QUỐC GIA NÀO BIẾT TẬN DỤNG SỨC MẠNH MỸ QUỐC GIA ĐÓ SẼ VẺ VANG

Đỗ Ngà

Nhìn nước Mỹ tấn công Syria như là một cuộc dạo chơi, người ta hay nghĩ rằng nước Mỹ hùng mạnh là nhờ những thứ vũ khí vượt trội trội so với phần còn lại của thế giới. Tưởng rằng thế là nguy hiểm. Thế nhưng, có một điều chúng ta cần nhìn nhận, rằng từ khi là cường quốc số một thế giới Mỹ chưa hề cướp lấy một lãnh thổ của quốc gia nào cả.

Tham chiến ở Việt Nam rồi họ cũng rút, nếu họ muốn chiếm Việt Nam thì chẳng thể họ rút như vậy. Họ tham chiến ở Afghanistan rồi họ cũng rút, họ tham chiến ở Iraq rồi họ cũng rút, họ đánh Syria rồi họ cũng rút. Điều đó đủ minh chứng rằng Mỹ chẳng có ý định đánh cướp bất kỳ quốc gia nào để sáp nhập vào lãnh thổ mình cả. Ngay cả Porto Rico họ cũng để cho dân xứ này tự quyết chứ Washington không cưỡng bức.

Thực ra sức mạnh tuyệt đối về quân sự của Mỹ là điều cần thiết. Nếu Tàu mà mạnh nhất thế giới về quân sự thì đấy mới là đáng sợ. Nếu không có sự canh chừng của Mỹ thì Trung Cộng nó lấn tới bãi tắm Việt Nam chứ không phải để cho dân Việt Nam có biển để tắm, chứ nói gì đến việc dân Việt Nam có thể đánh bắt gần bờ? Lâu lâu, tàu Mỹ lại hiên ngang đi vào biển Đông để ngầm bảo với Tàu rằng, “còn có tao ở đây, mầy đừng có lộng hành quá”.

Điều không thể bàn cãi rằng, sau “đổi mới” năm 1986 Việt Nam vẫn chưa thể khởi sắc. Giai đoạn 1986 đến 1995 chính quyền Hà Nội trông ngóng lệnh xóa bỏ cấm vận từ phía Mỹ như nắng hạn chờ mưa. 1995 tổng thống Bill Clinton tuyên bố bỏ cấm vận thì phía Hà Nội hớn hở thấy rõ. Hồi đó tôi nhớ, trên trên TV, báo đài có vô số bài viết về lệnh bỏ cấm vận trong thời gian rất lâu.

Tuy Mỹ bỏ cấm vận nhưng Mỹ vẫn chưa bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Lại một lần nữa, Hà Nội trông đợi ngày này như mong chờ cơn mưa đầu mùa sau thời nắng hạn vậy. Và lại một lần nữa, Bill Clinton đã tuyên bố bình thường hoá quan hệ Việt Nam trước khi rời ghế tổng thống. Trong học đường thì cho chửi Mỹ, trong truyền thông thì cho báo chí chửi Mỹ ra rả. Thực tế, CS Việt Nam sẽ chẳng làm nên cơm cháo gì nếu thiếu ân huệ của Mỹ. Kẻ nhận ân huệ thế mà mồm cứ luôn chửi ân nhân thì có thể nói, bệnh ăn cháo đá bát của CS hết thuốc chữa. Lúc nào cũng theo lạy lục năn nỉ người ta hãy ban cho mình điều này điều nọ mà sau lưng vẫn chửi. Hiện nay CS rất mong muốn được vào các hội có Mỹ làm chủ cuộc chơi, việc họ thất vọng ra mặt khi Mỹ rút khỏi TPP thì đủ biết.

Số phận của Việt Nam cần phải có thay đổi, không thể để nằm trong tay một tập đoàn chính trị láu cá, khôn lõi, tham lam và bất chấp số phận dân tộc. Chính nó biết Mỹ là cứu cánh mà nó vẫn chửi, chính Mỹ đã cứu nó khỏi cảnh bi đát thời kinh tế XHCN nó vẫn chửi. Chính CS chỉ muốn moi tiền từ Mỹ chứ quyết không cho dân tộc hưởng tự do dân chủ để đi lên bằng đôi chân của mình thì đấy cũng là hành động phản quốc rồi huống chi đưa cả dân tộc này nằm kẹt cứng dưới gót giày Trung Cộng. Sức mạnh tuyệt đối về quân sự và kinh tế, cộng vào đó là sự tử tế của Mỹ là một cơ hội tốt cho bất kỳ quốc gia nào nếu muốn tận dụng nó để đi lên. Nhưng trước hết, tự dân tộc đó phải giải quyết xong chuyện nội bộ của chính mình.

Quốc gia nào biết tận dụng sức mạnh Mỹ, quốc gia đó sẽ vẻ vang chứ không phải chống Mỹ hay chửi Mỹ mà là vẻ vang. Quả thật, không có cái ngu nào bằng cái ngu “yêu Nga, ghét Mỹ, thích Cu(ba), thân Tàu”. Cái ngu đó đang ám Việt Nam, hãy giải quyết nó thì Việt Nam sẽ tươi sáng.

NỖI LÒNG NGƯỜI CHĂN CHIÊN 

NỖI LÒNG NGƯỜI CHĂN CHIÊN 

Lm Nguyễn Tầm Thường

Tình thương thúc đẩy, chàng chuẩn bị lương thực, với cây gậy gỗ, chàng dẫn chiên lên đường. Ðường lên núi chỉ có mình chàng.  Trên trườn núi mênh mông, chàng tiếp tục đi, can đảm.  Chàng chỉ có một niềm vui: tình thương cho bầy chiên.  Bầy chiên gặp cỏ non thì hớn hở.  Chúng ham ăn, quên người chăn.  Chàng ngồi đó, trên bờ đá.  Ánh nắng làm bóng chàng đổ dài trên nền cỏ. 

Nghĩ đến những ngày sắp tới dài dằng dặc.  Có thể là mưa.  Có thể là gai góc.  Và có thể là mệt mỏi.  Chàng ngần ngại cho cuộc sống.  Nhưng còn bầy chiên thì sao?  Tình thương dành cho bầy chiên lại níu kéo chàng về với bổn phận.  Cõi lòng chàng, can đảm, trìu mến lại trải rộng theo bầu trời. 

Chàng chấp nhận tất cả sương gió, nguy hiểm, vì bầy chiên.  Chàng chấp nhận hy sinh, nỗi vắng và nỗi đắng vì bầy chiên.  Nhưng bầy chiên chẳng biết nỗi lòng chủ mình.  Chúng cứ thản nhiên như lạnh lùng với chủ.

****************************** *****

Sau những ngày đầu bình yên. Chàng đã nghe tiếng sói rừng sủa văng vẳng đâu đó.  Bây giờ là chiến đấu với giao tranh.  Ðêm đêm, chàng thức giấc một mình nhìn núi lặng lẽ mà nghe xao xuyến.  Riêng chiên cứ ngủ yên vô tư.  Mỗi khi gió trời chuyển mưa là chàng ướt lạnh.  Lạnh cả thân xác và lạnh cả tâm hồn vì yêu thương chiên.

Sói đã đến vào một tối. 

Chiến đấu nào mà không cam go.  Bởi thế, chẳng mấy ai là người chấp nhận gian nan vì kẻ khác. “Kẻ làm công thì không màng đến chiên, khi thấy sói đến thì bỏ chiên mà chạy trốn.  Chỉ có người chăn chiên thương chiên mình thì mới thí mạng sống vì chiên” (Yn 10,1-14).  Chàng chiến đấu bảo vệ chiên.  Chân rướm máu vì núi đá.  Tay ê ẩm vì phải chống cự.  Trận chiến nào cũng có phần thua thiệt.  Lời Kinh Thánh đã loan báo: “Cứ chủ chiên mà giết thì đàn chiên sẽ tan tác” (Mt 26,31).  Biết thế, sói tấn công chàng, sói muốn ăn thịt chiên.  Nỗi đau của chàng không phải là thương tích chàng phải mang, mà là những tiếng kêu của chiên con bị thương.  Nhìn vài con chiên nhỏ phải đi tập tễnh, lòng chàng như tơ chiều chùng xuống.  Thương yêu quá đỗi.  Chiên thì chẳng biết tâm sự chủ mình.  Chúng cứ vô tư.

 Ðó có là tâm tình của Chúa đối với con người? 

****************************** *****

Người chăn chiên biết đâu là cỏ non.  Nơi nào có suối trong lành.  Chiên chẳng biết gì.  Nhưng làm sao để chiên nghe lời chủ.  Ðấy là nỗi khổ tâm của người chăn chiên.  Ðó là nỗi khổ tâm của Chúa đối với nhân loại. 

Khi chợt thấy bãi cỏ xanh trước mắt, mầu xanh quyến rũ.  Bầy chiên nôn nao ùa tới.  Cũng như con người trong lúc hoang vu, buồn chán, chợt thấy bóng hạnh phúc mờ ảo, cứ ngỡ là cơn mưa tươi mát, đã sa ngã.  Người chăn chiên thì biết đám cỏ xanh kia tuy có đẹp nhưng nó mọc trên đám bùn, nơi đó đầy đỉa độc và rắn xanh.  Nếu chiên đến ăn sẽ sa lầy, sẽ bị đỉa cắn, sẽ bị rắn độc giết chết.  Ðằng sau mầu xanh đẹp mắt là thuốc độc.  Nhưng chiên đâu biết thế.  Chiên cứ muốn xuống.  Chiên chẳng nghe lời chủ.  Và người chăn chiên se sắt cõi lòng khi thấy chiên mình chết. 

Chúa cũng vậy, bao lần con người đã đi tìm hạnh phúc giả trong tội lỗi.  Những hạnh phúc giả vì bất trung trong tình nghĩa vợ chồng.  Những hạnh phúc giả vì gian tham bất chính, vì những rung cảm trái phép.  Chẳng ai muốn hạnh phúc giả.  Chỉ vì lười biếng đi tìm hạnh phúc thật nên thấy bất cứ đám cỏ xanh nào cũng chạy lại.  Chúa biết rõ đâu là hạnh phúc đem bình an.  Chúa cản ngăn và con người đã than trách.  Chúa đau lòng.  Nhưng biết làm sao.  Vì thương chiên mình nên vẫn phải ngăn cấm.  “Chúa thương ai Người mới sửa dạy, Người nhận ai làm con, Người mới cho đòn.  Vì còn gì là con nếu người cha không dạy” (Hr 11,5-10).  Sửa dạy thì có đau đớn.  Nhưng nếu không sửa dạy thì người cha không còn là cha nữa. 

****************************** *****

Trên đường dẫn chiên đi, bao lần chiên kêu gào oán than chủ.  Chiên cứ muốn dừng nghỉ, nhưng chủ biết phải đi nữa mới có cỏ tốt, suối lành.  Chủ cũng biết chẳng mấy chốc nữa mùa đông lại về.  Phải vội vã mà lên đường.  Chiên nào có hiểu vậy.  Chúng mỏi chân.  Chúng chán nản.  Nhìn lịch sử cứu độ, khi Maisen dẫn dân qua sa mạc về Ðất Hứa, đã chứng minh rõ ràng điều đó. 

Cũng trên đường đi ấy, có những liên hoan của bầy chồn, bầy heo đứng ca múa bên đường.  Có những con chiên nghe tiếng cười đùa của bầy chồn, vui tai, xuôi lòng muốn ở lại.  Nhưng chủ biết rằng nếu con chiên nào ở lại với bầy chồn, bầy cáo, chúng sẽ suốt đời cô đơn.  Bầy chồn sẽ chẳng bao giờ săn sóc chúng, mà chúng phải nô lệ bầy chồn.  Trên đường đời của con người cũng thế.  Bao lần đi với Chúa, những tông đồ của Chúa đã muốn rẽ lối, phân vân ở ngã ba đường.  Họ thấy con đường theo Chúa sao mà dài.  Họ chẳng thể nhìn thấy đồi cỏ ở xa xa.  Họ muốn theo lối rẽ để ở lại vui chơi theo tiếng mời gọi của thần tượng ảo ảnh.  Trên đường về Ðất Hứa, dân Chúa đã bao lần than trách Maisen, họ đã dừng lại để thờ các tượng thần mà họ nghĩ là sẽ cho họ khoái lạc.

Sói rừng bao giờ cũng khôn ngoan.  Chúng mang bộ mặt của những con thỏ hiền từ.  Chờ chiên đến gần, chúng sẽ vồ bằng răng nhọn.  Chúng đứng bên đường nhởn nhơ nô đùa.  Bầy chiên phải theo chủ hoài thì nản lòng, muốn bỏ đồi cỏ xanh ở đàng kia.  Chúng muốn đến làm bạn với bầy sói.  Riêng chủ thì biết đằng sau tiếng cười là nước mắt.  Bên này là nỗi vui, bên kia là chết chóc.  Người chăn chiên thương chiên mình thì phải ngăn cản.  Nhưng bầy chiên đâu hiểu thế.  Không nghe lời thì người chăn chiên phải dùng roi mà đánh.  Mỗi vết roi là lòng chủ lại thêm đau.  Tâm hồn chủ chiên thì tan tác mà chiên cứ oán than. 

Ðời người cũng vậy.  Có người cha nào không lo âu khi thấy con mình đùa với vực thẳm.  Chúa biết con người nghèo đói hạnh phúc.  Chúa biết trong thực tế, cuộc sống của con người có nhiều nỗi đắng, con người dễ bị cám dỗ ăn những đám cỏ dại.  Chúa biết con người không muốn bị sửa trị vì có đau đớn.  Biết vậy, Chúa đã căn dặn: “Bị sửa phạt thì chẳng có vui, chỉ có buồn, nhưng nhờ đó mà được luyện tập và về sau mới thấy sinh lợi: tức hoa quả của bình an” (Hr 11,11).

 ****************************** *****

Tuy nhiên vẫn có những con chiên bỏ đàn, ở lại với bầy chồn, bầy cáo và nhận quê hương đó làm của mình.  Ðã bao lần Chúa ngậm ngùi xót thương mà chẳng làm gì được.  Khi một tâm hồn muốn bỏ chiên đàn mà đi, Chúa xót thương cho Chúa vì đã mất một người con.  Ðể cứu vãn, Chúa dùng gậy mà đe dọa.  Nhưng Chúa không thể đánh chết chiên mình được.  Nó quyết định đi thì Chúa chỉ biết đứng nhìn, nuối tiếc mà thôi.  Người chăn chiên thật thì thương chiên của mình. 

Người chăn chiên bao giờ cũng khôn ngoan.  Biết nơi nào có thể cho chiên dừng nghỉ, uống nước. Người chăn chiên biết từng con suối: “Ta đến để chiên Ta có sự sống và có một cách dồi dào” (Yn 10,10).  Khi bất hạnh làm con người khổ thì bất cứ an ủi nào cũng như suối trong.  Người ta dễ bị cám dỗ bỏ đời sống đức tin, muốn bám víu vào thú vui của trần thế.  Chỉ có Chúa thấy rõ, đấy không phải là bóng mát hạnh phúc, suối trong bình an.  Ðấy chỉ là bóng đen của những cơn mưa sắp đổ xuống.  Thay vì phải đi nhanh, phải chạy trốn, con người lại muốn ẩn trú trong những bóng đen ấy.  Rồi từ đó, bất hạnh lại nẩy sinh bất hạnh.  Túng thiếu lại nẩy sinh túng thiếu. 

Vì bản tính của chiên là chiên, nên những con chiên bỏ đàn đi, nó sẽ chẳng bao giờ tìm được căn tính của mình.  Từ đó, cuộc đời sẽ trôi dạt, hạnh phúc sẽ là những bóng mây chợt qua.  Khi tôi lìa xa Giáo Hội là đàn chiên Chúa, tôi sẽ thao thức, bất an. 

****************************** *****

Trên đường đi đến đồng cỏ, chắc chắn sói sẽ đến.  Chắc chắn có giao tranh, Nhưng hạnh phúc của bầy chiên là chủ chiên không bao giờ bỏ bê.  “Chiên của mình, Ta gọi tên từng con một” (Yn 10,3).  Sói rừng chỉ bắt được những con chiên bỏ đàn đi rong chơi một mình.  Giáo Hội là nhiệm thể có lửa của Chúa Thánh Thần sưởi ấm.  Những viên than nằm riêng rẽ chẳng bao lâu gió sẽ làm nguội tắt.  Nó tự làm cho đời sống mình nên khô cằn và cũng làm cho bếp than kém hồng vì mất đi một phần tử. 

Cũng trên đường đi đến đồng cỏ, núi đá có thể làm đau chân chiên con.  Nó có thể mang thương tích và chẳng thể kịp với đàn chiên.  Nhưng chỉ cần cất tiếng kêu là chủ sẽ đến và bồng nó trên vai mà dẫn đi.  Người chủ thương chiên mình thì chẳng bao giờ vì chiên con yếu đuối không đi kịp đàn chiên mà bỏ rơi nó.  Chủ chiên hãnh diện vì những con chiên khỏe mạnh nhưng lại thương những con chiên bé bỏng, yếu sức.  Chúa cũng vậy, một tâm hồn mang nhiều thương tích là tâm hồn được Chúa yêu thương đặc biệt: “Có cần lương y, hẳn không phải là người lành mạnh, mà là người đau ốm” (Lc 5,13).  Khi người ta trách Chúa tại sao lại ngồi chung bàn ăn với người tội lỗi.  Chúa đã trả lời như thế.  Câu trả lời ấy cho tôi nhiều an ủi. 

Trong cuộc sống, Chúa chẳng bao giờ quên những tâm hồn lạc lõng. “Ai trong các ông giả sử có một trăm con chiên và lạc mất một con, há người ấy lại không bỏ 99 con còn lại mà đuổi theo con lạc cho đến khi tìm ra con chiên lạc đó sao?” (Lc 15,4-7).  Chính vì thế mà Chúa đã đến.  Chỉ cần cất tiếng kêu, Chúa sẽ đến như người chăn chiên bồng chiên mình trên vai mà đi.  Trong vòng tay chủ chiên, con chiên đã mang thương tích sẽ được ngủ bình yên vì người chăn chiên quá thương nó. 

Người chăn chiên mừng vui biết bao khi tìm thấy chiên mình.  Nhưng nếu chiên không về thì sao?

– Nỗi nhớ thương sẽ hằn sâu trong tim và người chăn chiên sẽ mãi mãi thao thức.  Sợ nó chết trên đường cô độc, người chăn chiên sẽ dõi theo vết chân nó, vì nó vẫn thuộc đàn chiên mình.

 Ðó là nỗi lòng của Chúa, người chăn chiên tốt lành. 

Lm Nguyễn Tầm Thường 

trích trong Nước Mắt và Hạnh Phúc 

From Langthangchieutim 

Sức mạnh của Mỹ không phải…

Huỳnh Phi Long and 5 others shared Mã Tiểu Linh‘s post.
Image may contain: outdoor

Mã Tiểu LinhFollow

Sức mạnh của Mỹ không phải chỉ nằm ở mấy chiếc hàng không mẫu hạm hay phi đạn Tomahawk mà nó còn nằm ở chổ:

Ở chổ dù mồm bạn đang chửi Mỹ xoen xoét nhưng tay bạn vẫn thích bấm cái phone do Mỹ làm ra, mắt vẫn thích lướt Fb do người Mỹ viết mà thành, đít vẫn thích ngồi xe hơi do Mỹ chế, hay bay trên máy bay là thứ cũng do người Mỹ phát minh để chu du khắp bốn phương trời.

Nó nằm ở chổ dù bạn có lôi tổng thống Mỹ ra mà chửi cha mắng mẹ cũng chẳng người Mỹ nào quan tâm, chẳng ai thèm đến nhà kiếm bạn để hăm he trả thù, và con cái của bạn vẫn cứ đường hoàng đến Mỹ ăn học mà chẳng có ai làm khó dễ chúng điều gì.

Nó nằm ở chổ khi các nước bị Mỹ đến Xâm Lược như Tây Âu, Nhật Bản hay Hàn Quốc thì đều trở nên phồn thịnh và văn minh, còn các nước được Liên Xô hay Trung Quốc đến Giải Phóng như Đông Âu hay Tây Tạng thì hổng đổ máu cũng bầm mình.

Nó nằm ở chổ chính kẻ thù của Mỹ cũng cảm thấy chỉ có Mỹ là nơi an toàn để nương thân mỗi khi bị đồng chí của mình hãm hại. Ngay cả cố tổng bí thư Liên Xô một thời lừng lẫy Khruschchev mà rồi con trai ông ấy cũng có được yên thân ở Liên Xô đâu, cũng phải chạy sang Mỹ mà áp tay lên ngực để chào lá cờ hoa một thời cha ông mình chửi rủa.

Nó nằm ở chổ nếu như hôm trước bạn còn xuống đường hò hét chửi Mỹ như thể bạn thù nước Mỹ không đội trời chung thì hôm sau bạn vẫn sẽ vứt hết tất cả để đi Mỹ nếu như bạn được cấp một chiếc thẻ xanh.

Tôi đã thấy rồi, tôi đã thấy có người chửi Mỹ xoen xoét khi còn ở Việt Nam nhưng rồi cũng rất hồ hởi khi được có mặt ở cái xứ tư bản giãy chết này dù nói chuyện vẫn còn cố vớt vát ” đi là vì tương lai của các con thôi”.

Tôi đã thấy rồi, tôi đã thấy có người chửi Mỹ xoen xoét khi đã sang đây rằng “ở Mỹ cực như chó” nhưng lại cứ ráng ở lại chịu cực mà chẳng thấy quay về.

Sức mạnh của Mỹ nó nằm ở chổ nó là cái nơi thu hút con người ở khắp mọi miền trên thế giới đổ về, chứ không phải là cái nơi mà ai cũng muốn bằng mọi giá phải dứt áo từ bỏ. Nó không ràng buộc ai phải ở lại nhưng chẳng ai tự nguyện ra đi.

Sức mạnh của Mỹ nó nằm ở chổ 4 người đàn ông lực lưỡng chung tay khiêng cái nón nhẹ hều một cách trang nghiêm để tôn trọng người quá cố, dù rằng người quá cố đó từng là một đối thủ. Chứ không phải đưa hài cốt của đồng đội mình về trong một cái túi xách đàn bà.

Các nhà bồi bút ở Việt Nam hãy thôi chỉ nhìn vào mấy trái tên lửa rồi cố hạ thấp sức mạnh của Mỹ và nâng bi sức mạnh của Nga hay Tàu làm gì. Bởi Mỹ có những điều mà hai xứ này cả trăm năm nữa cũng chưa chắc có, Mỹ có một nền dân chủ đã 242 năm.

Còn Nga và Tàu? ngoài độc tài và súng đạn thì họ còn gì?

….

P/s…hãy thử google “Khrushchev’s Son Becomes U.S. Citizen” (con trai của Khrushchev thành công dân Mỹ) để thấy bao nhiêu kết quả hiện lên.

Nguồn fb Thức Trần , Mã rinh về từ nhà bé Thanh Savage Dang

Tấm hình là hiện trường của Syria sau khi bị mỹ phóng tên lửa tomohawk chính xác đến từng cm . 

Không Quyền Lực Nào

Không Quyền Lực Nào

    “Ðức Tin không thể nào bị bóp nghẹt bởi bất cứ quyền lực nào!”. Ðó là lời tuyên bố của tổng thống Hoa Kỳ George Bush trong buôi tiễn biệt Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II (19/9/1987) nhân dịp Ngài viếng thăm Hoa Kỳ. Trong bài diễn văn từ giã Ðức Thánh Cha, phó tổng thống Hoa Kỳ nói rằng Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục làm việc tại Liên Xô sau hơn 60 năm tuyên truyền cho chủ thuyết vô thần.

    Ông George Bush kể lại cho Ðức Thánh Cha như sau: “Trong nghi lễ an táng tổng bí thư Breznev tại Mascơva, một lễ nghi với nhiều lính tráng và hoa tím, nhưng không có Ðức Tin và Lời Chúa, tôi theo dõi bà quả phụ đang tiến đến quan tài để nói lời từ biệt… Kìa, có Chúa làm chứng cho tôi, giữa sự lạnh cóng của một chế độ độc tài, bà Breznev chăm chú nhìn người chồng, rồi cúi nhẹ xuống và làm dấu thánh giá trên ngực của người chết…”.

    Ông Bush cũng kể lại rằng ông đã gặp Mao Trạch Ðông trước khi ông này qua đời. Chủ tịch họ Mao đã tâm sự với ông như sau: “Tôi sắp sửa về Trời, tôi đã nhận được lời mời gọi của Chúa”.

    Ðưa ra hai sự kiện trên đây, ông Bush kết luận: Không có quyền lực nào, không có luật pháp nào có thể quét sạch những gì đã ăn rễ sâu trong lòng người…

    Lời phát biểu trên đây của ông George Bush có lẽ phải làm cho chúng ta phấn khởi. Thiên Chúa vẫn luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta. Chính những nơi mà chúng ta tưởng Ngài đã bị gạt bỏ hoàn toàn, chính những lúc mà chúng ta tưởng như Ngài không có mặt, Ngài vẫn tiếp tục hoạt động. Bởi vì Thiên Chúa không thể là Thiên Chúa nếu Ngài không yêu thương con người.

    Chúng ta tiếp nhận sự sống từ chính Chúa, như trái đất nhận lãnh ánh sáng từ mặt trời. Thiếu ánh sáng mặt trời thì không thể có sự sống trên trái đất. Cũng thế, không có Chúa thì không thể có sự sống… Thiên Chúa thông ban sự sống cho chúng ta, bởi vì Ngài yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương tất cả mọi người, ngay cả những kẻ chối bỏ hoặc thù ghét Ngài.

    Trích sách Lẽ Sống

From: hnkimnga & anh chị Thụ Mai

Những bài học “nhớ đời” của 1 người Việt sống ở Mỹ

 
Kimtrong Lam
Những bài học “nhớ đời” của 1 người Việt sống ở Mỹ

Anh Misha Doan – một việt kiều ở Boston chia sẻ về những cú sốc khi mới chuyển từ Việt Nam sang sống ở nước tư bản giàu nhất thế giới

“Việt Nam mà anh, có phải Mỹ đâu? Mà sao anh thay đổi nhiều thế từ khi sang Mỹ , nhát chết hẳn lên?”, cậu em nhún vai bảo.

Ở Việt Nam, tôi có thằng em thường hay vượt đèn đỏ khi đi xe máy. Ngồi sau nó mà run, la nó thì nó trả lời tỉnh queo: “Không có Cảnh sát Giao thông mà anh, em nhòm kỹ rồi!” Nghe tôi nói không phải vì sợ Cảnh sát mà phải chấp hành Luật giao thông thì nó nhún vai: “Việt Nam mà anh, có phải Mỹ đâu? Mà sao anh thay đổi nhiều thế từ khi sang Mỹ , nhát chết hẳn lên?” Nghe nó nói vừa tức vừa giật mình vì bắt gặp lại hình ảnh mình của bao năm trước qua cách lý sự của nó.

Cảnh chen lấn xô đấy thường thấy trong các nơi đông người ở VN
Hồi mới sang Mỹ tôi ở cùng nhà với một đám sinh viên Việt Nam du học. Một hôm cả bọn tổ chức mở tiệc , mời cả bạn bè tới dự nữa, đông vui lắm. Ông chủ nhà cũng dự và kéo theo một ông bạn mà qua lời giới thiệu thì ông đó làm trong ban lãnh đạo một tổ chức cộng đồng người Việt tại Boston.

Khi mọi người khui bia, cụng ly thì ông khách kia giơ tay ngăn một cô bé lại và hỏi “Cháu sinh năm bao nhiêu?” Khi nghe cô bé trả lời là năm 1990 thì ông lắc đầu: “Vậy thì cháu chưa được 21 tuổi, cháu không được uống rượu bia”. Tôi đứng gần đó nên huơ huơ tay: “Đừng lo chú ơi, con bé này dân miền Tây tửu lượng cao lắm, cháu đã từng uống với nó rồi, không sao đâu!”.

Ông khách nghiêm mặt: “Luật pháp không cho phép, mọi người nên nhớ là chúng ta đang ở trên đất Mỹ!”. Tôi phẩy tay nói với cô bé: “Cứ uống đi, đừng lo, có ai biết đâu!”. Ông khách hơi lớn tiếng nói gay gắt: “Vậy thì mọi người cứ tự nhiên còn tôi sẽ không tham gia nữa. Tôi không thể ngồi yên chứng kiến sự phạm luật. Lẽ ra tôi phải báo Cảnh sát mới đúng”. Rồi ông ấy bỏ ra về thật. Buổi nhậu sau đó vẫn tiếp diễn, cả bọn ăn uống, cười dỡn, chả ai còn để ý đến “ông khùng” (theo cách gọi của người trong bữa nhậu đối với ông khách) nữa.

Cứ thấy xe chạy ẩu là người ta nghĩ ngay: “Chắc là mới từ Việt Nam qua!”

Bên Mỹ nếu không có bảng cấm thì xe được phép quẹo phải khi đèn đỏ trong khi lưu thông. Một lần đứng chờ quẹo phải lâu quá vì xếp hàng dài nên tôi tấp vô trạm xăng bên tay phải để băng tắt đâm ra đường cần đi. Đứa em ngồi kế hỏi : “Ủa, anh không đổ xăng à?” Tôi nói : “Không, xăng còn nhiều, anh quẹo vô để tránh cái đèn đỏ thôi!”.

Nó liền cằn nhằn: “Sao anh làm kỳ thế, anh xem có ai làm như anh không? Qua Mỹ rồi anh phải tập sống cho đúng Luật đi cứ nếu không thì khó tồn tại lắm”. Nghe nó cự tôi vừa tức, vừa mắc cỡ. Chắc đoán được tâm trạng của tôi nên nó an ủi: “Hầu như ai mới qua cũng như anh thôi, dần dần rồi mới quen”.

Rồi nó kể cho tôi nghe một câu chuyện xảy ra với chính nó. Đâu khoảng giữa những năm 1990 có làn sóng Việt Kiều về Việt Nam đầu tư nhất là trong lãnh vực công nghệ thông tin. Một lần nó chở “boss” (sếp – PV) của nó là một Việt kiều đi bằng xe máy trong Sài Gòn.

Vừa để tiết kiệm thời gian và cũng vừa muốn chứng minh cho ông chủ thấy sự nhanh nhẹn , năng động của bản thân nên thằng em chạy lạng lách rồi cũng có màn tấp vô cây xăng để tránh đèn đỏ y hệt như tôi vừa làm.

Ngỡ được ông chủ khen, ai ngờ cuối buổi ông dội cho gáo nước lạnh: “Bạn vô kỷ luật lắm. Cây xăng là nơi để bán xăng chứ không phải là đường để lưu thông, sao bạn không mua xăng mà lại chạy tắt qua đó? Nếu muốn làm việc với tôi thì bạn phải học được tính kiên nhẫn, cẩn thận và tuyệt đối tuân thủ kỹ luật …”

Lời nhận xét của ông chủ đã làm nó thay đổi hoàn toàn cách nghĩ, lối sống và nó đã tuân thủ những gì chủ nhắc nhở. Kết quả là nó làm việc khá lâu trong Công ty phần mềm của ông chủ Việt Kiều đó, được cất nhắc lên các chức vụ cao rồi được Công ty đưa qua Mỹ làm việc, được Công ty bảo trợ để xin Thẻ Xanh…

Misha Doan ( Học Luật và báo chí ở Nga và đã sống ở Nga 30 năm. Sau đó, anh chuyển sang Mỹ và đã định cư ở quốc gia này 10 năm cho đến nay)

Image may contain: 14 people, people smiling, crowd and outdoor
Image may contain: 3 people, people smiling, people sitting
Image may contain: car and outdoor

“Kính thưa các bác lãnh đạo, các bậc cha mẹ, các thầy cô giáo!

Tai Nguyen and 2 others shared 61 Giây‘s post.
Image may contain: 1 person, standing, eyeglasses and outdoor

61 Giây

“Kính thưa các bác lãnh đạo, các bậc cha mẹ, các thầy cô giáo!

Cháu xin được trút hết nỗi lòng đã giấu diếm suốt bấy lâu nay và cháu, cũng như nhiều bạn học sinh khác mong chờ sẽ nhận được những lời chia sẻ, cũng như ý kiến của các bác lãnh đạo, các phụ huynh và các thầy cô.

Đã nhiều năm nay, hầu như cuộc đời của học sinh chúng cháu chỉ là thức dậy, đi học trên trường, đi học thêm, về nhà và lặp lại. Qua nhiều năm, niềm đam mê học tập của cháu dần mất đi.
Cháu bắt đầu kiệt sức, chán nản và tuyệt vọng khi nghe đến chữ HỌC.

Không biết tự bao giờ, thời gian chúng cháu đi học còn nhiều hơn khoảng thời gian chúng cháu được ngủ. Đối với cháu, càng học cao hơn, kiến thức càng trở nên vô nghĩa.

Cháu biết nói ra điều này thật vô ơn. Để có được những kiến thức hôm nay là công sức đầy gian lao của những người đi trước.

Nhưng cháu tự nghĩ, vì sao giáo viên chỉ có thể dạy một bộ môn nhưng bản thân một học sinh phải học những mười mấy môn?
Không chỉ vậy, chúng cháu còn chịu áp lực nặng nề từ thầy cô, phụ huynh và cả xã hội. Một lớp học phải có từ 40 em được học sinh Giỏi, Khá và không được có học sinh Trung bình.

Đã đi học thì các môn tổng kết cả năm phải từ 8 điểm trở lên, thậm chí là cao hơn. Tỉ lệ tốt nghiệp của trường sau một năm phải đạt 90% trở lên, có trường phải giữ vững mục tiêu là 100%.

Cháu đã nhiều lần suy nghĩ về những gì chúng cháu đang được học. Càng nghĩ, cháu càng cảm thấy nản hơn khi cháu nhận ra mình gần như không thể tiếp nhận những kiến thức nhà trường dạy.

Bộ não của một người trưởng thành chỉ nặng gần 1400 gam nhưng những người của thế hệ đi trước lại mong chờ chúng cháu học đều, học tốt lượng kiến thức khổng lồ từ hơn mười môn học khác nhau.

Cháu sợ lắm ! Cháu sợ mỗi khi ông mặt trời lại lên báo hiệu một ngày đi học nữa lại đến. Cháu sợ khi điều đầu tiên thầy cô làm khi bước vào lớp là khảo bài, kiểm tra một núi bài tập họ giao cho chúng cháu.

Cháu sợ khi tiếng trống giờ về không đồng nghĩa với việc chúng cháu được về nhà nghỉ ngơi mà nó chỉ đơn thuần là giờ ra chơi giữa giờ học chính khóa và giờ học thêm.

Cháu sợ khi nhìn các bạn đồng trang lứa ăn vội vàng cái bánh bao và ánh mắt họ đờ đẫn, xa xăm, vô hồn ngồi trên chiếc xe máy giữa dòng người kẹt xe lúc 5h chiều.

Thưa các bác, các bác phụ huynh, các thầy cô!

Còn biết bao nhiêu câu chuyện chưa được kể về những áp lực vô hình mà mọi người đang vô tình đặt lên vai chúng cháu.

“Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” – Đó là điều đầu tiên cháu học được khi bước vào lớp 1. Và cho đến giờ, khi đang ở độ tuổi 18, cháu căm ghét cái câu nói này kinh khủng.

Cháu xin lỗi khi nói ra những điều này, cháu biết việc này sẽ khiến cho những người đi trước khó chịu nhưng cho phép cháu được nói lên nỗi lòng mình: Cháu ghét đi học.

Cháu ghét cái cảm giác bước qua cổng trường, mở cuốn SGK, chép từng trang vở. Cháu cảm giác mình lạc hướng… Từng ngày đi học, chúng cháu quay cuồng với việc học bài, kiểm tra.

Những năm tháng dần trôi qua một cách vô nghĩa dưới áp lực của việc học hành, của thầy cô, của gia đình.

Chương trình học hiện tại không cho phép học sinh chúng cháu có quyền sáng tạo. Tất cả bị bó buộc vào những quy luật nhất định và chúng cháu – những người học sinh bắt buộc phải làm theo chứ không được thay đổi.

Chính bản thân chúng cháu còn không hiểu mình đang học vì cái gì, vì ai!

Học vì kì vọng của mọi người xung quanh, học vì điểm số, học để qua được một kì kiểm tra ư? Xong rồi sao nữa?

Cuối cùng sau hơn 20 năm học tập miệt mài, căng thẳng chúng cháu còn phải sống một cuộc đời rất dài và tới lúc đó, chúng cháu sẽ phải áp dụng những kiến thức đã học được vào cuộc sống.

Nhưng cháu đã nhiều lần tự hỏi, cháu có thể sử dụng “Chuyển động tròn đều”, “Chiều tăng giảm của hàm số” hay Vecto trong cuộc đời thật như thế nào?

Chúng cháu cứ học rồi lại quên, thầy cô thì cứ lao đầu vào giảng, giao bài tập về nhà nhưng họ chưa bao giờ nói cho chúng cháu nghe ứng dụng của những kiến thức này trong cuộc sống.

Từ một lúc nào đó, mọi người lại đánh giá nhau thông qua những con điểm.

Chì vì những con điểm vô giá trị mà đã đẩy biết bao số phận học sinh vào bước đường cùng, đã khiến cho mối quan hệ chữa cha mẹ – con cái và giáo viên – học sinh trở nên căng thẳng, ngột ngạt.

Cuộc sống của những học sinh giờ đây gần như chỉ xoay quanh HỌC. Chúng cháu không biết đến khái niệm nghỉ ngơi, thư giãn.

Chúng cháu gần như không còn hiểu được giá trị của những bữa ăn bên gia đình vì gần như suốt một tuần chúng cháu chỉ gần như học thêm đến khi trời tối mịt.

Người bạn ngồi kế cháu, bạn ấy học rất giỏi và các thầy cô đều rất yêu quý bạn ấy. Nhưng bạn ấy khổ lắm. Nhà bạn ấy ở Quận 12 và bạn ấy phải đi xe buýt tới Quận 1 để học thêm mỗi ngày.

Từng ngày đi học của bạn ấy bắt đầu từ 5h30 sáng cho tới 11h đêm. Bạn ấy đã kiệt sức rồi, cháu biết điều đấy. Khuôn mặt bạn phờ phạc, ánh mắt bạn bơ phờ, bạn bị thiếu ngủ và đau dạ dày.

Những người như bạn cháu không thiếu ngay tại chính TP.HCM này.

Học sinh chúng cháu sống thờ ơ, lãnh đạm, vô cảm và không có kĩ năng sống. Chúng cháu không biết phải làm gì nếu có động đất, sóng thần hay gặp một người bị đột quỵ ngay giữa đường.

Người lớn thất vọng vì cách ứng xử của thế hệ trẻ trong khi thế hệ trẻ chúng cháu lại thất vọng vì đang được giáo dục không có định hướng.

Thưa các bác, là một học sinh, cháu đã vô cùng xúc động khi nghe chủ trương không dạy thêm. Cái cảm giác vui mừng chợt chạy qua người cháu khi nghĩ đến cảnh chúng cháu không còn phải còng lưng ra học bài lúc 11h đêm nữa.

Nhưng hiện thực tàn khốc của việc học đã không cho cháu được vui mừng lâu.

Trước cảnh mỗi năm đề thi Đại học lại đổi mới một kiểu, trước cảnh cô giáo viên dạy Toán của chúng cháu quảng cáo về lớp dạy thêm của cô một cách bí mật, cháu nhận ra mọi chuyện sẽ không hề tốt lên được, sẽ không bao giờ tốt lên được.

Rồi sau tất cả, khi chúng cháu rời ghế nhà trường, đối diện với cuộc sống thật, chúng cháu lại lơ ngơ, hoang mang vì hoàn toàn không có những kĩ năng sống cần thiết.

Cháu cầu xin các bác, các bậc cha mẹ, các thầy cô giáo: Xin hãy cho chúng con được SỐNG. Xin cho phép chúng con được sống trong những tháng năm tuổi học trò một cách trọn vẹn nhất có thể.

Xin đừng quá kỳ vọng vào tụi con để rồi chính những kì vọng ấy khiến cho mọi người thất vọng. Xin đừng chỉ trích chúng con khi bọn con bị điểm kém.

Xin hãy hiểu rằng mỗi người chỉ có những khả năng nhất định và bọn con không phải là thiên tài.

Cuối cùng, con xin mọi người hãy hiểu: HỌC SINH CŨNG CHỈ LÀ CON NGƯỜI, KHÔNG PHẢI MÁY MÓC”.

st

  •  
     
     

NHÌN LẠI LỊCH SỬ

Đỗ Ngà

Sau 1945, thế giới phân cực mạnh mẽ, Mỹ lãnh đạo khối tự do, Liên Xô lãnh đạo khối CS. Nhờ được chia lửa ở mặt trận phía tây nên Liên Xô thắng Nazi Đức. Và trên đường truy kích quân Đức, Liên Xô đã hốt được nửa phía đông Châu Âu về phe mình để thành lập nên khối CS. Tiếp đến là 1949 Liên Xô có hạt nhân để đối trọng với Mỹ về sức mạnh quân sự.

Sự lớn nhanh của khối CS đã đe dọa thế giới tự do. Nền tự do của Mỹ và phương Tây có được nhờ 200 năm phát triển, với bao trí tuệ tiến bộ đổ vào trong đó, không thể để CS -một loại tổ chức man di ưa giết chóc và tàn phá có thể ập đến hủy sạch được. Thế là thời kỳ chiến tranh lạnh ra đời. 2 siêu cường đều có hạt nhân vắt trên người nên họ kìm chế không đánh trực tiếp. Thay vào đó họ bắt mấy con tốt đánh nhau. Lúc đó, vì phe này cứ sợ phe kia mở rộng mà 2 siêu cường giành nhau từng con tốt để nâng tầm ảnh hưởng của mình. Nơi tốt đánh nhau ác liệt nhất là Việt Nam và bán đảo Triều Tiên. Trong đó con tốt Hà Nội là con tốt đánh chém đồng bào mình hăng máu nhất.

Từ thái độ hăng máu như thế, Mỹ muốn tham chiến ở Việt Nam để chặn con tốt hung hăng – CS Hà Nội, vì nó quá nguy hiểm cho tự do. Thế là Mỹ muốn tham chiến và đó là lí do họ đưa quân đến Việt Nam. Họ đến để bảo vệ cho thế giới tự do mà họ đang lãnh đạo khỏi bị CS lấn dần kiểu tằm ăn dâu.

Như vậy, rõ ràng Mỹ tham chiến ở Việt Nam, mục đích của họ là chống sự lây lan của chủ nghĩa CS chứ không phải là họ cướp nước. Với vai trò lãnh đạo thế giới tự do, nên Mỹ xem việc này là cực kỳ quan trọng. Vì sao? Bởi vì khối XHCN do Liên Xô và Đông Âu lúc đó đang mạnh, và trong lòng nhiều quốc gia tự đó luôn có ĐCS hoạt động chuẩn bị cho cuộc lật đổ tự do. Như thế cuộc chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến mà Mỹ đã đưa đầy đủ những vũ khí chiến tranh hiện đại đến. Với khí tài quân sự vượt hẳn, quân Mỹ chỉ tử thương 58.000 binh sĩ trong suốt cuộc chiến, trong khi phía CS con số tính đến hàng triệu.

Năm 1972 Mỹ bắt tay Trung Cộng làm khối CS rạn nứt. Mục đích lớn đã đạt, thế là Mỹ buông miền nam để rút quân vì nó quá tốn kém và bị áp lực từ người thân của binh sỹ tham chiến. Trước khi rút, Mỹ soạn thảo hiệp định để các bên ký với nhau. Hà Nội làm eo không chịu ký, thế là Mỹ ném bom miền Bắc. Chịu không nổi nên Hà Nội phải gật đầu chấp nhận bò đến Paris để ký hiệp định, thế là chuyện ném bom kết thúc. Nếu 1972 Mỹ không phải đánh để Hà Nội quỳ gối xin ký, mà đánh để xóa sổ thì họ hoàn toàn hiện được.

Vụ ký hiệp định Paris về bản chất là vậy, nhưng CS lại oang oang cho rằng, họ đã chiến thắng “trận Điện Biên Phủ trên không”. Thực ra cuộc chiến nhìn theo cái nhìn toàn cục, nó chỉ là mục đích chặn CS, và sau khi chia rẽ được khối CS, Mỹ rút đi cho người Việt Nam tự xử với nhau. Chuyện ngày 30/04/1975 là chuyện người Việt Nam xử nhau chứ chả còn thằng Mỹ nào tham chiến nữa.Thế mà qua cái mồm của chính quyền CS thì họ thắng Mỹ với đủ thứ chiến công, nào tay không quật ngã trực thăng, dùng ná hạ trực thăng blah blah blah. Đấy là cú tự sướng kiểu phép thắng lợi AQ nó dùng để lừa dối nhân dân rằng, từ 2 đến 3 triệu sinh mạng dân Việt bị giết cho cuộc chiến phi nghĩa vì thứ chủ nghĩa hoảng tưởng là để “cứu nước”.

Phải nói rằng, “chống Mỹ cứu nước” là một cú lừa gạt nhân dân khốn nạn nhất lịch sử. Mục đích của nó là để hợp thức hóa cái việc nướng hàng triệu sinh mạng nhân dân vào cuộc chiến, chả có mục đích gì cho dân tộc cả, mục đích là chỉ để làm con tốt cho Nga Tàu “Ta đánh Mỹ đánh cho Liên Xô đánh cho Trung Quốc” Lê Duẩn khẳng định như thế. Đã 43 năm rồi, chúng ta cần phải nói rõ sự thật như thế. Không thể chìm mãi trong sự lừa dối được.

BÀI HỌC TỪ MÙA XUÂN Ả RẬP

 

BÀI HỌC TỪ MÙA XUÂN Ả RẬP

Vào mùa hanh khô, cây cỏ dễ cháy. Một đám cháy nhỏ ở đầu ngọn gió có thể thiêu rụi khu rừng rộng lớn. Như vậy để bùng phát đám cháy thì phải có 2 yếu tố, thứ nhất là vật liệu cháy- cây khô, thứ nhì là có mồi lửa đúng lúc.

Ngày 17/10/2010, một thanh niên bán rau tên Mohamed Buazizi ở Tunisia bị cảnh sát cấm bán hàng rong trên đường phố. Điều này cũng có nghĩa là chính quyền triệt kế sinh nhai của anh ta. Nếu thời buổi kinh tế phát triển, anh ta dễ tìm đường khác để kiếm sống, nhưng lúc khó khăn, việc làm này của cảnh sát đã ép anh ta vào đường cùng. Nếu có sự chọn lựa trong việc kiếm tiền, tất sẽ không có sự phẫn uất đến mất khôn như vậy. Nhưng lúc khó khăn thì khác, nó là đường sống độc đạo, anh ta sẽ phản ứng một cánh mãnh liệt khó lường.

Nhìn bề ngoài việc trấn áp để dẹp những người bán hàng rong tưởng như chuyện bình thường, vì cảnh sát Tunisia cũng thường hay làm vậy. Thế nhưng không đơn giản như mọi lần, lần này Mohamed Buazizi lại phản ứng quá mãnh liệt. Anh ta tự thiêu để phản đối.

Cảnh sát chỉ là kẻ thừa hành, bọn họ làm theo mệnh lệnh cấp trên vì mục đích dẹp cho đường phố bớt đi cảnh nhớp nháp khó coi mà thôi. Thế nhưng, nếu chính quyền có trách nhiệm, họ đưa giải pháp để giải quyết khó khăn cho dân nghèo trước rồi mới ra tay dọn dẹp sau thì không có gì để nói. Đằng này, cũng tương tự chính quyền Việt Nam, chính quyền độc tài Tunisia chỉ biết đạp đổ chén cơm duy nhất của người nghèo mà không một trách nhiệm gì với họ cả. Trong lòng Mohamed Buazizi đã chất chứa phẫn uất chính quyền, giờ bị châm ngòi bởi hành động cảnh sát thế là anh ta tự thiêu. Thông điệp rõ ràng của anh ta là phản đối chính quyền.

Vì sự yếu kém trong điều hành, vì tham nhũng vv… đã dẫn đến vấn đề dân sinh bị bỏ phế. Dân cứ làm lụng vất vả để đóng thuế cho chính quyền, nhưng đổi lại, chính quyền chỉ biết vơ vét cho vào túi tham nhũng. Vấn đề dân sinh là trách nhiệm đương nhiên của chính quyền, nhưng họ lại không hề có trách nhiệm. Suốt 23 năm cầm quyền tổng thống Zine El Abidine Ben Ali đã không làm được vai trò gì cả, ngoài việc tham quyền cố vị để củng cố quyền lực mà trục lợi trên sự khốn cùng của nhân dân. Chính vì thế, có đến hàng triệu người đang chất chứa phẫn uất như Mohamed Buazizi chứ không phải chỉ cá biệt anh ta. Vì thế, cái chết tự thiêu của Mohamed Buazizi như một mồi lửa đúng lúc khu rừng đang hanh khô dễ cháy. Thế là hàng triệu người xuống đường đòi tổng thống phải từ chức. Kết quả, ngày 14 tháng 1 năm 2011 tổng thống El Abidine Ben Ali phải từ chức sau 24 năm nắm quyền.

Các nước trong thế giới hồi giáo có thể chế chính trị tương đồng. Cũng độc tài cá nhân cai trị thật lâu, cũng nạn tham nhũng, yếu kém quản lý đẩy dân nghèo vào cảnh tương tự Tunisia. Thế là nhiều rừng khô nằm cạnh rừng Tunisia cũng bắt lửa. Các nước như Ai Cập, Algeria, Maroc vv.. cũng sụp đổ theo. Người ta gọi nó là Mùa Xuân Ả Rập.

Mùa Xuân Ả Rập là một viễn cảnh mà CS VN rất sợ. Về kinh tế xã hội của Việt Nam và Tunisia lúc đó là khá tương đồng. Cũng tham nhũng, cũng yếu kém, chính quyền cũng lộng hành đạp đổ chén cơm dân nghèo. Thế nhưng phúc cho dân Tunisia là họ không bị giáo dục nhồi sọ và thông tin tuyên truyền dối trá của chính quyền làm cho hèn nhát như Việt Nam. Nên họ mới làm được Mùa Xuân Ả Rập, còn Việt Nam thì vẫn cứ chịu đựng. Thực ra trong lòng dân chúng họ có sức mạnh vô đối, nhưng họ không hề nhận ra. Một con hổ bị thay bằng não con cừu, nó đã tự xem nó là vô năng nên không hề nhận ra sức mạnh nội tại của nó.

Hiện nay CSVN sợ nhất là dân nhận ra sức mạnh số đông của mình. Cho nên, bằng cách này hay cách khác họ phải ngăn cản cho bằng được sự thức tỉnh của người dân. Để triệt đường thức tỉnh, họ tăng cường sự độc ác, thủ đoạn bẩn thỉu và bất chấp luật pháp. Họ càng ác chứng tỏ họ càng sợ. Với hành động hiện nay cho thấy, CS đang sợ sức mạnh nhân dân bị đánh thức.

Để phá vỡ sợ hãi thì có 2 yếu tố, thứ nhất là phá vỡ bức tường bưng bít thông tin cho dân tiếp cận sự thật, thứ nhì là sự khó khăn về kinh tế đẩy dân đến những ngõ cụt. 2 điều đó sẽ tích lũy phẫn uất, khi đạt đỉnh chỉ cần mồi lửa nho nhỏ sẽ bùng phát. Sự sợ hãi ư? Không sao cả, khi phẫn uất cao đến ngưỡng nó sẽ đạp đổ nỗi sợ hãi mà hành động thôi. CS cũng phải tới cảnh đó, vấn đề là sớm hay muộn.

Văn hóa tự nguyện

Văn hóa tự nguyện

Cảnh sát giao thông Hà Nội nhận một tờ nghi là tiền từ một người vi phạm giao thông. Sau khi “clip mãi lộ” đăng trên mạng xã hội ngày 11 Tháng Ba, 2018, 20 cảnh sát giao thông thuộc các Đội Cảnh Sát Giao Thông số 3, 5, 6 (PC67, Công An thành phố Hà Nội) bị đình chỉ. (Hình: Tuổi Trẻ)

“Cũng bởi thằng dân ngu quá ‘lợn’
Cho nên quân ấy dễ làm quan!” (Tản Đà)

Một chế độ đào tạo ra những con người của đất nước luôn luôn hành động một cách tự nguyện, không cần roi vọt, không cần ai nhắc nhở, phải chăng là một chế độ “tuyệt hảo?”

Ngày “cách mạng” mới vô, nhân gian thuộc lòng cái thủ tục “đầu tiên” là “tiền đâu?” Điếu thuốc lá đầu lọc được rút trong túi ra, ly cà phê sữa đá hột gà được đưa tận tay, không ai yêu cầu nhắc nhở!

Trong phường khóm, ngoài khu phố, làm ăn phải nhớ là “đất có Thổ Công, sông có Hà Bá,” nhớ chung chi cho đủ, tránh chuyện sạt nghiệp, ra toà hay vào tù, bởi muôn nghìn lý do. Sinh nhật lãnh đạo, vợ con lãnh đạo hay ngày “tứ thân phụ mẫu” qua đời, đừng để ai kêu réo nhắc nhở, công xa nối đuôi trước nhà, với phong bao trong tay, tự động bước tới quan tài, để tiền bên cạnh bát hương.

Ông Bùi Thanh Hiếu, tức Người Buôn Gió, kể chuyện “đi nghĩa vụ” dưới chế độ, lính về nhà hằng tháng cứ đóng tiền, thỉnh thoảng đến đợt huấn luyện thì vào. Còn khi đi lao động thì hằng tháng đóng tiền được về nhà khỏi phải đi lao động. Thấy cách đóng tiền hằng tháng nó cũng lằng nhằng, ông bố làm giá luôn cho gọn với “ông quân lực.”

Thay vì lãnh hình phạt đào ngũ, Người Buôn Gió được đưa về làm “tà lọt” cho đại đội trưởng, Hiếu tưởng mình được may mắn. Thời hạn nghĩa vụ của Người Buôn Gió có 2 năm 8 tháng, trong khi các bạn cùng lứa phải hơn ba năm mới hết hạn phục vụ. Hỏi ra, ông bố đã chạy hay đã mất hai chỉ vàng, lúc nhận giấy xuất ngũ một chỉ, lúc về nhà đóng thêm một chỉ. Toàn là tự nguyện, thấy “những việc cần làm ngay” thì làm, chẳng có ai ra giá cả gì!

Đã mấy chục năm nay, giữa ban ngày ban mặt, ngay giữa ngõ vào Sài Gòn, người ở nước ngoài về, khi đi qua hải quan, phải tự động kẹp tờ đô la vào passport. Cũng không có bảng thông báo giá cả, không có lệnh lạc, xin xỏ gì. Cứ nhìn vào khuôn mặt, ánh mắt của hải quan mà tự nguyện, tự động móc túi. Ở chỗ công đường, đơn từ muốn giải quyết nhanh thì luôn luôn có tờ bạc, tờ “bác” kèm theo. Không có lòng tự nguyện thì phải từ bị thương tới chết, bị chết hay tự nguyện chết.

Tại tòa đại sứ CSVN tại Kuala Lumpur, Malaysia, một phụ nữ Việt Nam tên Bạch Mai đã tự sát bằng dao, vì bị các nhân viên tòa đại sứ này từ chối làm thủ tục cho cô về nước. Thông hành của cô có hiệu lực trong 10 năm, trong khi cô chỉ mới nhập cảnh Malaysia cách đây bốn tháng. Đây rõ ràng là một sự xung đột văn hóa đưa đến cái chết oan khuất của cô. Quan chức Cộng Sản bản chất đã mang thứ văn hóa bôi trơn, văn hóa phong bì, người phụ nữ khốn khổ kia lại thiếu văn hóa tự nguyện, đành phải chọn văn hóa… tự sát.

Chạy xe ra đường, dù là loại xe nào, khi thấy mình có lỗi, hay có cảm tưởng rằng mình không có lỗi, bị công an đứng đường thổi còi chận lại, thì phải tự xét mình, “mỗi cái tóc là mỗi cái tội,” có văn hóa tự nguyện, thì tự động móc túi, giá cả theo buổi chợ. Dân vốn ngoan lẫn ngu, đưa tiền xong còn cảm ơn người thò tay ra nhận, coi mình như vừa được đại diện đảng và chính phủ ban phát đặc ân. Đó là “ơn đảng!”

Báo Dân Trí đưa tin, trả lời phỏng vấn tại hành lang Quốc Hội, đại biểu Quốc Hội Nguyễn Bá Thuyền nói với báo chí: “Có bộ trưởng đã phát biểu là cán bộ tôi không bao giờ đòi hối lộ cả, chỉ tại dân đưa, bởi thực tế, chúng tôi chỉ gây khó khăn, anh phải đưa tiền, không phải đòi.”

Cán bộ của ông bộ trưởng kia không ai đòi hối lộ cả. Thậm chí, người đưa tiền còn bị mắng cho là… không biết cách đưa, và vì hối lộ là tội hình sự. Song, có văn hóa tự nguyện thì quan chức chỉ “gây khó khăn thôi, còn việc đưa tiền là do anh!”

Cứ thử lên chốn công quyền nhờ việc gì đó, dù đó là công việc phục vụ của cán bộ, công chức, họ hạch sách đủ kiểu với hàng trăm lý do. Một trong những lý do là… thủ trưởng đi vắng, và dân hôm nay đợi, ngày mai đợi, ngày kia đợi… đợi mòn mỏi, đợi đến lúc phải có hành động tự nguyện.

Dạy cho người dân có tập quán và hành động tự nguyện không phải đất nước nào cũng làm được, mà phải được un đúc từ đường lối và nghệ thuật cai trị, “học tập và làm việc theo đường lối,” kinh qua một thời gian nhất là 70 tuổi đảng!

Đảng đã cho ta sáng mắt sáng lòng, phải biết “tự nguyện” mới xong việc này!

(Huy Phương)

PHÊ-RÔ TRẢI NGHIỆM LÒNG THƯƠNG XÓT

PHÊ-RÔ TRẢI NGHIỆM LÒNG THƯƠNG XÓT

Những giọt nước mắt hổ thẹn và hối hận lăn dài trên khuôn mặt của Phê-rô, khi ông vội vã thoát khỏi sân dinh vị thượng tế, là nơi Chúa Giê-su đang bị giam giữ.  Một tiếng nói bên trong nội tâm tra khảo ông: “Làm sao ông lại chối bỏ thầy Giê-su cách công khai như vậy?”  Cách đây ít lâu, ông không bao giờ có thể tưởng tượng là mình có thể quay lưng với Chúa Giê-su một cách nhẫn tâm như vậy.  Những lời khẳng định đầy hiên ngang mà ông vừa nói với Chúa Giê-su, nay lại quay về ám ảnh ông: “Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng” (Lc 22,33).  Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau khi Chúa Giê-su tiên báo, thì đêm hôm ấy, ông đã chối Chúa đến ba lần.  Phê-rô thầm nghĩ, mọi sự xảy ra quá nhanh.  Trước hết, ông cẩn thận tìm mọi cách để đi theo Chúa vào trong sân.  Rồi khi ông thấy mình đã bị nhận diện là môn đệ của Chúa Giê-su, ông chợt nhận ra là mình đang gặp nguy hiểm.  Đó là khi người ta bắt đầu lớn tiếng cáo buộc ông: “Cả bác nữa, bác cũng đã ở với cái ông người Na-da-rét, ông Giê-su đó chứ gì?” (Mc 14,67).  Ông cảm thấy hồi hộp.  Người ta càng thúc ép ông trả lời cho câu hỏi đó, thì ông càng cương quyết phủ nhận.  Trong chốc lát, thái độ nhún vai phủ nhận đã biến thành một lời thề công khai, khi ông bắt đầu thốt lên những lời độc địa mà quả quyết rằng: “Tôi thề là không biết người ấy” (Mt 26,74).

Ngay khi ông nhớ lại một chuỗi những sự kiện xảy ra quá nhanh, thì lòng ông quặn đau như thắt vì thất bại và ông cảm thấy hết sức chán nản.  Sau này, Phê-rô nhận thức rằng khi Chúa Giê-su quay lại nhìn ông, thì chính cái nhìn ấy – một cái nhìn đầy lòng thương xót – đã lay động tâm hồn ông, để ông nhận ra điều khủng khiếp mình vừa làm, đồng thời ông cũng nhận biết là Chúa đã thông cảm và tha thứ cho ông.  Khi ông nhận ra điều đó, ông đã khóc lóc thảm thiết.  Sertillanges đã chia sẻ như sau: “Đức Giê-su hướng về Phê-rô, mặc dầu ông ở rất xa, nhưng vẫn cảm được cái nhìn của Thầy, cái nhìn làm tan biến sự yếu đuối của trái tim con người, thâm nhập sâu vào tình yêu của nó và ban sức mạnh cho sự yếu đuối ấy.  Tảng đá đã chao đảo.  Nhưng chính trên tảng đá này mà nền móng của công trình đời đời được thiết lập.  Nơi đâu mà xác thịt loài người tỏ ra yếu đuối, nơi đó quyền năng của Thượng Đế được biểu lộ rõ ràng.  Phê-rô vấp ngã, nhưng ông là người thứ nhất tin rằng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, rằng Ngài là Đấng Thiên Sai Thượng Đế hứa”.[1]  Câu chuyện Phê-rô chối Thầy được Trình thuật cả trong bốn Tin Mừng, chỉ cho thấy Giáo Hội tiên khởi đã công bố khuyết điểm của vị thủ lãnh đầu tiên của mình, chứ không che đậy.  Dù vậy, họ được thêm vững mạnh, chứ không bị vấp phạm.  Kinh nghiệm của thánh Phê-rô xác nhận với họ rằng, thất bại là điều có thể chấp nhận được, bởi vì Thiên Chúa luôn luôn sẵn sàng ban ơn tha thứ.  Rất có thể là chính thánh Phê-rô đã phổ biến câu chuyện thất bại của mình, khi người không ngừng cố gắng khích lệ anh chị em mình phấn đấu – như Chúa Giê-su đã yêu cầu Phê-rô: “Si-môn, Si-môn ơi, kìa Sa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo.  Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin.  Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22,31-32).

Như Giáo Hội tiên khởi đã xem sự sa ngã của Adam là một “tội hồng phúc”, vì nhờ đó mà xuất hiện Đấng Cứu Thế, Giáo Hội cũng xem sự trượt ngã của Phê-rô là “tội hồng phúc”, vì nhờ đó mà Giáo Hội có được một vị thủ lãnh vừa yếu đuối vừa mạnh mẽ.  Phê-rô bị bó buộc phải đối diện với bóng tối của mình, và điều đó đã làm cho ông trở nên con người khiêm nhường đầy lòng thương xót.[2]  Qua hình ảnh của thánh Phê-rô, Giáo Hội được mời gọi luôn là Giáo Hội của lòng thương xót, và cần phải là Giáo Hội của lòng thương xót hơn bao giờ hết, vì Giáo Hội chính là thân thể mầu nhiệm và sống động của chính Chúa Giê-su, Đấng là mục tử nhân lành, Đấng là nguồn mạch của lòng thương xót.  Chính Ngài luôn yêu thương con cái của Ngài, và mời gọi tất cả những ai sống trong khổ đau và bất hạnh hãy đến với Ngài: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.  Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.  Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28-29).  Không chỉ dừng ở nơi đó, mà trong chiều sâu của tình yêu thương, Chúa Giê-su còn trao mọi người con của Chúa cho Mẹ Maria, người Mẹ của lòng thương xót.

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế, SJ

****************************** ****

Lạy Chúa, Đấng đầy lòng thương xót.
Xin thương đoái nhìn đến những góc khuất tăm tối, những yếu đuối mỏng dòn,
và những xáo động ồn ào trong con,
Xin thương đoái nhìn đến những phút giây bội thề, những yếu hèn nhát đảm,
cùng những lơ đễnh thoái thác trong con.
Con không đòi Chúa ban cho con bất cứ điều gì, ngoại trừ lòng thương xót của Người.
Trong cuộc sống thế trần, mọi sự chỉ như hoa cỏ sớm nở tối tàn.
Những gì con cho là cao quý cũng chỉ là phù vân hư ảo
và những gì con bận tâm lo lắng rốt cuộc cũng chẳng ý nghĩa đáng giá gì.
Lạy Chúa, xin thương xót và dắt dìu con,
Xin biến đổi con một lần nữa để con lại khao khát sống cuộc đời thánh thiện,
và trở nên người của Chúa cho dẫu trong con còn nhiều hoang mang cùng bối rối.
Con không cầu xin để biết rõ ràng và chắc chắn phải làm gì,
ngoại trừ mong mỏi một điều là được Ngài dẫn dắt theo nẻo đường tình yêu của Ngài,
để có thể dõi bước và tín thác vào lòng thương xót của Ngài.
Vì được như thế, con mới tìm thấy điều con hằng khắc khoải chờ mong.

Nguyễn Thế Anh, SJ, chuyển ý
Nguồn: Thomas Merton, A Year with Thomas Merton: Daily Meditations from His Journals, (Selected and edited by Jonathan Montaldo), (New York: HarperCollins e-books, 2007), 247.

[1] Sertillanges A.D., What Jesus saw from the cross – Từ trên thập tự, Fr. Thomas Tuý OP.  Chuyển ngữ, chương 7. Người thân yêu. Nguồn: www.nguoitinhuu.org.

[2] Wikie Au và Norren Cannon, Những thôi thúc trong tim, Nguyễn ngọc Kính OFM. chuyển ngữ, NXB. Phương Đông 2012, t. 246-247.

LÀM SAO ĐỂ SỐNG BÌNH AN?

LÀM SAO ĐỂ SỐNG BÌNH AN?

    Trong thế giới quay cuồng hôm nay, ước mong lớn nhất của nhiều người là xin cho được hai chữ “Bình An”. Hiểu được khát vọng sâu thẳm của lòng người, Chúa Phục sinh cũng đã ban phúc “Bình An” cho các môn đệ. Quả thật, Phúc Âm tuần này đã ban những thần dược giúp chúng ta sống bình an như sau:

  1. Mở lòng thương xót. Khi ban bình an, Chúa đã cho các môn đệ “xem tay và cạnh sườn Ngài.” Có nghĩa là Chúa cho xem những thương tích của lòng Chúa thương xót. Chúa không thương yêu theo kiểu chỉ chép miệng thương hại, nhưng Chúa đã sẵn lòng chịu thương đau đến độ mang thương tích vì thương xót chúng ta. Đây là lí do tại sao Chúa Nhật này lại là Chúa Nhật kính Lòng Chúa Thương Xót. Thế nên, nếu không thương xót thì lòng mình sẽ phập phồng bất an.
  2. Rộng lòng tha thứ. Khi ban bình an, Chúa đã thổi thần khí tha thứ vào các môn đệ. Chúa sống lại mà không trả thù những kẻ đã giết Ngài cho hả lòng hả dạ, không dạy cho các môn chạy trốn Ngài một bài học cho bõ ghét. Chúa tha thứ, Chúa quên hết mọi lỗi lầm của nhân loại. Thế nên, nếu không tha thứ thì lòng người sẽ ứ đọng thù ghét, chẳng có bình an. 
  3. Một lòng tin tưởng. Khi ban bình an, Chúa đã bảo Tôma: “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Ngay lập tức, Tôma bật lên lời tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!” Thế nên, nếu không tin tưởng Chúa và tin tưởng nhau, cứ sống nghi ngờ thì lòng người sẽ đầy rẫy bất an.

Tạ ơn Chúa phục sinh đã ban thần dược thương xót, tha thứ và tin tưởng cho chúng con sống bình an. Xin cho trái tim mỗi chúng con cũng lúc lắc những nhịp đập “thương người như thể thương thân” để làm cho gia đình, hội đoàn, giáo xứ, đất nước… trở thành những cộng đoàn chung một lòng thương yêu, chung một lòng tin tưởng như cộng đoàn tín hữu buổi ban đầu. Amen.

TRUONG NGUYEN
Los Angeles, USA

 From: KittyThiênKim & Nguyen Kim Bang

Việt Nam, ‘quốc gia say xỉn?’

Việt Nam, ‘quốc gia say xỉn?’

(Hình minh họa: HOANG DINH NAM/AFP/Getty Images)

Tạp ghi Huy Phương

“Việt Nam là quốc gia khởi nghiệp hay quốc gia say xỉn?” Đó là câu hỏi của ông Nguyễn Phương Nam, nhân viên của cơ quan Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) tại Việt Nam về tệ trạng bia rượu ở nơi nầy.

Loại văn hóa ăn chơi, nhậu nhẹt đã gia tăng thêm tai nạn giao thông trong những ngày lễ Tết. Tám ngày nghỉ Tết có bao nhiêu ngày nhậu? Chỉ từ ngày mồng Hai đến mồng Bốn năm nay, Bính Thân, cả nước có 13,695 trường hợp bị tai nạn giao thông phải cấp cứu tại các bệnh viện; 2,716 trường hợp đánh nhau phải nhập viện. Chỉ riêng ở bệnh viện Việt Đức, Hà Nội, thôi, trong ba ngày Tết, có hơn 200 trường hợp bị tại nạn xe cộ phải vào cấp cứu, trong đó, có tới 116 ca bị chấn thương sọ não vì va chạm hay té đập đầu xuống đường.

Hơn cả ma túy và tội phạm, tai nạn giao thông là nguyên nhân gây tử vong nhiều cho thanh thiếu niên ở Việt Nam. Trẻ em, dù chưa đủ tuổi để lái xe, đã trở thành nạn nhân của rất nhiều vụ đụng xe. Theo thống kê của UNICEF hồi đầu năm nay thì tai nạn giao thông khiến mỗi năm có khoảng 4,200 trẻ em bị tử vong và hàng ngàn em bị tàn phế vĩnh viễn hay chấn thương não bộ.

Con số của người Việt Nam chết trong thời bình như vậy là quá kinh hoàng!

Đúng là tai nạn giao thông ở Việt Nam quá đặc biệt, “chẳng nơi nào có được!”

Ở đây chúng ta không nói đến những lý do gây ra tai nạn như số xe quá tải cho đường sá quá lỗi thời, ý thức trật tự và thiếu giáo dục của người lái xe, hay sự buông thả hoặc ý thức đạo đức của cảnh sát giao thông, như ở các nước nghèo trên thế giới, nhưng thủ phạm giết người ở đây là chất cồn trong rượu, bia.

Việt Nam đã làm một cuộc khảo sát trên những người gây tai nạn hay bị tai nạn giao thông tại Việt Nam, trong số 1,840 người bị tai nạn phải vào phòng cấp cứu, thì đã có 67% người lái xe khi đang say xỉn, 45% người khác lái xe chỉ mới sau hai giờ nhậu nhẹt.

Những người bênh vực, cho rằng lý do tai nạn giao thông chẳng phải vì rượu. Họ lấy lý do, lượng bia tiêu thụ tại Việt Nam chỉ tương đối cao, chứ không hề dẫn đầu thế giới. Trên thực tế, theo tài liệu của WHO, nếu xét về mức tiêu thụ đồ uống chứa cồn trên đầu người, Việt Nam vẫn đứng khá xa cỡ thứ 29. Nhiều người biện hộ: “Con số này ở nhiều nước phương Tây vẫn còn gấp đôi chúng ta!”

Nhưng trên thực tế, hiện nay, Việt Nam đang là quốc gia có tỷ lệ người sử dụng rượu, bia cao thứ hai Đông Nam Á (sau Thái Lan,) thứ 10 ở Châu Á, và thứ 29 trên thế giới, nhưng trên thực tế có thể còn nghiêm trọng hơn nhiều, vì việc nấu rượu và buôn bán rượu (lậu) của tư nhân không được kiểm soát đến nơi đến chốn.

Kết quả điều tra do Bộ Y Tế và WHO đồng thực hiện vừa được công bố giữa tuần qua cho thấy, tỷ lệ đàn ông Việt Nam uống rượu lên đến 77%. Điều đáng lo là, trong 10 năm qua, số lượng rượu, bia sử dụng trên thế giới không tăng nhưng ở Việt Nam lại tăng dữ dội. Từ những năm 2003-2005, lượng tiêu thụ bia rượu tính trên đầu người là 3.8 lít/năm, năm 2010, tăng gấp đôi là 6.6 lít/năm. Dự báo cho năm 2025, con số này sẽ tăng lên 7 lít cho mỗi đầu người một năm. Việt Nam tiêu thụ khoảng 3.4 tỷ lít bia và 70 triệu lít rượu, đấy là chưa kể mỗi năm Việt Nam còn tiêu thụ khoảng 200 triệu lít rượu “tự biên!”

Chính phủ rõ ràng không có biện pháp nhằm hạn chế bia, rượu gây ra, dự thảo chống tác hại của rượu, bia đề xuất quy định cấm bán rượu, bia sau 10 giờ tối xem có vẻ khôi hài. Như vậy, dân nhậu có thể mua trước vài két bia trước thời gian này và sau đó thoải mái nhậu cho đến sáng. Cũng không có luật nào cấm trẻ em dưới 21 tuổi “nốc” bia rượu.

Nhiều ý kiến cho rằng người Việt Nam uống rượu bia vô độ và không biết kiềm chế, sau đó lại thoải mái leo lên xe lái đi, “anh hùng” có bao giờ tự nhận là mình đã say.

Việt Nam từ những năm 1975 trở về sau này đã tạo ra một thứ “văn hóa nhậu nhẹt.” Đàn ông sau giờ làm việc, đi thẳng về nhà với vợ, không biết nhậu là những “thằng hèn” không bao giờ thành công mà cũng chẳng được ai thuê mướn!

Tất cả các mối quan hệ giữa nhân viên và thủ trưởng, công ty và đối tác làm ăn, công ty và khách hàng đều được xây dựng trên bàn nhậu. Càng biết uống, càng được lòng chủ, càng dễ thăng chức, càng được lòng đối tác, càng dễ ký hợp đồng.

Ông Jean-Francois van Boxmeer, tổng giám đốc Heineken, đồng ý Việt Nam là quốc gia tiêu thụ bia cao nhất Đông Nam Á, với 3.4 tỷ lít bia trong năm 2015, đứng thứ ba châu Á sau Nhật và Trung Quốc, và nằm trong “Top 25” của thế giới. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng, dân số Việt Nam chỉ có 91 triệu, Nhật 127 triệu, và Trung Quốc là 1.3 tỷ người.

Như vậy, Việt Nam quả là “anh hùng,” vì người ít nhưng chịu nhậu nhiều, hơn là các quốc gia nhiều người mà nhậu ít.

Nhậu nhiều, nhậu giỏi, “chịu chơi” như vậy, nhưng gần 16 lao động Việt mới có năng suất làm bằng một người Singapore. Nếu giữ tốc độ này, phải mất hơn 60 năm, Việt Nam mới đuổi kịp được Singapore. Tương tự, một người Nam Hàn cũng có năng suất lao động bằng bảy người Việt cộng lại. Mức năng suất lao động của nước ta cũng bị Thái Lan, Philippines, Trung Quốc… bỏ xa.

Khi say xỉn rồi còn biết gì đến cảnh nước mất nhà tan. Xưa kia, mình trách Tây bày ra trò đá banh, hội chợ, bắn pháo bông… cho dân quên chuyện nô lệ, bây giờ chỉ nội cái văn hóa nhậu nhẹt đầu đường cho tới khuya, thì dân đâu còn muốn thấy, chẳng thèm nghe, chỉ còn tranh nhau nói lè nhè!