LÀM HAY LÀ? – Giuse Nguyễn Cao Luật, OP

Giuse Nguyễn Cao Luật, OP

Lời tuyên bố gây sững sờ

Đoạn văn hôm nay mở đầu cho cuộc đối thoại dài giữa Đức Giêsu với đám đông dân chúng muốn tôn Người làm vua, sau khi họ được chứng kiến phép lạ hóa bánh ra nhiều.  Cuộc đối thoại này được gọi là diễn từ về bánh trường sinh, trong đó Đức Giêsu đáp lại việc tìm kiếm của đám đông dân chúng qua những tuyên bố quan trọng, nhưng họ không hiểu nổi.  Đức Giêsu cố gắng giải thích cho họ hiểu tầm mức sâu xa của những điều mới xảy ra.  Bánh Người vừa ban cho đám đông mới chỉ là một dấu chỉ, qua đó Người loan báo một thực tại còn sâu sắc hơn nhiều.  Thực tại ấy là nguồn mạch đích thực của sự sống, bởi vì nó không chỉ diễn tả tình yêu, nhưng chính là tình yêu.

“Tôi là bánh trường sinh”

Một tuyên bố đầy mâu thuẫn và có tính khiêu khích.  Lời tuyên bố này buộc các thính giả phải đặt mình vào một tầm mức hoàn toàn khác hẳn với cuộc sống thể chất.  Họ phải tự đặt câu hỏi cho chính mình: Đâu là khát vọng cơ bản đang thúc đẩy họ?  Phải chăng họ là những người đang ở trong tình trạng no nê, thoả mãn vì đã được ăn và bây giờ không còn đói?  Họ có cảm thấy khao khát một chuyện gì khác không, và chuyện đó là gì?

Lời tuyên bố của Đức Giêsu không có ý nói bánh ăn của con người không làm cho họ cảm thấy ngon miệng.  Người cũng không nói với họ là nhu cầu ăn uống không cần thiết nữa và phải loại bỏ.  Người có ý buộc họ phải đào sâu khát vọng của mình: họ có mong muốn được sống vĩnh cửu hay chỉ sống đời này?  Người cho họ hiểu rằng con người không thể sống được nếu không có mối liên hệ với thế giới đang nuôi dưỡng mình.  Con người không thể sống được nếu không có mối liên hệ với người khác cũng như với chính mình.

Đó là điều Đức Giêsu muốn đề nghị qua lời tuyên bố “Tôi là bánh trường sinh.”

“Việc Thiên Chúa muốn là các ông tin…”

Khi đám đông đến gặp Đức Giêsu, Người đã nói với họ: “Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê.”  Đức Giêsu biết dân chúng đi tìm Người không phải vì đã hiểu được dấu lạ hóa bánh ra nhiều, nhưng vì những mục đích phàm trần.  Trong thâm sâu, có lẽ Đức Giêsu muốn nói với họ rằng: “Việc các ông phải làm là đừng tìm kiếm thứ của ăn hư nát, nhưng là nhận ra trong dấu lạ tôi vừa thực hiện là hành động của Chúa Cha.  Chính Chúa Cha đã trao cho tôi làm thay và tôi là người do Chúa Cha sai đến.  Hãy tin vào tôi, đó là việc các ông phải làm.”

Lời tuyên bố làm đám đông ngạc nhiên, chưng hửng.

Tin vào tôi tức là vào Đức Giêsu, người đang nói chuyện với đám đông.  Đây không phải là tin cách mù quáng nhưng là đi vào trong nhãn quan mới của người đang nói chuyện.  Tin Đức Giêsu là Đấng được Chúa Cha sai đến có nghĩa là khám phá nơi chính bản thân mình ý nghĩa về cuộc sống của mình, về khát vọng cũng như lời mời gọi của mình.

Lời đề nghị của Đức Giêsu không bảo người ta phải rút lui, nhưng thúc đẩy họ đạt đến chân lý sâu xa đang ẩn giấu nơi tâm hồn con người, vì con người che giấu chân lý.

Về phần mình, qua hành động, qua cuộc sống và cái chết, Đức Giêsu buộc mỗi người phải đối diện với thực tại ấy.  Ai chấp nhận mở ra, người ấy vượt lên trên những biểu hiện bên ngoài, hiểu được nền tảng của thực tại và họ sống.

Cuộc đối thoại quyết liệt

Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và đám đông quả là một thứ bi kịch.  Đức Giêsu muốn bày tỏ những điều bí nhiệm, còn dân chúng lại cứ muốn hiểu theo nghĩa vật chất.  Các cử chỉ và lời lẽ của Đức Giêsu do thánh Gio-an thuật lại ghi nhận rằng mối căng thẳng từ bên trong mỗi lúc một tăng thêm.  Người ta phải đau đớn mà nhìn nhận rằng, giữa hai bên, không hề có sự thông cảm, khoan nhượng.  Một cuộc đối thoại quyết liệt.

Khởi đầu, đám đông đi tìm Đức Giêsu.  Sau khi được Người cho ăn bánh no nê, họ đã lạc mất Người, và họ đi tìm.

Nhưng họ đi tìm ai?  Có phải là tìm người vừa cho họ ăn bánh, hay là người sẽ giải quyết những vấn đề cụ thể của họ?  Sau khi được Đức Giêsu nuôi ăn, họ nghĩ rằng mình có quyền chiếm đoạt Người.  Gặp Đức Giêsu, họ đưa ra một loạt câu hỏi: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” – “Ông sẽ làm gì đây?” – “Ông làm được dấu lạ nào?”  Và cuối cùng, như một lệnh truyền: “Xin ban cho chúng tôi…”

Làm, đó là từ ngữ chính của đám đông.  Họ muốn Đức Giêsu phải luôn làm một điều gì đó, một điều gì mới với tư cách là một nhà ảo thuật đầy khéo léo.  Và họ sẽ đưa ra nhận xét về Đức Giêsu theo những việc Người làm.

Để đáp lại từ làm của đám đông, Đức Giêsu nói: “Tôi là.”

Họ hỏi: “Chúng tôi phải làm gì?”

Đức Giêsu đáp: “Việc Thiên Chúa muốn các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đến.”

  • Xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy.
  • Chính tôi là bánh trường sinh.  Hãy đến và hãy tin.

Đây chính là trọng tâm của bi kịch; không có ánh sáng Thần Khí, không thể nào vượt qua được.  Không có thái độ sẵn sàng, làm sao có thể hiểu được là là quan trọng nhất, và “tôi làm” chỉ là một hình thức của “tôi là?”

Quả thật, người ta không thể nói rằng mình yêu mến Thiên Chúa mà trong thực tế lại ghét anh em mình.  Nhưng người ta càng không thể coi điều này hơn điều kia để rồi không sống chính sự sống của Đức Kitô, không sống tình yêu Người trao tặng qua cuộc sống của Người.

Trong thực tế, người ta thường bỏ qua khó khăn này.  Người ta dễ dàng quả quyết Đức Giêsu là bánh trường sinh, nhưng lại không nhìn nhận đó là lương thực của mình.  Người ta rất ao ước đón nhận Bánh trường sinh, nhưng lại không muốn tiến đến với Đức Kitô, không muốn nhận lấy thập giá và bước đi theo Người.

Cuối cùng, người Do-thái chẳng hiểu được Đức Giêsu muốn nói với họ.  Họ chỉ mong muốn Đức Giêsu làm cho họ có bánh ăn, chứ không muốn Đức Giêsu là bánh cho họ.

Bánh là chính Thiên Chúa

“Tôi là bánh trường sinh.”

Đây là một khẳng định quan trọng Đức Giêsu gửi đến mỗi chúng ta.  Qua câu nói này, Đức Giêsu muốn nói với chúng ta: “Hãy đến với tôi, anh em sẽ không còn đói; hãy tin vào tôi và anh em sẽ không còn khát.”

Thật thế, chúng ta đói, chúng ta thiếu, không phải chỉ bánh ăn; chúng ta khát không phải chỉ nước uống.  Chúng ta còn đói, còn khát tình bạn.  Chúng ta cần gặp được một cái nhìn, cần được nâng đỡ cách thân tình qua sự trợ giúp đầy tình huynh đệ.  Chúng ta cần biết, cần thấy rằng chúng ta được người khác hiểu biết, thông cảm, và nhất là được người khác yêu mến.

Sau nữa, chúng ta còn đói khát điều căn bản hơn là chính Thiên Chúa.  Cơn đói khát này, chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể làm thoả mãn.  Vì thế, Thiên Chúa đã đến với chúng ta, không chỉ như một sự kiện, nhưng nơi một con người là Đức Giêsu Kitô.

Chìa khoá mở ra tương lai của chúng ta chính là Đức Kitô, và chỉ một mình Người.

Chúng ta phải tiến đến với Đức Kitô, chứ không phải là đi tìm bánh.

Chúng ta phải đáp lại sự hiện diện của Đức Kitô không chỉ bằng từ ngữ, nhưng bằng thái độ sẵn sàng do Thần Khí thúc đẩy, Người sẽ giúp chúng ta nói lên:

“Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin hãy đến.

Chúa thực là bánh trường sinh,

là bánh từ trời xuống.”

**********************

Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con,

xin ban cho chúng con Người Con của Chúa.

Xin cho chúng con được ăn

thịt và máu Người.

Xin cho chúng con được hưởng

tất cả những gì Người đã nói và đã làm giữa chúng con.

Người thường hay nói lương thực của Người là thi hành ý Chúa.

Xin dạy chúng con

đừng chỉ tìm sống cho riêng mình

để biết mến yêu người khác,

và như vậy,

được bước từ cõi chết sang cõi sống.  (theo F. Cromphout)

Giuse Nguyễn Cao Luật, OP

From: Langthangchieutim

NỖI SỢ THÁNH – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

“Như hòn đất nơi tay thợ gốm thế nào, các ngươi ở trong tay Ta cũng vậy!”.

Trong cuốn “Đồ Gốm” được Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo tặng, tôi thích nhất đoạn ngài bắt chước Ghitôn – sách Thủ Lãnh – để thử xem Chúa có chọn mình không. Chỉ khác một điều, Ghitôn lấy tấm lông chiên, đặt giữa trời, xin Chúa làm ướt và sau đó, làm khô nó; Chúa chiều ông, ông biết Chúa chọn mình! Chú bé Giuse thì lấy một tờ giấy nhúng vào nước, phơi giữa trời hè và xin Chúa giữ cho nó ướt mãi. Và thật thú vị, cả hai lần, chú không nhớ gì đến tờ giấy! Chợt nhớ, hai lần trở lại, nó khô queo. Vậy mà Chúa vẫn chọn chú!

Kính thưa Anh Chị em,

Câu chuyện chú bé Giuse và người ‘Thợ Gốm’ được gặp lại trong Lời Chúa hôm nay; bên cạnh đó, còn có cả câu chuyện chiếc lưới thả xuống biển! Số phận chiếc bình gốm hoàn toàn nằm trong tay người thợ; số phận cá tốt, cá xấu hoàn toàn nằm trong tay ngư phủ. Hai hình ảnh này gợi lên một ‘nỗi sợ thánh’; đồng thời, trấn an chúng ta về sự công bình của Thiên Chúa, một Thiên Chúa công bình và quyền năng nhưng rất mực từ bi!

Trong ý định đời đời của Ngài, Thiên Chúa nhào nặn hòn đất cuộc đời chúng ta trước khi chúng ta hình thành trong lòng mẹ, và ân sủng Ngài không ngừng giục giã mỗi người đáp lại. Ngài không loại trừ ai, bất kể họ thế nào; cả khi phản ứng ban đầu của ‘những hòn đất’ đã để lại nhiều điều không đáng mong đợi. Như người thợ gốm, Ngài định hình cuộc đời chúng ta với những sai sót của mỗi người; Ngài luôn cố tạo ra một điều gì đó mới mẻ, tốt đẹp từ những sai sót đó. Tất nhiên, chúng ta phải cộng tác bằng cách tiếp tục mở lòng đón nhận hành động của Ngài. Nguyên việc ý thức điều đó đã là đáng mừng; vì lẽ, nơi bạn, đã có một ‘nỗi sợ thánh!’.

Cũng thế, lưới kéo lên bờ chỉ ra thời điểm cuối cùng. Sẽ đến một lúc Nước Trời trên trái đất kết thúc, những ai thuộc về và không thuộc về Chúa được tách khỏi nhau. Vậy khi nào kết thúc? Thật may, không ai biết! Nhưng một điều chắc chắn, kết cục của mỗi người sẽ đến trong một thời gian tương đối ngắn. Khi điều đó xảy ra, liệu chúng ta ở trong hay ở ngoài! Làm sao để bảo đảm tôi đang ở đúng chỗ? Tôi sẽ đi xưng tội? Đừng đặt cược vào nó! Bảo đảm tốt nhất là gắng mà ‘qua cửa hẹp’ ngay hôm nay; và sống thật tốt. Làm được điều đó mỗi ngày, tương lai sẽ tự liệu; bạn không cần phải lo lắng!

Anh Chị em,

“Như hòn đất nơi tay thợ gốm thế nào, các ngươi ở trong tay Ta cũng vậy!”. Một khi hòn đất nằm trong tay thợ gốm, nó thành vật quý và hữu dụng; bằng không, hòn đất muôn đời vẫn là đất. Cũng thế, là những hạt bụi hư vô, bạn và tôi được Thiên Chúa thổi sinh khí để trở thành sinh linh mang sự sống, hình ảnh và dáng dấp của Ngài. Ngài yêu chúng ta vô vàn. Không chỉ làm người, chúng ta trở nên tạo vật mới; con trai, con gái của Ngài. Vậy, hãy có cho mình một ‘nỗi sợ thánh’, không chỉ sợ ngày kia bị loại ra ngoài như những cá xấu, mà còn sợ trở nên móp méo, ‘sợ không nên thánh!’. Vậy hãy linh hoạt, uyển chuyển trong tay Ngài, Ngài sẽ nắn chúng ta ngày càng giống Chúa Giêsu. Thánh Vịnh đáp ca thật sâu sắc, “Phúc thay người được Chúa Trời nhà Giacóp phù hộ!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con là chiếc ‘bình móp’ hay con ‘cá còi’; dạy con chuẩn bị cõi đời đời khi còn ở bên này; để ngày đó, bên kia, con khỏi phải khóc lóc nghiến răng!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

From: KimBang Nguyen

**************************

Thứ Năm Tuần XVII – Mùa Thường Niên

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.

47 Khi ấy, Đức Giê-su kể cho dân chúng nghe dụ ngôn này : “Nước Trời giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. 48 Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. 49 Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên sứ sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, 50 rồi quăng chúng vào lò lửa ; ở đó, người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng.

51 “Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không ?” Họ đáp : “Thưa hiểu.” 52 Người bảo họ : “Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ.”

53 Khi Đức Giê-su kể các dụ ngôn ấy xong, Người đi khỏi nơi đó.


 

THÁNH ANPHONSÔ M. LIGUORI( lễ kính 1/8)

 Thần học gia,

Đấng sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế,

Giám mục,

Tiến sĩ Hội thánh,

Sanh tại Marianella, gần Napoli, ngày 27 tháng 9 năm 1696,

Qua đời tại Pagani, gần Salerno, ngày 1 tháng 8 năm 1787.

Anphongsô là con trai cả của ông Giuseppe de Liguori, một gia đình quý tộc và lâu đời của Napoli, một sĩ quan của hải quân hoàng gia, và bà Anna Cavalieri. Anphongsô nhận được nền giáo dục ban đầu tại nhà dưới sự chăm sóc của các gia sư. Anphongsô đã ghi danh vào Đại học Napoli, năm 1708, nơi ngài học cho đến ngày 21 tháng 1 năm 1713, khi ở tuổi 16, ngài đã nhận bằng tiến sĩ luật học đạo và đời. Ngài đã hành nghề luật sư trong một vài năm, trong khi đó vẫn sống một cuộc sống Kitô giáo mẫu mực. Khi được giao nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của công tước Gravina chống lại đại công tước Tuscany vào năm 1723, Anphongsô đã mất niềm tin vào sự công bằng trong vụ kiện của thân chủ, có lẽ là do hậu quả của những âm mưu. Bị sốc bởi trải nghiệm này, Anphongsô đã từ bỏ thế gian với câu nói danh tiếng: “Thế gian ơi, ta biết ngươi rồi”! Anphongsô vào chủng viện ngày 23 tháng 10 năm 1723. Ngài bắt đầu học thần học tại nhà dưới sự hướng dẫn của giáo sư Don Julio Torni và gia nhập một nhóm linh mục nhập thế (Hội Truyền giáo Tông đồ), nơi ông tham gia các hoạt động truyền giáo từ năm 1724.

Anphongsô được thụ phong linh mục ngày 21 tháng 12 năm 1726, ngài đã dành trọn cuộc đời mình cho công việc giải tội và rao giảng. Năm 1727, ngài thành lập Hội nhà nguyện Buổi Tối (Cappelle Serotine), một hiệp hội của những người lao động và thợ thủ công với mục đích hỗ trợ lẫn nhau, hướng dẫn tâm linh và các hoạt động tông đồ nhiệt thành. Năm 1729, ngài rời nhà để đến cư trú tại Học viện Thánh Gia, còn được gọi là Học viện Trung Hoa, do cha Matteo Ripa thành lập tại Napoli. Tại đây, ngài đã dành trọn cuộc đời mình cho mục vụ bằng cách truyền giáo và làm việc tại nhà thờ. Vì bị kệt sức, ngài bị buộc phải đi nghĩ bệnh tải Scala. Sau một thời gian lưu trú tại Scala và những cuộc gặp gỡ đầy quan phòng với cha Thomas Falcoia của hội Pii Operarii, người sẽ được bổ nhiệm làm giám mục của Castellamare di Stabia vào năm 1730, và Sơ Maria Celeste Crostarosa (1696–1755), ngài đã tham gia thành lập Dòng Chúa Cứu Thế tại Scala, năm 1731, một dòng tu của các nữ tu chiêm niệm tận tụy noi gương Chúa Yêsu Kitô, và được Đức giáo hoàng Bênêđictô XIV chấp thuận vào năm 1750.

Vào ngày 9 tháng 11 năm 1732, cũng tại Scala, dưới sự linh hướng của Đức giám mục Falcoia, ngài thành lập một hội dòng các linh mục dưới danh hiệu Chúa Cứu Thế Chí Thánh (ở Việt Nam thường được gọi là Dòng Chúa Cứu Thế). Hội dòng này được thành lập là một hiệp hội các linh mục và tru sĩ không linh mục sống cuộc sống chung và chia sẻ mong muốn noi gương Chúa Yêsu Kitô, đặc biệt là trong công việc rao giảng lời Chúa. Hội dòng này được thành lập với mục đích đặc biệt hướng đến nhu cầu của những người dân quê, những người thường thiếu cơ hội đón nhận Tin Mừng, dạy giáo lý và giúp tĩnh tâm. Cha Anphongsô đã cống hiến hết mình cho công việc truyền giáo, cho việc tổ chức hội dòng của mình và trung thành với lời thề của mình. Những người bạn đồng hành đầu tiên của ngài đã bỏ rơi ngài, nhưng ngài vẫn kiên định và chẳng bao lâu sau, số lượng ơn gọi tăng lên và các tu viện mới được thành lập nhiều hơn, trong số những tu viện sớm nhất có Villa Liberi (1734), Ciorani (1735), Pagani (1742), Deliceto (1745) và Mater Domini (1746).

Ngày 25 tháng 2 năm 1749, Đức thánh cha Bênêđictô XIV đã chấp thuận Dòng Chúa Cứu Thế Chí Thánh bằng sắc lệnh Ad Pastoralis Dignitatis Fastigium. Cha Anphongsô được bầu làm bề trên tổng quyền trọn đời tại Tổng công hội được tổ chức cùng năm đó. Do sự thù địch của hầu tước Tanucci và chính phủ, vốn phản đối các dòng tu, nên cha Anphongsô không thể có được quyền thừa kế hoàng gia tại Napoli theo sắc lệnh của Đức Bênêđictô XIV. Một sắc lệnh hoàng gia ngày 9 tháng 12 năm 1752, đã đưa ra sự đảm bảo hạn chế cho tương lai của Dòng, khi đó đang mở rộng hoạt động của mình tại các Quốc gia Giáo hoàng và ở Sicily. Cha Anphongsô cai quản dòng của mình, rao giảng các sứ mệnh và bận rộn với việc viết lách và các công việc tông đồ khác. Ngài được bổ nhiệm làm giám mục của giáo phận Sant’ Agata dei Goti và được tấn phong tại Rome vào ngày 20 tháng 6 năm 1762.

Với tư cách là một giám mục, ngài sớm nổi tiếng vì công cuộc cải cách của mình. Ngài đã chấm dứt các vụ lạm dụng, khôi phục các nhà thờ, đấu tranh cho phụng vụ, cải cách chủng viện của mình, kinh lý giáo phận của mình, thúc đẩy các cuộc truyền giáo và thường đích thân tham gia vào các cuộc truyền giáo, và thực hành lòng bác ái đối với tất cả mọi người, đặc biệt là trong nạn đói lớn năm 1763–64. Ngài luôn để mắt đến việc quản lý giáo đoàn của mình, tại Tổng công hội năm 1764 đã thông qua hiến pháp đã hoàn thành và tiếp tục viết lách. Ngài bị mắc một căn bệnh đau đớn vào năm 1768 khiến cho việc mục vụ trở nên khó khăn; ông đã nộp đơn từ chức khỏi giáo phận của mình và được Đức Piô VI chấp thuận vào năm 1775. Sau đó, ngài nghỉ hưu tại Pagani, nơi ngài cống hiến hết mình cho việc quản lý Nhà Dòng. Những rắc rối liên quan đến luật lệ do chính quyền Vương quốc Napoli gây ra đã làm ông buồn bã trong những năm cuối đời.

Tương lai của hội dòng có vẻ bấp bênh sau khi các tu sĩ Dòng Tên bị đàn áp. Ngài đã đàm phán thông qua một trung gian với chính phủ để có được sự chấp thuận của chính phủ, nhưng quy tắc được nhà vua chấp thuận và áp đặt cho hội dòng – regolamento – khác biệt đáng kể so với quy tắc được ĐGH Bênêđictô XIV chấp thuận. Tòa thánh, trong cuộc đấu tranh với Vương quốc Napoli, đã tước bỏ địa vị giáo luật của các Nhà trong vương quốc thuộc nhà vua và đặt cho các Nhà trong nước Giáo hoàng vị lãnh đạo riêng. Giám mục Anphongsô qua đời trước khi hai nhánh của hội dòng được tái hợp, sau đó mở rộng ra toàn thế giới.

Ngài được ĐGH Piô VII phong chân phước vào ngày 15 tháng 9 năm 1816, được ĐGH Gregorio XVI phong thánh vào ngày 26 tháng 5 năm 1839, và được ĐGH Piô IX tuyên bố là Tiến sĩ Hội thánh vào năm 1871, cuối cùng thánh Anphongsô được ĐGH Piô XII phong làm quan thầy của các cha giải tội và nhà luân lý, vào ngày 26 tháng 4 năm 1950.

From: NguyenNThu


 

Tình hình Venezuela và bài học về cái chết của những kẻ độc tài

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Trần Trung Đạo

31/07/2024

Ảnh AP

Một căn bệnh không thuốc nào chữa khỏi mà những kẻ độc tài đều mắc phải là bệnh hoang tưởng quyền lực..

Ngoại trừ một số chết già vì điều kiện cách mạng dân chủ tại quốc gia họ cai trị chưa chín muồi, một phần không nhỏ đã chết một cách thê thảm bằng những cực hình mà họ chưa bao giờ tưởng tượng ra khi còn nắm quyền sinh sát.

.Một hiện tượng đáng lưu ý khác, những kẻ độc tài này thường chết trong tay của những người trước đó không lâu đã thề trung thành với họ.

.Ali Abdullah Saleh của Yemen là một trong những kẻ độc tài cai trị bằng bàn tay sắt suốt 33 năm từ 1978 đến 2011. Gia đình bảy anh em của Saleh nắm giữ hầu hết các chức vụ quan trọng trong chính phủ Yemen. Các cấp thấp hơn được phân bố trong bà con dòng họ. Saleh giao cho con và rể điều hành bộ máy công quyền. Chịu đựng áp lực do ảnh hưởng của phong trào Cách Mạng Hoa Lài Bắc Phi 2011, Ali Abdullah Saleh bàn giao chức vụ tổng thống lại cho phó tổng thống Abdrabbuh Mansur Hadi.

.Ali Abdullah Saleh có tài sản kếch xù ước lượng vào khoảng 22 đến 64 tỷ Mỹ kim được gởi tại nhiều ngân hàng Châu Âu và y có thể sống một cuộc đời đế vương tại Saudi Arabia. Nhưng không, Saleh liên minh với phong trào Yemen Houthis võ trang với ý định tiếp tục cai trị Yemen.

.Ngày 4 tháng 12, 2017, Ali Saleh bị chính những người Houthis mà y tin tưởng giết.

Tháng 8, 2011, khi Tripoli lọt vào tay quân cách mạng Libya, Muammar Gaddafi thay vì trốn sang Chad hay Nigeria đã rút về Sirte, quê hương của ông ta để tìm cách tiếp tục chiến đấu.

.Gaddafi gan lì và can đảm? Không phải. Y không rời Libya vì tin tưởng rằng người dân Sirte được y ưu đãi trước đây vẫn còn yêu mến và sẽ bảo bọc, che giấu y để chờ cơ hội phục hồi quyền lực. Gaddafi lầm. Không ai che giấu, bảo bọc Gaddafi . Ông ta phải trốn trong ống cống ở Sirte nhưng bị lôi ra bắn và thân thể đẫm máu cho thấy đã bị đâm nhiều nhát dao.

Saddam Hussein của Iraq bị xử treo cổ vào sáng ngày thứ bảy, 30 tháng 12, 2006 vì “tội ác chống lại nhân loại” và “tội giết 148 người Iraq Shiites tại Dujail vào năm 1982 sau khi một cuộc mưu sát nhắm vào Saddam Hussein thất bại.”

.Trước đó, TT George W Bush đòi hỏi Saddam Hussein và gia đình phải rời Iraq trong 48 giờ. Trong suốt cuộc chiến kéo dài hơn một tháng, Saddam Hussein có nhiều cơ hội để trốn đi khi liên quân Mỹ và đồng minh tấn công Iraq. Nhưng Saddam Hussein không bỏ trốn vì y tin tưởng vào lòng trung thành của quân đội.

.Saddam Hussein cũng lầm. Một quân đội từng được xếp vào hàng thứ tư trên thế giới với những sư đoàn Vệ Binh Cộng Hòa (The Republican Guard) tinh nhuệ đã chọn đầu hàng.

Một cái chết gần gũi với giới cai trị CS nhất là cái chết của vợ chồng Nicolae Ceausescu.

Phần đông thế giới ngày nay đã biết khá chi tiết về cái chết của họ. Điều đáng nói là chính Ceausescu trong buổi gặp gỡ Gorbachev chỉ mười ngày trước đó vẫn nghĩ chế độ CS tại Romania sẽ “muôn năm trường trị”.

.Ngày 21 tháng 12, 1989, Nicolae Ceaușescu đọc diễn văn trước hàng trăm ngàn người dân Romania. Họ là những người được cơ quan tuyên truyền huấn luyện khi nào cần phải hoan hô và khi nào cần phải vỗ tay. Khi Ceaușescu đọc diễn văn được khoảng tám phút, một nhóm công nhân nhà máy điện bỗng la lớn “Timișoara! Timișoara!” để phản đối sự kiện công an CS đàn áp đẫm máu hàng ngàn người ở thành phố Timișoara.

.Những người dân được chọn để tham dự cuộc biểu tình nhằm tái lập uy tín của Ceausescu cũng là những người đầu tiên khai tử chế độ. Bốn ngày sau vợ chồng Ceausescu bị xử bắn.

Người muốn xử bắn Ceausescu nhanh chóng chính là tướng Victor Stanculescu, Bộ trưởng Quốc Phòng đầy tin tưởng của Ceausescu.

.Nhà độc tài Nicolas Maduro của Venezuela học thuộc những kết liễu thê thảm của Muammar Gaddafi, Saddam Hussein, Ali Abdullah Saleh, Nicolae Ceausescu và nhiều người khác.

.Học thuộc là một chuyện nhưng chữa khỏi căn bệnh hoang tưởng quyền lực đã ăn sâu vào trong xương tủy là chuyện khác.

.Nicolas Maduro, 62 tuổi, người kế thừa quyền lực của nhà độc tài Hugo Chávez. Theo phóng sự điều tra “Nicolás Maduro là ai?” của báo The Guardian phát hành 15 tháng 4, 2013, Maduro hoạt động trong phong trào học sinh khuynh tả từ khi còn là học sinh nhưng ông ta chưa học hết bậc trung học.

.Mặc dù ít học, Maduro, từ một tài xế xe bus, đã thăng tiến nhanh chóng nhờ sự nâng đỡ của nhà độc tài Hugo Chavez qua nhiều chức vụ quan trọng như Chủ tịch Quốc Hội, Bộ trưởng Ngoại Giao, Phó Tổng thống, và cuối cùng là Tổng thống Venezuela.

.Suốt thời gian từ khi chiếm được quyền lực, Maduro Cai trị bằng sắc lệnh (Rule by decree), một hình thức độc tài do chính đảng Xã Hội Chủ Nghĩa Đoàn Kết của Venezuela (United Socialist Party of Venezuela) do ông ta lập ra trao quyền.

.Nicolás Maduro liên tục phải đối phó với hàng loạt các cuộc biểu tình chống đối từ người dân và kết án từ thế giới. Một lần nữa, cuộc bầu cử vừa qua là một cuộc bầu cử gian lận.

Theo bản tin của AP loan hôm nay 30 tháng 7, 2024, Ứng cử viên Edmundo González tuyên bố có bằng chứng số phiếu bầu cho ông ta nhiều gấp đôi số phiếu của Nicolas Maduro. Trên khắp Venezuela các cuộc biểu tình đang nổ ra.

.Các quốc gia độc tài thường nương tựa vào nhau, Nga, Trung Cộng, Cuba, Iran, Syria, Việt Nam đứng về phía Nicolas Maduro.

.Theo bản tin “Việt Nam luôn coi trọng quan hệ hữu nghị truyền thống và Đối tác toàn diện với Venezuela” đăng trên báo Nhân Dân, ngày 8 tháng 6, 2024 mới đây nhân chuyến viếng thăm Việt Nam của Bộ trưởng Ngoại Giao Venezuela Yván Gil Pinto và trong dịp này thủ tướng Phạm Minh Chính chính thức mời Nicolas Maduro thăm Việt Nam lần nữa..

Với tội ác trầm trọng chống lại Venezuela trong suốt thời gian cầm quyền, bám lấy quyền lực bằng mọi giá là chọn lựa quy nhất của Maduro. Nhưng Maduro quên rằng mọi chế độ độc tài chống lại các quyền tự do căn bản của con người, sớm hay muộn đều bị lật đổ.

.Cái chết của những kẻ độc tài để lại cho những ai còn đang cố bám lấy quyền lực một bài học: Tình đồng chí chỉ có giá trị khi chiếc ghế quyền lực còn vững chắc, một khi chiếc ghế quyền lực lung lay, kẻ xử bắn không phải ai xa lạ mà chính là những kẻ xưa nay đã thề thốt trung thành.

.Trần Trung Đạo

 (Facebook) 


 

TRỞ VỀ CÁT BỤI – Nhật ký sau khi chết

Nhật ký sau khi chết

– Vào một ngày, khi người không còn nữa, đứng cạnh thân xác đang nguội lạnh, cứng đờ người đã thấy…

Người ghét ta, nhảy múa vui mừng

Người thương ta, nước mắt rưng rưng.

– Ngày Động Quan… thân thể ta nằm sâu dưới lòng đất mẹ hướng về trời tây.

Người ghét ta, nhìn nấm mộ của ta, niềm vui hiện rõ trên gương mặt.

Người thương ta, chẳng nỡ quay đầu nhìn lần cuối.

– Ba Tháng sau, thân xác ta đang dần trương sình, bốc mùi hôi thối, thuở còn sống ta vô cùng ghét côn trùng, giờ đây giòi bọ đang nhăm nhi cái thân mà ta cả đời nâng niu, tàn sát sinh mạng để cung phụng cho nó đủ thức ngon, mặc đẹp, đắp vào bao nhiêu tiền của.

– Một Năm Sau: thân thể của ta đã rã tan… nấm mộ của ta mưa bay, gió thổi… ngày giỗ ta, họ vui như trẩy hội, mở tiệc hội họp ca nhạc, ăn uống linh đình.

Người ghét ta, lâu lâu trong buổi trà dư tửu hậu nhắc đến tên ta…họ vẫn còn bực tức.

Người thương ta, khi đêm khuya vắng lặng, khóc thầm rơi lệ tìm ai bày tỏ.

– Mười Năm Sau: ta không còn thân thể nữa, chỉ còn lại một ít xương tàn.

Người ghét ta, chỉ nhớ mơ hồ tên ta, họ đã quên mất gương mặt của ta.

Người yêu thương ta nhất, khi nhớ về ta có chút trầm lặng. Cuộc sống xô bồ dần dần làm phai mờ đi tất cả.

– Vài Chục Năm Sau… nấm mộ của ta hoang tàn không người nhan khói, quan tài nơi ta nằm đã mục nát, chỉ còn một mảng hoang vu.

Người ghét ta, đã già lú cũng quên ta rồi.

Người yêu thương ta nhất, cũng tiếp bước ta đi vào nấm mộ.

– Đối Với Thế Giới Này…

Ta đã hoàn toàn trở thành hư vô, không ai biết ta từng tồn tại, bạn bè, đồng nghiệp, người thân, mỗi người một nơi, kẻ già, người chết, những gì ta dùng đã mất, những gì ta để lại rơi vào tay kẻ khác.

Ta phấn đấu, hơn thua, tranh giành cả đời, cũng không mang theo được nhành cây ngọn cỏ. Tiền tài, gia sản mà tôi cố giữ, cố thủ đoạn, mưu mô để có cũng không mang được một phần hư danh, vinh dự hão huyền nào.

– Ta nhận ra sống trên đời này, bất luận là giàu sang phú quý hay bần tiện nghèo nàn. Khi nhắm mắt, xuôi tay phải bỏ lại tất cả, trả hết cho đời. Cái ta mang theo được, chính là cái ta đã cho đi là đạo đức là tình thương. Bất giác ta có chút ân hận, lòng lâng lâng một nỗi buồn khó tả, cứ da diết, da diết mãi không thôi.

Bao nhiêu phồn hoa, thoáng qua phút chốc. Trăm năm sau, chỉ còn lại một nắm cát vàng.

Cuộc đời như nước chảy hoa trôi, lợi danh như bóng mây chìm nổi, chỉ có tình thương ở lại đời.

Đã biết chốn này là quán trọ…

Hơn thua hờn oán để mà chi…

Thử ra ngồi xuống bên phần mộ.

Hỏi họ mang theo được những gì.

From: Do Tan Hung & Kim Bằng Nguyễn

Phía sau những đám tang lớn của chế độ- Blog RFA – Song Chi

Ba’o Tieng Dan

Blog RFA

Song Chi

31-7-2024

Đám tang lớn không chỉ dành cho người chết 

Còn nhớ năm 2013, khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời, đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đã tổ chức một đám tang rất lớn, nói theo ngôn ngữ bây giờ là “hết sức hoành tráng”. Toàn bộ bộ máy truyền thông của đảng đã được huy động hết công suất để ca ngợi ông Võ Nguyên Giáp, hàng trăm bài báo, bài thơ với mọi ngôn ngữ, lời lẽ tốt đẹp nhất, thậm chí so sánh ông Võ Nguyên Giáp ngang hàng với Alexander Đại đế, Napoleon…; rồi những hình ảnh tràn ngập về những dòng người xếp hàng bên ngoài nhà Đại tướng chờ viếng, những khuôn mặt đẫm nước mắt, đoàn xe tang với nghi thức quốc tang…

11 năm sau, đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam lại có dịp tổ chức long trọng một đám tang khác cho ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, người vừa qua đời ngày 19/7/2024. Lại một lần nữa, bộ máy tuyên truyền khổng lồ với nghệ thuật thuộc hàng thượng thừa của nhà nước cộng sản lại được dịp phát huy. Rất nhiều từ ngữ, cụm từ đẹp đẽ, khoa trương được sử dụng cho ông Nguyễn Phú Trọng và sự kiện này như “người đốt lò vĩ đại”, “người cộng sản cuối cùng”, “nhà lãnh đạo lỗi lạc”, “sau Hồ Chí Minh, Trường Chinh, ngang Lê Duẩn” rồi thì “sự đau thương mất mát lớn của dân tộc, đất nước” v.v…

Đâu là sự giống và khác nhau ở những đám tang này?

Đối với nhà cầm quyền, những đám tang lớn hiếm hoi này là cơ hội để đánh bóng, tô son trát phấn cho chế độ, để cố gắng đề cao tính chính danh của đảng với trong nước và thế giới. Và tất nhiên khi đã đánh bóng thì “tốt khoe, xấu che”.

Với ông Võ Nguyên Giáp, nhà cầm quyền bám vào những chiến thắng trong quá khứ thời chống Pháp gắn với tên tuổi của ông Giáp, nhưng cố tình bỏ qua vai trò của các cố vấn Trung Quốc trong chiến dịch Điện Biên Phủ 1954 hay cái giá sinh mạng rất lớn phải trả theo chiến thuật “biển người” của ông Giáp. Báo chí cũng cắt bỏ luôn trong tiểu sử của ông Giáp, giai đoạn ông bị điều làm “Chủ tịch Ủy ban quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch” cho đỡ xấu hổ bộ mặt của nhà nước trong khi ai cũng biết có một giai đoạn như vậy trong đời ông Đại tướng.

Với ông Nguyễn Phú Trọng, họ nhắc đến cuộc chiến “đốt lò” chống tham nhũng nhưng bỏ qua sự thất bại của chiến dịch này trước thực tế là hàng trăm hàng ngàn đảng viên, quan chức từ thấp đến cao đã phải từ chức, bị mất chức hay phải vào tù vì tham nhũng, nhưng tham nhũng vẫn tiếp tục hoành hành trong xã hội Việt Nam; cũng như sự thất bại trong việc xây dựng, chọn lựa nhân sự của ông Trọng khi hàng loạt cán bộ do chính ông giới thiệu cũng bị khui ra là tham nhũng.

Họ ca ngợi sự thành công của chính sách ngoại giao đa phương được gọi là “ngoại giao cây tre” của ông Trọng, nhưng bỏ qua sự tai hại của việc quá mềm mỏng, bạc nhược của Việt Nam trước Trung Quốc, và thực tế Việt Nam ngày nay đã bị Trung Quốc bao vây mọi mặt từ biên giới phía Bắc, biển Đông cho tới phía Tây khi mối quan hệ giữa Campuchia và Trung Quốc trở nên gắn bó hơn nhiều v.v…

Cái khác nhau trong cách tuyên truyền là trong trường hợp ông Võ Nguyên Giáp, họ gắn ông Giáp với cái quá khứ chống Pháp, chiến thắng Điện Biên Phủ để nhắc nhở đến điều mà họ cho là “công lao đánh Pháp giành độc lập của đảng Cộng sản”, mặc dù trên thực tế thì có nhiều quốc gia sau thế chiến thứ Hai đã được Anh, Pháp trả tự do độc lập mà không cần phải tiến hành một cuộc chiến hao tốn xương máu. Còn trong trường hợp ông Nguyễn Phú Trọng thì họ gắn với hình ảnh một người hiếm hoi ngay trong chính đảng Cộng sản Việt Nam vẫn còn tin và suốt ngày nói về chủ nghĩa Mác Lenin, về con đường tiến lên XHCN…giữa lúc đảng Cộng sản từ lâu rồi chỉ còn Cộng sản ở cái tên. Và tình trạng “nhạt đảng, khô đoàn, xa rời lý tưởng, tự diễn biến” trong đảng viên diễn ra rất nhiều, tình trạng cán bộ quan chức tham nhũng càng kinh khủng hơn, cho nên họ phải dùng hình ảnh một người Cộng sản thanh liêm để cố vớt vát bộ mặt của đảng, của chế độ.

Những đám tang này cũng là dịp để trưng ra với người dân và quốc tế hình ảnh đoàn kết một lòng trong nội bộ đảng cộng sản, nhằm cố gắng dẹp đi dư luận về sự bất hòa hay khủng hoảng bên trong. Ví dụ, với ông Võ Nguyên Giáp, rất nhiều người dân hôm nay còn nhớ rõ ông Giáp đã bị Lê Duẩn liên minh với Lê Đức Thọ loại cho ra rìa từ lâu, sau đó bị đưa qua làm Phó Thủ tướng kiêm Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Dân số và Sinh đẻ Có Kế hoạch từ năm 1984; và suốt gần bốn thập niên vừa qua các thế hệ lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản đã đối xử với ông Võ Nguyên Giáp như “một người đã chết”, nhưng khi ông qua đời thì họ lại làm đám tang rình rang, tân dụng cái chết đó cho những mục đích như đã nói ở trên.

Với ông Nguyễn Phú Trọng, ai cũng biết, suốt một thời gian dài kể từ khi phát động cuộc chiến chống tham nhũng, ông Nguyễn Phú Trọng và phe của ông đã khui ra và hạ bệ bao nhiêu quan chức, mối quan hệ giữa ông với những quan chức “ngã ngựa” này không thể nào vui vẻ, tốt đẹp được; càng về sau cuộc chiến càng khốc liệt, thậm chí khi sức khỏe ông Trọng đã suy yếu thì những người mà ông giới thiệu, tiến cử hoặc thân cận cũng bị phe khác, ở đây là phe Tô Lâm, đánh văng như Vương Đình Huệ, Võ Văn Thưởng, Trương Thị Mai v.v…Nhưng trong đám tang của ông Trọng, người ta lại thấy có mặt đầy đủ các nhân vật đã từng bị mất chức hoặc bị buộc phải từ chức như Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Xuân Phúc, Võ Văn Thưởng. thậm chí một người vừa bị kỷ luật cách tất cả các chức vụ trong Đảng như Lê Thanh Hải cũng xuất hiện…Cứ như thể không có chuyện gì xảy ra, mọi người đều đoàn kết đề huề.

Và cuối cùng, những đám tang của các nhân vật cỡ lớn như Võ Nguyên Giáp hay Nguyễn Phú Trọng là dịp để đảng và nhà nước đo lường, kiểm soát phản ứng của người dân. Ai dám có những lời chỉ trích trên mạng sẽ bị phạt, ai không tỏ ra đau buồn, biết ơn thì sẽ bị “nhắc nhở” ngay.

Yêu hay ghét cũng phải được chỉ đạo và yêu nước có nghĩa là yêu lãnh đạo

Như đã nói ở trên, đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đã rất thành công trong việc tổ chức một tang lễ lớn, và kiểm soát mọi thứ trong khuôn khổ. Bên ngoài thì lãnh đạo các nước đều chia buồn, một số quốc gia như Lào, Cuba còn để quốc tang, các nước khác thì cử người đến viếng tại đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài hoặc đến Việt Nam dự tang lễ, thậm chí Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken còn đến viếng tận tư gia ông Nguyễn Phú Trọng. Trong nước thì con số hàng trăm ngàn người xếp hàng viếng, có lẽ cũng không thua hồi đám tang ông Võ Nguyên Giáp bao nhiêu.

Nhưng phía sau và bên lề cái đám tang “hoành tráng”, trọng thể đó là gì?

  1. Gia tăng đàn áp trước và trong những ngày diễn ra lễ tang:

Đài RFA tiếng Việt có bài “Việt Nam tăng cường đàn áp trên mạng và ngoài đời trước tang lễ ông Nguyễn Phú Trọng” nêu lên một số trường hợp nổi bật như bà Phạm Thanh Nghiên, cựu tù nhân lương tâm hiện đang sống ở Mỹ và ông Lê Trung Khoa –Chủ bút trang thoibao.de ở Đức bị Facebook thông báo “Bài viết của bạn không hiển thị tại Việt Nam” vì “Chúng tôi nhận được yêu cầu từ Vietnam Ministry of Information and Communications (Bộ Thông tin và Truyền thông- Bộ 4T- PV) đề nghị hạn chế khả năng tiếp cận bài viết của bạn.” Nguyên nhân chỉ vì họ đã có những bài viết có những góc nhìn khác về ông Nguyễn Phú Trọng. Bài báo trên RFA cũng cho hay “Nhiều Facebooker bị phạt tiền, có người bị công an đánh” vì đã “chỉ trích những việc ông [Nguyễn Phú Trọng] đã làm và chưa làm được trong thời gian ông tại thế.”

Chính báo chí trong nước cũng đưa tin “3 chủ tài khoản Facebook bị phạt vì xuyên tạc Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng”, báo VnExpress, “Thêm hai đối tượng đăng tải thông tin xuyên tạc, xúc phạm lãnh đạo Đảng, Nhà nước bị xử lý”, báo Tiền Phong, “Triệu tập một số đối tượng đăng tin sai sự thật về Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng”, Báo Lào Cai v.v…

  1. “Đấu tố”, “săn lùng” những ai không buồn, không tỏ ra thương tiếc hay biết ơn ông Tổng Bí thư vừa qua đời:

Còn trên mạng xã hội là hiện tượng “đấu tố”, “săn phù thủy” những người nổi tiếng, nhất là giới showbiz, vì đã không tỏ ra thương tiếc ông Nguyễn Phú Trọng hoặc lỡ xếp lịch biểu diễn trùng ngày đang làm tang lễ. Ví dụ chương trình biểu diễn Mây Concert dự kiến diễn ra tối 27/7 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia (Hà Nội), trưa 27/7/2024, Ban Tổ chức chương trình nhận được công văn từ Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội và đơn vị cho thuê địa điểm về việc tạm dừng chương trình. Fanpage của chương trình đăng bài “kêu cứu” vì đang tổng duyệt thì nhận tin phải dừng chương trình, liền bị “phản ứng” dữ dội, bài viết này đã bị xóa, ban tổ chức đã dời ngày và xin lỗi nhưng vẫn bị “ném đá” (“Mây Lang Thang phải dừng gấp đêm nhạc, xin lỗi nhưng dân mạng vẫn phẫn nộ”, Tiền Phong)

Hay như trường hợp một cô ca sĩ trẻ H.L Hạ Linh bị những người tự cho là yêu nước, kính yêu lãnh tụ đòi “phong sát” chỉ vì cô này đăng lịch trình làm việc (biểu diễn nghệ thuật) của mình lên vào ngày 21/7. Phải đọc những comment mắng mỏ cô này mới thấy hãi v.v…

Thật ra chuyện một nước nào đó có cái gọi là quốc tang thì mọi chương trình biểu diễn vui chơi phải dừng lại là chuyện có thể hiểu được. Nhưng nhân danh “quốc tang”, nhân danh “ngày đau thương mất mát của đất nước, dân tộc” để mắng người khác không buồn, không biết ơn; rồi đòi báo công an, đòi cấm sóng vĩnh viễn ở Việt Nam và nước ngoài (như trường hợp Đàm Vĩnh Hưng bị cấm biểu diễn 9 tháng vì đeo huy chương “lạ”), rồi so sánh với bên Trung Quốc cho rằng fan Việt còn quá hiền, chứ fan Trung là phong sát luôn…thì không còn bình thường nữa rồi.

Những thái độ này từ đâu mà có?

Nếu không phải là dư luận viên tức là những người được trả tiền, ăn lương của nhà nước để theo dõi, báo cáo những bài viết nào trên mạng có tính phê phán, chỉ trích nhà cầm quyền và các quan chức lãnh đạo, chỉ ra những sự thật về thực trạng xã hội Việt Nam; mà là những người bình thường nhưng lại có những phản ứng, ngôn ngữ cực đoan như vậy thì chúng ta thấy gì?

Rõ ràng là sau gần 80 năm độc quyền lãnh đạo ở miền Bắc và gần nửa thế kỷ độc quyền lãnh đạo trên toàn quốc, đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đã quá thành công trong việc tạo nên vài thế hệ bị tẩy não, tin và nghe theo những gì đảng và nhà nước nói, gắn việc yêu nước với yêu CNXH, yêu nước với yêu kính lãnh đạo.

Người Việt Nam chúng ta đã từng bật cười khi đọc những bài báo của Triều Tiên ca ngợi các lãnh tự họ Kim của họ ra sao, hay những hình ảnh người dân Bắc Hàn khóc ngất lên ngất xuống trong đám tang lãnh tụ Kim Jong-il, chúng ta có bao giờ giật mình nghĩ rằng thế giới thật sự nghĩ gì về cách báo chí Việt Nam đưa tin về việc hàng trăm ngàn người khóc trong đám tang ông Giáp trước kia hay trong đám tang ông Trọng bây giờ với những câu như “đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa” và “Dân đã thờ ai thì không sai bao giờ”? Và họ sẽ nghĩ gì nếu biết đến những cuộc “đấu tố”, “săn phù thủy” trên mạng để tìm ra ai không khóc, không thương tiếc, biết ơn ông Trọng?

Những cuộc đấu tố kiểu này khiến nhiều người, nhất là những người có tên tuổi mà công việc của họ tùy thuộc rất nhiều vào dư luận, vào sự yêu thích của đám đông như văn nghệ sĩ, giới biểu diễn… ngày càng ít dám chia sẻ thành thật cảm xúc, suy nghĩ của mình trên mạng xã hội. Họ sẽ sống theo thời, trưng ra những tình cảm yêu ghét theo đám đông.

Có phải nhiều người Việt có tính thích thần tượng hóa ai đó và nếu có thì tại sao?

Thứ nhất, do người Việt chúng ta phải sống quá lâu trong một chế độ độc tài có xu hướng thần thành hóa, thần tượng hóa các lãnh đạo từ thời ông Hồ Chí Minh, ông Lê Duẩn, ông Võ Nguyên Giáp… rồi bây giờ là ông Nguyễn Phú Trọng. Thứ hai là do chịu ảnh hưởng của một nền giáo dục tuyên truyền một chiều, thường xuyên cắt xén sửa đổi bóp méo lịch sử và hiện thực cho phù hợp với quan điểm và vai trò của đảng, một nền giáo dục chỉ đọc và chép, làm theo văn mẫu, không dạy cho học trò và cả sinh viên thôi quen suy nghĩ độc lập, tư duy phản biện (critical thinking)…

Thứ ba nữa là Việt Nam dù sao vẫn là một nước Á Đông, văn hóa Nho giáo, Khổng giáo lâu đời vẫn còn ảnh hưởng, trong đó người trẻ được dạy phải tôn trọng người già, tôn trọng thầy cô cha mẹ cấp trên, những người dám cãi lại hay nói khác cha mẹ, thầy giáo, sếp…thường không được đám đông đồng tình; và trong xã hội đó thì cái tôi cá nhân không được coi trọng mà phải xếp sau gia đình, dòng tộc, làng xã …

Cái tính thần thành hóa lãnh tụ này còn xuất phát từ trong thâm tâm sâu xa một số người dân vẫn khao khát một vị “minh quân”, một quan chức tử tế. Giữa tình trạng hàng trăm hàng ngàn quan chức sống xa hoa, tham nhũng nặng nề thì cứ nghe nói ông Trọng thanh liêm, sống giản dị, quyết liệt chống tham nhũng là tin, là kính trọng, còn những mặt trái hay những sự thật về con người và xã hội dưới thời ông Trọng ra sao, người dân bình thường làm sao biết được.

Còn việc khó chấp nhận sư khác biệt cũng do sống trong một xã hội độc tài, quen phải nghĩ và sống theo “chỉ đạo”, theo đám đông. Bên cạnh đó, xã hội Việt Nam đa số là người Kinh, cho dù có 54 sắc dân bản địa, dân tộc thiểu số nhưng vẫn là người Việt Nam, khá là thuần nhất; không phải như Mỹ, Canada, Úc, hay các nước châu Âu… ở đó con người ta đến từ mọi nơi trên thế giới, khác nhau về nguồn gốc, sắc tộc, tôn giáo, với cả một hành trang văn hóa lịch sử khác nhau, cho nên người ta đã quen với việc chấp nhận sự khác biệt và sống hòa hợp với những sự khác biệt, và vì vậy trở nên khoan dung hơn.

Cả hai hiện tượng thích thần tượng hóa ai đó hay khó chấp nhận sự khác biệt đều là hệ quả của việc thiếu thói quen suy nghĩ độc lập, thiếu tư duy phản biện, không trưởng thành.

Còn nhớ câu thơ của thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu:

Dân hai nhăm triệu ai người lớn?

Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con

Câu thơ viết từ những năm hai mươi của thế kỷ XX đến giờ vẫn đúng.

So với xã hội Bắc Hàn bị khép kín với thế giới, xã hội Việt Nam mở hơn, người dân Việt Nam chính thức kết nối Internet toàn cầu từ năm 1997 tức là gần 30 năm qua, vậy nhưng hầu như nhận thức chung về chính trị không khá hơn Bắc Triều Tiên là bao nhiêu. Cứ nhìn vào những gì diễn ra trước và trong đám tang ông Nguyễn Phú Trọng là có thể thấy điều đó. Và đây là một điều rất đáng buồn.


 

CHỐN NƯƠNG MÌNH  – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

“Chúa là chốn con nương mình!”.

Đọc Augustinô, chúng ta hiểu thế nào là sự chữa lành! “Vết thương của chúng ta rất nghiêm trọng, nhưng vị Thầy Thuốc thì toàn năng. Tôi sẽ tuyệt vọng về vết thương chí mạng của tôi nếu tôi không tìm thấy một Thầy Thuốc vĩ đại như Ngài!”. Và Augustinô kết luận, “Lãng quên Thiên Chúa là chết; tìm kiếm Thiên Chúa là tái sinh; ở trong Thiên Chúa là sống!”; “Con càng khốn khổ, Ngài càng gần con!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Lãng quên Thiên Chúa là chết; tìm kiếm Thiên Chúa là tái sinh; ở trong Thiên Chúa là sống!”. Cùng với Tin Mừng hôm nay, Thánh Vịnh đáp ca – “Chúa là chốn con nương mình!” – cho thấy hành trình cuộc đời mỗi người là một hành trình tìm kiếm Thiên Chúa, tìm kiếm kho báu, tìm ‘chốn nương mình’.

Có ‘chốn nương mình’ tạm bợ; có ‘chốn nương mình’ bền vững! Và Giêsu, ‘chốn’ đáng nương mình nhất vì Ngài là ‘Kho Báu’ của mọi kho báu! Sự bồn chồn trong trái tim mỗi người về một tình yêu có thể sánh với sự bồn chồn của người đi tìm kho báu. Theo những cách khác nhau, chúng ta trải qua những khát khao về một tình yêu vô điều kiện; một bảo đảm hạnh phúc đời này, đời sau và câu trả lời cho mọi nan đề. Trong Chúa Giêsu, chúng ta có tất cả! Hãy đào sâu ý thức về sự vĩ đại của món quà tình bạn mà Ngài ‘tặng không’ như người kia tình cờ tìm được kho báu ngoài đồng. Hãy ra sức tìm kiếm và củng cố tình bạn này bằng sự cởi mở trước tình yêu của Ngài như người kia ‘rảo khắp’ tìm ngọc đẹp. Và bạn sẽ nghiệm ra Giêsu là ‘chốn nương mình’ đích thực nhất.

Trong Chúa Giêsu, chúng ta khám phá cuộc sống mình có giá trị vô hạn trước mặt Thiên Chúa; trong giáo huấn Ngài, chúng ta khám phá sự khôn ngoan để xây dựng cuộc sống mình trên nền tảng vững bền; và trong ân sủng Ngài, chúng ta nhận được sức mạnh để lớn lên trong tình yêu! Kho báu Giêsu là nơi đầu tư tốt nhất cho một tương lai vững chắc; nơi mỗi người có thể sống ơn kêu gọi ‘cho sự vĩ đại’ của mình. Vì thế, hãy gác lại mọi bận tâm khác để làm sao thực sự sở hữu Ngài! Hãy bỏ qua một bên bất cứ điều gì tìm cách mang lại cho chúng ta một cảm giác an toàn ngoài Ngài! Vì lẽ, không chỉ là ‘chốn nương mình’, Chúa Giêsu còn là Đấng biến đổi tất cả những ai tìm Ngài nương thân!

Giêrêmia đã nói lên niềm xác tín đó khi coi Thiên Chúa là ‘chốn nương mình’, coi Lời Ngài như của ăn – bài đọc một. “Gặp được lời Chúa, con đã nuốt vào, lời Ngài làm cho con hoan hỷ”; và Chúa phán, “Chúng có chống lại ngươi cũng chẳng làm chi được, vì Ta ở với ngươi để cứu sống và giải thoát ngươi!” đúng như lời Thánh Vịnh đáp ca, “Chúa là chốn con nương mình!”.

Anh Chị em,

“Chúa là chốn con nương mình!”; “Con càng khốn khổ, Ngài càng gần con!”. Ai gần Giêsu, sở hữu Giêsu, người ấy sở hữu Thiên Chúa, sở hữu thiên đàng. Augustinô và các thánh sở hữu Giêsu, họ được Ngài biến đổi. Như vậy, với Chúa Giêsu, một con tim không hoán cải, không thể dịch chuyển, là một con tim của người đánh mất khả năng cảm nhận rằng, mình được yêu; đánh mất khả năng đó, bấy giờ, sẽ là đánh mất một kho tàng! Hãy như Augustinô, như các thánh, một khi tìm được Giêsu, bạn và tôi hãy cố ôm chặt Ngài!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, “con càng khốn khổ, Ngài càng gần con”. Cho con biết rằng, càng gần thế gian, con càng nghèo; càng gần Chúa, con càng bớt nghèo và giàu ra!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

From: KimBang Nguyen

*****************

Thứ Tư Tuần XVII, Mùa Thường Niên, Năm Chẵn

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.

44 Khi ấy, Đức Giê-su kể cho dân chúng nghe dụ ngôn này : “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.

45 “Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. 46 Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.”


 

Bàn về Hạnh phúc- Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

Tôi là con người của thường dân, hay viết về những gì diễn ra xung quanh mình bằng những từ ngữ đơn giản. Hôm nay, tôi sẽ cố gắng dùng những từ đơn giản để nói về một vấn đề tưởng như phức tạp mà lại thật là đơn giản

Gần đây có vụ ông « giáo sư » Phan Văn Trường nói về hạnh phúc về tiêu chuẩn văn minh…

Giáo sư đã trở thành người nổi tiếng rầm rầm và cũng bị ăn rất nhiều gạch đá. Nhân vụ này, tôi mạo muội bàn về hạnh phúc.

Hạnh phúc không phải là một vật chất cụ thể, chỉ là 1 trạng thái, không cân đong đếm được vì thế mấy kẻ lộng ngôn cũng có thể dựa vào đó để múa mép biện hộ cho 1 cái gì đó hoặc dẫn dắt du luận.

Thực ra, theo tôi, hạnh phúc cũng chẳng phải một khái niệm gì trìu tượng đến mức khó hiểu và người ta muốn nói thế nào cũng được.

Có rất nhiều người định nghĩa hạnh phúc khác nhau. Mình tổng kết lại thì đại loại như sau :

« Hạnh phúc là một trạng thái của một đời sống viên mãn, luôn luôn có sự hài lòng, nó đươc thể hiện bởi những cảm xúc tích cực, những thành công trong cuộc sống và sự cân bằng trong tất cả các khía cạnh của cuộc sống »

Tuy nhiên, nói như vậy vẫn rắc rối quá. Nếu cứ nói một cách dân dã nhất và ngắn gọi nhất thì hạnh phúc chẳng qua là sự sung sướng. Hết chuyện.

Tuy nhiên cái sự sung sướng ở đây nó phải được hiểu như một sự sung sướng bình thường được đa số chấp nhận hay cho đó là sung sướng. Nói như vậy là để loại những kẻ lý luận cùn cho rằng ăn C hay ở tù cũng có thể là là sung sướng…

Đúng là mức độ thỏa mãn của con người rất khác nhau. Có người cần phải có nhà lầu xe hơi… thì mới sướng, có người chỉ cần có một căn nhà nhỏ và 1 cái xe đạp. OK, cái đó đúng. Tuy Nhiên, để đáp ứng được cái sướng thì cũng cần phải có một cái tối thiểu gì đó. Không có nó thì chắc chắn không thể sướng được mà thậm chí đau khổ. Muốn sướng bắt buộc phải có một lượng vật chất nhất định đã.

Bây giờ nói về cảm nhận sự sướng(hay hạnh phúc)

Sáng nay, tình cờ đọc được bài kể về một cậu bé. Bố chết, mẹ bỏ nhà lên thành phố « làm việc » và không bao giờ về. 3 anh em phải ở với bà ngoại và đi làm thêm để kiếm sống. Rồi bà cũng chết nên cậu bé phải lên thành phố tìm mẹ, sống vất vưởng, trong người chỉ có mấy nghìn đồng…Cậu bé được người chủ quán phở cho ăn và cho tiền để quay về quê.

Nếu hỏi cậu bé có hạnh phúc không thì chưa chắc nó đã biết trả lời cho đúng và có khi cũng không hiểu hạnh phúc là gì.

Một thí dụ khác nữa là có 1 bạn lý luận rằng một bộ phận dân Ấn độ không có nhà cửa, sống vất vưởng cùng với chuột, với cứt đái…  họ không cảm thấy đau khổ và vậy họ có thể vẫn hạnh phúc.

Nhưng nếu hỏi đa số quần chúng trên thế gian này thì tất cả những người bình thường đều cho rằng hai thí dụ nêu trên là những trường hợp khổ(hay bất hạnh).

VẬY, SUNG SƯỚNG (HAY HẠNH PHÚC) CÒN PHẢI LÀ SỰ CẢM NHẬN, SỰ ĐÁNH GIÁ CỦA SỐ ĐÔNG CHỨ KHÔNG PHẢI CHỈ LÀ SỰ CẢM NHẬN CỦA 1CÁ NHÂN, MỘT THẬP THỂ (Nhiều khi) VÔ THỨC.

Đây là tôi mới đang nói về sự sướng liên quan đến đời sống vật chất. Người ta cũng không thể sướng được khi phải sống trong một xã hội không có tự do. Và trớ trêu thay, kể cả có rất rất nhiều vật chất mà không có tự do thì vẫn chỉ là thân nô lệ bất hạnh. Vật chất không có nhiều, tự do cũng không có thì không thể nói là dân hạnh phúc hơn được. Đó chỉ là một thứ ngụy biện bằng thước đo hạnh phúc và văn minh riêng của mình.


 

Chuγện xảγ ra ở hành lang một Ьệпh viện-Truyen rat ngan

Võ Thanh

Chuγện xảγ ra ở hành lang một Ьệпh viện. Cô con dâu nhăn mặt nói với chồng:

– Ở nhà đủ thứ ρhải lo, làm sao mà vô trong đâγ hầu ba được?

Anh nói cô Năm haγ cô Bảγ ở không thì chia nhau vô chăm sóc ba “.

Anh con trai chưa kịρ trả lời thì có lẽ cô Năm haγ cô Bảγ gì đó đã cong môi ρhản đối:

– Tui cũng có đủ thứ chuγện để lo chứ bộ, quên tui đi”.

Một cậu con trai khác cau cau lông màγ:

– Nói chung là ai cũng bận hết, với lại ba mắc Ьệпh lâγ nhiễm, vô hầu ba rồi lỡ bị lâγ thì làm sao ?

Cô con dâu trưởng ρhán một câu:

– Thôi khỏi bàn tán gì hết, mướn người nuôi là xong chuγện.

Tất nhiên sau đó, sự việc xảγ ra đúng như hoạch định của họ.

Một ρhụ nữ khỏe mạnh, có dáng vẻ nông dân đang nuôi một người Ьệпh nằm giường bên cạnh ông cụ đã chủ động đề nghị nuôi Ьệпh cho ông cụ luôn.

Công việc tỉ mỉ, cần sự chu đáo, từ việc cho uống sữa, uống Ϯhυốc đến thaγ quần áo, lau người (ông cụ đã mất hết cảm giác vệ sinh), nhưng chị vẫn làm với sự chăm chút, không để lộ bất cứ thái độ ghê tởm nào, lại còn có vẻ hiền hậu, dịu dàng như con đối với cha mẹ.

Trong lúc ấγ, có lẽ γên tâm vì cha đã có người chăm sóc, đám con trai, con gáι, dâu, rể hơn một chục người của ông cụ thỉnh thoảng mới lượn qua như một luồng gió nhẹ.

Tiếc thaγ, sự chăm chút của chị ρhụ nữ không kéo dài bao lâu, chỉ hơn một tuần sau là ông cụ đã quα ᵭờι.

Con cái, cháu chắt ông kéo vào mới đông chứ. Họ khóc lóc khá ồn ào nhưng vẫn bình tĩnh chỉ huγ việc khâm liệm ông cụ, và ở hành lang lại xảγ ra một cuộc cãi vã xem người nào ρhải chi nhiều nhất cho đám tang ?…

Anh con trai trưởng cầm một xấρ tiền đến trả cho chị ρhụ nữ đã nuôi Ьệпh cha mình. Hai mắt đỏ hoe, chị trả lời:

– Tôi nuôi cụ ấγ vì thấγ xót xa cho cụ có lắm con nhiều cháu mà chẳng ai đoái hoài, chứ tôi có làm cái nghề nàγ đâu mà lấγ tiền ?

Đám người đang khóc mếu, cãi nhau…

Đột nhiên im bặt. Rồi từng người một lẻn ra ngoài…

Nguồn sưu tầm


 

Ông Tổng bí thư Trọng có chết vì một nguyên nhân tự nhiên?

Ba’o Nguoi-Viet

July 30, 2024

*Chuyện Vỉa Hè

*Đặng Đình Mạnh

Những ngày cuối đời, ông Nguyễn Phú Trọng xuất hiện trước mắt công chúng với bộ dạng sức khỏe ngày càng kém, nhưng không phải là quá kém đến mức thập tử nhất sinh.

Sau ngày phải muối mặt chấp thuận đề cử ông Lương Tam Quang làm Bộ trưởng Bộ Công an và thượng tuần tháng 06/2024, cho dù trước đó đã chỉ đạo Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị 9 loại Lương Tam Quang ra khỏi Bộ Chính Trị.

Bà Ngô Thị Mận (trái), đứng trước quan tài chồng, ông Nguyễn Phú Trọng, cùng ông Thủ tướng Phạm Minh Chính (thứ hai từ trái) và Chủ tịch nước Tô Lâm (giữa), trong tang lễ ngày 26 Tháng Bảy 2026 ở Hà Nội. (Hình: Nhạc Nguyễn/AFP/Getty Images)

Để gỡ gạc, một tuần lễ sau đó, trung tuần Tháng Sáu 2024, ông Trọng đã chỉ đạo truyền thông trong nước đưa tin về việc ông họp với các lãnh đạo chủ chốt. Theo đó, trong các hình ảnh được truyền đi, ông trông phương phi, khỏe mạnh, tươi cười ngồi giữa Chủ tịch nước Tô Lâm. Thủ tướng Phạm Minh Chính, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường, Chánh Văn phòng Trung ương đảng Nguyễn Duy Ngọc. Trong ảnh, ông Trọng ngồi chính giữa, vị trí trung tâm quyền lực, như ngụ ý rằng ông ấy vẫn là người nắm giữ quyền lực cao nhất, chứ không phải là người đã từng bị ép buộc phải chấp nhận nhân sự làm Bộ trưởng Bộ Công an từ nguồn khác.

Vẫn Tháng Sáu, vào dịp hạ tuần, báo chí Nga đưa hình ảnh ông Trọng ngồi hội đàm với nguyên thủ của họ là Tổng thống Putin tại Hà Nội, nhân dịp ông Putin đến thăm Việt Nam.

Chưa hết, đến đầu Tháng Bảy 2024, trong Hội nghị Đảng ủy Công an Trung ương, tin dẫn từ truyền thông trong nước cho biết, ông Trọng lại gởi văn bản đến yêu cầu lực lượng Công an cần có giải pháp khắc phục triệt để tình trạng lộ bí mật Nhà nước, tập trung phòng, chống cài cắm nội gián của “các thế lực thù địch”, tránh tình trạng “trong nhà chưa rõ, ngoài ngõ đã tường”.

Cho thấy rằng, tuy không khỏe như trước, nhưng ông ấy vẫn đủ sức theo dõi tình hình và chỉ đạo sát sao công việc, kể cả tiếp quốc khách nước ngoài. Đột ngột 10 ngày sau, ngày 18/07/2024, Bộ Chính trị CSVN ra thông báo cho rằng ông ấy lâm bệnh và cần phải nghỉ việc để điều trị tích cực. Chỉ 24 giờ sau, ông ấy được thông báo chính thức là đã qua đời.

Thông báo cần được điều trị tích cực rồi thông báo qua đời chỉ trong 24 giờ sau đó, có nghĩa là ông ấy chỉ được điều trị bệnh trong một ngày ngắn ngủi rồi xuôi tay!? Diễn biến khá lạ lùng này khiến công chúng không khỏi nghi ngờ. Họ vẫn không chắc rằng nguyên nhân ông Trọng qua đời là theo cách tự nhiên do bệnh, già? Hoặc do ai đó đã quá sốt ruột, nên quyết định cấp tốc “làm công tác nhân sự” với trường hợp đặc biệt của ông Trọng.

Nhưng điều chúng ta biết rất rõ rằng nếu ông Trọng sống thêm khoảng ít thời gian nữa thôi, thì với vụ Ciputra đã được Bộ Công An tung ra một cách hữu ý sau 2 thập kỷ được ưu tiên giấu nhẹm, thì khi qua đời, tang lễ của ông Trọng sẽ lặng lẽ hơn rất nhiều và thậm chí, rất có thể sẽ có một phiên bản Vũ Mão đến đọc bản điếu văn hạ nhục người quá vãng như trong tang lễ tướng Trần Độ…

Vì nếu sống thêm nữa, điều đó đồng nghĩa với việc kéo dài thời gian tại vị chức vụ tổng bí thư của ông Trọng đến tận thời điểm tổ chức đại hội đảng lần thứ 14 vào đầu năm 2026. Khi ấy, chưa rõ ông Trọng đã sẵn sàng nghỉ hưu hay chưa? Hoặc lại vẫn ung dung tại vị nhiệm kỳ thứ tư với tư cách “Trường hợp đặc biệt” như đã từng có tiền lệ vào năm 2021.

Chưa kể rằng, nếu quyết định nghỉ hưu, thì rất có thể ông ấy sẽ có sự chọn lựa người kế vị khác chứ không phải chọn lựa ông Tô Lâm, một người đầy tham vọng đang rất sốt ruột với việc ông Trọng quá lỳ lợm và quá thọ trong chiếc ghế tổng bí thư lâu đến như vậy!

Không chỉ thế, dù ông Trọng không giới thiệu người kế vị, thì trước kỳ đại hội đảng, các ứng viên đều ở mức xuất phát ngang nhau, cơ hội cho ông Tô Lâm trúng cử cũng sẽ thấp hơn. Thậm chí, cơ hội bằng không (0) khi mà hầu hết số đảng viên có quyền bỏ phiếu tại đại hội đều xem ông Tô Lâm là mối nguy tiềm tàng, kẻ sẽ tống giam họ bất cứ lúc nào vì nắm giữ hồ sơ tham nhũng dày cộp suốt bao lâu nay của họ.

Dân ở Hà Nội ôm hình ông Nguyễn Phú Trọng trong ngày tang lễ ông Tổng bí thư ở Hà Nội ngày 26 Tháng Bảy 2024. (Hình: Lương Thái Linh/AFP/Getty Images)

Cho nên, chờ đợi đến kỳ đại hội chính thức để “Đêm dài lắm mộng” là hoàn toàn thất sách. Ông Tô Lâm không thể kiên nhẫn hơn được nữa. Thế nên, thời điểm này, thời điểm mà vị thế của ông Tô Lâm đang ở mức cao nhất thì ông Trọng phải chết, không chết tự nhiên vì bệnh, vì già thì cũng phải chết vì sự tranh đoạt quyền lực trong Đảng để ông Tô Lâm có thể thành tựu tham vọng cuối cùng của mình là ngồi vào chức vụ tổng bí thư đầy quyền lực.

Giữ chức vụ tổng bí thư, không chỉ là thỏa mãn tham vọng quyền lực, mà còn là lá chắn có giá trị như “Thượng phương bảo kiếm” bảo đảm cho sự an toàn cá nhân của ông Tô Lâm sau cả một đời kết oán khắp chính trường Việt Nam, từ người dân lương thiện cho đến những kẻ xưng hô là đồng chí với nhau.

Riêng với thân phận ông Trọng, như bánh xe luân hồi quay đủ một vòng trầm luân. Năm 2021, ông ấy dẫm đạp lên Điều lệ Đảng một cách vô pháp để tranh đoạt nhiệm kỳ tổng bí thư thứ ba. Bằng cách đó, ông mở đường, tạo tiền lệ cho sự tranh đoạt quyền lực bất chấp Điều lệ Đảng của ông Tô Lâm lúc này. Ông Nguyễn Phú Trọng đã chết vì sự vô pháp của chính mình.


 

CHẤP NHẬN Ý CHÚA KHI THẤT VỌNG – Jeannie Ewing

Jeannie Ewing

“Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi.  Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên.  Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người.  Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng.” (Tv 34:1-5)

Trong nhiều loại cảm xúc, thất vọng được liệt kê dưới dáng vẻ của nỗi buồn và sự xấu hổ.  Sự thất vọng kéo dài có thể chuyển sang cảm giác mất tinh thần hoặc không hài lòng.  Những từ đồng nghĩa này tiết lộ nhiều điều cho tâm hồn đang gặp rắc rối.  Trong các chu kỳ tôn giáo, nơi tâm linh tươi sáng được đề cao, sự thất vọng bị che giấu, bị vô hiệu, bị làm ngơ.  Tuy nhiên, hầu như mọi Kitô hữu đều trải qua sự thất vọng ở một mức độ nào đó trong cuộc sống.

Cách đây không lâu, con gái lớn của tôi muốn bày tỏ cảm giác thất vọng khi một người họ hàng gần quyết định từ chối chuyến thăm đã được lên kế hoạch từ nhiều tháng trước.  Con gái tôi đã hủy chuyến đi theo đúng nghĩa đen một tuần trước khi chuyến bay đến Indiana.  Nói Felicity thất vọng sẽ đánh giá thấp cảm xúc của con gái; nó đã bị tàn phá, bị nghiền nát.  Theo yêu cầu của con gái, chúng tôi đã tìm cách chia sẻ cảm xúc của nó một cách trung thực và cởi mở.  Phản ứng mà con gái tôi nhận được là “Mọi người đều thất vọng trong cuộc sống.  Bạn sẽ phải học cách đối phó với nó.”

Đôi khi chúng ta hiểu cùng một thông điệp này khi chúng ta thất vọng về ý Chúa đối với cuộc sống của chúng ta.  Có thể chúng ta đã mong đợi một kết quả khác với lời cầu nguyện của mình hoặc được yêu cầu “có thêm đức tin” rằng Thiên Chúa sẽ ban một phép lạ.  Khi điều có vẻ trái ngược với phúc lành làm suy sụp niềm tin của chúng ta vào lòng nhân lành của Thiên Chúa, thì thật khó để tiếp tục theo cách tương tự.  Chúng ta cảm thấy bị lừa dối và kiệt quệ, xa rời việc cầu nguyện – như thể bí ẩn vĩnh cửu về cách thức và lý do Thiên Chúa chọn hoặc cho phép những hoàn cảnh nào đó tạo ra vực thẳm nghi ngờ trong chúng ta.

Ở đây, Thánh Vịnh gia biết rõ về sự thất vọng.  Không phải lúc nào chúng ta cũng có thể nhảy vượt từ việc thực hiện ước mơ của mình đến một nơi vui mừng và ca ngợi Thiên Chúa.  Thay vào đó, đức tin của chúng ta linh hoạt hơn và thường lên xuống khi chúng ta vật lộn với những gì Chúa có thể yêu cầu chúng ta chịu đựng.

Phần đầu của Tv 34 sử dụng cách đặt liền nhau giữa người nghèo và người giàu.  Thánh Vịnh gia không viết về sự giàu có hay nghèo khó về vật chất, mà nói đến người nghèo về tinh thần.  Điển hình như trong thực tại tâm linh, chúng ta thấy một nghịch lý – người nghèo thực sự là người giàu, trong khi người giàu lại thiếu những gì quan trọng nhất.

Có vẻ như Thánh Vịnh gia muốn chúng ta nhớ rằng, khi thất vọng hoặc nản lòng, chúng ta lớn lên trong ơn phúc của sự nghèo nàn về tinh thần.  Chúng ta trở nên trống rỗng về bản thân, và dù đau đớn đến đâu, chúng ta vẫn mở lòng để Thiên Chúa di chuyển tự do hơn trong chúng ta.  Trong Thánh Vịnh này, người nghèo là những người đã “tìm kiếm Chúa” và “kêu cầu” với Ngài.  Cũng vậy, chúng ta có xu hướng khuỵu gối trong nỗi tuyệt vọng và khóc lóc khi dồn dập có những sự mất mát.

Thật thú vị khi Thánh Vịnh gia muốn bắt đầu bằng việc ca ngợi Thiên Chúa, bởi vì điều đó có vẻ khó khăn hơn khi chúng ta chán nản và cố gắng chấp nhận ý Chúa dành cho chúng ta.  Tuy nhiên, khi chúng ta hành động trái với cảm xúc của mình và nhớ lại đường lối của Chúa rất rộng lớn, những điều kỳ diệu của sự sáng tạo của Ngài, và những phúc lành trong quá khứ mà chúng ta đã nhận được, điều đó tạo ra lời cầu được xây dựng trên đức tính kiên cường và sau đó có thể chịu đựng được đau khổ lớn hơn.

Ở đây, điều an ủi là Thiên Chúa thấy người đau khổ đang quay về với Ngài.  Chúng ta có thể không nhận được câu trả lời mà chúng ta đang tìm kiếm khi cầu nguyện.  Chúng ta có thể không có thập giá cụ thể nào bị loại bỏ khỏi cuộc đời mình.  Tuy nhiên, chúng ta có thể chắc chắn rằng Thiên Chúa lắng nghe và không quên chúng ta.

Cuối cùng, ai kính sợ Chúa và kiên định thì tìm thấy phần thưởng của mình.  Thánh Vịnh gia nhắc nhở chúng ta rằng sự trung thành với Thiên Chúa là nền tảng khi chúng ta gần đến bờ vực thẳm của sự vô vọng và muốn bỏ cầu nguyện.  Kính sợ Chúa không phải là khiếp sợ Chúa như bạo chúa nhưng là khiêm nhường và nhận biết rằng những cách thức huyền bí và nghịch lý của Chúa đến từ nơi có tình yêu thương sâu sắc đối với chúng ta.

Giống như bất kỳ cảm xúc nào, sự thất vọng phải được nhận biết và chấp nhận chính điều đó.  Chúng ta có thể làm điều này mà không suy sụp, nhưng thay vào đó bằng cách vượt qua những thăng trầm trong mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa.  Như trong tất cả các mối quan hệ, thử thách và kiểm tra thường tạo ra kết quả tốt đẹp nhất – nếu chúng ta sẵn sàng đi đúng hướng và chịu đựng những gì gian khổ và khó khăn.

 Jeannie Ewing

Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)

From: Langthangchieutim


 

Tôi khóc cho những người thấp cổ bé họng- Hiệp Trần/SGN

Ba’o Nguoi-Viet

July 27, 2024

Hiệp Trần/SGN

Đã làm chính trị là anh phải chấp nhận sự khen chê của người đời, nếu anh không chịu được sự khen chê thì đừng làm chính trị.

Vì anh làm chính trị tức là anh sống bằng tiền thuế của người dân, bằng mồ hồi, xương máu của nhân dân. Mỗi quyết định của anh ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng triệu người dân trên đất nước cả trong hiện tại và tương lai.

Vậy nên việc đánh giá, nhận xét, khen chê, phê bình, chỉ trích, thậm chí là chửi bới của người dân đối với lãnh đạo là hết sức bình thường! Và người dân có quyền được khen chê, cũng không có kẻ nào có quyền cấm người khác khen chê một người làm lãnh đạo cả.

Người lãnh đạo mà dùng quyền lực của mình để bắt nhốt, trả thù những ai lên tiếng chỉ trích phê bình mình là người lãnh đạo rất tồi tệ, nói thẳng ra là bất nhân, bất nghĩa, bất trung. Làm lãnh đạo là sống bằng tiền của dân, tiền đó nuôi sống bản thân mình, nuôi cha, nuôi mẹ, nuôi vợ, nuôi con cái ăn học… Vậy mà khi có người dân phản đối, phê bình, chỉ trích mình lại đem trả thù, bắt nhốt người ta thì không phải là loại bất nhân, bất nghĩa thì là cái gì?

Làm chính trị là đem tài năng, đức độ của mình phục vụ người dân, đem lại sự ấm no, hạnh phúc cho người dân, đó là một niềm vinh dự lớn của những người làm lên tới quyền cao chức trọng. Nếu anh là người lãnh đạo tốt, có tâm thì chắc chắn người dân sẽ yêu quí, khi chết còn để lại được tiếng thơm muôn đời, con cháu dòng họ sau này nở mày nở mặt, phúc lộc đầy nhà. Nhưng nếu anh là người lãnh đạo tồi tệ thì khi chết người dân sẽ hả hê, ăn mừng và phỉ nhổ muôn đời.

Tôi rất thích lời thề nguyện của ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát “Địa ngục còn người ta chưa thành Phật.” Lời thề nguyện đó muốn nói rằng ngài Địa Tạng không để bất cứ ai còn sót lại ở Địa Ngục. Người làm lãnh đạo đất nước cũng phải có được tinh thần đó, không được để bất cứ người dân nào bị oan ức, bất công, đó mới thực sự là một người lãnh đạo VÌ DÂN!

Anh làm lãnh đạo, anh làm vài việc tốt, chúng tôi ghi nhận, nhưng đầy những việc xấu, đầy rẫy những tiếng kêu than khóc, oan ức, đau khổ của người dân… nếu nhắm mắt làm ngơ cho qua không biết gì thì anh cũng là những kẻ ác mà thôi. Cũng là cá mè một lứa mà thôi! Người ác không phải là người đích thân ra tay làm ác, mà những người ủng hộ cho cái ác, vỗ tay reo hò khi thấy người khác làm ác, thấy người khác làm ác mà KHÔNG RA TAY NGĂN CẢN… Thì cũng đều là kẻ ác cả mà thôi. Cổ nhân cũng có câu, “cả đời làm thiện, thiện chưa đủ, một ngày làm ác, ác đã đủ đầy.”

(Hình minh họa: Kayla Ng)

Người Việt cũng có câu “Trăm năm bia đá cũng mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.” Hãy sống làm sao cho tốt, không để lại được tiếng thơm thì xin cũng đừng để lại tiếng thối. Và cũng đừng trách sao cuộc đời này quá tàn nhẫn, khắt khe với mình. Hãy tự soi rọi mình đã làm gì để người ta phải chửi rủa, phỉ nhổ… bởi cuộc sống rất công bằng và sòng phẳng!

Xin nhắc lại một lần nữa, là làm chính trị là anh phải chấp nhận sự khen chê của người đời, nếu anh không chịu được sự khen chê thì đừng làm chính trị. Và người dân có quyền được khen chê, cũng không có kẻ nào có quyền cấm người khác khen chê một người làm lãnh đạo cả.

Hôm nay người dân khóc thương cho sự ra đi của ông nhưng tôi lại khóc thương cho những tiếng kêu gào của những người dân thấp cổ bé họng, đã, đang phải chịu những bất công. Họ phải từng quỳ xuống kêu gào, gọi tên ông để được sự giúp đỡ.