CHỦ CHĂN

CHỦ CHĂN

Trong một cuộc giao tranh đạo quân của đại tướng Monmouth bị thua chạy một cách thê thảm.  Riêng ông cũng phải lẩn trốn.  Ban ngày ông đến náu trong những hang núi, đến đêm mới dám ra đi.  Sau cùng, địch quân cũng đuổi kịp.  Ông bí quá, chạy vào căn lều của người chăn chiên.

 Thay vì đóng cửa không cho ông vào, người chăn chiên đã làm một nghĩa cử cao đẹp.  Anh đã đổi áo của mình cho ông mặc trá hình, rồi thân chinh ra gặp địch quân của đại tướng.

 Người chăn chiên đã chiến đấu rất anh dũng và cố ý kéo dài cuộc giao tranh để Monmouth có giờ tẩu thoát.  Với thanh kiếm, anh đã cầm chân địch quân trong vòng ba tiếng đồng hồ, cho đến khi mệt lả, không còn đủ sức chiến đấu nữa thì bị địch quân giết chết.  Lúc đó đại tướng Monmouth đã đi xa rồi.

 Trong trận chiến chống trả tội lỗi, chúng ta luôn bị ma quỉ đuổi bắt, nhưng Chúa Giêsu đã xuống thế làm người.  Ngài đã chiến đấu thay cho chúng ta suốt ba tiếng đồng hồ trên thập giá, cho đến lúc chính Ngài đã phải chết.  Trong khi Ngài chiến đấu với ma quỉ, con người tội lỗi chúng ta được thoát khỏi quyền lực của ma quỉ.  Chính vì thế, Chúa Giêsu đã có lý khi tự xưng mình là chủ chiên nhân lành, đã hiến mạng sống vì con chiên.

Ngài nói đi nói lại với chúng ta, Ngài là chủ chăn nhân lành có nhiệm vụ dẫn dắt linh hồn chúng ta:

– Nếu một người có một trăm con chiên chẳng may lạc mất một con, người ấy lại không bỏ 99 con lại mà đi tìm con chiên bị lạc mất hay sao.  Ta còn nhiều chiên khác chưa thuộc về đàn này, cả chúng nữa ta cũng phải đem chúng về.

Linh hồn của chúng ta đáng giá chừng nào, vì Chúa Giêsu đã sẵn sàng hiến mạng sống để cứu lấy nó.

Chúng ta phải luôn ghi lòng tạc dạ điều này: Trong chúng ta có một cái gì rất giá trị, một cái gì chúng ta phải chăm sóc và bảo tồn.  Để chăn dắt chúng ta, Chúa Giêsu đã phải giáng trần.

Nếu chúng ta cần gì thì hãy đến với Ngài.

Cần đồ ăn ư?  Ngài đã ban chính mình Ngài trong Bí tích Thánh Thể để làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta.

Cần nước uống ư?  Ngài đã ban cho chúng ta dòng nước trong lành của Bí tích Rửa tội.

Cần băng bó ư?  Ngài sẽ chữa lành những vết thương do tội lỗi gây nên bằng Bí tích Giải tội.

Cần hướng dẫn ư?  Ngài sẽ đưa chúng ta trở về với Ngài như người chủ chăn đưa con chiên lạc trở về đàn của mình.

Cần che chở ư?  Ngài hiến mạng sống để bảo vệ chúng ta và cho đến ngày hôm nay Ngài còn thực hiện biết bao việc lạ lùng để nâng đỡ chúng ta.

Linh hồn chúng ta thực là quí giá biết bao, chính vì thế, chúng ta phải gìn giữ nó, đừng làm những gì khiến nó mất đi vẻ đẹp tuyệt vời, khiến Chúa Giêsu phải đau lòng.

Người chăn chiên đã chết để cứu mạng sống cho vị đại tướng.  Chúa Giêsu đã chết trên thập giá để cứu rỗi linh hồn chúng ta, bởi vì Ngài chính là chủ chăn nhân lành đã hiến mạng vì đoàn chiên.

Sưu tầm

****************************** ********

Lạy Chúa Giêsu, Chúa nhận mình là Tấm Bánh, vì Chúa muốn nuôi tâm linh chúng con.

Chúa nhận mình là Cây Nho, vì Chúa muốn trao cho chúng con dòng nhựa sống.

Chúa nhận mình là Mục tử nhân lành, vì Chúa muốn dẫn chúng con đến nơi đồng cỏ.

Chúa nhận mình là Cửa, vì Chúa mở cho chúng con sự phong phú của Nước Trời.

Chúa nhận mình là Con Đường, vì Chúa là Đấng duy nhất dẫn chúng con đến với Chúa Cha.

Chúa nhận mình là Ánh sáng, vì Chúa có khả năng khuất phục bóng tối trong thế gian này.

Chúa nhận mình là Sự Thật, vì Chúa vén mở cho chúng con khuôn mặt của Thiên Chúa.

Chúa nhận mình là Sự Sống và là Sự Sống Lại, vì Chúa không để cho chúng con bị cái chết chôn vùi.

Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa vì mọi điều Chúa định nghĩa về mình đều hướng đến hạnh phúc cho chúng con, và đều cho chúng con sự sống thâm sâu của Chúa.  Xin cho chúng con chấp nhận Chúa là Anpha và Ômêga, là Khởi Nguyên và là Tận Cùng của cuộc đời mỗi người chúng con. Amen.

Langthangchieutim gởi

Dân tộc không có ăn mày.

  Dân tộc không có ăn mày.
Vì sao người Do Thái dù phiêu bạt khắp nơi nhưng không có một người ăn mày?

Trong hơn 2000 năm, người Do Thái ly biệt quê hương và tản mạn đi khắp mọi khu vực của trái đất. Mãi đến năm 1947, khi chiến tranh thế giới thứ 2 chấm dứt, người Do Thái mới trở về đất nước của mình. Nhưng mà, là một dân tộc dù phải lang bạt hơn 2000 năm, nhưng Do Thái lại là dân tộc “độc nhất vô nhị” không có người ăn mày.

Người Do Thái cho rằng: Giáo viên vĩ đại hơn cả quốc vương. Họ vô cùng kính trọng giáo viên. Dựa vào học tập, tri thức và sách, người Do Thái dù lang thang ở bất kể nơi đâu họ cũng đều có thể sinh tồn, hơn nữa còn phát triển mạnh mẽ.

Người Do Thái là một dân tộc có tín ngưỡng tôn giáo mạnh mẽ. Họ coi học tập là một phần của tín ngưỡng, học tập là một hình thức thể hiện sự tôn kính của mình đối với Thượng đế. Mỗi người Do Thái đều cần phải đọc sách.

Talmud chính là nguồn gốc trí tuệ của người Do Thái. Talmud có nghĩa là “nghiên cứu” hoặc “nghiên cứu và học tập”. Talmud cho rằng: “Học tập là thứ giúp hành vi hướng thiện, là nguồn gốc của đức hạnh. Sự thành kính, lương thiện, ôn hòa, ưu nhã của một người đều là dựa vào kết quả của giáo dục.”

Người Do Thái coi sách là bảo bối của cả đời. Giá sách không được đặt ở đầu giường hay cuối giường nếu không sẽ bị coi là bất kính với sách.

“Trí tuệ quan trọng hơn tri thức”. Như thế nào là tri thức? Tri thức chính là thực tế khách quan và chân tướng của vạn sự vạn vật. Còn trí tuệ là đem thực tế khách quan và chân tướng của vạn sự vạn vật tiến hành tổng hợp ra một phương án tốt nhất để giải quyết vấn đề.

Đối với con người, quan trọng nhất là cái gì? Là đến từ trí tuệ, mà trí tuệ lại đến từ tri thức.

Mục đích của đọc sách là để mở rộng tri thức, sau khi đã chuẩn bị được nguồn tri thức phong phú, bạn sẽ học được cách suy xét. Bạn sẽ minh bạch được đạo lý làm người hoặc là sẽ tìm được cách thức giải quyết vấn đề. Đây chính là trí tuệ! Vì vậy, trí tuệ đến từ tri thức và quan trọng hơn tri thức!

Người Do Thái ủng hộ sáng tạo cái mới. Họ cho rằng, việc sáng tạo ra cái mới chính là trí tuệ, phải dám hoài nghi, dám đặt câu hỏi bất cứ lúc nào, bởi vì tri thức càng nhiều sẽ càng sản sinh ra sự hoài nghi.

Người Trung Quốc thường hỏi con cái khi chúng tan trường là: “Hôm nay con làm bài thế nào?” Còn người Do Thái sẽ hỏi con: “Hôm nay con có đưa ra câu hỏi nào không? Hôm nay con có gì khác hôm qua không?”

Người Do Thái cho rằng, thông qua học tập mọi người có thể nhận thức chính mình và siêu việt chính mình.

Cách giáo dục của người Do Thái bao gồm cả đóng và mở. Đối với nội bộ người Do Thái là cởi mở, còn đối với bên ngoài là đóng kín, để duy trì sự cạnh tranh sinh tồn của người Do Thái. Talmud là kinh thánh chuẩn, trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ 6 công nguyên, người Do Thái đã vận dụng nó 500 năm. Hơn 2000 giáo sĩ Do Thái và các nhà khoa học đã biên soạn ra cuốn sách quý này. Nó là bảo bối sinh tồn của người Do Thái.

Trên thế giới, dân tộc Do Thái là dân tộc hiểu nhất về nghệ thuật của giáo dục. Có thể nói, người Do Thái là dân tộc thành công nhất về giáo dục.

Người Do Thái cho rằng giáo dục có thể cải biến đời người, số mệnh, cải biến hết thảy. Vì vậy, trong hơn 2000 năm lang bạt trong lịch sử, hết thảy mọi thứ của họ đều bị cướp đoạt hết chỉ có sách và tri thức là không thể bị cướp mất.

Người Do Thái vô cùng coi trọng giáo dục, tri thức và sách. Chỉ có tri thức là tài phú quan trọng nhất, là tài sản có thể mang theo bên mình và còn cả đời có thể hưởng dụng.

Vì thế, người Do Thái là dân tộc đầu tiên trên thế giới xóa mù chữ. Từ trước năm 1947, ngay cả một mảnh đất lãnh thổ cũng không có. Thế nhưng, trong thời kỳ trung cổ, người Do Thái đã xóa mù chữ, vì vậy tố chất chỉnh thể của dân tộc này cao hơn của các dân tộc khác một bậc.

Dù với dân số ít ỏi, nhưng Do Thái là dân tộc đã giành được rất nhiều giải thưởng Nobel, với 169 người, chiếm 17.7% tổng số người giành được giải thưởng này của cả thế giới.

Chính những yếu tố này đã khiến cho người dân Do Thái dù phải phiêu bạt khắp thế giới hơn 2000 năm, nhưng lại là một nước duy nhất trên thế giới không có ăn mày.

Theo NTDTV

Mai Trà biên dịch ( ĐKN )

TUYÊN BỐ CHUNG

Nguồn facebook: Trần Bang
TUYÊN BỐ CHUNG

V/v: Phản đối việc đàn áp người dân lên tiếng ôn hoà, nhân vụ hành hung chị Lê Thị Mỹ Hạnh

Kính thưa bà con,

Trong thời gian qua đã xảy ra nhiều vụ côn đồ tấn công những người lên tiếng ôn hoà như:

* Chị Đỗ Thanh Vân và anh Nguyễn Viết Dũng ngày 14/3/2017, sau khi đi tưởng niệm Thảm sát Gạc Ma, tại Hà Nội.
* Chị Lê Thị Mỹ Hạnh và anh Trịnh Đình Hoà ngày 5/4/2017, khi đang đi bộ tại Hà Nội.
* Anh Trần Hoàng Phúc & Huỳnh Thành Phát bị đánh ngày 13/4/2017 tại Quảng Bình.
* Chị Nguyễn Hương ngày 22/4/2017, khi đang đi làm từ thiện tại Đakrong, Quảng Trị.
* Anh Trương Văn Dũng bị côn đồ – nhưng sau phát hiện là công an – tấn công ngày 30/4/2017 khi đang quay phim người dân giương biểu ngữ phản đối Formosa, tại Hà Nội.
* Anh Nguyễn Peng ngày 1/5/2017, tại Sài Gòn.

Đỉnh điểm của sự việc xảy ra ngày 2/5/2107, côn đồ xông vào nhà riêng chị Nguyễn Hương tấn công ba người phụ nữ là chị Nguyễn Hương, chị Lê Thị Mỹ Hạnh và một người bạn. Bọn chúng sau đó còn trắng trợn công khai clip đánh người này lên Facebook ở tài khoản Phan Sơn Hùng: https://www.facebook.com/phansonhung.phanhung/posts/1652523578098882.

Vì vậy, chúng tôi, những tổ chức XHDS và công dân Việt Nam kí tên dưới đây tuyên bố:

1. Thời gian gần đây đã xảy ra nhiều thảm hoạ và nguy cơ cho đất nước như mất đất, mất biển vào tay chính quyền Trung Quốc, thảm hoạ môi trường Formosa, nạn tham nhũng, sự suy thoái kinh tế và gia tăng các thuế phí đã gây nhiều bức xúc trong nhân dân. Người dân lên tiếng phản đối là điều hiển nhiên, đó là quyền cơ bản của công dân được ghi trong Hiến pháp và được pháp luật bảo vệ. Nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm an toàn cho những công dân được nói lên ý kiến của mình.

2. Việc để xảy ra những vụ tấn công nhằm vào công dân Việt Nam chỉ vì họ lên tiếng ôn hoà là trách nhiệm của công an Việt Nam. Công an Việt Nam đã không hoàn thành trách nhiệm bảo vệ công dân; thậm chí đã có nhiều bằng chứng chứng tỏ công an bao che, dung túng và đứng đằng sau những vụ việc này.

3. Chúng tôi, những tổ chức XHDS và cá nhân kí tên dưới đây luôn vận động người dân lên tiếng trong ôn hoà nhằm tạo sự thay đổi tốt đẹp cho đất nước nhưng chính quyền thường xuyên tuyên truyền quy chụp họ phản động, vô hình dung kích động bạo lực, đe doạ, trấn áp và vu khống họ. Chính điều này làm xuất hiện những nhóm dư luận viên, những nhóm côn đồ ngày càng trắng trợn công khai sử dụng bạo lực. Chính những hành động đó tạo ra những bất ổn xã hội mà hậu quả của nó là không lường trước được.

4. Vì vậy, chúng tôi kêu gọi chính quyền chấm dứt hành động tuyên truyền gây kích động bạo lực và nhanh chóng xử lý những tổ chức và cá nhân công khai kích động bạo lực, trấn áp và vu khống người dân Việt Nam như trên các trang facebook Tô Lâm, Trần Đại Quang và Phan Sơn Hùng trên đây.

Trong vòng 48h khi ra tuyên bố này, nếu chính quyền không có biện pháp xử lý thích hợp, chúng tôi sẽ kêu gọi biểu tình toàn quốc để phản đối lên án những hành động bạo lực đàn áp người dân.
Trân trọng!

Các tổ chức XHDS và cá nhân đồng đứng tên:
1. Hội thánh Tin lành Mennonite Cộng Đồng. Đại diện: Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng.
2. Diễn đàn XHDS. Đại diện: Tiến sĩ Nguyễn Quang A.
3. Hội Giáo chức Chu Văn An. Đại diện: Thầy giáo Vũ Mạnh Hùng.
4. Tăng Đoàn Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Đại diện: Hòa thượng Thích Không Tánh.
5. Nhóm Văn Lang (Cộng Hòa Séc). Đại diện: Ông Nguyễn Cường.
6. Diễn Đàn Dân Chủ Đuốc Việt. Đại diện: Ông Lưu Hoàn Phố.
7. Người Bảo vệ Nhân quyền (Defend the Defenders). Đại diện: Ông Vũ Quốc Ngữ
8. Hội Anh em Dân Chủ. Đại diện: Ông Nguyễn Trung Tôn.
9. Giáo Hội Liên Hữu LuTheran VN-HK. Đại diện: Mục sư Nguyễn Hoàng Hoa
10. Mạng Lưới Blogger Việt Nam. Đại diện: Bà Phạm Thanh Nghiên.
11. Con Đường Việt Nam. Đại diện: Ông Hoàng Văn Dũng.
12. Hội bảo vệ Quyền Tự do Tôn giáo. Đại diện: Bà Hà Thị Vân
13. Hội Ái hữu Tù nhân chính trị và Tôn giáo Việt Nam. Đại diện: Ông Nguyễn Bắc Truyển
14. Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng. Đại diện: Bà Ngô Thị Kim Hoa (Sương Quỳnh)
15. Hội Bầu bí Tương thân. Đại diện: Ông Nguyễn Lê Hùng.
16. Phong trào Lao Động Việt. Đại diện: Bà Đỗ Thị Minh Hạnh.
17. Nhóm Vì Môi Trường. Đại diện: Bà Nguyễn Thị Bích Ngà
18. No-U FC. Đại diện: Ông Lã Việt Dũng
19. Nhóm Green Trees. Đại diện: Ông Đặng Vũ Lượng
20. Hội Cựu TNLT, BS Nguyễn Đan Quế và LM Phan Văn Lợi, đồng Chủ tịch, đại diện
21. Trang tin Dân Luận. Đại diện: Ông Nguyễn Công Huân
22. Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền. Đại diện: Linh mục Nguyễn Hữu Giải và Linh mục Nguyễn Văn Lý
23. Khối Tự do Dân chủ 8406. Đại diện: Kỹ sư Đỗ Nam Hải và Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa
24. Giáo hội Phật giáo Hòa hảo Thuần Túy. Đại diện: Ông Lê Quang Hiển & Ông Lê Văn Sóc
25. Diễn đàn XHDS. Đại diện: Tiến sĩ Nguyễn Quang A.
26.

Các cá nhân:
1. Nhà văn Nguyễn Nguyên Bình. Hà Nội.
2. PGSTS Hoàng Dũng, TPHCM
3. CTNLT Huỳnh Anh Tú. SG
4. CTNLT Phạm Thanh Nghiên. SG
5. Nhà báo độc lập Lê Anh Hùng. Hà Nội.
6. Ông Nguyễn Khắc Mai. Hà Nội.
7. CTNLT Lê Thăng Long. SG
8. Kha Lương Ngãi – Nguyên PTBT báo SGGP, thành viên CLB LHĐ. Sài Gòn
9. Nghệ sĩ Lại Thị Ánh Hồng – thành viên CLB LHĐ. Sài Gòn
10. Nhà báo độc lập Nguyễn Tường Thụy. Hà Nội.
11. Lê Thân – Cựu tù Côn Đảo. Thành viên CLB LHĐ. Sài Gòn.
12. Nhà báo Võ Văn Tạo. Nha Trang
13. Diễn viên, đạo diễn, NSUT Nguyễn Thị Kim Chi. Sài Gòn
14. Điếu Cày Nguyễn Văn Hải. CLB Nhà báo tự do. Hoa Kỳ.
15. Nhà giáo Pháp – Việt André Menras
16. Nhà thơ Hoàng Hưng. Sài Gòn.
17. Thương binh Phan Khang. Hà Nội
18. Nguyên PGĐ Cty XNK Lâm sản 21 Vũ Minh Thoa. Khánh Hòa.
19. Blogger Phạm Hải. Khánh Hòa.
20. Kỹ sư Khổng Hy Thiêm. Khánh Hòa.
21. Kỹ sư Bùi Quang Vơm. Pháp
22. Luật sư, CTNLT Lê Công Định. Sài Gòn.
23. Mục sư Đoàn Văn Diên.
24. Paulus Lê Sơn, Phóng viên tự do, TNLT
25. Giáo viên Đào Thu. Hà Nội.
26. Tiến sĩ, Bác sĩ Đinh Đức Long. Sài Gòn.
27.

Chúng tôi tiếp tục đón nhận sự ủng hộ của các tổ chức XHDS và cá nhân. Nếu sẵn sàng đồng hành, xin quý vị gửi ký tên về e-mail: chongbaoluc@gmail.com.

Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!

No automatic alt text available.
 
 

Chính thống hay nguỵ quyền

Chính thống hay nguỵ quyền

(Trình bày tại Montreal ngày 30-4-2017)

Trần Gia Phụng (Danlambao) – Từ năm 1945 cho đến nay, cộng sản (CS) luôn luôn giành chính nghĩa về phần mình, gọi Quốc Gia Việt Nam (QGVN) rồi Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) là “ngụy quân”, “ngụy quyền”… Bài nói chuyện nầy xin dựa vào lịch sử để xác định rõ ràng ai là chính thống và ai là ngụy quyền?

  1. Định nghĩa 

Trong chữ “chính thống”, thì “chính” là “ngay thẳng”, “đích xác”; còn “thống” là “mối tơ”, giềng mối nối tiếp nhau. Nói chung, “chính thống” là dòng chính từ trước ra sau, từ trên xuống dưới. Ví dụ dòng chính của một dòng họ, một môn phái, một học thuyết. Trong chính trị, chính thống là sự tiếp nối chính thức từ đời trước qua đời sau, đúng theo luật định, tập quán, phong tục…

Trái với “chính” trong chữ “chính thống”, là “ngụy”. “Ngụy” có nghĩa là giả, không thật, không chính thống. Các nhà cầm quyền thường tự cho mình là chính và dùng chữ “ngụy” để chỉ những đối thủ chính trị, như ngụy triều, ngụy quyền, ngụy quân. Ví dụ gần nhứt trong lịch sử là nhà Nguyễn (vua Gia Long) gọi nhà Nguyễn (vua Quang Trung) là “ngụy triều”, “ngụy Tây”, “ngụy Tây Sơn” … 

Nhân viết về nhà Tây Sơn, sử gia Trần Trọng Kim bàn rằng: “Những người làm quốc sử nước Tàu và nước ta thường cứ chia những nhà làm vua ra chính thống và ngụy triều. Nhà nào, một là đánh giặc mở nước, sáng tạo ra cơ nghiệp, hai là được kế truyền phân minh, thần dân đều phục, ba là dẹp loạn yên dân, dựng nghiệp ở đất trung nguyên, thì cho là chính thống. Nhà nào, một là làm tôi cướp ngôi vua, làm sự thoán đoạt không thành, hai là xưng đế, xưng vương ở chỗ rừng núi, hay là ở đất biên địa, ba là những người ngoại chủng vào chiếm nước làm vua, thì cho là ngụy triều.” (Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Sài Gòn, Nxb. Tân Việt, in lần thứ bảy, 1964, tr. 367, chương “Nhà Nguyễn Tây Sơn”.) 

Tuy vậy, có triều đại cầm quyền do đảo chánh, cướp ngôi, lúc đầu bị xem là ngụy triều, nhưng nhờ có công chống ngoại xâm hay xây dựng đất nước hợp lòng dân, nên được gọi là chính thống. Trái lại, có triều đại chính thống, nhưng về sau trở nên tàn bạo hoặc cầu viện ngoại bang, thì lại bị xem là ngụy triều.

Ngoài những tiêu chuẩn trên đây, ngày nay trên toàn thế giới, một chế độ được xem là chính thống khi được dân chúng chọn lựa qua một cuộc phổ thông đấu phiếu minh bạch, tự do dân chủ, xây dựng đất nước, tôn trọng dân quyền và nhân quyền, bảo vệ tổ quốc, chống ngoại xâm. Nói ngắn gọn, một chế độ chính thống là một chế độ “của dân, do dân và vì dân”.

  1. Quan điểm của cộng sản

Trong cuộc chiến 1946-1954, lúc đầu CSVN gọi các đối thủ chính trị là “Việt gian”, “phản động”, “bù nhìn”, “tay sai thực dân Pháp”. Sau hiệp định E1ysée (8-3-1949), cựu hoàng Bảo Đại thành lập chính thể QGVN và thành lập Quân đội QGVN, thì CSVN gọi quân đội QGVN là “ngụy binh” và sau đó gọi quân đội VNCH là “ngụy quân”, chính thể VNCH là “ngụy quyền”.

Hồ Chí Minh (HCM) bắt đầu dùng chữ “ngụy binh” trong các bài báo từ năm 1951, đăng lại trong Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6 (in lần thứ hai, Nxb. Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2000). 1) “Vận động ngụy binh”, ký tên Đ.X, báo Cứu Quốc số 1851, 30-6-1951. (Tập 6, tr. 234.) 2) “Thư gửi các ngụy binh”, ký tên Hồ Chí Minh, báo Cứu Quốc, số 1915, 28-9-1951. (Tập 6 tr. 305.) 3) “Lời kêu gọi ngụy binh quay về với tổ quốc”, ký tên Hồ Chí Minh, báo Nhân Dân, số 32, 15-11-1951. (Tập 6 tt. 332-333.) …

Trong suốt cuộc chiến 1960-1975, và nhứt là sau 30-4-1975, ngày nào đài phát thanh và đài truyền hình CS cũng ra rả rêu rao và lên án “ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn”. Tuy nhiên, không phải CS tự tiện gọi đối thủ là “ngụy”, thì CS tự nhiên trở thành chính thống. Vấn đề là sự đánh giá của quần chúng, sự phán xét của lịch sử, dựa trên thành quả của nhà nước CS trong lúc nắm quyền lực.

Muốn đánh giá thật đúng thì phải qua thời gian thử thách. Nay đã hơn 40 năm sau ngày 30-4-1975, có lẽ là thời gian đã quá đủ để người Việt hiểu CS thấu tận “ngọn nguồn lạch sông”, để đánh giá chế độ CS. 

  1. Trước năm 1975 

Xin bắt đầu khi chế độ CS mới thành lập. Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh ngày 14-8-1945, chính phủ Trần Trong Kim sụp đổ. Hồ Chí Minh (HCM) cùng mặt trận Việt Minh (VM) nổi lên cướp chính quyền ở Hà Nội, gởi điện yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị. (Nhóm chữ “cướp chính quyền” do VM đưa ra.) 

Lúc đó, đại sứ Nhật ở Huế đề nghị giúp vua Bảo Đại dẹp VM, vì lực lượng Nhật ở Việt Nam còn nguyên vẹn. Tuy nhiên, vì lòng yêu nước thương dân, vì muốn tránh nội chiến, vua Bảo Đại từ chối đề nghị của đại sứ Nhật, và tuyên chiếu thoái vị ngày 25-8, rồi làm lễ thoái vị ngày 30-8-1945, trao quyền cho VM, tạo thời cơ lịch sử rất thuận lợi, giúp HCM và VM thế kế tục chính thống hợp pháp trước quốc dân Việt Nam và cả chính trường quốc tế. 

Lúc đó, ít ai biết HCM và VM là cộng sản (CS), kể cả vua Bảo Đại. Trong “Tuyên ngôn độc lập” ngày 2-9-1945, HCM nói: “Khi Nhật đầu hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa…” Như thế là HCM tự hào rằng VM cướp chính quyền, chứ không phải do vua Bảo Đại trao lại, phủ nhận thiện chí của vua Bảo Đại, và phủ nhận luôn sự truyền thừa chính thức từ triều đình Huế mà vua Bảo Đại tượng trưng. 

Dù mới cầm quyền, HCM và VM để lộ ngay bản chất độc tài đảng trị. Vì vậy, khi thoát qua được Hồng Kông, và gặp lại Trần Trọng Kim vào tháng 8-1947, cựu hoàng Bảo Đại nói với Trần Trọng Kim: “Chúng mình già trẻ mắc lừa bọn du côn.” (Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài Gòn: Nxb. Vĩnh Sơn, 1969, tr. 146.) Ý kiến của Bảo Đại có thể xem là lời tuyên bố phủ nhận tất cả những gì mà trước đây vua Bảo Đại đã lầm khi tin tưởng giao quyền cho HCM. Đây là trường hợp mà trong dân gian thường nói là “trao duyên lầm tướng cướp”.

Qua việc HCM tự hào đã cướp chính quyền và việc cựu hoàng Bảo Đại nhận ra sai lầm vì đã trao quyền cho bọn du côn, thì VNDCCH chắc chắn không phải là chính thể kế truyền chính thống của nhà Nguyễn, hay của chính phủ Trần Trọng Kim.

Khi Pháp trở lui Việt Nam, HCM nhượng bộ Pháp để duy trì quyền lực, ký liên tiếp hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) và Tạm ước (14-9-1946), công nhận sự hiện diện của Pháp ở Việt Nam. Dần dần, bị Pháp áp lực mạnh mẽ, HCM họp Trung ương đảng CS tại Vạn Phúc (gần Hà Nội) ngày 18 và 19-12-1946, quyết định tấn công Pháp, nhằm trốn chạy khỏi Hà Nội, và đổ gánh nặng chiến tranh lên vai dân tộc Việt.

Việt Minh thua chạy cho đến năm 1949. Khi Trung Cộng thành công ở Trung Hoa năm 1949, thì đầu năm 1950, HCM qua Tàu rồi qua Liên Xô cầu viện. Hồ Chí Minh qua Tàu cầu viện năm 1950 thì có khác gì bà thái hậu nhà Lê qua Tàu cầu viện năm 1788? 

Trong Đại hội 2 đảng CSĐD vào tháng 2-1951 tại Tuyên Quang, để đưa đảng Cộng Sản (CS) hoạt động công khai trở lại với danh xưng mới là đảng Lao Động (LĐ) do Stalin đặt, HCM phát biểu: “Về lý luận, đảng Lao Động Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin…lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam.”. (Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ & Quốc hội, Nxb. Văn Nghệ [tái bản], California, 1995, tt. 150-152.) 

Chủ nghĩa Mác-Lê và tư tưởng Mao Trạch Đông hoàn toàn xa lạ đối với người Việt Nam, không nằm trong dòng văn hóa dân tộc cổ truyền chính thống. Ai cũng biết đây là loại chủ nghĩa không tưởng, không thể thực hiện được. Ngay cả những người hầu như đồng thời với NAQ, như hai nhà cách mạng Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu và nhà văn Phan Khôi đều chỉ trích chủ nghĩa Mác-Lê. 

Khi khởi chiến năm 1946, VM rất cần giới trí thức tiểu tư sản để lôi cuốn quần chúng. Thời nào cũng vậy, trí thức tiểu tư sản là lớp người trung gian giữa nhà cầm quyền với quần chúng và là thành phần nòng cốt thúc đẩy tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, khi được Trung Cộng viện trợ, VM khá vững, HCM theo chủ trương của Mao Trạch Đông, tiêu diệt giới trí thức tiểu tư sản bằng những phong trào rèn cán chỉnh quân, vì HCM và CS sợ giới nầy sẽ hướng dẫn quần chúng chống lại độc tài đảng trị CS, nên ra tay trước. 

Hồ Chí Minh còn học theo Mao Trạch Đông tổ chức những cuộc Cải cách ruộng đất kinh thiên động địa, gây chia rẽ dân chúng, gây căm thù giai cấp và làm cho bàn tay nông dân nhuốm máu đồng bào, không còn con đường rút lui, mà chỉ còn con đường duy nhất là phải nhắm mắt vâng phục CS.

Khi Trung Cộng gởi viện trợ qua giúp và nhất là gởi cố vấn qua điều khiển chiến tranh, thì VM tuân phục tuyệt đối sự lãnh đạo của cố vấn Trung Cộng. Cố vấn Trung Cộng chỉ đông thì đánh đông, chỉ tây bắc thì lên tây bắc, chỉ ngừng đánh để họp Genève thì lo họp, chỉ chia hai đất nước ở vĩ tuyến 17, thì tuân lệnh ngay lập tức. Tất cả những trận đánh lớn nhỏ của bộ đội VM, từ Đông Khê đến Điện Biên Phủ, đều nhờ khí tài và cố vấn Trung Cộng, do quân ủy Bắc Kinh chỉ huy. Võ Nguyên Giáp chẳng qua là đốc công chiến trường, còn Hồ Chí Minh là thư ký chiến trường cho đoàn cố vấn và quân ủy Bắc Kinh mà thôi.

Sau khi đất nước bị chia hai, Bắc Việt Nam cử người qua Bắc Kinh năm 1956 xin viện trợ nhằm đánh Nam Việt Nam. Lúc đó, Trung Cộng ra tuyên bố tự ý xác định hải phận của Trung Cộng là 12 hải lý, và khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (vốn của Việt Nam) thuộc chủ quyền của Trung Cộng. Để trả ơn Trung Cộng, Phạm Văn Đồng ký công hàm ngày 14-9-1958, với sự chuẩn thuận của HCM và đảng Lao Động, theo đó CSVN “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc”. Như thế có nghĩa là CSVN nhượng hai quần đảo nầy cho Trung Cộng.

Chưa hết, trong cuộc chiến 1960-1975, Lê Duẩn còn khẳng định: “Ta đánh Mỹ là đánh cho cả Trung Quốc, cho Liên Xô.” (Nguyễn Mạnh Cầm (ngoại trưởng CSVN từ 1991 đến 2000) trả lời phỏng vấn BBC ngày 24-1-2013.) 

  1. Thực tế đời sống

Một kinh nghiệm thực tế rất dễ nhận thấy trong chiến tranh, là khi CS tiến đánh đến đâu, thì dân chúng bỏ phiếu bằng chân ngay tức khắc, chạy khỏi đó, và trốn về phía Quốc Gia hay Việt Nam Cộng Hòa. Năm 1954, sau hiệp định Genève (20-7-1954), khoảng một triệu người bỏ nhà cửa, ruộng vườn di cư vào Nam. Ngày 30-4-1975, CS chiếm Nam Việt Nam, thì dân chúng tìm tất cả các cách trốn chạy ra khỏi nước.

Tuy chiến thắng ngày 30-4-1975, thống nhất lãnh thổ, nhưng CS không thống nhất được lòng dân và chủ nghĩa CS không chiến thắng được văn hóa miền Nam. Nói cách khác, do hoàn cảnh quốc tế, CS đã chiến thắng Việt Nam Cộng Hòa, nhưng CS không thể tiêu diệt được tinh thần Việt Nam Cộng Hòa. Bằng chứng là sau năm 1975, người Bắc vào Nam học theo văn hóa miền Nam, đọc sách miền Nam, nghe nhạc miền Nam, ăn bận theo kiểu người Nam, chở hàng từ Nam ra Bắc, nghĩa là miền Bắc được Nam hóa. Cách đây 10 ngày, một trung niên người Sài Gòn sinh trong thập niên 90 (dưới 30 tuổi), lớn lên dưới chế độ CS, đã trả lời đài RFA rằng: “Gọi là giải phóng miền Nam thì không hợp lý vì không thể nào một thằng nghèo đi giải phóng một thằng giàu.” (RFA, ngày 20-7-2017)

Sau năm 1975, CS đổi quốc hiệu là “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”. Đây là một cuộc áp đặt trắng trợn vì đại đa số dân chúng Việt Nam không theo CS. Số đảng viên CS từ trước đến nay luôn luôn dưới 10% tổng dân số Việt Nam.

Cho đến nay, tức hơn bốn mươi năm sau ngày 30-4-1975, đảng CS vẫn không thay đổi bản chất độc tài, đảng trị, toàn trị. Ngày nay, nguyên tắc nầy được đảng CS thể hiện công khai bằng điều 4 hiến pháp rất nổi tiếng mà hầu như ai cũng biết.

Để có thể đứng vững, sau năm 1975, CSVN dựa vào Liên Xô cho đến năm 1990. Khi Liên Xô sụp đổ, CSVN thần phục Trung Cộng. Cho đến nay, chưa ai biết nội dung hội nghị Thành Đô (Trung Hoa), trong hai ngày 3 và 4-9-1990 giữa CSVN với Trung Cộng. Chỉ biết sau hội nghị nầy, CSVN nhục nhã ký hai hiệp ước liên tiếp: 1) Hiệp ước về biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc ngày 30-12-1999, nhượng cho Trung Cộng ải Nam Quan, một nửa thác Bản Giốc, một số diện tích đất biên giới. 2) Hiệp ước phân định lãnh hải ngày 25-12-2000, mất vào tay Trung Cộng 10,000 km2 mặt biển Vịnh Bắc Việt. 

Về kinh tế, cũng sau ngày 30-4-1975, do chính sách kinh tế chỉ huy, Việt Nam càng ngày càng suy sụp. Sợ nội loạn xảy ra, tuy vẫn cương quyết giữ vững nguyên tắc độc quyền chính trị, nhưng từ năm 1985, CS bắt đầu thay đổi về kinh tế, hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Do CS mới ứng dụng kinh tế thị trường, cơ chế lỏng lẻo, các doanh nghiệp nhà nước (công ty quốc doanh) được ưu đãi, vay vốn ngân hàng nhà nước dễ dàng, tài sản chung không ai quý. Nạn tham nhũng bùng nổ mạnh mẽ. Cán bộ CS cấu kết với nhau thành những nhóm lợi ích trong chính quyền, liên hệ đến các thế lực chính trị. Những nhóm lợi ích nầy va chạm nhau, tranh ăn hối lộ, tranh chấp quyền lợi, đưa đến chia rẽ trong nội bộ CSVN.

Tham nhũng tràn lan từ lớn đến nhỏ, từ trên xuống dưới, trong tất cả các ngành của nhà nước, nặng nhứt là ngành công an, nhà đất, hải quan. Tham nhũng chẳng những cướp nhà, cướp đất, mà còn bán đất cho ngoại bang, tạo ra những tệ nạn khủng khiếp như vụ bauxite ở Cao nguyên Trung phần, và nhất là vụ Formosa gây ô nhiễm độc hại về lâu về dài, làm cho dân chúng điêu đứng. 

Cộng sản thường tự hào là đã mở các cuộc cải cách ruộng đất để chia đất cho người nghèo. Ngày nay, CS cướp đất của người nghèo, bán cho công ty nước ngoài hay cho công ty nước ngoài thuê dài hạn, dài hơn cả thời hạn cho nông dân thuê đất. Dân chúng bị cướp nhà, cướp đất, mất hết đất đai mưu sinh, nên liều chết tranh đấu bảo vệ đất, khiếu nại, kiện tụng hằng ngày, tạo thành phong trào dân oan trên toàn quốc.

Tiếp xúc với cử tri quận 4 TpHCM (tức Sài Gòn cũ) ngày 3-12-2014, Trương Tấn Sang (chủ tịch nhà nước CS 2011-2016) phát biểu: “Hiện tham nhũng không còn đứng riêng lẻ, mà trở thành bè cánh bao che cho nhau.” 

Nguyễn Phú Trọng (tổng bí thử đảng CS từ 2011) ví von tham nhũng là giặc nội xâm, và đã phát biểu như sau khi tiếp xúc với cử tri quận Ba Đình, Hà Nội ngày 17-10-2016: “Chống ngoại xâm đã khó, chống nội xâm càng khó hơn vì là ta đánh vào ta.” (BBC tiếng Việt ngày 17-10-2016.) Ta đánh vào ta thì lấy ai phục vụ chế độ? Đảng CS bèn thả lỏng tham nhũng để cùng nhau bảo vệ chế độ CS. 

Đặc biệt, khi nhìn lại chế độ CS hiện nay, Nguyễn Phú Trọng đã thốt lên ngày 23-10-2013 tại quốc hội Hà Nội, nhân thảo luận về việc sửa đổi hiến pháp năm 1992: “Đến hết thế kỷ này không biết đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam chưa?” (Các báo Internet ngày 24-10-2013.) Sao ngụy vậy? Không hoàn thiện được, sao buộc dân Việt phải theo? 

Trong khi đó, nhờ internet, nhờ thông tin, sách vở từ nước ngoài tràn vào, dân chúng càng ngày càng thấy rõ bản chất gian tham của CS. Từ đó dân chúng khinh thường cán bộ CS, không còn sợ sệt CS như trước nữa. Cách đây hơn 40 năm, không ai có thể tưởng tượng nổi là có những cuộc biểu tình hàng chục ngàn người chống đối CS. Cũng không ai có thể tưởng tượng hàng ngày, người dân công khai nguyền rủa chế độ, cán bộ, công an khắp nước, được đưa lên Internet hoặc face book, You tube…

  1. Quan điểm của dân chúng

Sau những kinh nghiệm lịch sử và sau những kinh nhiệm bản thân, dân chúng Việt Nam ngày nay đã nhận định rõ ràng ai là chính thống, ai là ngụy quyền. Nhận định nầy gồm hai phần:

  1. a) Thứ nhứt, dân chúng bất mãn đối với chế độ CS: Hiện nay, ngày nào cũng có những cuộc biểu tình, kiện tụng, phản đối từ thành phố đến nông thôn trên toàn quốc. Các biểu ngữ trong các cuộc biểu tình thật đầy đủ ý nghĩa: “Đảng CSVN 1 tập đoàn tội đồ có tổ chức. Mục đích chỉ là để áp bức bóc lột hút máu dân Việt.”Hoặc “Đảng Cộng sản, còn chế độ công an trị dân ta còn mất hết quyền làm người.”

Sinh viên Lê Trung Thành đã viết: “Các anh ơi! Các chị ơi! Các mẹ ơi! Còn cờ đỏ sao vàng thì không bao giờ có độc lập, tự do, hạnh phúc.” (đăng trên các web site13-03-2009.) Càng ngày, các cuộc biểu tình càng mạnh mẽ, như vụ Fomosa ở Ha Tĩnh, vụ xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức ở Hà Nội.

Trên đây chỉ là một vài ví dụ đơn sơ về việc đánh giá của quần chúng đối với chế độ CS. Còn một kho tài liệu lớn lao chưa được đề cập đến trong bài nầy. Đó là sách báo, hồi ký của những nhà văn, những cán bộ hưu trí, từng một thời theo CS, mà “Đến già mới chợt tỉnh”. (Tên tác phẩm của Tống Văn Công). Ví dụ Dương Thu Hương, Hoàng Minh Chính, Nguyễn Hộ, Bùi Tín, Vũ Thư Hiên … 

  1. b) Thứ hai, phản ứng tâm lý tự nhiên của người dân là càng chống đối CS thì càng nhớ lại chế độ trước CS, tức Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Những người lớn tuổi đã từng sống dưới thời VNCH thì tiếc nuối một thời tự do dân chủ đã qua. Dân chúng Bắc Việt Nam và giới trẻ trên toàn quốc sinh sau năm 1975, chưa biết về VNCH, nhưng nhờ Internet, nên có cơ hội tìm hiểu VNCH, so sánh với chế độ CS, thì họ mới nhận chân được giá trị của VNCH. Thế là VNCH bắt đầu sống lại trong lòng dân chúng. 

Từ đó, khắp nước Việt Nam, kể cả Hà Nội và các tỉnh Bắc Việt Nam, xuất hiện lá Cờ vàng ba sọc đỏ, biểu tượng của Việt Nam Cộng Hòa, tung bay trong các buổi lễ tưởng niệm, trong các cuộc biểu tình. Cả những bản hùng ca, những bản nhạc vàng VNCH, được hát vang trong các cuộc tập họp đông người, ngay cả trên đường phố Hà Nội. Đây chính là biểu hiện ước mơ thầm kín của dân chúng trong nước, mong đất nước được sống như thời VNCH thuở trước. Tự do, dân chủ, tự hào dân tộc, cương quyết bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ. Ước mơ nầy chính là ý dân, lòng dân.

Một người dân Hà Nội đã viết: “Người ta gọi các anh là “quân ngụy”,/ Bởi các anh là lính Việt Nam Cộng Hòa./ Nhưng tôi gọi các anh là liệt sĩ,/ Bởi các anh ngả xuống vì Hoàng Sa.” (http://phanduykha.wordpress.com, Phan Duy Kha, “Sẽ có một ngày lấy lại Hoàng Sa”, 14-1-2014.) 

Sinh viên Nguyễn Viết Dũng, người Nghệ An, học đại học Hà Nội, bị bắt trong cuộc biểu tình ở hồ Hoàn Kiếm (Hà Nội) vì anh bận áo quần quân nhân VNCH. Sau 15 tháng tù giam, ngay khi bước ra khỏi nhà tù, Dũng bận áo trắng, trên ngực mang cờ Việt Nam Cộng Hòa, trên tay xăm hai chữ SÁT CỘNG. 

Kết luận

Nếu muốn viết đầy đủ vấn đề chính thống hay ngụy quyền ở Việt Nam trong cuộc chiến vừa qua, thì có thể cả một quyển sách cũng chưa đủ, nhưng ở đây thời gian không cho phép, nên bài nầy chỉ phác thảo sơ lược những nét chính của vấn đề. 

Vấn đề chính thống hay ngụy quyền không phải tự biên tự diễn như CS mà được. Cộng sản chỉ giỏi to miệng tự đề cao và to miệng vu khống người khác. Việc thẩm định chính thống và ngụy quyền sẽ do lịch sử phán xét, dựa trên nền tảng dân ý. “Trăm năm bia đá thì mòn,/Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.” Bia miệng chính là dân ý lưu truyền qua hàng ngàn năm lịch sử. 

Dân ý ở trong nước hiện nay như thế nào thì mọi người đều đã biết, khi các cuộc biểu tình đòi quyền sống, đòi tự do dân chủ, đòi dân quyền và nhân quyền, chống Trung Cộng, phản đối chế độ CS, hằng ngày được phổ biến lan tràn trên Internet. 

Những biểu ngữ, những khẩu hiệu của dân chúng cho thấy cộng sản chỉ là một chế độ hành dân, hại dân và phản dân. Điều nầy không có gì là lạ, vì chế độ CS dựa trên chủ thuyết Mác-Lê, mà ngày nay, ai cũng biết chủ thuyết Mác-Lê chỉ là một ngụy thuyết. Ngụy thuyết Mác-Lê sinh ra ngụy đảng CS và ngụy quyền CS. 

Ngược lại, cũng trong các cuộc biểu tình, các lễ tưởng niệm, các cuộc tụ họp của dân chúng, ý dân, lòng dân được thể hiện qua sự xuất hiện của lá Cờ vàng ba sọc đỏ, biểu tượng của Việt Nam Cộng Hòa, hiện đang bị CS cấm đoán. Cấm đoán thì cấm đoán, nhưng làm sao cấm được ý dân, ngăn được lòng dân.

Vì nhiều lý do phức tạp, Việt Nam Cộng Hòa đã thất bại trong cuộc chiến vừa qua, nhưng sau cơn gió bụi trong thời chiến làm mờ mịt thức mây, ngày nay mọi người đều sáng mắt ra, mới hiểu ra vấn đề, và ước mơ Việt Nam Cộng Hòa trở lại. Việt Nam Cộng Hòa tuy chưa hoàn hảo, nhưng nhân bản, dân chủ, tam quyền phân lập rõ ràng, cương quyết bảo vệ lãnh thổ, chống ngoại xâm. (Ở Việt Nam có chuyện tiếu lâm là mấy ông thầy bói mù cũng sáng mắt ra sau năm 1975.) 

Ý dân, lòng dân là nền tảng để lịch sử phán xét. Với nền tảng ý dân và lòng dân hiện nay như thế, rõ ràng Việt Nam Cộng Hòa mới đúng là chế độ chính thống trong cuộc chiến vừa qua. Lòng dân ước mơ, lòng dân mong đợi, thì trước sau gì Việt Nam Cộng Hòa cũng sẽ có ngày trở lại. Hiện tình rối loạn trong nước cho thấy ngày đó sẽ không xa.

(Montreal, 30-4-2017)

Trần Gia Phụng

danlambaovn.blogspot.com

Vụ Lê Mỹ Hạnh: Chính quyền có tôn trọng luật?

Vụ Lê Mỹ Hạnh: Chính quyền có tôn trọng luật?

Kính Hòa, phóng viên RFA
2017-05-03
 
Cảnh sát mặc thường phục đàn áp người biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội ngày 02 tháng 6 năm 2013.

Cảnh sát mặc thường phục đàn áp người biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội ngày 02 tháng 6 năm 2013.

AFP photo
 
 Ngày 2 tháng 5 một video được chia sẻ rộng rãi trên mạng xã hội với nhiều lời bình luận và tức giận. Một nạn nhân trong video được xác định là nhà hoạt động Lê Mỹ Hạnh và hai người bạn bị một nhóm người không quen biết hành hung.

Phạm tội công khai vẫn chưa bị khởi tố

Âm thanh và hình ảnh của video được công khai trên trang facebook của chủ tài khoản có tên Phan Hùng.

Sau gần một ngày im lặng, hai tờ báo của nhà nước Việt Nam lần lượt đưa tin về video hành hung hai người phụ nữ được chia sẻ trên mạng xã hội. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh trích lời trung tá Trần Văn Hiếu, trưởng công an quận 2, rằng đang điều tra vụ việc.

Báo Tuổi trẻ thành phố Hồ Chí Minh thì trích lời đại tá Nguyễn Sỹ Quang, người phát ngôn của cơ quan công an thành phố Hồ Chí Minh cũng nói rằng đang điều tra và đây là trường hợp có dấu hiệu phạm tội hình sự.

Tôi nghĩ là họ được bảo kê của một thế lực nào đó, hoặc chính những người an ninh mà tôi trải qua sau một năm tôi tham gia hoạt động.
– Bà Lê Mỹ Hạnh

Tuy nhiên theo ý kiến của luật sư Lê Công Định thì vụ việc cần phải được khởi tố ngay vì tính chất nghiêm trọng của nó. Ông cho biết:

“Về phương diện pháp lý thì vụ tấn công vừa rồi rất nghiêm trọng bởi vì có nhiều dấu hiệu tội phạm ở đây. Thứ nhất là xâm phạm chỗ ở của người khác, thứ hai là cố ý gây thương tích, và cái yếu tố tăng nặng của nó là thách thức dư luận và xem thường pháp luật. Ở đây cũng là dùng số đông để tấn công tức là tội phạm có tổ chức. Tôi cho là sự việc lần này phải được khởi tố và làm một cách nghiêm túc và đầy đủ theo đúng thủ tục pháp lý.”

Chúng tôi tìm cách liên lạc với chủ trang facebook Phan Hùng để tìm hiểu lý do tại sao anh ta lại công khai những hành động mang tính chất phạm tội rõ ràng như vậy, nhưng không liên lạc được, mặc dù trang facebook của anh ta vẫn còn hoạt động với những video hành hung người khác mà anh ta là người thực hiện.

Nạn nhân Lê Mỹ Hạnh nói với chúng tôi về cảm giác của bà sau khi bị hành hung:

“Đến lúc này cái cảm giác mình bị ám ảnh khi bước chân ra ngoài đường, mình cảm thấy sự nguy hiểm luôn luôn ở bên cạnh mình, với một sự tấn công mà họ dám ngang nhiên đến tận phòng của một công dân bình thường, mà tôi lại không hề có mâu thuẫn gì với các đối tượng đó.”

Bà Hạnh được biết cũng tham gia những hoạt động xã hội vì mục đích dân chủ hóa Việt Nam. Đây không phải là lần đầu tiên bà Hạnh bị hành hung. Vào đầu tháng tư vừa qua bà cũng bị một số người hành hung tại Hà Nội.

Quan niệm về sử dụng bạo lực và pháp luật

Chuyện những người hoạt động xã hội bị các nhóm mặc thường phục bị hành hung là chuyện được nhiều người nói đến trên các trang mạng xã hội trong mấy năm qua. Người ta cũng nói đến những nhóm này trong các cuộc biểu tình của ngư dân và giáo dân miền Trung chống Formosa. Tuy nhiên những việc này ít khi xuất hiện trên báo chí nhà nước. Những người hoạt động có nghi ngờ rằng những người mặc thường phục đôi khi có tính chất côn đồ chính là lực lượng an ninh giả dạng để đàn áp. Bà Lê Mỹ Hạnh nói với chúng tôi:

“Tôi nghĩ là họ được bảo kê của một thế lực nào đó, hoặc chính những người an ninh mà tôi trải qua sau một năm tôi tham gia hoạt động. Tôi cũng thấy là những người an ninh cũng mặc thường phục giả danh, đánh những người đấu tranh như tôi. Nhưng nhóm này tôi không nhận diện được họ là ai, tôi gọi đó là côn đồ, phải được bảo kê thì mới dám ngang nhiên giữa ban ngày sau khi quay clip đánh tôi lại dám tung lên thách thức dư luận, thách thức cộng đồng.”

000_Hkg5241415-400.jpg
Người dân biểu tình chống Trung Quốc bị công an mặc thường phục dồn lên xe bus hôm 21/8/2011. AFP photo

Sự tham gia của các nhóm mặc thường phục trong việc kiểm soát đám đông, hay cá nhân bất đồng chính kiến không phải là mới lạ trong lịch sử cầm quyền của đảng cộng sản Việt Nam. Đôi khi họ cũng được báo chí chính thống đề cập đến với danh từ quần chúng tự phát.

Từ ngữ này đã từng được dùng sau các sự kiện tôn giáo như Thái Hà mới cách đây vài năm, và xa hơn nữa là vào thời cải cách ruộng đất, nhân văn giai phẩm khi những người cộng sản mới cầm quyền cách đây hơn nửa thế kỷ. Và trên mặt chính thức, lực lượng an ninh, chính quyền không đứng ra nhận lãnh trách nhiệm vì những kẻ thủ ác không mang đồng phục của họ.

Cách đây hơn hai năm trong một dịp kỷ niệm các liệt sĩ Hoàng Sa và Trường Sa ở Hà Nội, một nhóm những người trẻ tuổi mang theo cờ của đảng cộng sản đến phá buổi tưởng niệm và xung đột bạo lực suýt nữa đã xảy ra.

Lần này trong vụ Lê Mỹ Hạnh, người ta nghe trong đoạn video người hành hung mắng nạn nhân là phản động, từ hay được cơ quan tuyên truyền Việt Nam gán cho những người bất đồng chính kiến.

Luật sư Lê Công Định tiếp lời:

“Tôi không kết luận rằng nhà cầm quyền đứng sau lưng một việc như vậy, nhưng việc dung túng nó, khiến cho trong nhiều năm qua tình trạng bạo lực leo thang. Và nghiêm trọng hơn là lần tấn công chị Lê Mỹ Hạnh lần này, thủ phạm không những không giấu diếm hành vi tội phạm của mình mà lại còn công khai nó, đưa lên mạng xã hội để thách thức dư luận.”

Tôi không kết luận rằng nhà cầm quyền đứng sau lưng một việc như vậy, nhưng việc dung túng nó, khiến cho trong nhiều năm qua tình trạng bạo lực leo thang.
– Luật sư Lê Công Định

Sự dung túng bạo lực và sử dụng bạo lực cũng là điều nhà văn Phạm Đình Trọng nói với chúng tôi sau khi có sự việc dân chúng một làng ở tỉnh Hòa Bình bắt giam 5 nhân viên công an cách đây vài năm, ông nói rằng chính sự dung túng và sử dụng bạo lực đã tạo nên một xã hội bạo lực, vì người dân sẽ sử dụng bạo lực để đối phó với nhà cầm quyền và với nhau thay vì dùng luật pháp.

Kết thúc buổi nói chuyện với chúng tôi, luật sư Lê Công Định nói:

“Tôi rất là ngạc nhiên tại sao giữa một xã hội được gọi là dựa trên pháp luật như thế này, mà thủ phạm có thể nhởn nhơ và ngang nhiên có những hành động coi thường pháp luật như vậy mà nhà cầm quyền vẫn bình chân như vại. Lẽ ra trong những sự việc như vậy thì nhà cầm quyền phải ngay lập tức khởi tố vụ án, còn việc khởi tố bị can hay không thì cần phải tiến hành điều tra thêm. Nhưng khởi tố vụ án là phải dứt khoát làm ngay lập tức. Tôi ngạc nhiên là cho đến giờ sau hơn 24 tiếng đồng hồ rồi mà vẫn không có một động thái nào từ nhà cầm quyền, ngoài cái việc họ kêu nạn nhân lên để làm việc. Thật sự mà nói tôi thấy thất vọng về một xã hội được nói là có pháp luật như thế này.”

Xây dựng một xã hội dựa trên luật pháp là điều được các quan chức cao cấp của Việt Nam thường xuyên tuyên bố trong thời gian gần đây. Những tuyên bố này ngược với những ý tưởng sơ khai của những người cộng sản khi mới cầm quyền là nghĩ rằng pháp luật sẽ trói tay họ, không để họ thực hiện được điều mà họ cho là lý tưởng xã hội, theo như tiết lộ của luật sư Nguyễn Mạnh Tường sau năm 1954.

Từ đó đến nay cái nhìn của những người cộng sản Việt Nam về luật pháp có thể đã đổi khác nhưng có lẽ họ chưa cho rằng luật pháp là trên hết khi cách đây không lâu, chính người đứng đầu đảng là ông Nguyễn Phú Trọng nói rằng Hiến pháp quốc gia, bộ luật gốc của đất nước đứng sau cương lĩnh đảng cộng sản.

Ngày 30 Tháng Tư

From facebook : Tony Ton‘s post.

Ngày 30 Tháng Tư

Phạm Đình Trọng

Từ mấy năm nay, cứ gần đến ngày 30 tháng tư tôi đều phải rời căn hộ dịu mát, thoáng đãng, từ đó phóng tầm mắt ôm được cả một khoảng rộng Sài Gòn bừng sáng những tòa tháp cao tầng như những tòa ánh sáng. Từ mấy năm nay, cứ đến gần ngày 30 tháng tư tôi lại phải rời bỏ nếp sinh hoạt ổn định hàng ngày rồi hấp tấp khăn gói lưu vong khỏi Sài Gòn. Từ nhiều năm nay cứ đến ngày 29, 30 tháng tư cả đám an ninh cộng sản lại đến bủa vây quanh nơi tôi ở. Tôi phải lưu vong mấy ngày đó để thoát khỏi sự giam hãm.

Những ngày cả Sài Gòn giăng cờ, kết hoa, rực rỡ đèn đuốc chào mừng ngày 30 tháng tư được những người cộng sản gọi là ngày giải phóng miền Nam thì an ninh cộng sản lại đến giam cầm tôi ngay giữa “Sài Gòn giải phóng”.

Vậy thực sự ngày 30 tháng tư, năm 1975 có phải là ngày nửa dải đất phía Nam của tổ quốc Việt Nam được giải phóng không?

Giải phóng đích thực, giải phóng có giá trị lớn lao, thiết thực nhất phải là giải phóng con người, giải phóng tư duy, giải phóng sự sáng tạo của con người và giải phóng sức phát triển của xã hội.

Ngày 30 tháng tư năm 1975 cả triệu người Việt Nam dù yêu nước cháy bỏng cũng phải bỏ nhà cửa, bỏ tài sản, bỏ cả mồ mả ông bà, bỏ nước ra đi trốn chạy những người nhân danh là người yêu nước nhưng chỉ biết có ý thức hệ cộng sản, trốn chạy những người mang chuyên chính vô sản sắt máu vay mượn từ nước ngoài về nô dịch cả dân tộc. Ngày 30 tháng tư năm 1975 mang đến mất mát uất hận lớn như vậy cho cả triệu người Việt Nam làm sao có thể gọi là ngày giải phóng!

Với biến cố 30 tháng tư năm 1975, hàng trăm ngàn người dân miền Nam trở thành người tù trong những trại tập trung cải tạo, hàng triệu người thân của họ phải bỏ nhà cửa êm ấm, bỏ cuộc sống đầy đủ tiện nghi, lếch thếch đi lưu đày nơi đầu rừng cuối bãi hoang vu, khắc nghiệt với cái tên trá hình là đi xây dựng khu kinh tế mới.

Với biến cố 30 tháng tư năm 1975, nền công nghiệp non trẻ nhưng hiện đại, đầy sức sống và đang phát triển mạnh mẽ của miền Nam bị đánh sập. Những người chủ tài năng đã dựng nên cơ nghiệp cho gia đình, tạo ra nền công nghiệp tươi sáng cho đất nước phải giao nhà máy cho nhà nước cộng sản, giao tài sản mồ hôi nước mắt cho những cán bộ vô sản không có kiến thức kinh tế, không biết quản lí, điều hành sản xuất. Từ đó nhà máy hoạt động không hiệu quả, kinh doanh thua lỗ, sản xuất đình đốn, công nhân thất nghiệp. Sự dốt nát và vô trách nhiệm của những ông chủ vô sản đã tàn phá, xóa sổ cả một nền công nghiệp hiện đại đầy triển vọng rực rỡ của miền Nam.

Từ biến cố 30 tháng tư năm 1975, người kinh doanh lớn không được hoạt động. Chỉ còn những người buôn bán cò con, mua đầu chợ bán cuối chợ. Không còn kinh tế thị trường, chỉ còn nền kinh tế tự cấp tự túc từ thời mông muội xa xưa. Nghề thủ công và nghề làm ruộng cần sự cần cù, chịu thương chịu khó và sự sáng tạo cùng kinh nghiệm cá nhân thì hai nghề này phải vào hợp tác xã, chịu sự quản lí của cán bộ cộng sản quan liêu, tham nhũng và thành quả lao động bị mang chia đều, bình quân, làm cho người sản xuất không còn gắn bó với công việc, không còn cần đến sự cần cù, sáng tạo nữa. Miền Nam từ vựa lúa xuất khẩu gạo nay chính người làm ra hạt gạo cũng không có đủ gạo ăn. Người làm ra hạt gạo còn đói thì cả nước đương nhiên phải đói.

Từ biến cố 30 tháng tư năm 1975, con người miền Nam bị quản lí theo chế độ nô dịch, nền sản xuất miền Nam bị tàn phá và kìm hãm thì không thể coi ngày 30 tháng tư là ngày giải phóng miền Nam.

Ngày 30 tháng tư hàng năm, tôi cùng hàng ngàn người Việt Nam nói tiếng nói trung thực đòi tự do dân chủ, đòi những giá trị làm người đã bị bộ máy công cụ bạo lực nhà nước cộng sản Việt Nam đến bủa vây, giam cầm tại nhà thì ngày 30 tháng tư càng không thể là ngày giải phóng.

Ngày 30 tháng tư năm 1975 là ngày thống nhất đất nước, giang sơn thu về một mối ư? Đất nước thống nhất trước hết phải thống nhất trong lòng người. Từ 30 tháng tư năm 1975, người Việt Nam bị chia rẽ đau đớn và sâu sắc nhất chưa từng có trong lịch sử hiển hách bốn ngàn năm dựng nước của dân tộc Việt Nam.

Ngay cả thời Pháp đô hộ Việt Nam với chính sách chia để trị, Pháp chia đất nước Việt Nam thành ba kì với ba chế độ chính trị khác nhau thì người Việt Nam ở Bắc Kì và người Việt Nam ở Nam kì vẫn thương yêu đùm bọc nhau trong tình cảm đồng bào ruột thịt. Câu ca dao thương yêu của ông bà từ ngàn xưa để lại vẫn được cả người Bắc Kì lẫn người Nam Kì mang ra dạy bảo con cháu: Nhiễu điều phủ lấy giá gương / Người trong một nước phải thương nhau cùng.

Từ khi đảng cộng sản Việt Nam ra đời, văn hóa yêu thương của ông bà để lại đã bị thay thế bằng văn hóa hận thù. Dân tộc Việt Nam yêu thương bị phân chia thành giai cấp đối kháng, phân chia thành trận tuyến ta – địch. Người dân bị đẩy vào cuộc đấu tranh giai cấp giả tạo mà đẫm máu và triền miên. Người dân nói tiếng nói yêu nước thương nòi mà động chạm đến tội của đảng cộng sản làm mất đất đai tổ tiên, động chạm đến tội của đảng cộng sản tước đoạt những giá trị làm người của người dân liền bị đảng cộng sản cầm quyền đẩy sang thế lực thù địch.

Pháp đô hộ chia nước ta thành ba kì chỉ là vạch ranh giới trong không gian, chia địa lí hành chính trên giấy tờ. Đảng cộng sản chia dân tộc Việt Nam thành giai cấp đối kháng là chia rẽ trong lòng dân tộc, chia rẽ, li tán trong lòng người. Đặc biệt từ 30 tháng tư năm 1975 sự chia rẽ này càng độc ác, man rợ khi chuyên chính vô sản, hận thù giai cấp đã ào ạt, quyết liệt tước đoạt tự do, tước đoạt mạng sống của hàng triệu người dân miền Nam ở tầng lớp tinh hoa, những trí thức, những nhà chính trị, những quan chức nhà nước và sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa.

Từ 30 tháng tư năm 1975, chuyên chính vô sản, đấu tranh giai cấp đã làm cho người Việt hận thù người Việt sâu sắc, hàng triệu người Việt yêu nước thương nòi bị đẩy sang thế lực thù địch và hàng triệu người Việt yêu nước phải bỏ nước ra đi đã coi ngày 30 tháng tư năm 1975 là ngày quốc hận thì làm sao có thể coi ngày 30 tháng tư năm 1975 là ngày thống nhất lòng người.

Chia rẽ, li tán làm cho dân tộc Việt Nam suy yếu. Kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam là nhà cầm quyền bành trướng Đại Hán liền nhân cơ hội cướp hàng ngàn kilomet vuông đất biên cương của Việt Nam, cướp cả quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam thì không thể coi ngày 30 tháng tư năm 1975 là ngày thống nhất đất nước, giang sơn thu về một mối như sự khoa trương, lấp liếm của bộ máy tuyên truyền nhà nước cổng sản Việt Nam.

Ngày 30 tháng tư hàng năm những người cộng sản Việt Nam vui mừng vì ngày đó năm 1975 họ đã đánh thắng cả dân tộc Việt Nam, đã nô dịch được cả dân tộc Việt Nam, họ đã mang hận thù giai cấp đánh tan tác, li tán cả dân tộc Việt Nam. Còn những người Việt Nam chân chính phải nhận lấy nỗi buồn lịch sử, phải nhận lấy trách nhiệm lịch sử: Đấu tranh đưa dân tộc Việt Nam thoát khỏi nô dịch cộng sản và giành lại những mảnh đất thiêng liêng của tổ tiên người Việt đã bị mất mát, sang nhượng cho bành trướng Đại Hán dưới thời cộng sản.

Đèn Kuala Lumpur ‘ngọn tỏ ngọn lu’

(Ai gây nên nỗi đau buồn cho người Việt)

Đèn Kuala Lumpur ‘ngọn tỏ ngọn lu’


Chợ Đêm - Night Market - Kuala Lumpur. (Hình: Trùng Dương)

Chợ Đêm – Night Market – Kuala Lumpur. (Hình: Trùng Dương)

Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ

Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu

Anh về học lấy chữ nhu

tới Mã Lai làm ăn thì người chồng ở nhà phải chờ “chín trăng” là chín tháng hay “mười thu” là mười năm.

Bài hát ca dao Nam Bộ đó, bây giờ được hát bởi những người chồng.

Từ cửa sổ khách sạn Nova Hotel trên đường Jalan Alor, không cách xa tháp đôi nổi tiếng Twin Tower lắm của Kuala Lumpur, buổi tối mở cánh cửa sổ ra, nếu bạn ngó về phía trái, thấy một con đường nhỏ với một dẫy đèn lồng đỏ, treo trên những mái hiên. Những ngọn đèn đỏ này không to lắm, có “ngọn tỏ ngọn lu” thỉnh thoảng có cả một ngọn không được thắp hay thắp mà không sáng.

Nơi đó họ gọi là Phố Đèn Đỏ. Cái tên nghe thật dung dị. Thắp đèn đỏ thì gọi là phố đèn đỏ vừa gợi hình vừa dễ nhớ. Thật ra cái tên Phố Đèn Đỏ có tiểu sử của nó tùy từng quốc gia, nhưng nói chung đó là tên gọi của chốn ăn chơi của các ông trên thế giới.

Con phố nhỏ này trông như một đường hẻm ở Việt Nam, xe hơi khéo lách có thể vào được nếu người đi bộ nhường đường. Đầu phố phía kia không biết dẫn tới đâu, nhưng ở trên cao ngó xuống thì đầu phía này dắt ra đường Jalan Alor trước cửa khách sạn, nơi nhóm “Thăm Mộ Thuyền Nhân” chúng tôi ngụ.

Khu đèn đỏ là khu “Bán phấn Buôn Hương.” Hương gái Việt và Phấn gái Việt được biết, ở thời điểm này chiếm 80%.

Con phố Jalan Alor có chợ đêm “Night Market.” Sinh hoạt chính từ 4 giờ chiều cho tới 5, 6 giờ sáng hôm sau. Chợ đêm chủ yếu là thức ăn. Ở đây ngoài bếp Mã, có bếp Tàu và bếp Việt. Tìm nước mía, nước dừa, ngô (bắp) hấp, khoai luộc rất dễ dàng. Trái cây Mã rất gần gũi với Việt Nam: Chôm chôm, măng cụt, soài, nhãn mùa này đầy chợ. Có Quán ăn Việt, người Việt làm chủ. Du khách đủ mọi lớp tới. Có người đi du lịch với vợ, với gia đình. Cũng có những thương gia trên đường giao hàng, trên đường ký hợp đồng tới đây ăn xong thì ở lại qua đêm đi mua hương mua phấn.

Những cô gái Việt bán hương phấn ở đây nhiều lắm, họ còn khá trẻ. Tuổi từ mười tám cho tới ba mươi. Họ là những món hàng đẹp và ngon trong chợ đêm này.

Tài xế taxi Mã gặp khách đàn ông đi một mình. Bất cứ người khách đó mang quốc tịch gì, màu da gì, cũng được hỏi một câu rất giản dị:

  • Do you want Vietnamese pretty girls?

Chữ Vietnamese được nhấn mạnh trong câu hỏi.

Tại sao gái Việt ở đây nhiều thế, họ tới đây bằng cách nào? Có thể là họ đi theo diện “Xuất Khẩu Lao Động” chính thức hay họ bị mua chuộc, bị lừa, hoặc tự nguyện sang Mã làm gái bán vui, mua buồn. Đi bằng cách nào thì tất cả đều vì lý do kinh tế.

Họ là những phụ nữ rất đáng thương.

Một buổi sáng, tôi tình cờ được ngồi ăn cùng bàn với mấy cô trong một quán ăn của người Việt. Ngồi một lúc, cung cách của các cô mang thuốc lá ra hút, gọi cà phê, thức ăn, cho tôi biết các cô làm gì ở đất nước này. Tôi bắt chuyện làm quen, các cô vui vẻ tâm sự.

Một cô khoảng trên dưới ba mươi, người miền Nam. Cô nói cô ở Kiên Giang đến.

  • Kiên Giang bây giờ đẹp lắm! cô khoe.

Rồi cô tâm sự. Em với chồng bỏ nhau, con gái lớn đang học Trung Học, thằng nhỏ bảy tuổi bệnh, em không có tiền chạy thuốc, nó chết. Em buồn quá, có người rủ đi xa kiếm tiền thì đi. Đi theo diện du lịch, rồi ở lậu luôn.

  • Nếu bị hỏi giấy tờ thì sao?
  • Không sao cả cô ơi! Ở đây dễ lắm, có tiền cho tụi lính (công an) là xong hết. Có tiền em gửi về nuôi má, nuôi con ăn học.

Cô khác nói: cô ơi, ở đây tụi em làm gái sợ lính Mã lắm, nó cho vào tù bất cứ lúc nào. Mình ở lậu, làm việc này phải sợ tất cả mọi người. Phải có tiền thuê “Bảo Vệ” nữa. Bị khách hành hung hay không trả tiền thì gọi Bảo Vệ can thiệp. Vào tù cũng gọi Bảo Vệ chuộc ra. Tiền chuộc cộng tiền nộp cho Bảo Vệ thành một số nợ to. Mình phải làm để trả món nợ đó trước khi có tiền gửi về nhà. Tụi em mỗi đứa một cảnh cô ơi.

Cô khác kể: Ở Bắc em trồng trà trên Thái Nguyên, sáng nắng, chiều mưa, vất vả lắm, cũng chẳng được bao nhiêu, nhà lúc nào cũng nợ. Thấy bạn em rủ sang Mã Lai kiếm tiền dễ hơn, nói làm massage, hát Karaoke khá lắm. Người ta ứng trước cho cả ngàn đồng Mỹ, làm giấy tờ cho mình hết, chỉ việc đi sang làm trừ dần. Sang đến nơi mới hay mình nợ người ta cả tiền ứng trước, tiền vé máy bay, tiền giấy tờ, một con số to lắm. Khó lòng mà trả được món nợ này. Giấy tờ người ta giữ hết, mình không nói được tiếng của nước này. Thế là họ bảo sao phải nghe vậy nếu không muốn vào tù.

Cô chưa nói hết câu đã nước mắt ngắn, dài.

Một cô khác kể chuyện của nhau:

Chúng em, có người xuất cảng lao động, cực quá không làm nổi, hay đang làm thì hết việc.Về lại quê nhà thì tiền vay nợ để đi chưa trả được bao nhiêu. Chồng có khi đang thất nghiệp hoặc ốm đau. Thôi anh để em ở lại làm thêm đôi năm nữa. Anh đâu có biết đích xác em làm việc gì. “Ngậm bồ hòn làm ngọt” cô ơi! (Chữ ngậm Bồ Hòn này chỉ có người Bắc mới biết.)

Một cô khoảng ba mươi, có cặp mắt rất buồn.

Cô ơi, làm hoài cũng quen, nếu mình biết tự đề phòng cho không nhiễm bệnh và biết nghe lời thì dễ sống hơn. Số phần mà cô, phải chấp nhận để sống. Chắc cỡ tuổi tụi em cũng chỉ làm được vài năm nữa. Nếu có phe đảng thì lên làm chủ, rồi mình lại “lừa” người sang sau. Nếu không thì mang cái thân tàn về quê. Không tính trước được cô ơi. Chúng em phó mặc cho phần số. Giọng miền Trung của cô, ngập ngừng, dịu dàng, nghe mà mủi lòng.

Có cô thú nhận. Tụi em yếu đuối chứ có chị rất cứng cỏi, biết bị lừa tìm mọi cách để thoát. Chạy vào tòa Đại Sứ tố cáo, hay chạy vào sở công an Mã, đôi khi cũng thoát được cô ạ. Thật ra các chị có chồng tốt ở nhà chờ, chỉ vì nghèo muốn ra nước ngoài lao động, nay bị lừa nên nhất định về. Còn như chúng em, ai có chồng ở nhà cờ bạc, nghiện hút, hay đánh đập vợ con thì đâu còn muốn về nữa. Mà chồng mình đôi khi cũng chẳng cần biết mình làm gì, miễn cứ gửi tiền về là được. Buồn lắm cô ơi!

Cô ăn đi chứ, sao cô cứ nhìn cái ang cá kèo vậy?

Ang cá kèo. (Hình: Trùng Dương)

Ang cá kèo. (Hình: Trùng Dương)

Cái ang cá kèo lạ lắm. Cả trăm con cứ nhảy tung lên như là khiêu vũ, bắn cả ra ngoài ang. Mươi phút sau chúng nằm xếp lớp lên nhau, rất ngoan ngoãn và thứ tự. Tất cả cái đầu nghiêng về một phía như có người cầm đũa xếp những con cá trong một cái nồi để kho. Những con cá này

được mang sang từ Việt Nam. Người chủ quán bảo gây mê cho nó ngủ mấy tiếng, bỏ vào thùng xốp gửi máy bay qua đây. Sang tới nơi chúng sẽ tỉnh dậy.Từ Việt Nam sang Mã Lai có hai tiếng bay mà.

Trên một khía cạnh nào đó, những cô gái Việt có phải đã sang Mã Lai bằng cách đi của những con cá kèo này không?

Cá kèo ở Việt Nam được xếp vào dạng cá rẻ tiền, cá của dân quê nghèo khó ăn thường ngày.

Cá kèo là hạng chót nên đi xem hát mà mua vé rẻ tiền người ta cũng gọi là ngồi ở hạng “cá kèo”.

Hôm sau tôi được một anh bạn kể cho nghe chuyện “Đi Biển” tối hôm trước. Anh ở trong nhóm của chúng tôi, anh dắt cả mấy cô cháu, cả một linh mục khá trẻ, vào đó “tham quan cho biết sự tình” thôi.

Đó là một nhà hàng đêm có tên là Beach Club (Họ gọi tắt là đi Biển), ở không xa khu chợ đêm. Nơi đây mỗi người vào phải mua một chai nước ngọt hay bia giá khoảng 400 tiền Mã (gần 10 Mỹ Kim). Vào trong Biển tối om đó có cả hàng chục cô gái Việt tuổi mười tám, đôi mươi, chạy ra vây chung quanh mình.

Khách và các cô muốn tính với nhau thế nào thì tính, miễn là nộp tiền cho chủ theo đúng luật đã quy định. Ở nơi này, các cô còn xuân trẻ có thể kiếm một đêm từ một đến hai trăm Mỹ kim.

Các cô sẽ lôi kéo, vuốt ve, khách không trốn vào đâu được (thật ra đã vào đấy thì có ông nào không muốn bị bắt). Nhưng đây là nhóm của chú cháu anh nên họ chỉ đứng chụm vào nhau nói chuyện và quan sát. Nghe anh nói chuyện với linh mục cứ Cha Cha, Con Con. Một cô khẽ lên tiếng:

  • Con muốn được xưng tội.

Tôi ngắt lời, hỏi: Thế Cha có giải tội cho cô ấy không? Anh bạn nói, không, Cha sợ bị phục kích.

Tự nhiên tôi thấy thương quá! Nếu thật tình cô ấy muốn xưng tội thì sao? Có lẽ cô là người Công Giáo, bao lâu nay không hề tới nhà thờ vì nghĩ mình tội lỗi.

Tôi tin cô có thể cầu xin tha thứ thẳng với Chúa. Chúa nhân từ vô cùng, Chúa hiểu hoàn cảnh của cô hơn bất cứ ai.

Trong một buổi tối khác, quán ăn khác, chủ cũng là một phụ nữ người Việt, khoảng bốn mươi tuổi. Phụ bếp, chạy bàn có nam, có nữ, toàn người Việt. Một cô trông rất trẻ, đang ngồi chẻ rau muống làm gỏi cho khách. Tôi hỏi chuyện làm quen mọi người, cô chủ cho biết ở đây đã chín năm, chồng là người Hoa. Cô phụ bếp mới sang được một tháng. Đi diện du lịch rồi sẽ ở luôn. Cô chủ nói, em chỉ cần đút tiền cho lính Mã là cái gì cũng xong cô ạ.

Tôi đợi lúc cô phụ bếp mang thức ăn cho tôi, tôi hỏi: Con có gia đình chưa? Ở thành phố nào?

– Dạ có rồi, con ở Huế, con có hai đứa con nhỏ. Cô ngập ngừng một chút nói thêm: Nghèo quá cô ạ, mà luôn luôn không có việc làm. Cả hai vợ chồng cùng thất nghiệp hoài. Con giao con cho nhà chồng, sang đây làm để có tiền gửi về.

Tôi nhìn kỹ cô thêm một chút, thấy cô người mảnh mai, có chút nhan sắc, tôi chạnh lòng nói khẽ.

  • Cô biết con làm ở đây vất vả, từ 4 giờ chiều tới 5, 6 giờ sáng. Nhưng nếu ai rủ con đi làm việc gì nhàn hơn, nhiều tiền hơn, con đừng có nghe. Con hiểu cô nói gì không?

Cô gái nhìn tôi với cặp mắt bối rối, cô hạ mi mắt thấp xuống một chút, cô cũng trả lời rất khẽ

  • Dạ, con hiểu, con cám ơn cô.

Tôi thấy lòng mình nao nao. Chẳng phải bà con thân thích gì sao bỗng thấy thương như thương con, cháu mình.

Hoàn cảnh của những cô gái mang hộ chiếu Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Cô đến từ đâu? Huế, Hà Nội, Kiên Giang, Mỹ Tho, Cà Mau hay Ninh Bình, Lạng Sơn, Nam Định, các cô đều là những con cá kèo bị (hay tự chọn) gây mê bỏ vào thùng xốp mang đi.

Những ngọn đèn lồng đỏ, ngọn tỏ ngọn lu đó còn treo tới bao giờ.
(Mã Lai – Tháng 4/2017)

LÀM SAO ĐỂ DÂN VIỆT BỚT NGU?

From facebook:  Lang Văn

LÀM SAO ĐỂ DÂN VIỆT BỚT NGU?

“Không thể chống lại bọn ngu vì chúng quá đông”
(Einstein).
Xin lưu ý, trong bài này tôi sẽ nói đến chữ “ngu” hơi nhiều. Tôi yêu dân Việt nhưng phải nói sự thật. Dân Việt hiện tại rất ngu, khỏi cãi – cấm cãi. Ngu thì thừa nhận ngu.
Giờ tôi xin nói vì sao dân Việt ngu và cần làm gì để hết ngu. Trước tiên là câu “Vì sao dân Việt ngu?” Cái này chẳng có gì khó hiểu. Dân Việt ngu vì:

1. Họ đã bị làm ngu từ khi sinh ra.
2. Thông tin họ tiếp cận mỗi ngày bị kiểm duyệt.
3. Họ ít khi nào nghe thông tin đối lập.
4. Chính phủ ban hành và áp dụng chính sách ngu dân.
5. Có nhiều nhóm lợi ích làm giàu trên sự ngu dốt của người dân nên
6. Chính phủ muốn họ ngu và cần họ ngu.
7. Chính dân Việt cũng không biết mình ngu.
8. Chính dân Việt cũng không nỗ lực tìm hiểu để bớt ngu.
9. Những người thoát ngu không bận tâm đến việc xóa ngu cho người còn lại.
10. Và tất cả những người muốn dân bớt ngu đều bị kìm chế.

Chính phủ muốn dân ngu, cần dân ngu và làm dân ngu. Vì nếu dân mà khôn thì chính phủ sẽ mất vị thế. Chính phủ trong trường hợp này chẳng có tư cách gì để chửi dân ngu hay dân trí thấp, vì chính họ đã góp phần để làm và giữ dân ngu. Chính phủ và những người làm trong bộ máy chính phủ chỉ có quyền chửi dân ngu NẾU:

1. Họ không tẩy não dân để làm dân ngu.
2. Họ không kiểm duyệt thông tin và truyền thông.
3. Họ không bắt học sinh, sinh viên học chính trị theo tư tưởng định hướng sẵn.
4. Họ không bắt bớ hay kìm nén những người muốn làm dân bớt ngu.
5. Họ không độc quyền hóa vị thế chính trị.
6. Và nếu họ mở rộng thị trường để dân tiếp xúc với những thứ làm họ bớt ngu.

Còn từ góc nhìn người dân thì nếu biết mình ngu thì phải tự lực giải ngu. Dân ngu có thể làm những điều sau để bớt ngu:
1. Bớt nhậu lại, lấy tiền tập thể thao và mua sách nạp kiến thức.
2. Bỏ theo dõi mấy fanpage nhảm nhí như Robbey, Ngọc Trinh và theo dõi những trang chính trị và xã hội để tìm hiểu về tình hình đất nước.
3. Đừng bao giờ chửi những người muốn dân bớt ngu là phản động.

Còn những người đã không còn bị ngu nữa thì cũng phải góp phần để giải ngu cho dân ngu. Họ có thể làm những điều sau đây:

1. Thừa nhận là dân Việt bị ngu quá lâu nên phải kiên nhẫn giải ngu.
2. Đừng giận những người bị ngu.
3. Đừng tỏ vẻ mình hơn dân, vì mình hơn dân ngu thì có gì là tự hào.
4. Bình tĩnh giải thích vấn đề cụ thể để họ hiểu
5. Luôn tìm tòi học hỏi để cải thiện bản thân.

Đó. Quá trình giải ngu như một điệu nhảy vậy, phải có 2 người. Người ngu phải tự lực và người không còn ngu phải giúp người ngu. Hai người hỗ trợ nhau chứ không có chuyện đơn phương hành động.
Đó là cách chúng ta làm cho dân Việt bớt ngu và hết ngu.
____Cafe Ku Búa____

SO SÁNH

SO SÁNH

 

Người giầu có được cung phụng.  Kẻ tài giỏi được quý mến.  Người có chức quyền được kính trọng.  Người thông minh được ưu đãi.  Người đã có, lại có thêm.  Người nghèo khó bị coi thường.  Kẻ ít học bị khinh khi.  Não trạng con người bị đóng khung.  Ý thức hệ bị thiên kiến.  Khuôn mẫu xã hội tạo phân biệt đẳng cấp đã gây nên sự tranh đấu không ngừng.

 

Một trong những điều gây nhức nhối và phiền hà trong đời sống chính là sự so sánh đua đòi.  So sánh để học hỏi và thi đua là điều tích cực, nhưng so sánh để chỉ trích chê bai lại là một điều hết sức tiêu cực.  Đôi khi điều tiêu cực này sẽ gây nên sự thù ghét, tẩy chay và phân rẽ.  Chúng ta biết sự hình thành của mỗi người hiện hữu trên trần đời thì có muôn hình vạn trạng.  Mỗi người khác nhau về kết cấu, khuôn mặt, dấu chỉ tay, khả năng hiểu biết, chuyên môn, số phận và số mệnh.  Bước vào cuộc sống chung, chúng ta chấp nhận những khác biệt bổ túc cho nhau để tạo nên một xã hội đa chiều phong phú.

 

Về cá nhân, không một ai giống ai trong hoàn cảnh sống.  Ngay từ khi lọt lòng mẹ, mỗi người bước vào đời với một số mệnh riêng.  Chúng ta có thể ngồi gẫm lại từ những ngày thơ ấu, khi mới chập chững cắp sách đến trường cho tới khi thành đạt lập thân.  Cuộc sống của mỗi người trải qua bao năm tháng thăng trầm, mỗi cá nhân đã có biết bao sự đổi thay theo dòng đời.  Chúng ta nên chấp nhận hoàn cảnh thực tế của cuộc sống nơi mỗi cá nhân.  Mỗi người hãy vui với niềm vui riêng của mình. Chúng ta không thể so sánh hơn thua về cuộc sống và về định mệnh riêng tư của mỗi người.

 

Về con cái, cha mẹ không nên so sánh sự thành công của bạn bè đồng lứa tuổi với con cái của mình.  Đứa con sẽ chạm tự ái và khó chịu.  Có lần tôi nghe một đứa con trả lời thẳng thắn với bố mẹ rằng con là con, và nó là nó.  Là phụ huynh, chúng ta nên hết sức tế nhị dạy bảo con cái.  Chịu khó tìm hiểu và nhận biết khả năng, sở thích và nhu cầu mà con cái đang khao khát để hướng dẫn.

 

Về vợ chồng, một điều tối kỵ là đừng bao giờ so sánh vợ/chồng của mình với vợ/chồng của người khác.  Đừng “đứng núi này mà trông núi nọ.”  Người ta nói: “Ở trong chăn, mới biết chăn có rận.”  “Nhìn vậy mà không phải vậy” đâu.  Thực tế, có nhiều cặp vợ chồng ở với nhau cả đời mà vẫn chưa hiểu và biết nhau tỏ tường.  Làm sao chúng ta có thể đem vợ/chồng của mình ra so sánh với một nhân vật nào đó tình cờ gặp gỡ.  Chúng ta có nguy cơ lầm lẫn lớn.  Vì sự so sánh như cơm với phở đã làm cho biết bao cặp vợ chồng phải rơi vào sự nghi ngờ và thất trung bất tín.  Đường đời còn dài và cuộc sống có nhiều niềm vui và thử thách.  Mỗi người hãy tự xét mình trước khi xét người.  Muốn so sánh để đòi hỏi vợ/chồng phải trở nên giống hoặc bằng người khác là điều xuẩn trí.

 

Về gia đình, chúng ta không thể so sánh đời sống gia đình này với gia đình khác.  Trong cuộc sống đời thường, chúng ta nhận thấy có gia đình giầu sang phú quý sống trên nhung lụa.  Có gia đình bần cùng, màn trời chiếu đất.  Có những gia đình may mắn, làm ăn thành đạt và của cải đầy dư.  Có những gia đình phải lao động vất vả mà cơm không đủ ăn và áo không đủ mặc.  Có những gia đình sang trọng giầu có, nhưng chưa chắc vợ chồng con cái hạnh phúc ấm êm.  Có gia đình tuy nghèo nhưng vợ chồng yên vui đầm ấm và con cái ngoan hiền…  Mỗi gia đình một hoàn cảnh sống khác nhau cả về tinh thần lẫn vật chất.  Có biết bao nhiêu tình tiết tế nhị trong đời sống, chúng ta không thể so sánh cuộc sống gia đình này với gia đình kia.

 

Về nhóm hội và cộng đồng, mỗi nơi, mỗi hoàn cảnh và mỗi con người có nhiều điểm khác biệt kết nối với nhau tạo nên một nhịp sống chung.  Chúng ta có thể tìm thấy một số những điểm tương đồng trong hình thức sinh hoạt, nhưng không thể rập khuôn bắt chước bất cứ một nhóm hội nào.  Sự khác biệt não trạng và ý thức hệ của các thành viên ảnh hưởng đến sinh hoạt chung.  Mỗi nhóm hội hay cộng đồng có bản sắc riêng trong cách thế sinh hoạt và sống đạo.  Có nhiều sự việc có thể thực hiện được nơi cộng đoàn này, nhưng nơi khác thì không thể.  Chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm, nhưng không thể rập khuôn trong sinh hoạt.  Sự chắp nối để nên giống nhau, đôi khi sẽ làm mất đi cái bản chất đích thực của mình.

 

Sự so sánh nào cũng khập khễnh.  Chúng ta chỉ có thể học hỏi và tham khảo lẫn nhau để trau dồi kiến thức.  Sống dựa vào nhau để thăng tiến.  Điều quan trọng là sự cố gắng phấn đấu không ngừng. Những kinh nghiệm trong đời sống sẽ giúp chúng ta học và học mãi.  Người đời khen chê nhau là lẽ thường.  Biết lắng nghe và rút tỉa kinh nghiệm sẽ giúp chúng ta đổi thay nên hoàn thiện mỗi ngày.  Ai trong chúng ta cũng cần sự khích lệ tích cực để xây dựng.  Bạn của ta là những người dám nói sự thật và nói đúng nơi đúng lúc.  Lời nói chân thành có một mãnh lực phi thường khuyến khích nhau trong mọi hoàn cảnh.  Người nói sau lưng, mãi mãi là người đứng phía sau.

 

Tôi thích câu truyện này: Một đàn nhái đang di chuyển qua khu rừng và có hai con bị rơi xuống hố sâu.  Những chú nhái tụ nhau bên miệng hố nhìn xuống.  Khi thấy hố qúa sâu, chúng nói với hai con nhái kia rằng thôi chịu chết đi.  Hai con nhái như giả lờ không nghe và cố gắng hết sức để nhảy ra khỏi cái hố sâu.  Các con nhái trên bờ tiếp tục la rằng: Thôi ngừng đi, chúng mày sẽ chết thôi.  Cuối cùng, một con nhái chú ý lắng nghe và bỏ cuộc.  Nó ngã xuống và chết.  Con kia đã tiếp tục cố gắng nhảy lên.  Một lần nữa, đám nhái trên bờ lớn tiếng, đừng cố nữa và chờ chết thôi.  Con nhái nhảy mạnh hơn nữa và cuối cùng nó đã thoát ra khỏi.  Khi nó nhảy ra khỏi hố, những con nhái khác nói: Bạn không nghe chúng tôi nói hả?  Con nhái giải thích rằng nó bị điếc.  Nó nghĩ rằng các bạn hoàn toàn muốn khuyến khích nó.

 

Câu truyện dạy chúng ta hai bài học: Thứ nhất, sức mạnh của sự sống và sự chết nằm ngay trong cái lưỡi.  Những lời khích lệ với những người đang chán nản sẽ làm họ phấn khích và giúp vượt qua những khó khăn.  Thứ hai, những lời tiêu cực xói mòn tâm tư của những người đang thất vọng, có thể dẫn họ tới sự tuyệt vọng và dẫn tới chỗ chết.  Hãy cẩn thận dùng lời nói khi chúng ta phát biểu.  Sức mạnh của lời nói rất quan trọng giống như chiếc dao sắc có hai lưỡi.  Chúng ta biết rằng xây dựng tình thân cần thời gian lâu dài, nhưng phá đổ chỉ trong giây lát.

 

Chúng ta hãy nhìn đời với con mắt lạc quan hơn.  Xây dựng tình người với những lời khen tích cực.  Ca dao: “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.”  Ước chi mỗi lời chúng ta bày tỏ sẽ mang lại niềm vui và phấn khích cho lòng người.  Chúng ta bớt đi những lời so sánh chì chiết gây thương đau cho nhau, nhất là trong đời sống vợ chồng.  Hãy tôn trọng và nâng đỡ nhau mọi nơi mọi lúc.  Không ai tốt hơn vợ/chồng của mình đâu.

 

Xin Thiên Chúa ban ơn lành, để mỗi người hoàn thành sứ mệnh và định mệnh Chúa đã đặt để trong đời sống của mỗi người chúng ta.

 

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Bronx, New York.

Langthangchieutim gởi

Sài Gòn Sau Ngày Bị Giặc Chiếm 1-5-1975

From facebook:  Nguyễn Hanh-Dung‘s post
 
 
Image may contain: 4 people, people sitting and outdoor

Nguyễn Hanh-Dung with Tuong Dang   

Sài Gòn Sau Ngày Bị Giặc Chiếm 1-5-1975

MƯỜNG GIANG.

Vài giờ, sau khi chiếc trực thăng cuối cùng chở toán quân của Thiếu tá Thủy Quân Lục Chiến Mỹ Jim Kean, rời nóc bằng của Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ tại Miền Nam VN, để bay ra biển Ðông, lên hạm về nước trong danh dự. Cũng là lúc bộ đội Bắc Việt vào Sài Gòn bỏ ngỏ, qua lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh. Cái bi hài của vở kịch “ nước mắt trước cơn mưa “ là lúc mà chính phủ hai ngày của VNCH đang hồ hởi hòa hợp hòa giải, để chờ chim bồ câu trắng hòa bình hiện ra, thì cũng là giờ G ngày N của Hà Nội đã điểm.

Ðây cũng là thời khắc mà tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Q.Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, nhân danh TT Minh, ra lệnh cho các Ðơn Vị Miền Nam đang phòng thủ quanh Sài Gòn phải cố giữ vững vị trí chiến đấu, chờ sáng để nhận được phép lạ từ trên trời rớt xuống. Lúc đó, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya đêm 29 rạng sáng ngày 30-4-1975. Ðây là giờ qui định của Bộ Tư Lệnh Miền do Lê Ðức Thọ, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng, Trần văn Trà chỉ huy.. ban lệnh cho B3 hợp đồng, với tất cả các lộ quân từ năm hướng, đồng loạt tấn công vào nội thành thủ đô. Ðó cũng là thời gian lộ mặt của các đội Biệt Ðộng, Ðặc công.. từ các nơi nằm vùng, nổi dậy bắt liên lạc với các cánh quân bên ngoài. Ðó là giờ qui định cho tất cả cán bộ đảng, cán bộ chính trị nằm trong hàng ngũ VNCH, lột mặt nạ cầm đầu sư đoàn 304 quàng khăn đỏ, đang có mặt khắp thôn làng hẻm phố, sẵn sàng tiếp thu chiến lợi phẩm và còng bắt tù binh, nếu cần hạ sát tại chỗ…

Cũng từ đó lịch sử dân tộc được lật sang trang, chấm dứt một cuộc chiến dơ bẩn nhất tại VN, do cọng sản dàn dựng từ đầu đến cuối, với mục đích tạo cảnh chiến tranh, để đổi đời, nắm quyền, do một thiểu số cùng đinh cực ác trong xã hội xướng xuất. Cho nên thành phố Sài Gòn, một địa danh được các vị chúa Nguyễn và người dân Ðại Việt tạo dựng bằng mồ hôi máu mắt, từ ba trăm năm trước, cũng bị mất tên và được gán vào danh xưng Hồ Chí Minh (đại phản tặc của dân tộc, mà đời đời kiếp kiếp, miên viễn bị bia miệng nguyễn rũa.), như những thành phố tại Nga Sô Viết, trong thời kỳ cách mạng tháng mười năm 1917. Cũng nhờ cách mạng, giải phóng nên từ đó tới nay, đồng bào cả nước, trước sau rủ nhau xuống hố xã hội chủ nghĩa, để tìm thiên đàng Mác-Lê-Mao-Hồ, trong vũng bùn duy vật biện chứng pháp, mà gần hết nhân loại đã ném vào cát bụi, từ những năm đầu thập niên, cuối thế kỷ XX khi Liên Xô, Ðông Ðức, Ðông Âu tan hàng, trước chủ nghĩa tự do, dân chủ, mà không cần phải đốt rụi Trường Sơn, giết hại hằng triệu triệu người Việt của hai miền.

Một trăm hai mươi lăm nhà báo da trắng, da màu đủ loại nhưng tuyệt đối đều sùng bái VC như thần thánh trong suốt cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai (1960-1975), sau ngày bị chính quyền mới trục xuất , đều viết : ‘Quang cảnh Sài Gòn ngày hôm đó cũng vẫn như mọi ngày. Nếu có khác biệt, đó là sự hiện diện của những bộ đội miền bắc, với quân phục may bằng vải kaki nội hóa màu xanh lá cây, đầu đội cối có gắn sao, chân mang dép râu làm bằng vỏ xe phế thải. Tất cả ngơ ngơ ngáo ngáo như người cõi trên, trước cái cảnh trang đài sang giàu lầu cao phố đẹp của Sài Gòn, hòn ngọc Viễn Ðông, không giống với luận điệu tuyên truyền của đảng .. là dân nguỵ bị Mỹ-Thiệu kềm kệp, nên nghèo mạt rệp, rách đói đến nỗi, ngay cả trí thức nhà báo khao bảng, cũng phải đi ăn mày.. ’ ’ ’ Tóm lại Sài Gòn ngày đó như mọi ngày, chẳng thấy ai tiếp đón ai, cũng không có cảnh biểu tình đồng khởi hoan hô mà đảng hằng mong đợi. Người Sài Gòn đã dửng dưng trước thời cuộc, như chưa hề biết là đã đổi đời.

Củng hôm đó, trên đại lộ Thống Nhất dẫn vào Trung tâm quyền lực nhất của Nam VN. Ðó là Dinh Ðộc Lập, mà mới vài giờ trước đây, chính khứa quan quyền đủ loại ra vào tấp nập để xin quan mua chức. Nay quang cảnh vắng hoe, kể cả người lính gác cổng cũng cao bay xa chạy, đang được bộ đội Bắc Việt, tùng thiết trên mấy chiếc T54 của Liên Xô viện trợ, tới tiếp thu một căn cứ quân sự bỏ ngỏ, không phòng thủ.

Một vài chục tên Việt gian thời cơ, trở cờ, cánh tay mang băng đỏ, tay khác cầm cờ máu, lá cờ mà mấy chục năm nay cứ khoe là của nước Việt, mặt thật là sao chép y chang cờ máu của đảng Tàu Cộng, ngược xuôi xuôi ngược hò hét lập công. Nhưng mùa xuân có trăm hoa đua nở, có vạn vật hài hoà.. cho nên với một lá cờ máu tạo dựng bằng núi xuơng sông máu đồng bào, bán nước bán đất, tiêu diệt tín ngưỡng cùng văn hiến dân tộc, đang do một đám sâu bọ đội lớp người trí thức dân chủ, cổ võ bung xung, thì làm sao dựng nổi một mùa xuạn ? Văn Tiến Dũng, Bùi Tín quen tuyên truyền nên đã loạn ngôn cuồng bợ, viết sai các dữ kiện lịch sử trong ngày ‘ Sài Gòn bỏ ngỏ tháng 4-1975, từ lúc Dương Văn Minh phát tiếng trong đài, ra lệnh QLVNCH, phải buông súng đầu hàng quân Bắc Việt ‘, qua các tác phẩm mang tên ‘ Mùa Xuân Ðại Thắng, Ánh Sáng của lịch sử .. ’ ’ ’

Hôm đó phường phố Sài Gòn thật sự vắng hoe, cũng không có cảnh xuống đường với biển người rừng cờ như Hà Nội và đám Việt Gian Miền Nam mong đợi, để nhờ bọn ký giả phương tây thân cộng lúc đó, quay phim chụp ảnh, tuyên truyền với thế giới bên ngoài rằng là cách mạng giải phóng đã thành công.. Chỉ có một vài kẻ đa sự, tình cờ hay bị bắt buộc, bặm môi dừng lại bên đường, để trố mắt nhìn bộ đội miền bắc và tăng pháo do Nga-Tàu viện trợ, mà mới hôm qua đọc trên các báo chí đối lập Sài Gòn, nói là quân Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, do anh Tho, chị Bình, chị Ðịnh.. chỉ huy để chống lại chính phủ VNCH tham nhũng, gian ác, đàn áp tôn giáo, ngăn cấm tự do..

Chỉ có đám dân chiến nạn từ miền Trung, di tản theo lính vào Sài Gòn, giờ bơ vơ đói rách, bồng bế nhau hồi cư theo lệnh của chủ mới. Chỉ có những quân, công, cán , cảnh Miền Nam tan hàng rã ngủ, biết thân phận mình, rủ nhau tới các địa điểm trình diện. Sau rốt là đại đa số dân nghèo cưc, không có phương tiện hay chẳng bao giờ mơ ước xuất ngoại, nên đành ở lại với cảnh tranh tối tranh sáng, kéo tới các kho đụn, nhà giàu, sở Mỹ cùng dinh thự đồ sộ của các quan tướng.. đã bỏ chạy, để hôi của kiếm ăn. Sài Gòn mặt thật của những phút giờ đổi đời là thế đấy. Hiện có nhiều nhân chứng hôm đó, chắc là còn sống, tuy tuổi đã cao nhưng không mất trí nhớ, đang ở khắp các nẻo đường hải ngoại, thì ai dám bẻ cong ngòi bút, lếu láo vẽ rắn thêm chân, đem thúng úp voi, dấu đầu lòi đuôi cho được?

Người dân Sài Gòn cố gắng mở to đôi mắt hôm đó, để tìm trong hàng ngũ bộ đội tân lập 304 băng đỏ, cũng dép râu, nón tai bèo và khăn rằn xanh quàng cổ, hình dáng thân thương của các thầy, quý cha, anh chị em văn nghệ sỹ.. từng hò hét khản cổ, kêu gọi phản chiến, hòa hợp hòa giải năm xưa. Nhưng hỡi ơi, trong đó tìm hoài đâu thấy một ai. Các vị chỉ muốn đấu võ mồm, đâm sau lưng người lính, phá thối chính quyền đương thời. Ðến lúc nhà tan nước mất, giặc Bắc không hòa hợp mà chỉ xâm lăng, cướp của giết đồng bào.. thì các vị cũng đã nhanh chân ôm Mỹ, để kịp chạy ra hải ngoại, tiếp tục đối lập trọn đời, để lần nữa phá thối cuộc sống tạm dung chốn quê người, của những thân phận VN, cũng vì họ mà ngày nay phải sống đầu đường xó chợ, khác nào những tên nô lệ Pháp, Mỹ, trên vãn nẻo đường lưu vong, lấy nước mắt làm canh, đêm ngày hoài mơ viễn xứ, thương khóc tưởng nhớ quê mình.

“… buồn đã khắc trên từng con phố nhỏ
đường đổi tên, nhà cũng vắng người thương
bạn bè xưa giờ lạc khắp mười phương
trường lớp cũ, cũng dãi dầu hoang phế

quên sao được tháng tư đen máu lệ
người hại người bằng độc lập hòa bình
người giết người với súng đạn đồng minh
mồ vô chủ, biển xác người trôi giạt

tháng tư đen, quê hương mình tan nát
triệu mẹ già, khóc biệt đám con thơ
tuổi hoa niên, căng nhựa sống đợi chờ
đã héo úa vì thân trai thời loạn

tháng tư đen, triệu người sôi lửa hận
vết thương lòng thêm rách nát tả tơi
ta đứng khóc nhìn biển rộng mù khơi
tìm nhân ảnh trên tình người sắp cạn..”

Và ngay khi Sài Gòn vừa lọt vào tay giặc, tháng 5-1975 VC lập Ủy ban quân quản thủ đô và Ủy ban cách mạng tại các tỉnh, ra lệnh phong tỏa ngân hàng và chiếm đoạt tất cả các xí nghiệp cả nước, công hay tư, từ lớn tới nhỏ. Bắt đầu từ đó, các xí nghiệp được điều hành bởi một thành phần quản ly mơi, gồm toàn cán bộ cọng sản miền Bắc hay tập kết. Riêng chủ nhân thực sự của xí nghiệp thì giữ vai trò ‘ cố vấn kỹ thuật’. Ðồng thời ra lệnh kiểm kê hết các cơ sở công nghiệp nhỏ và nhà buôn. nhưng ác liệt nhất vẫn là hai đợt cướp của, qua cái danh từ mỹ lệ : Ðánh Tư Sản Mại Bản.

Vào tháng 9-1975, VC ra lệnh bắt giam hay quản thúc tại nhà, tất cả đại kỷ nghệ gia, thương gia, chủ cao ốc, khách sạn, nhà hàng, nhà in, tiệm sách báo.. tất cả hơn 100 người. Họ bị đuổi ra khỏi cửa, sau khi toàn bộ tài sản gồm nhà cửa, xí nghiệp, xe cộ, tiền bạc vàng ngọc .. bị đảng trấn lột hết. Ðồng lúc là đợt đổi tiền đầu tiền. Cũng từ đó đồng bạc VNCH không còn giá trị và được đổi thành tiền Mặt Trận, tối đa mỗi gia đình được 200 đồng ( tương đương 100.000 tiền VNCH). Theo VC, miền Nam lúc đó có hai loại tư bản là Tư sản thương nghiệp bao gồm đại thương gia, trung thương gia, chủ tiệm ăn. được đảng gán tội bóc lột nhân dân, đầu cơ tích trử để trục lợi, nên phải có tội .Còn giới buôn bán nhỏ và các tiểu công nghệ.. là thành phần sản xuất có ích cho xã hội chủ nghĩa nhưng cũng phải được cải tạo để theo đúng đường lối của chế độ đề ra.

Từ tháng 3 -5/1978, để tiêu diệt và xóa sổ những gì còn lại của nền kinh tế VNCH trước năm 1975, VC lại đánh tư bản miền Nam đợt 2 vào ngày 23-3-1978, vô cùng qui mô và ác liệt, chẳng những tại thủ đô Sài Gòn, mà ở khắp các thành thị từ vỉ tuyến 17 vào tận Cà Mâu, Rạch Giá, Hà Tiên. Lần này coi như vĩnh tuyệt, vì tất cả tài sản của người miền Nam, từ tiền bạc, vàng ngọc, nhà cửa, cơ sở thương mại, lều nước mắm, nhà máy xay lúa, ghe thuyền đánh cá, xe đò, xe vận tải và các loại xe nhỏ.. đều bị đảng cướp giựt, tịch biên một cách công khai.

Tàn nhẩn hơn, đảng còn ra lệnh cho những nạn nhân tay trắng này, trong vòng một tháng phải ra khỏi Sài Gòn, để đi kinh tế mới. Riêng tại Sài Gòn, tính đến ngày 3-5-1978 đã có hơn 30.000 người, bị đuổi khỏi mái ấm gia đình và nơi chôn nhao cắt rốn, để vất vưởng tha phương tới các vùng gọi là kinh tế mới, được thiết lập sát biên giới Việt-Miên trong các tỉnh Tây Ninh, Bình Long, Phước Long,An Xuyên, An Giang, Ðồng Tháp Mười, Châu Ðốc Lâm Ðồng.. hay gần hơn nếu còn chút tiền chạy chọt, sẽ được đưa tới các nông trường tập thể Lê Minh Xuân, Nhị Xuân, Thái Mỹ, Phạm Văn Cội 1 và 2, ở Củ Chi và Hậu Nghĩa.

Tóm lại ở đâu đồng bào cũng lâm vào tuyệt lộ, dù là công nhân tại các nông trường với đồng lương chết đói. Riêng chủ nhân xe đò, ghe bầu, tàu đánh cá, xe vận tải.. được xem là thành phần tư sản dân tộc nên trở thành xí nghiệp công tư hợp doanh nhưng do nhà nước quản lý, cán bộ đảng làm giám đốc, còn người chủ thật sự, thì lên chức cố vấn kỹ thuật. Tuy nhiên giới này còn được chút an ủi, là được cho phép ở lai thủ đô, có hộ khẩu tem phiếu và hưởng qui chế công nhân viên nhà nước, từ 60-85 đồng bạc Hồ. Có một ít được lãnh lương đồng hóa chuyên viên, lương 105 đồng. Nhưng lở hết rồi, có không muốn cũng đành chịu. Sau rốt là những người buôn bán nhỏ, được đảng cho hành nghề trong các khu vực tập trung, với giá cả đã có sẵn.

Ngày 25-4-1978, thủ tướng Phạm Văn Ðồng đã ký một nghị định tuyệt mật, mang số 78, quyết định thống nhất tiền tệ cả nước và được thi hành bắt đầu ngày 3-5-1978. Cũng Phạm Văn Ðồng ký thêm một nghị định ngày 31-3-1978 , bãi bỏ tư thương chuyễn vận hàng hóa từ nông thôn ra thành thị. Chính sách bế quan tỏa cảng, phong tỏa thành phố này, với mục đích làm tê liệt giao thông giữa các tỉnh, chia các vùng đất ở miền Nam của VNCH thành các quốc gia riêng biệt.

Tất cả theo đúng đề cương định hướng của Lê Duẩn, muốn biến mỗi huyện là một đơn vị kinh tế thời bình và là một Sô Viết Nghệ Tĩnh , một đơn vị chiến đấu trong thời loạn. Nhưng trên hết là phải cô lập thủ đô Sài Gòn với các tỉnh miền Nam, qua thiên la địa võng kiểm soát trên bộ cũng như đường thủy. Tóm lại chỉ mới mấy năm Sài Gòn bị mất tên, VC đã đạt được mục đích cách mạng, là bần cùng hóa giới tư sản thủ đô, ăn mày hóa cả miền Nam, hủy bỏ nên kinh tế thị trường để thay thế bằng chính sách kinh tế hoạch định quốc doanh đem từ miền bắc vào. Kết quả tất cả hàng hóa và sản phẩm tại các tỉnh thị ngoài Sài Gòn, bị ứ đọng vì không xuất tỉnh được nên cuối cùng phải bán tháo đổ, rẽ mạt cho NHÀ NƯỚC. Từ đó đảng lại chở những thứ này về Sài Gòn, bày bán trong các cửa hàng, xí nghiệp, khu chợ của đồng bào vừa bị tịch biên, với sự độc quyền.

Nhưng võ quít dầy có móng tay nhọn, kẻ cướp luôn gặp bà già, đó là một chân lý. VC độc ác, bất lương, bạo tàn nhưng lại quá ngu si, luôn tưởng mọi người im lặng trước hành động thảo khấu của đảng và cán bộ, là đã đồng tình và sợ chúng. Vì vậy chúng lại càng tham lam, hấp tấp, đem các luật lệ rừng rú thú vật của cái gọi là xã hội chủ nghĩa, cùng với chính sách tập thể hóa cưởng bách đất đại, để khống chế và nắm độc quyền kinh tế của người miền Nam ở thành thị cũng như nông thôn.

Tức nước vỡ bờ, VC bị dội ngược vào tường, vì gặp phải sự chống đối của toàn thể đồng bào VNCH, chẳng những tại Sài Gòn-Chợ Lớn mà ngay cả nông thôn miền Nam. Hậu quả nông dân không bán nông sản cho đảng theo gia rẽ mat, khiến cho hệ thống thương nghiệp quốc doanh xập tiêm vì khan hiếm nhu yếu phẩm, làm cho giá cả tăng vọt. Một sớ lớn nông dân tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, nại lý do sưu cao thế nặng, nên tự ý bỏ ruộng đất hoang không thèm canh tác. Do trên nạn chợ đen, chợ trời phát triển khắp nơi với tình trạng lạm phát, dù khắp nơi đầy nghẹt các trạm kiểm soát nhưng hàng chui từ ngoài vẫn đổ về Sài Gòn, đủ cả gạo thịt cá rau quả, vì đã móc ngoặt, hối lộ, bỏ chân với công an và cán bộ địa phương..

Tình trạng dân đói lại càng bi thảm hơn, trước thảm cảnh của những gia đình bị đuổi lên vùng kinh tế mới, nhất là ở các chốn ma thiêng nước độc sát biên giới Việt-Miên, do đói rách, tật bệnh, nên lại liều chết quay về Sài Gòn, sống cảnh đầu đường xó chợ. Trong số này, phần lớn là thành phần quân, công, cán, cảnh và cả thương phế binh VNCH. Vì CS Hà Nội luôn coi Miền Nam như một thuộc địa, nên khi vào được Sai Gòn nhờ may mắn, đã vơ vét hết các chiến lợi phẩm về Bắc, kể cả những nguyên vật liệu rất cần thiết cho sự phát triển nền công kỷ nghệ VN. Từ sau năm 1977, hầu hết các cơ sở công kỷ nghệ luyện kim, dệt, chế biến thưc phẩm tại Sài Gòn và vùng phụ cận, lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng vì nguyên liệu đã kiệt quệ. Ðây cũng là thời gian VC bị thế giơi bên ngoài, từ Mỹ, Trung Cộng, Nhật , các nước trong Hiệp Hội Ðông Nam A.. cho tới Ấn Ðộ, Liên Âu.. tẩy chay và quay mặt, trước những hành động thực dân trong nước, cũng như đã công khai làm nô lệ cho Liên Bang Sô Viết tại Châu Á.

Ngày 9-6-1980, Trương Như Tảng bộ trưởng trong chính phủ GPMN, chạy thoát ra ngoài, tới Ba Lê họp báo, tố cáo cọng sản Hà Nội tham tàn bạo ác, ngu dốt rừng rú, nên chỉ mới một thời gian ngắn cai trị Miền Nam, đã làm cho Sài Gòn sụp đổ toàn diện về kinh tế, thiếu thốn lương thực và tệ nạn tham nhũng bất công cửa quyền, đã khiến cho hầu hết các công ty hợp doanh còn lại khánh tận vì thuế theo luật rừng. Cũng nhờ đảng quyết tâm cải tạo kinh tế, mà dân nghèo càng nghèo, bất công bất bình đẳng xã hội càng trầm trong gấp trăm lần trước ngày 30-4-1975, vì sự ham muốn hưởng thụ vất chất tiện nghi, của cán bộ đảng từ trên xuống dưới, nghĩa là chỉ cần có tiền đút lót, thì việc gì cũng tốt, cũng xong.

Ðể lấy lại nềm tin cứu đảng, ngày 3-2-1980, nhân kỷ niêm thành lập 50 năm đệ tam cọng sản quốc tế, tổng bí thư Lê Duẩn đòi diệt trừ nạn tham nhũng, hối lộ, lạm quyền và hứa tận diệt, qua chính sách ‘ ba lợi ích’, lại tạo cơ hội thêm cho cán đảng tham ô lộng quyền, móc ngoặt với gian thương đem hàng hóa trong các cửa hàng quốc doanh bán ra thị trường chợ đen. Ba Tàu Chợ Lớn lại trổi dậy, đóng vai trung gian các nghiêp vụ mua bán chui, giữa các Ba Tàu Hồng Kông, Ðài Loan, Thái Lan, Tân Gia Ba, Mã Lai, bằng cách chở hàng hóa bằng thuyền tàu tới tận hải phận VN, để đổi chác vàng, mỹ kim hoặc các thổ sản VN như gạo, tôm cá đông lạnh.. Nhờ các dịch vụ chui béo bở này, mà các cán đảng giàu to nhanh chóng, trở thành những tư bản đỏ, trong xã nghĩa thiên đường. Cuộc dành ăn , đã khiến hai phe đảng giáo điều và đảng canh tân, thanh toán công khai đẳm máu tại Sài Gòn, làm Bắc Bộ Phủ phải xét lại vì đã nóng mặt, trong cảnh trâu cột nhìn trâu ăn, cũng thấy thèm.

Cuộc đối đầu giữa hai nhóm tư bản đỏ Hà Nội và Sài Gòn, thật sự đã bùng nổ, sau kỳ đại hội đảng lần thứ V (27-31/3/1982), qua nhiều thay đổi chính trị nội bộ, khiến thủ tướng Phạm Văn Ðồng, lại phải cải tổ nội các lần thứ ba (1980-1982) , có 6 cán bộ trung ương đảng bị loại khỏi bộ chính trị, trong số này có Nguyễn Lam, Trần Phương, Ðinh Ðức Thiện,Nguyễn Thành Thơ và Võ Nguyên Giáp. Riêng Võ Văn Kiệt bị bứng gốc Thành Ủy Thành Hồ, về Hà Nội ngồi chơi sơi nước, trong chức vụ phó thủ tướng kiêm chủ tịch ủy ban kế hoạch nhà nước, kể cả tướng công an Mai Chí Thọ (mới theo bác về chầu tổ Mac-Lê) cũng bị lung lay địa vị.

Phó thủ tướng Ðổ Mười được đảng giao thi hành chính sách sửa sai tại thành Hồ, với nhiệm vụ đánh tư sản thương nghiệp, trừng trị cán đảng hủ hóa tham ô, bắt đầu thi hành vào tháng 5-1983. Mục đích cũng chỉ là triệt tiêu các cửa hàng IMEX tại các quận trong thành Hồ, vì lúc đó tất cả hàng hóa xuất nhập đều do cửa hàng trung ương IMEX tại đưởng Nguyễn Huệ độc quyền. Cùng lúc Hà Nội ban hành nhiều sắc thuế nặng nề, đánh vào giới tiểu thương tại Chợ Bến Thành và các khu thương mại trong Quận Nhất, khiến cho nhiều cơ sở phải xập tiệm như Nhà Hàng Chí Tài, Tài Nam, Paris, Cola.., đành hiến cho đảng, sau đó thành công ty hợp doanh.

Ðộc hiểm hơn, Ðổ Mười còn mở chiến dịch đánh giới tư thương bán lẽ, hàng rong trên vệ đường, viện cớ chỉnh trang thành phố. Ðối với đồng bào có thân nhân nước ngoài, Ðổ Mười ban lệnh hạn chế số quà cáp và qui định tiền nhận được, phải bỏ vào quỹ tiết kiệm. Hành động quái quĩ này, khiên cho ngoại viện của Việt kiều tụt giãm trầm trọng, vì không ai muốn của mồ hôi nước mắt , lọt vào tay đảng. Trong dịp này Ðổ Mười đã thanh toán được nhiều ngàn tư bản đỏ, trong đó cộm nhất có giám đốc xí nghiệp liên hiệp Cửu Long,bị tịch thu trên 20 ký lô vàng ròng. Cùng với nhiền cán đảng cao cấp tham ô trong các cửa hàng IMEX như Cholimex, Sidimex,Gidimex..

Mặc kệ cho đồng bào cả nước bất mãn vì sưu cao thuế nặng, lạm phát, khan hiếm thực phẩm, thất nghiệp và tham ô càng lộng hành, Hà Nội vẫn theo đúng đường hướng TÂN CHÍNH SÁCH (NEP) của Liên Xô đề ra, ban hành nghị quyết của bộ chính trị trong phiên họp ngày 17-12-1984 để tập thể hóa đất đai miền Nam và kiểm soát tư thương. Thêm vào, là nghị quyết số 8-1985,bãi bỏ chế độ bao cấp, ấn định lại giá hang quốc doanh gần bằng giá tại thị trường.

Cuối cùng là ÐỔI TIỀN MỚI lần thứ ba, vào ngày 14-9-1985, làm cho tiền Hồ lần nữa bị phá giá tới 90%, so với tiền trước. Ðây cũng là cơ hội để đảng Việt Cộng có cơ hội vàng ròng, đẽ ra chính sách buôn bán nô lệ mới trong thế kỷ XX, một mặt đảng đầy ải đồng bào mạt rệp vì bị cướp cạn tài sản qua ba đợt đánh tư sản và đổi tiền, tới các vùng đất ma thiêng nước độc, trên cao nguyên và sát biên giới để mở các đồn điền cao su, trà, cà phê.được trả bằng lương công nhân viên chết đói. Nhưng quan trọng nhất là xuất người làm vật lao động , để đổi lấy ngoại tệ tại các nước Liên Xô, Ðông Ðức, Tiệp Khắc.. mà theo thống kê đã có tới cả trăm ngàn người. Tuy nhiên tất cả kế hoạch của đảng hầu như thất bại hoàn toàn, dân chúng nghèo Sài Gòn vẫn bám trụ tại chổ, mua hàng chui tại chợ trời chợ đen để sống, mà không cần vào tem phiếu tq5i cửa hàng quốc doanh. Nền kinh tế chợ trời-chợ đen phát triển lên tận mây xanh, giúp cho người nghèo tại thủ đô cũng như các thành phố lớn khác của miền Nam, khồng thèm đi kinh tế mới, mặc cho công an bộ đội hù dọa, bắt bớ và khủng bố.

– Sài Gòn bây giờ cái gì cũng có:
Như lời Tú Trinh quảng cáo, Sài Gòn bây giờ, qua danh xưng Thành Hồ cái gì cũng có, sau khi đảng VC lâm vào đường cùng ngay lúc thành đồng xã nghĩa Liên Xố và Ðông Âu tan rã và sụp đổ, cúp hết nguồn viện trợ nuôi sống Bắc Bộ Phủ. Ðói và gần chết, nên đảng VC đành mở cửa, trãi thảm đỏ chẳng những quì rước tư bản đỏ trắng, mà ngay cả kẻ thù không đội trời chung là Hoa Kỳ và Người Việt ti nạn khắp thế giới, một thời từng bị Hà Nội phỉ báng, chưỉ bới là những thành phần phản quốc, cặn bã của xã hội,trốn ra nước ngoài gái thì làm điếm, trai ăn cướp lưu manh., đâu có chừa ai, dù là kỹ sư, bác sĩ, tướng tá, nhà văn, nhà báo, kể cả sư cha và me Mỹ-Pháp.

Nghèo đói tuyệt vọng, đã đẩy mọi tầng lớp đồng bào vào cuối đường hầm, nên họ chỉ còn biết tin vào những may rũi cuộc đời, như rũ nhau đi tìm vàng ở Hiếu Liêm ( Phước Long), Tà Pao (Bình Tuy), Ba Thê (An Giang).. để mong một sự đổi đời. Ðây cũng là cơ hội để cho bọn kinh doanh thần thánh ma quỉ hốt bạc, qua những màn thông điệp, phán quyết, sấm truyền. Trong khi đó đâu đâu cũng có những ông bà cô cậu, thần thông quãng đại, chuyên môn chữa bệnh bằng bùa phép, qua các bậc tu hành lừng danh như Ðại Ðạo Tiên Cô, Thầy Bùa, Thầy Mo, Thầy Tư Nước Lạnh.. thầy cô nào tiếng tăm cũng lừng lẫy, chẳng những ở thủ đô mà còn vang dội cả nước. Tất cả đều là sản phẩm của thời mở cửa đổi mới, khiến cho người dân chẳng những đói lạnh mà còn mất hết niềm tin cuộc đời, nên phần lớn bị bệnh tâm thần, mộng du, tỷ lệ người bệnh chỉ thua A Phú Hản mà thôi.

Ngành du lịch bắt đầu phát triển, mà cao điểm từ năm 1995, với sự hợp tác của các công ty du lịch ngoại quốc như EW và A.I.O tour (Japan), Ðài Loan.. trụ sở đặt tại Imex cũ, đường Nguyễn Huệ, đã bị cháy ngày 14-10-1991. Kèm theo trong dịch vụ béo bở này của Hà Nội, là dịch vụ kinh doanh phim SEX. Trong khi đó, thành Hồ cũng tưng bừng nạn tẩu tán vàng, đô la trong nước, ra ngoại quốc nhất là các nước Ðồng Nam Á, qua các cửa khẩu ở biên giới Hoa Việt, Nghệ An, Tây Ninh, Long An, Châu Ðốc.. tất cả đều của bọn tư bản đỏ, cán bộ gốc, chuyển ra ngoại quốc rữa thành tiền sạch, trước khi gửi tiếp vào các ngân hàng quốc tế.. nhất là Thụy Sĩ hay chuyển ngân cho Việt kiều tại Hoa Kỳ, Úc, Canada, Châu Âu.. để mở tiệm vàng, ra báo, mở đài phát thanh, tàu đánh cá, mua nhà.. Rồi thì những dịch vụ làm giấy tờ giả mạo, trong các chương trình ODP, HO, Con lai, kết hôn.. tràn lan khắp Miền Nam, nhất là tại thành Hồ.. giúp cho một số lớn can bộ và gia đình Việt Cộng, sau khi tham nhũng tom góp được một tài sản lớn, mua giấy tờ giả mạo, cưới vợ chồng giả, để trốn ra hải ngoại hưởng thụ..

Phú quý sinh lễ nghĩa, giàu có thì phải xài tiền, không những chỉ có cán đảng, tư bản đỏ, bọn thương buôn tư bản ngoại quốc, mà cả Việt Kiều bôn phương về, vung tiền qua cửa sổ, để phanh thây xé xác những người con gái, đàn bà nghèo vô tội VN, vì tiền phải bán thân cho thú vật tại các tụ điểm ăn chơi hay trá hình ở các khách sạn hạng sang Bông Sen, Bến Thành, Cửu Long, Hướng Dương, Hải Âu, Hoa Sen, Lê Lai, Hữu Nghị,.. đồng lúc với những trung tâm du hí Bình Quới 1-2, Ðầm Sen, Hồ Kỳ Hòa và Suối Tiên. Nơi nào dù ở trong khách sạn hay ngoài trời, đảng qua thân xác của người phụ nử VN, tha hồ trấn lột những con thiêu thân, quyết lòng vung tiền, để trả thù dân tộc.

Thành Hồ cái gì cũng có mà bó tay không thể giải quyết được, vẫn là tham nhũng, tệ doan xã hội và nạn nhân mãn. Ðể giải quyết, đảng theo Mao-Ðặng-Giang-Hồ, ban hành chính sách cai đẽ, từ sau trận mùa hè đỏ lửa 1972, do Ðại Tứơng Anh Hùng Ðiện Biên là Võ Nguyên Giáp phụ trách, qua hàm Phó Thủ Tướng đảng VC. Theo lệnh, mỗi gia đình chỉ được tối đa 2 con, sau đó được phá thai hợp pháp. Ðối với Hoa kiều từ trước tới nay tại thủ đô, vẫn sống riêng biệt như một nước khác nước VN, ở Chợ Lớn theo thống kê năm 1958 đã có 600.000 người, chiếm tỷ lệ 75% Hoa Kiều cả nước. Sau ngày 30-4-1975, Hoa Kiều Chợ Lớn lập tức phản Ðài Loan, theo Trung Cộng để dựa hơi hù VC nhưng vẫn bị đảng hốt sach qua ba lần đánh tư sản và đổi tiền. Sau đó Hoa Kiều càng thê thãm hơn, khi VC và TC trở mặt, một số nghèo bị đi kinh tế mới, trong lúc những kẻ có tiền chung vàng cho đảng để được chính thức xuất ngoại, lên tới 250.000 người, trong đó người Tàu chiếm tới 85%. Nhưng Hoa đi bớt, đã có Liên Xô và các nước Ðông Âu đổ xô vào thành Hồ từ năm 1977 nhưng tập trung tại các căn cứ cũ cuả Mỹ ở trong phi trường Tân Sơn Nhất, kể cả du hý cũng được dành riêng ở các khách sang sang trọng như Cửu Long (Majestic), Thống Nhất (Carevelle), Hữu Nghị (Palace) và Bến Thành (Rex)..

Nhưng Tàu đi rồi Tàu lại về, chẳng những Hoa kiều mà còn đủ Tàu trắng, Tàu đỏ. Tất cả đang làm chủ thành Hồ như trước tháng 4-1975 đã khống chế mọi sinh hoạt của Sài Gòn. Ba mưới hai năm qua, thành Hồ là thế đó, cho nên người Việt dù có thương nhớ Sai Gòn tới đứt ruột, vẫn không ai muốn nhắc tới cái tên Hồ Chí Minh đang hiếp dâm Hòn Ngọc Viễn Ðông., dù biết chắc sớm muộn gì thủ đô yêu dấu cũng được mang tên Sài Gòn như tiền nhân ta đã gọi từ hơn ba trăm năm trước.

Ngày 29-4-2008, toàn bộ Bắc Bộ Phủ trải thảm đỏ để đón ‘ Ðuốc Máu ‘ của giặc Tàu tới Sài Gòn ra Hoàng Sa, trong sự căm phẩn của đồng bào cả nước.

Sài Gòn sau ngày 1 tháng 5 năm 1975 bị VC cưởng chiếm còn nhiều chuyện lạ viết làm sao cho hết đưọc

Xóm Cồn Hạ Uy Di tháng 4-2016
MƯỜNG GIANG

Giáo dục trước và sau năm 1975

Giáo dục trước và sau năm 1975

Nhóm phóng viên tường trình từ VN

 
Hai nữ sinh trên đường phố Sài Gòn.

Hai nữ sinh trên đường phố Sài Gòn.

AFP photo
 
 

Giáo dục các thế hệ trở thành những con người có đầy đủ lòng yêu thương và nhân cách để bước vào đời, hòa điệu cùng xã hội hay đào tạo ra những cỗ máy biết đi, đứng, nằm ngồi và biết đào ra tiền nhưng lại nhanh chóng làm nghèo đất nước? Đó là câu hỏi chung của mọi nền giáo dục. Vấn đề giáo dục tại Việt Nam trước và sau 30 tháng 4 năm 1975 là một câu chuyện dài. Trong giới hạn của tường trình này, chúng tôi chỉ xin phép đề cập đến những lát cắt thông qua các nhận định của những người từng có kinh nghiệm trong lĩnh vực này, trong phép so sánh của họ về giáo dục trước và sau 1975 tại Việt Nam.

Một nền giáo dục nhân bản đã mất

Thầy Luận, một giáo sư dạy cấp trung học phổ thông (trước năm 1975, những người dạy trung học phổ thông được gọi là giáo sư), chia sẻ: “Hồi đó giáo dục thì yêu thương gia đình, tổ quốc, tôn sư trọng đạo, nhưng họ làm thật. Rồi chào cờ thì phải nghiêm túc, đi gặp đám tang thì dở mũ đưa tiễn, đó là nhưng thứ liên quan đến đạo đức mà gần như ai cũng được dạy và làm. Hồi đó học sinh tôn trọng thầy lắm, sợ thầy lắm. Còn thầy thì gương mẫu lắm, nghiêm túc. Cái kiểu mặc quần đùi lên giảng dạy là không có rồi. Anh có thể dạy học sinh phá vỡ nhiều thứ, ví dụ như những hủ tục nhưng tư cách của anh phải nghiêm túc. Mô phạm đó.”

Theo thầy Luận, vấn đề trọng tâm của giáo dục nằm ở chỗ người làm quản lý và người dạy đang nắm cái lõi nào, nhắm vào trung tâm, hạt nhân nào để từ đó khai triển thành một bộ khung triết lý trong giáo dục con người. Và nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa miền Nam Việt Nam đã làm được điều này.

Theo ông, chính nhờ vào nền giáo dục nhân bản, lấy triết lý con người làm trung tâm mà trong vòng hai mươi năm nội chiến với khói lửa chiến tranh và máu đổ, nền giáo dục miền Nam vẫn mọc lên những cây trái thành tựu hết sức xuất sắc với những cái tên như Bùi Giáng, Bùi Văn Nam Sơn, Phạm Cộng Thiện, Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh cùng hàng loạt trí thức, nghệ sĩ tài năng và đức độ khác.

Điều này, cũng tại miền Nam Việt Nam, với quĩ thời gian hơn gấp đôi, 42 năm, sống trong hòa bình, không có lửa đạn chiến tranh nhưng lại không có những cá nhân xuất sắc như trước đây. Đó là nói riêng về các thành tựu đỉnh cao,nhưng khi nói tới giáo dục, mặt bằng chung vẫn là quan trọng nhất, nghĩa là một xã hội được hình thành từ giáo dục như thế nào. Điều này thì giáo dục miền Nam Việt Nam tốt hơn rất nhiều so với giáo dục sau 1975.

Với triết lý nhân bản, dân tộc và khai phóng, qua giáo dục, phát triển toàn diện mỗi cá nhân, phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh, phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học… Điều này đã mang lại một mặt bằng xã hội tương đối cân bằng, ổn định bởi sự hiểu biết, tôn trọng dân chủ, yêu quê hương, đất nước và yêu dân tộc cũng như coi trọng con người, lấy nhân cách và phẩm hạnh làm mục tiêu của đời người.

Như kết luận vấn đề đã nêu, thầy Luận cho rằng nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là một nền giáo dục tốt nhất trong lịch sử các nền giáo dục Việt Nam trong lịch sử và cho đến thời điểm hiện nay. Và hơn nữa, vấn đề chính phủ, nhà nước quan tâm đến giáo dục thời Việt Nam Cộng Hòa cũng là điều đáng nói, bởi ngân sách giáo dục tuy không phì đại như hiện nay nhưng lại đảm bảo học sinh không tốn tiền khi đến trường và nếu học tốt thì có cơ hội du học nước ngoài. Nền giáo dục không có tính chợ búa như nền giáo dục hiện tại.

Một nền giáo dục chợ búa

000_HKG2004050779546-400.jpg
Nữ sinh trong trang phục áo dài trắng tại buổi lễ kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ hôm 7/5/2004, tại Hà Nội. AFP photo

Như để chứng mình cho những luận điểm của thầy giáo cũ của mình, thầy Toàn, một giáo viên dạy môn văn vừa nghỉ hưu, chia sẻ thêm: “Thì đầu tiên, chính sự dối trá đã phá vỡ giáo dục. Nó dẫn đến giả bằng thật, dẫn đến bệnh háu danh, cả xã hội bùng lên lạm phát bằng cấp. Rồi người ta lợi dụng, hợp thức hóa những cái bằng, học vị chuyên tu, toàn bi kịch, dốt nát kinh khủng, điều này kéo dài đã bao nhiêu năm. Rồi những cái học vị xỏ lá đó tạo nên những vết thương trong xã hội, cái bất công trong giáo dục cũng giống như bất công trong xã hội vậy.

Cái bất công trong giáo dục là thằng học vị cao nhất, ngu dốt nhất sẽ là thằng lên học vị cao nhất bởi nó sẽ tìm cách hợp thức hóa cái bằng nhanh nhất, cái học vị khốn nạn nhất. Những cái thằng học đại học chuyên tu nó sẽ là thằng đầu tiên đi học thạc sĩ chuyên tu. Chính vì sự chen lấn như vậy nên người có học theo kiểu này càng có nhiều bằng cấp, học vị càng tàn ác bởi họ trả giá quá đắt. Cái kiểu đổi tình, đổi tiền lấy điểm phổ biến.

Và khi mà họ đã trả giá quá đắt cho việc có được cái bằng, cái học vị đó, cả thân xác họ mà họ còn không quý nữa thì nghĩa lý gì người khác, họ phải tận thu để ‘bù vốn’, vì họ đầu tư quá lớn. Cái trụ cột đạo đức bị gãy. Như những cô giáo mẫu giáo, họ nghĩ ra việc trộn thuốc ngủ cho con người ta ăn đi ngủ khỏi phải trông. Những cái độc ác xuất phát từ những gì độc ác mà họ phải trải qua trong quá trình chen lấn để lấy cái bằng.”

Theo thầy Toàn, để nói về nền giáo dục Việt Nam hiện tại, ông có thể tóm gọn trong mấy chữ, đó là nền giáo dục chợ búa. Tính chợ búa này thể hiện rất rõ trong các chính sách giáo dục tốn kém nhưng không có hiệu quả và đằng sau nó là hàng tá các nhà giáo dục xôi thịt đang chực chờ để tham nhũng, đục khoét. Cứ mỗi lần cải cách giáo dục, học sinh phải chịu thêm một gánh nặng mới từ học phí, sách mới, học thêm, kính thưa các loại gánh nặng chất lên đôi vai non nớt của học sinh.

Nói sâu xa hơn một chút, nền giáo dục phía Bắc vĩ tuyến 17 những năm trước 1975 đã có những dấu hiệu thiếu vắng tính nhân bản. Nếu như miền Nam chú trọng vào triết lý nhân bản trong giáo dục thì miền Bắc lại tập trung vào tính chiến đấu trong giáo dục. Những bài thơ, những truyện ngắn đầy tính giết tróc được áp dụng triệt để trong các giáo trình văn học miền Bắc. Từ thơ Tố Hữu cho đến truyện ngắn của Nguyên Ngọc và nhiều nhà văn, nhà thơ khác. Các tác phẩm văn học miền Bắc đều lấy tinh thần kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam làm kim chỉ Nam.

Sau 30 tháng 4 năm 1975, trận gió giáo dục mang tính chiến đấu của miền Bắc đã xô dạt những thư viện giáo dục nhân bản miền Nam. Và hệ quả của nó là suốt 42 năm, nền giáo dục càng lúc càng bệ rạc. Những quan chức giáo dục bị kỉ luật ở cấp thấp thì lại được thăng cấp, nhảy tót lên ghế trên để làm quản lý. Hiện tại, có nhiều quan chức giáo dục cấp tỉnh, với vị trí giám đốc sở giáo dục, nhưng nếu chịu khó kiểm tra kiến thức, trình độ và đạo đức của họ, dường như là có quá nhiều vấn đề để bàn.

Theo thầy Toàn, có người từng bị kỉ luật ở nhà trường vì nạn đề đóm nhưng sau đó lại được cất nhắc làm chuyên viên sở, rồi cuối cùng là giám đốc sở giáo dục, trong khi đó, người này từng ra đề thi sai nhiều lần vì không có kiến thức và ông ta chỉ giỏi duy nhất một điều, đó là biết làm được lòng cấp trên, biết đội trên đạp dưới.

Một nền giáo dục không có triết lý, không coi trọng dân chủ và không đề cao nhân cách đã và đang cho ra những đáp số xã hội đầy rẫy tội lỗi và cái ác. Thầy Toàn khẳng định rằng nếu như truy tìm nguyên nhân gây ra một xã hội hết sức manh động và vô cảm như hiện tại, nền giáo dục đã góp một phần rất lớn để xây dựng nên xã hội như đang thấy.

Nói cho cùng, một nền giáo dục chỉ lấy vật dục làm kim chỉ Nam và không coi trọng tính nhân bản, tính dân chủ, cộng thêm với sự thiếu thành thật và phiến diện sẽ không bao giờ là một nền giáo dục có khả năng hoàn thiện con người. Và những người trưởng thành trong nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, nói cho cùng là nhờ vào niềm đam mê tri thức cũng như thiện căn có sẵn của họ chứ không phải do tác động của giáo dục.

Một nền giáo dục tốt phải là nền giáo dục có khả năng tác động, làm giàu nhân tính xã hội, ngược lại, một nền giáo dục tồi tệ là nền giáo dục luôn chịu lời nhắc nhở về nhân tính cũng như phẩm hạnh từ xã hội. Và nền giáo dục Việt Nam kể từ sau 30 tháng 4 năm 1975 đến nay là nền giáo dục như thế!