CHUYỆN ĐỜI VOLTAIRE-TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)

CHUYỆN ĐỜI VOLTAIRE

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ)

Triết gia Voltaire tên thật là François-Marie Arouet, sinh ngày 21-11-1694 tại Pháp. Ông là người khởi xướng phong trào Khai Sáng – Enlightenment.

Voltaire nhận được một lá thư trang nghiêm và khiêm tốn từ Lm Gaultier, tu sĩ Dòng Tên, trước khi bị cấm. Một người viết tiểu sử nhận xét rằng có vẻ như luôn có một tu sĩ Dòng Tên kể về Voltaire, từ những ngày đầu đi học cho đến khi chơi cờ ở Ferney. Khi Voltaire nghe chữ “Dòng Tên,” nó đã khuấy động một chút trong ông: đứa con chưa biết mẹ thì không yêu cha mẹ, hoặc người yêu mến thầy cô thì được họ yêu mến. Người ấy nổi loạn chống lại họ, nhưng người ấy vẫn nhạy cảm và khéo léo nhất cũng như là học trò tự hào nhất của họ. Lm Gaultier đã nói rõ trong lá thư rằng ngài muốn giúp Voltaire cứu linh hồn mình.

Voltaire có chấp nhận Lm Gaultier tới phòng của mình? Voltaire có xưng tội? Voltaire thường giả danh là người Công giáo suốt đời mình. Một lần ông đã rước lễ dịp Phục Sinh tại Ferney khi một linh mục đến thăm. Linh mục này là người đầu tiên tha tội cho ông. Đức giám mục địa phương biết điều đó nên viết cho Voltaire một lá thư trang nghiêm và ôn hòa: “Việc rước lễ của ông đã được thực hiện mà không ăn năn, không có sự sửa đổi cần thiết do các bài viết và hành vi trong quá khứ của ông. Ông không nên đến gần bàn thánh mà không cam kết chân thành, và nếu không có sự phản ánh xứng đáng, sẽ không có linh mục nào cho phép ông làm như vậy.” Voltaire bảo đảm với giáo sĩ về đức tin tốt lành của mình và xin cầu nguyện. Đức giám mục viết lại rằng đức tin bao gồm hành động, không chỉ nói suông. Đức giám mục đã cấm các linh mục giải tội hoặc trao Mình Thánh cho Voltaire.

Voltaire tức giận, tìm cách dằn mặt giám mục. Một người viết tiểu sử kể lại: Ngay trước lễ Phục Sinh sắp tới, ông ta dụ một linh mục đến phòng của mình, nơi ông ta giả bộ thực hiện hành động tuyệt vời nhất trên giường bệnh: đôi mắt đờ đẫn, giọng nói giả dối, đôi tay gầy guộc sờ tấm vải trải giường. Ông ta xin giáo sĩ nghe lời thú tội của ông ta và đặt tiền vào tay. Linh mục này sững sờ và vội vã bỏ đi, không làm theo yêu cầu của ông ta. Voltaire vẫn tiếp tục hành động của mình, cố gắng thuyết phục mọi người rằng ông ta sắp chết để linh mục đến. Ông ta hứa sẽ đưa ra bất kỳ tuyên bố nào mà Giáo hội yêu cầu. Tuy nhiên, giám mục cấm linh mục giải tội cho ông ta. Sau đó, Voltaire dọa đâm đơn kiện, vì vào thời điểm đó ở Pháp, việc từ chối ban các bí tích đối với một người sắp chết là bất hợp pháp.

Cuối cùng, Đức giám mục sai hai linh mục tới. Voltaire đọc Kinh Tin Kính của các Tông Đồ và tuyên xưng đức tin bằng lời nói: “Tôi tôn thờ Chúa trong phòng riêng của tôi. Tôi không làm điều ác với ai.” Linh mục có bản tuyên xưng đức tin khác trong túi áo và nhấn mạnh rằng Voltaire phải ký vào đó. Voltaire đáp lại rằng Kinh Tin Kính của các Tông Đồ là đủ, và ranh mãnh nói rằng lời tuyên xưng đức tin khác này có thể giới thiệu những đổi mới không chính thống. Linh mục vẫn bắt Voltaire ký, ông ta đã giả vờ yếu sức và xin miễn xá, linh mục đã đồng ý. Voltaire nằm xuống và mỉm cười. Ông ta thấy mình đã thắng giám mục. Sau khi linh mục đi, Voltaire ra khỏi giường, và nói với thư ký: “Tôi đã gặp một chút rắc rối với giáo sĩ buồn tẻ đó, nhưng tất cả đều thú vị nhất và làm cho tôi có lợi. Nào, chúng ta cùng đi dạo quanh vườn.”

Một người viết tiểu sử nhận xét rằng cả Âu châu đều nói về những trò đùa báng bổ của Voltaire, hành động đùa cợt của ông ta đối với tôn giáo. Nhưng đó chỉ đơn giản là trò đùa? Có thể chắc chắn rằng không là trò đùa với Voltaire, vì những ý tưởng của ông rất tinh tế và dao động. Một người viết tiểu sử nhận xét rằng chỉ có thể chắc chắn rằng ông ta có niềm đam mê chân thành đối với công lý, sự thật – và kịch nghệ. Voltaire đóng vai trò gì? Liệu ông ta có thể thú tội thật ngay cả khi ông ta muốn? Có phải ông ta bị cuốn hút vào kịch nghệ và giả vờ là người khác, đến nỗi ông ta không thể tiếp cận với con người thật của mình? Nếu ông ta thực sự muốn thú tội thì sao?

Voltaire trả lời thư của Lm Gaultier:

“Thưa ngài, lá thư của ngài đối với tôi dường như là của một người chân thật: điều đó đủ để xác định rằng tôi sẽ vinh dự được ngài đến thăm vào ban ngày và vào giờ thuận tiện nhất cho ngài. Tôi sẽ nói với ngài chính xác những gì tôi đã nói khi tôi chúc phúc cho cháu trai của ngài Franklin thông thái và nổi tiếng, niềm vinh dự nhất của các công dân Hoa Kỳ. Tôi chỉ nói những từ này: ‘Thiên Chúa và tự do.’ Tôi đã 84 tuổi, tôi sắp xuất hiện trước Chúa, Đấng tạo dựng tất cả vũ trụ. Nếu linh mục có điều gì muốn nói với tôi, tôi sẽ có bổn phận và đặc ân được đón tiếp ngài, mặc dù đau khổ khiến tôi choáng ngợp.”

Lm Gaultier đã đến, thẳng thắn với Voltaire, và điều đó làm hài lòng người sắp chết. Linh mục nói với Voltaire rằng ngài sẽ báo cáo cuộc gặp mặt này cho bề trên. Những người tham dự của Voltaire – bà chủ nhà và thư ký của ông ta, kể cả một người bạn – đã làm gián đoạn cuộc gặp gỡ của họ. Voltaire nói: “Hãy để tôi ở lại với người bạn linh mục của tôi – ngài không nịnh tôi.” Sự hiện diện của linh mục khiến những người khác không thoải mái. Danh tiếng của người sáng lập phong trào Khai Sáng dựa vào việc ông ta không công khai từ bỏ bất cứ điều gì. Tuy nhiên, mong muốn được chôn cất tử tế của ông ta phụ thuộc vào việc hòa giải với Giáo hội, ít nhất ở mức độ nào đó.

Lm Gaultier đã trao cho Voltaire một văn bản soạn sẵn, có lẽ là bản tuyên xưng đức tin Kitô giáo và dạng công khai từ bỏ nào đó đối với các tác phẩm chống Kitô giáo của ông ta. Nhưng Voltaire gạt sang một bên và run rẩy viết lời tuyên bố của mình: “Tôi đã thú nhận [với Lm Gaultier] rằng nếu Thiên Chúa dùng tôi, tôi sẽ chết trong tôn giáo Công giáo thánh thiện mà tôi đã sinh ra, hy vọng Thiên Chúa trong lòng thương xót của Ngài sẽ đoái thương tha thứ cho tôi mọi lỗi lầm của tôi; nếu tôi đã xúc phạm đến Giáo hội, tôi cầu xin sự tha thứ của Thiên Chúa và Giáo hội.” Hai nhân chứng cùng ký tên vào đó. Lm Gaultier đã giải tội cho Voltaire, nhưng Voltaire từ chối rước lễ vì lý do sức khỏe. Sau đó Lm Gaultier ra về.

Lm Gaultier trở lại. Giáo quyền địa phương đã không coi lời công khai rút ý kiến trước đó của Voltaire là đủ và vẫn đe dọa sẽ không cho phép chôn cất theo nghi lễ Kitô giáo. Một linh mục Dòng Tên đến với một linh mục khác để xem ông ta thế nào. Ai đó đã hét vào tai Voltaire rằng người giải tội của ông ta đã đến. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, người đàn ông đang hấp hối nói: “Người giải tội của tôi ư? Vậy thì hãy nhớ dành cho ông ấy những lời khen của tôi.” Một linh mục khác hỏi Voltaire: “Ông có nhận ra thần tính của Chúa Giêsu Kitô không?” Voltaire lấy tay đẩy giáo sĩ ra, vừa quay mặt đi vừa nói: “Hãy để tôi chết trong bình an.”

Voltaire vô cùng đau đớn nên bác sĩ cho thuốc giảm đau. Bác sĩ viết trong một bức thư: “Bây giờ Voltaire đã đến cuối đời, người ta bắt đầu nói chuyện, đánh giá tất cả những thiệt hại mà ông ta đã gây ra cho xã hội, điều mà ngay cả những người không khắt khe lắm cũng so sánh với các cuộc chiến tranh, dịch bệnh và nạn đói trong vài ngàn năm qua đã làm hoang tàn trái đất.”

Các câu chuyện về cái chết của Voltaire gây nhầm lẫn vì tin đồn lan truyền và các nhóm tranh giành nhau để kiểm soát câu chuyện về cái chết của ông ta. Sau đó, các nhà truyền giáo Công giáo đã sử dụng các lá thư của bác sĩ để tuyên bố rằng Voltaire đã bị trừng phạt bằng cách chết trong đau đớn và sợ hãi Hỏa Ngục. Được viết bởi một nhà quan sát thiếu thiện cảm, lời kể của bác sĩ phải được sử dụng một cách thận trọng. Bà Denis nói rằng mặc dù rất đau khổ nhưng Voltaire đã chết lặng lẽ.

Tuy nhiên, theo một trong những nhà viết tiểu sử người Pháp, Voltaire nằm chết trong một ngôi nhà nhỏ tối tăm, tách rời với nhà chính, nơi bà Denis – chủ nhà của Voltaire – vẫn tiếp tục tiếp khách. Bà lo rằng Voltaire có thể hủy bỏ di chúc đã biến bà thành người thừa kế của ông ấy; bà chủ nhà lo lắng về sự tranh cãi sẽ xảy ra sau cái chết của Voltaire. Bận tâm với những mối quan tâm riêng, họ tránh cảm giác khó chịu từ sự đau khổ của Voltaire, một lời nhắc nhở, như nó đã xảy ra, về cái chết của chính họ. Bà Denis không ở với ông ta; bà chọn hai người phụ nữ để trông chừng ông ta. Ông ta đau đớn quằn quại trên giường; họ trò chuyện, cười đùa và uống rượu. Ông ta xúc phạm họ và ném một cái bình vào họ khi ông ta còn sức. Có vẻ như việc chăm sóc còn nhiều điều đáng mong muốn, vì Voltaire nằm ở nơi bẩn thỉu, ghét những người xung quanh. Voltaire là người đã dựa trên những ý tưởng của mình về sự độc lập và tự túc, đã chết như ông đã sống: một con người tự trị.

Voltaire đã từng viết về “tình yêu” theo cách rút gọn nó thành quan hệ tình dục: sự hoàn hảo của tình yêu là sự sạch sẽ và chăm sóc bản thân, do đó làm cho các cơ quan khoái cảm nhạy cảm hơn. Đối với ông già, “bên ngoài không còn như cũ, những nếp nhăn kinh khủng, lông mày bạc trắng bàng hoàng, hàm răng rụng ghê tởm, sự yếu đuối kỳ lạ. Tất cả những gì người ta có thể làm là tận hưởng đức tính của y tá vui đùa, và bao dung với những gì người ta từng yêu mến. Nó đang chôn vùi một người chết.” Những lời đó trở nên ứng nghiệm khi ông ta chết dần trong cơn hấp hối. Khi được cho biết về tình trạng của ông ta, bà Denis hy vọng sớm được sở hữu khối tài sản khổng lồ của Voltaire, bà nói: “Cái gì! Ông Voltaire là người sạch sẽ nhất trong những người đàn ông, thay khăn trải giường ba lần mỗi ngày thay vì chịu đựng một dấu vết nhỏ nhất trên đó – mức độ thấp hèn của ông ta là bao nhiêu? Điều này đại diện cho sự thay đổi mang tính cách mạng nào?” Nó không đại diện cho cuộc cách mạng: chỉ có cái chết của con người và chính bà ấy bỏ rơi ông ta.

Một nhà bình luận Công giáo đã viết về cái chết đó rằng không lý lẽ nào có thể được đưa ra cho sự cứu rỗi hoặc sự nguyền rủa của linh hồn chỉ đơn giản là hình dáng của cơ thể khi qua đời, dù bình tĩnh hay bối rối. Thông thường, sự kích động của người sắp chết chỉ xuất phát từ các nguyên nhân vật lý. Cũng vậy, người tốt “theo ý muốn của Thiên Chúa, phải tuân theo những kích động đó, để thanh tẩy linh hồn, và dẫn những người xung quanh đến việc thực hành sự đền tội đích thực.”

Vào giữa buổi sáng ngày 30 tháng 5 năm 1778, Voltaire đã thốt lên một tiếng kêu dài và khủng khiếp khiến các y tá phải khiếp sợ. Và rồi ông tắt thở.

JOSEPH STUART

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)


 

Logic của việc CSVN lấy tù nhân lương tâm làm mồi câu tư bản -Lê Minh Nguyên

Ba’o Tieng Dan

Lê Minh Nguyên

21-9-2024

Cộng sản Việt Nam bắt những người dân có trí tuệ của mình làm tù nhân và dùng tù nhân đó để làm mồi câu tư bản.

Một ngày trước khi lên đường đi Mỹ, Tổng Bí thư – Chủ tịch nước Tô Lâm thả nhà hoạt động Trần Huỳnh Duy Thức sớm 8 tháng (20/9), coi nó là một món quà tặng cho Mỹ để đổi chác lấy những đòi hỏi Mỹ giúp Việt Nam về kinh tế và công nghệ.

Trong một sinh hoạt gọn nhỏ vào thập niên 1990s ở Washington D.C. mà người viết có tham dự, bà cựu thủ tướng Anh Margaret Thatcher nói rằng, một quốc gia thịnh vượng không phải là một quốc gia có đất rộng, dân đông, tài nguyên phong phú, nhưng là một quốc gia mà mỗi một người dân đều có năng lực.

Nhân tài là nguyên khí của quốc gia, nếu đem nguyên khí đó đi giam cầm rồi dùng làm con tin đổi chác với quốc gia khác để lấy những món lợi nhất thời thì quốc gia đó không thể nào hùng mạnh được.

Mỹ với sức mạnh mềm vô song, với khả năng ‘hấp tinh đại pháp’ thu hút tinh hoa của thế giới đem về phục vụ nước mình, họ đang hấp thụ những tinh hoa Việt Nam vào đất nước của họ, từ sinh viên du học, nhân tài công nghệ cao, những người có tài sản lớn, những người có năng lực xây dựng đất nước v.v…

Trung Quốc chỉ có thể hiếp đáp Việt Nam được khi Việt Nam còn là một nước nghèo, nhưng nếu Việt Nam hùng mạnh như Nhật Bản, Nam Hàn thì họ chỉ muốn buôn bán làm ăn chứ không thể đe dọa chủ quyền.

Hậu quả của việc đem tinh hoa đất nước làm mồi câu tư bản sẽ là gì?

Đầu tiên, nó là một sự chảy máu chất xám. Thứ hai, nó làm cho Việt Nam có khuynh hướng xin – cho và đổi chác bất chánh. Thứ ba, nó làm cho Việt Nam càng ngày càng yếu đi và lệ thuộc nhiều hơn vào nước láng giềng Trung Quốc. Và thứ tư là, nó làm cho việc Trung Quốc đồng hóa Việt Nam dễ dàng hơn.

Nguyên khí của dân tộc từ từ chảy về quốc gia hùng mạnh và làm cạn kiệt sức sống của dân tộc Việt Nam.

Các chế độ độc tài thường muốn ngu dân để dễ cai trị. Nhưng khi làm như vậy thì đất nước sẽ biến thành một trôn ốc xoáy, cuối cùng chế độ bị tiêu diệt và một đất nước lầm than.

Điển hình của cái vòng luẩn quẩn này là Liên Xô trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Nếu Liên Xô để cho người dân có năng lực thì người dân đòi hỏi tự do, bởi vì tự do mới có sáng tạo và có sáng tạo thì năng lực mới được phát huy, cho ra được những cái hay và mới. Những cái mới đó giúp quốc gia tiến lên.

Nhưng nếu không cho người dân có năng lực thì không thể nào chạy đua với Mỹ trên nhiều phương diện, nhất là kinh tế, công nghệ cao v.v…

Cho nên cuối cùng dù Mỹ có thua trận đánh nóng – tức chiến tranh Việt Nam, thì đã thắng cuộc chiến tranh lạnh với Liên Xô.

Nếu ông Tô Lâm chỉ tiếp nối ông Nguyễn Phú Trọng thì ông chỉ là một cái bóng mờ trong lịch sử các đời tổng bí thư của đảng CSVN và khi nó sụp đổ thì nguời dân Việt Nam không còn nhớ tới ông là ai.

Ông chỉ có thể làm nên lịch sử khi ông tạo được một sự hòa giải thật sự với dân tộc Việt Nam và một sự tự chủ tối thiểu với Trung Quốc.

Việc đầu tiên mà ông nên làm là thả các tù nhân chính trị, tù nhân lương tâm, có những chính sách từ cấp cao nhất – chứ không phải tuyên truyền về đại đoàn kết – về hòa giải dân tộc.

Làm sao để biết mình bị đồng hóa? Thật ra, nó rất giản dị để nhận ra. Khi hệ thống chính trị, hệ thống kinh tế xã hội, cũng như hệ thống văn hóa giáo dục của mình giống y với nước lớn hơn ở cạnh mình thì đó là những dấu hiệu của đồng hóa vì nó được vận hành không khác gì một tỉnh của nước lớn hơn.

May mắn cho Việt Nam là có sự đa dạng về văn hóa, cho nên tuy bị nhiễm màu Hán hóa nhưng cũng còn có cơ hội để giữ sự độc lập tự chủ, nếu lãnh đạo đừng ngu dân, đừng để chảy máu chất xám, đừng đem dân mình ra đổi chác với ngoại bang mà hãy trân quý nhân tài, nguyên khí của quốc gia.


 

Ma Văn Pá- Tưởng Năng Tiến

Ba’o Tieng Dan

Tưởng Năng Tiến

20-9-2024

Ảnh: Ma Văn Bá. Ảnh chụp màn hình

Sau khi dư luận nổi sóng về phát biểu của thiếu niên Chu Ngọc Quang Vinh rằng “tôi coi đảng như một thế lực xấu chỉ biết lừa gạt dân”, tạm lắng, một tuần sau, hôm 7 tháng 9 vừa qua, trên trang Tiếng Dân, nhà văn Phạm Đình Trọng kết luận: “Sự việc cho thấy người dân, nhất là thế hệ trẻ đã có nhận thức sâu sắc về pháp luật, có ý thức về sự có mặt của cá nhân trong cuộc đời, trong xã hội”.

Khẳng định thượng dẫn về “nhận thức sâu sắc của thế hệ trẻ” khiến tôi nhớ đến tình cảnh của một bạn trẻ trẻ khác, Ma Văn Pá (MVP) quê ở Hà Giang. Cách đây hơn 10 năm – vào hôm 9 tháng 10 năm 2013 – thanh niên này cùng với hàng trăm người dân bản địa khác (từ Tây Bắc) đã lặn lội xuống miền xuôi, đến tận vườn hoa Mai Xuân Thưởng để đòi công lý.

Tình cờ có mặt tại hiện trường, FB Trần Thị Cẩm Thanh cho biết: “Người H Mông yêu cầu chính quyền phải điều tra sự thật và truy tố những cán bộ làm sai pháp luật, bồi thường thiệt hại, trả lại những đồ tang lễ, không được phá nhà bảo quản đồ tang lễ để họ trở về với cuộc sống bình an và văn minh… Người H Mông không chấp nhận chính quyền và công an mang dùi cui điện và còng số 8 đến đàn áp, phá nhà tang lễ và đánh đập người dân, nhiều người bị bắt mang đi”.

YouTube player

Sau nhiều ngày sống trong cảnh màn trời chiếu đất, giữa lòng Thủ Đô Của Lương Tâm Nhân LoạiMVP tuyên bố: “Chính quyền từ trung ương đến địa phương đều cùng một duộc… chỉ nói vu vơ ngoài pháp luật… không giải quyết gì, tôi đến chỗ Hà Nội này tôi mới biết được rằng có rất nhiều người dân oan như chúng tôi cũng đang phải gánh chịu những hậu quả mà đảng và nhà nước đã gây cho mọi dân tộc”.

YouTube player

Sau đó không lâu, Việt Báo (phát hành từ California) ái ngại loan tin: “Ông Pá bị cảnh sát giao thông bắt khi đi trên một chiếc xe khách đang chạy gần đến thành phố Hà Giang… Nhưng thay vì đưa ông về trụ sở cảnh sát giao thông để kiểm tra giấy tờ, công an đã đưa ông thẳng vào Công an thành phố Hà Giang để cho những người tự xưng là người của Bộ Công An với tên là Hùng, Thiết và Ngọc thẩm vấn…

Công an Thiết là kẻ tra tấn và dọa giết ông Pá nhiều nhất khi hắn bắt ông ký vào các biên bản và giấy tờ. Để phản đối hành vi tra khảo ông Pá đã hai lần lao mình vào cửa sổ để nhảy lầu và một lần húc đầu vào tường để tự hủy mình nhưng bất thành”.

Rồi sao nữa?

Không biết!

Không ai biết và cũng chả ai quan tâm đến số phận của một thanh niên ở tận miền ngược như MVP cả. Sự việc chỉ được ghi nhận bằng một câu chữ ngắn ngủi trong Báo Cáo Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế Năm 2015: “Hồi tháng 8, cảnh sát và các cán bộ Công an tỉnh Hà Giang đã bắt giữ và thẩm vấn tín đồ Đạo Dương Văn Mình là Ma Văn Pá sau khi anh ta gặp các quan chức của Hoa Kỳ”.

Chấm hết!

Tôi cũng sinh trưởng ở miền núi và ý thức được rất rõ thân phận hẩm hiu của tất cả những sắc dân bản địa nên cũng không dám có ý kiến hay đòi hỏi gì hơn. Tuy thế, đôi lúc, vẫn nghĩ đến tình cảnh của MVP mà không khỏi xót lòng.

Mười năm qua, thỉnh thoảng, tôi vẫn ghé thăm vài cộng đồng người H’Mong đang tị nạn ở ngoại ô Bangkok, và luôn cố dò tìm tin tức về MVP nhưng không nhận được một thông tin nào cả. Liệu em có còn sống không? Nếu còn, em sống ở đâu và sống ra sao? Làm sao có thể yên thân với lực lượng công an, sau khi em đã thản nhiên nói lên một sự thật trần trụi về chế độ toàn trị hiện hành:

Chính quyền từ trung ương đến địa phương đều cùng một duộc… chỉ nói vu vơ ngoài pháp luật… không giải quyết gì, tôi đến chỗ Hà Nội này tôi mới biết được rằng có rất nhiều người dân oan như chúng tôi cũng đang phải gánh chịu những hậu quả mà đảng và nhà nước đã gây cho mọi dân tộc”.

***

Chu Ngọc Quang Vinh cũng đã viết một câu tương tự (“tôi coi đảng như một thế lực xấu chỉ biết lừa gạt dân”) và đã làm công luận dậy sóng, với tuyệt đại đa số ý kiến bênh vực quan điểm thẳng thắng của em. Xin chỉ ghi lại dăm ba (theo thứ tự alpha) vì nhiều quá:

– Huỳnh Ngọc Chênh: “Cả hệ thống chính trị ra tay vì phát ngôn chân thật của một học sinh.”

– Song Chi: “Nước người ta càng ngày càng đi tới cấp độ văn minh, tiến bộ cao hơn, còn mình thì cứ càng ngày càng lùi về thuở mù quáng, mông muội, dã man…”

– Manh Dang: “Cháu phát biểu vào ngày 2/9, có khác gì Bản Tuyên Ngôn của thế hệ trẻ? Cảm ơn cháu, Chu Ngọc Quang Vinh”.

– Chu Vĩnh Hải: “Dù thế nào thì việc một đám đông những người lớn tuổi trong đó có cả những người có vẻ có học hùng hổ bắt nạt, chửi rủa một cậu bé mười bảy tuổi chỉ vì cậu ấy dám nói ra những suy nghĩ của cá nhân mình vẫn là một việc làm rất đáng xấu hổ”.

– Phan Thúy Hà: “Tại sao mình cảm xúc mạnh với chuyện của cháu bé? Bởi vì, mình đã nghĩ về cái ngày này rất nhiều, mình rất lo, biết là sẽ có lúc xảy ra, và đã xảy ra. Đó là thế hệ các con của chúng ta. Các con đặt chúng ta vào một ca rất khó. Lương tâm làm cha mẹ không thể im lặng. Chúng ta không lẩn tránh được mãi một sự trả lời”.

– Hong Thai Hoang: “Cái tên Chu Ngọc Quang Vinh, mãi quang vinh như tên của con vậy”.

– Hoàng Dạ Lan: “Cách xử lý em Vinh phơi bày bản chất tuyên truyền của hệ thống giáo dục và nỗi lo sợ của chính quyền trước tự do tư tưởng và ý kiến phản biện của người trẻ”.

– Vũ Quốc Ngữ: “Bịt miệng dân thì xã hội chỉ còn những zoombie thôi”.

– Nguyễn Thị Sen: “Chu Ngọc Quang Vinh bị đấu tố vì dám nói thật”.

– Trịnh Kim Tiến: “Ủa thằng nhỏ nói có gì sai hả? Luật nào cho phép công an mời thằng bé lên làm việc? Đảng là đảng mà Tổ quốc là Tổ quốc, mắc gì yêu Tổ quốc phải biết ơn đảng”?

– Nguyên Tống: “Chỉ 1 câu nói của bé con 17 tuổi mà lên đồng tập thể vậy thì có phải là có tật giật mình không nhỉ? Hay sắp sập thật”?!

Doanh nhân Phan Châu Thành còn có đề nghị vô cùng hào sảng và cảm động: “Em Quang Vinh ở Yên Bái nếu muốn làm việc trong một mội trường ở nước ngoài, cạnh tranh công bằng, sòng phẳng với dân Tây thì chỗ mình lúc nào cũng có vị trí xứng đáng cho những người như em.

Ngay cả bây giờ, khi không có bằng cấp cũng chẳng có ý nghĩa gì, mình chưa bao giờ hỏi bằng cấp, chứng chỉ của bất kỳ ai khi tuyển dụng, vì cũng không quan tâm đến. Đủ can đảm để nói thẳng, nói thật, đó là ‘bằng cấp’ đỉnh cao rồi”.

Giá mà mọi người cũng quan tâm đến em MVP y như vậy nhỉ? Được thế thì thân phận của cá nhân em, cũng như vận mệnh của cả dân tộc này – chắc chắn – sẽ đỡ thảm thương và đen tối hơn hiện cảnh. Phân biệt đối xử sắc tộc, vùng miền … không bao giờ mang lại được ơn ích gì cho bất cứ ai, và luôn luôn làm cho cả dân tộc suy yếu, trong khi họ đang cần sức mạnh để đối phó với cả hai thứ giặc: Ngoại xâm và nội xâm!


 

Nhà đấu tranh Trần Huỳnh Duy Thức được thả

Ba’o Nguoi-Viet

September 20, 2024

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Nhà đấu tranh Trần Huỳnh Duy Thức vừa được thả và đang trên đường về Sài Gòn hôm Thứ Sáu, 20 Tháng Chín.

Tin này được đăng trên trang Facebook có tên Trần Huỳnh Duy Thức, do ông Trần Huỳnh Duy Tân, em trai ông Thức quản trị, và có đăng kèm hình ông Trần Văn Huỳnh, thân phụ của ông Thức.

Ông Trần Huỳnh Duy Thức tại phiên tòa sơ thẩm ngày 20 Tháng Giêng, 2010. (Hình: STR/AFP/Getty Images)

Trang Facebook viết như sau: “Anh Thức đang trên đường về lại Saigon!!! Hồi chiều nay 20/09/2024, vợ anh Thức & gia đình được công an khu vực nhà anh Thức ở Tân Bình thông báo là: ‘Anh Thức sẽ được trả tự do và đưa về nơi cư trú.’”

“Tại thời điểm bài này đăng anh Thức đang bay chuyến bay số VN1269, khởi hành 21:55 tối từ Nghệ An, dự tính 00:00 tối sẽ đến Saigon Tân Sơn Nhất. Kính mong mọi người chia sẻ rộng rãi dẫu biết rằng giờ này cũng khá trễ,” bản tin được viết tiếp.

“Lúc này, gia đình đang cùng tề tựu để đón người em, người con về trong vòng tay của chúng tôi, rất mong sự quan tâm của mọi người. Thay mặt anh Thức, gia đình xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến mọi người vì đã dõi theo và đồng hành cùng anh Thức trên hành trình gian khổ gần 16 năm vừa qua. Chúng tôi tin, sự tận tuỵ quan tâm ấy đã tiếp thêm dũng khí và nghị lực cho anh Thức và Gia Đình đi hết chặn đường thử thách một cách tự hào, không tiếc nuối điều gì,” bản tin tiếp.

Bản tin được viết thêm: “Ngoài thông tin mà gia đình được thông báo từ cơ quan công quyền như trên thì chúng tôi cũng chưa có thêm thông tin gì khác. Nếu có thêm thông tin gì, gia đình chúng tôi sẽ cập nhật để mọi người cùng chia sẻ niềm vui này cùng gia đình. (Hi vọng là mọi người sẽ nghe từ chính Anh).”

Trang Facebook Trần Huỳnh Duy Thức thông báo ông được thả kèm theo hình ông Trần Văn Huỳnh, thân phụ ông. (Hình: Facebook Trần Huỳnh Duy Thức)

Bản tin kết luận: “Niềm vui mừng hơn hết là, đến cuối cùng Ba anh cũng đợi được đến ngày đoàn tựu cùng con trai, dù đang có nhiều vấn đề về sức khoẻ. Gia đình đồng kính báo.”

Vào lúc 10 giờ 30 phút sáng Thứ Sáu, giờ California, một đồng nghiệp của nhật báo Người Việt cho biết đã liên lạc được với ông Trần Huỳnh Duy Tân và được xác nhận chuyện ông Thức được thả trong lúc gia đình đang trên đường ra phi trường Tân Sơn Nhất.

Sự kiện này xảy ra một ngày trước khi ông Tô Lâm, tổng bí thư kiêm chủ tịch nước Việt Nam, lên đường đi Mỹ dự họp Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc và có thể gặp Tổng Thống Joe Biden.

Ông Thức bị chính quyền Việt Nam bắt và vu cho tội “trộm cắp cước điện thoại” nhưng sau đó, đổi sang tội danh “hoạt động lật đổ” chế độ độc tài đảng trị tại Việt Nam và bị kết án 16 năm tù vào ngày 20 Tháng Giêng, 2010.

Khi bị bắt, ông Thức là một doanh nhân thành đạt. Từ một cửa hàng nhỏ bán và lắp ráp máy vi tính vào thập niên 1990, đến năm 2000, ông chuyển hướng sang dịch vụ Internet.

Ông Thức còn mở những blog cá nhân như Trần Đông Chấn, Change We Need thông qua “Nhóm Nghiên Cứu Chấn” với các bài viết nghiên cứu, phân tích về tình hình chính trị, kinh tế, thời sự Việt Nam, thúc đẩy cải cách.

Các tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế, các chính phủ Hoa Kỳ, Anh, cũng như Liên Âu lên án việc cầm tù ông Trần Huỳnh Duy Thức là “đi ngược lại với Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc” và bản án ông Thức bị áp đặt là “nhạo báng công lý.”

Ông Trần Huỳnh Duy Thức, năm nay 58 tuổi, đã nhiều lần tuyệt thực trong tù từ năm 2016 đến nay. (Đ.D.)


 

Nước Ngập Khắp Nơi ở Miền Trung: Đà Nẵng, Huế, Quảng Bình…

Theo thông tin từ Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia, hồi 10 giờ sáng 19.9, vị trí tâm bão số 4 (tên quốc tế là Soulik) ở trên vùng biển Quảng Bình đến Thừa Thiên-Huế. Sức gió mạnh nhất vùng gần tâm bão mạnh cấp 8-9 (62-88 km/giờ), giật cấp 10-11 (89-117 km/giờ); di chuyển theo hướng tây tây nam với tốc độ khoảng 25 km/giờ.

Hôm nay (20/9), mưa lớn còn tiếp tục ở các tỉnh từ Quảng Bình đến Thanh Hoá.

Đêm qua và sáng sớm nay (20/9), khu vực từ Nghệ An đến Bắc Quảng Trị có mưa to đến rất to.

Lượng mưa tính từ 19h ngày 19/9 đến 3h ngày 20/9 có nơi trên 100mm như Hóa Thanh (Quảng Bình) 237.6mm, Hiền Lương (Quảng Trị) 137.6mm, Hương Lâm (Hà Tĩnh) 110.4mm.

Dự báo ngày và đêm nay 20/9, khu vực Nam Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình có mưa to đến rất to với lượng mưa phổ biến 70-150mm, có nơi trên 250mm.

Khu vực Thanh Hóa, Bắc Nghệ An có mưa vừa, mưa to, cục bộ có nơi mưa rất to và dông với lượng mưa phổ biến 40-80mm, cục bộ có nơi trên 150mm.

'Rốn lũ' xã Tân Hóa, huyện Minh Hóa (Quảng Bình) ngập sâu. Ảnh của VNEconomy
Khu vực cầu tràn La La tại Km 1+700 tuyến đường tỉnh 587 (Quảng trị)
Nhà dân ở xã Hồng Bắc (huyện A Lưới), Thừa Thiên
Sạt lở đất, trượt đất khi có mưa lớn kéo dài các xã Thượng Quảng, Thượng Long, Thượng Nhật...Thừa Thiên Huế

Thánh Andrê Kim Taegon & Thánh Paul Chong Hasang và các Bạn tử đạo người Ðại Hàn-Cha Vương

Chúc bình an đến bạn và gia đình nhé. Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Andrê Kim Taegon & Thánh Paul Chong Hasang và các Bạn tử đạo người Ðại Hàn.

Cha Vương

Thứ 6: 20/09/2024

Anrê Kim Taegon là linh mục Ðại Hàn đầu tiên và là con của một người trở lại đạo. Cha của ngài, ông Ignatius Kim, được tử đạo trong thời cấm đạo năm 1839 và được phong thánh năm 1925. Sau khi được rửa tội vào lúc 15 tuổi, Anrê phải trải qua một hành trình dài 1,300 dặm để gia nhập chủng viện ở Macao, Trung Cộng.

Sáu năm sau, ngài xoay sở để trở về quê hương qua ngả Mãn Châu. Cùng năm ấy ngài vượt qua eo biển Hoàng Sa đến Thượng Hải và thụ phong linh mục. Khi trở về quê, ngài có nhiệm vụ thu xếp cho các vị thừa sai vào Ðại Hàn qua ngã đường biển, nhằm tránh né sự kiểm soát biên phòng. Ngài bị bắt, bị tra tấn và sau cùng bị chặt đầu ở sông Han gần thủ đô Hán Thành.

Thánh Phaolô Chong Hasang là một chủng sinh, 45 tuổi. Kitô Giáo được du nhập vào Ðại Hàn khi Nhật xâm lăng quốc gia này vào năm 1592, lúc ấy có một số người Ðại Hàn được rửa tội, có lẽ bởi các binh sĩ Công Giáo người Nhật. Việc truyền giáo rất khó khăn vì Ðại Hàn chủ trương bế quan tỏa cảng, ngoại trừ những hành trình đến Bắc Kinh để trả thuế.

Một trong những chuyến đi này, khoảng năm 1777, sách vở tài liệu Công Giáo của các cha dòng Tên ở Trung Cộng được lén lút đem về để dạy bảo người Kitô Giáo Ðại Hàn. Giáo Hội tại gia bắt đầu thành hình. Khoảng mười năm sau đó, khi một linh mục Trung Hoa lén lút đến Ðại Hàn, ngài thấy có đến 4,000 người Công Giáo mà chưa có ai được gặp một vị linh mục. Bảy năm sau, số người Công Giáo ấy lên đến khoảng 10,000 người. Sau cùng, tự do tôn giáo được ban hành vào năm 1883.

Khi Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đến Nam Hàn ngày 06 tháng 5 năm 1984 để phong thánh, ngoài hai Thánh Anrê Kim Taegon và Phaolô Chong Hasang, còn 98 người Ðại Hàn và ba vị thừa sai người Pháp, tất cả đều tử đạo trong khoảng 1839 và 1867. Trong số 103 Thánh tử đạo có các giám mục và linh mục, số còn lại  là giáo dân: 47 phụ nữ, 45 quý ông.

Trong những người tử đạo năm 1839 là Columba Kim, một phụ nữ 26 tuổi. Ngài bị cầm tù, bị tra tấn bằng vật dụng bằng sắt nung nóng và than. Ngài và người em là Agnes bị lột quần áo và bị giam chung với những tù nhân hình sự, nhưng họ không bị làm nhục. Sau khi Columba phàn nàn về sự sỉ nhục này, từ đó về sau không một phụ nữ nào bị nhục nhã như vậy nữa. Hai người bị chém đầu. Một em trai 13 tuổi, Peter Ryou, bị tra tấn dã man đến độ em có thể lấy da thịt của mình mà ném vào quan toà. Em bị xiết cổ cho đến chết. Protase Chong, một người quý tộc 41 tuổi, sau khi bị tra tấn ông đã chối đạo và được thả tự do. Sau đó, ông  trở lại, tuyên xưng đức tin và bị tra tấn cho đến chết.

LỜI TRÍCH: “Giáo Hội Ðại Hàn thì độc đáo vì được thành lập hoàn toàn bởi giáo dân. Giáo Hội còn non yếu, thật trẻ trung nhưng thật vững mạnh trong đức tin, và đã đứng vững sau những đợt sóng bách hại mãnh liệt. Do đó, chỉ trong vòng một thế kỷ, Giáo Hội đã kiêu hãnh với 10,000 vị tử đạo. Cái chết của các vị tử đạo này trở thành men cho Giáo Hội và đưa đến sự triển nở huy hoàng của Giáo Hội Ðại Hàn ngày nay. Ngay cả bây giờ, tinh thần bất khuất ấy vẫn còn trợ giúp cho người tín hữu của Giáo Hội thầm lặng ở miền bắc bên kia vĩ tuyến” (ÐGH Gioan Phaolô II, bài giảng trong lễ phong thánh).

(Nguồn: Người Tín Hữu Online) 

From: Do Dzung

***********************

Theo Dấu Chân Ngài (Sáng tác: Sr. Trinh Nguyên) – Sr. Hạ Phương 

Sự trở lại của Văn học đô thị miền Nam- Tuấn Khanh/SGN

Ba’o Nguoi-Viet

September 19, 2024

Tuấn Khanh/SGN

Thời gian trước, tôi thật may mắn được chứng kiến buổi ngỏ ý của một nhà xuất bản, muốn tái bản lại cuốn “Vòng tay học trò” của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng, một cây viết quen thuộc của độc giả miền Nam Việt Nam trước năm 1975.

Với Nguyễn Thị Hoàng, bà rõ là điểm sáng đáng quý trên bầu trời lấp lánh của văn chương tự do miền Nam Việt Nam trước năm 1975.

Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng, một trong những danh sĩ của miền Nam được cho phép tái bản gần đây (Hình: TK)

Văn chương miền Nam nói chung, thời gian gần đây dần dần được tái bản lại nhiều ở trong nước, trong con mắt nhìn kiểm duyệt ít vằn vện nghi ngờ hơn. Rồi thoáng thấy trên Facebook, báo điện tử… những lời chia sẻ với nhà văn Nguyễn Thị Hoàng về cuốn sách “Vòng tay học trò” được tái bản, cùng sự hào hứng của những người giới thiệu, quen gọi tên là tác phẩm thuộc “dòng văn học đô thị miền Nam.”

Nhưng nghe mà sao đột nhiên thấy chạnh lòng. Nghe “đô thị” có vẻ như co cụm và không thuộc về nhân dân, không thuộc về một thời, một đời. Nói như nhà văn Nguyễn Hưng Quốc, nói văn chương “đô thị” miền Nam, thì không sai nhưng thừa. Bởi sự nhấn nhá riêng “đô thị” của miệng lưỡi tuyên truyền là thừa ác ý. Có nơi còn gọi là sự “trở lại” – sự trở lại của “văn chương đô thị miền Nam.” Cụm từ giới thiệu này thường được thấy khi có một tác phẩm của miền Nam trước 1975 được in lại.

Thế nhưng văn chương miền Nam đi đâu mà trở lại?

Toàn bộ chữ nghĩa đã được hình thành, nuôi dưỡng và tồn tại suốt trong hai nền cộng hòa ở miền Nam Việt Nam chỉ có một hành trình duy nhất là đi xuyên qua sự thù hận, bước qua chà đạp và hủy diệt… mà dù có đau đớn hay rách nát thế nào, nền văn chương (hay nền văn hóa Cộng hòa miền Nam Việt Nam nói chung) vẫn tiếp tục tồn tại trong một thời đại mới, và vẫn tỏa sáng với những tư tưởng tự do không kiểm duyệt.

Văn chương miền Nam Việt Nam, tự nó cũng giống như số phận của ông Khai Trí, một người ước mơ đem sách và chữ đến cho dân tộc mình, rồi chính quyền mới, nói tiếng Việt, tịch thu. Gia sản tri thức bị đốt và bản thân ông cũng bị cầm tù. Nhưng câu chuyện Khai Trí và những ấn phẩm của ông vẫn tiếp tục lưu truyền một cách im lặng trong lòng người dân Việt Nam, mà có những giai đoạn phải thầm kín và gìn giữ trong nơm nớp sợ hãi không khác gì những tờ truyền đơn của người Do Thái trong thời Phát xít Đức.

Gần nửa thế kỷ, suốt thời thống nhất địa lý, văn chương miền Nam Việt Nam (chứ cũng không phải là đô-thị-miền-Nam), trở thành một di sản quý được tìm mua với những giá ngày càng đắt. Hãy thử nghĩ xem, vì sao một tổng tập của nhà thơ Tố Hữu có thể được in ấn tuyệt đẹp, trợ giá bán rẻ vẫn không có sức thu hút bằng một tập thơ mỏng, cũ rách của Nguyên Sa hay Thanh Tâm Tuyền?

“Văn học đô thị miền Nam” – cách gọi bị ám ảnh từ lối tuyên truyền văn hóa của chính quyền mới sau năm 1975 cho đến nay – vẫn ngầm chứa trong đó như một sự khinh thị, chỉ để góp vào cái nhìn toàn cảnh cố không công nhận miền Nam Việt Nam là một chính thể.

Rất nhiều những tham luận, những nghiên cứu, và cả cuốn sách dày cộp của tác giả Trần Trọng Đăng Đàn “Văn hóa văn nghệ Việt Nam từ 54 đến 75” đều coi văn chương miền Nam là một thứ hỗn độn hình thành từ sự phồn vinh giả tạo của Mỹ-Ngụy.

Báo Nhân Dân số ra ngày 13-9-2016, với bài viết “Ứng xử với văn học miền Nam trước năm 1975” của tác giả Hạnh Nguyễn, còn nói với giọng trịch thượng rằng “bằng sự gạn đục khơi trong, chính quyền cách mạng đã cho phép lưu hành 1067 cuốn sách tiếng Việt, 562 cuốn sách tiếng Anh, 359 cuốn từ điển bằng tiếng nước ngoài.”

Sự cho phép nó chỉ là một giả định trên đời sống thật. Không có phép thì suốt vài thập niên nay, người miền Nam vẫn ca hát những bài hát không được duyệt, thậm chí còn làm cho nó lan ra đến cả nước. Sách vở không được in, không có phép thì vẫn được chuyền tay nhau, và vẫn được thế hệ mới ngày hôm nay tìm đọc với một sự kinh ngạc về khung trời tự do trong tư tưởng. Cho phép và không cho phép, chỉ là màn trình diễn giả định về luật pháp giữa người dân và chính quyền, nghiễm nhiên tồn tại suốt bấy lâu nay.

Vì vậy, cách nói rằng văn chương đô thị miền Nam “trở lại”, khi có dăm ba cuốn sách cũ tái bản, có vẻ khiên cưỡng trong sự thật lịch sử của một di sản văn hóa vĩ đại của Việt Nam Cộng Hòa.

Trong sự kiểm duyệt chặt chẽ, một số sách vở của miền Nam VNCH dần được tái bản vì giá trị không thể phủ nhận được (Hình: Facebook)

Nói “trở lại” là giả tạo trong việc mô tả một chính quyền đủ tốt để dung nhận tất cả. Giả tạo như tất cả mọi thứ trong cuộc sống đang là một vòng quay đẹp đẽ theo tự nhiên, nhưng lờ hẳn phần xin lỗi về một giai đoạn mà những nhà văn, nhà thơ miền Nam đã từng bị tù đày, và tác phẩm của họ thì bị đấu tố như kẻ thù của dân tộc.

Trong tiểu luận “Văn học Miền Nam 1954-1975: những Khuynh hướng chủ yếu và thành tựu hiện đại hóa” của giáo sư, tiến sĩ Huỳnh Như Phương, mô tả về căn nguyên quan trọng ra đời của nền văn hóa văn nghệ Miền Nam Việt Nam là bởi “nhờ đồng lương và các khoản thu nhập khác, nên một bộ phận công chức và giới trung lưu có thể chi tiêu những khoản tiền vào việc mua sắm theo ý muốn, ngoài các nhu cầu thiết yếu hằng ngày. Chính đây là tiền đề dẫn đến sự hình thành một thị trường văn nghệ ở miền Nam những năm 1954-1975.”

Có vẻ sự căn bản hình thành của văn chương miền Nam Việt Nam thực dụng và không được cao quý, theo cách mô tả của tất cả những ngôn luận nhận định từ bên thắng cuộc. Nhưng lại không hiểu vì sao hàng chục năm xây dựng xã hội chủ nghĩa, với những thành tựu xuất chúng, như trên báo chí vẫn nói, xã hội cách mạng hôm nay vẫn reo mừng khi những thứ bị chà đạp ấy quay “trở lại,” như “Vòng tay học trò” của nữ sĩ Nguyễn Thị Hoàng, và của nhiều trí thức miền Nam khác, từng bị phủ nhận.


 

Vì sao vùng cao ngập mưa, vùng trũng ngập triều?

Ba’o Tieng Dan

Mai Bá Kiếm

19-9-2024

Đọc tin mưa ngập ở TP.HCM sáng 18/9, tuy thời sự nhưng rất cũ, có vài chi tiết mới: Công ty Thoát nước đô thị cử nhiều nhân viên đặt cảnh báo, chỉ dẫn người dân chọn đường ngập thấp; điều xe bồn đến hút nước trên đường Nguyễn Văn Khối (Gò Vấp) để giảm ngập. Do phóng viên dốt, không biết xe bồn màu vàng là xe hút cống bị nghẹt, và một xe có bồn năm khối không thể hút hết nước trên đường Nguyễn Văn Khối được!

Báo trích dẫn “tổng kết” của Sở Xây dựng: Thành phố có 13 tuyến trục chính ngập do MƯA (ở Gò Vấp, Thủ Đức, Q.12, TP.HCM) và năm tuyến trục chính ngập do TRIỀU CƯỜNG (Bình Chánh, Nhà Bè, Q.7). Sở không nói nguyên nhân gây ngập mưa và ngập triều, chỉ hứa nạo vét cải tạo kênh Hàng Bàng, kênh Tham Lương – Bến Cát – Rạch Nước Lên. Người dân không biết vì sao vùng đất gò cao (Gò Vấp, Thủ Đức) bị ngập sau mưa rất lâu (24 tiếng) và vùng đất thấp (Bình Chánh, Nhà Bè) ngập do triều cường 2-3 tiếng?

Nói thẳng ra, do “đô thị hóa tham lam ngu dốt”! Ngày xưa, Thủ Đức, Gò Vấp là đất gò trồng rẫy, nước mưa ngấm xuống đất và chảy trên bề mặt tùy theo lưu vực đổ ra kênh, mương. Khi cấp phép xây dựng, Sở Xây dựng không xét code nền có cản trở nước mưa thoát trên bề mặt không? Sở cho mật độ xây dựng, nhưng không kiểm tra phần diện tích không được xây phải để trống cho nước mưa ngấm xuống đất.

Tất cả cao ốc, chung cư, nhà phân lô đều tráng xi măng phần đất không được xây, chỉ chừa vài lõm đất trồng cây và hoa. Nước mưa chỉ còn cách thoát trên bề mặt nhưng bị cản bởi code sân cao hơn mặt đất. Khốn nạn nhất là việc cho phép các dự án Bất động sản san lấp cống hở, mương hở để thoát nước (ở Gò Vấp, Tân Bình, Thủ Đức…) rồi thay bằng cống hộp. Mặc dù, đứa con nít cũng biết lưu lượng nước mưa chảy xuống cống, mương hở, nhiều gấp 100 lần lượng nước gom vào miệng hố ga (hố cách nhau 20m, còn bị bịt bằng lưới rác).

Hồi xưa ở Tân Sơn Nhứt, nên tôi biết 1.530ha đất phi trường và vùng đệm xung quanh (Tân Bình, Gò Vấp, Hóc Môn) đều xài mương, cống hở. Ở phía nam, mương hở từ Sư đoàn Dù chảy qua trường Quốc gia nghĩa tử, đổ ra cây cầu (nay lấp bít xây Bệnh viện đa khoa Tân Bình) chảy vô kênh Nhiêu Lộc. Cống hở từ cổng Phi Long chảy ra trước cổng Bệnh viện 3 dã chiến Hoa Kỳ (nay là Bệnh viện phụ sản). Mương hở phía Bắc Tân Sơn Nhất dẫn ra kênh Hy Vọng dài 1,2km đổ vào Tham Lương. Mương hở phía Đông Tân Sơn Nhất, đổ ra Gò Vấp.

Sau năm 1975, lần lượt các mương hở xung quanh Tân Sơn Nhất bị lấp thành cống hộp, các hồ trữ nước (trong trại Hoàng Hoa Thám) bị lấp, xây Khu dân cư Cộng Hòa, Hoàng Hoa Thám. Chưa kể, tất cả kênh trong nội thành bị lấn chiếm, thu hẹp, nhiều đoạn kênh bị lấp đặt cống vì lý do hôi thúi, như kênh Hy Vọng, kênh Hàng Bàng (từ Lò Gốm đến Bình Tiên).

Nếu Sở chỉ nạo vét các kênh mương, mà không tháo dỡ bê tông phần đất không được xây dựng, hạ các code nền cản dòng chảy bề mặt, không phục hồi ao chứa nước trong Hoàng Hoa Thám, hồ Kỳ Hòa, Radar Phú Lâm, Bàu Cát… thì hệ thống cống hộp không đủ thể tích để thoát nước.

Bởi vậy, mới có các bài báo đặt tựa mỉa mai “Gò Vấp, Thủ Đức: Nâng đường cao mấy vẫn không hết ngập”; “Nhiều đường ở TP Thủ Đức ngập nước 24 tiếng chưa rút”.

Trước năm 1975, Nhà Bè, Bình Chánh là vùng ruộng bán ngập (nước lớn ruộng ngập 40-50cm, nước ròng mặt ruộng cao hơn mặt nước 1-2m). Ngày nay, do san lấp ruộng xây nhà, nước không tràn đồng được, mực nước lớn trên dòng sông cao lên, nên Nhà Bè, Bình Chánh chuyển từ “RUỘNG BÁN NGẬP” thành “ĐƯỜNG BÁN NGẬP!


 

CUỘC ĐỜI NGẮN NGỦI MỘT CÁCH ĐÁNG NGẠC NHIÊN…

Thao Teresa

Hai mươi, ba mươi, bốn mươi, hay thậm chí tám mươi năm có thể dường như là một khoảng thời gian rộng lớn khi chúng ta nhìn về phía trước, nhưng trên hành trình cuộc đời, chúng ta lại tự hỏi làm sao những năm tháng ấy trôi qua nhanh chóng như cát lọt qua kẽ tay. Những ngày sinh nhật là những khoảnh khắc vui mừng và kỷ niệm, là những cột mốc đánh dấu hành trình của chúng ta qua thời gian. Nhưng đằng sau những buổi lễ tưng bừng và những ngọn nến được thổi tắt trong sự mong chờ háo hức, có một thực tế sâu sắc hơn, đau đớn hơn. Mỗi ngày sinh nhật không chỉ là dịp kỷ niệm chúng ta đã đi bao xa, mà còn nhắc nhở chúng ta rằng cái chết đang đến gần hơn. Nhà thơ Blake từng viết: “Hãy nhìn thấy một thế giới trong hạt cát, và một thiên đường trong đóa hoa dại; giữ cả vô tận trong lòng bàn tay và cả cõi vĩnh hằng trong một giờ đồng hồ.” Những lời này nhắc nhở chúng ta rằng trong sự bao la của thời gian, từng khoảnh khắc của đời người đều hữu hạn và vô cùng quý giá. Mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút đều là một món quà, một cơ hội để sống trọn vẹn, yêu thương hết mình và để lại dấu ấn của chúng ta trên thế giới này.

Sự ngắn ngủi của cuộc đời dạy chúng ta phải biết trân trọng hiện tại. Quá thường xuyên, chúng ta bị cuốn vào những bận rộn của cuộc sống hàng ngày, trì hoãn những giấc mơ của mình, và để lại sau lưng những lời yêu thương, cảm tạ chưa được thốt ra. Chúng ta tự nhủ rằng sẽ có thời gian—thời gian để hàn gắn những mối quan hệ đã rạn nứt, thời gian để theo đuổi đam mê, thời gian để nói những điều quan trọng nhất. Nhưng tương lai thì bất định, và điều duy nhất chúng ta có thể nắm chắc là khoảnh khắc hiện tại.

Hãy suy ngẫm về lời của Thánh Vịnh: “Lạy Chúa, xin dạy chúng con đếm từng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv 90:12). Sự khôn ngoan nằm ở việc nhận ra sự vô thường của cuộc sống và dùng nhận thức đó để sống có ý nghĩa hơn. Nó mời gọi chúng ta ưu tiên những điều thực sự quan trọng, tìm kiếm ý nghĩa và mục đích trong từng hành động, và để lại một di sản yêu thương và lòng nhân ái. Hãy nghĩ về những khoảnh khắc khiến bạn nghẹn ngào, những bước đi đầu tiên của một đứa trẻ, vòng tay ấm áp của người thân, vẻ đẹp của một hoàng hôn. Đó là những khoảnh khắc định hình cuộc đời chúng ta, những khoảnh khắc mà chúng ta sẽ nhìn lại với nụ cười. Chúng nhắc nhở chúng ta rằng giá trị của cuộc sống không nằm ở số năm chúng ta sống, mà nằm ở chất lượng của những trải nghiệm chúng ta đón nhận và những mối liên kết mà chúng ta xây dựng.

Steve Jobs, trong bài diễn văn nổi tiếng của ông tại Đại học Stanford, đã nói: “Nhớ rằng bạn sẽ chết là cách tốt nhất mà tôi biết để tránh bẫy suy nghĩ rằng bạn có điều gì đó để mất. Bạn đã trần trụi rồi. Không có lý do gì để không theo đuổi trái tim mình.” Khi bạn điều hướng dòng chảy nhanh chóng của thời gian, hãy cam kết sống với sự chủ ý và mục đích. Hãy kỷ niệm những ngày sinh nhật của bạn không chỉ là những dấu mốc của sự tồn tại, mà còn là lời nhắc nhở về sự ngắn ngủi của cuộc đời. Hãy trân trọng từng khoảnh khắc, vì nó là món quà không thể quay lại lần thứ hai.

Bản dịch của Thầy Duc Trung Vu


 

ĐẦY TỘI, ĐẦY TÌNH – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

“Tội của chị đã được tha rồi!”.

“Vì người phụ nữ này – khi thấy những vết nhơ của sự xấu hổ – đã chạy đến rửa chúng tại nguồn nước thương xót, và không đỏ mặt khi nhìn thấy thực khách!” – Grêgôriô Cả.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay nói đến một phụ nữ ‘đầy tội’ nhưng không đỏ mặt. Cô đến với Chúa Giêsu, một người ‘đầy tình’. Ở đâu có tội, ở đó cần tình; ở đâu có tình, tội được giảm khinh! Biệt phái Simon nhìn cô như kẻ ‘có tội’; Chúa Giêsu nhìn cô như người ‘cần tình’.

Tin Mừng tường thuật những gì xảy ra tại nhà một biệt phái. Biết Chúa Giêsu dùng bữa ở đó, một phụ nữ đến, mang theo một bình dầu thơm, quỳ dưới chân Ngài, khóc nức nở; nước mắt cô ướt đẫm chân Ngài. Cô lấy tóc lau, xức dầu và hôn chân Chúa Giêsu. Simon tự nhủ, “Nếu quả ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người phụ nữ đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi”. Là Ngôn Sứ của các ngôn sứ, Chúa Giêsu biết ai chạm vào Ngài, một người ‘đầy tội’, Ngài biết ở một mức độ lớn hơn nhiều so với những gì Simon biết. Vì lý do đó, Ngài đã đối xử với cô một cách ‘đầy tình’.

Simon không thể nhìn quá bề mặt, ông nhìn cô như một người ‘đầy tội’ và trách Chúa Giêsu sẽ ‘nhiễm uế’ vì cô ấy. Để mình ‘nhiễm uế’, Chúa Giêsu tiết lộ cho Simon một bài học. Đó là sự khác biệt giữa tội lỗi với người có tội. Ngài không chấp nhận tội lỗi, nhưng đón nhận tội nhân; không đồng tình với tội lỗi, nhưng xót thương tội nhân; không khoan nhượng với tội lỗi, nhưng khoan dung với tội nhân.

Vậy tại sao người phụ nữ ‘đầy tội’ này lại dám tỏ tình cách công khai với Chúa Giêsu giữa một thế giới của các đấng mày râu, điều mà truyền thống Do Thái không cho phép? Phải chăng cô đã khám phá một điều gì đó trong trái tim ‘đầy tình’ của con người này? Phải chăng con tim khô héo cần tình của cô nay đang ngụp lặn trong suối nguồn tươi mát từ trái tim ‘đầy tình’ của Ngài, và điều này khiến cô không đỏ mặt hay sợ hãi?

Khá trùng hợp, bài đọc Côrintô hôm nay tiết lộ, Phaolô tự coi mình là một người ‘đầy tội’, “Tôi đã ngược đãi Hội Thánh”; coi Chúa Giêsu là người ‘đầy tình’, “Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta”. Ngài đã biến đổi Phaolô thành sứ giả của một Thiên Chúa Xót Thương. Thánh Vịnh đáp ca trào tràn niềm vui, “Hãy tạ ơn Chúa, vì Chúa nhân từ!”.

Anh Chị em,

“Tội của chị đã được tha rồi!”. Đức Phanxicô nói, “Lời tha thứ của Chúa Giêsu thúc giục mỗi người chúng ta không bao giờ dừng lại ở bề mặt của sự việc, đặc biệt là khi có một người trước mặt. Chúng ta được mời gọi nhìn xa hơn, tập trung vào trái tim để thấy ‘mức độ rộng lượng’ mà mọi người có thể có. Không ai bị loại khỏi lòng thương xót của Chúa. Với tình yêu bao la, Ngài chữa lành trái tim ‘đầy tội’ của chúng ta! Tội lỗi của chúng ta không bao giờ làm Ngài sợ hãi!”. Hãy để Ngài đi vào những giờ cầu nguyện của mình, Ngài sẽ tiết lộ tội lỗi và sự yếu đuối của mỗi người. Ngài sẽ làm điều đó với sự dịu dàng, xót thương, ‘đầy tình’, và nhen lên ở đó ngọn lửa thống hối. Và nếu biết đáp ứng, bạn và tôi cũng sẽ được Ngài chào đón như Ngài đã chào đón người phụ nữ.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con ‘đầy tội’, Chúa ‘đầy tình’. Đừng để con rơi vào cạm bẫy xét đoán, giúp con đối xử ‘thâm tình’ với anh em con như Chúa đã đối xử ‘thắm tình’ với con!”, Amen.

 (Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

From: KimBang Nguyen

**************************************

 Thứ Năm Tuần XXIV, Mùa Thường Niên, Năm Chẵn

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.

36 Khi ấy, có người thuộc nhóm Pha-ri-sêu mời Đức Giê-su dùng bữa với mình. Đức Giê-su đến nhà người Pha-ri-sêu ấy và vào bàn ăn. 37 Bỗng một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pha-ri-sêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. 38 Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên.

39 Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!” 40 Đức Giê-su lên tiếng bảo ông: “Này ông Si-môn, tôi có điều muốn nói với ông!” Ông ấy thưa: “Dạ, xin Thầy cứ nói.” 41 Đức Giê-su nói: “Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục. 42 Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?” 43 Ông Si-môn đáp: “Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn.” Đức Giê-su bảo: “Ông xét đúng lắm.”

44 Rồi quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Si-môn: “Ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. 45 Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. 46 Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. 47 Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít.” 48 Rồi Đức Giê-su nói với người phụ nữ: “Tội của chị đã được tha rồi.” 49 Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng: “Ông này là ai mà lại tha được tội?” 50 Nhưng Đức Giê-su nói với người phụ nữ: “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an.” 


 

Bài Học Của Ba-Kim Loan-Truyen ngan HAY

Bài Học Của Ba

12/06/2023

Tác giả tên thật là Nguyễn Thị Kim Loan, sinh năm 1966, là cô giáo tiểu học khi còn ở Việt Nam. Vượt biên và sống ở trại tỵ nạn Thailand từ 1989-1993. Định cư tại Canada từ 1994 đến nay. Tác giả nhận giải đặc biệt VVNM 2021. Sau đây là bài viết mới nhất của Cô, viết về người cha, theo lời kể của một người hàng xóm cũ, hiện đang định cư ở Dallas, Texas.

********

Chồng tôi gọi đến chỗ làm của tôi, báo tin:

– Ba vừa bị một stroke ở nhà bác Hai, xe ambulance đang đưa ba đến bệnh viện downtown. Anh sẽ đi đón Tí thay em rồi đến bệnh viện sau, còn em cứ đến thẳng đó ngay nhé.

Tôi cúp máy, tâm trí lộn xộn vì tin dữ bất ngờ, chiều qua tôi còn lái xe đưa ba đến nhà bác Hai ở chơi vài ngày, hai ba con còn nói chuyện vui vẻ mà bây giờ ba lại bị vậy sao? Dẫu biết rằng ba đã 76 tuổi, bệnh hoạn là điều sẽ xảy ra, nhưng tôi vẫn không thể chấp nhận, suốt con đường đi bộ từ văn phòng ra parking lot mà tay chân bồn chồn, không yên.

Ba không phải là ba ruột của tôi.

Ba và má làm đám cưới trong mấy ngày ba nghỉ phép ngắn ngủi trước khi phải trở lại đơn vị y chang trong bài thơ của Hữu Loan: “cưới vừa xong, là tôi đi …”. Rồi chỉ vài tháng sau, má nhận tin ba mất tích trong mặt trận Đồng Hới, Quảng Bình. Ngày đất nước đổi chủ, khi các sỹ quan của chính quyền VNCH lần lượt bị đưa vào các trại “cải tạo” tập trung, má vẫn nuôi hy vọng ba đang ở trong nhà tù nào đó ở miền Bắc nhưng vẫn chẳng có tin tức gì.

Ở lứa tuổi 25, thiếu phụ trẻ còn chưa hết ngỡ ngàng trước sự đổi thay của thời cuộc, má bơ vơ giữa thế sự nhiễu nhương mà tin của chồng, dù sống hay chết, vẫn mịt mờ xa xăm. Trong khi nhiều người bị ép đi xây dựng vùng kinh tế mới, má  may mắn thoát được vì có mẹ già yếu bệnh, nhưng với lý lịch có chồng “nợ máu nhân dân” má không xin được việc làm ở bất cứ tổ hợp hay hợp tác xã nào dù với đồng lương chết đói.

Thế là đồ đạc của cải trong nhà lần lượt đội nón ra đi, má theo các anh chị em họ hàng và chòm xóm buôn bán đủ nghề lặt vặt cho qua ngày, bữa no bữa đói, khoai sắn, bo bo, mì sợi, cuộc sống bế tắc không có lối thoát nào sáng sủa hơn.

Vài năm sau, ông phó chủ tịch phường trẻ tuổi mới được chuyển về, hay lui tới kiểm tra tình hình hộ khẩu nhân sự trong các tổ dân phố, thấy cảnh thiếu phụ miền Nam chờ chồng của má, ông động lòng thương, hứa sẽ giúp má vào làm trong tổ hợp sản xuất mì sợi của phường. Má trẻ người non dạ, yếu đuối cô đơn, lại mang tâm trạng chịu ơn ông phó chủ tịch, nên trong một phút giây yếu lòng, đã lỡ trao thân cho ông.  Khi biết tin má mang thai, ông phó chủ tịch bị cấp trên phê bình, kiểm điểm, kết tội gian díu với vợ “ngụy quân ngụy quyền”, chịu hình thức kỷ luật về lại quê cũ ngoài Bắc, và từ đó ông đi biệt tăm, không một lời hỏi thăm hay giúp đỡ má trong cơn hoạn nạn.

Má sinh ra tôi trong âm thầm đắng cay (đi biển mồ côi một mình), thiên hạ cười chê đàm tiếu, cuộc sống vốn vất vả lại càng thêm chật vật, nhưng rồi cũng trôi qua khi mọi người xung quanh còn biết bao điều âu lo đối phó với chế độ mới, chính quyền mới. Hàng xóm cũng quen dần, chẳng ai còn dị nghị sự có mặt của tôi trên cõi đời bởi họ còn bận rộn với cơm áo gạo tiền.

Tưởng đâu chuyện của tôi sẽ êm xuôi theo dòng chảy cuộc đời, nào ngờ khi tôi lên 4 tuổi, bà ngoại vừa qua đời không bao lâu, má bỗng nhận được thư ba từ nhà tù Hoả Lò, báo tin sẽ trở về nhà với gia đình. Má sững sờ, hoang mang, xen lẫn niềm sung sướng hạnh phúc đến muốn khóc vì “tưởng người chết đi nhưng nay anh lại về, từ ngục tối hay mộ sâu” như trong một bài hát của Trần Thiện Thanh.

Khi ba vừa xuống xe xích lô ngoài đầu ngõ, đám đông vây quanh đón chào, chúc mừng ba đã hồi sinh từ cõi chết, và nối đuôi đi theo ba đến tận cửa nhà. Trước tiên, họ vui mừng cho ba má tôi đoàn tụ sau bao năm tháng mỏi mòn, tưởng như không còn hy vọng, dù là mong manh. Nhưng họ cũng hiếu kỳ, tò mò chờ xem phản ứng của ba khi nhìn thấy “cục nợ đời” từ trên trời rơi xuống là tôi. Má như đã chuẩn bị sẵn, dẫn tôi ra trước mặt ba, nói nhỏ: “Chào ba đi con!”. Trái với sự tưởng tượng của chòm xóm, ba không biểu lộ gì, mà còn đưa tay ra, mỉm cười, chờ đợi. Tôi ngây thơ bé bỏng nào có biết gì, vội sà vào lòng ba, ôm cổ ba, ríu rít gọi “ba” và đùa nghịch mái tóc khô cứng còn vương bụi đường của ba.

Một hai tuần lễ sau, rồi cả tháng sau, hàng xóm vẫn thắc mắc vì chưa thấy “chiến tranh” nổ ra trong nhà tôi. Họ thì thầm, bàn tán: “Ông ấy là lính tâm lý chiến, đâu phải dạng vừa. Cứ chờ xem ông ấy sẽ có cách xử vợ”, thậm chí có người còn tỏ ra hiểu đời, tuyên bố: “Ối, quân tử trả thù ba năm vẫn chưa muộn!”.

Thể lực yếu và mắt kém, ba còn trong sự quản chế của địa phương, nên ba được người quen đưa vào làm việc trong hãng nước đá phụ việc giao nước đá cho các quán giải khát quanh vùng. Thuở ấy, nghề làm nước đá thịnh hành nên ba cũng phụ má chút đỉnh chuyện chi tiêu hàng ngày. Những buổi chiều cuối tuần, người ta lại thấy ba dẫn tôi đi dạo, lên tận khu cổng xe lửa, ở đó ba ngồi bên vệ đường, vừa hút thuốc vừa ngắm xe cộ qua lại, trong khi tôi vui thích leo lên cây trứng cá, hái những trái chín màu đỏ nhỏ xíu, rồi bỏ vào miệng ăn ngon lành vị ngọt đậm đà lạ kỳ của chúng. Trên đường trở về nhà, thỉnh thoảng ba còn mua một ổ bánh mì thịt, chia cho tôi một nửa, còn nửa kia dành cho má, tôi vừa bước chân sáo bên cạnh ba, vừa gặm bánh mì hồn nhiên trong ánh mắt yêu thương trìu mến của ba.

Có đôi lúc tôi bị mấy bà hàng xóm nhiều chuyện, thì thầm nhỏ to với tôi, kiểu nửa đùa nửa thật: “Mày không phải con của ba mày đâu, về nhà mà soi gương thử xem, mày chả giống ai trong nhà, mà giống ông Năm Lạc ở ngoài Bắc ấy”. Tôi chạy về méc má, má ký đầu kêu tôi đi tắm rửa, sau đó ba ôm tôi vào lòng và xoa đầu tôi: “Con là con gái của ba chớ của ai? Mấy bác chỉ nói đùa thôi mà!”

Đến lúc có chương trình đi định cư theo diện H. O do chính phủ Mỹ đề xướng, cả gia đình tôi lên đường đến Dallas làm lại cuộc đời mới, tươi sáng hơn nhiều so với dưới bầu trời u ám của Việt Nam do “bên thắng cuộc” gây nên.

Nơi đây, cũng như bao gia đình H.O khác, ba má tôi không ngại gian khó, hy sinh làm việc chăm chỉ cho tôi được yên vui học hành và tương lai trên quê hương thứ hai. Qua đây rồi, chẳng còn ai dòm ngó nói ra nói vào chuyện của tôi, cuộc sống gia đình tôi cứ trôi đi êm ả theo dòng thời gian, thế mà lại có ngày chính má lại nói ra sự thật với tôi trong một lần trên giường bệnh sau một thời gian đuối sức sau cả mổ tim vì “heart attack”.

Dù ba hết sức ngăn cản, má vẫn cố gắng nói, để xin lỗi tôi vì đã nói dối, rằng má mang thai tôi trong một lần đi tìm thăm ba và được ở lại qua đêm với ba trong trại “cải tạo”. Má cũng ngỏ lời tạ ơn ba vì tấm lòng bao dung độ lượng của ba, vì đã yêu thương hai má con mà má nguyện một đời ghi nhớ, xin mang theo cả vào kiếp sau. Tôi nhớ rất rõ khuôn mặt ba lúc đó, khóe mắt ướt lệ, nói với má rằng má không có lỗi, vì ba mất tích biệt tăm chẳng biết sống chết ra sao, chính ba mới là người cám ơn má, vì hậu quả những ngày trong tù, ba không còn khả năng sinh con, má đã cho ba món quà quý giá là tôi, để ba được làm ba, được biết cảm xúc ngọt ngào của tình phụ tử.

Má qua đời, để lại cho hai ba con sự trống vắng, hụt hẫng não lòng, nhưng đớn đau và hoang mang nhất vẫn là tôi. Dù biết rằng ai cũng cần biết sự thật của đời mình, nhưng có lúc tôi thà rằng má cứ để quá khứ ngủ yên, để tôi chỉ biết có một người ba kính yêu trên đời, để tôi khỏi phải phân vân về một người bố đã tạo cho tôi hình hài nhưng đã bỏ má con tôi biền biệt không chút xót thương, và ông vẫn hiện hữu đâu đó trên cõi đời này.

Nhưng cũng nhờ sự thật này, tôi mới nhớ lại cả quãng đời đã qua, ba chưa làm điều gì cho tôi một chút nghi ngờ tôi không phải là con ba. Nhớ khi lên bảy lên tám, trong một buổi tối mùa hè mải chơi với lũ bạn ở sân Chùa gần nhà, trời đổ cơn mưa lớn ào ào, kéo dài gần một tiếng đồng hồ, và khi cơn mưa vừa nhẹ hạt, tôi đã thấy ba đang bì bõm lội nước, quần ống thấp ống cao, tay cầm chiếc áo mưa, đến bên tôi đang đứng đợi, cẩn thận mặc áo mưa cho tôi, rồi cõng tôi trên lưng, đưa tôi về nhà an toàn ấm áp xiết bao. Qua bên Mỹ này, hễ khi đi xa nhà (thường là đi thăm họ hàng, người thân khi có việc cần) ba luôn mang quà về cho tôi. Ba luôn thưởng quà cho tôi khi tôi học giỏi, xứng đáng là “con gái rựơu” của ba.

Nhớ ngày tôi được trường Đại Học ở Austin kêu phỏng vấn trước khi nhập học, buổi sáng ngày đó, ba dậy thật sớm vẽ bản đồ đường đi (thuở đó chưa có GPS, Google Map), hai ba con ghé McDonalds uống cafe ăn sáng rồi lên đường. Ba chưa có kinh nghiệm tìm đường nơi thành phố lạ nên bị lạc đường, loay hoay mãi vẫn chưa tìm ra đúng hướng, sợ tôi bị trễ giờ, ba liền gọi taxi đưa tôi đến trường kịp trước giờ hẹn phỏng vấn. Chưa hết, biết tôi thích ăn bánh mì thịt Việt Nam, nên tranh thủ lúc tôi đang còn trong phòng phỏng vấn, ba tìm đường xuống phố Việt mua bánh mì cho tôi, thế là lại bị lạc đường một lần nữa, kết quả là cuộc phỏng vấn chỉ một tiếng đồng hồ, nhưng tôi phải ngồi chờ ba thêm một giờ nữa, hai ba con ăn vội miếng bánh mì trên xe trên đường trở về nhà trước khi trời về chiều để má khỏi sốt ruột.

Biết ba cô đơn nên khi tôi lấy chồng, chúng tôi vẫn ở chung với ba, chăm sóc vui vầy cùng ba theo những thăng trầm của cuộc đời. Để khuây khỏa với tuổi hưu, thỉnh thoảng ba đi gặp gỡ bạn bè cũ, hoặc đến nhà chú bác họ hàng ở chung thành phố, ở lại chơi vài ngày, ba thực sự an vui với tuổi già xế bóng.

Mấy tháng trước, tôi bỗng nhận được một lá thư từ Việt Nam, người gửi là Nguyễn Năm Lạc ở huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam. Bên trong có hai tờ thư, một tờ của bố tôi, Năm Lạc, ông cho biết đã tình cờ may mắn có được địa chỉ của tôi, đã biết má tôi không còn, ông chỉ mong tôi tha thứ vì xưa kia do hoàn cảnh bắt buộc ông phải bỏ rơi má con tôi. Tờ thư thứ hai của người em cùng cha khác mẹ của tôi, kể về những người em khác trong gia đình, về sự vui mừng khi biết có tôi là máu mủ đang ở Mỹ, rồi kể cho tôi nghe cuộc sống khó khăn ở miền quê xa xôi nơi đất Bắc, kèm theo tấm hình đại gia đình cho tôi biết mặt.

Kể từ khi biết được sự thật đời mình, tôi chưa hề mảy may nghĩ đến việc tìm gặp bố, chứ đừng nói đến chuyện liên lạc thư từ. Tôi đọc thư, xem hình mà dửng dưng xa lạ, bởi thời gian đã quá lâu, gần 40 năm rồi còn gì, sao bây giờ họ lại chạm vào vết thương quá khứ đời tôi? Tôi đưa cho ba xem tất cả, không ngờ ba lại khuyên tôi nên viết thư hồi âm và bỏ qua chuyện cũ. Tôi im lặng, xin ba cho tôi một thời gian suy nghĩ để hỏi lại lòng mình.

Tôi nhớ có đôi lần ba kể về khoảng thời gian mười năm ba bị giam trong ngục tối Hỏa Lò ngoài Hà Nội, ba bị đánh đập tra khảo thường xuyên, cho đến ngày được trả tự do, ba vừa bước lên khỏi hầm tối, người ba té nhào bởi đôi mắt hàng chục năm sống dưới bóng tối, nay bị ánh sáng mặt trời chiếu lòa quá mạnh, làm ba bị ngất. Lúc về nhà, nhờ có người thân bên Mỹ gửi thuốc cho ba chữa trị kết hợp đông y, đã cứu đôi mắt ba khỏi mù nhưng thị lực còn rất kém. Tôi đã từng hỏi:
–       Ba có căm thù những người đã đánh đập, hành hạ ba không?

Ba đã trả lời ngay, không cần suy nghĩ, từ tốn nhẹ nhàng:
–       Ba căm ghét chế độ Cộng Sản, còn những con người đánh đập ba, họ cũng chỉ là nạn nhân của chế độ đó mà thôi, ba không oán hận họ, ba đã tha thứ cho họ từ lâu rồi.

Mải mê suy nghĩ, tôi cũng đã đến bệnh viện kịp thời, bác sĩ cho biết ba chỉ bị stroke nhẹ, không nguy hiểm nhưng cần ở lại thêm vài ngày để theo dõi. Ba nằm đó, tuy hơi mệt mỏi nhưng mỉm cười khi thấy tôi, rồi nắm tay tôi:

–       Ba bị nhẹ nhưng có thể sẽ bị nữa, nên nhân dịp này ba muốn nhắn nhủ con một điều…

–       Dạ ba nói đi, con nghe, nhưng chắc chắn là ba sẽ khỏe lại, ba đừng lo nghĩ nhiều.

–       Thì ba vẫn cứ muốn dặn con mà: con hãy viết thư cho bố con, nói lời tha thứ, để lương tâm ông ấy khỏi ray rứt, và nhớ liên lạc giúp đỡ các em con ngoài đó. Hàng năm vợ chồng con đều gửi tiền về Việt Nam giúp người nghèo khó bệnh tật, huống gì đây là những người em cùng cha khác mẹ, cũng là máu mủ của con, một giọt máu đào hơn ao nước lã, con à! Ba đã qua hết những thăng trầm đời người, thấm hiểu những phù du cuộc đời, càng thấm thía hơn hai chữ thứ tha, bởi mang oán hận chỉ làm nặng trĩu con tim, chi bằng tình yêu thương để lòng ta thanh thản, bình an. Con hứa với ba không?

Tôi nhìn ba, xúc động dâng tràn. Ba đã bỏ qua lỗi lầm của má, ba đã bao dung yêu thương tôi như con ruột, ba cũng đã tha thứ cho những con người từng đánh đập hành hạ ba trong tù, và bây giờ ba muốn tôi mở lòng với người bố và nối kết tình thương với những đứa em mà tôi chưa hề gặp mặt. Ba ơi, con thật hạnh phúc khi có ba trong cuộc đời này. Con sẽ làm theo lời ba, cám ơn ba đã làm ba của con và cho con bài học yêu thương, tha thứ.

Edmonton, tháng 6/2023

KIMLOAN


 

 Hệ thống đường hầm chống lũ của Tokyo…

Thao Teresa

Hệ thống đường hầm chống lũ của Tokyo, hay còn gọi là hệ thống thoát nước ngầm lớn nhất thế giới, là một công trình kỹ thuật vô cùng ấn tượng và phức tạp. Nằm dưới lòng đất phía bắc Tokyo, hệ thống này được xây dựng với mục đích ngăn chặn lũ lụt và bảo vệ thành phố khỏi những trận mưa lớn và lũ quét thường xảy ra trong mùa mưa và khi có bão. Đây là một phần quan trọng trong cơ sở hạ tầng của Tokyo, giúp giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra và bảo vệ sinh mạng cũng như tài sản của hàng triệu người dân.

Hệ thống này bao gồm một loạt các bể chứa khổng lồ và đường hầm thoát nước, kéo dài đến khoảng 6,4 km dưới lòng đất với độ sâu tối đa lên đến 50 mét. Nổi bật nhất trong số đó là bể chứa trung tâm – một hầm chứa nước có kích thước khổng lồ, được ví như một “thánh đường ngầm” với trần nhà cao 25 mét, rộng 78 mét và dài 177 mét. Khi xảy ra mưa lớn, nước mưa được thu gom từ các con sông và kênh rạch nhỏ trong thành phố, sau đó được dẫn qua hệ thống đường hầm để tập trung tại các bể chứa. Cuối cùng, nước được bơm ra sông Edogawa thông qua các trạm bơm khổng lồ có công suất cực lớn.

Hệ thống này có khả năng chứa tới 670.000 mét khối nước, tương đương với lượng nước của 25 bể bơi Olympic. Được hoàn thành vào năm 2006 sau 13 năm xây dựng với chi phí khoảng 2,6 tỷ USD, hệ thống thoát nước ngầm của Tokyo không chỉ là công trình ngăn lũ lớn nhất thế giới mà còn là một minh chứng về sự kết hợp giữa kỹ thuật hiện đại và tầm nhìn dài hạn trong quản lý thiên tai của Nhật Bản.

Với sự phát triển nhanh chóng của đô thị và biến đổi khí hậu gây ra những hiện tượng thời tiết cực đoan, hệ thống đường hầm chống lũ này đóng vai trò then chốt trong việc giữ an toàn cho Tokyo, giúp thành phố này tránh được những trận lũ lụt nghiêm trọng mà nếu không có hệ thống này, thiệt hại sẽ khó mà lường trước được.