BẢN DI CHÚC KỲ LẠ.-Truyen ngan HAY

Công Ty Cổ Phần Đông Y Trường Xuân –  Những câu chuyện Nhân Văn

Chừng 33 năm trước, vợ của một thương nhân ở Washington (Mỹ) đã bất cẩn đánh rơi chiếc túi da trong bệnh viện vào một buổi tối mùa đông. Thương nhân vô cùng sốt ruột đi ngay trong đêm đó để tìm. Bởi vì trong túi da không chỉ có 100.000 đô la mà còn có bản thông tin thị trường vô cùng cơ mật…

Khi người thương nhân đến bệnh viện đó, ông liền trông thấy ở một hành lang vắng lặng, lạnh giá của bệnh viện có một cô bé gầy gò đang co ro rét run bần bật ngồi dưới sát bức tường. Thứ cô bé đang giữ chặt trong lòng chính là chiếc túi da mà vợ ông đánh mất.

Thì ra cô bé có tên là Siada này đến bệnh viện để trông nom người mẹ đang mắc trọng bệnh. Hai mẹ con dựa vào nhau mà sống, gia cảnh rất nghèo, đã bán đi tất cả đồ đạc trong nhà, số tiền gom góp được vẫn chưa đủ chi phí thuốc men chữa bệnh trong một đêm. Không có tiền ngày mai biết làm thế nào bây giờ?

Tối hôm đó, Siada bất lực đi đi lại lại trong hành lang bệnh viện, cô thành kính cầu Thượng Đế bảo hộ, có thể gặp được người hảo tâm cứu mẹ cô. Bỗng nhiên một phụ nữ từ trên tầng đi xuống, khi đi qua hành lang thì chiếc túi da dưới nách cô rơi xuống. Có lẽ do dưới nách cô vẫn còn vật gì khác nên khi túi da rơi mất mà cô vẫn hoàn toàn không phát hiện ra.

Khi đó hành lang chỉ có một mình Siada. Cô chạy lại nhặt chiếc túi lên và vội vàng chạy ra ngoài cửa đuổi theo người phụ nữ kia, nhưng người phụ nữ đó đã bước lên một chiếc xe con và phóng đi.

Siada trở về phòng bệnh. Khi cô mở túi ra, hai mẹ con cô kinh ngạc vì những tờ giấy bạc xếp thành từng xấp. Lúc đó trong lòng hai mẹ con đều hiểu rõ, dùng số tiền này có thể chữa khỏi bệnh mẹ.

Nhưng mẹ cô lại bảo cô đem túi da quay trở lại hành lang, đợi người đánh mất đó quay lại lấy. Mẹ của Siada nói: “Người mất tiền nhất định rất lo lắng. Trong cả cuộc đời con người thì việc đáng làm nhất chính là giúp đỡ người khác, lo lắng nỗi lo lắng của người khác. Việc không được làm nhất là tham lam tiền tài bất nghĩa, thấy tiền tài mà quên đạo nghĩa”.

Người thương nhân sau khi tìm lại được chiếc túi, cảm kích vô cùng, đã dốc hết sức mình giúp đỡ. Nhưng mẹ của Siada vẫn để lại đứa con gái cô độc một mình mà ra đi mãi mãi. Hai mẹ con Siada không chỉ đã giúp người thương nhân có lại được 100.000 đô la mà quan trọng hơn là lấy lại được thông tin thị trường cơ mật bị mất đó. Nhờ thông tin này mà thương nhân đã làm ăn như diều gặp gió, rất nhanh chóng đã trở thành một triệu phú lớn.

Sau này, Siada được triệu phú nhận nuôi. Sau khi học xong đại học, cô trở lại giúp cha nuôi của mình quản lý việc kinh doanh. Việc kinh doanh rất phát đạt và người triệu phú nọ đã nhanh chóng trở thành một tỷ phú. Tuy ông không ủy nhiệm cho Siada bất kỳ chức vụ thực tế nào nhưng bởi được rèn luyện trong thương trường lâu dài, lại được học hỏi rất nhiều từ cha nuôi, Siada đã trở thành một nhân tài kinh doanh đầy triển vọng. Đến khi cha nuôi cô tuổi cao, sức yếu, rất nhiều ý kiến đều tham vấn Siada.

Tới khi vị tỷ phú lâm chung, ông đã để lại một bản di chúc khiến người ta ngạc nhiên:

“Trước khi tôi quen biết 2 mẹ con Siada, tôi đã là người có rất nhiều tiền rồi. Nhưng khi tôi đứng trước mặt 2 mẹ con nghèo khổ bệnh tật hiểm nghèo, nhặt được số tiền lớn mà không lấy, tôi đã phát hiện ra họ mới là những người giàu có nhất, bởi vì họ đã giữ được chuẩn mực cao nhất làm người. Đây chính là điều mà những thương nhân như tôi lại thiếu nhất. Tiền bạc của tôi dường như đều là có được từ việc lừa dối, đấu đá tranh giành. Hai mẹ con họ đã khiến tôi hiểu ra được vốn liếng lớn nhất của đời người chính là phẩm hạnh.

Tôi nhận nuôi dưỡng Siada không phải bởi vì cảm tạ báo ơn, cũng không phải vì cảm thông với hoàn cảnh của cô bé, mà đó là thể hiện sự kính trọng với một tấm gương làm người. Có cô bé ở bên, trên thương trường tôi luôn từng giờ từng phút ghi nhớ điều gì nên làm, điều gì không nên làm, tiền nào nên kiếm, tiền nào không nên kiếm. Đây chính là nguyên nhân căn bản giúp sự nghiệp của tôi sau này hưng thịnh phát đạt, trở thành tỷ phú.

Sau khi tôi qua đời, toàn bộ tài sản hàng tỷ đô la của tôi đều để lại cho Siada thừa kế. Đây không phải là tặng, mà là để cho sự nghiệp của tôi càng phát triển thịnh vượng huy hoàng hơn nữa.

Tôi hoàn toàn tin tưởng, đứa con trai thông minh của tôi sẽ hiểu dụng tâm của cha nó”.

Khi người con trai của tỷ phú từ nước ngoài trở về đã xem kĩ di chúc của cha, lập tức không do dự ký tên vào bản Giao kết thừa kế tài sản. Anh ta viết: “Tôi hoàn toàn đồng ý Siada kế thừa toàn bộ tải sản của cha tôi. Tôi chỉ thỉnh cầu Siada có thể làm phu nhân của tôi”.

Siada đọc những dòng chữ con trai tỷ phú viết, trầm ngâm một lúc rồi cầm bút viết: “Tôi xin tiếp nhận toàn bộ tài sản của cha nuôi để lại – bao gồm cả con trai ông”.

Bản di chúc kỳ lạ của một tỷ phú: Vốn liếng lớn nhất đời người là phẩm hạnh.

Trần Cầu Sưu tầm

(Visiontimes)


 

Ba nhân đức đối với Thiên Chúa là những nhân đức nào?-Cha Vương

Ngày Thứ 2 đầu tuần zui zẻ và thật mạnh mẽ trong đức Tin, Cậy, Mến nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 26/8/2024

GIÁO LÝ:  Ba nhân đức đối với Thiên Chúa là những nhân đức nào? Là đức tin, đức cậy, đức mến. Chúng được gọi là “đối thần”, vì chúng có nền tảng trong Thiên Chúa, và trực tiếp hướng về Thiên Chúa. Ta có thể nhờ 3 đức này như con đường trực tiếp đạt tới Thiên Chúa. (YouCat, số 305)

SUY NIỆM: Tại sao tin, cậy, mến là nhân đức? Vì là những sức mạnh thực sự được Chúa ban, và nhờ ơn Chúa giúp, ta có thể gia tăng và củng cố để đạt được sự sống sung mãn (Ga 10:10). Thiên Chúa là tình yêu: ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong họ.—1 Ga 4:16 (YouCat, số 305)

Có một gia đình nọ sống giữa đồng không mông quạnh. Vào một đêm kia, căn nhà bốc cháy dữ dội. Cha mẹ, con cái vội chạy ra ngoài sân và đứng bất lực nhìn ngọn lửa thiêu rụi tổ ấm gia đình họ.

Bỗng mọi người chợt nhận ra còn thiếu mất đứa con bé nhất. Thì ra cậu bé cũng chạy ra với mọi người, nhưng chưa tới cửa, thấy lửa cháy dữ quá, cậu sợ hãi quá nên lại chạy trở lên lầu.

Trong lúc cả gia đình hốt hoảng không biết phải làm sao để cứu cậu bé năm tuổi, vì lửa cao ngút tứ phía, bỗng cửa sổ trên lầu mở toang, và cậu bé kêu khóc inh ỏi. Cha cậu bé gọi lớn tên con, rồi nói:

– Con nhảy xuống đây!

Cậu bé nhìn xuống dưới chỉ thấy khói mù và lửa cháy, nhưng nghe tiếng cha kêu mình, liền trả lời:

– Ba ơi, con không trông thấy ba đâu hết!

Người cha trả lời giọng cương quyết:

– Cứ nhảy đi, có ba trông thấy con là đủ rồi!

Và cậu bé leo lên cửa sổ, liều nhảy xuống, rơi vào vòng tay yêu thương vạm vỡ của cha mình một cách an toàn.

Bạn có một người Cha còn yêu thương bạn hơn mọi người cha trần thế. Đó là chính Thiên Chúa. Để giúp bạn sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa, vượt qua được những khó khăn trong cuộc sống, Thiên Chúa ban cho bạn một số nhân đức đặc biệt. Những nhân đức này quy hướng chúng ta về Thiên Chúa, nên được gọi là các nhân đức đối thần. Đó là các nhân đức Tin, Cậy, Mến. Vậy bạn hãy để mình rơi vào vòng tay từ bi và nhân lành của Chúa đi nhé.

LẮNG NGHE: Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến. (1 Cr. 13:13)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, vì yêu thương con, Chúa đã ban cho con các nhân đức—Tin, Cậy, Mến, xin giúp con luôn luôn hướng về tình thương Chúa mà kiên trì học hỏi cầu nguyện để có được đời sống tốt tràn ngập bình an và hạnh phúc.

THỰC HÀNH: Để tỏ lòng tin tưởng, cậy trông và yêu mến Chúa, bạn hãy quyết tâm trong tuần này luôn nhớ tới Chúa và xin Ngài chúc lành cho công ăn việc làm của bạn và những khó khăn bạn gặp trong ngày.

 From: Do Dzung

***********************

Con Tin Chúa Ơi | Sáng Tác: Lm. Duy Thiên | Trình Bày: Gia Ân

YouTube player

Chuyện nhà người ta – HẬU LY HÔN 2-Truyen ngan


Công Tú Nguyễn
Chuyện tuổi Xế Chiều

Chuyện nhà người ta

HẬU LY HÔN 2

“ Bài này của 1chú đang nằm viện dưỡng lão” Được con trai, con gái của vợ đầu đóng tiền chu cấp” viết khi đọc bài : “Bỏ mặc con, đàn ông đầu tư cho tình nhân rồi về già ai chăm?” Có cắt bớt …

Vợ chồng tôi ly hôn khi vợ phát hiện tôi ngoại tình và có con riêng 5 tuổi – ít hơn 1 tuổi K. – con trai út của vợ chồng tôi.

Vợ tôi cư xử rất có văn hóa và văn minh. Cô ấy không làm ầm ĩ cũng chẳng đánh ghen mà cho tôi chọn lựa: hoặc về với gia đình, hoặc đến với nhân tình. Trong lúc tôi đang đứng ở ngã ba đường thì cô bồ nhí trẻ đẹp, miệng ngọt ngào và luôn tâng bốc tôi tận trời xanh đòi tự tử, Còn đến tận nhà gặp gỡ vợ tôi với các con tôi ép bắt tôi phải ly hôn. Khi ấy, bé Mun – con gái đầu của tôi – 11 tuổi, con trai nhỏ vừa tròn 5 tuổi.

Tôi chưa bao giờ nghĩ hậu ly hôn, cha con tôi có khoảng cách, vì tôi rất yêu thương con, và chúng cũng vậy. Thế nhưng, sau ly hôn, bồ nhí lên chức vợ, quản tôi như quản tù. Vợ hai luôn cản trở, ngăn cấm tôi về thăm con. Tôi và vợ 2 làm chung cơ quan tình công sở, “ may cho tôi vợ cũ không triệt đường công việc của hai chúng tôi, nhưng anh em cùng cơ quan thì mỉa mai “…Nên tôi không thể trốn đi thăm con được. Theo lệnh của vợ 2, mỗi tháng tôi chỉ được thăm con một lần, dù hai nhà cách nhau chỉ 5km. Và khi đi phải chở theo cậu con nhỏ.

Lần đầu sau ly hôn 2 tháng sau tôi mới được về thăm con. Khi đó, chị em Mun đang chơi ngoài sân. Tôi vừa đưa tay ngoắc, hai đứa định chạy về phía tôi, thì bất ngờ, con trai riêng ôm chặt lấy chân tôi và hét lên “ba của tao, không phải ba của mày”. Con vừa hét, vừa khóc nên tôi bồng con lên.

Lúc ấy, Mun và K. đứng nhìn tôi trân trối rồi chúng bước thụt lùi, cho đến khi khuất sau cổng nhà ngoài. Cái cảnh cha con ôm nhau mừng rỡ và tôi sẽ công kênh cậu con trai trên vai như mỗi lần tôi đi làm về, và nghe tiếng con cười hắc hắc, giọng đớt đát “Ba của Chèo” (tên ở nhà của con là Tèo) không còn nữa.

Sau đó, tôi cũng về thăm con, nhưng một là chúng chạy mất dạng khi thấy bóng tôi, hai là ngồi lì trên võng trước nhà ngoại, tôi kêu thế nào cũng không bước ra (tôi bị cha vợ cấm cửa sau khi ly hôn).

Tôi chỉ gần hai con nhất vào dịp giỗ ba tôi. Dịp này, vợ cũ đưa hai con về cúng ông nội, rồi cô ấy lánh ra quán ngồi chờ. Tôi chẳng biết trước khi tôi đến, hai con thế nào, nhưng từ lúc tôi và vợ 2 còn con xuất hiện thì hai con thu vào một góc, sụ mặt xuống, không cười giỡn với ai, tôi ngoắc cũng không chịu lại. Tôi bước đến định ôm con, thì cả ba cha con tôi đều thấy ánh mắt tóe lửa của vợ 2 tôi, còn con trai riêng thì mè nheo. Vậy là tôi chẳng thể ôm con trọn vẹn.

Tôi không biết mỗi lần gặp con ở đám giỗ đều để lại vết hằn trong tâm trí con. Vợ 2 tôi chẳng biết cố ý hay vô tình, cô ấy cứ quấn lấy tôi, miệng cứ “chồng ơi”, rồi nhờ tôi lấy thức ăn, nước uống cho cô ấy. Cô ấy còn bắt tôi đút con ăn, bồng con suốt – dù thằng bé có thể tự chơi. Thể hiện đủ mọi trò trước mặt các con tôi.

Thấy vậy, má tôi cùng các em kéo chị em Mun lại gần vỗ về. Nhưng có lẽ việc cha mình cưng nựng một đứa trẻ khác và chăm chút cho người đàn bà khác là điều khó có đứa trẻ nào chấp nhận.Cũng không chấp nhận nhìn ảnh cha nó chụp với gia đình mới của cha nó

Những năm sau, tôi về đám giỗ thì không gặp hai con. Tôi gặng hỏi thì vợ cũ mới nói:

“Hai đứa nhỏ không chịu về, vì không muốn gặp ba và vợ con của ba”.

Vừa bị vợ 2 ngăn cản thăm con, quyết không cho tôi gửi tiền nuôi chúng nó như toà xử, tôi sống như tù giam lỏng… Con cái lại lợt lạt nên sau khi bức bối và làm ăn đang tuột dốc thì tôi chia tay “tập 2”, tôi lên TPHCM sống với “tập 3” và cũng ít khi gặp con cái.

Sau này tôi bị bệnh tiểu đường, biến chứng qua tim, khớp người yếu, đi lại khó khăn thì vợ 3 cũng dứt áo ra đi. Tôi không nghĩ, ở tuổi xế chiều tôi phải sống trong cô độc, bệnh tật dù có đến 3 đứa con. Tôi cũng không biết rằng, chị em Mun vĩnh viễn không thể bước tới với tôi sau những bước thụt lùi 20 năm về trước.

Ngày hai con cưới, vợ cũ cho tôi hay, nhưng tự ái vì hai con không gọi điện báo tin cho cha, và không mời cha dự nên tôi không về. Tôi nghĩ, sự vắng mặt của tôi sẽ làm con hối hận.

Cách đây 2 năm, tôi bị tai nạn gãy chân, gọi báo con. Tôi tin là con sẽ nóng ruột chạy tới ngay và vì con làm ở công an tỉnh nên có thể giúp tôi giải quyết nhanh vụ xe. Nhưng, đến gần sáng con mới tới, hỏi thăm mấy câu rồi về. Trong lúc vừa giận, vừa xỉn, tôi chửi:

“Đồ mất dạy, bất hiếu”.

Con trai trả lời:

“Tôi mất dạy vì không có ba và ông có trách nhiệm gì với tôi mà giờ đòi tôi báo hiếu, tôi được ngày hôm nay là sự hy sinh rất lớn của mẹ tôi “

Tôi cứng họng, không nói được câu nào.

-Có một điều đáng lưu tâm là phần lớn người thành đạt đều có những người mẹ tuyệt vời và những gì mà họ tiếp thu được từ người mẹ thì nhiều hơn rất nhiều từ người cha.

Mối quan hệ tôi với con gái đỡ hơn, khi tôi nằm viện, con tới thăm. Nhưng, con cho tôi ít tiền rồi về như làm từ thiện. Cả hai đứa không hề đụng tay vào tôi xem tôi gày hay ốm, chỉ đứng nhìn như người bất đắc dĩ đi thăm bệnh. Tôi rất đau, nhưng đó là cái giá tôi phải trả cho những năm tháng bỏ bê, không có trách nhiệm với con.

Còn cậu con trai với vợ sau thì lông bông, lêu lổng, chỉ nhớ đến tôi khi cần tiền tiêu xài, ăn nhậu. Mẹ nó thì vẫn chứng nào tật đấy đong đưa với đàn ông có vợ để có tiền …

Giờ đây, ở tuổi xế chiều, bệnh tật và cô độc, tôi vô cùng thấm thía khi đọc bài

“Bỏ mặc con, đàn ông đầu tư cho tình nhân rồi về già ai chăm?”-

Tôi chưa từng nghĩ đến điều đó khi lao theo những cơn say ái tình, để giờ phải trả giá. Vì vậy, những ngày qua, khi đọc tin tức, xem hình ảnh vị doanh nhân và cô diễn viên công khai yêu nhau bất chấp chưa ly hôn, tự dưng tôi hình dung hơn chục năm nữa, anh ta cũng sẽ như tôi của hôm nay – bị con cái quay lưng, Chính tôi cũng là người thành đạt rồi cứ vì gái như con quỉ vận xấu cứ đeo bám mà làm ăn càng xuống dốc.

Không biết trân trọng người vợ sát cánh bên mình khì khổ sở thì cuối đời chỉ cô độc mà thôi

Vợ là may mắn của người đàn ông, mất vợ là mất tất cả … Sau mỗi thành công của người chồng luôn có hình bóng người vợ kề bên..

Sau thất bại của đàn ông là kẻ thứ ba chiếm thị trường …

. Và chúng ta không chỉ có tội bỏ rơi con, làm tổn thương con, mà còn gián tiếp biến con thành kẻ bất hiếu. Đó là tội lỗi lớn nhất của người cha ngoại tình.

Tôi tha thiết mong con tới thăm khi bệnh tật, nắm tay tôi một cái cũng đỡ tủi thân, nhưng… Điều ấy xa vời.


 

Đúng là không giống ai!-Đoàn Bảo Châu

Ba’o Tieng Dan

Đoàn Bảo Châu

26-8-2024

Ảnh chụp màn hình

Vô tình thấy phát ngôn này của anh Huệ từ năm 2019. Thời gian có khả năng chứng minh nhiều điều, giờ báo chí mà phỏng vấn thì anh Huệ còn nhắc lại câu này một cách tự hào nữa không nhỉ?

Tự hào tới mức kiêu ngạo mà mọi ngành đều yếu kém, tham nhũng không chừa một ngành nào, từ y tế mẹ hiền tới ngoại giao lịch lãm đều bê bết. Văn hóa nghệ thuật, khoa học công nghệ không có đóng góp đáng kể gì cho nhân loại.

Các tập đoàn nhà nước thua lỗ bao nhiêu nghìn tỷ đồng, thay vì thành những nắm đấm thép thì biến thành những móng thép cào cấu vào ngân sách.

Về những công nghệ cả thế giới đang nhau lên để làm chủ như máy tính lượng tử, trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học… thì mù tịt nhưng cứ thích ba hoa kiểu bà cán bộ nói sẽ áp dụng AI vào loa phường.

Về chủ quyền, rõ ràng mình đang khai thác dầu trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, thằng hàng xóm nó ho một cái, lập tức phải co vòi, dừng hoạt động, đền bù cho đối tác nước ngoài.

Về những giá trị phổ quát của nhân loại như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, nhân quyền thì lẹt đẹt cuối bảng. Hiền lành như những nhà hoạt động môi trường mà còn bị bắt tới 6 người, giờ không còn tổ chức dân sự nào để giám sát cam kết của Việt Nam về chuyển đổi năng lượng với quốc tế. Bao tổ chức NGO phải đóng cửa. Bắt nhiều đến nỗi mà bao người sáng lập các tổ chức NGO đi học, đi du lịch rồi ở hẳn nước ngoài luôn, không dám về.

Quản lý đất nước khiến người dân chỉ chực lao ra nước ngoài bán sức lao động, riêng năm 2023 có tới 155.000 lao động, lượng đi chui không tính. Từ thuyền nhân phát triển thêm thùng nhân. 39 thùng nhân bị chết, vẫn không làm các thùng nhân khác nhụt chí. Suốt mấy chục năm qua lượng người Việt định cư ở nước ngoài trung bình 100.000 người/năm. Gái Việt ở Cam, Sing, Đài Loan có đầy, họ sang đấy làm gì thì ai cũng hiểu.

Khiêm tốn để học hỏi mới khá được. Hàn Quốc đã rất khiêm tốn, biết người biết ta mà copy nguyên xi chương trình giáo dục của Nhật Bản, tiết kiệm được bao chi phí mà tạo ra một bước tiến bộ nhảy vọt cho ngành giáo dục.

Cách giáo dục dùng “đom đóm” tuy đặc sắc thật nhưng chưa đủ thành di sản vĩ đại gì để thế giới học tập đâu.

Bao nhiêu thứ bắt chước thằng hàng xóm, cả cái lý tưởng thiên đường cũng copy mà bảo không “rập khuôn”.

Đúng là sự kiêu ngạo của các vị không hề “rập khuôn”, không hề giống ai trên quả địa cầu này.

Tôi viết có sai một câu nào không? Nếu không thì đừng chụp mũ, gán ghép cho tôi bất cứ điều gì.

Cán bộ trong hệ thống thì đương nhiên không dám nói, báo chí chỉ là những cái loa tắt bật theo chỉ đạo, người chính trực phát biểu công tâm trên mạng xã hội mà bịt nốt thì lại “rập khuôn” theo Bắc Hàn chăng?


 

KHÔNG KHỚP NHAU – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)  

“Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu đạo đức giả!”.

“Bất kỳ ai đã từng dạy dỗ người khác đều biết đến xu hướng bên trong là phóng đại chiều sâu tính cách của mình, trong khi khoan dung với những khuyết điểm của bản thân. Chúng ta đã cố ý hoặc vô tình đưa ra hình ảnh tốt hơn về mình so với thực tế. ‘Ngoại hình tính cách’ và ‘thực tế bên trong’ chúng ta không khớp nhau!” – C. S. Lewis.

Kính thưa Anh Chị em,

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ ra cái ‘ngoại hình tính cách’ của giới kinh sư biệt phái và ‘thực tế bên trong’ của họ ‘không khớp nhau!’. Ngài nói, “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu đạo đức giả!”.

Ngài cáo buộc họ là những người đóng cửa Nước Trời, ngăn những người khác vào và chính họ cũng không vào. Một mặt, điều này có thể ám chỉ đến việc họ từ chối Ngài – hiện thân của Nước Trời – đang rao giảng Nước Trời và – bằng sự hiện diện của Ngài – làm cho Nước Trời trở nên dễ tiếp cận với những ai đến với Ngài. Mặt khác, điều này cũng có thể có nghĩa là họ đã khiến việc tuân thủ lề luật trở nên vô cùng khó khăn bằng cách diễn giải phức tạp những điều được phép và không được phép.

Trong khi cách sống của những nhà lãnh đạo tôn giáo ngăn cản mọi người đến gần Chúa Giêsu, thì chính họ lại nhiệt tình làm mọi cách để cải đạo ngay cả một người, chỉ để khiến người đó trở nên tệ hơn chính họ. Họ làm điều này bằng cách gieo rắc những ý tưởng sai lầm về tôn giáo thực sự là gì. Họ nhồi nhét những ý tưởng về các nghi lễ và do đó, tạo ra cảm giác an toàn sai lầm về những gì thực sự mang lại ơn cứu rỗi.

Buồn thay, ngày nay sự lạm dụng thẩm quyền và chức vụ – trong Giáo Hội, chính phủ, kinh doanh hay các lĩnh vực khác – dẫn đến đủ loại tham lam, làm suy yếu chính cấu trúc Giáo Hội và xã hội! Các vị trí phục vụ đã biến thành công cụ để trục lợi cá nhân, gây tổn hại đến những người dễ bị tổn thương và túng thiếu nhất. Giáo Hội cũng có thể thấy mình quá quan tâm đến tiền bạc mà quên đi sứ mệnh. Một Giáo phận, một Giáo xứ, một Giám mục hoặc Linh mục giàu có trong một thế giới nghèo đói và thiếu thốn là một trở ngại lớn đối với việc lắng nghe Phúc Âm; vì lẽ, ‘ngoại hình tính cách’ và ‘thực tế bên trong’ của chúng ta ‘không khớp nhau’.

Anh Chị em,

“Khốn cho các người!”. Dẫu thuộc đấng bậc nào, bạn và tôi vẫn có thể hoá nên “đạo đức giả” ngăn mọi người tiếp cận Chúa Giêsu và chính chúng ta cũng xa cách Ngài. Vậy phải làm sao? Cầu nguyện, xét mình với một lương tâm chân thực, ngay thẳng là điều không thể thiếu! Hãy để hành vi, lời nói và lương tâm của chúng ta hoà hợp, cởi mở trước Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ thanh luyện và đào tạo một lương tâm tốt mà chúng ta có thể sở hữu trong cuộc sống. Nó mang lại bình an, thanh thản và bảo đảm về sự kiên trì của chúng ta trong điều thiện. Được như thế, “Danh của Chúa chúng ta là Đức Giêsu, sẽ được tôn vinh nơi anh em, và anh em được tôn vinh nơi Người” – bài đọc một; và “Muôn dân được biết những kỳ công Chúa làm” – Thánh Vịnh đáp ca.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, dạy cho con ngoan nguỳ trong trường học của Thánh Thần; nhờ đó, ‘ngoại hình tính cách’ và ‘thực tế bên trong’ con luôn khớp nhau!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)  


 

Thời Tô Lâm chính trường được thanh toán một cách chóng vánh tính theo ngày hoặc tuần không phải là theo năm tháng.

Quốc Hội họp trong chỉ một ngày với chương trình thay đổi nhiều nhân sự cấp bộ.

Quốc hội phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ miễn nhiệm chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ đối với ông Trần Lưu Quang vì đã được Bộ Chính trị điều động, phân công, bổ nhiệm giữ chức Trưởng Ban Kinh tế Trung ương.

Quốc hội cũng phê chuẩn miễn nhiệm Bộ trưởng Tư pháp đối với ông Lê Thành Long do được Quốc hội phê chuẩn bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ 2021 – 2026 vào ngày 16/6.

Quốc hội cũng phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ miễn nhiệm chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ đối với ông Lê Minh Khái và Bộ trưởng Bộ TN&MT Đặng Quốc Khánh do bị Đảng cho nghỉ công tác.

Cũng tại kỳ họp này, Quốc hội đã tiến hành miễn nhiệm chức danh Chánh án TAND Tối cao đối với ông Nguyễn Hòa Bình và miễn nhiệm chức danh Viện trưởng VKSND Tối cao đối với ông Lê Minh Trí để nhận nhiệm vụ công tác khác.

Quốc hội cũng tiến hành kiện toàn các chức danh: 3 Phó Thủ tướng Nguyễn Hòa Bình, Hồ Đức Phớc, Bùi Thanh Sơn; Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh; Bộ trưởng TN&MT Đỗ Đức Duy.

Đồng thời, Quốc hội bầu ông Lê Minh Trí làm Chánh án TAND Tối cao; ông Nguyễn Huy Tiến, Phó Viện trưởng thường trực VKSND Tối cao làm Viện trưởng VKSND Tối cao.

Lê Minh Trí - Chánh Án Tối Cao
Lê Minh Trí – Chánh Án Tối Cao
Nguyễn Hòa Bình - Phó Thủ Tướng, không Bộ
Nguyễn Hòa Bình – Phó Thủ Tướng, không Bộ
Nguyễn Huy Tiến -Viện Trưởng Kiểm Sát
Nguyễn Huy Tiến -Viện Trưởng Kiểm Sát
Bùi Thanh Sơn - Phó Thủ Tướng Bộ Trưởng Ngoại Giao
Bùi Thanh Sơn – Phó Thủ Tướng Bộ Trưởng Ngoại Giao
Nguyễn Đức Phớt - Phó Thủ Tướng, Bộ Trưởng Tài Chánh
Nguyễn Đức Phớt – Phó Thủ Tướng, Bộ Trưởng Tài Chánh
Điều may mắn đã đến cho dân oan Việt Nam, ông Trùm án oan sai, án tử hình người vô tội, Trương Hòa Bình nay đã hết không còn tác oai tác quái ở Tòa Tối Cao. Liệu Ông ta có trở thành Chủ Tịch Nước trong tương lai như tin đồn hay không?

Le Minh Trí, từng chống lại án oan sai của anh Nguyễn văn Chưởng và đề nghị xử phúc thẩm lại theo hướng giảm hình phạt cho anh Chưởng vào ngày 18, tháng 4, năm 2011. Khi đó Ông Hòa Bình không chịu xử lại.

Thích Trí Quang, ông là ai? [1]-Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

25/08/2024

Diệt Thiên Chúa giáo là ý đồ và mục tiêu của Trí Quang. Nếu là truy diệt dư đảng Cần Lao nói chung thì người đầu tiên phải thanh toán là tướng Lê Văn Nghiêm, vì ông là thứ Cần Lao “gộc” cũng như Đỗ Mậu .

Tôi đặt ra câu hỏi như một tiền đề và mong  tiếp cận được con người thật của Trí Quang. Thích Trí Quang: Ông là ai? Một nhà tu đạo hạnh hay một kẻ vĩ cuồng tôn giáo?

 

Thích Trí Quang, 1964

Bạn đọc thử nhìn kỹ khuôn mặt, cái nhìn, nhất là đôi mắt săc và gian xảo, dáng điệu xem Trí Quang có phải là nhà tu thật không?

Trong chỗ riêng tư, tôi được bà tiến sĩ Thái thị Kim Lan ở Đức, hiện nay nghỉ hưu ở Huế thổ lộ tâm tư là bà rất yêu mến ông Trí Quang và con mắt sắc như dao của ông Trí Quang đã hớp hồn bà.

Đó là một “mối tình” nửa nạc nửa mỡ mà thực sự chỉ có hai người họ biết tỏ. Nếu tôi có nói sai thì nay bà còn sống, ở Huế bà cứ việc lên tiếng phản bác? Trong bài trả lời phỏng vấn của đài BBC mà bà vốn có duyên nợ Thày- Trò, một người gần gũi tâm giao, biết từng chi tiết thói quen, sở thích, tính nết, ai là bạn, ai là người mà Trí Quang không ưa. Cũng theo lời kể của Thái Kim Lan:  thấy người mà ông không ưa, ông  tỏ vẻ túc giận, đánh sầm cửa không tiếp.

Cũng theo lời tâm sự của Thái Kim Lan, bà mô tả Trí Quang có thân hình mảnh khảnh, nhưng đầy nghị lực và đầy nam tính, mắc săc như dao, cái nhìn chế ngự người khác. Giọng nói nhát gừng, rời rạc từng chữ, nhưng đầy quyền uy, không dấu được vẻ cao ngạo.

Bà kết luận: Nói đúng ra, ông có tư thế lãnh tụ.

Chính vì những lời lẽ tâm giao, sự giao cảm giữa hai người là mối thâm giao nhục cảm lẫn tinh thần giữa hai người họ..trở nên gắn bó suốt đời họ.

Trên đây là những tiết lộ của tôi về con người Trí Quang đối với một phụ nữ với nhũng mối liên lạc khác thường trong nhiều năm tháng.

Tôi thiển nghĩ, những tiết lộ này cho thấy, cuộc đời  bí mật của Trí Quang kể như lần đầu tiên được phô bày ra. Tôi can đảm viết ra sự thật như thế.

Và sau đây, tôi xin  trích dẫn những lời lẽ xưng tụng, bào chữa cho Thích Trí Quang trong một cuộc phỏng vấn:

“Ông ta là một vị tỳ kheo nghiêm túc, nhất mực hành đạo khi tụng kinh cũng như khi đi theo Phật. Chưa ai có thể vượt qua ông về cách tu chứng.. Tôi nghĩ Hòa thượng Trí Quang trong hoạt động về mặt xã hội cũng như về văn hóa, đối với xã hội, đối với lịch sử, đối với Phật học, ông luôn luôn bảo vệ đời sống bằng sự dấn thân của ông. Đó là vai trò lịch sử của Trí Quang và với vai trò này, có thể có nhiều người phê phán, nhưng theo tôi, nếu Việt Nam chỉ thực hiện một nguyện vọng của Trí Quang thì có thể Việt Nam có thể vượt được nhiều khổ nạn.. Tôi nghĩ trước hết là cần tôn trọng sự thật, cần phải nhìn lịch sử trong từng giai đoạn. Có thể là chúng ta phải có ý muốn làm thế nào đê giữ sự thật, bảo vệ sự thật lịch sử.. Trong lúc đó, lịch sử bây giờ đối với tôi, những trang lịch mà được viết về phong trào Phật giáo cũng như là về Hòa thượng Trí Quang của người Mỹ hay người Việt Nam, những khảo cứu tôi nghĩ chưa nói hết được hay là một cách trung thực cái ý nghĩa mà Thích Trí Quang đã đóng góp. Luôn luôn phải tâm nguyện không có bạo động, chỉ tuyệt thực theo đó yêu cầu thực thi chứ không phải cưỡng bức thực thi. Nghĩa là Trí Quang  tuyệt thực 100 ngày thì cũng ở trong tinh thần đó.”

(Quốc Phương phỏng vấn Thái Kim Lan, BBC Việt Ngữ).

Còn có lời lẽ xưng tụng nào hơn nữa chăng như thể một người trong cuộc!!!

Tôi chỉ nói thẳng với Thái Kim Lan  một điêu- một điều duy nhất mà thôi: con người không ăn và uống có thể sống được từ 8-21 ngày. Có uống nước sống được 60 ngày. ( theo  tài liệu Archiv Krimonogie trusted source.)

Và không ai tuyệt thực 100 ngày mà vẫn sống nhăn. Xin bà đừng khoa trương bốc láo nữa!!

  • Trích dẫn các tài liệu làm bằng chứng

Theo tài liệu của C.I.A. “Trí Quang là một kẻ mị dân, triệt để chống Thiên Chúa giáo, một người theo chủ nghĩa dân tộc cuồng tín và một người hoang tưởng tự đại (vĩ cuồng) với mục đich cuối cùng là thiết lập một chế độ thần quyền Phật giáo ở Việt Nam.”

1964: CIA Intelligence Information Cable & CIA Memorandum

Có thể tôi chưa từng nghe một lời nhận xét nặng nề như thế của một người nghiên cứu ngoại quốc đối với một nhân vật lãnh đạo tôn giáo hàng đầu của Việt Nam.

Tuy nhiên nhận xét về Trí Quang ở trên không có gì là quá đáng mà có thể rất gần sát với sự thật.

Người ta có thể không nói ra bởi vì không dám nói, sợ đụng chạm đến chiếc áo thày tu hoặc vì không đủ tài liệu dẫn chứng.

Phần tôi, tôi coi ông là người sắc sảo, có sức thu hút và quyết tâm và rất nhiều ngạo mạn và cao vọng. Chính cái cao vọng vĩ cuồng này đẩy ông đi rất xa. Có người gọi ông là có óc lãnh tụ hay óc làm trùm hay còn được gọi là: giấc mơ lãnh tụ.

Đúng cả. Các viên chức Mỹ cũng như đại sứ Cabot Lodge chỉ nhìn thấy ở Trí Quang là một ‘potential troublemaker’. Nhiều người khác gọi ông là một thứ ‘kingmaker’. Hình ông trên bìa báo Time số ra ngày 22-4-1966, ở góc  phụ chú, ‘The Buddhist Bid for power’ và gọi ông là “mysterious High Priest of Disorder” của Việt Nam.

Vậy mà một số đông người, không biết xuất phát từ ai đều cùng nhái theo một luận điệu: “Người làm rung chuyển nước Mỹ”.  Nguyễn Hữu Thái trong một bài tựa đề “Thượng tọa Thích Trí Quang. ‘Người làm rung chuyển nước Mỹ;” (www viet-studies.net) viết bịa đặt, dựng đứng chuyện.

Ca tụng như thế có khác nào chửi xéo thầy chẳng khác gì Trí Quang là một tên khủng bố trong vụ 9-11.

Tôi còn thấy trong phòng của ông ta một bức hình của Mahatma Gandhi.

Mỉa mai thay, Trí Quang không học được một góc của lòng nhân ái của bậc thánh nhân.

Lại còn Nelson Mandela chống lại nạn kỳ thị chủng tộc. Và nếu không có ông thì đất nước của ông không tránh khỏi một cuộc tắm máu giữa da đen và da trắng.

Cả hai, một thánh nhân, một người anh hùng đều không phải thầy tu mà họ có một tấm lòng nhân.

Nhưng tôi nhìn thấy rõ hơn ở ông Trí Quang, sau khi đọc một số tài liệu trong cuốn “Giấc  mơ lãnh tụ và mong mỏi bạn đọc tìm đọc, tài liệu của MarK Moyar, tài liệu của  Robert J. Topmiller và nhất là của tác giả James McAllister, một tài liệu dựa trên trực tiếp những trao đổi của ông Trí Quang với nhân viên ở tòa đại sứ Mỹ được CIA báo cáo về Bộ Ngoại giao Mỹ trong thời gian 1964-1965

Cuối cùng tài liệu không thể bỏ qua là tập sách do Hòa thượng Thích Tâm Châu viết, “Bạch thư về Vấn đề chia rẽ Ấn Quang với Việt Nam Quốc Tự (1994)”. Tổ Đình Từ Quang (2176 Ontario Est. Montréal, Quebec, Canada.

Trong đó TT. Tâm Châu thổ lộ phái Ấn Quang còn có âm mưu ám hại ông.

Thiển nghĩ bạn đọc, bất kể là ai, đều nên đọc các tài liệu kể trên để tránh bớt những tranh cãi vô ích. Rất tiếc là có một số người, ngay cả một số chức sắc Phật giáo chỉ đọc những gì họ muốn đọc.

Đọc những tài liệu ấy nó mới hiểu được con người thật của Trí Quang cũng như những mục đích và tham vọng của ông.

Viết bài này, tôi xử dụng thêm tài liệu của tờ báo Lập Trường, cơ quan tranh đấu của Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc ở Huế và chia xẻ những điều ấy với bạn đọc ngày hôm nay.

Cái cảm nghĩ của tôi khi đọc các tài liệu trên, tôi nhận thấy ông Trí Quang là loại người cực kỳ nguy hiểm. Nguy hiểm cho bất cứ ai không đồng quan điểm với ông – dù là ở bình diện chính trị hay nhất là tôn giáo.

Thiên Chúa giáo đã đành là mục tiêu hàng đầu và trên hết của ông với nhóm đệ tử của ông ở Huế. Tiếp đến là các chính quyền ở miền Nam như Tam Đầu chế, Nguyễn Khánh, Phan Huy Quát, Trần Văn Hương, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, v.v.. và cả những người đồng đạo của ông như Thích Tâm Châu, Thích Thiện Minh.

Nếu cần, ông sẵn sàng dùng bạo lực như biểu tình, tuyệt thực và biện pháp tối hậu là tự thiêu đối với các quyền lực thế tục.

Đã có bao nhiêu người đồng đạo tự thiêu cho những mục chính trị và những mưu đồ của ông? Những đe dọa, khủng bố trắng đối với những người đồng đạo?

Tôi gọi nó là một thứ phát xít tôn giáo.

Nguy hiểm nhất ở chỗ có thể ông đã mất một tấm lòng nhân ái. Nhiều người chỉ nhìn khuôn mặt ông ở bề ngoài đã ái ngại.

Nó lộ sự tàn bạo không dấu diếm được. Vậy mà những đệ tử của Trí như Cao Huy Thuần hay “ người tình không chân dung” Thái Thị Kim Lan lại chỉ nhìn con mắt săc sảo, bén như gươm lại có khả năng thuyết phục và chế ngự người khác?

Tôi xin gửi đến bạn đọc một nhà báo người Ý nổi tiếng người Ý Oriana Fallaci trong một cuộc phỏng vấn Trí Quang viết.

Trí Quang, con người năm 1960 [thật ra là năm 1963. NVL] đã nhẩy như một chú dê con vào sứ quán Mỹ để khỏi bị bắt và bị giết, nay không có vẻ gì là một người sắp tự thiêu cả. Mặt ông ta tròn trĩnh tinh quái, đôi mắt gian xảo, và cái nụ cười ác thú đang che dấu một cái gì không ai biết nổi, nhưng biểu lộ một thái độ tham sống mãnh liệt. Chỉ cần quan sát ông ta trong lúc ông ta kiểm tra xem có ai theo dõi chúng tôi không, lúc ông ta khóa cẩn thận cái gian phòng chỉ có một cái giường, một bàn nhỏ, một bức ảnh Gandhi, một cái ghế, một cái bô, nhưng lại có một cái Radio loại mới nhất, một máy điều hòa nhiệt độ và một hộp sô cô la ông ta vốn ưa thích.”

Lê Minh Đức, “Cuộc sống, cuộc chiến tranh, và rồi” 9-1991, trang 105 dịch từ bản tiếng Pháp của Jacqueline Remillet, tựa đề “La vie, la guerre et puis rien”, NXB Robert Laffont – Paris; nguyên bản tiếng Ý của Oriana Fallaci, tựa đề “Niente e così, sia” (Nothing, and so be it, 1969.)

Cho nên, những ai còn đề cao ông là một nhà sư bất bạo động, trước sau chỉ là nhà chân tu, trước sau chỉ vì Đạo pháp, một người đạo đức cao trọng tiêu biểu của Phật giáo thì thật sự họ không biết xấu hổ.

Phần tôi khen ai mà không đúng tôi thấy ngượng với lương tâm mình.

Nếu thật sự ông là người chân tu, đạo hạnh, theo tôi, sẽ  không có những tranh cãi như ngày hôm nay khi ông đã nhắm mắt lìa đời.

Sự gây ra tranh cãi tự nó là một điều bất thường.

Nhưng đối một vị tỳ kheo đạo hạnh như Dalai Lama, ai có can đảm dám chê trách?  Hình ảnh các nhà sư mà tôi trân trọng quý mến là hình ảnh sư cụ Chùa Long Giáng trong chuyện dài của nhà văn Khái Hưng. Ngay từ hồi còn trẻ, đọc Khái Hưng, tôi đã hình dung ra đạo Phật qua sư cụ chùa Long Giáng và nhiều nhà sư khác ở các vùng quê miền Bắc.

Đẹp biết làm sao.

Hình ảnh Trí Quang và những việc làm của ông trong suốt 20 năm miền Nam đã bôi bẩn hình ảnh cao đẹp của Phật giáo đi nhiều. Điều này xem ra một số đệ tử của thầy đã không nhìn nhận ra sự phá sản tinh thần đạo Phật của ông Trí Quang. Chẳng lẽ người có học, có đầu óc, có đọc sách vở, tài liệu lại không nhìn nhận ra điều đó sao?

Hãy để hình ảnh Phật lúc nào cũng là ông Bụt. Đơn giản chỉ có vậy thôi.

Ý của tôi là như vậy. Các đệ tử của thày có nên cứ tiếp tục tụng thầy nữa chăng? Phải biết xấu hổ với chính mình.

Riêng TT. Thich Tâm Châu đến cuối đời, 1993, cũng thấy cần nhìn lại công cuộc tranh đấu Phật giáo, cực chẳng đã, ông mới tiết lộ mối rứt nạn giữa Ấn Quang và Quốc Tự trong tập tài liệu nhan đề Bạch Thư về vấn đề chia rẽ của Ấn Quang và Việt Nam Quốc Tự. Trong đó gián tiếp cho thấy Trí Quang là người cực kỳ quá khich và nếu cần xử dụng bạo lực không khoan nhượng.

Thượng Tọa Tâm Châu là người hiểu rõ con người của Trí Quang, độc đoán và muốn thâu tóm mọi quyền lực nên mới có sự ra đi của cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền cũng như TT. Thích Tâm Châu, Việt Nam Quốc Tự rời khỏi Giáo Hội Ấn Quang.

Vì thế, sự chống đối ông Trí Quang của một số người Việt hải ngoại hiện nay là phải như thế, nhưng cũng cần xét lại. Vì nhiều phần chưa hiểu được mục đích và động lực nơi ông. Phần đông hiện nay dựa trên lập trường chính trị của người quốc gia cho rằng ông hoặc là người của CIA, nhất là người của cộng sản.

Cả hai quan điểm ấy rất nhiều phần chỉ đúng ở bề mặt, mà có thể nhiều phần không đúng khi đọc tập tài liệu của James McAllister nhan đề, “‘Chỉ có tôn giáo là đáng kể ở Việt Nam’: Thích Trí Quang và chiến tranh Việt Nam, bản dịch Only religious Count in Viet Nam. Thich Trí Quang and the Vietnam war của Trần Giao Thủy.

Điều đó cũng không có gì đáng trách, vì phần đông người Việt thiếu thông tin và và tài liệu. Theo McAllister, ngay cả những người viết sử tầm cỡ như Mark Moyar, trong cuốn “Political monks: The militant Buddhist Movement During the Vietnam War” hoặc cuốn của Robert Topmiller, “The Lotus Unleashedd: The Buddhist Power in South Vietnam, 1964-1066” đều thiếu sót trong việc chống hoặc bênh vực Trí Quang.

Vì thế James McAllister cho rằng thật là bất hạnh khi các sử gia hiện nay biết rất ít về mục tiêu và động cơ trong giai đoạn cam go của cuộc chiến tranh Việt Nam.

Unfortunately, contemporary historians still know very little about Tri Quang goals and motivations during this crucial period of the Vietnam war.”

James McAllister, Only religious Count in Viet Nam. Thich Trí Quang and the Vietnam war.

James McAllister

Nhiệm vụ chính của bài viết này là tìm hiểu xem ông là ai nhà tu đạo hạnh hay một kẻ vĩ cuồng tôn giáo..

  • Giai đoạn trong cuộc đời đấu tranh tôn giáo-chính trị của TT. Trí Quang trên tờ Lập Trường mà tôi có đầy đủ các số báo.

Theo tôi, ngoài vấn đề đọc tài liệu, cũng cần nghiền ngẫm kỹ càng lại bản chúc thư ngắn ngủi của ông. Ông vốn là người cao ngạo, khinh người, có nhiều cao vọng ngất trời, nhiều toan tính, nhiều âm mưu, nhiều thủ đoạn tàn bạo, nhiều hành vi ném đá dấu tay, tại sao lại muốn thầm lặng ra đi? Đó phải chăng là kết quả 44 năm nghiền ngẫm về cuộc đời dấn thân, đầy sóng gió và hào quang, thét ra lửa. Có phải chỉ vì ông muốn xóa trắng những trang sử lem luốc đời ông không? Có phải chỉ vì ông muốn từ bỏ tất cả thế sự để đi bình an về cõi vĩnh hằng? Có phải vì những tham vọng vĩ cuồng muốn làm thái thượng hoàng, một thứ vua không ngai. Cuối cùng, mục đích và những tham vọng của ông đã không đạt được?

Hiểu như thế mới hiểu được tại sao nay ông Trí Quang ngồi im một chỗ.

Câu hỏi là trước 1975 ông đã làm gì? Ông làm chính trị quậy phá. Nào ông có hăm hở gì sách vở chữ nghĩa? Muốn dịch thì trước 1975 cũng dịch được chứ? Muốn tu thì trước 1975 cứ ở trong chùa tụng kinh gõ mõ? Trước 1975, đã có biết bao nhiêu báo chí Phật giáo đã ra đời nhằm chấn hưng Phật giáo. Các tuần san như Hải Triều Âm, Thiện-Mỹ, Đuốc Tuệ, Đại Từ Bi. Rồi các nguyệt san như như Liên Hoa, Giữ thơm quê mẹ, Vạn Hạnh. Phần lớn chủ trương của các tập san này đều nhằm mục đích tôn giáo, văn học Phật giáo hơn là chính trị. Họa chăng tờ Hải Triều Âm mà ông cộng tác viết chung với Nhất Hạnh có viết những bài về chính trị.

Nếu ông có quan tâm và hỗ trợ, theo tôi chính yếu là tờ Lập Trường, cơ quan tranh đấu của Phong trào Nhân Dân cứu Quốc.

Đây là chỗ dựa của ông.

Đọc Lập Trường là đọc Trí Quang. Ông là linh hồn của tờ báo. Ông đứng sau tờ báo như cái bóng phủ.

Báo Lập Trường, 4-7-1964. Nguồn: Lập Trường/NVL

Những bằng chứng về sự cực đoan tôn giáo của Trí Quang dẫn đưa đến mộng làm bá chủ.

Muốn hiểu rõ con người và những cao vọng của ông Trí Quang, có thể chỉ cần đưa ra một vài so sánh có tính cách dẫn đường. Giả dụ, nếu Hòa Thượng Thich Tịnh Khiết hay ông Mai Thọ Truyền hay TT Thích Tâm Châu lãnh đao Phật giáo miền Trung thì có thể có biến cố Phật giáo 1963 hay không? Hoặc giả, nếu thay vì TT. Ngô Đình Diệm, một người công giáo thay bằng ông X, một người Phật giáo, liệu có thể có cái gọi là kỳ thị tôn giáo hay không?

Tại sao việc ông Kỳ, tự nhận là người Phật giáo ra dẹp Phật giáo miền Trung, đưa Trí Quang về Sài Gòn giam lỏng, không một ai coi đó là kỳ thị tôn giáo?

  • Ông Kỳ và Trí Quang.

Khi tướng Kỳ ra ổn định tình trạng vô chính phủ ở Đà Nẵng mà không hỏi ngay cả ý kiến người Mỹ kể đã là một kỳ công.

Sau đó, ông ra Huế, dẹp bàn thờ xuống đường rồi dẫn độ Trí Quang về Sài gòn như một tên tội phạm.. Chẳng một Phật tử, thượng tọa nào dám biểu tình phản đối?

Điều mà ông Diệm, ông Nhu, ông Cẩn không làm được và bị chết thảm thì ông Kỳ thẳng tay làm được.

Ông Kỳ đã viết lại với giọng diễu cợt, đôi chút xỏ lá Bắc Kỳ khi tóm được Trí Quang dân độ về Sài Gòn như sau:

I had to be careful with Trí Quang sice I did not want to create martyr., so I decide on a compromise, and confined him to house arrest in Saigon Hospital. Knowing the sort of tricks he would be up to, I deliberately chose a hospital in which one of the doctors was the friends of Trí Quang’s. Tri Quang stayed  in the hospital “ recuperating for several months, but  almost immediately on entering it annouced that he was going on a hunger strike.

Just what I expected. But, despite all the newspaper stories of his impending death, Tri Quang never seemed to lose weight. Each time the Amercan advisers asked me when he  would die, but Tri Quang is a politican and his doctor friend feeding him secretely. Don’t worry for a politician death is the end. Tri Quang must survive if he wants to carry on  his politician  career.”

( Nguyen Cao Ky, Twenty years and twenty days. Stein and day/ puplisher/ Newwork, 1976, trang 98)

Quả thật, sau 100 ngày tuyệt thực, ông  dược thả ra về khỏe mạnh.

Hòa thượng Thích Tịnh Khiết đã khuyên Trí Quang về chùa ở ẩn. Cuộc đời làm chính trị ồn ào chấm dưt từ đây..

Giải mã con người Trí Quang là giải mã những ẩn số che đậy đằng sau các cuộc tranh đấu của ông. Những điều ông nói và những điều ông làm cần được cân bằng một nhận xét khách quan và thông minh. Trước 1963, cùng lắm ông chỉ là một cao tăng trong giới Phật giáo miền Trung. Có thể ông sống ẩn mình, ẫn nhẫn vì thời cơ chưa đến. Và để giải mã những ý đồ của ông, có thể chia ra hai giai đoạn mục tiêu tranh đấu của ông.

  • Mục tiêu thứ nhất: lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm.

Việc lật đổ này bề ngoài mới đầu chỉ là một sự rắc rối nhỏ tưởng không có gì quan trọng, nó đã mau chóng kết tụ thành một khối bất mãn chống lại chính quyền. Việc đòi hỏi cho phát thanh lại vào lúc 8 giờ tối bài thuyết Pháp của TT Trí Quang nhân dịp lễ Phật Đản mà nội dung là chống chính phủ. Liệu ông giám đốc Đài phát thanh, ông Ngô Ganh có thể nào cho phép phát thanh một bài chống chính phủ hay không? Một cái xẩy nẩy cái ung. Ngô Ganh không dám quyết định, tỉnh trưởng cũng không. Nó mau chóng mang kich thước mội cuộc nổi dậy về chính trị lật đổ một chính quyền do một tổng thống người Thiên Chúa giáo lãnh đạo trong một đất nước tín hữu Phật giáo dông hơn. Sau vụ nổ ở Đài phát thanh, chính quyền địa phương cũng như trung ương lúng túng trong việc giải quyết. Tất cả đều bị động vì tính bất ngờ của nó và không ai dám đứng ra trách nhiệm. Ý đồ của ông Trí Quang là đã kích động đúng lúc tâm lý quần chúng đám đông Phật tử, tạo nên một làn sóng chống đối; bắt mạch được tâm lý đám đông ở đây là tuyệt vời. Vụ tấn công chùa lại thêm một vụng về làm mất chính nghĩa của chính quyền. Ông Diệm rơi vào thế cô đơn, chính quyền bị cô lập và bị động.

Thế nhưng đã không ai nhắc nhở gì đến lực lượng tranh đấu, Hội Đồng Nhân Dân cứu quốc của Trí Quang đã tấn công và thiêu rụi hai giáo xứ Thanh Bồ và Đức Lợi ở Đà Nẵng làm cho 11 người chết, 42 người bị thương và hàng ngàn người mất nhà mất cửa. Mời bạn đọc (Hàn Giang Trần Lệ Tuyền. Nhớ lại cuộc thảm sát Thanh Bồ Đức Lợi, Đà Nẵng 24-8-1966.)

Những nhóm người cực đoan tôn giáo được gọi là “ lực lượng thanh niên Phật tử cứu quốc” như các vị Thích Minh Chiếu, Thích Hạnh Đạo, Thích minh Tuấn, Thích Long Trí, Thích Như Huệ, Thích Thiện Duyên và đám Phan Xuân Huy, La Thành Tỵ, Hà Xuân Kỳ, Phan Chánh Dinh, Vĩnh Kha, Vĩnh Linh, Hồ Công Lộ, Nguyễn Văn Lương, Lê Văn Tương, Nguyễn Văn Côn, Nguyễn Văn Tổng đã tham gia vào đám người hạ sát những đồng bào vô tội tại Đà Nẵng. Những nạn nhân  vô tội, chết oan uổng mà không được công lý che chở. Những kẻ giết người một cách tàn bạo nay họ ra sao? Ở đâu ?

Giới Thiên Chúa giáo sau nhiều năm trời bị bách hại trong thầm lặng. Đây là lần đầu tiên rơi vào ghế bị cáo.

Họ giữ sự bình tĩnh không tuyên bố để tránh tình trạng đổ thêm dầu vào lửa. Sau 1-11-1963, kẻ thắng người thua đã rõ ràng khi TT. Trí Quang rời khỏi tòa đại sứ Mỹ ngày 4-11. Lật ông Diệm là kế gián tiếp loại trừ ảnh hưởng công giáo trong chính quyền, đồng thời lấy lại địa vị của Phật giáo đã mất. Nó nhắc nhở lại thời kỳ Văn Thân đời Tự Đức mà TT.Trí Quang có thể là nhân chứng tại làng quê Diêm Điền của ông tại thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình?

Nếu tin vào bài viết của tác giả Lê Trọng Quát khi tiếp xúc với TT Trí Quang khi chia tay, ông Trí Quang nới: “Bác ơi, chế độ này cho nó sập cho rồi.” (Lê Trọng Quát, “Một lời chứng trước khi lật qua một  trang sử thảm của dân tộc”.)

Người Mỹ và một số tướng lãnh miền Nam đã ủng hộ việc lật đổ TT. Diệm và sự việc ấy được coi như chính đáng. Tòa đại sứ Mỹ đã cho Trí Quang vào tỵ nạn chính trị mà sau này ông Trí Quang đã bày tỏ lòng tri ân của ông đối với người Mỹ.

Vấn đề không còn là đòi hỏi bình đẳng tôn giáo hay mục tiêu 5 điểm nữa. Nếu chỉ có thế thi mọi chuyện phải dừng lại ở đây vì hai ông Diệm-Nhu đã chết. Các sư sãi trở về Chùa tiếp tục việc tụng kinh gõ mõ.

Theo tài liệu của CIA gởi về Bộ Ngoại giáo Mỹ ngày 1 tháng Tư, 1964, James McAllister viết:

Ông ta là một người bị chính trị hóa cao độ, một người nhìn hầu hết mọi sự kiện ở Việt Nam qua lăng kính của một xung đột căn bản là tôn giáo giữa Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Trí Quang nói, “Ngay cả người Thiên Chúa giáo tốt đối với người dân cũng đã phạm lỗi hai lần.”

Xin giải thích ý nghĩa câu nhận xét của Trí Quang là ngay cả những người công giáo cho dù họ là người tốt đi nữa thì họ cũng phạm hai tội. Tội thứ  nhất đã là người công giáo thì theo Tây thực dân và bán nước. Tội thứ hai là đã là công giáo thì họ là thứ Cần Lao Thiên Chúa giáo.

Ghi nhận này của CIA do tác giả James McAllister tiết lộ cho thấy ông Trí Quang đã đụng chạm đến căn tính của người Thiên Chúa giáo. Đạo Thiên Chúa đã được truyền sang từ thế kỷ 16 và hơn hai thế kỷ sau, người Pháp mới có mặt ở Việt Nam.

Về Cần Lao thì nhóm Cần Lao gộc là các tướng như Đỗ Mậu, Lê Văn Nghiêm, Tôn Thất Đính, v.v.

Tác giả Lữ Giang, năm 1964 đã gọi đây là một cuộc thánh chiến. Cuộc thánh chiến thứ nhất là lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm. Cuộc Thánh chiến thứ hai là diệt các tàn dư Cần Lao công giáo. Ông viết,

Các dư đảng Cần Lao phải rời khỏi các chức vụ và các vị trí then chốt trong chính quyền. Dư đảng Cần Lao ở đây được hiểu là những người theo Thiên Chúa giáo và khi nói “diệt dư đảng Cần Lao” thì phải hiểu là diệt Thiên Chúa giáo và các phần tử không đồng chủ trương của nhóm Phật giáo cực đoan miền Trung.”

Ông còn nhận xét thêm về Trí Quang với một số những đặc tính như: độc đoán, muốn nắm mọi quyền hành trong tay vào Giáo Hội Phật giáo Ấn Quang.

Cực đoan, muốn gắn liền Phật giáo và dân tộc.

Vận mệnh đất nước đi liền với vận mệnh Phật giáo. Ông muốn tự coi mình là Quốc sư ở trên mọi tôn giáo trong đó Phật gíao chiếm lãnh hàng đầu (tóm tắt trang 129). Diệm đổ chưa phải là xong. Ông tiến hành bước thứ hai là diệt trừ dư dẩng Cần Lao Thiên chúa giáo.

  • Mục tiêu thứ hai: Diệt trừ hiểm họa Cần Lao Thiên Chúa giáo.

Mục tiêu thứ hai của TT Trí Quang còn quan trọng hơn mục tiêu thứ nhất. Mục tiêu thứ nhất tương đối rõ ràng là đòi lại quyền bình đẳng tôn giáo. Vì thế ít ra nó cũng được khối Phật giáo Việt Nam Quốc Tự ủng hộ và tham gia. Mục tiêu thứ hai bộc lộ một cách rõ ràng, minh bạch và dứt khoát, triệt để. Mục đích của Trí Quang là tiêu diệt Cần Lao Thiên Chúa giáo và tham vọng biến Phật Giáo thành một thứ “Quốc giáo” và ông trở thanh Quốc sư của tôn giáo ấy.

Không lẽ gần một triệu người di cư đa phần là Thiên Chúa giáo trở thành kẻ thù của Trí Quang?

Đó là một thái độ ngông cuồng của một kẻ tu hành cuồng tín. Tham vọng còn là đặt dư đảng Cần Lao ra ngoài vòng Pháp luật!

Trong việc diệt trừ Thiên Chúa giáo, theo tác giả James McAllister, chính quyền Mỹ Jonhson cho rằng sau vụ lật đổ ông Diệm cần một tình thế ổn định và chính phủ miền Nam Việt Nam không cần đến một sự cải tiến hoặc thanh lọc các nhân viên chính phủ cũ. Nhưng Trí Quang không bao giờ chấp nhận cái ý tưởng sự đàn áp tôn giáo do chính quyền Ngô Đình Diệm đối với Phật giáo đã được giải quyết xong sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm đã sụp đổ.

Nói như thế, thâm ý của Trí Quang muốn đánh giá xem chính quyền mới đã hành xử như thế nào? Và ông ta nhận thấy rằng nhiều người tham dự trong cuộc lật đổ ông Diệm thì chính bản thân họ chỉ là một thứ Diệm-không Diệm, và ông cho rằng họ chỉ sợ Diệm-Nhu tính chuyện xa lìa Mỹ hơn là bản thân họ tin tưởng rằng chế độ Diệm căn bản là xấu.

Theo phúc trình của CIA, 11 tháng 11 và 7 tháng 12, 1963, gởi về bộ Ngoại giao Mỹ, James McAllister viết,

Vì niềm tin hay vì chiến thuật cần có, chính quyền Johnson đã bác bỏ ý kiến cho rằng xung đột tôn giáo chính phủ Việt Nam (chính phủ VNCH) cần bất kỳ cuộc đổi mới hoặc thanh trừng toàn bộ nhân sự nào. Tuy nhiên, Trí Quang không bao giờ chấp nhận ý kiến cho rằng xung đột tôn giáo và việc Thiên Chúa giáo đàn áp Phật giáo là vấn đề đã được giải quyết hoàn toàn bằng cách loại bỏ Diệm và Nhu khỏi ghế quyền lực. Dù nói rằng ông sẽ đánh giá chính phủ mới trên cơ sở thành quả, Trí Quang lo rằng nhiều người trong nhóm đảo chính là người của Diệm, và ông cho rằng họ đã hành dộng “vì sợ rằng Diệm và Nhu đang  xa lánh Hoa Kỳ chứ không phải họ tin là chế độ cũ về căn bản là sai.”(13).

 Đến tháng mười hai 1963, Trí Quang đã cho một số viên chức Hoa Kỳ biết rằng ông sẽ hoan nghênh một cuộc đảo chính khác nếu có thể lật đổ Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ, một nhân vật quan trọng trong chế dộ Diệm.(14)”

Thích Trí Quang đã tự cho mình sau khi lật đổ ông Diệm cái quyền giám sát các chính quyền sau Diệm và nghĩ rằng đó chỉ là chính quyền Diệm không có Diệm nên ông ta quyết định phải hành dộng. Chỉ vài tháng sau, ông Trí Quang phát động tiến hành việc tiêu điệt dư đảng “Cần Lao Thiên Chúa giáo”.  Bởi vì ông cho rằng, việc trước tiên phải làm là phải tẩy sạch cần lao Thiên Chúa giáo trước khi tiến hành tranh đấu chống cộng sản và bè lũ của chúng.

Thoạt đầu, nhóm của TT Trí Quang cho thành lập Hội Đồng Nhân dân cứu Quốc. Hội đồng này nhằm điều hành toàn thể khối Phật tử miền Trung, đồng thời gián tiếp như một thứ tòa án xét xử các nhóm Cần Lao Thiên Chúa giáo. Hội đồng cũng lãnh đạo các cuộc biểu tình, các cuộc xuống đường gây biến động ở miền Trung.

Hội đồng cũng cho ra tờ Lập Trường, cơ quan ngôn luận chính thức của Phong trào Nhân dân Cứu Quốc do Tôn Thất Hanh,chủ nhiệm, Lê Tuyên, chủ bút, Cao Huy Thuần, Tổng thư ký. Quản lý: Nguyễn Thị Trang. Tòa soạn đặt tại 17-B Lý Thường Kiệt- Huế. Hộp thư: 54, Điện thoại: 028.

Trong phần này, người viết chỉ xin nhấn mạnh vào mục tiêu thứ hai mà phần tài liệu về chủ trương của phong trào tranh đấu của Trí Quang đều dựa trên tờ báo Lập-Trường. Tờ báo này chỉ xuất hiện trong một thời gian ngắn, năm 1964 và tự đình bản sau khi giết được Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẩn, thanh toản xong vụ Đặng Sĩ và dư đảng Cần Lao. Nói là dư đảng Cần Lao, nhưng sự thực chỉ là diệt người công giáo.

Để minh chứng về đường lối đấu tranh, diệt Cần Lao Thiên Chúa giáo của Hội đồng Nhân Dân Cứu Quốc, xin được dẫn chứng một trường hợp cụ thể liên quan đến người viết bài này. Để nói lên sự thật một cách rốt ráo, không che đậy.

Số là hồi đó, tôi đang dạy trường Trung học Võ Tánh Nha trang thì có hai đồng nghiệp là: Hàn Thuyên, giáo sư Vạn Vật và Tôn Thất Tuệ, giáo sư sử địa, chở nhau đến nhà tôi. Họ nhân danh đại diện nhóm Hội đồng nhân dân cứu quốc mời tôi tham gia. Tôi từ chối thẳng nói mình không tham dự vào các hoạt động chính trị. Trước khi ra về, họ bực bội dọa nạt: Sau này xảy ra chuyện gì thì đừng trách tụi tôi. Ông Tôn Thất Tuệ, theo tôi biết còn sống, nếu cần mời ông lên tiếng vì ông vốn thuộc loại người sắt máu, điên cuồng.

Trong một bài viết nhan đề Hai khuôn mặt (ám chỉ Dương Văn Minh và Nguyễn Khánh. NVL), tác giả là C. Minh Thành cũng thúc bách Nguyễn Khánh phải hành động. Minh Thành viết:

  1. Minh Thành, Hai Khuôn Mặt, Lập Trường, 4-7-1964

Dân chúng long trọng đặt câu hỏi với Thủ tướng Nguyễn Khánh: Bao giờ thì thủ tướng nhất quyết đứng vào thế của của nhân dân? Có nhân dân, Thủ tướng có thể làm được mọi việc. Không có nhân dân, dù Thủ tướng có được sự ủng hộ vô thời hạn và vô điều kiện từ bên ngoài đi nữa (ám chỉ Mỹ. NVL), Thủ tướng cũng sẽ chẳng làm được việc gì. Muốn có nhân dân rất dễ: Chính phủ chỉ việc thi hành một chính sách cách mạng.”

Báo Lập Trường, Thứ bảy 4-7-1964

Chụp mũ. (Quan điểm của tờ Lập Trường)

Lập  Lập  Trường, 30-5-1964

Như thế còn chưa đủ. Đội được mũ cách mạng vào đầu, chúng lấy mũ Trung lập, mũ Cộng sản đi chụp đầu kẻ khác. Chúng phải sát hại dân lành. Cho nên chúng đã không ngần ngại vu cáo nhân dân, trước chúng đã chụp cái mũ cộng sản lên đầu các Tăng ni, Ni, Sư Sãi và tín dồ Phật giáo. Và lúc đó thì chúng đội mũ Cần lao. Bây giờ đây khi toàn dân đã làm cách mạng, chúng cướp công cách mạng của dân, rồi đem mũ Cộng sản, Trung lập chụp lên đầu những người đã làm Cách mạng. Chúng làm như thể chỉ có chúng mới thực tâm chống Cộng.Và đã có nhiều người đã lầm nghe chúng(…) Và chỉ có Cần lao mới có bè đảng dư phái tổ chức thao túng hết mọi cơ sở xã hội. Việt Nam từ 9 năm nay. Và cái thiểu số bất lương ấy đã hại không gớm tay hàng ngàn, hàng vạn dân lành vô tội. (Ngô Đình Diệm và gia đình ông ta đã thi hành chính sách chụp mụ ghê tởm đó. Kết quả là cả một món nợ máu phải trả trước quốc dân.) Cho nên phải ra tay diệt trừ chúng. Thử hỏi chính quyền của tướng Khánh có can đảm để làm chuyện đó hay không? Uy tín của tướng Khánh còn hay mất là ở chỗ diệt được sạch hay không những tên chụp mũ. Nếu không dân chúng sẽ diệt chúng cho chính quyền xem.

Báo Lập Trường Thứ bảy, 30-5-1964.

Ông Phan Quang Đông (1929-9/5/1964) – một nạn nhân đầu tiên của Trí Quang. Hình ảnh và thơ gởi vợ trước giờ bị xử tử.

Trong đoạn văn này, không hài tên rõ rệt đích danh người nào cả. Ai diệt? Chúng là ai?  Dùng chữ Nhân đân hay Chính quyền Nhân dân là ai? Và người duy nhất bị đe dọa ở đây là tướng Khánh. Tướng Khánh khi lên nắm chính quyền, dưới áp lực của Trí Quang. Khánh sợ hãi và đã làm theo tất cả lệnh của Trí Quang như giết Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẫn và bỏ tù chung thân Đặng Sĩ. Và để thỏa mãn những đòi hỏi của Trí Quang. Khánh đã chỉ thị cho Nguyễn Văn Mầu, bộ trưởng tư pháp phải ra một đạo luật để có thể tử hình Ngô Đình Cẩn. Vì bộ Hoàng Việt hình luật thì không thể tuyên án tử hình về các tội phạm như bắt người trái phép. Bức tử tống tiền. Dự luật 4/64, ngày 18-2-1964 (Phan Quang Đông bị tử hình ngày 26-3-1964) có hiệu lực hồi tố. Một nguyên tắc căn bản của luật hình Việt Nam Cộng hòa chỉ được áp dụng với các hành vi xảy ra từ ngày ban hành luật chớ không áp dụng áp dụng xảy ra trước ngày đó.

Diệt Thiên Chúa giáo là ý đồ và mục tiêu của Trí Quang. Nếu là truy diệt dư đảng Cần Lao nói chung thì người đầu tiên phải thanh toán là tướng Lê Văn Nghiêm, vì ông là thứ Cần Lao “gộc” cũng như Đỗ Mậu. Rồi tiếp theo là ông Tỉnh trưởng kiêm Thị Trưởng thành phố Huế Nguyễn Văn Đẳng, bác sĩ Lê Khắc Quyến, ông đại biểu chính phủ Hồ Đắc Khương, các trưởng ty cảnh sát và rất nhiều người khác.

Điển hình là trong vụ xử án Đặng Sỹ chỉ có mình Đặng Sỹ lãnh án tù 20 năm chung thân khổ sai, còn tất cả những người khác thuộc Phật giáo đều vô can.

Sau cuộc đảo chính năm 1963, người đầu tiên bị Tòa án Cách Mạng xử về các tội cố sát, bắt giam người trái phép, sách thủ tiền bạc kết án tử hình là Phan Quang Đông ngày 26-3-1964. Phan Quang Đông là nhân viên Sở mật vụ từ năm 1957.[1]

  • Về vụ giết ông Ngô Đình Cẩn

Cái chết của Ngô Đình Cẩn là công trạng của Nguyễn Khánh dâng lên cho Trí Quang – như cái chết của Phan Quang Đông cũng như bản án tù khổ sai chung thân dành cho Thiếu tá Đăng Sỹ. Khánh là người bắt cá hai tay giữa khối Thiên Chúa giáo và Phật giáo. Khi nắm quyền, Khánh đang ở giữa vòng ngờ vực là kẻ mong manh muốn phục hồi chế độ cũ. Thành tích quá khứ đem quân về dẹp phe đảo chánh 11/11/1960 là lý do chính cho mối ngờ vực này cho nên vận mệnh chính quyền Nguyễn Khánh nương tựa phần lớn vào cái chết của Ngô Đình Cẩn. Và mỗi viên đạn ghim vào thân xác Ngô Đình Cẩn đều là một bảo đảm tương lai cho Khánh. Ngô Đình Cẩn nói đúng ra chỉ là một vật tế thần trong tình thế bấp bênh của một chính quyền không được quần chúng hai bên chấp nhận. Trong cuốn Viet Nam, A History trang 345, Stanley Karnow đã đưa ra nhận xét về Nguyễn Khánh,

“Thậm chí trong một xã hội không quá câu nệ về lương tâm, đạo đức. Ông cũng không được ai tin tưởng. Ông đã xây đắp sự nghiệp mình bằng cách xoay đổi sự liên kết của ông cho phe phái nào hứa hẹn sẽ thỏa mãn tham vọng vô bờ bến của ông.”

Stanley Karnow, Vietnam, A History.

Nhiều người nghĩ Khánh chỉ là một kép hề cải lương diễu dở! Tội nghiệp cho y mà cũng tội nghiệp cho đám tướng lãnh bất tài. Bởi sau khi ông Diệm thành người thiên cổ thì các nhược điểm của ông không hề được sửa đổi đồng thời những ưu điểm của ông không hề được tiếp nối mà do mặc cảm tự ty, chúng còn được thay thế bằng những nhược điểm nặng nề gấp hai lần.

Tôi còn nhìn thấy cái sự hèn mạt của các sĩ quan chỉ huy ở Đà Nẵng để cho Trí Quang đi duyệt đoàn quân như một vị thống lãnh trong khi vị chỉ huy khúm núm theo sau.

Việc đầu tiên là có vụ bắt giữ Thiếu tá Nhung, chỉ một thời gian ngắn sau vụ Chỉnh Lý, rồi sau đó loan tin Nhung thắt cổ tự tử. Việc này vừa dằn mặt tướng Minh, vừà làm thỏa mãn vừa mua chuộc được cảm tình của giới công giáo. Và để mua chuộc phe Ấn Quang, chính quyền Nguyễn Khánh tuyên bố đem Ngô Đình Cẩn ra xét xử.

Bạn đọc có thể xem lại vụ án xử Ngô Đình Cẩn qua lời tường thuật của luật sự Võ Văn Quan, người trách nhiệm đứng ra  làm luật sư cãi cho Ngôn Đình Cẩn. Đó là cuốn Hồi ký, Luật sư. Nghề hay Nghiệp? Vài cảm nghĩ và kỷ niêm về một thời hành nghề. Vụ án Ngô Đình Cẩn hay là: Từ cố vấn chỉ đạo thành tử tội. Độc quyền của tờ báo Ngày Nay, năm 1982. Hay đọc Nguyễn Văn Lục, “Ngô Đình Cẩn, Ông là ai?” DCVOnline.net

Sau đây là quan điểm của Trí Quang về quyết định giết Cẩn theo báo cáo của CIA gởi về Bộ Ngoại giao Mỹ ngày  25 tháng, 1964 được James McAllister ghi lại,

Không còn gì để nghi ngờ, bị ảnh hưởng vì việc cả Cẩn và Thiếu tá Đặng Sỹ đã gây tội ác tại căn cứ của ông ta tại miền Trung và thành phố Huế, Trí Quang đã bác bỏ sự khoan hồng trong vụ án. Cảnh cáo rằng tiếng tăm của ông ta sẽ bị thiệt hại nếu người ta biết ông phản đối việc xử tử Cẩn, Trí Quang tin rằng việc Cẩn bị xử tử là điều cần thiết để chứng minh rằng “đám tàn dư cũ của Diệm” không còn quyền hành gì nữa. Trong một cuộc họp với Lodge vào tháng tư năm 1964, Trí Quang đã cảnh cáo Đại sứ Mỹ rằng cuộc chiến chống lại Chủ Nghĩa Cộng Sản và sự hỗ trợ của Phật giáo cho Hoa Kỳ sẽ bị tổn thương nếu Cẩn không bị hành quyết.(21)”

Ông Trí Quang đã có quan điểm tối cực đoan đến điên cuồng, đi đến chỗ vừa đe dọa, vừa mặc cả với Mỹ nếu Nguyễn Khánh không quan tâm đến việc làm cách mạng theo như ý của Trí Quang. Tài liệu của CIA gởi về cho Bộ Ngoại giao Mỹ ngay 23 tháng 8, 1964 và và một loạt các cuộc đối thoại  trong báo cáo gởi ngày 26 tháng 8, được McAllister ghi lại như sau,

Ngay sau khi ông Khánh tuyên bố hiến pháp mới, cái gọi là Hiến chương Vũng Tàu, Trí Quang kết luận rằng Khánh không quan tâm đến việc làm cách mạng. Nếu Khánh không tự sẵn sàng làm những gì cần làm, Trí Quang đã thông báo cho tòa Đại sứ Mỹ hay, là Phật giáo đồ sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc bắt tay vào một chiến dịch ‘bất hợp tác’ để buộc Khánh phải đi đến lựa chọn sau cùng giữa Phật tử và những tướng lãnh mà Trí Quang tin là đảng viên của Cần Lao hoặc Đại Việt. Vì rõ ràng có vẻ không có sự khác biệt giữa việc bị cộng sản hay người của Cần Lao đàn áp, Trí Quang cảnh cáo rằng Phật giáo đồ sẽ rút khỏi cuộc đấu tranh chống cộng và để người Mỹ và người Thiên Chúa giáo chiến đấu một mình nếu Khánh thất bại trong việc thanh trừng chính phủ của ông ta[29].”

Kết luận: Sau này, Trí Quang đã sống thân phận người tù không bản án trong suốt 44 năm ròng!! Giữ thinh lặng và không một lần lên tiếng. Nghĩ mà tội cho bản thân ông. Nay thì ông đã thật sự được “giải phóng”. Ông sống đến năm 2019 mà như thể đã chết từ năm 1975.

Cuối cùng, rốt ráo chỉ cộng sản tàn bạo mới bịt được miệng ông.!!!

——————————

[1]: Những nguồn khác cho biết Phan Quang Đông là sinh viên sĩ quan Thủ Đức (4-9, 1954) đào ngũ, nhân viên sở Nghiên cứu Chính trị từ tháng 2, 1955. Chỉ huy trưởng Trung tâm Kiểm Thính Huế từ tháng 5, 1961 (thực ra là cơ quan tình báo của chính phủ VNCH hoạt động ở bắc vĩ tuyến 17.) Nguồn: Bản sao “Khẩu cung phan quang đông” (cán bộ Việt-Cộng lộn sòng trong hàng ngũ Quốc Gia), Trần Văn Cư, Chủ sự phòng Cảnh Sát, Nha Cảnh Sát Quốc Gia Miền Bắc Trung Nguyên Trung Phần. Huế, Ngày 8 tháng 5 năm 1964


 

Lưới trời lồng lộng – Đi du thuyền mừng thắng đại án gian lận đã kết thúc bằng một vụ đắm tàu ​​làm chết cả bị cáo lẫn luật sư phá án

Theo Nhật Báo Phố Wall và các báo Hoa Kỳ

PORTICELLO, Ý—Mặt trời lặn trên biển Địa Trung Hải êm đềm khi thuyền Bayesian tiến đến thị trấn đánh cá nhỏ này ở bờ biển phía bắc Sicily.

Trên boong gỗ tếch của siêu du thuyền dài 180 foot, ông trùm công nghệ người Anh Mike Lynch đang tận hưởng cuộc sống mới cùng gia đình, bạn bè và luật sư sau khi được tuyên trắng án trong một phiên tòa ở California.

Trước khi cơn bão ập đến vào đêm muộn hôm đó, tàu Bayesian, bên trái, và thuyền buồm Hà Lan Sir Robert Baden Powell đã neo đậu ngoài khơi thị trấn Porticello của Sicilia. Ảnh: Fabio La Bianca/Associated Press

Doanh nhân phần mềm 59 tuổi, từng được ca ngợi là Bill Gates của Anh , đang ăn mừng cùng vợ và con gái, cùng với những tên tuổi lớn trong ngành luật và ngân hàng ở New York và London, và những người khác đã giúp ông trong những năm tháng đấu tranh chống lại những gì Bộ Tư pháp Hoa Kỳ cáo buộc là một vụ gian lận kế toán lớn. Bạn bè đã tham gia và rời đi khi Lynch đi khắp Địa Trung Hải, bao gồm các điểm dừng chân tại Positano và Palermo.

5 bodies found on wreck of UK tech mogul Mike Lynch's Bayesian superyacht | South China Morning Post

Du thuyền buồm tên Bayesian của tỷ phú Mike Lynch, Tàu Bayesian từng có cột buồm cao nhất thế giới chỉ sau thuyền của Jess Bezos, ông chủ của hãng Amazon.

@nh của báo SCMP.

Giữa cuộc ăn mừng trên du thuyền, một cú sốc đã xảy ra vào Chủ Nhật 18/8.

Đồng bị cáo của Lynch, Stephen Chamberlain , người cũng đã được tuyên trắng án trong cùng vụ kiện, vừa bị một chiếc ô tô đâm tử vong khi đang chạy bộ ở nhà tại Anh.

Từ du thuyền Bayesian, ông luật sư Chris Morvillo, một cựu công tố viên Hoa Kỳ đã giúp chỉ đạo toán luật sư từng bào chữa cho Lynch trong vụ án gian lận vốn kéo dài hơn một thập kỷ, đã gửi email cho Heberlig và các đồng nghiệp pháp lý khác để chia sẻ tin tức bi thảm về cái chết tai nạn của ông Stephen.

Stephen Chamberlain, đồng bị cáo của Lynch, người cũng được tuyên trắng án, đã bị một chiếc ô tô đâm tử vong vài ngày trước khi chiếc thuyền bị chìm. Ảnh: stephen chamberlain/Reuters

Vòng tròn sự chết của Mike Lynch trên du thuyền

Trong số 22 người trên tàu Bayesian có những người bạn đã sát cánh cùng Lynch trong suốt cuộc chiến pháp lý của ông

Neda và Chris Morvillo, luật sư bào chữa của Lynch, đã có mặt trên thuyền để ăn mừng việc Lynch được trắng án và đã chết cùng với Mike Lynch.

Ảnh: Patrick McMullan/Getty Images

Năm 2018, chính phủ Hoa Kỳ đã buộc tội Lynch, cáo buộc ông và các cấp dưới của mình đã sử dụng các tài liệu giả mạo và gây hiểu lầm để khiến công ty Autonomy trở nên hấp dẫn hơn đối với người mua tiềm năng (Công ty HP).

Việc HP mua lại Autonomy đã mang lại cho Lynch khoản tiền khoảng 800 triệu đô la. Lynch vẫn tiếp tục làm việc, trong khi đầu tư một phần tài sản của mình vào việc nuôi các giống bò và lợn quý hiếm tại trang trại của ông ở Anh.

Vào năm 2014, một công ty do vợ ông, Angela, sở hữu, đã mua lại chiếc du thuyền định mệnh được đóng trước đó sáu năm bởi hãng đóng thuyền sang trọng Perini Navi ở Tuscany và đổi tên thành Bayesian theo tên nhà thống kê này.

Và có một cảnh báo về bão. Đội tàu đánh cá khoảng 30 chiếc của Porticello đều ở bên trong tường cảng vì ngư dân quyết định không ra ngoài làm việc vào đêm đó. Cơn bão ập đến vào lúc gần 4 giờ sáng, “Biển như địa ngục trong 15 phút. Sau đó lại trở nên yên tĩnh”, ngư dân địa phương Giuseppe Balistreri cho biết.

Khi cơn mưa rào tạnh dần, thuyền  buồm Bayesian đã biến mất.

Các thợ lặn cứu hộ mất năm ngày và 123 lần lặn để tìm kiếm thi thể trên du thuyền khi nó nằm nghiêng trên đáy biển Sicilia.

Everything we know so far about the search for Mike Lynch and the Bayesian superyacht sinking in Sicily | The Independent

Trong bóng tối sâu 160 feet dưới mặt nước, các thợ lặn phát hiện ra những hành lang chật hẹp của nó bị chặn bởi đồ đạc, dây cáp điện và các mảnh vỡ khác.

Timeline of the Bayesian luxury yacht disaster in Sicily | Perspective Media International

Hannah Lynch 18 tuổi đã tử nạn cùng với cha cô Ảnh: Gia đình Lynch

Vào thứ năm, thi thể của Lynch đã được đưa đến bến cảng trong một túi đựng xác màu xanh. Thi thể của năm hành khách khác cũng đã được tìm thấy từ du thuyền: Morvillo và vợ ông, Neda, một nhà thiết kế trang sức; Chủ tịch Morgan Stanley International Jonathan Bloomer và vợ ông, Judy; và con gái 18 tuổi của Lynch, Hannah, người cuối cùng được đưa vào bờ vào thứ sáu.

Đầu bếp của tàu, Recaldo Thomas, được phát hiện đã chết dưới biển ngay sau khi tàu chìm.

Vợ của Lynch, Angela Bacares, nằm trong số những người sống sót, cùng với năm vị khách khác và chín trong số 10 thành viên thủy thủ đoàn.

Kích thước của Tàu so với xe buýt đỏ
Kích thước của Tàu so với xe buýt đỏ
Thi thể vớt lên từ đáy cảng
Thi thể vớt lên từ đáy cảng
Thêm một thi thể vớt lên từ biển
Thêm một thi thể vớt lên từ biển
Mike Lynch và vợ chồng Luật Sư Morvillo
Mike Lynch và vợ chồng Luật Sư Morvillo
Thuyền buồm ở đáy cảng
Thuyền buồm ở đáy cảng
Các nạn nhân vụ đắm tàu
Các nạn nhân vụ đắm tàu
Bị cáo Mike Lynch
Bị cáo Mike Lynch
Đưa thi hài lên bở.
Đưa thi hài lên bở.

Túi Khôn chia sẻ mỗi kỳ

Mời Bạn xem tiếp “Túi Khôn Chia Sẻ – Kỳ 2”, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7

Kẻ Đi Tìm chia sẻ các túi khôn của nhân loại theo nhiều kỳ đăng. Mời Bạn cùng thưởng thức Cổ Học Kỳ Thư trong tuần này. Xin Cám ơn Cổ học kỳ thư, Facebook.

https://keditim.net/wp-content/uploads/2024/08/1724546344036.mp4https://keditim.net/wp-content/uploads/2024/08/1724546449067.mp4

Mời Bạn xem tiếp “Túi Khôn Chia Sẻ – Kỳ 2”, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5, Kỳ 6, Kỳ 7

 

Tù nhân lương tâm, bắt người này, người khác đứng lên!-Song Chi/SGN

Ba’o Nguoi-Viet

August 24, 2024

Song Chi/SGN

Ngày 30 Tháng Bảy vừa qua, anh Phạm Văn Trội ra tù, kết thúc 7 năm tù giam không thiếu một ngày (anh bị bắt vào ngày 30 Tháng Bảy 2017). Anh bảo: “Tôi không xin mà họ cũng không cho, dù chỉ một giờ.”

Thật ra đây là bản án tù thứ hai của anh, trước đó anh từng bị bắt vào ngày 11 Tháng Chín 2008, bị kết án 4 năm tù giam, 4 năm quản chế.

Án thứ nhất là tội “tuyên truyền chống lại nhà nước CHXHCN Việt Nam.” Án thứ hai là tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.” Những cáo buộc phi lý, phi nhân cùng với những bản án hết sức nặng nề, hà khắc, mà những người bất đồng chính kiến, nhà hoạt động xã hội dân sự ôn hòa ở Việt Nam lẩn lượt đều phải gánh chịu.

Anh Trội kể, trước khi bị bắt lần thứ nhất, anh làm cùng văn phòng với luật sư Nguyễn Văn Đài (từng là tù nhân lương tâm). Hết 4 năm tù giam anh về chịu thời gian quản thúc tại địa phương ở Chương Dương, Thường Tín, Hà Nội. Trong quá trình bị quản chế này anh và một số bạn bè, người quen thành lập Hội Anh Em Dân Chủ và anh là chủ tịch trong thời gian từ đầu năm 2014 cho đến Tháng Mười Hai 2016 thì rút.

Mục đích thành lập hội chỉ là để chia sẻ với nhau hiểu biết, kinh nghiệm về cuộc sống, tình cảm anh em, chẳng có một phương tiện gì có thể lật đổ chính quyền, nhưng nhà cầm quyền vẫn bắt nhiều người của Hội Anh Em Dân Chủ với tội danh “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.” Theo anh Trội “Việc họ bắt thành viên của Hội Anh Em Dân Chủ hay Hội Nhà Báo Độc Lập là vì họ không muốn để cho các hội đoàn độc lập tồn tại ở Việt Nam, họ cho rằng sự tồn tại đó là nguy cơ tiếm quyền quản trị quốc gia của họ… Nhưng chúng ta đều biết hành vi bắt bớ để phá vỡ các hội đoàn tự nguyện xã hội dân sự ở Việt Nam như vậy là đã vi phạm nhân quyền, cái quyền đã được ghi rõ trong Luật Nhân Quyền Quốc Tế và ngay trong Hiến Pháp Việt Nam năm 2013.”.

Tổng cộng có khoảng 8, 9 thành viên của Hội Anh Em Dân Chủ bị bắt gồm Nguyễn Văn Đài, Phạm Văn Trội, Nguyễn Bắc Truyển, Nguyễn Trung Tôn, Lê Thị Thu Hà, Trương Minh Đức. Những người kế tiếp bị bắt gồm các anh, chị Nguyễn Trung Trực, Trần Đức Thạch, Nguyễn Văn Túc, Nguyễn Thị Xuân.

Các bản án đều hết sức nặng nề, nặng nhất là Luật Sư Nguyễn Văn Đài (15 năm tù, 5 năm quản chế), nhưng khi đang thụ án thì vào Tháng Sáu năm 2018, Luật Sư Đài và cộng sự Lê Thu Hà được chính phủ Đức can thiệp, để đưa sang Đức tỵ nạn chính trị; 13 năm tù như nhà báo Trương Minh Đức, nhà hoạt động Nguyễn Văn Túc; 12 năm tù như nhà hoạt động mục sư Nguyễn Trung Tôn, nhà hoạt động Nguyễn Trung Trực, nhà thơ Trần Đức Thạch; 11 năm tù như nhà hoạt động Nguyễn Bắc Truyển (anh Nguyễn Bắc Truyển cũng được nhà cầm quyền Việt Nam bất ngờ phóng thích và cùng vợ sang Đức tỵ nạn Tháng Chín 2023)… Tổng cộng hơn 100 năm tù cho Hội Anh Em Dân Chủ.

Bây giờ những người như nhà báo Trương Minh Đức, Mục Sư Nguyễn Trung Tôn, nhà thơ Trần Đức Thạch, nhà hoạt động Nguyễn Văn Túc… vẫn đang ở trong tù, trong đó có người sức khỏe nguy kịch, bị nhiều bệnh nguy hiểm như Mục Sư Tôn nhưng trại giam từ chối điều trị y tế… Hoặc nhà thơ bất đồng chính kiến Trần Đức Thạch (tác giả hồi ký nổi tiếng “Hố chôn người ám ảnh,” tố cáo tội ác kinh hoàng của quân đội Việt cộng trong trận đánh tại Tân Lập cuối Tháng Tư 1975, khi đó tác giả là bộ đội Bắc Việt), bước chân vào tù khi đã 69 tuổi – và đây là bản án tù lần thứ ba của ông, không hiểu ông có chịu đựng nổi 12 năm tù lần này?

Cũng như hầu hết những thành viên Hội Anh Em Dân Chủ, anh Phạm Văn Trội sinh ra và lớn lên hoàn toàn trong chế độ do đảng CS lãnh đạo. Lý lịch gia đình thuộc “thành phần cách mạng.” Bố anh trước đó là đảng viên đảng CS, đánh nhau với Pháp và bị bắt ra Côn đảo, nhưng năm 1982, cụ xin ra khỏi đảng, mẹ anh không phải là đảng viên đảng CS mà chỉ là thanh niên du kích, sau khi lập gia đình không tham gia sinh hoạt chính trị nữa. Bản thân anh Trội từng theo học chuyên ngành quản lý tại trường Đại Học Quốc Gia Hà Nội.

Anh Trội kể, khi còn là sinh viên, anh bị nhà trường nhồi nhét vào trong đầu rất nhiều thứ chủ nghĩa khác nhau, đặc biệt về chủ nghĩa Mác Lenin. Nhưng khi nghiên cứu, anh thấy chủ nghĩa này không thực tiễn trong cuộc sống và bắt đầu tranh luận, phản biện, cho rằng Việt Nam áp dụng chủ nghĩa này thì đất nước sẽ dừng lại không phát triển và nhân dân sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống, đặc biệt là không khích lệ con người ta tham gia vào các hoạt động trong xã hội để thúc đẩy xã hội, thúc đẩy quốc gia.

Đó là lý do chính mà anh nghĩ là cần phải thay đổi sang một mô hình chính trị khác, mang một hệ tư tưởng khác để người dân Việt Nam và quốc gia Việt Nam cất cánh bay cao, bay xa hơn. Quá trình tự nhận thức trở lại của anh bắt đầu là thế, chứ hoàn toàn không phải vì gia đình thuộc loại “phản động,” “có nợ máu với nhân dân” gì cả. Anh viết rất nhiều bài về biển Đông, quan hệ Việt Nam-Trung Quốc, về vấn đề phải thoát Trung … cho tới khi bị bắt lần thứ nhất.

Khi được hỏi anh lên tiếng, phản biện thì gia đình họ hàng phản ứng như thế nào, anh Trội cho biết: “Trong gia đình tôi có nhiều người có tri thức cho nên về cơ bản mọi người ủng hộ, nhưng bên cạnh đó mọi người rất sợ tôi bị bắt đi tù và sẽ có cuộc sống khổ sở, nên khuyên can chứ không ngăn cấm, khuyên vì sợ tôi đi tù chứ không khuyên tôi từ bỏ con đường này.”

Anh nói thêm: “Tôi chỉ nhắc lại câu nói của Mao Trạch Đông là chính quyền cộng sản ra đời từ họng súng, ở Việt Nam từ năm 1945 vẫn nói là họ đi cướp chính quyền của Trần Trọng Kim chứ không phải là được Trần Trọng Kim bàn giao chính quyền, và họ duy trì cái chính quyền ăn cướp cho đến ngày hôm nay chưa một lần hỏi ý kiến nhân dân để xem cái mô hình đó có phù hợp hay không, nhân dân có đồng tình ủng hộ hay không.”

Cuộc sống trong ngục tù cộng sản

Lần thi hành án thứ nhất, anh Trội bị đưa về trại Nam Hà, tỉnh Hà Nam. Cuộc sống tù đày dưới chế độ CS đã tồi tệ, nhưng đối với tù nhân lương tâm, tù nhân chính trị càng tồi tệ hơn gấp bội, nhất là những khi bị “kỷ luật.” Trong thời gian ở đây có những lần anh cùng các tù nhân lương tâm khác đấu tranh đòi một số quyền căn bản của tù nhân, và bị kỷ luật. Trại giam bắt anh và nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, người cũng lên tiếng đấu tranh, dẫn đi giam riêng trong những cái buồng rất hà khắc. Buồng giam khoảng 8 m có hai bệ nằm và lối đi là hết, không cửa sổ, không nhà vệ sinh, không bể nước, không đèn điện, cả ngày cứ tối thui. Tù nhân đi vệ sinh vào cái bô và đổ nước vào đó. Một ngày được ra hai lần đi lấy cơm, uống nước và đi đổ bô, xách xô nước vào. Cứ thế trong vòng hơn sáu tháng.

Trong thời gian bị kỷ luật thì như thế, còn hết thời gian kỷ luật thì lại ra sống chung, làm việc chung với mọi người. Khu chính trị thì đan lát, đan những sản phẩm mây tre để xuất đi châu Âu. Đây là một hình thức “bóc lột sức lao động của tù nhân” vì buộc họ phải làm việc mà không được trả tiền công.

Khi giam chung, các trại thường chia thành hai nhóm tù nhân, tù hình sự giam chung rất đông, 70 – 80 người một buồng. Án chính trị, họ tách nhỏ ra cứ bốn người một buồng khoảng 12 mét vuông, còn lại là lối đi, một nhà vệ sinh nhỏ và một bể nước. Nhà vệ sinh không có cửa, không che đậy, khi một người đi vệ sinh thì ba người còn lại ngồi…ngửi.

Anh Trội cho biết, nhà cầm quyền thường làm nhà tù sát núi, vì vậy mùa hè thường rất nóng, còn mùa đông rất lạnh. Thứ hai, nhà tù thường nằm trên các nghĩa địa đã được giải tỏa.

Ăn uống theo tiêu chuẩn có cơm, thịt, cá, rau, đường, nước mắm. Còn mì chính và muối trại giữ lại để nấu nướng. Nhưng chất lượng thịt cá, nấu nướng theo xuất ăn của trại rất tệ nên anh thường chỉ lấy cơm, còn lại gia đình phải gửi tiền vào để anh đặt mua thêm thức ăn.

Mỗi tháng gia đình được đi thăm một lần, mỗi lần một tiếng đồng hồ. Còn điện thoại mỗi tháng một lần, mỗi lần 10 phút. Trước mỗi lần thăm gặp, cả tù nhân lẫn người nhà đều được nhắc nhở chỉ được nói chuyện hỏi han gia đình, sức khỏe, tình cảm họ hàng. Tù nhân và người nhà ngồi từng dãy, nhìn thấy nhau qua màn kính ngăn và gọi nói chuyện qua phone, công an ngồi sát bên cạnh nghe, ghi âm toàn bộ những cuộc nói chuyện đó.

Anh Trội nhận xét, qua hai lần bị tù, lần thứ hai anh thấy điều kiện sống tệ hơn trước. Thức ăn tồi hơn, nhưng đặc biệt là tù nhân chính trị bị quản lý chặt chẽ hơn, khắc nghiệt hơn. Anh kể: “Lần thứ nhất tôi được mang đàn guitar vào chơi, được mang sách vào đọc sách, được chơi cờ tướng ở trong buồng giam và được mua thức ăn tươi để tự nấu ăn, được nhận sách, bút, tất cả các loại, rất nhiều. Có những người có cả cái hòm to đựng sách, bút để viết, học tập. Nhưng bây giờ điều đó không có nữa. Sách bút trại giam quản lý, sách của gia đình gửi đến trại cũng quản lý, muốn lấy về đọc thì phải đăng ký mà họ chỉ cho phép lấy mỗi lần hai quyển, giấy chỉ cho một tờ giấy học sinh bốn trang. Bút, họ cũng giữ và đưa cho một cây, viết xong phải đưa lại tờ giấy và bút cho họ quản lý…

Lần thứ hai anh Trội vẫn bị giam ở Nam Hà. Anh cho biết, Nam Hà là nơi ngày xưa giam giữ toàn bộ lính VNCH, và các tu sĩ. Họ có truyền thống giam tù chính trị và có kinh nghiệm đàn áp tù chính trị.

Trong thời gian ở tù, anh không được giam chung với các anh em cùng một hội, nhưng lại sống chung với khá nhiều tù nhân chính trị là người các dân tộc bản địa ở Tây Bắc, Tây Nguyên. Những tù nhân thuộc các sắc dân bản địa ở Tây Nguyên chủ yếu bị giam sau những cuộc biểu tình lớn vào những năm 2001, 2004 và sau này, từ vụ xả súng ở Tây Nguyên Tháng Sáu 2023. Đa số đều chịu những bản án nặng nề, có người tới 20 năm.

Trở về ‘nhà tù lớn’

Ra khỏi “nhà tù nhỏ” trở về “nhà tù lớn,” cũng như nhiều tù nhân chính trị bị giam lâu ngày khác, anh Trội gặp rất nhiều vấn đề về sức khỏe, đau vai gáy, đau cột sống, đau dây thần kinh, huyết áp tụt, mắt thì mờ. Trong thời gian bị tù anh cũng từng bị đau nặng vài lần, có thời gian bị sỏi thận phải đi cấp cứu… Vì vậy ưu tiên trước mắt của anh là “phục hồi sức khỏe, sau đó phải dành thời gian để tìm hiểu lại, nghiên cứu, sắp xếp lại mọi việc.”

Anh cho biết, chưa có ý định rời nước ra đi, vì “khi phải rời bỏ quê hương ra đi thì rất đau lòng, tôi nghĩ rằng tâm trạng của người nào xa quê cũng đều thế cả, trong trường hợp bất khả kháng mới phải đi. Thực ra lúc này tình hình ở Việt Nam rất khắc nghiệt, nhưng còn chịu được, tôi ở lại, khi nào không chịu được, tôi cũng phải xin ra đi vậy.”

Trong suốt những năm anh đi tù, kinh tế gia đình trông vào người vợ đi làm cho một công ty nhỏ, lương cũng chỉ đủ sống, không có tích lũy, cộng thêm anh chị em trong gia đình giúp đỡ, thỉnh thoảng bạn bè cũng giúp một chút. May mắn là vợ con anh đều hiểu việc anh làm và không một lời phàn nàn, trách móc. Hai con của anh, con trai lớn năm nay 23 tuổi, sang năm lên năm thứ năm đại học Bách Khoa, con gái út 18 tuổi, năm nay bắt đầu vào đại học, cũng đại học Bách Khoa Hà Nội.

Khi được hỏi “Có bao giờ anh tiếc đã mất 11, 12 năm cuộc đời vì đã lên tiếng không?”, anh Trội trả lời: “Tôi thực sự không tiếc, có thể vì sinh mạng mình nó gắn với công việc này.”

Nghĩ về tương lai của Việt Nam và phong trào dân chủ, anh cho biết: “Cá nhân tôi chưa bao giờ hết hy vọng, tôi luôn luôn hy vọng và tin tưởng ở thế hệ trẻ của Việt Nam. Những người cộng sản gộc từng chống Pháp thì bây giờ chết hết rồi, những người chống Mỹ cũng chỉ còn 10, 20 năm nữa là ra đi hết và thế hệ 7X, 8X và 9X sẽ là chủ nhân của quốc gia, họ hội nhập vào thế giới nhờ học hành ở nước ngoài, nhờ vào internet khai sáng. Và xu hướng dân chủ hóa toàn cầu là không thể đảo ngược. Vấn đề là sớm hay muộn ở Việt Nam thôi… Tôi vẫn tin tưởng thế hệ trẻ ở Việt Nam có đủ khả năng để quyết đoán cho vận mệnh dân tộc, tương lai của chính họ. Thời của chúng ta về trước là cái thời còn chìm đắm trong cơn mê chiến thắng, trong chủ nghĩa Mác Lênin không tưởng ấy, thế hệ trẻ họ sẽ khác. Sẽ phải thay đổi. Sẽ phải dân chủ hóa.”

Nhiều người bi quan cho rằng phong trào dân chủ ở Việt Nam mấy năm gần đây xem như đã tắt, đã chết, nhưng theo anh Trội, khi tiếp xúc với các anh chị em, cả người cũ, người mới quen, anh nhận thấy họ thay đổi phương thức, và thay đổi phương pháp chứ họ không “chết,” họ không bị “tắt.” “Những người hoạt động trong lĩnh vực này ngấm trong máu rồi, bây giờ nhà cai trị họ gia tăng đàn áp bắt bớ thì những người hoạt động tạm thời thay cách này bằng cách khác để bảo tồn, để tiếp tục mở rộng… Có nghĩa là ngọn lửa này không tắt mà lại trở thành cháy âm ỉ bên trong, khi có cơ hội thì nó lại bùng cháy mạnh hơn,” anh nói.

Anh Phạm Văn Trội (phải) và ông Trịnh Bá Khiêm. Gia đình ông Trịnh Bá Khiêm là một gia đình nông dân-dân oan-tù nhân lương tâm nổi tiếng: Bốn người với sáu bản án tù, tổng cộng hơn 30 năm, trong đó ba người hiện vẫn đang thụ án tù là vợ ông – bà Cấn Thị Thêu, hai người con trai là Trịnh Bá Phương, Trịnh Bá Tư. (Hình: SC)

Người bất đồng chính kiến chỉ có hai con đường: vào tù hoặc phải sống lưu vong

Tình trạng tù nhân chính trị ở Việt Nam từ nhiều năm nay là người này ra thì người kia vào tù, người này xong án thì người khác bị kết án. Ngày 15 Tháng Tám vừa qua nhà cầm quyền Việt Nam lại kết án nhà hoạt động Nguyễn Chí Tuyến có biệt danh Anh Chí, một thành viên sáng lập của phong trào No-U phản đối đường “lưỡi bò” và từng tham gia nhiều cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc vào đầu những năm 2010 và các cuộc biểu tình ủng hộ môi trường vào giữa những năm 2010. Anh Nguyễn Chí Tuyến sử dụng YouTube, Facebook và các phương tiện truyền thông xã hội khác để bình luận về các vấn đề xã hội và chính trị. Anh bị bắt ngày 29 Tháng Hai 2024 và vừa bị kết án 5 năm tù, cũng về tội danh “tuyên truyền chống Nhà nước” theo Điều 117 của Bộ Luật Hình Sự.

Nhà hoạt động Nguyễn Chí Tuyến. (Hình: FB Nguyễn Chí Tuyến)

Trên mạng xã hội, rất nhiều người chia sẻ lại những câu nói của anh. Chẳng hạn như câu anh Tuyến nói với Luật Sư Lê Đình Việt trước ngày ra toà: “Tôi hoàn toàn có thể lựa chọn sự an toàn cho cá nhân mình nếu làm ngơ trước những vấn đề bất cập của xã hội. Nhưng là một công dân, tôi không thể không có trách nhiệm đối với đất nước mình.” Hoặc lời nói sau cùng tại phiên tòa sơ thẩm do TAND thành phố Hà Nội xét xử, trong đó anh không nhận tội và khẳng định: “Tôi sẵn sàng chịu trách nhiệm việc tôi làm, nhưng tôi khẳng định mình không có ý đồ chống phá gì. Tôi làm vì hai chữ tự do cho quyền chính đáng: quyền tự do ngôn luận, quyền tự do biểu đạt.”

Anh Phạm Văn Trội viết trên Facebook:

“Đời không cát bụi, đời không sạch
“Thân bất lao tù, chí bất cao
“Tù không có gì phải sợ, chỉ sợ trong cuộc dạo chơi cõi nhân gian này không làm được gì cống hiến cho nhân thế.
“Không ai muốn sống trong tù (dù chỉ một ngày) nhưng nếu cần cho một đất nước hồi sinh và thịnh vượng thì tù cả đời cũng không đáng sợ…”

Nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh có vợ là nhà hoạt động Nguyễn Thúy Hạnh bị nhà nước cộng sản bắt giam từ Tháng Tư 2021 với cáo buộc có hành vi “làm, tàng trữ, phát tán thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước CHXNCN Việt Nam” theo Điều 117, Bộ luật Hình sự năm 2015, và vẫn chưa được đưa ra xét xử, viết:

“Đất sống cho những người bất đồng chính kiến.
“Chỉ vào tù hay ra hải ngoại thôi ư?”

Phải. Đất sống cho những người bất đồng chính kiến dưới chế độ độc tài toàn trị do đảng cộng sản cầm quyền là vậy. Nhưng những con người dũng cảm vẫn tiếp tục đứng lên, bắt người này thì lại có người khác…


 

Nếu một ngày ta chán nhau – Tác giả: Nhữ Thị Thảo -Truyen ngan HAY

Tác giả: Nhữ Thị Thảo

Có một thời gian vợ chồng mình không thể cười với nhau sau những cuộc cãi vã được nữa. Điều mà trước đây chỉ to tiếng vài phút sau là đã cười nhăn nhở. Đến khoảng ấy lại là sự im lặng, im lặng đến ngột thở. Chẳng ai có thể nói được với nhau lời tử tế. Tránh mặt nhau, ngay cả giấc ngủ cũng không muốn chạm. Chỉ cần nói với nhau một câu cũng đủ gây ra một cuộc khẩu chiến.

Mình nói rất nhiều lần rằng, với mình im lặng là chết. Và lúc ấy thì vợ chồng mình đang chết thật. Cứ thế kéo dài đến cả tháng trời, trong khi bình thường ngay cả khủng hoảng tồi tệ nhất cũng chỉ ngày thứ 3 là vợ chồng lại ôm nhau ngủ. Vậy mà suốt 1 tháng chẳng ai có thể nhìn nhau một cách bình thường. Cảm giác như chỉ muốn biến mất khỏi cuộc đời nhau một cách sạch sẽ nhất.

Và rồi một buổi tối, chồng mình ngồi gõ lạch cạch cả giờ đồng hồ, rồi in ra bản ĐƠN XIN LY HÔN đưa mình .Chồng mình nói:

– Giải thoát cho nhau đi em. Anh sắp không chịu nổi rồi.

Chẳng thế hiểu được lý do vì sao, ngay cả bản thân mình cũng nghĩ đến điều ấy nhưng là đàn bà vẫn còn muốn giữ gia đình tròn vẹn cho con nên cứ sống như vậy đi.

Mình không ngạc nhiên, bình thản cầm bút ký: Tôi đồng ý!

Chồng mình im lặng cầm lá đơn cho vào cặp. Trong lá đơn nói rõ sẽ chia đôi con cho nhau. Mỗi người nuôi một đứa.

Cả đêm hôm ấy, vợ chồng mình không ngủ. Mắt mình ráo hoảnh, chẳng thể nghĩ được gì cho ngày mai. Còn chồng mình – anh ấy bật khóc nấc lên từng tiếng.

Lần đầu tiên mình nhìn thấy những giọt nước mắt chua chát của anh ấy. Dường như cố gắng kìm lại nhưng không được, rồi anh bật dậy lao vào nhà tắm, không nhớ là ở trong ấy bao lâu, chỉ biết lúc trở ra mắt đã đỏ ngầu.

Mình hỏi:

– Sao anh khóc, đây chẳng phải là ý của anh sao. Sao còn đau khổ chứ. Em đồng ý giải thoát theo ý anh, anh còn muốn gì.

Chồng mình nhìn lên ánh mắt vật vã:

– Anh thương con, rồi hai đứa sẽ mỗi đứa một phương, không được ở cạnh nhau nữa. Anh sẽ rất nhớ con.

Rồi anh ấy ôm ghì lấy Bột, cố nén tiếng nấc.

Mình đứng bật dậy, cố không để mình khóc theo.

Khi cuộc sống đã đến mức chẳng thể dung hoà được nữa, ra đi là điều cần thiết. Chẳng phải vì ai, chẳng vì ai phản bội ai, chỉ vì chúng ta đã không thể vượt qua những áp lực cuộc sống. Mình cũng đã từng nói với anh ấy: Con người mình buông bỏ hay nắm giữ đều rất quyết liệt. Anh ấy hiểu điều ấy.

Và chồng mình khoá FB, ai tinh ý có thể thấy một thời gian mình viết gì cũng không tag anh ấy vào nữa. Bọn mình ly thân, mỗi đứa một phòng. Mình nhắn cho chồng mình:

– Anh đừng bỏ Facebook, em muốn nhìn thấy con, anh siêng up ảnh con nhé, hàng tuần sẽ cho hai anh em gặp nhau 1 lần. Xin lỗi vì chúng ta đã không thể giữ được tình yêu này.

Lúc này mình khóc .

Ngày hôm sau ấy, chồng mình đi làm nhắn tin về rằng:

– Anh đi làm và đã nộp đơn lên toà án. Họ hẹn 15 ngày nữa gặp nhau trên toà để giải quyết. Thời gian ấy chúng ta tạm thời ly thân, sau đấy anh sẽ thuê nhà giúp cho em và con.

Mình nhắn lại lạnh lùng:

– Không cần đâu, em sẽ đi luôn, em tự lo được.

Hôm ấy trở trời con lại ốm, mình thu xếp đồ rồi nói với mẹ chồng là đưa cháu đi Hà Nội khám bệnh. Chuyện sau này êm xuôi sẽ nói sau.

Chồng mình chuyển vào tài khoản riêng của mình, rồi nhắn :

– Anh sẽ gửi thêm sau

– Ok anh, em và con đi bây giờ.

Chồng mình im lặng.

Mọi thứ đã hoàn tất cho một cuộc chia ly. Chẳng cần lý do gì cả, chỉ là không thể ở bên nhau được nữa. Mình gọi taxi, ôm con vào lòng, vô thức, cứ đi đã rồi tính. Nửa đường thì con lên cơn sốt, rồi nôn trớ trong xe, mặt tái đi. Ngoài trời giữa những ngày rét đậm. Mình hối lái xe chạy nhanh về bệnh viện nhi trung ương.

Trời bắt đầu tối thì có mưa, bế con chạy vào viện, mưa và gió táp vào mặt lạnh buốt, cố ôm lấy con mà lòng cay đắng. Tại sao mọi thứ lại trở nên như thế, tình cảm 6 năm qua, những khó khăn đã từng, những yêu thương ngọt ngào đã qua giờ chỉ cần ngoảnh mặt đi là hết sao?

Một mình tay ôm con sốt, tay làm thủ tục. Con khóc, bác sĩ hỏi người nhà đâu, đưa người nhà bế con. Lúc ấy trong đầu nhớ về những ngày hai vợ chồng đưa con đi khám. Đứa bế con đứa chạy lăng xăng lo việc. Con khóc đứa bế đứa dỗ, động viên nhau. Quay sang bên cạnh, mọi người đều đủ bố mẹ bên cạnh con. Mình ứa nước mắt.

Hình như chúng ta đã sai ở đâu đấy. Hình như chúng ta đang làm khổ nhau và con vì cái ích kỷ của bản thân.

Tay xách nách mang, vừa ôm cho con ti vừa chạy, nước mắt lã chã. Cái hình ảnh lúc ấy chắc chẳng thể nào quên. Con bị viêm phế quản, bác sĩ cho thuốc rồi về. Mò vào túi lấy điện thoại, hơn 20 cuộc gọi nhỡ và 5 tin nhắn của chồng mình. Đồng hồ đã gần 10h đêm.

Anh ấy nhắn:

– Em nghe máy đi

– Em và con đang ở đâu

– Anh sai rồi, em cũng sai rồi

– Em về đi

– Em ở đâu, anh đi đón.

Mình không kìm được nữa, khóc nức nở ở hành lang bệnh viện. Gọi lại cho chồng mình:

– Em đang trong viện nhi, con ốm. Khám xong rồi. Giờ em mới cầm điện thoại.

– Em bắt xe cho con về nhà luôn nhé, về thấy tủ quần áo của em trống không, chẳng thấy em ngồi ở giường như mọi ngày, anh thấy sợ quá. Anh gọi em mãi mà em không nghe. Anh lại càng lo, cứ nghĩ dại …..

– Về đi, mai anh đi rút lại đơn .

Mình hiểu tâm trạng của chồng mình, có lẽ cũng như mình lúc này.

Mình tắt máy, lòng bớt nặng, sau tất cả, mình cần về. Tình yêu vẫn ở đấy, chỉ là chúng ta mải lo quá nhiều thứ mà trót hết kiên nhẫn cho một mối quan hệ. Cơm áo gạo tiền quên đi mất chúng ta còn tình yêu cần gìn giữ.

Về đến nhà hơn 12h khuya. Cả nhà đã ngủ, còn chồng mình ngồi đấy, đón lấy con rồi bảo:

– Em qua quán ăn bát cháo đi cho ấm (quán cháo ngay sát nhà).

Mình làm theo vì bụng lúc này đã rống tuếch.

Xong xuôi vào phòng, đặt con xuống giường, hai vợ chồng nhìn nhau hồi lâu, mình bật khóc, chồng mình ôm lấy mình rồi nói:

– Thôi, không sao đâu. Vợ ngủ đi không mệt rồi. Ổn rồi, ổn rồi …

Sau 1 tháng im lặng là cái ôm ổn rồi của chồng!

Thế đấy, có những quãng thời gian chẳng cần người thứ 3 thì cuộc sống vợ chồng cũng trở nên bế tắc đến mức muốn tống khứ ra khỏi cuộc đời nhau bằng lá đơn Ly Hôn như vậy.

Cuộc hôn nhân nào dù có tốt đẹp đến mấy cũng phải có đến trăm lần người trong cuộc muốn ly hôn, cũng phải đến vài chục lần muốn “giết chết” đối phương. Vì chúng ta ai cũng có khuyết điểm.

Sống chung một nhà là đã lột trần nhau toàn diện từ thể xác đến tính cách, nhiều khi có cảm giác hối hận vô cùng vì lấy nhau. Mình chắc các bạn cũng có cảm giác vậy ở một giai đoạn nào đấy. Thắng được cái khoảng thời gian BỘC LỘ này thì chúng ta sẽ THẤU HIỂU và sẽ là HẠNH PHÚC. Nếu không sẽ vĩnh viễn mất nhau ở tuổi trẻ, đánh mất tất cả những năm tháng đã yêu thương và cần có nhau đến mức nào!

Cái gì trong cuộc đời cũng có giá của nó hết. Giá của cái nắm tay lúc về già là bao nhiêu giông bão của tuổi trẻ. Hi vọng mỗi chúng ta đều nghĩ được khi muốn chấm dứt hãy nghĩ về những lý do khiến chúng ta bắt đầu! Nghĩ về những phút giây hạnh phúc bên nhau! Giờ thì ôm người đàn ông bên cạnh ngủ đi thôi.

Tác giả: Nhữ Thị Thảo

From: Tu Phung

 NẺO ĐƯỜNG CỦA NHỮNG KHÁT KHAO – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 (Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

“Làm sao Ngài lại biết tôi?”.

“Chúa sẽ không tìm con, nếu Ngài đã không biết con!” – Blaise Pascal. Thiên Chúa luôn yêu thương những con người tiến về phía Ngài; vậy mà, chuyển động của Ngài về phía con người luôn luôn đi trước việc nó hướng đến Ngài. Ngài đã có mặt ‘nơi tâm điểm khát khao’ của nó; Ngài biết rõ nó, ngay trên nẻo đường của những khát khao!

Kính thưa Anh Chị em,

Ý tưởng của Pascal được đọc thấy nơi vị thánh ‘biệt phái Barthôlômêô’ – Nathanael – Giáo Hội kính nhớ hôm nay; đặc biệt, qua cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Chúa Giêsu và con người độc đáo này. Với Gioan, thoạt tiên, Chúa Giêsu không hề xuất hiện như một nhà thuyết giáo nhưng như một con người sống động, dễ gặp, để ai cũng có thể gặp Ngài trên những nẻo đường của họ, ‘nẻo đường của những khát khao!’.

Điều đánh động trước tiên, trong những lần gặp đó, là tính giản dị đáng kinh ngạc của chúng. ‘Tính giản dị’ là cách thức tác giả kể lại những lần gặp sớm sủa của những con người đầu tiên đến với Đấng mà họ sẽ là môn đệ của Ngài. Chẳng hạn, với hai môn đệ Gioan, “Các anh tìm gì?”; “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”; “Hãy đến mà xem!”. Tính giản dị của trình thuật khiến độc giả hụt hẫng! Thế mà, cũng ngày hôm ấy, một điều gì đó mang tính quyết định đã xảy ra; để rồi, “Chúng tôi đã gặp Ngài!”. Cuộc gặp đó không là một cuộc gặp qua quýt, xã giao… cũng không là một cuộc gặp thân thiện thường ngày. Một điều gì đó hoàn toàn khác; họ đã gặp Ngài ngay trên ‘nẻo đường của những khát khao!’.

Chuyển động của cuộc gặp gỡ trở nên sâu sắc hơn với Nathanael, người đã mỉm cười ngờ vực khi nghe Philipphê bảo, mình đã gặp Đấng Thiên Sai nơi con người có tên Giêsu Nazareth, “Từ Nazareth, làm sao có cái chi hay?”; Philipphê đơn sơ đáp, “Cứ đến mà xem!”. Kìa, con người sống trong hoài mong Đấng Thiên Sai ấy – những “ước ao thấy Ngày của Ngài” – đã đến và đã xem. Cả hữu thể ông khát khao sự tỏ mình của Thiên Chúa giờ đây đã phải lặng trân khi nghe lời chào của người thanh niên không mấy quen biết, “Đây đích thật là một người Israel, lòng dạ không có gì gian dối!”. Ôi! Một lời bộc phát như sấm rền khiến Nathanael nghẹt thở, “Làm sao Ngài lại biết tôi?”. Qua câu hỏi này, toàn bộ hữu thể của ông ‘tan chảy’, bộc lộ trong sáng như vàng ròng!

Anh Chị em,

“Làm sao Ngài lại biết tôi?”. Chúa Giêsu tỏ mình cho Nathanael không như cho một người xa lạ; Ngài biết Nathanael cách thấu đáo, cá vị. Đúng thế, “Chúa sẽ không tìm con, nếu Ngài đã không biết con!”. Chính cái biết và sự thấu hiểu của Chúa Giêsu đã khiến Nathanael hoàn toàn ‘tê liệt’; vì giờ đây, nỗi chờ mong của ông đã được đáp đền một cách ứa trào! Phần chúng ta, chúng ta phải đến với Chúa Giêsu trên những nẻo đường nào? Đức Phanxicô nói, “Hãy đến với Ngài trên nẻo đường của những tội nhân. Hãy đến với Ngài với sự tự tin cũng như với niềm vui mà không cần trang điểm. Đừng bao giờ trang điểm trước mặt Chúa! Hãy đến, mang theo tất cả sự thật!”. Đừng ngần ngại cùng Ngài thổ lộ tâm can, những kín ẩn trong nơi sâu thẳm của lòng mình. Đó chính là tâm điểm khát khao của mỗi người mà Ngài biết rõ.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, Chúa biết con hơn con biết con. Không khát khao Chúa, con sẽ khát khao các thứ ‘ít Chúa’ và ‘không phải Chúa’; cho con khao khát chỉ một mình Ngài!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

From: KimBang Nguyen

***************************************

Ngày 24 tháng 8

THÁNH BA-TÔ-LÔ-MÊ-Ô, TÔNG ĐỒ

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.

45 Khi ấy, ông Phi-líp-phê gặp ông Na-tha-na-en và nói : “Đấng mà sách Luật Mô-sê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp : đó là ông Giê-su, con ông Giu-se, người Na-da-rét.” 46 Ông Na-tha-na-en liền bảo : “Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được ?” Ông Phi-líp-phê trả lời : “Cứ đến mà xem !” 47 Đức Giê-su thấy ông Na-tha-na-en tiến về phía mình, liền nói về ông rằng : “Đây đích thật là một người Ít-ra-en, lòng dạ không có gì gian dối.” 48 Ông Na-tha-na-en hỏi Người : “Làm sao Ngài lại biết tôi ?” Đức Giê-su trả lời : “Trước khi Phi-líp-phê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi.” 49 Ông Na-tha-na-en nói : “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ít-ra-en !” 50 Đức Giê-su đáp : “Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin ! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa.” 51 Người lại nói : “Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người.”