Học gì qua từng giai đoạn của cuộc đời?

Học gì qua từng giai đoạn của cuộc đời?

Dòng Tên Việt Nam

 

 

 

 

 

 

 

 

Khi còn nhỏ, bé phải được dạy cho tính kỷ luật. Kỷ luật là biết đặt mình vào khuôn khổ, biết giới hạn bản thân, không để mình buông lỏng trong những sở thích và ý muốn. Đứa bé nào cũng thích chơi, thích thoải mái, cộng với ý thức chưa đủ trưởng thành và chưa thể nhận thức được sự việc. Kỷ luật sẽ giúp điều chỉnh con người và tính cách của bé. Hệt như khi muốn uốn cây theo hình thù như ý, người ta phải đưa cây vào một khuôn từ khi nó mới chớm. Sau này khi lớn lên, bé sẽ sống một cách có trật tự, không bừa bãi, không tuỳ hứng, nhưng biết làm chủ bản thân mình theo một khuôn mẫu đúng đắn mà mình đã được huấn luyện từ nhỏ. Kỷ luật không chỉ là nếp sống đúng giờ đúng giấc, nhưng còn là một thái độ biết trên biết dưới, biết mình ở đâu, biết mình cần phải làm gì từ những việc nhỏ nhất. Có kỷ luật, đứa bé như có được nền tảng vững chắc cho một hành trình huấn luyện lâu dài về sau.

Lớn lên một chút, đứa trẻ cần phải học cho được tính trung thực. Khi ý thức vừa mới được hình thành một chút, đứa trẻ cần được giáo dục để hướng ý thức ấy về sự thật, về điều hay lẽ phải, điều đúng đắn. Trung thực là thái độ yêu mến chân lý. Có thì nói có, không thì nói không, chỉ giữ những cái thuộc về mình chứ không tham lam thứ của người khác. Trung thực cũng là thẳng thắn, rõ ràng, không quanh co, lọc lừa, dối trá. Sự trung thực giúp đứa trẻ sống cách quang minh chính đại, không hình thành trong đầu mình những suy tính muốn chiếm đoạt cái này cái kia cho bản thân. Đứa trẻ sẽ học biết cách tôn trọng người khác, biết nghĩ cho người khác.

Thêm một chút nữa, nhất thiết phải tập cho các em một ý thức về sự cầu tiến. Ở cái tuổi chuẩn bị bước vào đời, không có khát khao vươn lên thì sẽ bị diệt vong như có ai đó đã nói rằng: sống một cuộc đời cũng hệt như đi xe đạp, không tiến tới thì sẽ té ngã. Thái độ cầu tiến sẽ giúp các em mở ra với thế giới bên ngoài vốn là một kho tàng rộng lớn những điều huyền bí đang chờ các em khám phá. Các em cần phải đi vào thế giới ấy, lục lọi từng ngóc ngách để hiểu biết và để biến mình thành một phần của nó. Trí khôn của các em sẽ được mở ra, hướng tới những điều mới lạ. Chính những điều ấy sẽ góp phần bồi đắp và làm cho con người các em thêm yêu cuộc sống. Bộ óc vô hạn của các em cần phải được khai thông bởi một khao khát học hỏi và tìm hiểu. Còn có sự cầu tiến thì còn có sự phát triển, sự lớn lên, còn có tầm cao mới để hướng đến.

Vào đời, người trẻ phải thủ đắc cho được sự tự tin vào bản thân. Chắc chắn sẽ có những vấp ngã, những thất bại. Nhưng không bao giờ để cho mình đánh mất niềm tin vào bản thân. Rằng mình là một thực thể duy nhất của vũ trụ này. Rằng không gì có thể khiến mình lụn bại. Rằng mình có thể làm được mọi thứ nếu mình có quyết tâm và dám liều mình thực hiện quyết tâm ấy. Phía trước luôn có một con đường. Sau đám mây đen là mặt trời rực rỡ. Cuối đường hầm là con lộ ngợp nắng với hoa. Tự tin đòi hỏi một thái độ lạc quan, không bao giờ bỏ cuộc, không bao giờ cho phép mình dừng lại, dám táo bạo ước mơ và nỗ lực thực hiện ước mơ ấy trong một sự suy xét cặn kẽ và biết mình. Vào đời, người trẻ sẽ đối diện với nhiều thứ mà trước kia họ không thấy và cũng không thể nghĩ tới. Họ sẽ nhận ra rằng cuộc đời không phải lúc nào cũng tươi đẹp và mọi thứ không phải luôn diễn ra như họ ước mong. Thậm chí nó đôi khi còn rất phũ phàng và cay đắng. Nhưng chính qua những điều đó mà họ sẽ học được nhiều bài học hay, họ sẽ được tôi luyện và trở thành một con người cứng cáp.

Khi đã có chút tiếng tăm và thành công, người ta cần phải học một bài học vô cùng khó khăn: sự khiêm tốn. Khiêm tốn không phải là thu mình vào góc nhỏ, phủ nhận hết mọi điều tốt đẹp và cao cả mà mình đã làm, nhưng là một nhận thức đúng đắn về bản thân mình. Rằng những gì mình có chẳng là gì so với những gì mình chưa có, và ngay cả những gì mình đang có, không phải chỉ do công sức và tài năng của riêng cá nhân, nhưng còn có sự trợ giúp của người khác và đôi khi còn có chút may mắn Trời ban nữa. Rằng “thiên ngoại hữu thiên, nhân ngoại hữu nhân”. Núi này cao còn có núi khác cao hơn. Mình không phải là chóp đỉnh hay trung tâm của vũ trụ. Không bao giờ tự mãn về bản thân để rồi khép mình lại, không còn phấn đấu nữa và tự cho mình quyền phán xét cả nhân loại. Càng thành công, càng cần phải khiêm tốn. Khiêm tốn sẽ tạo thế cân bằng với thành công và giúp người ta tiến xa hơn trên những nấc thang mới.

Khi tuổi đã xế chiều, người ta đã thủ đắc cho mình không biết bao nhiêu kiến thức, kinh nghiệm nhờ trải qua những phong sương của cuộc đời và đối diện với trăm ngàn câu chuyện nhân tình thế thái. Lúc này, người ta cần phải học một bài học xem ra rất ngược ngạo so với những gì cuộc sống dạy họ: học cách buông bỏ. Nhớ lại quá khứ, người ta đã đổ không ít mồ hôi nước mắt để theo đuổi mục tiêu và có được điều mình muốn. Nhưng rồi, con người chợt tự hỏi mình: rốt cuộc mình phấn đấu có những điều ấy để làm gì? Khi tuổi đã cao, sức đã yếu, người ta bỗng yêu cái thân xác này, thấy nó đã tiều tuỵ đi quá nhiều vì thời gian, vì những tính toán, vì phải hao tâm gồng gánh bao nhiêu việc. Khi đôi chân không còn đứng vững, đôi mắt dần nhoà đi, người ta mới biết cuộc sống này chỉ là hư ảo, như mây như gió, như hoa cỏ một thời tuyệt sắc rồi một thoáng tàn phai. Giờ đây, cái cần nhất là sự bình an, thong dong, thoải mái. Chẳng cần thiết phải khư khư giữ lấy những cái mau qua, những hận thù, hay danh dự. Ý thức về sự buông bỏ giúp họ đặt xuống khỏi vai mình những gì cứ đeo đuổi và bám riết họ bấy lâu nay. Họ sẽ dễ tha thứ hơn, sống bao dung hơn, biết chia sẻ hơn, không chấp nhất, không câu nệ. Bất chợt, họ như bắt gặp được chân lý: cái quý nhất trên đời cũng chỉ hệ ở một chữ “tình”. “Tình” chính là cái tinh tuý của con người, cái làm cho con người là con người, cái duy nhất còn đọng lại khi tất cả mọi cái khác của con người tan biến hết. Vậy mà bấy lâu nay, vì mải mê chạy theo dòng xoáy của cuộc đời, họ đã lãng quên hay đánh mất nó. Ngộ ra được điều này, họ bắt đầu sống lại cuộc sống của mình, theo một cách thức sung mãn và tròn đầy nhất.

Cả một cuộc đời, chẳng bao giờ người ta có thể ngừng học. Học để biết cách sống, biết đưa vào cuộc sống mình những nguồn năng lượng dồi dào. Cuộc sống sẽ mãi luôn là một sự bắt đầu, một quá trình “làm mới lại” không ngừng của bản thân!

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Ngày 30-4-1975 Đệ Nhị Cộng Hoà VN mất đi, người VNCH ( Miền Nam VN ) mất những gì? Được những gì?

From facebook: Trần Bang
Ngày 30-4-1975 Đệ Nhị Cộng Hoà VN mất đi, người VNCH ( Miền Nam VN ) mất những gì? Được những gì?

MẤT:
– Mất tư hữu đất đai
– Mất tự do kinh doanh, làm ăn
– Mất tự do đi lại, tự do cư trú
– Mất tự do ngôn luận, mất tự do biểu tình…không còn tự do báo chí, không còn tự do xuất bản, không còn tự do học thuật…
– Mất tự do lập hội, mất tự do hội họp…
– Mất tự chủ Đại Học
– Mất tự do tôn giáo, thờ tự ( Nghĩa trang Quân đội bị quân quản, nhiều cơ sở Tu viện phải đóng cửa, tài sản đất đai thuộc các tôn giáo bị cưỡng chiếm, hay buộc phải hiến tặng, cho mượn….)
– Mất tự do giáo dục ( mọi khoa học, giáo dục… bị bắt buộc nhìn qua lăng kính nhỏ hẹp, sai lầm, ảo tưởng của học thuyết Mác Lê Mao)… đóng cửa trường học tư…
– Mất tự do công dân, mất bình đẳng, bị phân biệt lý lịch khi tìm việc làm, khi đi học, khi chữa bệnh…
– Mất nền Tư pháp độc lập… Toà Án không còn được độc lập xét xử….
– Mất tự do bầu cử, mất tự do ứng cử, mất tự do tranh cử…

ĐƯỢC:
– Được xếp hàng cả ngày (XHCN) mua vài thứ nhu yếu phẩm
– Được ( bắt buộc) học tập chính trị ( chỉ một học thuyết Mác Lê ) hàng ngày, hàng tuần…
– Được “phấn đấu” vào đoàn, đội, hội của ĐCS?
– Được vào làm công ở Tập đoàn sản xuất, được vào công nhân quốc doanh…
– Được ăn bo bo
– Được biết tem phiếu, sổ gạo là gì.
– Được suốt ngày hát bài ” như có bác trong ngày vui đại thắng” dù bố, anh, ông đang đi tù không hẹn ngày về, không biết ở đâu…
– Được (bắt buộc) đi kinh tế mới (từ thành thị lên rừng khai hoang )
– Được mạo hiểm tính mạng, tài sản để… vượt biên.
– Được đi tù không án…
– Được làm chân gỗ cho các cuộc bầu cử, và được đi bầu cử giả vờ theo quy hoạch sẵn của ĐCS.
– Được bắt buộc hiến tặng tài sản, nhà cửa, đất đai, công ty, xí nghiệp, hãng xưởng…

P/s Nội dung tham khảo những người ( cả người theo CS và không CS) sống ở VNCH trước 30-4-1975. Ảnh chôm từ FB Nguyễn Huy Hoàng

 

Hành trình ‘tự diễn biến’ trong giới du học sinh Việt

Hành trình ‘tự diễn biến’ trong giới du học sinh Việt


Du học sinh thường không tránh khỏi những 'cú sốc tư tưởng' nhất định khi ra nước ngoài.

Du học sinh thường không tránh khỏi những ‘cú sốc tư tưởng’ nhất định khi ra nước ngoài.

Có một quá trình “tự diễn biến” trong giới du học sinh Việt Nam ở nước ngoài, mà ngay cả bản thân họ không phải lúc nào cũng nhận thấy.

Theo nhận xét của một chuyên viên tư vấn cho sinh viên nước ngoài ở Mỹ, khi mới bước chân ra “biển lớn,” du học sinh Việt thường khá thụ động và khép kín vì rào cản ngôn ngữ trong giao tiếp với người bản xứ. Tuy nhiên, ngay cả với cộng đồng người Việt Nam, du học sinh Việt cũng không tránh khỏi những “cú sốc tư tưởng” nhất định.

Từ ‘Cộng Sản mới sang…’

Mới đến thành phố Houston, Texas, Mỹ, học được 8 tháng, Như Quỳnh chia sẻ với VOA rằng nhiều bạn bè của cô khi mới sang thường bị cộng đồng người Việt địa phương gọi là “Cộng Sản mới sang”.

“Bạn em nói khi đi đăng ký học lái xe thì ông thầy dạy lái xe, có tư tưởng chống Cộng, nói ‘con này ở bên đó là Cộng Sản, dân Cộng Sản mới qua.’ Lời nói làm cho bạn em tủi thân, vì dù răng, Cộng Sản hay không Cộng Sản thì cũng là người Việt Nam”, Như Quỳnh kể lại.

Tự nhận “vẫn còn rất yêu quý nước Việt Nam”, Như Quỳnh nói “người Việt ở Mỹ có tư tưởng không tốt về Việt Nam là điều bình thường”, và như vậy là “sai lệch”.
… đến tự so sánh

Hầu hết du học sinh Việt Nam mà VOA phỏng vấn đều cho biết khi còn ở trong nước, họ hoàn toàn không để ý đến “ý nghĩa” của ngày 30/4 như các khẩu hiệu, tuyên truyền được lặp lại hàng năm. Họ chỉ đơn giản tập trung vào kế hoạch “ăn chơi” là chính. Nhưng khi ra khỏi Việt Nam, những cuộc biểu tình của cộng đồng gốc Việt vào ngày này lại mang đến “một góc nhìn khác” về ngày được gọi là “giải phóng”.

Mặc dù mình vẫn nói mình là xã hội dân chủ, công bằng, văn minh… Hồi đi học được học như vậy, nhưng khi sang bên này mới thấy không phải như vậy. Khi sang đây, mình thấy ở bên đây mới thực sự là dân chủ.

Quỳnh Võ, một du học sinh vừa tốt nghiệp cao học tài chánh ở Pháp, nói: “Ngày xưa thì 30/4, 1/5 là được nghỉ làm nên mừng muốn chết. Toàn là tuyên truyền không! Theo công cuộc tuyên truyền thì mình thấy nhiều cái cũng nhảm. Mình biết vậy nhưng biết nói gì hơn. Giờ qua đây lại thấy một góc khác: ngày quốc hận!”

Góc nhìn khác không chỉ dừng ở các sự kiện lịch sử, mà còn trong những sự việc hàng ngày khi người trẻ Việt Nam bỗng nhiên được đặt vào một thế giới khác và có cơ hội so sánh.

Thanh Hương, một du học sinh mới sang thành phố Brisbane, bang Queenland, Úc, học chương trình MBA được 2 năm, giải thích về kết luận “Việt Nam không thực sự tự do như mình nghĩ”:

“Mặc dù mình vẫn nói mình là xã hội dân chủ, công bằng, văn minh… Hồi đi học được học như vậy, nhưng khi sang bên này mới thấy không phải như vậy. Khi sang đây, mình thấy ở bên đây mới thực sự là dân chủ. Cái gì cũng có luật lệ rõ ràng, được quyền tự do thật sự, được bảo vệ rõ ràng, từ quyền cho phụ nữ hay tất cả về y tế, giáo dục…, nhất là về quyền con người. Bên này mọi điều đều minh bạch, rõ ràng, được xử lý nghiêm bằng luật. Còn ở Việt Nam thì không như vậy.”

Thanh Hương dẫn chứng một sự kiện điển hình trong nước mà cô theo dõi từ bờ bên kia: “Ví dụ biểu tình Formosa. Người ta chỉ biểu tình để đòi lại quyền được bồi thường do biển bị nhiễm bẩn hoặc chỉ đòi làm minh bạch tại sao lại gây ra ô nhiễm môi trường như vậy thôi, em thấy biểu tình đúng như vậy mà vẫn để xảy ra bạo loạn trong biểu tình rồi chẳng đâu vào đâu hết. Còn bên này mà một sự việc gì đó không rõ ràng là người ta phải biểu tình, và người ta sẽ được cảnh sát hỗ trợ cho việc biểu tình.”

Trong khi vẫn ngầm phản đối quan điểm của cộng đồng người Việt ở Mỹ, Như Quỳnh cũng thừa nhận Mỹ tốt hơn Việt Nam. “Giả sử như ở đây có chương trình hỗ trợ cho người già giống như bảo hiểm Medicare, Medicaid… Mình đi học, nếu mình là resident (thường trú dân), thì cũng có những chương trình hỗ trợ giảm học phí cho người dân ở đây. Nó theo mục đích của người dân nhiều hơn. Nói chung là cái gì ra cái đấy, tính toán rất kỹ nên xã hội và cuộc sống em thấy tốt hơn Việt Nam nhiều”.
Và đắn đo, không về
Cho dù xung đột tư tưởng trong giới du học sinh, những người trẻ có cơ hội được sống ở cả hai bên “chiến tuyến,” là nặng hay nhẹ, thì đa số đều không mong muốn có một “chiến tuyến” nào giữa những con người mang dòng máu Việt. Quỳnh Võ chia sẻ: “Người trẻ hoặc là nhìn với góc độ ngày chiến thắng, hoặc nhìn với góc độ ngày quốc hận, thì cuối cùng, trong lòng Việt Nam sẽ có rất nhiều nước Việt khác nhau.”

… đó là sự điều chỉnh khi bạn phải thích nghi với cái mới. Có vẻ như, đối với tôi, họ đều trải qua các giai đoạn giống nhau cho tới khi họ sẵn sàng thích nghi với văn hóa Mỹ.

Quỳnh Võ và chồng đều là du học sinh từ Việt Nam sang Pháp. Cả hai đã có công việc làm ổn định và một mái ấm hạnh phúc với hai con nhỏ. Cô tâm sự về thay đổi quyết định trở về Việt Nam của gia đình mình:

“Thật ra ai có cơ hội ở lại thì họ ở lại hết. Có ai muốn sống với Cộng Sản đâu? Chẳng qua trước đây họ không nói ra thôi. Ví dụ như em, qua bên này thấy về mặt chuyên môn được làm việc sâu hơn, về học hành cũng được học thích hơn. Ngay cả một chuyện thực tế là bây giờ con cái em, mình có con rồi, con đi học trong một môi trường trong veo như vậy, tự nhiên về mặt cá nhân mình cũng đắn đo khi quyết định về dù đó là về cho con đi nữa”.

Giải thích về những thay đổi trong tư tưởng của du học sinh, cô Camila McTighi, chuyên viên tư vấn cho học sinh nước ngoài của Trường Cao Đẳng Cộng Đồng Bắc Virginia, Mỹ, đưa ra nhận xét chung: “Tôi có thể nói đó là sự điều chỉnh khi bạn phải thích nghi với cái mới. Có vẻ như, đối với tôi, họ đều trải qua các giai đoạn giống nhau cho tới khi họ sẵn sàng thích nghi với văn hóa Mỹ”.

Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nguyễn Phú Trọng, gần đây liên tục đề cập đến mối nguy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong giới Đảng Viên, công chức chính quyền. Hồi đầu tháng 1/2017, ông Trọng yêu cầu Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam xây dựng và thực hiện cơ chế bảo vệ, khuyến khích người dân phản ánh, tố giác, đấu tranh chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nhưng có một hành trình “tự chuyển hóa” mà không cần có một cuộc vận động nào đang diễn ra trong giới du học sinh, trong đó có không ít người là thế hệ tiếp theo của những người Cộng Sản.

TT Trump: ‘Tiếc cuộc sống trước kia vì tưởng làm tổng thống thoải mái hơn’

TT Trump: ‘Tiếc cuộc sống trước kia vì tưởng làm tổng thống thoải mái hơn’

T
Tổng Thống Trump lúc nào cũng có Mật Vụ bảo vệ và “đi đâu một mình cũng không được.” (Hình: AP/Evan Vucci)

WASHINGTON, DC (NV) – Tổng Thống Donald Trump hôm Thứ Năm nhìn lại 100 ngày đầu tiên của ông ở Tòa Bạch Ốc với cái nhìn thèm muốn về cuộc sống trước khi làm tổng thống.

Trả lời cuộc phỏng vấn của phóng viên hãng thông tấn Reuters, tổng thống nói: “Tôi yêu cuộc sống trước đây, có nhiều thứ chờ đợi tôi. Ở đây tôi phải làm việc nhiều hơn. Tôi tưởng làm tổng thống sẽ được thoải mái hơn.”

Ông than rằng ở địa vị hiện tại ông có quá ít cuộc sống riêng tư và đến nay vẫn đang cố làm quen với việc được Mật Vụ bảo vệ suốt ngày đêm và đi đâu cũng có họ kè kè cạnh bên.

Ông Trump tâm sự: “Quí vị trở thành bị giam hãm ngay trong tổ kén của chính mình vì quí vị được bảo vệ quá kỹ, đến nỗi quí vị muốn đi đâu một mình cũng không được.”

Mỗi khi tổng thống rời Tòa Bạch Ốc, thường thường ông di chuyển trên một chiếc limousine hoặc một chiếc SUV. Ông nói ông tiếc những ngày được tự mình ngồi sau tay lái.

Tổng Thống Trump than tiếp: “Tôi thích lái xe nhưng bây giờ tôi không còn được tự lái nữa.”

Từ hồi bắt đầu tranh cử, ông thường xuyên đụng độ với các cơ quan truyền thông nên ông né không đến dự buổi dạ tiệc White House Correspondents’ Dinner được tổ chức tại thủ đô Washington vào đêm Thứ Bảy, vì ông có cảm tưởng ông bị giới truyền thông đối xử bất công.

Được hỏi trong tương lai ông có đến dự không, thì Tổng Thống Trump đáp: “Năm tới tôi sẽ có mặt, chắc chắn như vậy.”

Buổi dạ tiệc do White House Correspondents’ Association tổ chức, mà đặc phái viên Jeff Mason của Reuters giữ chức chủ tịch. (TP)

Sám hối tội ác chiến tranh, người cộng sản không làm được?

Sám hối tội ác chiến tranh, người cộng sản không làm được?

 Kính Hòa, phóng viên RFA

Bức tường khắc tên những chiến binh Mỹ tử trận ở Việt Nam, tại Washington, DC. Ảnh chụp ngày 11/11/2016. AFP photo

Kỷ niệm 42 năm ngày chiến tranh Việt Nam kết thúc, ngày 26 tháng tư tại đảo Jeju, Hàn Quốc, một bức tượng người mẹ ôm con mang tên Lời ru cuối cùng được khánh thành.

Theo báo chí Việt Nam thì bức tượng này hình thành trong trào lưu các cựu chiến binh Hàn Quốc nhìn nhận những hành động tội ác mà họ đã gây ra trong cuộc chiến Việt Nam.

Các cựu chiến binh Mỹ cũng có những hành động tương tự bấy lâu nay.

Ở phía ngược lại, không có những hành động tương tự từ phía lực lượng của Đảng Cộng sản.

Tại sao?

Bắt đầu câu chuyện với chúng tôi, nhà báo Võ Văn Tạo hiện sống ở Nha Trang nói về chiến tranh:

“Chiến tranh nào cũng tội lỗi hết, chả có cuộc chiến tranh nào tránh được những sai lầm, cũng như chuyện gây ra tội ác, dù mục đích này hay mục đích khác, thì nó cũng đều gây tai nạn cho người dân, thương vong cho người dân. Đó là điều khó tránh trong những cuộc chiến tranh lớn”.

Ông Võ Văn Tạo từng tham gia chiến tranh Việt Nam trong hàng ngũ bộ đội cộng sản, từng tham dự chiến dịch khốc liệt 1972 tại chiến trường Quảng Trị.

Ông Hoàng Ngọc Diêu, hiện sống ở Úc, ra đi từ Việt Nam sau năm 1975, nhận định về hành động sám hối của các cựu chiến binh Hàn Quốc:

“Cúi đầu chấp nhận những việc mình đã làm sai trong quá khứ, là một hành động can đảm. Họ nhận được cái đúng và cái sai, chấp nhận, công khai với mọi người rằng họ đã làm một hành động sai. Theo tôi đó là một hành động rất nhân bản, bởi thật sự trong quá khứ họ đã làm những việc sai. Họ không dùng lý do chiến tranh để biện hộ cho họ”.

Lực lượng Hàn Quốc, hay còn gọi là Nam Hàn, tham gia chiến tranh bên cạnh lực lượng miền Nam Việt Nam và quân đội Hoa Kỳ, có hai sư đoàn đóng quân dọc theo các tỉnh miền Trung từ Quảng Ngãi cho đến Nha Trang. Ông Võ Văn Tạo là người quê ở vùng này nói rằng trong nhiều trận càn quét binh lính Nam Hàn đã giết chết nhiều dân thường.

Những hoạt động tưởng nhớ chiến tranh với cảm giác tội lỗi cũng xảy ra đối với quân đội Hoa Kỳ, khi một số cựu chiến binh trở về làng Sơn Mỹ tưởng nhớ trận thảm sát dân thường ở đây. Hay gần đây nhất người ta nói đến lời thú nhận phạm tội của ông Bob Kerrey, cựu dân biểu Hoa Kỳ đã từng chỉ huy một trận càn ở tỉnh Bến Tre làm chết nhiều dân thường.

Về phía bộ đội cộng sản, người ta hay nói đến biến cố Mậu Thân 1968, khi mà hàng ngàn người dân thường bị bắn chết và vùi chôn tập thể ở thành phố Huế.

Tuy nhiên cho đến nay không có một lời thú nhận nào về hành động đó từ phía Đảng Cộng sản Việt Nam, mặc dù theo ông Hoàng Ngọc Diêu, ngày càng có nhiều chứng cứ, hình ảnh và tư liệu chứng minh rằng có cuộc thảm sát Mậu Thân Huế 1968.

“Đó là một hành động che đậy thiếu can đảm, thiếu minh bạch của một nhà cầm quyền luôn tự xưng là đúng đắn và chính nghĩa. Có lẽ là với lý do bảo vệ cái họ cho là chính nghĩa nên họ không dám minh bạch những chuyện đó”.

Ông Võ Văn Tạo đưa ra một sự phân tích về thái độ khác nhau đối với quá khứ phạm tội ác chiến tranh như vậy từ hai phía:

“Tôi nghĩ rằng ở những nước có tự do ngôn luận thì lương tâm con người ta được trình bày một cách đầy đủ. Còn ở Việt Nam thì nó khác, những quyền ăn quyền nói, tự do, lương tâm,… đều bị bóp nghẹt hết. Tự do chính trị, tự do tư tưởng cũng thế. Nhà nước cộng sản Việt Nam luôn thực thi chính sách tuyên truyền một chiều, tô hồng tất cả những gì Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện hoặc chủ xướng, và bôi đen cái mà họ không thích. Điều đó dẫn đến chuyện hầu hết bộ đội của Việt Nam, sau cuộc chiến, không bao giờ tự vấn lương tâm rằng mình đã làm gì trong chiến tranh mà gây tội ác”.

Tuy nhiên ông Tạo nói rằng không phải người bộ đội cộng sản nào cũng hoàn toàn không tự vấn lương tâm như vậy. Ông kể lại câu chuyện người bạn của ông là ông Trần Đức Thạch đã nhận nhiệm vụ che giấu cuộc thảm sát dân thường tại chiến trường Xuân Lộc vào năm 1975. Lúc đó, sau khi bị một tổn thất nặng nề bị mất 250 tay súng, cộng với sự tuyên truyền của các chính trị viên rằng vùng Xuân Lộc là nơi sinh sống của những người gốc Bắc di cư, chống cộng quyết liệt, đơn vị của ông Thạch gây ra một cuộc thảm sát dân thường để trả thù. Ông Trần Đức Thạch bị ám ảnh và trở về chiến trường xưa thắp hương hối hận.

Tuy nhiên ông Võ Văn Tạo nói rằng trường hợp như ông Thạch là một trường hợp riêng lẻ rất hiếm hoi.

K.H.

Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/the-penitent-of-war-why-communists-cannot-do-that-kh-04272017080451.html

Vụ Đinh La Thăng: Ván cờ sinh-tử chỉ mới bắt đầu

Vụ Đinh La Thăng: Ván cờ sinh-tử chỉ mới bắt đầu


Đinh La Thăng (trái) và Nguyễn Phú Trọng.

Đinh La Thăng (trái) và Nguyễn Phú Trọng

Không bắn pháo hoa!

Lễ kỷ niệm 30 tháng Tư “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” năm 2017 đặc biệt chưa từng thấy: cùng vào cuối giờ chiều ngày 27/4 khi các tờ báo trong nước được Ủy ban Kiểm tra trung ương “phát lệnh nổ súng” để đăng nguyên bản kết luận kiểm tra hàng núi vụ việc bị xem là “rất nghiêm trọng” tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam) cùng trách nhiệm của đương kim ủy viên bộ chính trị Đinh La Thăng, một phó chủ tịch của chính quyền TP.HCM là bà Nguyễn Thị Thu đã như ngậm ngùi thông báo với báo giới “Ban bí thư không cho phép thành phố tổ chức bắn pháo hoa 15 phút vào đêm 30/4”, dù trước đó thành phố này đã làm văn bản xin “bắn”.

Không có lời giải thích nào từ Ban bí thư của ông Đinh Thế Huynh về việc không cho bắn pháo hoa, nhưng một phó giám đốc Sở Văn hóa – thể thao của TP.HCM đã tiết lộ: tùy vào tình hình thực tế, chính trị xã hội và mỗi giai đoạn khác nhau…

Hoàn toàn không phải lý do “tiết kiệm” cho số tiền chỉ khoảng một chục tỷ đồng chi phí bắn pháo hoa – chỉ bằng 1/340 so với khoản lỗ mà Trịnh Xuân Thanh đã gây ra tại PVC – một doanh nghiệp con thuộc Petro Vietnam từ thời ông Đinh La Thăng còn là Chủ tịch Hội đồng thành viên.

Có thể cho rằng đây là lần đầu tiên TP.HCM kỷ niệm lễ 30/4 mà không được bắn pháo hoa, trong khi bầu không khí trước ngày này dường như không có gì bất thường về mặt an ninh. Cũng chưa thấy dấu hiệu nào để hình thành một “làng kháng chiến Đồng Tâm” tại thành phố này…

Vậy thì sợ gì mà không “bắn”? “Nội bộ” chăng?

Có vẻ “bài học Quân khu 9” vào thời gian trước đại hội 12 cùng vụ “tướng chữa bệnh” Phùng Quang Thanh vẫn còn nguyên ám ảnh.
Chiến thắng thứ hai
Một nỗi ám ảnh khôn nguôi đã đặc cách dành cho Tổng bí thư Trọng từ sau đại hội 12, cho dù ông đã lau được nước mắt trước đối thủ chính trị số một là ông Nguyễn Tấn Dũng.

Nỗi ám ảnh ấy còn đeo đẳng ghê gớm, đã trở nên cao trào mất ngủ bằng vụ biến mất cực kỳ thách thức của Trịnh Xuân Thanh. Cho dù ông Nguyễn Tấn Dũng đã cam kết trở thành “người tử tế”, vẫn còn không thiếu kẻ luôn chực chờ gây hậu họa cho ông Trọng.

Cuộc chiến “chống tham nhũng” của tổng bí thư cũng bởi thế đã dần hóa thân vào ân oán quyền lực và thể diện.

Nhưng phải mất đến một năm một quý từ sau đại hội 12 rạng rỡ thắng lợi, Tổng bí thư Trọng mời giành được chiến thắng thứ hai.

Bài bản được lặp lại phong cách của Vương Kỳ Sơn của Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung Quốc mà ông Nguyễn Phú Trọng đã dẫn đoàn “học tập” vài năm trước: dù không có được nhân chứng Trịnh Xuân Thanh, cũng chẳng trưng ra lời khai nào của Vũ Đức Thuận – nguyên trợ lý của Đinh La Thăng, vẫn còn sờ sờ ra đó một núi hậu quả bị cho là trách nhiệm của ông Thăng thời còn tại vị nơi Petro Vietnam, chưa kể một “hình án” có dấu hiệu rất rõ là 800 tỷ đồng mà Petro Vietnam góp vào Ngân hàng Đại Dương của Hà Văn Thắm đã hoàn toàn biến mất.

Không phải Bộ Công an có vẻ khá chậm chạp ngay cả khi tổng bí thư đã “tự cơ cấu” vào Thường vụ đảng ủy công an trung ương vào tháng 9 năm 2016, mà Ủy viên bộ chính trị Trần Quốc Vượng của Ủy ban kiểm tra trung ương mới bắt buộc phải nổi lên như một Vương Kỳ Sơn của Việt Nam.

Khó mà hình dung khác hơn, cử chỉ Ủy ban Kiểm tra trung ương công bố kết luận về Petro Vietnam ngay trước khi Hội nghị trung ương 5 của đảng cầm quyền diễn ra là có chủ ý. Cùng nhận định “rất nghiêm trọng” của ủy ban này đối với vụ Petro Vietnam, việc Ủy ban Kiểm tra trung ương nêu đề nghị chính thức gửi Bộ chính trị và Ban bí thư về “kỷ luật đồng chí Đinh La Thăng” tất sẽ dọn đường cho Hội nghị trung ương 5 bỏ phiếu kỷ luật Bí thư TP.HCM.

Nếu thông tin dư luận về việc Ban bí thư đã thống nhất kỷ luật ông Đinh La Thăng với mức độ “cảnh cáo về mặt đảng” là đúng, mức kỷ luật tại Ban chấp hành trung ương thông thường sẽ không nhẹ hơn. Và chỉ cần có thế, đương nhiên chức bí thư thành ủy TP.HCM sẽ một sớm một chiều bị tước khỏi tay ông Đinh La Thăng. Để trong trường hợp khả quan nhất, ông Thăng cũng chỉ nhận được một chức vụ “làng nhàng” nào đó trong bộ máy trung ương – gần giống với đương kim Trưởng ban Kinh tế trung ương Nguyễn Văn Bình, nhưng có lẽ thấp hơn ông Bình.

Còn nếu nặng hơn, đó sẽ là “cách chức về mặt đảng”, thậm chí khai trừ đảng và mở đường đến truy cứu trách nhiệm hình sự liên quan những vụ việc tại Petro Vietnam. Khi đó thì đừng có nghĩ gì đến việc tồn tại trong Bộ Chính trị, thậm chí trong Ban chấp hành trung ương.

Báo nhà nước Việt Nam, bỉ bôi thay, đang rầm rộ khởi phát một chiến dịch “xét lại Đinh La Thăng”, cho dù chỉ mới năm ngoái chính những tờ báo này đã tung hô ông Thăng lên tới mây xanh, còn gần đây nhất lại câm bặt vụ nông dân Đồng Tâm, Hà Nội phản kháng triều đình.

Nếu vụ ông Đinh La Thăng diễn ra “đúng quy trình” và theo đúng tuyên ngôn “kỷ luật vài người để cứu muôn dân” của ông Trọng, bàn cờ chính trị Việt Nam sẽ được “tái cơ cấu” thấy rõ: cùng với ông Thăng, nhân vật thứ hai đã quá mang tai tiếng là Ủy viên bộ chính trị Nguyễn Văn Bình cũng có thể bị “xét lại”. Hoặc ở vào thế “quy thuận triều đình”, ông Bình sẽ ngồi yên tại Ban Kinh tế trung ương cho đến lúc đủ tuổi hưu.
Ván cờ sinh – tử bắt đầu!
Hội nghị trung ương 5 cũng bởi thế có thể mang đến triển vọng “phục thù” cho Tổng bí thư Trọng đối với thất bại không thể cơ cấu hai nhân vật Vương Đình Huệ và Nguyễn Bá Thanh vào Bộ Chính trị tại Hội nghị trung ương 7 – diễn ra vào tháng 5/2013.

Chiến thắng thứ hai của Tổng bí thư Trọng, dù khá muộn màng, vẫn mở toang cánh cửa để ông Trọng có dịp “hội kiến” với cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Có vẻ ông Trọng không còn “đường” nào khác.

Không phải đại hội 12. Giờ đây, ván cờ quyết định sinh – tử mới bắt đầu.

Khỏi phải nói, cũng có thể hình dung ông Nguyễn Tấn Dũng và “dây” của ông đang ở vào thế nguy biến đến thế nào.

Nhưng ông Dũng sẽ làm gì?

Tôi đã có một Việt Nam như thế……

Tôi đã có một Việt Nam như thế……

Ngày xưa tôi đã có một thành phố được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông. Tuy nó còn thua xa những thành phố ở những nước phát triển, nhưng nó là điều gần nhất với văn minh mà đất nước tôi có. Ngày xưa tôi đã có một thành phố mà những người ở vùng khác luôn ngưỡng mộ và ao ước để trở thành một người dân ở đó. Thành phố đó tuy nhỏ nhưng luôn mở rộng cửa để đón người tứ xứ về làm ăn buôn bán. Người dân ở thành phố đó chẳng bao giờ quan tâm đến bạn từ nơi đâu tới, cha mẹ bạn là ai, bạn nói tiếng Việt với giọng bắc hay nam. Họ cũng không bao giờ phân biệt người khác qua cái hộ khẩu. Ngày xưa tôi đã có một thành phố là đầu tàu của cả nước, là sự tổng hợp của những văn hóa và tinh hoa của thế giới. Thành phố đó là nơi mọi người nhìn vào để học hỏi và noi gương. Ngày xưa, tôi đã có một thành phố như thế.

Ngày xưa tôi có những anh cảnh sát khiến tôi luôn cảm thấy an toàn và trật tự. Tôi đã có những anh cảnh sát mà tôi luôn tin tưởng và luôn tìm đến khi có một vấn đề gì cần giải quyết. Họ không bao giờ đi vòng vòng kiểm tra tạm trú hay tạm vắng, hay đúng hơn là làm có cái thứ gì gọi là tạm trú tạm vắng đâu mà kiểm tra. Tôi đã có những anh cảnh sát nếu phải giữ gìn trật tự đường phố và vỉa hè, họ cũng không bao giờ đánh đuổi những người bán hàng rong. Họ chỉ nhắc khéo và mỉm cười. Và nếu họ phải kêu đi thì họ sẽ sẵn lòng phụ giúp dọn dẹp. Tôi đã có những anh cảnh sát không bao giờ đánh dân, những người sẽ luôn sẵn lòng hy sinh bảo vệ tôi. Tôi đã có những anh cảnh sát trên xa lộ mà tôi gọi là những con bồ câu trắng, đó là những anh cảnh sát xa lộ luôn sẵn lòng giúp tôi đẩy chiếc xe nếu nó bị hư dọc đường. Tôi đã có những anh cảnh sát mà tôi luôn ngưỡng mộ. Ngày xưa tôi đã có những anh cảnh sát như thế.

Ngày xưa thành phố của tôi có các bệnh viện chuyên chữa bệnh miễn phí cho người bệnh, nếu có viện phí cho dù có cao đến mức nào, thì cũng không từ chối chữa bệnh. Tôi đã có một hệ thống y tế không phân biệt giàu nghèo. Một hệ thống y tế dù phải hoạt động theo quy luật tài chính, nhưng không bao giờ để tiền làm cản trở y đức. Tôi đã có một hệ thống y tế sẵn lòng kêu một chiếc trực thăng để giải cứu bất cứ ai gặp nạn.  Tôi đã có những bác sĩ và y tá chuyên tâm làm việc và ít khi nào, nếu có, vòi tiền bệnh nhân. Ngày xưa, tôi đã có một hệ thống y tế như thế.

Ngày xưa tôi đã có những người thầy và người cô luôn dạy tôi cách làm người trước khi dạy tôi học thức. Tôi đã có những người thầy cô luôn tận tâm giảng dạy, luôn học hỏi để trao dồi kiến thức. Tôi đã có những thầy cô, tuy tư tưởng vẫn mang tính chất văn hóa Nho Giáo, những luôn cho tôi phát biểu, luôn cho tôi chỉ trích, luôn cho tôi không đồng ý. Tôi có thể công khai phản đối bài tập, tôi có thể biểu tình để đòi hỏi quyền lợi mà tôi cho rằng mình nên có. Tôi đã có những thầy cô luôn mang tầm hồn của những nhà học thức. Ngày xưa tôi đã có những người thầy và người cô như thế.

Ngày xưa tôi đã có những nhạc sĩ tài ba, những nhạc sĩ sáng tác những bài hát mà tôi nghe không bao giờ biết chán. Họ ít khi nào, hoặc chẳng bao giờ, đạo nhạc. Vì mỗi bài họ sáng tác là một tác phẩm nghệ thuật.

Ngày xưa tôi đã có những nhà sách bán đầy sách, mọi thể loại sách. Nơi đó là nơi tôi gọi là những thư viện tri thức. Nơi đó bán những cuốn sách của nhiều tác giả của nhiều quốc gia khác nhau. Nơi đó thậm chí bán những cuốn sách mà tôi không hề thích và đồng ý chút nào. Nhưng đã là nhà sách thì phải da dạng và phong phú. Ngày xưa tôi đã có những nhà sách như thế.

Ngày xưa tôi đã có một Tổng Thống khiến tôi cảm thấy hãnh diện. Ông ấy có thể nói tiếng Anh, đủ để hiểu, đủ để trả lời phỏng vấn của các phóng viên quốc tế, đủ để đàm phán với các nhà lãnh đạo quốc tế, đủ để cất lên tiếng nói cho tất cả người dân dù đa số người dân không bầu chọn ông ta. Ngày xưa tôi đã có một Tổng Thống khiến tôi tự tin để nói với các bạn bè quốc tế rằng “that is our President.” Ngày xưa, tôi đã có một Tổng Thống Như Thế.

Ngày xưa tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng khiến tôi tự hào về lực lượng Quân Lực. Tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng khiến tôi cảm thấy an toàn, cho dù đất nước vẫn còn trong thời chiến. Tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng khiến tôi cảm thấy yêu nước để sẵn lòng mặc bộ quân phục để bảo vệ đất nước. Và cho dù có chết thì tôi cũng vinh dự. Ngày xưa, tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng như thế.

Ngày xưa tôi đã có một Việt Nam khiến tôi muốn trở về. Khi tôi hoàn thành chương trình du học của mình, tôi không màn đi tìm việc làm ở nước sở tại, cũng chẳng quan tâm đến thẻ xanh hay thẻ đỏ, cũng chẳng mộng mơ hay để trở thành một công dân của nước khác, cũng không nghĩ đến việc mình nên ở hay về, vì điều duy nhất trong đầu tôi là trở về. Cho dù đất nước đó vẫn đang trong thời chiến, cho dù nơi ấy tôi phải làm việc nhiều lần hơn, cho dù nơi ấy có nhiều rủi ro hơn. Nhưng tôi chỉ muốn trở về, đơn giản, bởi vì nơi đó, đất nước Việt Nam đó, mảnh đất đó là nơi tôi gọi là nhà. Vì tôi chỉ muốn về nhà. Ngày xưa, tôi đã có một Việt Nam như thế.

Ngày xưa tôi đã có một nước Việt Nam khiến tôi tự hào. Tôi đã có một nước Việt Nam khiến tôi không thổ thẹn khi cầm hộ chiếu ra nước ngoài và không cảm thấy xấu hổ khi nói “I’m Vietnamese.”

Ngày xưa tôi đã có một Việt Nam như thế. Tôi đã từng có một Việt Nam như thế. Nhưng đó là quá khứ. Bởi vì bây giờ nước Việt Nam như thế đã không còn. Nhưng tôi lại muốn nó trở lại. Tôi muốn có một nước Việt Nam như thế. Bạn có thể gọi tôi hoang tưởng hay gọi tôi mơ mộng. Tôi không mơ mộng hay ảo tưởng. Tôi cũng không tôn vinh bất cứ thể chế hay chế độ nào. Tôi chỉ muốn có một nước Việt Nam như thế. Có thể bạn sẽ hỏi: “Vì sao? Để làm gì?” Đơn giản, bởi vì ngày xưa tôi đã có một nước Việt Nam như thế.

Ku Búa @ Café Ku Búa

PS: Tôi là một người sinh ra khi nước Việt Nam như thế đã không còn nữa.

LƯỢC LẠI LỊCH SỬ VÙNG ĐẤT NAM BỘ

From facebook: Nguyễn Vô with Bich Nguyễn and 41 others.

THEO DÒNG LỊCH SỬ

BÀI 085: LƯỢC LẠI LỊCH SỬ VÙNG ĐẤT NAM BỘ

Về nguyên tắc của công pháp quốc tế, biên giới quốc gia đã được định hình trong những biến cố lịch sử từ khi nó được thế giới công nhận, không hồi tố. Đòi lại vùng đất mà cách đây hàng trăm năm đã được sát nhập vào quốc gia khác mà chủ yếu là do Tổ Tiên mình dâng hiến là không thể xem xét. Sam Rainsy chỉ lợi dụng vấn đề này để kích động tính dân tộc của người Khmer mà thôi.
Vào sáng thứ Ba 8/7/2014 khoảng 200 người tụ tập biểu tình trước Đại sứ quán Việt Nam ở thủ đô Phnom Penh của Campuchia.
Thực chất đấy là việc các thế lực đối lập cực đoan ở Campuchia mà đại diện là phái Sam Rainsy phối hợp với truyền thông phương Tây, có sự bảo trợ của Trung Quốc đang kích động một nhóm sinh viên biểu tình để phản đối ông Trần Văn Thông Đại sứ Việt Nam tại đây vì đã giải thích:
– Pháp vào Việt Nam năm 1858, năm 1863 vào Campuchia …
– Khi vào Đông Dương, Pháp không cắt đất Việt Nam cho Campuchia và cũng không cắt đất Campuchia cho Việt Nam. Cho tới khi nhân dân Đông Dương đấu tranh giành độc lập, khi rút khỏi Đông Dương Pháp cũng không cắt đất Campuchia cho Việt Nam.
Chúng yêu cầu: “Ông Thông phải xin lỗi công khai về việc ông ta hiểu lầm về lịch sử Kampuchea Krom, mà nay là một phần của miền Nam Việt Nam.” Thực chất, ông Thông đã nói đúng.
Để hiểu rõ vấn đề này, tôi xin LƯỢC LẠI LỊCH SỬ VÙNG ĐẤT NAM BỘ như sau:

1. VƯƠNG QUỐC CỔ PHÙ NAM
Vùng đất trù phú Nam Bộ của Việt nam ngày nay, từ khu vực Ðồng Nai đến Hà Tiên xưa thuộc Vương Quốc Phù Nam. Phù Nam là tên phiên âm tiếng Hán của từ Phnom có nghĩa là núi. Vương quốc Phù Nam là vương quốc đầu tiên hình thành tại Ðông Nam châu Á, tồn tại từ đầu thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên.
Lịch sử quốc gia này được biết đến bắt đầu từ khoảng năm thứ nhất sau Công nguyên, tương đương với nhà Tây Hán Trung Hoa.
Theo truyền thuyết thì một vị giáo sĩ anh hùng (Brahman) người Ấn Độ tên là Kaundinya được thần linh chỉ đường xuống thuyền xuôi về hướng đông. Sau một cuộc hành trình đầy gian truân, thuyền của Kaundinya đến được đất liền của đồng bằng sông Cửu Long. Bỗng từ đất liền xuất hiện một mỹ nhân đi trên chiếc thuyền nan bơi ra chặn thuyền của Kaundinya lại. Mỹ nữ này là Nữ Chúa Soma, con gái của vua Rắn Hổ mười đầu. Trận thư hùng diễn ra giữa anh hùng và giai nhân. Nhờ phép thuật thần thông nên Kaundinya thắng trận. Nữ chúa Soma cầu hòa. Sau đó không lâu hai người yêu rồi cưới nhau sinh ra một người con trai. Người con trai này trở thành vị vua đầu tiên của Vương quốc Phù-Nam lấy hiệu là KAMPU.

Kinh đô trù phú của vương quốc được xây dựng tại thành Vyadhapura.
Vào năm 245 sau Công nguyên nhà Hán Trung Hoa sai sứ giả là K’ang T’ai đi kinh lý vương quốc Phù Nam. Ông đã mô tả là vương quốc này đã biết cách luyện kim, kinh đô Vyadhapura có xây thành bằng gạch kiên cố chung quanh, có hệ thống kênh đào để thuyền bè có thể đi xuyên qua lãnh thổ …
Trong vòng 300 năm sau ngày lập quốc, Phù Nam đã có một hạm đội chiến thuyền và quân lực hùng mạnh và đã chinh phục được hầu như toàn bộ những khu dân cư của vùng Mã Lai – Thái lan – Miên và nam Miến Ðiện để kiểm soát đường hàng hải của các thương thuyền giữa Trung Hoa và Ấn Ðộ.

Những thần dân của Phù Nam xưa thuộc giống người thổ da đen Khmer, Môn-Khmer, Miến, và dân đa đảo Malay-indônêsiên. Ngôn ngữ sử dụng thuộc hệ Ấn độ pha trộn với nhiều sắc thái, thổ ngữ địa phương.
Người nước Phù Nam theo đạo Bà La Môn và Phật giáo.
Vương quốc Phù Nam đạt đến sự cực thịnh dưới triều vua Kaundinya Jajavarman (478-514).
Vương quốc Phù Nam bị suy tàn bởi nội loạn và sự nổi dậy của dân tộc Khmer (một xứ phiên thuộc của Phù Nam), tràn sang từ vùng đất thuộc nước Lào bây giờ.
Một yếu tố khác góp phần vào sự suy tàn của Phù Nam là nền kinh tế của quốc gia đã đi xuống từ sau những tiến bộ về kỹ thuật hàng hải. Thuyền buôn vào thời điểm này đã có thể đi xa bờ và ít có nhu cầu ghé lại Óc Eo trên đường đi qua Trung Quốc.
Năm 539 vương quốc Phù Nam bị buộc phải triều cống cho người Khmer lúc đó là Vương quốc Chân Lạp.
Ðến năm 627 Phù Nam bị người Khmer dưới quyền vua Chân Lạp là Bhavavarman xóa hẳn tên trên bản đồ. Những thần dân của Phù Nam bị sát nhập vào vương quốc Khmer. Hoàng gia của Phù Nam dùng đường biển tị nạn sang đảo Java của Nam Dương (Indonesia).
Từ năm 550 trở về sau cho đến khi chúa Nguyễn bành trướng thế lực đến miền Nam, người Khmer cai trị xứ này theo niên hiệu các vị vua Chân Lạp. Ngày nay, người Khmer nhìn nhận các vương triều Phù Nam là tổ tiên của dân tộc Khmer và là một phần của lịch sử Khmer. Người Khmer còn được chúng ta biết đến qua nhiều danh xưng Cao Miên, Chân Lạp, Cam bốt và Kampuchia.

2. VƯƠNG QUỐC CHÂN LẠP LÀM CHỦ KHU VỰC MIỀN NAM VIỆT NAM (Từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 17 sau Công Nguyên):
Năm 600-611 có triều vua Mahendravarman tiếp theo là vua Isanavarman đóng đô tại Ankor Borey.
Năm 750 vua Jayavaman I mở rộng lãnh thổ, xây thêm đền đài, cho khẩn hoang và trồng lúa cùng các loại hoa màu dọc bờ sông Cửu Long xuống tới miền Tây Việt Nam ngày nay.
Khoảng năm 780 dòng Vương cũ của Phù Nam giờ thành Vương Triều Sailendra của đảo Java (Indonesia) trở nên hùng mạnh đã dùng binh lực chinh phục và buộc vương quốc Chân Lạp của người Khmer phải triều cống và lệ thuộc.
Từ năm 800 đến 887 nước chân Lạp dưới sự lãnh đạo của vua Jayavaman II (802-887) và Jayavaman III (850-887) đã giành lại được độc lập từ dòng Sailendra của Java. Vương quốc Chân Lạp được đổi tên là Kampuchia. Trong thời này những thế lực phong kiến có khuynh hướng chia đế quốc Chân lạp thành Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp (Thủy Chân Lạp là vùng đồng bằng miền nam tức Phù Nam xưa).
Năm 803 Puskarak lên ngôi Vương Thủy Chân Lạp, lấy hiệu là Jayavaman II rồi tuyên bố độc lập. Tuy nhiên, Vương triều của đảo quốc Java không ngừng dòm ngó vương quốc Kampuchia của Jayavaman II. Trong suốt 50 năm trị vì ông đã dời đô 5 lần vì chiến tranh với Java. Khi Jayavaman III qua đời không con nối dõi nên một người bà con họ mẹ đã lên ngôi xưng vương hiệu là Indravaman I (877-889).

Vua Indravaman I là một vị vua anh hùng, có tài thao lược và cũng yêu nghệ thuật văn thư. Trong đời ông đã có công thống nhất Lục Chân Lạp với Thủy Chân Lạp và xây dựng thêm nhiều thành phố lớn, khuyến khích nông nghiệp và thương mại. Indravaman I cũng khởi đầu nới rộng Ðế quốc Khmer (Kampuchia), thay đổi bản đồ chính trị trên bán đảo Ðông Dương bằng những võ công nổi bật.
Con của Indravaman I nối sự nghiệp của cha xưng hiệu là Yaksovaman I (889-900).Yaksovaman I dời kinh đô từ Hari Hara Ley đến Yaso Tha Bura trên cao nguyên Bakheng. Chính vào thời điểm này, sự phú cường của Ðế quốc Kampuchia đã cho phép nhà vua khởi công nhiều công trình kiến trúc vĩ đại trong đó có:
– Angkor Wat (Ðế Thiên Ðế Thích): Là một công trình kiến trúc vĩ đại nhất của vùng Ðông Nam Châu Á.
– Đền đài Lo Ley.
– Đền đài Phnom Bok.
Những công trình này đa phần nhờ vào sức lực của hàng vạn tù binh và nô lệ bắt được từ những trận chiến chinh phạt Xiêm và Lào.

Suốt thế kỷ thứ 9 Ðế quốc Khmer-Chân Lạp có 6 triều vương đó là:
– Hashavaman I (900-922).
– Isanavaman II (922-928).
– Jayavaman IV (928-941).
– Harshavaman II (941-944).
– Rajendravaman II (944-968).
– Jayavaman V (968-1001).

Sau cái chết của Jayavaman V năm 1001, toàn lãnh thổ Chân Lạp rơi vào cảnh đại loạn kéo dài 9 năm.
Lãnh chúa Suryavaman I (1002-1050) đã đàn áp được những thế lực khác và thống nhất ngôi Vương tại Angkor Wat.
Từ năm 1050 đến 1177 đế quốc Khmer tiếp tục bành trướng. Phía bắc giáp Trung Hoa, phía nam giáp biển Xiêm La (Thái Lan), phía tây giáp Miến Ðiện, phía đông giáp Chiêm Thành.
Năm 1177 quân Chăm của Vương Quốc Chiêm Thành (Champa) xâm lăng và giết được vua Khmer là Tri-Bhuvanadit-yavarman khởi đầu cho quá trình suy tàn của đế quốc Khmer từ thế kỷ thứ 13.

Sự suy yếu của Ðế quốc Khmer vào thế kỷ 13 tạo cơ hội cho người Thái (Xiêm) nổi dậy giành độc lập. Danh xưng “Thái” có nghĩa là “tự do” không còn nô lệ nữa.
Quân đội người Thái đã tấn công đế đô Angkor (trong khoảng thời gian 1431-1432) và tàn sát hàng mấy vạn người để trả thù sự tàn bạo hà khắc mà người Khmer đã áp đặt lên họ trước kia. Sự tàn sát này khủng khiếp đến độ không còn ai sống sót để nhớ lại nơi chốn này. Vì vậy Ðế đô Angkor đã bị quên lãng bởi chính người Khmer trong suốt 500 năm … mãi đến thế kỷ 19, ông Henri Mouhot, người Pháp, trong lúc đi thám hiểm rừng sâu mới tìm lại phế tích Angkor Wat năm 1860.

Năm 1401 vua Chân Lạp Ponhea Yat dời đô về Phnom Penh (Nam Vang) đánh dấu một triều đại mới, chấm dứt kỷ nguyên Angkor. Chữ Phạn Ấn độ cổ Sanscrit không còn được sử dụng nữa. Lối chữ mới theo thể Pali giống Mã Lai được thay vào. Toàn thể những dòng dõi vương tôn, quí tộc cũ theo văn hóa Ấn Ðộ biết đọc, viết chữ Sanscrit đã bị người Thái tận diệt.
Năm 1528 vua Ong Chân I lại phải dời đô về Lovek (La Bích).
Ðến năm 1593 quân Xiêm lại tấn công La Bích.
Từ đó người Thái nắm quyền phế lập các vua chúa Khmer.

3. VỊ THẾ CHÚA NGUYỄN VÀ THẾ LỰC CỦA NGƯỜI VIỆT TẠI THỦY CHÂN LẠP (Từ thế kỷ 17-18 sau Công Nguyên):
Một biến cố chính trị tại phương đông, miền cực nam nước Ðại Việt đã làm thay đổi tình thế lúc đó, là sự xuất hiện của chúa Nguyễn Hoàng, truyền nhân của Nguyễn Bặc, Nguyễn Trãi và Nguyễn Kim.
Chính sách Nam Tiến của các chúa Nguyễn sau đó nhằm để chống lại thế lực của chúa Trịnh ở Thăng Long tạo nên áp lực to lớn cho hai quốc gia lân bang là Champa và Chân Lạp.
Trong khoảng thời gian từ năm 1611-1653 vương quốc Champa đã bị dồn nén bởi thế lực của chúa Nguyễn nên co cụm lại một vùng nhỏ từ Nha Trang đến Phan Thiết.
Sau một thời gian ở Xiêm làm con tin, Chey Chetta II về Chân Lạp lên ngôi vương năm 1618. Tân vương cải cách mọi việc và mang lòng không phục người Xiêm. Chey Chetta II dời đô về Oudong (Long Úc), thuộc tỉnh Kompong Luông. Tân vương tổ chức quân đội có thực lực. Mấy năm liền không thấy Chân Lạp dâng phẩm vật triều cống, Xiêm vương mang quân tấn công vào Chân Lạp 2 lần đều bị quân của Chey Chetta II đẩy lui.
Tuy nhiên về lâu về dài Chân Lạp sẽ không thể đương đầu với quân Xiêm. Chey Chetta II quyết định nhờ vào thế lực của chúa Nguyễn Ðàng Trong, lúc đó là Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635).

Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đã quyết định gả Hoàng Nữ Ngọc Vạn cho vua Cao Miên năm 1620. Hoàng nữ Ngọc Vạn được tấn phong Hoàng Hậu với tước hiệu là Somdach Prea Peaccayo dey Preavoreac.
Chúa còn hai Hoàng nữ khác là Ngọc Khoa gả cho vua Chiêm Pô Romê và Hoàng nữ Ngọc Hoa lại gả cho một thân vương người Nhật.

Năm 1620, dưới sự bảo trợ của Hoàng hậu Ngọc Vạn, lưu dân người Việt từ Ðàng Trong ồ ạt theo đường biển vào lập nghiệp tại vùng Thủy Chân Lạp.
Họ làm nghề nông, buôn bán, tiểu công nghiệp, đánh cá, thợ rèn .v.v..
Chỉ 3 năm sau, tức năm 1623 lưu dân Việt định cư tại Thủy Chân Lạp lên đến 20,000 người. Sãi vương liền viết thư cho “con rể” xin mượn vùng đất tại Prey Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobey (Bến Nghé) để tiện việc thu thuế người Việt tại đây. Vua Cao Miên chấp thuận.
Sau khi quốc vương Cao Miên băng hà (chỉ sau 5 năm lấy vợ Việt), toàn vùng Bà Rịa giáp giới Chiêm Thành, Kâmpéâp Srekatrey (Biên Hòa), Prey Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobey (Bến Nghé) đều thuộc quyền người Việt cai trị và thu thuế.

Từ sau khi vua Chey Chetta II băng hà, các hoàng tử con của các bà phi người Chân Lạp liên tiếp lên làm vua: Ponhea To (1629-1630), Ponhea Nu (1630-1640). Sau cái chết mờ ám của vua Ponhea Nu, năm 1640 quan phụ chính Prah Outey (là hoàng thúc của vua) đưa con mình là Ang Non I (1640-1642) lên ngôi.
Vào năm 1642 một người con của vua Chey Chetta II liên hiệp với người Mã Lai nổi dậy giết toàn gia hoàng thúc Prah Outey để lên ngôi xưng hiệu Ponhea Chan I (1642-1659). Sử Việt gọi vị vua này là Nặc Ông Chân.

Các hoàng thân thuộc phe cánh Ang Non I vào cung bà Hoàng Thái Hậu Ngọc Vạn xin cầu viện chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1648-1687). Chúa Hiền nhân cơ hội có lời yêu cầu nên hưng binh chinh phạt Chân Lạp vào tháng 10 năm 1658.
Quân Chân Lạp thua to tại ngoài khơi Bà Rịa và trận Gò Bích.
Chúa Hiền đưa Hoàng tử So con trai bà Thái hậu Ngọc Vạn lên ngôi vua lấy hiệu là Batom Réachea (1658-1672). Vào thời điểm này triều đình Chân Lạp đã hợp thức hóa chủ quyền của nhà Nguyễn tại Ðồng Nai.

Năm 1672 vua Batom Réachea bị ám sát. Con trai là Ang Chey tức Nặc Ông Ðài lên nối ngôi. Tân vương dựa thế lực người Xiêm mang quân lấn ép vùng Ðồng Nai. Lưu dân người Việt kêu cứu triều đình chúa Nguyễn. Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần sai các tướng Nguyễn Dương Lâm cùng với Nguyễn Diên Thái và Văn Sùng mang quân tới tận Oudong hỏi tội Nặc Ông Ðài rồi đưa Ang Saur tức Nặc Ông Thu hiệu Chey Chetta IV, em của Nặc Ông Ðài lên ngôi Chính Vương ở Oudong Lục Chân Lạp.
Chúa Hiền lại đồng thời cho Ang Non tức Nặc Ông Nộn con trai thứ của bà Ngọc Vạn và vua Chey Chetta II làm Thứ Vương vùng Ðồng Nai – Mô Xoài. Vua Nặc Ông Nộn đóng đô tại Sài Gòn tức Prey Nokor. Lúc đó là năm 1674. Cả hai vị vua Chân Lạp đều phải triều cống xưng thần với chúa Nguyễn tại Kim Long. Vua Nặc Ông Nộn ở Sài Gòn đến khi chết năm 1691 thì toàn quyền cai trị tại đây thuộc về chúa Nguyễn.

4. CÁC DI THẦN NHÀ MINH VỚI VÙNG ĐẤT BIÊN HÒA, MỸ THO THỦY CHÂN LẠP:
Vào năm 1679 tức năm Khang Hy thứ 18 nhà Ðại Thanh, cựu thần của nhà Minh vì kháng cự lại quân Thanh đến xin hàng phục nhà Nguyễn.
Bọn di thần nhà Minh gồm có: Tổng binh Long Môn Dương Ngạn Ðịch, Phó tướng Hoàng Tiến, và Tổng Binh các phủ Cao, Lôi, Liêm là Trần Thượng Xuyên, Phó tướng Trần An Bình … mang 3000 binh lính, thủ hạ và gia quyến trên 50 chiến thuyền đến cửa Tư Dung và Ðà Nẵng xin được làm thần dân của chúa Nguyễn. Chúa Hiền chấp thuận cho giữ nguyên binh hàm, chức tước rồi truyền cho vua Cao Miên cho phép người Minh vào định cư ở xứ Ðồng Nai và sau đó đến Cần Thơ.

Nhờ đợt di cư này mà ảnh hưởng của nhà Nguyễn tại đất Thủy Chân Lạp ngày càng lớn. Các tướng nhà Minh giờ làm quan cho triều đình nhà Nguyễn. Họ cũng góp phần xông pha trận mạc mở rộng lãnh thổ cho nhà Nguyễn, nổi bật là Thống Binh Trần Ðại Ðịnh con của Trần Thượng Xuyên triều chúa Ninh Vương.
Người Minh vốn cùng văn hóa với người Việt nên hợp nhau khai hoang khẩn đất, lập chợ, xây dựng phố phường, buôn bán tấp nập. Những nơi như Gia Ðịnh, Biên Hòa, Thủ Ðức, Cần Thơ không mấy chốc trở nên sầm uất. Triều đình nhà Nguyễn lại được dịp có thêm dân, thêm đất và thêm thuế thu nhập.

Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần băng hà năm 1687 ở ngôi 39 năm, Nghĩa Vương Nguyễn Phúc Thái (còn gọi là Trăn) lên thay (1687-1691). Nghĩa Vương dời đô về Phú Xuân (Huế).
Trong thời gian chúa mới lên ngôi có một di thần nhà Minh là Hoàng Tiến giết chủ tướng là Dương Ngạn Ðịch ở Mỹ Tho rồi tự xưng là Phấn Dũng Hổ Oai Tướng Quân thống lĩnh quân sĩ Long Môn người Minh đóng đồn ở Ðịnh Tường. Hoàng Tiến thả quân qua Cao Miên cướp của giết người. Vua Cao Miên là Nặc Ông Thu bất bình vì việc làm sai quấy này và ngờ là chủ ý của Thiên Vương nhà Nguyễn. Vua Nặc Ông Thu quyết định bỏ triều cống và chuẩn bị binh lính chống lại triều đình nhà Nguyễn.

Tháng Giêng năm 1690 Chúa Nghĩa sai lão tướng là Vạn Long mang quân đến Rạch Gầm dàn trận. Vạn Long dùng kế bắt được Hoàng Tiến rồi xua quân qua Cao Miên đánh thốc tới Nam Vang và Long Úc (thành Oudong). Vua Cao Miên cả sợ dâng 30 thớt voi, 150 lạng vàng, 600 lạng bạc, 6 con tê giác để xin hòa và giữ lệ triều cống như xưa. Quan quân nhà Nguyễn rút về Phú Xuân tháng 8 năm đó.
Chúa Nghĩa không thọ lâu, ngài băng hà năm 1691 thọ 43 tuổi.

Năm 1698 chúa Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) sai Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh đi đánh Cao Miên và kinh lược mấy tỉnh miền Nam. Lễ Thành Hầu chia cắt giới phận, canh cải địa điền, kiểm kê nhân khẩu, lập sổ đinh điền cho có nề nếp. Lúc đó toàn miền Nam có dân số 40.000 gia đình (hộ) đất đai mở ra 1.000 dặm.

5. MẠC CỬU VỚI VÙNG ĐẤT HÀ TIÊN
Năm 1671 có người Minh tên là Mạc Cửu quê ở Lôi Châu, Quảng Ðông (Trung Quốc) mang gia quyến và binh lính 400 người và 10 chiếc thuyền di cư sang Thủy Chân Lạp, đổ bộ lên bờ biển Panthaimas vịnh Thái Lan.
Mạc Cửu đến Oudong xin yết kiến vua Nặc Ông Thu và ở lại hợp tác giữ chức Óc Nha cho đến năm 1681.
Lúc ấy thấy chính sự Chân Lạp rối ren, ông xin vua Chân Lạp cho đi khai khẩn vùng đất hoang Panthaimas. Vua thuận cho. Mạc Cửu chiêu tập đám cướp biển lại mở sòng bạc, chiêu mộ dân phiêu bạt chạy trốn nhà Thanh về lập nên 7 xã là: Mán Khảm (Peam), Long Kỳ (Ream), Cần Bột (Kampot), Hương Úc (Konpong Som), Sài mạt (Cheal Meas), Linh Quỳnh (Rạch Giá) và Phú Quốc (Koh Tral). Thủ phủ đặt tại Hà Tiên tức Căn Khẩu. Mạc Cửu đặt tên vùng đất của mình là “Căn Khẩu Quốc”.
Lãnh địa này thuộc Chân Lạp nhưng vua Chân Lạp không đủ sức cai quản nên được qui chế tự trị. Không bao lâu Căn Khẩu Quốc của Mạc Cửu trở nên giàu có, người đi vào buôn bán, cờ bạc, đổi chác tấp nập.

Thấy kinh tế vùng Căn Khẩu nổi lên như sóng, vua Xiêm chuẩn bị thôn tính vùng đất này.
Năm 1678 quân Xiêm tràn sang cướp phá bắt Mạc Cửu và gia quyến về Muang Galapuri (Vạn Tuế Sơn). Hai năm sau nhân lúc nước Xiêm có loạn ông mang quyến thuộc trốn về lại Căn Khẩu. Ông lại bắt tay khôi phục lại Căn Khẩu. Mạc Cửu nhiều lần xin triều đình Chân Lạp cứu nhưng Vương triều Chân Lạp lúc đó quá yếu, tự giữ mình còn không xong nên từ chối không thể giúp được gì cho họ Mạc.

Năm 1711 Mạc Cửu cùng đoàn tùy tùng là Trương Cầu, Lý Xá mang vàng lụa đến gõ cửa Khuyết ở Huế xin thần phục chúa Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1691-1725). Mạc Cửu được giữ chức Tổng Binh toàn quyền cai trị xứ Căn Khẩu mà không phải nộp thuế cho triều đình.
Nghe được tin này vua Xiêm cho 20.000 quân tấn công Căn Khẩu Quốc, một thuộc địa mới của nhà Nguyễn. Mạc Cửu thua chạy về Gia Ðịnh xin triều đình Huế cứu giúp.
Quân Triều Nguyễn đánh đuổi người Xiêm đi và trả lại toàn vẹn đất đai cho Mạc Cửu cai trị, nhưng đổi tên Căn Khẩu thành Hà Tiên Trấn với mục đích lưu lại dấu ấn của triều đình họ Nguyễn.

Mùa hạ năm 1735 Mạc Cửu chết, hưởng thọ 81 tuổi. Ninh Vương Nguyễn Phúc Thụ (có sử ghi là Trú:1725-1739) phong ông làm Khai Trấn Thượng Trụ Quốc Ðại Tướng Quân, tước Cửu Lộc Hầu.
Ðến đời Minh mạng được phong làm Thần hiệu là Thọ Công Thuận Mỹ Trung Ðẳng Thần.

Năm 1738 chúa Nguyễn Phúc Thụ ban cho dòng họ Mạc “Thất Diệp Phiên Hàn” (Bảy chữ quý tộc: bảy đời rào giậu cho quốc gia), lấy bảy chữ “Thiên, Tử, Công, Hầu, Bá, Tử, Nam” nối đời làm chữ lót, lấy năm chữ “Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ” trong Ngũ hành tương sinh, khởi đầu từ Bộ “Kim” để đặt tên và thêm Bộ “Ấp” vào chữ “Mạc” để tỏ ý không phải họ “Mạc” của Đăng Dung.
Do theo phương pháp đặt tên đó chúng ta thấy như sau về các thế hệ của họ Mạc, mỗi thế hệ dùng một hay vài người làm ví dụ:

1- Con trai Mạc Cửu là: Mạc THIÊN Tứ
2- Con của Thiên Tứ là: Mạc TỬ Thiêm, TỬ Duyên, TỬ Dung, TỬ Hoàng, TỬ Thượng, TỬ Sanh (Tử này có nghĩa là con).
3- Con của Tử Sanh là: Mạc CÔNG Du, CÔNG Tài (CÔNG Thê là con của TỬ Thiêm).
4- Con của Công Du là: Mạc HẦU Lâm.
5- Con của Hầu Lâm là: Mạc BÁ Bình.
6- Con của Bá Bình là Mạc TỬ Khâm (chữ tử nầy viết và đọc y như chữ tử bên trên, nhưng có nghĩa là tước thứ tư: Tử Tước, trên Nam tước).
7- Con của Tử Khâm là Mạc Nam Lan (bà Nam Lan tuyệt tự hết người thừa kế nhưng cũng vừa tròn bảy chữ vua ban).

6. VÙNG ĐẤT MÉSO – LONGHOR (tức Mỹ Tho, Vĩnh Long)
Năm 1731 quân Chân Lạp đánh Gia Ðịnh. Ninh Vương sai Tướng Trương Phước Vĩnh và Cai Cơ Ðạt Thành cùng tướng quân Trần Ðại Ðịnh (con của Trần Thượng Xuyên người Minh) đem quân ra chống đỡ.
Cai Cơ Ðạt Thành bị quân Cao Miên giết ở Bến Lức. Trần Ðại Ðịnh mang quân bản bộ Long Môn đắp đồn Cây Mai ở Sài gòn để cầm cự. Cai đội Nguyễn Cửu Triêm đem quân cứu ứng đến Bến Lức, quân Miên lại rút về Tân An.
Tháng 4 năm 1731 Trần Ðại Ðịnh đánh vào Lovek (La Bích).
Cha con quốc vương Chân Lạp là Nặc Yêm (Ang Em) và Nặc Tha (Satha II) thua trận xin nhường đất Mésa (Mỹ Tho) và Longhor (Dinh Long Hồ tức Vĩnh Long bây giờ) để cầu hòa.
Chúa Nguyễn sai đo đạc, đặt thành Châu Ðịnh Viễn và dinh Long Hồ.

7. MẠC THIÊN TỨ NỚI RỘNG THÊM LÃNH THỔ CHO NGUYỄN VƯƠNG ĐÀNG TRONG:
Mạc Thiên Tứ cai trị trấn Hà Tiên rất thịnh vượng. Tứ mở văn đàn làm thơ, phổ nhạc, vịnh phú, lập Chiêu Anh Các để chiêu nạp nhân tài.
Về võ công Tứ cũng lẫy lừng không kém.
– Năm 1739 Tứ dẹp tan một trận tấn công của vua Cao Miên.
– Năm 1747 Tứ dẹp yên bọn cướp biển ở Long Xuyên.

Năm 1753 vua Cao Miên là Nặc Ông Nguyên (Ang Snguôn) hà hiếp người Chăm từ Chiêm Thành tị nạn Việt Nam qua Cao Miên, đồng thời thông mưu với chúa Trịnh ngoài Bắc để đánh úp chúa Nguyễn đòi lại đất đai đã mất.
Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1739-1765) sai Nguyễn Cư Trinh hưng binh đánh Cao Miên mùa hạ năm 1754. Binh triều vừa đi tới sông Vàm Cỏ thì quân địch cả sợ ra hàng. Nặc Nguyên chạy ra Vĩnh Long.
Ở vùng Vàm cỏ Nguyễn Cư Trinh chiêu dụ người Chăm tị nạn bây giờ không nơi nương tựa có tới 10.000 người và hộ tống họ đi về Ðồng Tháp Mười (Tà Vô Ân).
Ở đây phục binh của vua Cao Miên ùa ra đánh giết người Chăm chết mất 5.000 người. Quân tiếp ứng của ông Thiện Chính đến không kịp để cứu. Về sau Vũ Vương giáng chức ông Thiện Chính xuống làm Cai Ðội.
Nguyễn Cư Trinh cứu được 5.000 người Chăm cho về định cư ở núi Bà Ðen, Châu Ðốc. Nguyễn Cư Trinh lại tuyển người Chăm khoẻ mạnh đưa cho khí giới thúc họ đi tiên phong đánh quân Cao Miên trả thù. Quân triều Nguyễn đi sau ủng hộ. Thanh thế to lớn nên vua Cao Miên bỏ chạy xuống Hà Tiên nhờ Thiên Tứ cứu mạng.

Vua Cao Miên nhờ Tứ xin với Võ Vương cho dâng hai phủ: Tầm Bôn (Gò Công) và Lôi Lập (Tân An) để chuộc tội.
Chúa Nguyễn thuận cho và truyền cho nhập vào châu Ðịnh Viễn.
Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát cho vua Cao Miên Nặc Ông Nguyên về nước. Vua Nặc Ông Nguyên băng hà năm 1758.
Dòng họ vua Cao Miên tranh nhau làm vua. Mạc Thiên Tứ giúp cho Nặc Ông Tôn lên làm vua nên được tặng đất Tầm Phong Lâm (Meat Chruk) tức Châu Ðốc và Sa Ðéc.
Nội chiến ở Cao Miên vẫn không dứt. Các vua Cao Miên lại sang triều Nguyễn dâng đất cầu cứu. Thế là:
– Nặc Ông Thuận (Thommo Réchea) hiến Sóc Trăng, Bạc Liêu.
– Nặc Ông Tôn (Ang Tong) hiến hết đất từ núi Thất Sơn, Sa Ðéc, Kiên Giang và Long Xuyên về sau đều thuộc chủ quyền chúa Nguyễn.

Từ đây chấm dứt cuộc Nam tiến của dân tộc Việt nam.
Và như vậy vùng đất Nam Bộ đã thuộc về Việt Nam trước khi người Pháp xâm lược Đông Dương, nó không như luận điệu dối trá của các thế lực Samrensi tuyên truyền.
Về nguyên tắc của công pháp quốc tế, biên giới quốc gia đã được định hình trong những biến cố lịch sử từ khi nó được thế giới công nhận, không hồi tố. Đòi lại vùng đất mà cách đây hàng trăm năm đã được sát nhập vào quốc gia khác mà chủ yếu là do Tổ Tiên mình dâng hiến là không thể xem xét.
Sam Rainsy chỉ lợi dụng vấn đề này để kích động tính dân tộc của người Khmer mà thôi.

Việt Nam chịu thiệt nhiều nhất trong Bộ Quy Tắc ứng xử biển Đông

Việt Nam chịu thiệt nhiều nhất trong Bộ Quy Tắc ứng xử biển Đông

 
 ASEAN sắp họp để thông qua Bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông (COC) và nhiều khả năng sẽ không đề cập đến Quần đảo Hoàng Sa. Theo phân tích của tạp chí Forbes, đó sẽ là viễn cảnh tệ hại nhất đối với quá trình đòi lại chủ quyền biển đảo của Việt Nam.
Trung Quốc cho xây dựng các công trình quân, dân sự trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa (ảnh: Amusingplanet.com)
Trung Quốc cho xây dựng các công trình quân, dân sự trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa (ảnh: Amusingplanet.com)

Tuần này, các nhà lãnh đạo 10 nước ASEAN (Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á) đang họp tại Philippine, có thể trọng tâm các cuộc thảo luận là về giải quyết tranh chấp Biển Đông bằng biện pháp hòa bình.

Bốn nước thành viên ASEAN gồm Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam đều có tuyên bố chủ quyền tại các hòn đảo và vùng nước giàu tài nguyên trên Biển Đông. Trong khi, Trung Quốc cho rằng toàn bộ diện tích  3,5 triệu km2 vùng biển này đều nằm dưới quyền kiểm soát của họ.

Sau nhiều năm thảo luận, trong cuộc họp lần này các nước ASEAN mong muốn có thể chốt đưa ra Quy tắc Ứng xử (COC) vào tháng 6 tới, sau đó sẽ rà soát lại lần nữa vào cuối năm nay hoặc đầu năm 2018 trước khi áp dụng chính thức.

COC là một bộ các quy tắc ràng buộc nhằm mục đích giảm các rủi ro khi các bên hành xử trong vùng biển tranh chấp. Các bên liên quan đều né tránh không thảo luận sâu thêm về COC suốt từ khi họ ký kết vào Tuyên bố Ứng xử (DOC) năm 2002 nhằm khởi động đàm phán COC toàn diện.

 

Theo đánh giá của Tạp chí Fobes, nếu COC được thông qua lần này, bên chịu thua thiệt nhất sẽ là Việt Nam.

Việt Nam, với tư cách là thành viên ASEAN có tuyên bố chủ quyền Biển Đông sẽ muốn có một quy tắc ứng xử hoặc bất kỳ một văn kiện liên quan nào đó phải bao gồm Quần đảo Hoàng Sa. Nhưng Trung Quốc không đồng ý điều này. Bắc Kinh đã kiểm soát toàn bộ 130 đảo nhỏ trong Quần đảo Hoàng Sa, nằm ở phía Tây Nam HongKong từ năm 1974. Khi đó, chiến tranh Việt Nam đang leo thang căng thẳng với sự thất thế của chính quyền miền Nam (Việt Nam Cộng Hòa), Trung Quốc đã thực hiện một trận đánh chớp nhoáng chiếm toàn bộ Quần đảo Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hòa. Hiện tại, Cộng hòa XHCN Việt Nam vẫn tuyên bố chủ quyền trên Quần đảo Hoàng Sa, nhưng đã mất hoàn toàn quyền kiểm soát trên thực chất.

Chính vì đã hoàn toàn kiểm soát Quần đảo Hoàng Sa nên Trung Quốc dùng mọi biện pháp để ngăn cản không cho tàu thuyền Việt Nam hoặc bất cứ nước nào khác đến gần quần đảo này. Nếu COC đề cập tới Quần đảo Hoàng Sa tức sẽ có hàm ý rằng một quốc gia khác có thể tiếp cận các rạn đá ngầm, đảo san hô và các vùng nước xung quanh quần đảo. Do đó, Trung Quốc nhất quyết phản đối COC nhắc tới Quần đảo Hoàng Sa và thực tế suốt 6 năm qua nước này vẫn tìm cách ngăn cản ASEAN thông qua COC vì lo sợ rằng sẽ làm ảnh hưởng đến sự kiểm soát của Trung Quốc trên Biển Đông.

 

Việt Nam cùng 3 thành viên ASEAN khác và Trung Quốc cùng tuyên bố chủ quyền của mình và đang chia sẻ kiểm soát trên các đảo nhỏ tại một quần đảo khác ở Biển Đông, quần đảo Trường Sa. Các nước đều đang cho thăm dò tìm kiếm tài nguyên khoáng sản như khí và dầu mỏ dưới đáy biển ở khu vực đảo do mình kiểm soát.

Đặc thù ở Trường Sa là nhiều nước cùng kiểm soát, nên nếu Trung Quốc không muốn thông qua một quy tắc ứng xử chung cho việc di chuyển an toàn trong vùng biển này, họ cũng sẽ gặp nhiều nguy cơ rủi ro tương tự như các nước khác.

Giáo sư chính trị học Carl Thayer của Đại học New South Wales, Úc cho biết: “Không ai có thể buộc Trung Quốc rút khỏi Hoàng Sa. Điều khả dĩ nhất chúng ta có thể hy vọng là Việt Nam sẽ dùng biện pháp tài phán, chẳng hạn như kiến nghị lên Tòa Trọng tài Thế giới The Hague”.

Việt Nam đang cố gắng có mối quan hệ tốt hơn với Trung Quốc bất chấp hai nước có hàng loạt các tranh chấp lãnh thổ trên đất liền và biển đảo hàng nhiều thế kỷ qua.

Tâm lý chống Trung Quốc vẫn còn rất cao trong đa số người dân Việt Nam. Nhưng chính quyền Hà Nội vẫn đang đàm phán song phương với Bắc Kinh về vấn đề lãnh thổ trên biển bên ngoài khuôn khổ ASEAN và vẫn hưởng những lợi ích kinh tế như nhập khẩu giá rẻ và số lượng lớn khách du lịch Trung Quốc.

Cho dù, giờ đây Trung Quốc có thể tạm làm yên lòng các nước ASEAN có yêu sách chủ quyền trên biển bằng cách hỗ trợ và đầu tư. Nhưng, có thể cuối cùng họ vẫn sẽ phải đối mặt với sức ép từ chính phủ Hoa Kỳ vì những hành động quá mức của mình. Trong suốt nhiều thập kỷ qua, Bắc Kinh đã liên tục mở rộng kiểm soát biển, bao gồm cả việc xây dựng các hòn đảo nhân tạo sẵn sàng lắp đặt hệ thống radar và các hạ tầng quân sự, máy bay chiến đấu.

Việt Nam và các nước thành viên ASEAN đang có 4 ngày họp tại Philippines, kết thúc vào thứ Bảy 29/4, có lẽ sẽ không đưa vấn đề Hoàng Sa vào COC, ngay cả khi Việt Nam cố gắng thuyết phục. Các nước kiên định ủng hộ Trung Quốc có Cambodia và Lào, ngay cả nước Chủ tịch ASEAN năm nay là Philippines cũng sẽ bỏ qua tranh chấp biển để ủng hộ Trung Quốc. ASEAN là một tập thể luôn theo đuổi sự đồng thuận toàn bộ và không muốn gây rạn nứt nội khối, cũng như với các nước bên ngoài.

COC mà không có điều khoản đề cập tới Quần đảo Hoàng Sa sẽ cho phép Trung Quốc tăng cường ảnh hưởng nhiều hơn đến quần đảo này, nơi mà Bắc Kinh đang xây dựng một thành phố nhỏ, cùng nhiều cơ sở hạ tầng quân sự.

Ông Collin Koh, chuyên gia nghiên cứu về an ninh hàng hải tại Đại học Kỹ thuật Nanyang ở Singapore, cho biết: “Tôi không nghĩ rằng Trung Quốc sẽ muốn có điều đó trong quy tắc ứng xử, bởi vì tôi nghĩ rằng đối với Trung Quốc Hoàng Sa là một vấn đề song phương giữa nước này và Việt Nam, và tôi thậm chí còn thấy rằng một số quốc gia ASEAN có thể cũng không muốn đề cập tới Hoàng Sa trong COC bởi vì họ biết đó là một yếu tố phức tạp không cần thiết”.

Xuân Thành/ theo Forbes

Ba Dũng, La Thăng, Bá Tỵ ơi, ngồi đó mà đợi chết hay sao?

From facebook: Hoa Kim Ngo and Thanh Tran shared Thành Phạm‘s post.
Image may contain: 2 people, suit
No automatic alt text available.

Thành Phạm added 2 new photos — with Minh Tuan Nguyen 

 Ba Dũng, La Thăng, Bá Tỵ ơi, ngồi đó mà đợi chết hay sao?

Ba Dũng không thể không run khi thấy Nguyễn Phú Trọng cùng phe nhóm đã sờ đến gáy Đinh La Thăng. Mức kỷ luật chỉ là cảnh cáo. Cảnh cáo là một trong 7 bậc xử lý kỷ luật của Luật lao động hiện hành. Nếu chỉ ở cấp độ chính quyền xử lý thì Thăng còn đang thoát. Nghĩa là chức vụ vẫn còn nguyên. Còn bên Đảng căn cứ vào mức kỷ luật cảnh cáo để xử lý tiếp thì tôi không biết Thăng sẽ còn bị thế nào nữa? Như khai trừ khỏi đảng, chẳng hạn. Mà khai trừ khỏi đảng thì các chức vụ khác cũng teo và con đường Thăng đi bóc lịch dài ngày là khó thoát. Khai trừ đảng để thịt Thăng, điều này có xảy ra không? Chỉ có Nguyễn Phú Trọng và vây cánh chủ chốt của ông ta mới biết được. Ba Dũng bây giờ đang ở vòng ngoài cũng chỉ đoán già, đoán non, khó mà biết chính xác số phận Thăng sẽ có một hạ hồi như thế nào?.

Tôi đoán, Thăng sẽ khó thoát, không chỉ dừng lại ở mức bãi nhiệm chức rồi vô hiệu hóa mà ở mức nặng hơn. Nguyễn Phú Trọng, cách đây độ vài tháng đã bắn tín hiệu: “Kỷ luật một vài người để cứu vạn người”, là Trọng nhằm bắn vào Thăng. Việc Phú Trọng chỉ mới kỷ luật Thăng ở mức độ “cảnh cáo”, là Phú Trọng tạo cảm giác cho Thăng đã thóat nạn để Thăng bỏ ý định quậy đến mức công khai chống lại Phú Trọng. Cách làm này của Trọng không có gì mới mà chỉ là biểu hiện thực hiện theo đúng kịch bản mà ông ta đã tuyên bố: “Giết chuột nhưng phải giữ cái bình”. Nếu Thăng không tỉnh táo nhận ra chiến thuật từng bước, từng bước của Phú Trọng, để Thăng phòng vệ và quyết đấu, Thăng sẽ bị Nguyễn Phú Trọng dần dần lột từng cái áo, cái quần cho đến khi Thăng bị phơi trần truồng ra rồi sau đó Trọng mới từ từ đưa Thăng vào lò nấu cao.
Nếu Thăng không đủ mạnh, đủ mưu lược, quyết đoán trong phòng vệ nhất định Thăng sẽ bị Phú Trọng đưa vào lò nấu cao toàn tính.

Thăng đến số rồi Thăng ơi! Chưa kể đến những oán hận trong đấu trường quyền tiền diễn ra trong mấy năm nay mà Trọng và phe Trọng đã phải chịu nhiều cay đăng vì Thăng và đồng sự; chỉ xét ở hình thức hiện tại thì Thăng đã vào số phải làm vật hiến tế cho Nguyễn Phú Trọng và phe cánh rồi. Vì, Nguyễn Phú Trọng không thể cứ muối mặt chiến thắng như chiến thắng những chú gà đã chết khi cách chức mấy vị chức sắc mà hiện tại họ không còn giữ chức đó nữa. Cứ diễn mãi cái trò thắng gà chết đó, chỉ tổ cho thiên hạ đàm tiếu chê cười. Và thực tế thiên hạ đã đàm tiếu, đã phỉ nhổ vào mặt Nguyễn Phú Trọng về cái trò kỷ luật “đá thắng gà chết” này rồi. Nguyễn Phú Trọng, còn chút liêm sĩ trong người, không thể không gỡ chút ít sĩ diện bằng cách phải giết ít nhất một con “gà” còn đang sống nào đó. Thăng, số phân rủn rui thế nào lại trở thành con “gà” sống bị hiến tế trong tay Phú Trọng. Hơn nữa, diệt Thăng, là Phú Trọng vừa dọn vật cản, vừa rằn mặt những kẻ còn lừng khừng không ủng họ Trọng tiếp tục làm thêm nửa khóa nhiệm kỳ tổng bỉ thư đảng sẽ quyết định trong tháng 5 tới đây.

2. Nhưng nấu cao Thăng chưa phải là cái đích mà Nguyễn Phú Trọng nhắm đến trước khi nghỉ chức tổng bí thư. Đích nhắm đến của Nguyễn Phú Trọng vẫn là anh Ba Dũng. Óan thù giữa Phú Trọng với Ba Dũng là oán thù không đội trời chung. Thăng bị nấu cao, rồi tới đây đại tướng Đỗ Bá Tỵ về hưu, Ủy viên Bộ chính trị, Trưởng ban Kinh tế Nguyễn Bình bị vô hiệu hóa, thì là lúc Ba Dũng cũng theo đàn em mà vào chuồng Cọp của Phú Trọng. Tôi nghi Ba Dũng chưa lường đến viễn cảnh này. Vì Ba Dũng là dân Nam bộ khoáng đạt. Vì là dân Nam bộ khoáng đạt nên Ba Dũng và chả mấy người Nam bộ biết dân Bắc Kỳ, đặc biệt là dân vùng Cổ Loa thành, có bản tính thù dai như thế nào đâu. Người Tàu chọn Nguyễn Phú Trọng làm vua ở Việt Nam lâu dài, ngoài biết Phú Trọng ngu dốt, lú lẫn ra, họ còn biết rõ Phú Trọng có bản tính thù dai của dân Cổ loa thành. Chưa diệt được Ba Dũng, Nguyễn Phú Trọng không bao giờ từ bỏ chức vụ đang giữ. Mà Trọng biết thời gian còn tại vị của Trọng dài nhất cũng chỉ còn có hơn 2 năm nữa.

Ba Dũng, ông đừng trương mắt ếch lên nhìn ngó xem Phú Trọng sẽ lột da Đinh La Thăng từng bước như thế nào để ông tính toán việc phòng vệ. Đừng nghĩ Thăng chỉ bị cảnh cáo là xong việc. Nghĩ và đợi như vậy, thình lình có ngày, Phú Trọng sẽ có Tàu Cộng yểm trợ sẽ tóm ông như tóm một con lợn đực rừng rồi đẩy ông vào trong rọ. Ông và phe ông muốn sống, muốn tồn tại của cải thì phải hành động ngay tức thì. Trong những năm 2012, 2013, 2014, 2015 và đầu 2016, tôi đã khuyên ông nhiều lần, cần phải tổ chức đảo chính cung đình đi, trong lúc lực lượng của phe ông thừa khả năng để ông dám làm và sẽ ông chiến thắng. Nhưng vì ông quá sợ Tàu Cộng nên không dám làm. Dẫn đến phải chấp tay vái Phú Trong xin được “làm người tử tế”. Để rồi mỗi ngày ông sống là mỗi ngày ông nơm nớp lo sợ Phú Trọng đến diệt ông bất kỳ lúc nào.

Nay thời cơ sống và bảo toàn tài sản của ông vẫn còn. Vấn đề là ông có dám bỏ của cải của ông ra để thực hiện một cuộc đấu công khai với Phú Trọng hay không mà thôi. Nó hoàn toàn là ý chí vượt qua nỗi sợ của chính ông như những người đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam đã từng vượt qua. Ông hãy dũng cảm lựa chọn và kiên quyết đứng về phe nhân dân. Như vậy, được mất của đời ông gắn với sự tồn vong của dân tộc và đất nước sẽ có ý nghĩa hơn nhiều khi ông chỉ trương mắt ếch lên nhìn phe cánh từng đứa của ông bị Phú Trọng đưa vào lò nấu cao và người cuối cùng bị đưa vào lò nấu cao lại chính là ông.

* Chú giải thêm: Trong chế độ độc tài cộng sản, thằng quan nào cũng tham ô, tham nhũng, hà lạm quyền lực, đàn áp và cướp bóc. Vì vậy, thằng nào cũng đáng chết. Nhưng, chết một thằng chết nhiều thằng, dư luận thích, nhưng những cái chết đó có đem lại lợi ích gì cho xã hội hay không mới là điều tôi quan tâm. Vì, thằng này chết thằng kia lên, chúng lại đi theo đúng đường mà những thằng đàn anh trước đã đi thì chết hay sống của thằng nào cũng rứa. Có khi thằng mới lên, mức độ tham ô, tham nhũng, cướp bóc đàn áp dân lành còn khốc liệt hơn lớp đàn anh của chúng. Bởi lý do đó, khen hay chê trước một cái chết nào đó tôi thường phải lựa chọn. Cái chết đó có ích hay vô ích cho xã hội, được mất gì trước mắt cho xã hội.

Nhưng, để góp phần làm cho chế độ độc tài cộng sản tiến nhanh đến sự sụp đổ, tôi luôn cổ vũ cho chúng đánh nhau. Càng đánh nhau to càng tốt. Và tôi không đóng vai chỉ là khan giả khách quan ngồi xem. Tôi chọn một bên để cổ vũ. Người hay đội tôi chọn để khuyến khích biểu dương là người hay đội tôi tin tưởng họ tốt hơn người hay đội ở phía đối thủ. Phân biệt “ tốt” hay “ xấu” ở đây tôi luôn đem cán cân tồn vọng của đất nước để kiểm chứng. Trong mấy năm qua, tôi ủng hộ người và đội của Ba Dũng, phê phán đả kích người và đội của phe Phú Trọng. Cán cân tồn vong của đất nước cho tôi biết rằng, tham lam, phá hoại dân tộc và đất nước, bọn chúng đều như nhau, nhưng theo “án tại hồ sơ” thì biểu hiện bán nước, bán dân tộc cho Tàu Cộng của Phú Trọng và phe nhóm Phú Trọng hơn hẳn Ba Dũng và phe nhóm Ba Dũng.

42 năm qua dưới sự cai trị của cộng sản, người Việt Nam được gì?

42 năm qua dưới sự cai trị của cộng sản, người Việt Nam được gì?

Tác giả Phùng Văn Phụng

Hai triệu người Việt nam chết trong chiến tranh ba mươi năm, để xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà TBT Nguyễn Phú Trọng than thở không biết cuối thế kỹ này có thực hiện được hay không nữa.?

Sau ba mươi năm chiến tranh gia đình nào cũng có người chết hay bị thương tật.

Một triệu người vượt biên trốn chạy cộng sản ra nước ngoài

Ước tính năm trăm ngàn người chết ở biển đông hay trong rừng sâu Campuchia, Thái lan.

Sau 42 năm cộng sản cai trị miền Nam, dân tộc Việt nam được gì?

  • Trước năm 1975 công kỹ nghệ miền Nam đang cất cánh hàng tiêu dùng đủ cho nhu c cùng làm không đủ sống.
  • Hỉện nay, VN không có tự do nghiệp đoàn. Trước năm 1975 có Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt nam, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam v.v….
  • Báo chí không có tự do. Không có báo chí tư nhân. Trước năm 1975 báo chí hoàn toàn tự do, báo chí có thể chỉ trích chính quyền  như các báo Tin Sáng, Đại Dân Tộc, Chính Luận, Sống Thần v.v …
  • Đại Học không được tự trị
  • Không có tự do kinh doanh
  • Không có tự do biểu tình
  • Không có tự do cư trú.
  • Không có tự do thành lập đảng phái. Trước năm 1975, các đảng phái được tự do hoat động, đối lập với chánh quyền như Đai Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, đảng Tân Đại Việt v.v…
  • Không có tự do bầu cử và ứng cử. Ở miền nam trước 1975, bầu cử Thượng Viện rất nhiều Liên danh ra tranh cử. Bầu cử Hạ Nghị Viện, có đơn vị cần một người, có 5, 7 người ra tranh cử . Người dân có quyền đi bầu cử hay không đi bầu cử. Muốn thắng cử phải tranh đua quyết liệt chứ không như bây giờ, đảng cử dân bầu. Chưa bầu cử đã biết ai thắng cử rồi.
  • Bây giờ tam quyền nhập cục, dưới sự lảnh đạo của đảng cộng sản. Trước đây có Tối Cao Pháp Viện, Toà án, Tư pháp hoàn toàn độc lập với Hành pháp. Quốc hội thực sự do dân bầu, độc lập với Hành pháp. Ba cơ quan Hành pháp, Lập pháp và Tư pháp kiểm soát lẫn nhau.( Tam quyền phân lập)
  • Nhờ có báo chí đối lập, có dân biểu, nghị viên đối lập mà cơ quan hành pháp không dám làm bậy, bớt tham nhũng vì sợ báo chí và các thành phần đối lập phanh phui.
  • Hiện nay người dân Việt nam đi làm mướn ở khắp nơi trên thế giới qua Đại Hàn, Đài Loan, ngay cả qua Lào và Campuchia để làm mướn.
  • Phụ nữ qua Singapore, Mã Lai bán dâm.
  • Vẫn còn người Việt tìm cách trốn chạy khỏi Việt nam qua nhiều cách khác nhau.

Như vậy, hy sinh 2 triệu người trong chiến tranh, 500 ngàn chết vì vượt biên, gia đình nào cũng có người thân chết hay bị thương tật. Người dân hy sinh tất cả các quyền tư do căn bản như đã nói trên, cuối cùng dân tộc Việt nam được gì?

Việt nam từng là đất nước đứng đầu Đông Nam Á, thập niên 1960, Lý Quang Diệu mơ ước Singapore bằng được Sài gòn là mừng lắm rồi.

Sau 42 năm cộng sản cai trị, ở Việt Nam, mọi thứ đều tụt hậu,  đứng chót Đông Nam Á,  thua cả Lào và Campuchia.Tại sao?

Chỉ duy nhất một nhóm nhỏ cán bộ, đảng viên có chức, có quyền giàu có nhờ tham nhũng, tước đoạt tài sản của dân mà thôi.

Ghi thêm: Năm 1945 Nhật Bản thua trận, tất cả nhà máy đều tan hoang, 20 năm sau, 1965 thành một cường quốc.

Năm 1975, Việt cộng chiếm miền Nam, nhà máy còn nguyên, tại sao 42 năm sau Việt nam có tình trạng tụt hậu như ngày hôm nay.?

NIỀM VUI TRONG ĐAU KHỔ

NIỀM VUI TRONG ĐAU KHỔ

Một cặp vợ chồng vừa cho chào đời một đứa trẻ bị cụt cả tứ chi, đã có tâm sự thật cảm động như sau. Chúng tôi muốn nói với các bạn một điều: ngày đứa con đầu lòng của chúng tôi mới chào đời, nhìn con chúng tôi bị cụt cả hai tay hai chân chúng tôi xúc động mạnh lắm, những giọt nước mắt của đứa trẻ vừa mở mắt chào đời bị cụt tứ chi làm chúng tôi cảm thấy xót xa như dao cắt cõi lòng. Nhưng chúng tôi có thể nói bằng nụ cười của một đứa trẻ bị cụt tay chân từ lúc mới sinh. Không còn gì an ủi cho bằng ẵm lấy đứa trẻ bị cụt tay chân vào lòng, không còn gì sâu sắc hơn ánh mắt của đứa trẻ tật nguyền ấy. Chúng tôi có thể nói với các bạn rằng khi nhìn đứa bé tật nguyền ấy với cặp mắt tràn lệ sung sướng nó như muốn nói với bạn rằng: “Cám ơn ba má đã thương yêu con và đã muốn con được hạnh phúc”. Lúc đó, bạn sẽ bắt đầu hiểu những gì bạn chưa bao giờ hiểu trước đó.

Nếu bạn nhìn lên Chúa Giêsu chết treo trên thập giá, bạn sẽ nhìn lại và nhìn thẳng vào ánh mắt của Ngài, Ngài cũng hầu như không còn tay chân nữa, bởi vì cả hai tay chân Ngài đã bị đinh sắt đâm thâu, bị bất động và bị đóng chặt vào gỗ thánh giá. Rồi bạn hãy nhìn chăm chú không phải vào tay chân bị cụt mất của đứa con yêu dấu tật nguyền của bạn, nhưng bạn hãy nhìn vào ánh mắt của con, vào trái tim và vào tâm hồn của nó nếu bạn có thể nhìn được. Và rồi bạn sẽ sung sướng khám phá ra những gì cặp mắt của thân xác bạn không thể nhìn thấy, đó là người con yêu dấu bất hạnh của bạn đang chiếm hữu hạnh phúc bất diệt của thiên đàng.

***

Chứng từ của cha mẹ đứa bé tàn tật trên đây nói lên lòng tin vững mạnh vào Mầu Nhiệm Ðau Khổ. Ðó cũng là cách mà các tín hữu tiên khởi suy niệm khi nhớ lại lời giảng của Chúa Giêsu. Những lời nói thật chói tai nhưng có sức đánh động tâm hồn họ hơn cả: “Phúc thay ai sầu khổ vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5:5) hay “Ai muốn theo Thầy phải từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc9:23).

Cái chết khổ hình thập giá của Chúa Giêsu đã làm cho dân Do Thái phải kinh ngạc: Qua những phép lạ lớn lao tay Ngài thực hiện, nào là cho bánh hoá nhiều, chữa lành bệnh tật, kẻ chết sống lại; thế mà đến lúc cuối đời, dù bị oan ức, tra tấn sỉ nhục và chết cách dã man trên thập giá, Ngài cũng không làm một phép lạ nào để tự cứu mình khỏi khổ đau.

Ngài đã lau khô nước mắt của những người đau khổ, đã biến những nỗi khổ đau thành niềm vui, nhưng Ngài không hoàn toàn khử trừ đau khổ khỏi mặt đất! Bởi vì mầu nhiệm của đau khổ và sự chết vẫn là một thực tại được tiếp diễn qua mọi thời đại. Nhưng việc Phục sinh khải hoàn của Chúa Giêsu chính là sự bảo đảm và là lời minh chứng hùng hồn về giá trị của đau khổ.

Ðau khổ không phải là cùng đích của đời sống con người, cũng chẳng phải là con đường cùng; nhưng đối với những kẻ tin vào sứ mệnh cứu độ của Chúa Giêsu thì bên kia bóng tối của sự chết và đau khổ, chính là ánh sáng của sự sống vĩnh cửu và của hạnh phúc bất diệt.

***

Lạy Chúa, con có thể tìm Chúa trong mọi nẻo đường và nơi các sự vật, con cũng có thể gặp Ngài ngay trong những đau khổ chồng chất của đời con. Vâng, con tin chắc rằng khi con gặp được Chúa là con gặp được sự ủi an, hạnh phúc và niềm vui. Xin Chúa giúp con luôn xác tín rằng ơn cứu độ của Chúa sẽ biến đổi những đau khổ chóng qua của con hôm nay thành hạnh phúc bất diệt cho con ngày mai trên Nước Trời. Amen.

Thầy Uông Đai Bằng gởi