BỐ NÓ

 
 
Image may contain: one or more people, people standing, people dancing, people on stage and outdoor
Image may contain: outdoor

Tran Manh Hao added 2 new photos.Follow

BỐ NÓ

Thơ Trần Mạnh Hảo

Bố nó tên là Bình 
Đặng hay Tập nó đều kêu là bố
Nó giả đò làm người Việt mình
Kỷ niệm 39 năm hàng vạn dân quân Việt bị bố nó giết
Nó sai đười ươi ra nhảy múa mừng công trước tượng đài Lý Thái tổ

Bố nó xoa đầu khen nó mà bụng rất khinh :
– Mày dù giả Hán vẫn là Kinh !
– Bao giờ tao cướp trọn nước Việt 
– Tao sẽ đem mày ra giữa chợ hành hình
– Vì tao là hoàng đế Tập Cận Bình….
– Mày hãy nhìn gương tên bán nước Tống cho giặc Kim là vợ chồng Tần Cối
– Tao ghét vô cùng bọn bán nước cầu vinh

Sài Gòn ngày 19-2-2018

T.M.H.

Chú thích ảnh 1: ngày 17-2-2018 ( kỷ niệm 39 năm giặc Tầu cho ngót triệu quân qua giết hại hàng vạn quân và dân Việt Nam. “Nó” cho nhiều cặp đười ươi ra nhảy múa trước tượng đài Lý Thái tổ mừng công giặc, đồng thời để ngăn cản hàng vạn người yêu nước muốn đến thắp hương tưởng nhớ đồng bào đã bị giặc giết dọc tuyến 6 tỉnh biên giới phía Bắc 17-2-1979).
Chú thích ảnh 2 : những tên gian thần móc nối với giặc Kim bán nước Tống để giết trung thần Nhạc Phi nghìn năm bị làm tượng quỳ gối trước mộ Nhạc Phi cho dân Trung Hoa đến nhổ nước miếng vào mặt. Bốn tên bán nước đó là : Trương Tuấn, Vạn Sĩ, Tần Cối và vợ là Vương Thị. SỐ PHẬN “NÓ” và “CHÚNG NÓ” sau này ở Việt Nam sẽ giống như thế. 

DIỄN HÀNH TẾT MẬU TUẤT 2018

httpv://www.youtube.com/watch?v=1QAx82kWaS0

DIỄN HÀNH TẾT MẬU TUẤT 2018 PHẦN 1

 httpv://www.youtube.com/watch?v=R2RW3g8JCfc

DIỄN HÀNH TẾT MẬU TUẤT 2018 PHẦN 2

httpv://www.youtube.com/watch?v=ycK3-50iSqs

DIỄN HÀNH TẾT MẬU TUẤT. 2018. PHẦN 3

Bữa Ăn Lặng Lẽ Một Mình – Tạp Ghi Huy Phương

Van Pham

Bữa Ăn Lặng Lẽ Một Mình – Tạp Ghi Huy Phương

Hiện nay tôi đang sống với gia đình cô con gái út. Cháu có một gái đã trưởng thành sống ở tiểu bang khác và một cháu trai đang học năm cuối của trung học. Chồng cháu thỉnh thoảng phải đi làm xa. Hai vợ chồng tôi đã đến tuổi già gần đất xa trời, nên thời khắc biểu của những thành viên trong gia đình rất khác nhau, nên ít khi chúng tôi ngồi lại cạnh nhau cùng ăn chung một bữa cơm.

Buổi sáng thức dậy trễ, thì con cái đã đi làm, cháu đã đến trường, vợ thì luẩn quẩn ở sau khu vườn nhỏ, đành ngồi ăn sáng một mình. Buổi tối, thấy cơm canh đã sẵn sàng nhưng chưa thấy ai sẵn sàng cùng ăn với mình. Gọi vợ thì vợ bảo:
-“Ông cứ ăn đi, tôi mới ăn củ khoai, còn ngang bụng!” Gọi con thì con thưa: “Ba cứ dùng cơm đi, con đang bận tay!” Ðứa cháu thì khi hiện khi biến, chẳng mấy khi gặp mặt, có khi ăn ở trong bếp hay đem phần ăn lên phòng riêng để có sự tự do một mình.

Tôi muốn có những bữa ăn đông người, vui vẻ, có tiếng cười nói rộn ràng, nhưng thường là phải ăn những bữa ăn một mình. Bữa ăn một mình thì đâu cần đến mâm bàn dọn ra ngay ngắn, tươm tất, mà sao cũng cho xong một bữa ăn. Một tô cơm trộn thức ăn, và một cái muỗng, ngồi trước máy computer hay trước máy truyền hình. Bạn có nghĩ một bữa ăn như thế có dễ tiêu hoá, có lợi cho sức khoẻ hay không? Và một bữa ăn như thế có buồn không?

Tôi không bao giờ quên được những bữa ăn gia đình thời thơ ấu. Tất cả mọi người trong gia đình đều chờ nhau vào mâm cơm một lượt, dù là buổi sáng giờ trưa hay bữa chiều tối. Bữa cơm có cả ông bà nội, cha mẹ, cả anh chị cùng mấy đứa em nhỏ, kể cả thành viên nhỏ bé của đại gia đình là con mèo vàng luẩn quẩn chờ miếng ăn trong lòng bà nội tôi.
Rồi thời gian qua đi, kẻ còn, người mất, gia đình mỗi người một nơi. Tôi lớn lên, tạo lập một gia đình nhỏ, có những bữa ăn sum họp gia đình, nhưng không quên được những người đã đi xa, không còn hiện diện trên cuộc đời này nữa.

Rồi chiến tranh, tù đày, xô đẩy con người mỗi người đi mỗi hướng. Trong một trại tù nào đó, trên cái chõng tre tập thể, hay bữa trưa ngoài bìa rừng, tôi ngồi dùng đũa đếm những hạt ngô bung, xót xa nhớ đến những bữa cơm gia đình. Khi tôi từ nhà tù trở về, thì bữa cơm không còn là bữa cơm nữa. Con tản mát, vợ chạy gạo mỗi ngày, nồi cơm lạnh lẽo trên bếp, ai thấy thì ăn. Thời Cộng Sản vào nhà, không còn hai chữ “sum họp,” cũng chẳng còn câu “ngồi lại với nhau.”

Ra hải ngoại, thì cái văn hoá “bữa cơm gia đình” cũng đã mờ nhạt. Ly cà phê bữa sáng trên xe, cái hamburger cùng ly coke vào giờ lunch và những buổi tối về nhà trong giờ giấc trước sau không đồng nhất. Phải chờ đến những ngày Lễ Tết, sinh nhật, cha con, anh chị em họa hoằn mới có dịp ngồi lại trong những bữa tiệc cuối tuần.
Các bạn còn trẻ có lẽ chưa cảm nhận được nỗi buồn khi phải ngồi ăn một mình. Thức ăn có ngon đến đâu, bổ dưỡng đến đâu mà không “dịch vị” của tiếng cười, niềm vui, chỉ còn “gia vị” của cô đơn, buồn nản, thì bữa ăn ấy chỉ còn là bổn phận ăn để sống. Chính các vị y sĩ cũng đã khuyên người già “ăn uống phải có bạn, nên ăn chung với gia đình hay con cháu. Về phần con cháu, cũng không nên để cho cha mẹ mình ăn uống trong cô đơn buồn tẻ, vì khi ăn một mình, sẽ kém vui, và ăn ít đi, không tốt cho sức khoẻ. Sự cô đơn sẽ làm miếng ăn thêm cay đắng.”

Rõ ràng là tâm lý đã tác dụng vào sinh lý. Dù đau yếu, suy kiệt, mòn mỏi nhưng tôi vẫn nghĩ rằng những người sống chung với con cháu, hay còn vợ chồng có khả năng sống lâu hơn là những ông bà cụ già hiện đang sống một mình trong những căn phòng lạnh lẽo của những căn “nursing home.”

Trong nhà dưỡng hưu, tôi đã thấy những bữa cơm gọn gàng trong những cái khay nhỏ do nhà bếp đưa đến tận giường, để cả giờ nguội lạnh mà các ông bà vẫn chưa muốn ăn. Tôi đã đến thăm nhà thơ Nguyễn Chí Thiện lẻ loi trong căn nhà già ở Santa Ana lúc ông chưa vào bệnh viện. Lúc ấy vào buổi xế trưa, mà từ sáng đến giờ, nồi cơm điện còn nguyên chưa được xới ra trên bếp, thức ăn còn để lạnh ngắt trong tủ lạnh. Ông thú nhận là ông không muốn ăn, mà chỉ ăn vì “nghĩa vụ,” một nghĩa vụ nặng nề! Chung quy cũng vì nỗi buồn cô đơn, thui thủi một mình.

Keith Ferrazzi, tác giả cuốn sách “Ðừng bao giờ đi ăn một mình (Never eat alone) không nói về sự cô đơn mà nói về sự giao tiếp đưa đến sự thành công và hạnh phúc cho cuộc sống. Chúng ta không bàn đến chuyện “ăn một mình” theo lối này.

Ðã đi hết một chặng đường dài, đã lo toan cho mọi thứ, nhưng cuối cùng tuổi già cô độc bên mâm cơm, lặng lẽ một mình. Những bậc cha mẹ già không mong con tặng quà, phải chi con ghé nhà thăm, ngồi ăn với cha hay mẹ một bữa cơm, nói cười như thuở ấu thơ.

Image may contain: one or more people

Chúa Thánh Thần hiện diện qua TT Trump

 Chúa Thánh Thần hiện diện qua TT Trump

Trong một diễn từ đáng kinh ngạc TT Trump nói về tình yêu Thiên Chúa hùng hồn như một linh mục đang giảng đạo.

Chúa Thánh Thần hiện diện qua TT Trump.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trong một diễn biến gây sững sờ cả cho những người hiện diện và các phương tiện truyền thông, Tổng thống Donald Trump đã mạnh dạn và công khai nói về niềm tin vào Thiên Chúa của người dân Hoa Kỳ và tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân tộc này. Bài diễn văn của ông liên tục bị gián đoạn bởi những tràng pháo tay của cử toạ.

Các quan sát viên nhận xét rằng Tổng thống Donald Trump có khiếu giảng đạo hùng biện như một linh mục sau bài diễn văn hùng hồn của ông tại buổi Điểm tâm Cầu nguyện Quốc Gia (National Prayer Breakfast) lần thứ 66 tại khách sạn Hilton ở thủ đô Washington DC hôm thứ Năm 8 tháng 2 vừa qua. 

Ông nói:

Hoa Kỳ là một quốc gia của các tín hữu, và cùng nhau chúng ta được củng cố bởi quyền năng của lời cầu nguyện. Sáng nay, trái tim chúng ta tràn đầy lòng tri ân Thiên Chúa khi chúng ta đến với nhau để tham dự buổi Điểm tâm Cầu nguyện Quốc Gia lần thứ 66

Mỗi năm, sự kiện này nhắc nhở chúng ta rằng đức tin là trung tâm của cuộc sống và nền tự do của Hoa Kỳ. Những người sáng lập quốc gia này đã nhắc đến Đấng Tạo Hóa bốn lần trong bản Tuyên ngôn Độc lập. Giấy bạc của chúng ta cũng khẳng định “Chúng tôi tin tưởng nơi Thiên Chúa.” Và chúng ta đặt tay lên trái tim của chúng ta khi chúng ta đọc Lời Tuyên Thệ trung thành và tuyên bố chúng ta là “Một Dân tộc dưới quyền Thiên Chúa”.

Quyền của chúng ta không phải do con người trao ban cho chúng ta; quyền của chúng ta đến từ Đấng Tạo Hóa của chúng ta. Không có gì, không một thế lực trần thế nào có thể tước mất những quyền ấy của chúng ta. Đó là lý do tại sao những lời “Khen ngợi Thiên Chúa” được ghi khắc trên đỉnh Đài tưởng niệm Washington, và những lời tương tự được khắc sâu trong tâm khảm nhân dân chúng ta.

Vì vậy, hôm nay, chúng ta ngợi khen Thiên Chúa vì chúng ta thật sự quá may mắn khi được là người Mỹ. Trên khắp đất nước, chúng ta nhìn thấy những kỳ công sáng tạo huy hoàng của Thiên Chúa. Trong suốt lịch sử của chúng ta, chúng ta thấy biết bao những câu chuyện về ơn quan phòng của Thiên Chúa. Và trong mọi thành phố và thị trấn, chúng ta thấy ân sủng của Chúa tràn ngập xung quanh chúng ta, thông qua hàng triệu hành động bác ái, can đảm và quảng đại. Chúng ta yêu mến Thiên Chúa.

Chúng ta nhìn thấy ân sủng Chúa trong các nhân viên phục vụ, những người liều mạng để bào vệ tự do cho chúng ta. Chúng ta thấy ân sủng Chúa trong những giáo viên làm việc không mệt mỏi vì những học sinh của mình, và các nhân viên cảnh sát đã tận tụy cho cộng đồng của chúng ta. Chúng ta thấy ân sủng Chúa trong những hy sinh của họ.

Và chúng ta nhìn thấy ân sủng Chúa trong các bà mẹ và những người làm hai và ba công việc để mang lại cho con cái họ cơ hội có được một cuộc sống tốt đẹp, thịnh vượng hơn và hạnh phúc hơn.

Như Kinh Thánh nói với chúng ta, chúng ta là kỳ công được tay Chúa tác tạo, được tạo thành trong Chúa Giêsu Kitô để làm việc lành. Những anh hùng của nước Mỹ đã đứng dậy đáp lời mời gọi này. Trong hành động xả thân quên mình của họ, họ cho thấy vẻ đẹp và sự tốt lành của tâm hồn con người.

Khi những cơn bão thảm khốc xảy ra, những lực lượng sơ cứu và những người dân bình thường lao vào vùng nước để cứu các gia đình bị mắc kẹt khỏi nguy hiểm. Và họ đã cứu hàng ngàn những người như thế. Những người hàng xóm mở rộng cửa nhà mình cho những người cần thức ăn, quần áo, chỗ ở. Lính cứu hỏa can đảm đã dập tắt khói lửa để cứu trẻ con khỏi thảm hoạ cháy rừng.

Trong những vụ nổ súng khủng khiếp, những người lạ đã bảo vệ những người chưa hề quen biết, và các nhân viên cảnh sát đã xông vào những lằn đạn để cứu mạng sống của người Mỹ, như tại Las Vegas. Một ngày khủng khiếp, một đêm khủng khiếp. Nhưng thật là dũng cảm.

Tất cả những gì chúng ta phải làm là mở mắt ra và nhìn quanh chúng ta, và chúng ta có thể thấy bàn tay của Chúa. Trong lòng can đảm của đồng bào chúng ta, chúng ta thấy quyền năng của tình yêu Thiên Chúa đang hoạt động trong tâm hồn chúng ta, và quyền năng của Chúa sẽ đáp lại tất cả những lời cầu nguyện của chúng ta.

Khi người Mỹ có thể sống với xác tín của họ, có thể nói công khai về đức tin của họ, và dạy cho con mình những gì là đúng, gia đình chúng ta phát triển, cộng đồng của chúng ta triển nở, và đất nước chúng ta có thể đạt được những điều chúng ta mong muốn.

Cùng với nhau, trong tư cách là người Mỹ, chúng ta là một lực lượng không mệt mỏi cho công lý và hòa bình. Chúng ta đã chứng kiến sự thật này trong năm qua.

Trong nhiều năm, bọn khủng bố Hồi Giáo IS đã tra tấn tàn bạo và giết hại các Kitô hữu, các tín hữu Do Thái, các nhóm tôn giáo thiểu số và vô số người Hồi giáo.

Hôm nay, liên minh được thành lập để đánh bại bọn khủng bố Hồi Giáo IS đã giải phóng gần 100 phần trăm lãnh thổ trước đây đã bị bọn giết người ở Iraq và khắp Syria này chiếm đóng.

Nhiều công việc vẫn luôn luôn còn phải làm, nhưng chúng ta sẽ không bao giờ ngơi nghỉ cho đến khi những công việc ấy được hoàn thành. Và chúng ta thực sự đang thực hiện xuất sắc như chưa bao giờ.

Xin Chúa ban phép lành cho các bạn, và ban phước cho Hoa Kỳ. Cảm ơn các bạn nhiều. Cảm ơn các bạn.

Anh chị Thụ & Mai gởi

THIÊN CHÚA LÀ MÙA XUÂN VĨNH CỬU


THIÊN CHÚA LÀ MÙA XUÂN VĨNH CỬU

Hôm nay, ngày đầu năm Bính Tuất, chúng ta nhắc lại câu chuyện cổ tích “Con Chó Đá”.

Ngày xưa, có người học trò nghèo dùi mài kinh sử chờ khoa thi ở kinh đô.  Một hôm, anh đi qua cổng làng, thì con chó bằng đá đang đứng trên bệ bỗng nhổm dậy vẫy đuôi mừng rỡ.  Lấy làm lạ, anh học trò bèn hỏi tại sao lại vẫy đuôi.  Con chó trả lời: “Khoa này thầy thi đỗ nên tôi mừng.”  Anh học trò về kể cho cha mẹ nghe.  Thế là từ đó người cha lên mặt hống hách với mọi người, không coi ai ra gì.

Tháng sau, trước ngày đi thi, anh học trò đi ngang qua cổng làng, không thấy con chó vẫy đuôi nữa, bèn hỏi tại sao.  Con chó đáp: “Tại cha thầy sớm lên mặt với mọi người, nên khóa này thầy chẳng đỗ đâu.”  Y rằng như thế.

Anh học trò về kể lại với người cha.  Ông hối hận, từ đó tu thân tích đức, sửa chữa lỗi lầm.  Khóa sau, anh học trò đi qua, chó đá lại vẫy đuôi.  Quả nhiên, sau đó anh đỗ đạt và làm quan lớn.

Hình ảnh con chó đá luôn gắn bó với làng quê miền Bắc Việt Nam bao đời qua, trở thành một biểu tượng dân gian thân thuộc.  Chó là con vật trung thành với con người, luôn biết phục vụ con người qua việc canh giữ nhà cửa và bảo vệ con người sống trong sự bình an.  Hình ảnh con chó đá vẫy đuôi trong câu chuyện cổ tích còn cho thấy chó luôn sống thân thiện với con người, hòa nhập vào đời sống tình cảm của con người, trở thành niềm vui và niềm động viên cho con người.

Từ những nét đặc trưng của loài chó kể trên, ta mới nghiệm thấy Xuân Bính Tuất đang đến với ta cũng có những đặc tính đáng yêu đáng mến ấy.  Đó cũng chính là những ước vọng của chúng ta trong năm mới Bính Tuất này.

Một năm mới tràn ngập bình an

Bình an luôn là ước vọng lớn của con người.  Cũng vậy, hòa bình cũng chính là hoài bão lớn nhất của nhân loại.  Thế nhưng, đã nhiều thế kỷ trôi qua, con người vẫn sống trong chiến tranh điêu tàn.  Con người vẫn chưa tìm được sự bình an, và thế giới vẫn chưa có hòa bình đúng nghĩa.

Hôm nay, ngày đầu năm chúng ta hãy nguyện xin Thiên Chúa là Chúa Xuân ban cho chúng ta sự bình an như lòng chúng ta mong ước và ban hòa bình cho thế giới.  Chỉ có Chúa mới có thể ban tặng cho ta sự bình an đúng nghĩa, vì chính Người là nguồn bình an đích thực.

Tuy nhiên, sự bình an chỉ có thể có được nếu chúng ta biết hoàn toàn phó thác cậy trông vào tình thương và sức mạnh của Chúa, như lời Chúa dạy chúng ta : “Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai”.

Trong ngày đầu năm, chúng ta hãy dâng lên Chúa quan phòng những ước vọng, và mọi âu lo trong đời sống, nhất là trong những ngày tháng sắp tới.  Trong niềm phó thác và cậy trông vào Chúa, chúng ta sẽ luôn được bình an.

Một năm mới tràn ngập yêu thương

Tình yêu cũng luôn là khát vọng khôn nguôi của con người.  Vì thiếu tình yêu, con người đã rơi vào những thảm cảnh của bạo lực và khủng bố.  Vì thiếu sự thân thiện, nên con người đã lao vào chém giết nhau.  Vì thiếu sự yêu thương, nên gia đình ly tán, tan vỡ.  Và cũng vì thiếu tình thương yêu nên con người càng ngày càng đắm chìm trong hận thù ghen ghét.

Trong ngày đầu năm, chúng ta hãy dâng lên Chúa là Thiên Chúa tình yêu, những nguyện ước chân thành, xin cho mọi người biết yêu thương nhau hơn, bớt đi những khủng hoảng và chiến tranh, thay vào đó là tinh thần đại đồng và hiệp nhất giữa mọi quốc gia, luôn giúp nhau cùng phát triển trong một “nền văn minh tình thương”.

Muốn được thế, mỗi người chúng ta hãy biết loại bỏ đi những tị hiềm ghen ghét, biết cảm thông và tha thứ cho mọi người sống chung quanh.  Chúng ta hãy để cho “Thiên Chúa tình yêu” luôn ở giữa chúng ta và liên kết mọi người nên một trong tình yêu và sự hiệp nhất.

Một năm mới tràn ngập niềm vui

Thế giới luôn chìm ngập trong nỗi buồn muôn thuở: nỗi đau “huynh đệ tương tàn”, nỗi niềm xót xa của những thảm cảnh chiến tranh từng ngày, ở khắp nơi.  Tâm hồn con người cũng không thoát khỏi nỗi ưu sầu nhân thế: sự cô đơn, thất vọng và khủng hoảng.  Các gia đình cũng không thiếu cảnh buồn sầu: gia đình xung đột, chia rẽ và cuối cùng dẫn đến sự đổ vỡ hoàn toàn.

Trong ngày đầu năm, chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta niềm vui trọn vẹn và bền vững, niềm vui xuất phát từ chính Thiên Chúa, niềm vui không phai nhòa và lụi tàn.  Niềm vui ấy chỉ có được ở nơi những tâm hồn đầy tràn ơn Chúa.  Niềm vui ấy cũng chỉ có được nếu biết hướng tới tha nhân.  Và niềm vui ấy thật sự bền vững khi niềm vui ấy là kết quả của một đời biết hy sinh phục vụ người khác.

Hôm nay, chúng ta còn khát khao một điều cao cả hơn hết: đó là xin Chúa mãi mãi là mùa xuân vĩnh cửu của cuộc đời ta.  Muốn được thế, ta phải biết chọn lựa và tìm kiếm Người giữa những thần tượng trần thế.  Hãy biết đặt Người lên trên mọi ưu tiên của cuộc đời, như lời Chúa dạy chúng ta : “Tiên vàn các con hãy biết tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người”.

“Nước Thiên Chúa” là gì nếu không phải là “Vương quốc tình yêu”, vương quốc mà chỉ có những con người biết yêu thương mới đạt tới?  “Sự công chính” của Thiên Chúa là gì, nếu không phải sự thánh thiện của những con người luôn biết vâng theo thánh ý Chúa hằng ngày?

Hôm nay, chúng ta mở sang một trang sách mới của cuộc đời, trang sách đầu tiên của năm mới.  Chúa mời gọi chúng ta hãy làm một cuộc lựa chọn: Thiên Chúa hay thế gian.  Trong suốt cả năm, chúng ta có hạnh phúc, an vui, thành đạt hay không là tùy thuộc ở sự lựa chọn này.

Một đứa bé đã khóc thét lên khi nó thọc tay vào miệng một cái bình sứ Trung Quốc rất đắt tiền mà không thể rút tay ra được.  Cha mẹ nó tìm mọi cách kéo tay đứa bé ra.  Nhưng hoài công vô ích!  Mọi cách đều làm đứa bé khóc to hơn vì đau và sợ.

Cuối cùng, họ đành đập bể chiếc bình quý giá đó.  Khi những mảnh vỡ rơi tan tác dưới sàn, mọi người mới hiểu tại sao tay đứa bé kẹt cứng ở trong cái bình: Nó nắm chặt lấy một đồng tiền cắc mà trước đó nó đã làm rơi vào trong bình.  Vì cứ nắm chặy lấy đồng tiền, nó đã không thể rút tay ra khỏi chiếc bình.  Không chỉ riêng đứa bé, rất nhiều người trong chúng ta đã không nhận ra được giá trị thật của cuộc sống.  Bàn tay ta cứ nắm chặt lấy những đồng tiền trong cuộc sống, khiến ta không thể nắm bắt được hạnh phúc mà Thiên Chúa tặng ban.

Sưu tầm

****************************** ********

Lạy Chúa

365 ngày vụt qua nhanh, ngày đầu năm mới đó mà hôm nay đã cuối năm rồi.

Tờ lịch sang trang mới. 

Cuộc sống của con còn bao nhiêu tờ lịch sang trang nữa?

Con không biết. 

Ngày mai là của Chúa.

365 ngày cũng có chút sóng gió trong công việc, trong sức khỏe, 

nhưng Chúa đã dẫn chúng con trong bình an. 

Con kính dâng lên Chúa lời tạ ơn chân thành với tất cả tâm tình biết ơn.

 Qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria, 

Con kính dâng lên Chúa những dự tính, những ước mơ về một năm mới.
Xin Chúa là nguồn bình an, thương chúc phúc cho gia đình con, 

những người thân yêu của con, bạn bè con.

Xin Chúa thương chúc phúc cho những người chung quanh con: 

những người đang ưu tư tìm kiếm công việc làm ăn, 

những người vất vả sớm hôm mà vẫn sống trong cảnh nghèo khổ, 

những người lang thang cơ nhỡ, 

những người cô đơn, bệnh hoạn, đói khát, tật nguyền, khổ đau cùng cực, 

những người đang phải sống trong vùng chiến tranh với biết bao lo sợ, tiếng súng thay cho tiếng cầu kinh.

 Xin trải dài trên suốt cuộc đời của mỗi người chúng con 

tình thương vô biên của Lòng Thương xót Chúa: 

để chúng con luôn có tấm lòng mở rộng, chia sẻ với nhau từ vật chất đến tinh thần, 

để lời nguyện cầu của chúng con luôn được Chúa chấp nhận.  Amen.

From Langthangchieutim gởi

Cảm ơn Facebook!

Cảm ơn Facebook!

 

Ảnh: internet

Xem VTV4, có tên là “Truyền hình đối ngoại” suốt mấy ngày Tết, thấy dân ta trong nước và “Người Việt bốn phương” đón Tết thật tưng bừng muôn màu sắc rực rỡ; rượu chè, cỗ bàn ê hề; nhảy múa, ca hát, vui chơi thỏa thích; tình người dạt dào, thăm hỏi, tặng quà, chúc tụng hả hê; đất nước thanh bình, đẹp tươi vô hạn… Cứ trong phòng ấm áp, coi VTV4, rung đùi xài rượu ngoại và các món nhắm thỏa thuê… tưởng mình đang sống giữa Thiên đường rồi còn gì!

May quá, sớm mồng 2 Tết vào Facebook, mới thấy được MỘT NỬA SỰ THẬT bị che đậy, khỏa lấp đi! Ôi, nếu không có FB thì mình đã vô tâm, vô tình mắc vào điều tệ hại, như ông tổ của những người cộng sản – Karl Marx – từng nói: “Chỉ có súc vật mới quay lưng lại nỗi đau khổ của đồng loại để chăm lo riêng cho bộ da của mình”! Nhờ FB mới biết nhiều sự thật:

– Biết, ngày 17/2/1979, quân “bành trướng, bá quyền Bắc Kinh” đã đem 60 vạn quân lính bất ngờ tấn công toàn tuyến biên giới phía Bắc nước ta. Chúng đã “phá sạch, giết sạch” ở nơi nào chúng đến, khiến hơn 50 ngàn đồng bào ta đã bị giết hại thảm thương… Đặng Tiểu Bình cho đánh trận này “để cho người Mỹ hả lòng, tin tưởng hợp tác với Trung quốc và để dẹp yên các phe phải trong nước”… Hưởng ứng lời Kêu gọi và Lệnh của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng, toàn quân, toàn dân ta đã đoàn kết một lòng, quyết hy sinh “đánh dập đầu quân xâm lược”, chúng đã phải tháo chạy về nước…

– Thế nhưng ngày nay, Trung cộng không hề nhận lỗi, tạ lỗi, để hòa hiếu, mà còn muốn xóa bỏ hoàn toàn ký ức của dân ta về tội ác chiến tranh do chúng gây ra năm 1979; chúng ép các nhà lãnh đạo Việt Nam phải làm mọi cách để không ghi cuộc chiến đó vào sử sách, ngăn cản người dân tưởng niệm các chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến vệ quốc 1979…

– Thấy dân ta không câm lặng hèn nhát, không lãng quên tội ác dã man của Trung cộng và càng không bao giờ quên các chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh bảo vệ Tổ quốc. Trên các trang mạng tràn ngập hình ảnh, bài viết, thơ ca tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ, lên án tội ác trời không dung, đất không tha của Tàu cộng và những kẻ cúi đầu tiếp tay cho giặc…

– Thấy một bộ phận dân ta u mê tội nghiệp, như những con rối bị giật dây, đi ngăn cản, phá đám những người có lương tri làm lễ Tưởng niệm các chiến sĩ và đồng bào hy sinh trong cuộc chiến vệ quốc 17/2/1979; lố bịch, nhố nhăng hơn nữa, có đám người còn nhảy múa, ca hát để ngăn cản người tưởng niệm và như để ăn mừng “chiến công” của bọn xâm lược Trung cộng!

– Thấy những “chú an ninh” tội nghiệp, sáng mồng 2 Tết phải đến chực ở cửa nhiều “đối tượng có nguy cơ” đi “tụ tập” tưởng niệm ngày 17/2…

– Thấy nhiều Dân oan ở xa lên Hà Nội “khiếu kiện kéo dài”, Tết không có tiền về quê, hoặc không còn nhà để về… Ngày Tết thiêng liêng là thế, họ vẫn vật vờ đầu đường, xó chợ bầy tỏ nỗi ức với Trời, Đất, Thiên hạ. Nhưng chính quyền các cấp “đá họ như quả bóng” tội nghiệp. May có những đồng bào “Bầu bí tương thân”, “Lá lành đùm lá rách” đã chia sẻ cho họ phần quà Tết và an ủi những số phận khốn cùng…

Còn bao nhiêu chuyện vui, buồn của đời sống bị khuất lấp, mà nhờ có FB, ta mới có cái nhìn tỉnh táo, để suy nghĩ chân thật, mở lòng trắc ẩn với những đồng bào khốn khó…

Cảm ơn Facebook!

Quái vật Mác-Lê đội lốt Dân Tộc Chủ Nghĩa

 Quái vật Mác-Lê đội lốt Dân Tộc Chủ Nghĩa

 

Sáng 17/2/2018 một số nhà hoạt động cho biết, tại tượng đài Lý Thái Tổ vẫn có cảnh khiêu vũ. Ảnh: internet

Không bỏ được Mác-Lê vì bỏ Mác-Lê tức là phải trả quyền lại cho dân, nhưng Mác-Lê không còn sức thu hút quần chúng thì Đảng CSVN phải làm sao đây?

Thôi thì chồng lên nó cái áo Dân Tộc Chủ Nghĩa, một hình thức sói đội lốt cừu. Mà Dân Tộc Chủ Nghĩa ở Việt Nam là chống xâm lược.

Chống xâm lược trong lịch sử Việt Nam là chống ai? – Chống Tàu, chống Pháp, chống Mỹ (dù Mỹ vào VN không phải là để xâm lược).

Nhưng chống Tàu sao được khi Đảng CSVN đang dựa vào Đảng CS Tàu để tồn tại. Đảng không dám chống Tàu mà cũng không dám để cho dân chúng trong nước chống Tàu vì sợ Tàu gõ đầu bảo tại sao không ngăn chận lại.

Để ngăn chận lại một chính nghĩa như việc tưởng niệm hàng vạn những chiến sĩ và dân chúng đã hy sinh bỏ mình chống xâm lược Tàu ngày 17/2/1979, Đảng đã huy động tay sai ra khiêu vũ trước tượng đài Lý Thái Tổ hôm 17/2/2018.

Đảng CS Tàu đã tròng lên đầu Đảng CSVN vòng kim cô Hội Nghị Thành Đô năm 1990 mà trong đó có một điều kiện đã được tiết lộ là: KHÔNG ĐƯỢC NHẮC ĐẾN CUỘC CHIẾN ĐÃ QUA.

Cho nên cái quái thai Mác-Lê đội lốt dân tộc này UỶ NHIỆM việc chống Tàu cho người Việt hải ngoại. Người Việt hải ngoại, vô tình hay cố ý, lại có người rơi vào cái game này của họ, cho nên ta thấy nào là chống Trung Cộng trước chống Việt Cộng sau, chống Trung Cộng để Trung Cộng sụp thì Việt Cộng sẽ sụp theo…

Trong nước, quái thai Mác-Lê đội lốt dân tộc này chỉ tập trung chống Pháp, chống Mỹ và khai thác chôm chỉa bất kỳ cái gì của dân có được làm cái của Đảng, như khai thác đội bóng U23 vào được chung kết Á Châu đến báo công Bác Hồ mặc cho các em đang rất mệt, thiếu ăn, thiếu tiêu, thiếu tiểu khi đi cà nhích từ phi trường Nội Bài mất khoảng 6 tiếng đồng hồ về.

Quái thai này những ngày trước Tết Mậu Tuất 2018 đã phô trương chống Mỹ bằng việc tổ chức rầm rộ 50 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 với chủ đề “Bản hùng ca Xuân Mậu Thân 1968” (http://bit.ly/2sEPdmB).

Cũng khoảng thời gian trước Tết này họ chôm anh hùng chống Pháp Phó Đức Chính của Việt Nam Quốc Dân Đảng để cổ suý dân tộc chủ nghĩa (http://bit.ly/2sDhlX6).

Chúng ta sẽ còn chứng kiến nhiều trò làm tuồng nữa của quái thai Mác-Lê đội lốt dân tộc chủ nghĩa này. Nhưng ngày nay dân tộc đang sống trong Thời Đại Thông Tin, với sự thật được phơi bày qua các thông tin đa chiều, không như thời 1940s mà hệ thống nói dối có tổ chức của họ có thể bịt mắt quần chúng để dẫn họ đi.

Như đại văn hào Nga Leo Tolstoy nhận xét, đại ý như sau: dân tộc như con thuyền lớn, lãnh đạo như chiếc thuyền nan ở phía trước, người trên thuyền nan chống cây sào vào thuyền lớn và nói rằng mình đang lãnh đạo. Khi thuyền lớn và thuyền nan đi cùng một hướng thì dân chúng cũng nghĩ như thế, nhưng khi thuyền lớn cứ đi về hướng riêng của nó và cây sào trên thuyền nan không đụng vào được nữa thì nó thật là trơ trẽn để nói rằng Đảng đang lãnh đạo.

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có lẽ không sai khi viết “sản tiêu vong” trong hai câu sau đây:

“Bỉnh chúc vô minh quang tận diệt
Trọng ngân bạc phúc sản tiêu vong”
(Ngọn đuốc tối tăm thì ánh sáng mất hết
Ham tiền mỏng phúc thì của cải tiêu tan)

Nghiệp chướng cộng sản rồi cũng sẽ qua, Xuân Mậu Tuất 2018 là mùa xuân mở đầu cho hừng đông của cách mạng dân chủ.

“Thái tử Đảng” La Vũ tiếp tục cảnh báo ông Tập Cận Bình: Độc đảng chuyên chế ắt sụp đổ

ĐIỀU ĐÓ CHẮC CHẮN ĐẾN, CHỈ SƠM HAY MUỘN THÔI.

 
Ông La Vũ cho rằng ĐCSTQ là tai họa lớn nhất đối với Trung Quốc, và đồng thời cũng chỉ ra, độc đảng chuyên chế…
 
TRITHUCVN.NET

Hạnh phúc và cuộc đời

Hạnh phúc và cuộc đời

Cao-Đắc Tuấn (Danlambao) – Tóm Lược: Hạnh phúc được coi là mục tiêu chính yếu của cuộc đời nhưng có nhiều vấn đề trong việc đi tìm hạnh phúc. Các cuộc thăm dò và xếp hạng các quốc gia trên thế giới cho biết người dân trong mỗi quốc gia đánh giá trị cuộc sống của họ thế nào. Nhiều nghiên cứu và tìm tòi về hạnh phúc qua triết lý, khoa học, và tôn giáo cho thấy có một số điểm tương đồng. Qua những nghiên cứu này, chúng ta có thể thiết lập một hệ thống lý thuyết và thực hành căn bản trong việc mưu cầu hạnh phúc. Hầu hết các học thuyết này giới hạn với cá nhân và không đề cập đến hạnh phúc của một xã hội hoặc dân chúng trong một quốc gia. Tuổi trẻ cần phải chuẩn bị cho cuộc đấu tranh chống chế độ cộng sản tại Việt Nam khi đi tìm hạnh phúc bằng cách phát huy những cảm xúc tích cực và tiêu hủy những cảm xúc tiêu cực.

*

Hạnh phúc thường được coi là mục tiêu của cuộc sống. Quốc gia nào với chính quyền có trách nhiệm đều muốn dân mình hưởng hạnh phúc. Bản Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ có câu: “Chúng tôi tin những sự thật này hiển nhiên, rằng mọi người sinh ra bình đẳng, rằng họ được Thượng đế ban cho những Quyền không thể tách rời được, rằng những quyền này gồm có Sự Sống, Tự Do và mưu cầu Hạnh Phúc.” Nước Bhutan nhấn mạnh tầm quan trọng của hạnh phúc khi chính quyền dùng Tổng hạnh phúc quốc gia (Gross National Happiness, GNH) là mục tiêu của chính quyền xác định trong Hiến pháp (Wikipedia 2018a).

Một cách tổng quát, hạnh phúc thường được định nghĩa là sự sung sướng, toại nguyện hoặc thỏa mãn về cuộc sống, sự an bình và thoải mái trong đời, mức độ thoải mái chủ quan, hoặc đạt được những mong ước và có những vui thú (Argyle 2009, 1, 8). Những yếu tố khách quan về sự thỏa mãn gồm có: tiền bạc, sức khoẻ, việc làm, các mối liên hệ xã hội (thí dụ, hôn nhân, tình bạn), sự nhàn rỗi, nhà cửa, và giáo dục (Argyle 2009, 44-46). Hài hước cũng là một yếu tố của hạnh phúc và là trạng thái trí tuệ tốt đẹp (Argyle 2009, 54). 

Người ta thường nghĩ rằng những thành công vật chất trong đời như tiền bạc, địa vị sẽ đem lại hạnh phúc. Tuy nhiên, những nghiên cứu khoa học, triết lý, và các cuộc thăm dò ý kiến cho thấy mối liên hệ ngược lại: chính hạnh phúc đem lại thành công và nhiều kết quả tốt đẹp khác. Trong vài nghiên cứu, “hạnh phúc và ý nghĩa cuộc đời được chấm quan trọng hơn nhiều so với tiền bạc, đạo đức, và ngay cả lên thiên đàng” (Argyle 2009, 1). Do đó, trong cuộc sống, hạnh phúc không xoay quanh thành công, mà ngược lại: chính thành công xoay quanh hạnh phúc như trái đất xoay quanh mặt trời (Achor 2010, 37-38).

  1. Chỉ số hạnh phúc:

Vì hạnh phúc là mục tiêu quan trọng trong cuộc sống người dân, có nhiều nghiên cứu hoặc thăm dò dân chúng trên thế giới để xếp hạng quốc gia trên thế giới bằng cách dùng những chỉ số hoặc điểm trung bình đánh giá hạnh phúc của người dân trong mỗi quốc gia. Những bảng xếp hạng này thường chỉ có giá trị tương đối vì các cuộc thăm dò dựa vào một số phần trăm rất nhỏ trong dân số mỗi quốc gia. Ngoài ra, quan điểm và tiêu chuẩn về hạnh phúc của mỗi người khác nhau; do đó, khó có một kết luận chính xác. Dù sao, kết quả các bảng xếp hạng này cho chúng ta một cái nhìn tổng quát về người dân trên thế giới đánh giá trị cuộc sống của họ thế nào.

Một bảng xếp hạng dựa vào Happy Planet Index (HPI), tạm dịch Chỉ số hành tinh hạnh phúc (CSHTHP), thường gây lẫn lộn (Xem, NEF 2012; 2016). Tổ chức NEF công bố bảng xếp hạng khoảng 140 quốc gia trên thế giới vào năm 2012 và 2016 (Xem, NEF 2012; 2016). Việt Nam xếp hạng 2 trong bảng xếp hạng năm 2012 và hạng 5 trong bảng xếp hạng 2016. Kết quả này khiến nhiều người, nhất là dân Việt Nam và nhóm cầm quyền cộng sản (NCQCS) tại Việt Nam, ngạc nhiên.

Thực ra bảng xếp hạng dựa vào HPI gần như không có giá trị gì hết. HPI “không thực sự cho biết quốc gia nào hạnh phúc nhất, hoặc có nền an sinh (well-being) cao nhất, mà chỉ cho biết mức độ hữu hiệu một quốc gia tiêu thụ những tài nguyên sinh thái (ecological resources) để hỗ trợ một mức độ hạnh phúc nào đó” (Rampell 2009). HPI, do đó, không phải là chỉ số cho thấy người dân tại một quốc giả cảm thấy hạnh phúc. Ngoài ra, ngay cả trong việc tính toán HPI, có nhiều chỉ trích, nhất là việc dùng diện tích sinh thái (ecological footprint) trong công thức cho HPI (Xem thí dụ như, Lewis 2010; Pearce 2013). Tóm lại, bảng xếp hạng theo CSHTHP không dính líu gì đến mức độ hạnh phúc người dân trong một quốc gia theo ý nghĩa thông thường về cuộc sống.

Có hai bảng xếp hạng liên hệ trực tiếp đến mức độ hạnh phúc của người dân trong một quốc gia. Bảng thứ nhất do cơ quan United Nations Sustainable Development Solutions Network của Liên Hiệp Quốc (LHQ) (Wikipedia 2018b), sau đây gọi là bảng xếp hạng Sustainable Development Solutions Network (SDSN). Bảng thứ nhì do Ruut Veenhoven, một nhà nghiên cứu về hạnh phúc tại các quốc gia, thành lập (Veenhoven 2014), sau đây gọi là bảng xếp hạng Ruut Veenhoven (RV). Bảng xếp hạng SDSN và RV có kết quả từng quốc gia khác nhau, nhưng theo tương đối và tổng quát, hai bảng xếp hạng này khá giống nhau. Tôi ghi các kết quả này vào Excel spreadsheet và tính hệ số tương quan (correlation coefficient) giữa hai bảng xếp hạng. Hệ số tương quan của hai bảng là 0.87 cho thấy thứ hạng các quốc gia không chênh lệch nhiều lắm. Theo tôi, bảng xếp hạng SDSN được cập nhật hóa hơn và phản ảnh theo sát thời gian hiện nay hơn. Phần sau đây chỉ thảo luận về bảng xếp hạng SDSN. Độc giả muốn biết thêm về bảng xếp hạng RV có thể tham khảo thêm (Xem, thí dụ như, Veenhoven 2014).

Bản báo cáo về hạnh phú thế giới của SDSN (Helliwell, Layard, và Sachs 2017) trình bày chi tiết cách thức tính toán chỉ số (điểm) hạnh phúc các quốc gia trên thế giới. Bảng xếp hạng dựa vào kết quả thăm dò khoảng 1.000 người dân trong mỗi quốc gia. Mỗi người tự đánh giá cuộc đời của mình theo thang điểm Cantril bằng cách trả lời câu hỏi: “Bạn hãy tưởng tượng một thang với bực thang đánh số từ 0 dưới cùng tới 10 ở trên đỉnh. Đỉnh thang tiêu biểu cuộc sống tốt đẹp nhất có thể được cho bạn và bực dưới cùng tiêu biểu cuộc sống tệ nhất có thể được cho bạn. Ở bực thang nào bạn cho rằng bạn đang đứng tại thời điểm này?” (Helliwell, Layard, và Sachs 2017, 9). 

Hính 1 cho thấy kết quả bảng xếp hạng SDSN cho 155 quốc gia (Helliwell, Layard, và Sachs 2017, 20-22; Wikipedia 2018b) và RV cho 158 quốc gia (Veenhoven 2014). Trong bảng xếp hạng SDSN, Việt Nam đứng hạng 94 xa dưới trung bình. Trong bảng xếp hạng VR, Việt Nam đứng hơn trung bình một ít. ác bảng xếp hạng, chỉ số, hoặc số điểm này không hoàn toàn chính xác và có “những kết quả rất đáng ngờ, nhất là về các so sánh quốc tế” (Argyle 2009, 2). Tuy nhiên, các cuộc thăm dò này cũng cho thấy kết quả tương đối và phản ảnh phần nào thực tế.

Hình 1: Thứ hạng và điểm về hạnh phúc tại vài quốc gia

Dựa vào những thống kê về Tổng Sản Lượng Nội Địa trên đầu người (Gross Domestic Product per capita) (Wikipedia 2018c), tôi tính hệ số tương quan (correlation coefficient) giữa điểm số đánh giá cuộc sống (chỉ số hạnh phúc) của SDSN và GDP mỗi đầu người (mức độ giàu có) để xem hai thông số này liên hệ với nhau thế nào. Kết quả là hệ số tương quan = 0.7; nghĩa là khá cao, nhưng không liên hệ mật thiết lắm.

Những bảng xếp hạng, chỉ số, hoặc hệ số tương quan chỉ cho thấy một khía cạnh nào đó. Các con số này không trả lời được những câu hỏi phức tạp hơn. Thí dụ, mức giàu có dẫn đến hạnh phúc, hay hạnh phúc dẫn đến mức giàu có? Chúng ta có thể không có được câu trà lời rõ rệt, nhưng có thể có được một sự hiểu biết sâu xa về vấn đề giúp phần nào trong việc tìm câu trả lời. Để làm được việc đó, chúng ta cần xem xét hạnh phúc dưới lăng kính tỉ mỉ và đa chiều hơn. Thí dụ, xem xét hạnh phúc qua nhiều quan điểm.

  1. Hạnh phúc qua các quan điểm:

Có nhiều tài liệu, sách vở, và nghiên cứu về hạnh phúc và cách đạt hạnh phúc trong cuộc đời hoặc các môi trường sống trong xã hội như gia đình, nơi làm việc. Tài liệu về hạnh phúc thường xoay quanh các chủ đề chính như lý thuyết về hạnh phúc, cách sống để đạt hạnh phúc, và liên hệ giữa hạnh phúc với con người và cuộc đời. Trong phần sau đây, tôi sẽ chỉ trình bày một cách sơ lược về những thảo luận về hạnh phúc qua các quan điểm chính yếu: triết học, khoa học (y khoa, tâm lý học, xã hội học), và tôn giáo.

  1. Hạnh phúc qua triết học:

Hạnh phúc là đề tài đã khiến nhiều triết gia tốn bút mực từ bao thế kỷ. Một triết gia từng nói, “Nếu triết học không giúp chúng ta hạnh phúc, hoặc kém hạnh phúc, thì triết học có ích lợi gí?” (Lenoir 2016, 10). 

Socrates (469-399 TCN (Trước Công Nguyên)) tin rằng hạnh phúc là cái mà ai cũng muốn và không phải là những gì bên ngoài như quần áo, danh vọng, sắc đẹp, mà là sự thỏa mãn kiến thức qua trí tuệ sáng suốt và đức tính. Ông lý luận rằng cuộc sống không đúng đắn dẫn đến bất hạnh trong khi sống đúng đắn đưa đến hạnh phúc (POH a; Cahn và Vitrano 2008, 3). Tương tự, Plato (428-347 TCN) tin rằng sự đúng đắn (có nghĩa là có đạo đức tốt và có đức hạnh) cần thiết cho hạnh phúc. Theo Plato, tâm thần có ba phần riêng rẽ: suy luận là phần có nhiệm vụ lý luận và suy nghĩ chín chắn, tâm linh là phần cảm xúc, giúp con người hành động theo lệnh từ suy luận, và thèm muốn là phần không có lý trí, lôi kéo chúng ta vào việc thỏa mãn các thú vui (Vitrano 2014, 40). Plato chủ trương rằng ba phần đó hoạt động cùng với nhau để đem lại thăng bằng cho linh hồn và đưa đến hạnh phúc. Thí dụ, suy luận và tâm linh hợp tác để khắc chế thèm muốn (tlđd., 40). Một người không đúng đắn lúc nào cũng đòi hỏi những cái sai lạc, lúc nào cũng cảm thấy ngập lội trong ham muốn (tlđd, 41).

Aristotle (384-322 TCN) đặt ra câu hỏi: “Mục đích tối thượng của sự hiện hữu của con người là gì?” Aristotle trả lời rằng hạnh phúc là mục đích tối thượng của cuộc sống và nếu đạt được, chỉ có thể đạt được khi cuộc đời kết thúc. Theo Aristotle, hạnh phúc được định nghĩa là “một hoạt động của tâm hồn theo đức hạnh ” (POH b). Hạnh phúc là sự thực hành của đức tính (Cahn và Vitrano 2008, 31; POH b). Do đó, con người không thể có hạnh phúc nếu còn sống hoặc chưa có cuộc sống đạo đức tạo bởi những đức tính như can đảm, rộng rãi, công lý, và tình bằng hữu (POH b). Ta nên để ý Aristotle dùng từ ngữ eudaimonia để diễn tả hạnh phúc (Achor 2010, 40; SEP 2014). Từ ngữ Hy Lạp eudaimonia được dịch sát nghĩa là sống thánh thiện, và có ý nghĩa phát huy con người (human flourishing). Thực ra, Aristotle không có ý gán ghép ý tưởng thần thánh, mà chỉ ngụ ý sống thoải mái, tốt đẹp (SEP 2014).

Chủ nghĩa khoái lạc (hedonism) – tối đa hóa thú vui và tối thiểu hóa đau buồn – được diễn giảng hàng ngàn năm trước đây bởi Aristippus (435 – 366 TCN) và thảo luận chi tiết bởi Epicurus (342-270 TCN) (Peterson 2006, 78). Chủ nghĩa khoái lạc đóng góp vào hạnh phúc lâu dài kém hơn eudaimonia (Peterson 2006, 79). Epicurus phân tích hạnh phúc dựa vào niềm vui thích (pleasure). Một cuộc đời hạnh phúc trước tiên là một cuộc đời mang lại niềm vui thích. Thế nào là niềm vui thích? Thưởng thức kem, thỏa mãn đòi hỏi sinh lý, say sưa coi phim, nghe nhạc, học các điều mới lạ, chơi thể thao, v.v… Tuy nhiên, vì niềm vui thú chỉ tạm thời và thay đổi, nó không thể là cái hướng dẫn duy nhất cho cuộc sống (Lenoir 2016, 19-21). 

Ngoài các lý thuyết về hạnh phúc của các triết gia Hy lạp trên, có nhiều lý thuyết khác chú trọng vào các khía cạnh của hạnh phúc. Lucius Seneca (3 BC – AD 65), triết gia sinh tại Tây Ban Nha, lý luận rằng “hạnh phúc thực sự được xây dựng trên đức tính” (Cahn và Vitrano 2008, 43, 51). Lý thuyết mong ước (desire theory) cho rằng hạnh phúc là việc đạt được cái bạn muốn, cho dù cái đó có dính líu đến thú vui hay không (Peterson 2006, 82). Lý thuyết cuộc sống lành mạnh chủ quan (subjective well-being), thỏa mãn cuộc sống (life satisfaction) (Peterson 2006, 84). Immanuel Kant (1724-1804) tin rằng hạnh phúc phải theo lý trí và không có chút ô uế cá nhân. 

John Stuart Mill (1806 – 1873), triết gia Anh, “nhấn mạnh rằng các sự vui thú khác nhau theo định lượng và các sự vui thú cao cả, như niềm vui trí thức, tưởng tượng, và cảm xúc đạo đức, là nguồn gốc của hạnh phúc thực sự, trong khi các sự vui thú thấp kém chỉ là sự hài lòng” (Cahn và Vitrano 2008, 121). Arthur Schopenhauer (1788-1860), triết gia Đức vào thế kỷ thứ 19, tin rằng bản chất con người khiến ta hạnh phúc hoặc không hạnh phúc (Lenoir 2016, 51-52). Thí dụ, một người cảm thấy hạnh phúc khi nhìn lá vàng rơi vào mùa thu. Một người khác, đối diện cùng cảnh tượng, không thấy một chút cảm xúc gì hết, và có thể còn cảm thấy khó chịu.

Những triết gia hiện đại có nhiều tranh cãi về đề tài hạnh phúc. Tôi không muốn đi sâu vào khía cạnh này. Độc giả có thể tra cứu và tìm hiểu thêm qua các tài liệu và sách vở về triết lý hạnh phúc (Xem, thí dụ như, Cahn và Vitrano 2008, Vitrano 2014)

Nói tóm lại, các triết gia, thời xưa và thời nay, hầu như chỉ đồng ý về một điểm: hạnh phúc là mục tiêu quan trọng nhất trong cuộc đời. Ngoài ra, họ không đồng ý với nhau về nhiều điểm. Các điểm tranh cãi chính gồm có: (1) liên hệ giữa hạnh phúc và đạo đức, đức tính; (2) khác biệt giữa hạnh phúc và vui thú; (3) Cách thức đạt được hạnh phúc. Tuy nhiên, những khác biệt này thường không phản ảnh sự đả kích kịch liệt mà chỉ phản ảnh những chú trọng khác nhau. Ngoài ra, đạo đức thường được coi là yếu tố quan trọng trong hạnh phúc

  1. Hạnh phúc qua khoa học:

Khoa học đóng một vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu và tìm hiểu về hạnh phúc. Những ngành khoa học đóng góp trong việc tìm hiểu về hạnh phúc gồm có ngành sinh hóa, y khoa về trí não và tâm thần, ngành tâm lý học, và các ngành khác như khoa học điện toán, vật lý, hóa học. “Khoa học hiện đại cho thấy khả năng tự nhiên của chúng ta về hạnh phúc bị ảnh hưởng bởi sự thừa hưởng di truyền và bởi những bài tiết hóa học trong cơ thể ta” (Lenoir 2016, 67). Trong bài này, tôi sẽ chỉ chú trọng về ngành tâm lý học và y khoa (về bộ não và tâm thần).

  1. a) Tâm lý học tích cực (positive psychology):

Một trong những ngành khoa học đang thịnh hành trong việc tìm hiểu hạnh phúc là ngành tâm lý học tích cực. Đại khái, tâm lý học tích cực là một ngành khoa học nghiên cứu về cuộc đời từ lúc mới sinh ra tới lúc chết, với đề tài về những sự việc khiến đời đáng sống (Peterson 2006, 4).

Tâm lý học tích cực chú trọng vào phát huy những cảm xúc tích cực (có lợi hoặc tốt đẹp) và tiêu diệt hoặc kiềm hãm những cảm xúc tiêu cực (bất lợi hoặc xấu xa). Cảm xúc tích cực đóng vai trò quan trọng trong hạnh phúc. Có nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy cảm xúc tích cực đem lại sung sướng, hài lòng, sức khỏe, và sống lâu. Seligman (2013, 11, 133) xác định sáu đức tính cho nhân cách tích cực: hiểu biết và kiến thức, lòng can đảm, tình yêu thương và nhân bản, công lý, sự điều độ, và duy linh và siêu việt.

Nhiều nhà nghiên cứu tâm lý tích cực đưa ra công thức hạnh phúc: H = S + C + V. Ý nghĩa của các biến số này như sau: H là mức độ hạnh phúc, S là điểm sinh hóa di truyền của bạn, C là các điều kiện, trường hợp, hoặc hoàn cảnh bạn; và V là những hoạt động tự ý hoặc cố tình của bạn (Haidt 2006, 91). Sonja Lyubomirsky, một học giả tâm lý học nổi tiếng, khẳng định các con số này theo phần trăm như sau: S = 50%, C = 10%, và V = 40% (Lyubomirsky 2008, 20). Tuy có tài liệu cho biết S = 25%, C = 10% – 15%, và V = 60% – 65% (Ricard 2007, 170), tôi sẽ dùng các con số của Lyubomirsky. Ba con số này cho thấy số phần trăm của những sự khác biệt giữa các mức độ hạnh phúc của con người do bởi điểm sinh hóa di truyền (S), điều kiện hoặc hoàn cảnh (C), và những hoạt động tự ý hoặc cố tình (V) mỗi người. 

Điểm quan trọng của các con số trên là tiềm năng của V = 40% trong vòng khả năng kiểm soát của chúng ta (Lyubomirsky 2008, 22). Chúng ta sinh ra với bản chất di truyền và nếu không luyện tập, thường khó thay đổi bản chất này. Một người bi quan sống bình thường khó thay đổi để trở thành lạc quan. Tuy nhiên, nếu cố gắng luyện tập chúng ta có thể thay đổi hành vi, lối sống, thói quen, và huấn luyện để gia tăng hạnh phúc, và có thể thay đổi phần nào bản chất di truyền. Ngoài ra, chúng ta còn có 40% để phát huy và tăng cường thêm những cảm xúc. Với 40% này, chúng ta có dịp đạt được hạnh phúc cao nếu biết cách sống và áp dụng những phương pháp tăng cường hạnh phúc. Rất nhiều sách vở, lớp học, chương trình giúp con người gia tăng hạnh phúc trong đời.

Lyubomirsky (2008) liệt kê những hoạt động hạnh phúc mà chúng ta có thể thực hiện trong khả năng 40% trên. Bà đưa ra 12 hoạt động hạnh phúc. Thí dụ, biểu lộ lòng biết ơn, xây đắp niềm lạc quan, tránh né suy nghĩ quá nhiều và so sánh trong xã hội, thực hành các hành động tử tế, thực hành tôn giáo và tâm linh, và chăm sóc cơ thể bạn. 

Argyle (2009, 200-214) trình bày nhiều cách giúp phát huy hạnh phúc: phương tiện tạo phát tâm trạng, biến cố hoặc việc xảy ra trong cuộc sống, và chăm lo hạnh phúc. Thí dụ của các phương tiện tạo phát tâm trạng: Phim truyện, tưởng tượng, âm nhạc, tương tác xã hội (tlđd., 200). Những biến cố hoặc sự việc trong đời (đi du lịch, hôn nhân, sinh con, ra trường) có thể đem lại hạnh phúc lâu dài hoặc tạm thời (tlđd., 203-207). Các cách phát huy hạnh phúc thường có tính chất huấn luyện, tập cho con người có thói quen và hoạt động đều đặn để duy trì tâm trạng khoan khoái, thoải mái, và yêu đời. Thí dụ, nghe nhạc hàng ngày, chạy bộ đều đặn, mỉm cười với mọi người, học một thú tiêu khiển, đi uống cà phê với bạn bè, v.v… (tlđd., 208-213).

Achor (2010) đưa ra 7 nguyên tắc để đạt hạnh phúc. Thí dụ, hoạt động nhắm vào đạt hạnh phúc để luyện tập óc não, dùng trí tuệ thay đổi quan điểm, luyện tập óc não nhắm vào cơ hội, luyện tập và chuẩn bị đối phó với nghịch cảnh hoặc thất bại. 

Hanson (2013, 60-63) đưa ra một hệ thống tiếp thu (internalize) những kinh nghiệm tích cực trong tâm trí. Hệ thống này gồm có 4 bước hoặc giai đoạn: (1) cố có một kinh nghiệm tích cực bằng cách ghi nhận, để ý, hoặc cố tình tạo ra một kinh nghiệm tích cực nào đó (thí dụ, lắng tai nghe một ca khúc êm ái, đi thăm viếng cảnh thiên nhiên); (2) phong phú hóa (enrich) kinh nghiệm tích cực đó (thí dụ, nghe đi nghe lại một ca khúc ưa thích, ngắm cảnh tượng thiên nhiên thật lâu); (3) hấp thụ kinh nghiệm tích cực đó, cố tình khiến kinh nghiệm đó chìm sâu và trở thành một phần của bạn (thí dụ, cố tìm hiểu lới ca, nhịp điệu, và suy nghĩ về cách lựa chọn từ ngữ của nhạc sĩ); (4) kết nối vật liệu tích cực và tiêu cực để làm nổi bật kinh nghiệm tích cực và giảm thiểu hoặc xóa bỏ hoàn toàn những kinh nghiệm tiêu cực. Bạn có thể không cần bước 4, vì ba bước đầu cũng đủ. Ngoài ra, bước 4 thường nguy hiểm vì bạn đang cố xóa bỏ kinh nghiệm xấu bằng cách đối diện nó trực tiếp qua một kinh nghiệm tốt tương ứng, nhưng không có gì bảo đảm là kinh nghiệm tốt sẽ thắng.

  1. b) Bộ não và trí tuệ:

Những phương pháp gia tăng hạnh phúc qua những hành động nhắm vào cảm xúc tích cực thường đòi hỏi bạn có nỗ lực theo đuổi việc đó. Như trình bày ở trên, chúng ta không lựa chọn được hoặc khó làm gì với các bản chất di truyền hoặc sự việc xảy ra theo hoàn cảnh, nhưng chúng ta có khoảng 40% cho hoạt động tự ý hoặc cố tình trong việc thay đổi mức độ hạnh phúc. Câu hỏi là chúng ta có thể hoạt động tự ý hoặc cố tình đi ngược lại với bản chất di truyền hay không? 

Thí dụ, giả sử hà tiện là một đặc tính di truyền và bản chất bạn là hà tiện, chỉ muốn dành dụm tiền bạc cho bạn và gia đình. Bạn có thể tập luyện để trở thành rộng rãi và đem tiền giúp vào các quỹ từ thiện được không? Sẽ có người cho rằng nếu bản chất bạn là hà tiện, thì bạn sẽ không cân nhắc việc đem tiền giúp vào các quỹ từ thiện mà sẽ tìm một hành động tích cực khác. Tuy nhiên, mục đích chính của tâm lý học tích cực là bạn phải cố tìm một hành động tích cực, dù ban đầu bạn không thích lắm, và phát huy hoạt động đó. Ngoài ra, nhiều nghiên cứu khoa học gần đây cho thấy trí tuệ có thể thay đổi cấu trúc bộ não, và do đó tạo nên ảnh hưởng lâu dài nếu trí tuệ được dùng một cách có kỷ luật. Nói một cách dễ hiểu, chúng ta có thể sửa đổi “tính tình” hoặc bản chất mình, hoặc gia tăng và phát huy những đặc tính chưa được khai phá, để có cuộc sống hạnh phúc hơn. 

Thực vậy, khoa học đã chứng minh bộ não con người không cố định mà thay đổi (Xem, thí dụ như, Argyle 2009, Hanson và Mendius 2009, Klein 2006, Schwartz và Begley 2002). Biến tính thần kinh (neuroplasticity) là “khả năng bộ não thay đổi khắp cuộc đời một người. Thí dụ, hoạt động thần kinh liên hệ với một nhiệm vụ nào đó có thể được chuyển sang vị trí khác, tỉ lệ chất xám có thể thay đổi, và các khớp hoặc dây nối thần kinh có thể mạnh mẽ lên hoặc yếu đi theo thời gian (Wikipedia 2018d). Sự thay đổi được tạo ra từ nhiều lý do: cảm giác với môi trưòng, tập thể dục, thuốc điều trị, thiền định, tập luyện nhận thức, và tập luyện trí tuệ. Với mục tiêu trong việc phát huy hạnh phúc, tập luyện trí tuệ là cách thức dễ dàng và hữu hiệu nhất.

Ngoài việc các tế bào não tăng trưởng theo tuổi tác và các yếu tố sinh học khác, các phần của bộ não cũng thay đổi theo trí tuệ. Do đó, “bạn có thể dùng trí tuệ để thay đổi bộ não bạn cho tốt hơn” (Hanson và Mendius 2009, 6). Những khía cạnh chính yếu của khoa học não và trí tuệ về hạnh phúc gồm có: (1) Chúng ta có một “hệ thống hạnh phúc” trong trí não; (2) Chúng ta được chương định (programmed) cho các cảm xúc tốt đẹp; và (3) Bộ não con người có thể thay đổi cho dù trưởng thành (Klein 2006, xv). Những mạch (circuits) trong bộ não chúng ta thay đổi mỗi khi ta học hỏi thêm điều mới lạ và những liên kết mới được rèn luyện trong hệ thống tế bào thần kinh cùa chúng ta (Klein 2006, xvi). Những phần trong bộ óc có nhiều phần liên hệ đến sự phát triển đáp ứng về hưởng thụ, thưởng phạt, kích thích, cảm xúc, và biểu lộ tình cảm gồm có: vùng não dưới (hypothalamus), hạch hạnh nhân (amygdala), vỏ não trước (frontal cortex) (Argyle 2009, 14-15).

Để đạt hạnh phúc, chúng ta phải vận dụng trí tuệ hoạt động nhắm vào các mục tiêu phát huy những cảm xúc tích cực hoặc đem lại những kết quả tốt đẹp cho cuộc sống. Những hoạt động trí tuệ này không chỉ là tạm thời, trong giai đoạn ngắn, mà nên được kéo dài mãi mãi suốt đời. Những người chưa có những hoạt động trí tuệ này cần phải trải qua một thời kỳ huấn luyện để thay đổi trí tuệ. “Khi trí tuệ thay đổi, bộ não cũng thay đổi theo” (Hanson và Mendius 2009, 5). Những hoạt động trí tuệ này nhiều khi dẫn đến những kinh nghiệm mà bạn chưa từng bao giờ trải qua, và có thể bạn cho rằng bạn không thích hoặc không có khiếu về các hoạt động trí tuệ đó. Nên nhớ “hoạt động trí tuệ” không nhất thiết là hoạt động dùng trí não, nhưng là những hoạt động, trí não hoăc tay chân, đem lại những cảm xúc tích cực nào đó. Thí dụ, đi bộ dọc theo một con rạch với nước trong veo chảy róc rách là một hoạt động tay chân, nhưng việc đó đem lại một cảm xúc thanh bình và sảng khoái.

Ngoài ra, những kinh nghiệm tích tụ trong cuộc sống sẽ chạm trổ bộ não của bạn, và do đó uốn nắn trí tuệ bạn. Bạn sẽ không ý thức hầu hết tiến trình uốn nắn này (Hanson và Medius 2009, 67). Hoạt động tinh thần uốn nắn cơ cấu thần kinh theo nhiều cách. Thí dụ, khi các tế bào thần kinh (neurons) bắn hoặc kích động (fire) cùng lúc, chúng củng cố các khớp, hoặc dây nối, thần kinh (synapse) hiện có và tạo thêm synapses mới. Những synapses nào không hoạt động nhiều sẽ dần dần bị mất đi (Hanson và Mendius 2009, 72).

Một trong những phương pháp giúp cho sự thăng bằng trí tuệ và giúp cho bộ não trở nên tốt đẹp là thiền định (meditation). Thiền định đem lại những hậu quả tốt đẹp cho cơ thể và trí tuệ chúng ta. Những hậu quả tốt đẹp này gồm có: gia tăng chất xám trong các phần của bộ não; gia tăng các chức năng tâm lý về chú ý, lòng từ bi, và cảm thông; làm giảm cortisol liên hệ tới sự căng thẳng trong cuộc sống; tăng cường hệ thống miễn nhiễm; và giúp trong nhiều tình trạng y học (Hanson và Mendius 2009, 85).

  1. Hạnh phúc qua tôn giáo:

Sư hiểu biết của tôi chỉ dựa vào sách vở và tài liệu, và không phải do thực hành tôn giáo. Do đó, phần trình bày có thể thiếu sót. Rất mong độc giả thứ lỗi.

Các tài liệu gốc về Ki-tô giáo và Phật giáo thường được viết bằng ngôn ngữ lúc hai tôn giáo này được truyền bá lúc bấy giờ. Kinh thánh trong Ki-tô giáo được dịch từ tiếng Hebrew và qua nhiều ngôn ngữ khác như Hy lạp. Việc chuyển dịch một số từ ngữ sang tiếng Anh và tiếng Việt nhiều khi không được chính xác và không lột rõ hoàn toàn ý nghĩa. Thí dụ, “compassion” có nhiều nghĩa và có thể được dịch sang tiếng Việt là lòng thương người, nhân ái, từ bi, cảm thông, trắc ẩn. Thực ra, “compassion” cũng không hẳn chính xác khi được dịch từ tiếng Phạn Sankrit hoặc Nam Phạn Pali (Karuṇā) trong Phật giáo (Wikipedia 2018e) hoặc tiếng Hebrew (hamal, rachuwm) hoặc Hy Lạp (splanchnisomai) trong Ki tô giáo (Xem, Bible Study Tools). Trong bài này, tôi sẽ dùng lòng trắc ẩn và cảm thông (Ki-tô giáo), lòng từ bi và cảm thông (Phật giáo) cho compassion.

Hầu như tôn giáo nào cũng nhắm vào hạnh phúc con người, tuy từ ngữ “hạnh phúc” đôi khi không nêu ra rõ rệt. Vì giới hạn chiều dài bài, tôi không thể thảo luận mọi tôn giáo, mà chỉ có thể đề cập đến Ki-tô giáo và Phật giáo. 

  1. a) Ki tô giáo:

Khi những tín đồ Ki-tô giáo muốn học hỏi về hạnh phúc, họ đọc Kinh thánh, nhất là các sách Phúc âm (Wadell 2016, 2). Nhiều học giả và những nhà nghiên cứu thần học, kể cả Đức Giáo Hoàng Francis, Đức Giáo Hoàng thứ 266 của Công giáo, diễn giải rằng hạnh phúc được nhắc nhở và gói ghém đầy rẫy qua lời của Đức Chúa Trời và Chúa Giê-su với nhiều từ ngữ liên hệ đến hạnh phúc. 

Đại khái, hạnh phúc có thể được diễn tả bằng sự hân hoan, mừng rỡ, vui thích, khoái cảm, và hưởng phước lành. Alcorn (2015, 38-44), linh mục và tác giả về Kinh thánh và thần học, tin rằng nỗi hân hoan (joy), từ ngữ dùng nhiều trong Kinh thánh, có cùng ý nghĩa với niềm hạnh phúc (happiness) mặc dù nhiều học giả khác diễn giải ngược lại và còn coi niềm hạnh phúc tệ hơn hân hoan. Ngoài ra, hưởng phước lành (blessed) cũng đồng nghĩa với hạnh phúc (Alcorn 2015, 185-195; Pope 2017, 41).

Theo nhiều học giả, Kinh thánh cho thấy Đức Chúa Trời muốn chúng ta hạnh phúc. “Đức Chúa Trời cho thấy rõ rằng tìm hạnh phúc – hoặc niềm vui, thích thú, thú vui – qua tội lỗi thì sai lầm và vô ích. Nhưng tìm hạnh phúc trong Ngài thì tốt đẹp và đúng” (Alcorn 2015, 19). Saint Augustine (354-430) coi hạnh phúc là niềm hân hoan về chân lý. Augustine tin hạnh phúc không nằm với con người. Tìm kiếm Đức Chúa Trời là con đường đi đến hạnh phúc (Wadell 2016, 7-16). C.S. Lewis (1898-1963), một học giả gốc Ái Nhĩ Lan nổi tiếng, viết, “Nếu bạn sống cho chính bạn, trong dài hạn, bạn sẽ chỉ thấy hận thù, nỗi cô đơn, tuyệt vọng, cơn giận dữ, sự suy đồi, và mục nát. Nếu bạn đi tìm Đức Chúa Trời và bạn sẽ thấy được Ngài, và với Ngài. bạn đều hưởng được mọi việc” (Muehlenberg 2014).

Nhưng thế nào là đi tìm Đức Chúa Trời? Ai cũng hiểu từ ngữ “đi tìm Đức Chúa Trời” là một ẩn dụ cho việc thực hành theo ý Đức Chúa Trời qua lời giảng dạy của Chúa Giê-su, hoặc noi gương Chúa Giê-su. Augustine tin rằng “[y]êu kính Đức Chúa Trời hết lòng và trung thành là cuộc đời hạnh phúc vì Đức Chúa Trời là sự hoàn hảo và là điều thiện cao quý và tuyệt diệu nhất” (Wadell 2016, 12). Thomas Aquinas (1225-1274) tuyên bố rằng người hạnh phúc là người có được sự tốt đẹp cao quý nhất, và sự tốt đẹp đó chỉ có thể tìm thấy được ở Đức Chúa Trời (tlđd., 20). Aquinas “kết nối hạnh phúc với cuộc sống môn đệ, cuộc sống đi theo, học hỏi từ, và noi theo gương Chúa Giê-su” (tlđd.,, 24).

Đức Giáo Hoàng Francis (Pope 2017, 41) giảng dạy, “Chữ ‘hưởng phước lành,’ có nghĩa ‘hạnh phúc,’ xuất hiện chín lần trong Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giê-Su, bài giảng vĩ đại đầu tiên của Người (Matthews 5:1-12). Chữ đó như là một điệp khúc nhắc nhở chúng ta về lời kêu gọi của Đức Chúa Trời đi tới trước cùng với Người trên con đường dẫn đến hạnh phúc, cho dù có nhiều thử thách.” Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giê-su (Matthew 5:1-12), do đó, gói ghém “kim chỉ nam” cho việc tìm hạnh phúc. Theo đó, chúng ta phải có thái độ ôn hòa, khao khát cho công chính, có lòng thương xót con người, chấp nhận mọi ngược đãi gây ra vì việc làm công chính của mình. “Chúng ta phải chịu nghèo, tang tóc, ngược đãi, và những nỗi khổ đau tương tự, thì chúng ta mới thấy được Đức Chúa Trời và hạnh phúc. Như Chúa Giê-su nói nhiều lần, chúng ta phải tự chối bỏ chính mình” (Muehlenberg 2014).

Nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng than khóc, chịu nghèo túng, chấp nhận sỉ nhục. Đức Chúa Trời muốn chúng ta hưởng hạnh phúc qua những hành động hoặc thực hiện những công việc tốt đẹp như hôn nhân, ăn mừng, tiệc tùng, cười đùa, nhảy múa, ca hát, và hưởng các thú vui (Alcorn 2015, 225-232; 295-303). Kinh thánh đầy rẫy những hình ảnh vui thú, tiệc tùng, nhảy múa. Thí dụ như, “Và David nhảy múa trước Đức Chúa Trời” (2 Samuel 6:12-14), “Bò hoặc cừu hoặc rượu mạnh, bất cứ gì con thèm. Và con sẽ ăn trước Đức Chúa Trời và hoan hỉ” (Deuteronomy 14:24-26), “Bánh mì tạo ra cho tiếng cười, và rượu khiến đời vui lên” (Ecclesiastes 10:19), “Mọi người hãy vỗ tay! La hét với những ca khúc hân hoan náo nhiệt tới Đức Chúa Trời” (Psalm 47:1).

Đi tìm hạnh phúc là một cuộc hành trình phát huy những đức hạnh và tiêu diệt tội lỗi. “Cuộc đời tín đồ Ki-tô giáo là một cuộc hành hương, một cuộc tìm kiếm khám phá dần dần với nơi đến là sự gần gũi thiêng liêng mãi mãi với Đức Chúa Trời” (Wadell 2016, 86). Để hoàn tất cuộc hành trình, chúng ta phải có được những đức hạnh. “Chúng ta ai cũng có khuynh hướng thiện, nhưng có khuynh hướng thiện không đủ vì nó không bảo đảm chúng ta sẽ thực sự làm việc thiện, nhất là khi việc đó tốn kém hoặc khó khăn” (tlđd., 94-95). Chúng ta phải hành xử thiện theo một cách nào đó qua thời gian, khiến việc đó trở thành một thói quen (tlđd.),

Những đức hạnh nào cần thiết cho cuộc hành trình đi tìm Đức Chúa Trời? Có nhiều đức hạnh, nhưng sau đây là những đức hạnh quan trọng nhất: lòng cao thượng (magnanimity), lòng can đảm (courage), lòng trắc ẩn và cảm thông (compassion) (tlđd., 99-110). Một người cao thượng là người có tinh thần cho các hành vi cao quý, thí dụ như yêu thương, phục vụ, trung thành, hy sinh, và rộng rãi (tlđd., 99-100). Lòng can đảm không để nỗi sợ hãi điều khiển mình, và cho chúng ta sức mạnh để làm liều cho dù tự đặt mình vào nguy hiểm cho những việc thực sự quan trọng (tlđd.,, 102-103). Lòng trắc ẩn và cảm thông giúp chúng ta hiểu được nỗi đau khổ của người khác. “Đối với tín đồ Ki-tô giáo, lòng trắc ẩn và cảm thông không phải là một đức hạnh không bắt buộc mà là một cách hoàn hảo để noi gương Đức Chúa Trời” (tlđd., 109).

Ngoài những đức hạnh chính yếu trên, Kinh thánh vạch ra thực hành những đức hạnh khác. Thí dụ, tự kềm chế (Proverbs 25:28; 2 Peter 1:5-6); dâng hiến cuộc đời cho hạnh phúc người khác (Luke 6:31; Isaiah 58:10-11; Philippians 2:3-4); thí dụ “Đừng làm việc gì vì ưa tranh cãi hay vì tự cao, nhưng hãy khiêm nhường xem người khác cao hơn mình. Đừng chỉ quan tâm đến lợi ích của riêng mình, mà cũng quan tâm đến lợi ích của người khác nữa” (Philippians 2:3-4); bày tỏ lòng biết ơn; thí dụ, “cám ơn trong mọi trường hợp” (1 Thessalonians 5:18).

Một điểm chắc chắn là chỉ có chúng ta, với nỗ lực bản thân trong việc đi tìm hạnh phúc qua việc đi theo Đức Chúa Trời, mới có thể có hạnh phúc. Chúng ta không thể có hạnh phúc qua những phương tiện vật chất. “Hạnh phúc không thể mua được.” (Pope 2017, 18). Ngoài ra, trong việc “đi tìm Đức Chúa Trời,” chúng ta không nên trì hoãn. Chúng ta phải có can đảm hành động ngay tức khắc.”Hôm nay là thời gian cho hành động và thời gian cho lòng can đảm” (Pope 2017. 15). 

  1. b) Phật giáo:

Nhiều học giả coi Phật giáo không phải là một tôn giáo, và là một ngành triết lý sâu xa về con người và cuộc đời. Phật giáo khuyến khích con người không dựa duy nhất vào niềm tin và không đòi hỏi tin vào Thượng Đế (Hanson và Mendius 2009, 8). “Ý tưởng về Thượng Đế và ý tưởng về linh hồn là dấu hiệu của ngu si. Các ý tưởng này sai lầm và rỗng tuếch” (Dalai Lama và Carrière 2001, 58).

Phật giáo nói đến hạnh phúc một cách rõ rệt và vạch ra những phương pháp để đạt hạnh phúc (Dalai Lama và Chodron 2017, 4-5). Một tiền đề của Phật Giáo về hạnh phúc là “mục đích của sự hiện hữu con người là đi tìm hạnh phúc” (Dalai Lama và Cutler 2009, 16, 62). “Hạnh phúc thực sự đến từ sự thanh thản của tâm trí. Cách duy nhất để đạt được hạnh phúc là có lòng vị tha và từ bi” (Dalai Lama và Chan 2014, 229). 

Hạnh phúc thực ra là trạng thái trí tuệ (state of mind). Nói cách khác, chính trí óc, không phải các yếu tố bên ngoài, tạo ra hạnh phúc (Dalai Lama và Cutler 2009, 20; Haidt 2006, 87). Thí dụ, tiền bạc, một yếu tố bên ngoài, tự nó không đem lại hạnh phúc. Chỉ vì trí óc con người nghĩ đến việc dùng tiền bạc để giải quyết các vấn đề khó khăn (thí dụ, trả tiền nhà, chi phí y tế, mua xe) hoặc để thỏa mãn những ham muốn vật chất (thí dụ, nhà cao cửa rộng, ăn ngon mặc đẹp) nên con người tưởng rằng tiền bạc đem lại hạnh phúc. Một thí dụ khác, một lực sĩ điền kinh luyện tập cực khổ cho Thế Vận Hội. Chương trình luyện tập rất khó khăn, thường khiến người lực sĩ đau đớn thể xác, nhưng anh ta vẫn cảm thấy hạnh phúc. Cái cảm nhận hạnh phúc đó đến từ trí óc, và hoàn toàn không dính líu gì đến các yếu tố bên ngoài như tiền bạc, chức vị, thể xác. 

Do đó, để đạt hạnh phúc, nghĩa là đạt mục đích sống, chúng ta chỉ cần biết vận dụng trí óc. Con người có thể huấn luyện trí tuệ cho hạnh phúc. Tiến trình này có ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là học hỏi (learning) (Dalai Lama và Cutler 2009, 38, 220). Giai đoạn thứ hai là phát huy niềm tin (conviction) và kiên trì (determination). Giai đoạn thứ ba là hành động (action) qua nỗ lực (effort) (tlđd., 220). Để thực hiện tiến trình này, chúng ta phải có ý muốn mạnh mẽ. Ngoài ra, trí tuệ con người có khả năng tiếp nhận các quan điểm để đối phó nhiều vấn đề khác nhau. Thiền định là cách đối thoại tinh thần trong việc tiếp nhận các quan điểm cho nhiều trường hợp (tlđd., 234).

Một khái niệm căn bản trong Phật giáo là mọi việc trên đời đều có liên hệ lẫn nhau. Việc gì cũng có nguyên do (“nhân”) và hậu quả (“quả”). Mọi việc trong vũ trụ đều có liên hệ và tùy thuộc lẫn nhau. Không có gì tự dưng mà thành hoặc tự dưng biến mất (Ricard 2007, 63-64). Vì vậy, nỗi đau khổ của con người có lý do. Muốn đạt hạnh phúc, con người phải tiêu diệt nỗi khổ. Tứ diệu đế, hoặc bốn chân lý cao quý, là 4 chân lý về nỗi khổ và gồm có: Khổ đế (chân lý về các nỗi khổ), Tập đế (chân lý về nguồn gốc các nỗi khổ), Diệt đế (chân lý về diệt khổ), và Đạo đế (chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ) (Batchelor 2015, 68; Dalai Lama và Chodron 2014, 39-59; Dalai Lama và Chodron 2017, 27-30; Keown 2013, 48-60; Wikipedia 2018f). Để đối phó với những nỗi khổ sẽ xảy ra (thí dụ, bệnh hoạn, chết), con người phải tập luyện và chuẩn bị dùng nhiều phương pháp. Thí dụ, dùng hình ảnh tâm trí, phát huy lòng yêu thương và lòng từ bi và cảm thông, và phát triển sức mạnh bên trong (Ricard 2007, 73).

Hạnh phúc và lòng từ bi và cảm thông (compassion) là hai khái niệm liên hệ chặt chẽ (Dalai Lama và Cutler 2009, xxvii). Với lòng từ bi và cảm thông, con người có thể phát huy những tình cảm tích cực như lòng tử tế, thương người, và thông cảm, và tiêu hủy hoặc làm suy yếu những trạng thái tiêu cực như giận dữ, hận thù, lo lắng, sợ hãi (Dalai Lama và Cutler 2009, 243). Những tình cảm tích cực phù hợp với bản chất con người, đem lại sức khỏe tinh thần và vật chất, và do đó đem lại hạnh phúc. Ngược lại, những phản ứng tiêu cực có thể phá hoại sức khỏe, và do đó làm suy giảm hạnh phúc (tlđd., 53-54, 242). Ta thấy về khía cạnh này, tâm lý học tích cực, Ki-tô giáo, và Phật giáo, trình bày ở trên, có nhiều điểm tương đồng.

Một cách phát huy lòng từ bi và cảm thông là hiểu được nỗi đau khổ của người khác. Ráng đặt mình vào vị trí người khác để cảm nhận nỗi đau khổ của người đó (tlđd., 88-89). Việc đó không dễ dàng nhưng bằng cách tập luyện qua suy tưởng dựa vào tính chất tương đồng của con người giữa mình và người đó, ta có thể thông cảm người khác (tlđd., 90). Ngoài ra, hạnh phúc và lòng vị tha (altruism) liên hệ mật thiết. Lòng ích kỷ là lý do chính yếu của sự đau khổ trong khi tình thương yêu vị tha là thành phần thiết yếu cho hạnh phúc thực sự (Ricard 2007, 203). Lòng từ bi và cảm thông còn giúp phát huy những đức tính khác như lòng can đảm, tự tin, hy vọng (Dalai Lama và Chodron 2017, 64-65)

Bên cạnh việc phát huy lòng từ bi và cảm thông, chúng ta cần phải tiêu diệt những nỗi khổ tạo ra bởi những cảm xúc tiêu cực. Nỗi khổ của con người thường do bởi tam độc (three poisons) gồm có: tham (attachment, greed, desire), sân (aversion, hatred), và si (delusion, ignorance) (Dalai Lama và Chodron 2017, 46-48; Tsering 2006, 45-54). Tham hoặc ham muốn thường do bởi những kỳ vọng thiếu thực tế (Dalai Lama và Chodron 2017, 47). Ham muốn phóng đại phẩm chất của vật ham muốn và do đó dễ gây ra bất mãn, nhất là sau khi đã đoạt được vật đó. Cứ thế, ta cứ luẩn quẩn trong bất mãn và ham muốn càng gia tăng (Tsering 2006, 53). Sân (giận dữ và thù ghét) là lực cản trở nhiều nhất trong việc phát huy lòng từ bi và chúng phá hủy sự phẳng lặng trí tuệ (Dalai Lama và Cutler 2009, 248; Tsering 2006, 65-80). Giận dữ có thể tích cực khi nó được thúc đẩy bởi ý thức trách nhiệm, nhưng thù ghét chẳng có lợi gì cả và luôn luôn tiêu cực. Chúng ta cần phải phát huy liều thuốc trị thù ghét. Hai liều thuốc đó là kiên nhẫn (patience) và chịu đựng hoặc nhẫn nhịn (tolerance) (Dalai Lama và Cutler 2009, 249). Si hiện hữu dưới nhiều hình thức như ngu dốt, nghi ngờ, đau buồn, khủng hoảng tinh thần, nghiện ngập, kiêu hãnh, tự cao, coi trọng bản ngã, sợ hãi và lo lắng (Tsering 2006, 60-62; Ricard 2007, 211). Đặc biệt, sợ hãi và lo lắng là hai cảm xúc tiêu cực và cần được khống chế. Để khống chế hoặc làm suy giảm chúng, ta cần có động cơ thích đáng và lòng chân thành. Một khi chúng ta phát triển động cơ tinh khiết và chân thành qua lòng tử tế, từ bi, thì chúng ta chẳng còn biết sợ hãi hoặc lo âu (Dalai Lama và Cutler 2009, 272-273).

Ngoài ra, một yếu tố quan trọng trong việc phát huy ý muốn mạnh mẽ là ý thức khẩn cấp (sense of urgency) (tlđd., 221). Chính cái ý thức khẩn cấp đó cho chúng ta một năng lực vĩ đại để chống lại mọi cản trở. Chúng ta thấy khái niệm khẩn cấp này cũng hiện diện trong lý thuyết Ki-tô giáo. 

Nói tóm lại, Phật giáo chủ trương con người có thể đạt được hạnh phúc bằng cách tận dụng trí tuệ, trau giồi và phát huy các cảm xúc tích cực và tốt đẹp (thí dụ, lòng từ bi, cảm thông, vị tha, khiêm tốn) và khống chế, tiêu diệt các cảm xúc tiêu cực xấu xa (thí dụ, ham muốn, giận dữ, thù ghét, kiêu hãnh, ích kỷ, sợ hãi, lo lắng). Giống như ngành tâm lý học tích cực và một số lý thuyết triết học về đức hạnh, và Ki-tô giáo, Phật giáo thúc đẩy con người hướng thiện bằng cách thực hiện việc này với ý thức sâu xa và mạnh mẽ, và luyện tập trí tuệ trong một tiến trình có kỷ luật.

  1. Thực hành việc tìm hạnh phúc trong xã hội:

Các quan điểm triết lý, khoa học, và tôn giáo về hạnh phúc trình bày ở trên có khá nhiều điểm tương đồng. Chúng cho chúng ta một khái niệm khá rõ ràng về hạnh phúc và phương pháp đạt hạnh phúc. Có hai khía cạnh trong việc áp dụng các học thuyết này: cá nhân và xã hội.

  1. a) Cá nhân:

Về phương diện cá nhân, chúng ta có thể áp dụng phương pháp nào thích hợp nhất với mình trong việc gia tăng hạnh phúc. Sự lựa chọn tùy vào xã hội chúng ta đang sống. Các phương pháp giúp phát huy hạnh phúc có vài chú trọng khác nhau, nhưng tựu trung cổ võ việc luyện tập trí tuệ. Luyện tập trí tuệ để phát huy các cảm xúc tích cực hoặc đức hạnh không phải là việc dễ. Tuy nhiên, chúng ta không cần sửa đổi thật nhiều trong thời gian ngắn. Chúng ta có thể tự đặt ra những bước nhỏ, rèn luyện với thời gian, và gia tăng cường độ dần dần.

Chúng ta cần biết rằng phát huy các cảm xúc tích cực hoặc đức hạnh không có nghĩa khiến chúng ta trở nên quá hiền lành, bạc nhược, hoặc hèn hạ. Ngược lại nữa là khác. Khi chúng ta luyện tập để có trí tuệ minh mẫn, mở lòng từ bi và cảm thông, diệt trừ sợ hãi, gần gũi với tâm linh siêu việt, chúng ta phát huy một ý chí mạnh mẽ và sức mạnh tinh thần. Lòng can đảm và chí khí được nung nấu, vì chúng ta biết lẽ phải thuộc về mình, và không có một bạo lực bất chánh nào có thể làm lung lay mình được.

  1. b) Xã hội:

Các lý thuyết về hạnh phúc không đặt nặng vào hạnh phúc của một cộng đồng, xã hội, dân tộc, hoặc quốc gia, và đều dựa vào một giả thiết căn bản: Cá nhân đang tìm hạnh phúc đó là người sống trong một xã hội ổn định, thanh bình, và trong một quốc gia có chính phủ thực sự lo lắng cho cuộc sống người dân, và cá nhân đó không phải lo âu về các tự do căn bản và quyền con người. 

Tuy nhiên, khi xã hội hỗn loạn, suy đồi, và chính phủ tham nhũng, cướp bóc dân, và công dân trong nước không có các tự do căn bản và quyền con người, thì cá nhân khó có thể theo đuổi mưu cầu hạnh phúc cho mình được. Thí dụ, dưới nền giáo dục nhồi sọ, dối trá lịch sử, tin tức bưng bít, truyền thông kiểm duyệt, bạn không thể nào thoả mãn kiến thức, theo đuổi những hoạt động văn chương nghệ thuật một cách tự do. Trong một xã hội không có công lý, luật lệ tuỳ nghi áp dụng, bắt bớ dựa vào những điều luật mơ hồ, bạn không thể nào theo đuổi công lý. Trong một môi trường ô nhiễm, sông ngòi dơ bẩn, đất đai đầy rẫy chất thải, cá chết khắp nơi, bạn không thể thưởng thức thiên nhiên trong sạch. Hàng ngày, bạn phải đối phó với biết bao nhiêu phiền toái, đường phố ồn ào, náo nhiệt, xe cộ kẹt cứng, cướp giựt, cảnh sát giao thông hạch hỏi vô cớ, lo tiền đóng lộ phí, v.v… và bạn sẽ không còn thì giờ và sức lực để theo đuổi những hoạt động tích cực, thanh nhã.

Việt Nam hiện nay là một quốc gia có xã hội bi đát như trên và do đó người dân rất khó theo đuổi hạnh phúc một cách tự do và theo ý muốn cá nhân được. Sẽ có người không đồng ý và cho rằng ảnh hưởng của hoàn cảnh hay tỉnh trạng chỉ đóng góp 10% cho hạnh phúc dựa vào công thức về hạnh phúc trong ngành tâm lý học tích cực. Do đó, cho dù NCQCS Việt Nam có những lỗi lầm trên, dân Việt chỉ bị mất đi 10% mà thôi. Ngoài ra, những người này có thể lý luận sự kiện dân Việt Nam xếp hạng 94 trong số 155 quốc gia, theo bảng xếp hạng SDSN, hoặc 74 trong số 158 quốc gia, theo bảng xếp hạng RV, cho thấy người dân có hưởng phần nào hạnh phúc tuy xếp hạng dưới trung bình. 

Các lý luận này hoàn toàn sai lầm vì NCQCS không những lấy đi 10% do hoàn cảnh và tình trạng, mà còn triệt tiêu cả 40% do các hoạt động cá nhân cố tình, và có thể tạo nên những hậu quả tiêu cực khiến phần di truyền 50% còn bị suy kém nhiều. Việc xếp hạng 94/155 hoặc 74/158 là nhờ bản chất lạc quan và/hoặc sức chịu đựng của dân Việt là tính chất di truyền đóng góp vào mức độ cảm nhận hạnh phúc. Nếu không nhờ bản chất lạc quan và/hoặc sức chịu đựng này, dân Việt còn xếp hạng thấp hơn nữa.

Tuy nhiên, tình trạng không đến nỗi tuyệt vọng. Người dân Việt Nam, nhất là giới trẻ, nên cố tìm hạnh phúc cho chính mình được phần nào hay phần nấy, và chuẩn bị cho cuộc nổi dậy để khôi phục lại chính nghĩa và những gì tốt đẹp của đất nước. Chỉ khi nào chế độ cộng sản sụp đổ, người dân Việt Nam mới có thể đạt được hạnh phúc hoàn toàn.

Việt Nam vẫn còn có nhiều cơ hội giúp tuổi trẻ phát huy những cảm xúc tích cực và tiêu diệt những cảm xúc tiêu cực. Thí dụ, với lòng trắc ẩn từ bi và cảm thông, tuổi trẻ có thể nung nấu lòng can đảm, rèn luyện ý chí tự tin, và hủy diệt sợ hãi và hèn nhát. Tuổi trẻ cần phải tìm hiểu sự thật về lịch sử, về bản chất lừa đảo và tàn bạo của chế độ cộng sản, và trân trọng những hy sinh cao quý của dân tộc, kể cả cuộc chiến đấu oai dũng của miền Nam và thể chế Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), trong cuộc chiến chống lại sự xâm lăng của cộng sản miền Bắc với sự hợp tác của cộng sản miền Nam, theo lệnh Nga Tàu. Hãy lắng tai nghe những bài hát thời VNCH, tìm hiểu lời ca ý nhạc và so sánh với những ca khúc cộng sản. Hãy đọc các tài liệu về tội ác cộng sản, về cuộc cải cách ruộng đất trong thập niên 1950, cuộc thảm sát Tết Mậu Thân tại Huế. Hãy quan sát những tệ trạng xã hội hiện nay, tình trạng giáo dục, ô nhiễm môi trường, tham nhũng. Đó là những hoạt động phát huy những cảm xúc tích cực và tiêu hủy những cảm xúc tiêu cực.

  1. Kết Luận:

Hầu hết mọi quan điểm triết lý, khoa học, và tôn giáo đều coi hạnh phúc là mục tiêu của cuộc sống. Có nhiều cuộc thăm dò và nghiên cứu về hạnh phúc cho cá nhân và so sánh các quốc gia trên thế giới. Khoa học cho thấy trí tuệ và bộ óc ảnh hưởng lẫn nhau. Do đó, những phương pháp vận dụng trí tuệ trong việc gia tăng hạnh phúc có thể cải thiện cơ cấu óc não và giúp cho việc duy trì hạnh phúc lâu dài.

Trong xã hội suy đồi, tham nhũng, kẻ cầm quyền cướp bóc dân, và công dân không có các tự do căn bản và quyền con người như Việt Nam, người dân Việt rất khó phát huy hạnh phúc chân chính. Tuy nhiên, tuổi trẻ là nguồn hy vọng lớn lao cho đất nước, và có thể gây dựng một lực lượng đấu tranh đáng kể chống lại chế độ cộng sản. Trong bài kế tiếp, tôi sẽ khai triển vấn đề về các phương pháp đấu tranh để đem lại hạnh phúc cho toàn dân, khi người dân bị kẻ cầm quyền đàn áp và tước đi những quyền căn bản của con người.

*

Tài Liệu Tham Khảo:

tlđd.: tài liệu đã dẫn, thay cho “sđd.” (sách đã dẫn) để chỉ tài liệu (sách, trang mạng, liên lạc riêng, v.v.) đã trích dẫn xuất hiện ngay trước trích dẫn này.

Achor Shawn. 2010. The Happiness Advantage. The Seven Principles that Fuel Success and Performance at Work. The Virgin Books. Random House, Inc., New York, NY., U.S.A.

Alcorn, Randy. 2015. Happiness. Tyndale House Publishers. Carol Stream, IL., U.S.A.

Argyle, Michael. 2009. The Psychology of Happiness. Reprinted 2nd edition. Routledge. East Sussez U.K.

Batchelor, Stephen. 2015. After Buddhism. Rethinking the dharma for a secular age. Yale University Press. New Haven, CT., U.S.A.

Cahn, Steven M. và Vitrano, Christine. 2008. Happiness. Classic and Contemporary Readings in Philosophy. Oxford University Press. New York, NY., U.S.A.

Dalai Lama, His Holiness The và Cutler, Howard C. 2009. The Art of Happiness, 10th Anniversary Edition. Hodder & Stoughton Ltd. London, U.K.

Dalai Lama, The và Chan, Victor. 2014.The Wisdom of Compassion – Stories of Remarkable Encounters and Timeless Insights. Riverhead Books, New York, NY. U.S.A.

Dalai Lama, The và Chodron, Thubten. 2014. Buddhism. One Teacher; Many Traditions.Wisdom Publications, Somerville, MA., U.S.A.

Dalai Lama, The và Chodron, Thubten. 2017. Approaching the Buddhist Path. Wisdom Publications, Somerville, MA., U.S.A.

Dalai Lama, His Holiness The và Carrière, Jean-Claude. 2001. Violence & Compassion – Dialogues on Life Today. Image Books, Doubleday, New York, NY., U.S.A.. 

Haidt, Jonathan. 2006. The Happiness HypothesisFinding Modern Truth in Ancient Wisdom. Basic Books. New York, NY, U.S.A.

Hanson, Rick. 2013. Hardwiring HappinessThe new brain science of contentment, calm, and confidence. Harmony Books, New York, NY., U.S.A.

Hanson, Rick và Mendius, Richard. 2009. Buddha’s Brain. The practical neuroscience of happiness, love, and wisdom. New Harbinger Publications, Inc., Oakland, CA., U.S.A.

Keown, Damien. 2013. Buddhism. A very short introduction. Oxford University Press. Oxford, U.K.

Klein, Stefan. 2006. The Science of Happiness. Translated by Stephen Lehmann. De Capo Press, Cambridge, MA., U.S.A.

Lenoir, Frédéric. 2016. Happiness. A philosopher’s guide. Translated by Andrew Brown. Melville House Publishing. Brooklyn, NY., U.S.A.

Lyubomirsky, Sonja. 2008. The How of Happiness. A New Approach to Getting the Life You Want. Penguin Books. New York, NY., U.S.A.

Peterson, Christopher. 2006. A Primer in Positive Psychology. Oxford University Press. New York, NY., U.S.A.

Pope Francis. 2017. Happiness in this life. Translated from the Italian by Oonagh Stransky. Random House, New York, NY., U.S.A.

Ricard, Matthieu. 2007. Happiness – A guide to developing life’s most important skill. Translated by Jesse Browner. Little, Brown, and Company. New York, NY., U.S.A.

Schwartz, Jeffrey M. và Begley, Sharon. 2002. The Mind & The Brain.Neuroplasticity and the Power of Mental Force. HarperCollins Publishers. New York, NY., U.S.A.

Seligman, Martin E.P. 2013. Authentic Happiness. Using the new positive psychology to realize your potential for lasting fulfillmemt. Simon & Schuster, New York, NY, U.S.A.

Tsering, Geshe Tashi. 2006. Buddhist Psychology. The foundation of Buddhist thought. Volume 3. Wisdom Publications, Somerville, MA., U.S.A.

Vitrano, Christine. 2014. The nature and value of happiness. Westview Press. Boulder, CO., U.S.A.

Wadell, Paul J. 2016. Happiness and the Christian Moral Life. An introduction to Christian ethics. Third Edition. Rowman & Littlefield. Lanham. MD., U.S.A.

NGUỒN INTERNET

Cần lưu ý rằng nguồn Internet có thể không vĩnh viễn. Một blog có thể gỡ bỏ bởi tác giả, một bài báo có thể bị xóa, hoặc một Website có thể bị đóng cửa.

Bible Study Tools. Không rõ ngày. Compassion. Không rõ ngày. https://www.biblestudytools.com/dictionary/compassion/ (truy cập 15-2-2018).

Helliwell, John; Layard, Richard; và Sachs, Jeffrey (Eds). 2017. World Happiness Report. Sustainable Development Solutions Network, U.S.A. https://s3.amazonaws.com/sdsn-whr2017/HR17_3-20-17.pdf (truy cập 15-2-2018).

Lewis, Martin W. 2010. The Misleading Ecological Footprint Model. 23-11-2010. http://www.geocurrents.info/economic-geography/the-misleading-ecological-footprint-model (truy cập 15-2-2018). 

Muehlenberg, Bill. 2014. C. S. Lewis on Real Happiness and Real Christianity.CultureWatch. 30-1-2014. https://billmuehlenberg.com/2014/01/30/c-s-lewis-on-real-happiness-and-real-christianity/ (truy cập 12-2-2018).

New Economics Foundation (NEF). 2012. Happy Planet Index: 2012 Report. 14-6-2012. http://neweconomics.org/2012/06/happy-planet-index-2012-report/ (truy cập 15-2-2018).

_________. 2016. The Happy Planet Index 2016. A global index of sustainable wellbeing. https://static1.squarespace.com/static/5735c421e321402778ee0ce9/t/57e0052d440243730fdf03f3/1474299185121/Briefing+paper+-+HPI+2016.pdf (truy cập 15-2-2018).

Pearce, Fred. 2013. Admit it: we can’t measure our ecological footprint. 20-11-2013. https://www.newscientist.com/article/mg22029445-000-admit-it-we-cant-measure-our-ecological-footprint/ (truy cập 15-2-2018).

POH (The Pursuit of Happiness). a. Socrates. Không rõ ngày. http://www.pursuit-of-happiness.org/history-of-happiness/socrates/ (truy cập 15-2-2018)

_________. b. Aristotle. Không rõ ngày. http://www.pursuit-of-happiness.org/history-of-happiness/aristotle/ (truy cập 15-2-2018).

Rampell, Catherine. 2009, The Happy Planet Index. Economix. 6-7-2009. https://economix.blogs.nytimes.com/2009/07/06/the-happy-planet-index/ (truy cập 15-2-2018).

Stanford Encyclopedia of Philosophy (SEP). 2014. Aristotle’s Ethics. 21-4-2014. https://plato.stanford.edu/entries/aristotle-ethics/ (truy cập 15-2-2018).

Veenhoven. R. 2014. Average happiness in 158 nations 2005-2014. World Database of Happiness. Rank report Average Happiness. Internet: worlddatabaseofhappiness.eur.nl/hap_nat/findingreports/RankReport_AverageHappiness.php (truy cập 15-2-2018). 

Wikipedia. 2018a. Gross National Happiness. Thay đổi chót: 10-2-2018. https://en.wikipedia.org/wiki/Gross_National_Happiness (truy cập 13-2-2018).

_________. 2018b. World Happiness Report. Thay đổi chót: 29-1-2018. https://en.wikipedia.org/wiki/World_Happiness_Report (truy cập 14-2-2018).

_________. 2018c. List of countries by GDP (PPP) per capita. Thay đổi chót: 11-2-2018. https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_countries_by_GDP_(PPP)_per_capita (truy cập 14-2-2017).

_________. 2018d. Neuroplasticity. Thay đổi chót: 9-2-2018. https://en.wikipedia.org/wiki/Neuroplasticity (truy cập 13-2-2018).

_________. 2018e. Karuṇā. Thay đổi chót: 4-2-2018. https://en.wikipedia.org/wiki/Karu%E1%B9%87%C4%81 (truy cập 14-2-2018).

_________. 2018f. Four Noble Truths. Thay đổi chót: 11-2-2018. https://en.wikipedia.org/wiki/Four_Noble_Truths (truy cập 14-2-2018).

2018 Cao-Đắc Tuấn

danlambaovn.blogspot.com

17-2-2018 tìm mỏi mắt trong mấy trăm báo mạng của ĐCSVN …

17-2-2018 tìm mỏi mắt trong mấy trăm báo mạng của ĐCSVN thấy Tiền phong là có bài về sự kiện 17-2 -1979, cách đây 39 năm, nhưng không dám nói thẳng là ngày “TQ xâm lược VN”.

Tuổi trẻ có bài về nói về 17-2-1079, nhưng phải đưa lồng ghép một số việc ở các cuộc chiến khác vào bài như để cho an toàn, để lách thì phải ?

Vietnamnet có bài http://m.vietnamnet.vn/…/cuoc-chien-bien-gioi-nam-1979-ho-c…

See More

Image may contain: 1 person, outdoor

Khuya hôm nay của 38 năm trước…

Nhật ký yêu nước is with Trang Dang and Nguyễn Hải.

 Khuya hôm nay của 38 năm trước, thằng mặc áo đen trong hình đã bất ngờ xua 60 vạn quân sang xâm lược nước ta.

Kết quả 50.000 đồng bào chiến sỹ ta bị chết oan ức, bởi tin vào cái choàng vai khốn nạn như thế này.

Và 38 năm nay họ chưa một lần được tưởng niệm, thậm chí cái chết của họ còn không được ghi vào sách giáo khoa dạy cho con cháu chúng ta biết.

(Fb Nguyễn Tấn Thành)

Đục bịa rồi đục luôn cả thơ

Nguyễn Anh Tuấn
2018-02-17
 

Bia Khánh Khê bị đục dòng chữ "quân Trung Quốc xâm lược"

Bia Khánh Khê bị đục dòng chữ “quân Trung Quốc xâm lược”

 Courtesy Báo Thanh Niên
 

Nhiều người hẳn đã quen thuộc với hình ảnh cột bia Khánh Khê ở Lạng Sơn dưới đây [ghi nhận sự hi sinh của 650 chiến sĩ thuộc sư đoàn 337 trên biên giới phía Bắc cản bước quân thù năm 1979] cách đây vài năm được báo chí phát hiện là đã bị đục bỏ dòng chữ “quân Trung Quốc xâm lược” – một hành vi không chỉ xảo trá với lịch sử, vô ơn với chiến sĩ mà còn đớn hèn và nhục nhã về chính trị.

Và, trong nỗ lực xóa bỏ ký ức tập thể về sự kiện này, người ta đã không chỉ đục bia, mà còn đục cả thơ.

Hôm nay tình cờ thấy người bạn đăng bài thơ ‘Gửi em ở cuối sông Hồng’ như bên dưới:

“Anh ở Lào Cai 
Nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt 
Tháng Hai, mùa này con nước 
Lắng phù sa in bóng đôi bờ

Biết em năm ngóng, tháng chờ 
Cứ chiều chiều ra sông gánh nước 
Nên ngày ngày cùng bạn bè lên chốt 
Anh lại xuống sông Hồng cho thoả nỗi em mong

Đài báo gió mùa, em thương ở đầu sông 
Đỉnh đồi cao chiến hào anh gặp rét 
Biết mùa màng đồng quê chưa cấy hết 
Tay em ngập dưới bùn, lúa có thẳng hàng không?

Giá chúng mình còn cái thuở dung dăng… 
Anh thả lá thuyền xuôi về dưới ấy 
Em ra sông chắc em sẽ thấy 
Chỉ nỗi nhớ chúng mình đủ ấm mọi mùa đông. 

Thì hỡi em yêu ở cuối sông Hồng
Nếu gặp dòng sông ngàu lên sắc đỏ
Là niềm thương anh gửi về em đó
Qua màu nước sông Hồng, em hiểu chiến công anh.” 
(Dương Soái)

Đây là phiên bản phổ biến của bài thơ hiện nay, được báo chí nhà nước sử dụng mỗi khi nhắc đến, kèm cả dấu 3 chấm (…) ngay trước khổ cuối cùng. [1]

Chưa bàn đến chuyện hay dở của phiên bản này, nhưng đọc lên thấy ý hiển ngôn của nó như thể tâm sự của một thanh niên đi nghĩa vụ quân sự làm lính biên phòng phía Bắc nhớ thương về người yêu ở vùng quê nào đó ở hạ lưu sông Hồng. Cả bài chỉ nhớ, thương, và kỷ niệm, chứ hoàn toàn vắng bóng sự ác liệt của chiến tranh. Bởi vậy đọc câu cuối nghe rất gượng gạo, vì sao cô gái thấy dòng sông ngàu lên sắc đỏ lại hiểu được chiến công của chàng trai? Chiến công gì ở đây, khi mà những đoạn phía trên thấy chàng trai toàn là ‘lên chốt’, ‘xuống sông thả lá’, ‘gặp rét trên đỉnh đồi cao’? Nghe như một anh chàng tân binh đang ‘nổ’ với người yêu vậy.

Ý tứ bài thơ như thế, do đó, vừa rất thường, vừa kém tự nhiên.

Nhưng hóa ra không phải vậy, bài thơ đã bị buộc phải trở nên gượng gạo như thế. Những nhát búa của chế độ kiểm duyệt đã đục đi mất phần lịch sử bi hùng được nhắc đến trong bài thơ. Và, trong khi dấu tích cột bia Khánh Khê bị đục dễ dàng nhận ra bằng mắt thường, thì với bài thơ của Dương Soái ở trên dấu vết ấy chỉ còn lại ba chấm (…).

Mời đọc lại phiên bản đầy đủ của bài thơ ‘Gửi em ở cuối sông Hồng’ dưới đây, hôm nay, 17-2, không chỉ để hiểu vì sao cô gái nhìn sông Hồng ngàu lên sắc đỏ lại có thể hiểu được chiến công của chàng trai (ấy là vì nghìn xác giặc Trung Quốc đã bị hạ gục máu loang ố nơi đầu nguồn), mà còn là để nhớ tới những gì không được phép quên, dẫu bất kỳ ai, quyền cao chức trọng tới đâu, phương cách thô lậu tệ hại thế nào, luôn muốn chúng ta quên.

Gửi em ở cuối sông Hồng
(Dương Soái)

“Anh ở Lào Cai
Nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt
Tháng Hai, mùa này con nước
Lắng phù sa in bóng đôi bờ

Biết em năm ngóng, tháng chờ
Cứ chiều chiều ra sông gánh nước
Nên ngày ngày cùng bạn bè lên chốt
Anh lại xuống sông Hồng cho thoả nỗi em mong

Đài báo gió mùa, em thương ở đầu sông
Đỉnh đồi cao chiến hào anh gặp rét
Biết mùa màng đồng quê chưa cấy hết
Tay em ngập dưới bùn, lúa có thẳng hàng không?

Giá chúng mình còn cái thuở dung dăng…
Anh thả lá thuyền xuôi về dưới ấy
Em ra sông chắc em sẽ thấy
Chỉ nỗi nhớ chúng mình đủ ấm mọi mùa đông.

Nhưng thơ ngây đâu còn ở chúng mình
Khi Tổ quốc trao anh lên tuyến đầu chặn giặc
Khi biên cương trong anh đã trở thành máu thịt
Đạn lên nòng anh giữ trọn nguồn sông

Nỗi nhớ cho em chưa viết được đôi dòng
Đạn quân thù bỗng cuồng điên vào thị xã
Xe tăng thù nghiến mặt sông êm ả
Nhịp cầu thù chặt đứt chờ mong

Bão lửa này mang sức mạnh hờn căm
Phá cầu thù, xé vụn xe tăng giặc
Giữa dòng sông nghìn xác thù ngã gục
Máu giặc loang ố cả một vùng

Thì hỡi em yêu ở cuối sông Hồng
Nếu gặp dòng sông ngàu lên sắc đỏ
Là niềm thương anh gửi về em đó
Qua màu nước sông Hồng, em hiểu chiến công anh.

Lào Cai, 1979″