013

THẦY MÀ LẠI RỬA CHÂN CHO CON SAO ?

THẦY MÀ LẠI RỬA CHÂN CHO CON SAO ?

Trích EPHATA 554

image

Sau khi nhận mũ áo Hồng Y, vào Thứ Năm Tuần Thánh 2001, Đức Hồng Y Jorge Mario Bergoglio, nay là Đức Tân Giáo Hoàng Phanxicô, cử hành nghi lễ rửa chân cho các Tông Đồ, ngài đã chọn 12 người bị nhiễm HIV AIDS, để rửa chân. Ngài thậm chí còn rửa chân cho cả phụ nữ nghèo mới sanh con.

Theo tin từ Tòa Thánh Vatican công bố vào Thứ Năm 21.3.2013. Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ cử hành Thánh Lễ Thứ Năm Tuần Thánh trong nhà tù giam giữ thanh thiếu niên “Casal del Marmo” tại Roma vào chiều Thứ Năm 28.3.2013. Vào lúc 17g30, ngài sẽ rửa chân cho 12 tù nhân trẻ tuổi từ 16 đến 23, để tưởng niệm việc Chúa Giêsu cử hành Bữa Tiệc Ly với 12 Môn Đệ của Ngài và thực hành giới răn tình yêu của Chúa.

Ngày 4.10.2012, nữ ứng cử viên Tổng Thống Hàn Quốc Park Geun-hye đã tham dự buổi lễ Senzoku tại thành phố Ulsan và rửa chân cho một phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc. Trong buổi lễ này, bà Park Geun-hye cùng với các quan chức của đảng rửa chân cho các cử tri thể hiện cho tinh thần phục vụ nhân dân. Sau ngày bầu cử 19.12.2012, Bà Park Geun-hye giành chiến thắng sít sao nhưng mang ý nghĩa lịch sử quan trọng trong cuộc bầu cử Tổng Thống Hàn Quốc, để trở thành người phụ nữ đầu tiên nắm quyền tại nước này. Bà là con gái của một trong những nhân vật gây tranh cãi nhất Hàn Quốc thời hiện đại, cố Tổng Thống Park Chung-hee.

Hôm nay Tin Mừng theo Thánh Gioan tái hiện lại sự kiện Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ. Chính việc này đã ảnh hưởng và tác động sâu xa đến Đức Hồng Y Jorge Mario Bergoglio, Đức Giáo Hoàng Phanxicô, cùng ứng cử viên Tổng Thống Hàn Quốc. Như thế việc rửa chân có biết bao ý nghĩa sâu sắc và quan trọng.

Yêu Thương

Cha mẹ nào mà chẳng rửa chân tay cho con nhỏ. Đó là cử chỉ yêu thương tình phụ tử, mẫu tử. Còn hình ảnh nào đẹp hơn thế ? Đối với các môn đệ, Đức Giêsu vừa là Thầy, vừa là Người Cha Nhân Lành, luôn thương yêu săn sóc, chỉ dạy, nâng đỡ vỗ về, nhất là lúc sắp lìa xa. Cử chỉ thân thương này thường chỉ dành cho người thân, bộc lộ sự quan tâm, quý mến và vô cùng gần gũi. Vì vậy Đức Giêsu muốn biểu lộ Tình Yêu nồng nàn và thiết thực với các môn đệ, không chút ngại ngùng hay xấu hổ.

Trong cuộc sống văn minh hiện đại, người ta lại dè dặt bộc lộ tình cảm công khai, không phải vì bớt yêu thương, nhưng vì tế nhị và lịch sự. Bị bao vây bởi những quan niệm xã hội gò bó, đúc khuôn, người ta đánh mất đi sự tự nhiên và tự do, dần dần tình người phai nhạt theo năm tháng.

Chẳng thế, người ta dễ dàng quay lưng, bịt mắt trước các thống khổ của đồng loại, đang diễn ra nhan nhản chung quanh. Cứu người bị nạn sợ bị dây dưa, hay bị lừa đảo, chuốc thêm phiền phức. Bênh vực kẻ khốn khổ, cô quả thì sợ bị trả thù. Tôi cũng lây nhiễm căn bệnh thời đại Mackeno. Canh cánh lo toan vinh thân phì gia, đâu cần biết những gì xảy ra chung quanh. Chẳng mấy bận tâm đến tha nhân, người ngoài, nói chi đến yêu thương xa vời ?

Khiêm Hạ

Không hiểu ý nghĩa việc rửa chân, ông Phêrô liền xua tay từ chối, vì kinh ngạc trước nghịch lý Thầy rửa chân cho trò. Đức Giêsu muốn nhắn nhủ các môn đệ lòng khiêm nhường của người có chức vụ. Trong khi Satan luôn khích động tánh kiêu ngạo mọi nơi, mọi lúc và mọi người, nhất là những người quyền thế.

Có dám từ bỏ mình, dám thoát ra khỏi cái vỏ ốc vị kỷ, mới có thể hạ mình xuống, có khiêm tốn, mới có thể nghe, có thể thấy, có thể thấu hiểu, hòa đồng, gần gũi, phục vụ thân tình với người khác. Chỉ có thể phục vụ tận tình với lòng khiêm tốn, mới đủ sức thuyết phục và đem lại hiệu quả.

Ông Phêrô quá đỗi bất ngờ, đã không thể chấp nhận cho Thầy rửa chân cho mình: “Thưa Thầy ! Thầy mà lại rửa chân cho con sao ?” Đức Giêsu trả lời: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu.” Ông Phêrô lại thưa: “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu !” ( Ga 13, 6 – 8 ).

Trong cuộc đời Chúa Giêsu, hình như Chúa yêu thương cách riêng những kẻ khiêm nhượng, và quên hết tội lỗi của họ không bao giờ nhắc lại: Phêrô, Maria thành Magđala, Simon, Giakêu… Chúa tự mời mình đến nhà họ, và đành chịu tiếng: “Bạn của quân thu thuế và người tội lỗi” ( Đường Hy Vọng, 521 ).

Tha thứ

Đức Giêsu đáp: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy.” Ông Simôn Phêrô liền thưa: “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con” ( Ga 13, 8 – 9 ).

Khi rửa chân cho các môn đệ, Đức Giêsu lập lại cử chỉ của Maria Mađalêna từng lấy nước mắt rửa chân Người, lấy tóc lau chân Người, vì sám hối ăn năn chí tình. “Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều.” ( Lc 7, 48 )

Khi rửa chân, Người thương yêu rửa sạch mọi tội lỗi, tha thứ hết lỗi lầm, cũng như muốn nhắn nhủ các môn đệ và mọi người, luôn biết tha thứ, hòa giải với nhau, xóa tan mọi bất hòa, hiềm khích, thù hận. Nhưng tôi nào học theo Người, cứ mãi bằng mặt mà không bằng lòng. Cứ mãi quen thói khẩu Phật tâm xà. “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao” ( Truyện Kiều ).

Hiệp nhất

Dù biết ông Giuđa Iscariot sắp sửa phản bội, Chúa Giêsu vẫn thản nhiên rửa chân cho ông. Người chỉ nhẹ nhàng cảnh báo: “Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu.” Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói:“Không phải tất cả anh em đều sạch” ( Lc 13, 10 – 11 ).

Người không đối xử phân biệt kẻ tội lỗi với người ngay lành. Tất cả mọi người đồng đều ân hưởng Tình Yêu vô biên. Trong tinh thần hiệp nhất, Người muốn mọi người đều trở nên sạch sẽ, tốt lành, công chính và nhân hậu. Người còn sẵn sàng bỏ 99 con chiên trong bầy, để tìm một con chiên lạc trở về đoàn tụ.

Trong xã hội, người ta vẫn thường xa lánh, bỏ rơi những người được coi là đối tượng tệ nạn xã hội, cờ bạc, ma túy, sa đọa, trộm cướp. Mặc dù họ đã hoàn lương, cũng rất khó được hội nhập vào cộng đồng. Tính kiêu căng, bất khoan dung, đố kỵ, đã phân hóa cộng đoàn, giáo xứ, giáo họ.

Tôi cũng nào khác chi người Anh Cả của Luca 15, đã và đang xua đuổi người em ăn năn sám hối trở về. Cũng cứ đào hố phân cách xa vời vợi, mãi đứng trên ngọn Chomolungma chót vót mà xoay lưng lại ánh thái dương, nhìn xuống vực thẳm Mariannes rẻ rúng người em tội lỗi nhỏ bé, gương mặt tối sầm đi… ( Lm. Quang Uy, Ánh Sáng và Bóng Tối ).

Lạy Chúa, xin khai tâm cho con thấu hiểu được cặn kẽ và thực hiện được chính xác điều Chúa răn dạy: “Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.”

Lạy Mẹ, xin dạy con biết yêu thương tha nhân, với tấm lòng khiêm hạ, tha thứ và hiệp nhất, để con xứng đáng trở nên môn đệ trung thành của Chúa Giêsu. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

CUỘC ĐỜI LÀ MỘT CHUYẾN ĐI

CUỘC ĐỜI LÀ MỘT CHUYẾN ĐI

Đời tôi là một chuyến đi, đi tìm hạnh phúc vô biên”.

Có lẽ mỗi người chúng ta cũng có cảm tưởng như bài ca ở trên: cảm thấy đời mình là một chuyến đi. Đi từ ngày này sang ngày khác, đi từ khát vọng này sang khát vọng khác. Chẳng lúc nào chúng ta không ước mơ, và không điều gì làm chúng ta thỏa mãn hoàn toàn. Trong những ước muốn nhỏ to đó, chúng ta đi tìm một hạnh phúc vô biên, ban đầu chúng ta không hiểu là Thiên Chúa. Như thế dù muốn hay không, suốt đời chúng ta đi tìm Thiên Chúa. Chúng ta có thể tìm Thiên Chúa bằng nhiều cách: Có người đi tìm Thiên Chúa qua việc đọc kinh, xưng tội, rước lễ, suy gẫm và nhiều cách khác nữa, nhưng thử hỏi họ đã gặp được Thiên Chúa chưa? Không phải một vị Thiên Chúa xa lạ mơ hồ, nhưng là một Thiên Chúa thân mật sống động, một Thiên Chúa tình yêu. Thử hỏi có cách nào tốt nhất để gặp được Thiên Chúa hay không? Để giải đáp cho câu hỏi này chúng ta thử nhìn lên ảnh Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên đồi Golgotha, nơi đó ta có thể nhìn thấy nhiều hạng người đến nhìn xem Chúa, nhưng họ không gặp được Ngài.

Hạng người thứ nhất đã không gặp được Chúa là những kẻ qua đường. Phúc Âm ghi lại rằng: “Có những kẻ qua đường thấy Chúa bị đóng đinh thì cười chê và nói: ông này có tiếng hay làm phép lạ, ông bảo: hãy phá đền thờ đi, và ông sẽ xây lại trong ba ngày, sao lúc này ông không tự cứu mình đi. Nghe thế Đức Giêsu làm thinh không trả lời gì và những kẻ qua đường chỉ nhìn thấy Chúa như là một kẻ đáng khinh, họ không nhận ra Ngài là một Thiên Chúa”. Tại sao vậy? Thưa vì họ nhẫn tâm. Gặp một người đang đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần mà họ không biết xót thương lại còn nỡ lòng chế nhạo. Thái độ nhẫn tâm này cản trở họ gặp được Thiên Chúa.

Hạng người thứ hai không gặp được Chúa là những tư tế và luật sĩ. Theo Phúc Âm, thì các trưởng tế và luật sĩ đã thách thức rằng: “Nếu ông là vua Israel thì hãy xuống khỏi thập giá đi rồi chúng ta sẽ tin”. Những người này đã không gặp được Chúa vì họ có ác tâm.

Và hạng người thứ ba không gặp được Chúa là những binh lính Roma thi hành án lệnh giết Chúa. Họ nhìn thấy Chúa như một tử tội và không gặp được Ngài như một vị Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế, vì họ có dã tâm. Đành rằng họ phải hành động theo lệnh của thượng cấp, nhưng họ đã đi quá giới hạn của mình. Không ai buộc họ phải khích bác Chúa, nhưng họ đã làm như thế vì mị dân và dã tâm. Thái độ này đã cản trở họ gặp Chúa.

Hạng người thứ tư đã không gặp được Chúa đó là người trộm bên tay tả Chúa Giêsu. Anh ta đã nói khích Chúa rằng: “Nếu ông là con Thiên Chúa thì hãy cứu mình đi và cứu tôi với”. Anh ta đã không gặp được Chúa vì anh ta có lòng tiểu tâm, ích kỷ.

Có một người đã gặp được Chúa, đó là anh trộm bị đóng đinh phía bên tay hữu Chúa Giêsu. Bí quyết giúp anh gặp được Chúa là chính tâm hồn biết thương người. Anh thấy bên cạnh mình có một người bị kết án oan nên lên tiếng bênh vực, cả khi đám đông gần đó hò reo lên án. Anh dám nói trong khi không một ai, dù các người thân tình nhất của Chúa cũng không dám hé môi nói nửa lời an ủi Chúa. Thấy anh có lòng thương người như vậy, Chúa Giêsu liền ban ơn và đáp lại rằng: “Hôm nay anh sẽ về Thiên đàng với Ta”. Thế là anh trộm lành đã gặp được Chúa.

Mùa chay mời gọi mọi người trở về với Thiên Chúa, trở về với chính cõi lòng thâm sâu của mình. Hãy nhìn lại thái độ sống của mình trong những tháng ngày qua, mình là ai trong bốn hạng người trên? Có thể xưa nay ta cũng đã thoải mái sống như họ? Nghĩa là nhìn thấy Chúa bên cạnh nhưng không gặp được Ngài. Mỗi khi ta đối xử tệ bạc với người khác, đó là lúc ta đối xử tệ bạc với Chúa, đó là lý do tại sao ta không gặp được Chúa.

***

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết thương người, vì đó là con đường dẫn chúng con đến gặp Chúa. Chúa đang chờ đợi chúng con đằng sau những con người đau khổ. Xin giúp chúng con yêu thương họ và gặp được Chúa nơi họ. Amen!

Ngọc Nga sưu tầm

Anh chị Thụ & Mai gởi