Lạnh lùng chăng, gió tha hương?

Suy Tư Tin Mừng Chúa nhật thứ 6 Phục Sinh năm B 06/5/2018

Tin Mừng (Ga 15: 9-17)

Khi ấy Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người. Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.

Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy.15 Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.

Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.”

 &  &  &

“Lạnh lùng chăng, gió tha hương?”

“Em về bên ấy, ai thương em cùng?”

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mai Tá lược dịch

Văn thơ ngoài đời, người người vẫn hỏi: “Em về  bên ấy, ai thương em cùng?” Thi ca Đạo, Chúa lại quả quyết: “Anh em là bạn của Thầy. Nếu anh em thực hiện điều Thầy dạy, Thầy sẽ không gọi anh em là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm” (Ga 15: 16). Đó là ý chính trình thuật Chúa đã tỏ bày, hôm nay.

Trình thuật, nay thánh Gioan lại đã ghi về một khẳng định Chúa từng bày tỏ: tất cả mọi người là bạn hữu chứ không phải bày tôi của Chúa. Kinh bổn khi xưa lại vẫn nhồi sọ bầy trẻ rằng: loài người có mặt trên trái đất là để phục vụ Chúa. Trong khi đó, Tin Mừng lại quả quyết: chúng ta là bè bạn và là anh em với nhau chứ không là bầy tôi, của ai hết. Điểm khác biệt, giữa bè bạn và bầy tôi là ở điểm: bầy tôi chỉ biết tuân lệnh của chủ một cách máy móc, chứ không nắm rõ ý định thâm sâu nơi lệnh truyền. Bởi lẽ, bầy tôi là người tôi tớ sống ngoài cục diện, cũng như tâm tư mà người chủ vẫn đan kết. Còn bạn bè, lại hiểu rõ lý do khiến bạn mình hành xử, là như thế. Có hiểu rõ, nên mới cảm thông, yêu thương, mật thiết.

Trình thuật, nay được phụng vụ Hội thánh chọn để nhấn mạnh, thêm một lần nữa, lời Chúa tâm sự với đồ đệ trước lúc Ngài giã từ mọi người, để cất bước ra đi chấp nhận khổ đau/sầu buồn đến nỗi chết. Tâm sự, là tâm tình tự sự của Chúa vào phút cuối, trong đó Chúa đã đưa ra lệnh truyền mới yêu cầu mọi người “Hãy thương yêu nhau!” Lệnh truyền, là lệnh yêu thương không theo nghĩa chung/thường tình nhưng là mang ý lực đặc biệt, như Chúa từng nhấn mạnh: “Như Thầy vẫn yêu anh em”.(Ga 15: 12) Đó là điểm chính yếu rất mới. Mới, là lời lẽ thâm sâu cứu độ, khiến Chúa nhập cuộc với con người. Lời và lẽ, của Tình Thương Yêu Ngài tỏ lộ vào ngày cuối, ở thế trần.

Vào ngày cuối, Đức Gêsu biết rõ giới chức cầm quyền ở Giêrusalem muốn trừ khử Ngài khỏi hiện trường cuộc sống với xã hội, nên họ mới tìm bằng cớ bắt giữ Ngài. Ngài lui về vùng đất phía bên kia Gio-đan, tức rời xa tầm tay với và quyền kiểm soát của giới chức đầy quyền thế, là Philatô, Hêrôđê. Nếu chỉ muốn cam phận chọn sống âm thầm ở nơi đó, hẳn là Chúa cũng không bị giới chức ấy đe doạ tính mạng Ngài. Nhưng ngay lúc đó, Ngài được tin người bạn thân thiết của Ngài là Lazarô ốm nặng, chắc khó sống.

Lazarô lâu nay vẫn sống ở thôn làng Bêtania, tức cửa ngõ dẫn vào thành thánh Giêrusalem. Còn Chúa, Ngài lại tạm trú ở Giuđêa, vùng đất nguy cho tánh mạng của các đấng như Ngài. Thành thử, Chúa đành chờ thêm hai ngày nữa để xem nếu như Ngài liều thăm Lazarô, thì sự việc có tồi tệ không? Mạng sống Ngài và của đồ đệ có an toàn không? Đức Giêsu biết rõ tình hình lúc ấy quả là nguy hiểm, nếu Ngài đến thăm Lazarô, có thể Ngài sẽ bị giới chức cầm quyền gài bẫy bắt Ngài rồi lên án chết.

Tuy nhiên, Ngài không sờn lòng, vẫn ra đi thăm bạn hiền đang sắp chết. Ra đi, khi đã đắn đo, chọn lựa. Ra đi, quyết chấp nhận mọi rủi ro, vì tình bạn. Tình bạn phải như thế. Dù có thể, khi đến nơi, Lazarô bạn hiền không còn đó, đã ra đi về miền vĩnh cửu không kịp giã từ Ngài. Và, quyết định của Ngài đã được thánh Tôma, cũng là bạn của Chúa, nhanh chóng hỗ trợ và cùng đi. Hoặc, nếu cần, sẽ cùng chết với Ngài vì tình bạn.

Đó là lúc Ngài thổ lộ: “Không có tình mến thương nào lớn hơn là thí mạng sống mình vì bạn hữu.”(Ga 15: 13) Và, đó là lúc Ngài thêm lời nhủ khuyên đồ đệ: “Hãy yêu mến nhau, như Thầy vẫn mến yêu anh em.” Tức bảo rằng: “Hãy yêu mến nhau, như Thầy đã mến thương (Lazarô) thế này đây!”

Chấp nhận mọi hiểm nguy mang đến cho cuộc sống vì bè bạn, không là ý niệm trừu tượng. Cũng không là châm ngôn về đạo đức. Nhưng, Ngài đi Bêtania là để chữa lành/vực dậy thi hài của bạn hiền, Chúa muốn triển khai nhanh tiến trình chọn cái chết cho Ngài. Tin Mừng thánh Gioan còn ghi rõ: chỉ sau đó, công nghị Giêrusalem mới chính thức lên án Chúa. Án đây là án chết, do Ngài liên tiếp chối từ mọi nhượng bộ làm theo ý họ. Và, họ tìm dịp để thực hiện quyết định đã đưa ra. Xem thế thì, chuyến đi thăm Lazarô ngoài việc chứng tỏ tình bạn là cao cả, còn là cơ hội đã thúc bách động tác có quyết tâm trên Ngài.

Đức Giêsu không là loại người tìm đến cái chết để chứng tỏ điều gì, dù cao cả. Quyết định của Ngài không phải là hành động tự kết liễu cuộc đời. Ngài không là vị anh hùng“kamikaze” cuồng tín. Ngài cũng không tìm đến khoái lạc trong khổ dâm, hoặc chết chóc. Không, hoàn toàn không phải thế. Trái lại, nơi Ngài lại có sự cao cả cùng nét đẹp về bản chất rất chân chất. Bản chất ấy, là dám hy sinh tính mạng mình vì bè bạn. Là, cho đi con người mình vì lòng mến thương rất độ lượng.

Với Chúa, có nhiều thứ nơi cuộc sống hơn là chỉ đơn giản sống sót với đời mình. Tình bạn chẳng khi nào là rẻ mạt hết.

Chúa cũng nói: “Thày đã không gọi anh em là tôi tớ, mà là bạn.” (Ga 15: 15). Bảo rằng: anh em là bạn hữu của Thày, thì anh em có chịu làm điều này với Thày mình không? Nếu anh em là bạn hữu của nhau, thì anh em cũng sẽ làm cho nhau như thế chứ? Bởi lẽ, lòng mến thương  -nhất là lòng thương và mến vì bạn hữu-  có thể sẽ làm cho anh em dễ bị tổn thương. Tình bạn còn khiến anh em biết lo lắng cho nhau đến độ dám liều mạng sống của mình vì người ấy. Tình bằng hữu có lòng mến cao cả và niềm vui, lẫn niềm đau nỗi khổ nữa. Hai việc này vẫn đi đôi với nhau. Anh em không thể muốn điều này mà lại không chấp nhận điều kia.

Lòng mến thương tựa như lửa ngọn. Lửa này vừa nung ấm tình người, vừa thắp sáng rọi chiếu khắp nơi. Đổi thay hết mọi sự rồi sẽ đưa vào sự sáng. Ở nơi đó, có một thứ lý lẽ rất hợp lẽ đạo nhưng không dựa trên lý trí, không tính toán. Như Chúa nói: Kẻ thù của Ngài chẳng có quyền hành gì trên Ngài hết. Ngài phú ban sự sống của Ngài chỉ vì Ngài muốn thế. Không ai có thể lấy đi khỏi nơi Ngài, tức ra khỏi lòng muốn của Ngài. Làm thế, Ngài đã chứng tỏ cho ta thấy Thiên Chúa là Đấng nào. Là Thiên Chúa, Ngài cũng làm như thế, thôi.

Thiên Chúa đối xử với ta như người “Bạn”, rất hiền. Tình Ngài thương mến ta không do định luật nào, vẫn đề ra. Tình Ngài thương ta, không do bộ óc con người suy diễn để định ước, hoặc ràng buộc. Tình Ngài đem đến cho ta nhiều nghị lực. Và, khi Thiên Chúa can thiệp mọi chuyện vì ta, điều đó không có nghĩa là Ngài đến từ bên ngoài vũ trụ, rồi Ngài thổi vào lớp vỏ bọc ngoài của trời trăng, cùng sông nước.

Nhưng, Ngài đến để chứng tỏ rằng: Ngài muốn thiết lập tình bè bạn rất đích thực. Và, để lưu lại mãi mãi nơi ta. Thiên Chúa tự cho đi chính Mình Ngài. Và, Đức Giêsu cũng mặc lấy nơi Ngài tình thương yêu ấy. Và, Chúa gọi đó là Tình Bạn. Ngài thực thi Tình này cũng một kiểu như người nghệ sĩ, để ta thấy được, nghe được và cảm nhận được.

Điều này, không diễn tiến theo kiểu tôn giáo nào đó đã lý luận, bảo rằng: Thiên Chúa Cha vẫn muốn Con Một Ngài phải chết đi hầu làm lắng dịu nỗi uất ức/giận hờn, nơi con người. Thiên Chúa là Cha, Ngài chẳng bao giờ thiết tha đến những chuyện như thế. Và, Đức Giêsu cũng chẳng ủng hộ những chuyện như thế. Ngài vẫn muốn sống. Vẫn muốn sự sống của Ngài, và còn hơn nữa, sự sống của bè bạn nữa.

Đó là ý nghĩa câu Ngài nói: “Chính do tình mến thương anh em dành cho nhau như bè bạn, mọi người sẽ biết anh em là môn đệ của Thày.”

 Và, chúng ta được dạy: Hãy thương mến nhau bằng tất cả sự hăng say, thương mến.Tất cả mọi người chúng ta có quyền lựa cho đi chính mình cho bè bạn như Đức Giêsu từng làm. Như Thiên Chúa là Cha từng làm và sẽ còn làm mãi mãi, không nguôi. Và, nếu mọi người chúng ta muốn trở thành người của Chúa rất đích thực, đó không là chọn lựa. Nhưng là lệnh truyền gửi đến với nhau, và cho nhau.

Hiểu thế rồi, tưởng cũng nên ngâm thêm lời thơ còn đó, đang chờ ta ngâm tiếp:

“Trời hồng chắc má em xinh,

            Nước trong, chắc miệng em cười thêm xinh.”

            (Đinh Hùng – Bài Hát Mùa Thu)

Mùa thu hát mãi trời hồng. Có má em xinh. Có miệng em cười. Cười xinh trong trời hồng, con dân của Chúa vẫn coi nhau như bạn hiền. Vẫn gọi nhau là anh em, suốt đời. Vẫn cứ mong, mọi người sẽ gọi nhau như thế mãi. Bởi, chính Chúa đã khẳng định và gọi mời mọi người làm như thế. Hết mọi thời.

Lm Kevin O’Shea DCCT biên-soạn

Mai Tá lược dịch

Như một lời cuối, tôi cám, tôi cám ơn đời,

Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ 6 mùa Phục Sinh năm B 06-5-2018

 

“Như một lời cuối, tôi cám, tôi cám ơn đời,”

như giòng suối mật bao ngọt ngào,

đời cho tôi nuốt …

Ôi ngọt ngào …

Làm sao trút hết nồi lòng của tôi.”

(Hoàng Thi Thơ – Lời Hát Tạ Ơn)

 (2Corinthô 5: 17)

 Trần Ngọc Mười Hai

Lời cuối hay lời đầu, cũng vẫn là lời và lời, mà thôi.  Lời đây, lại là lời hát những chữ “tạ ơn”, hoặc “cám ơn”. “Tạ ơn người”, cám ơn đời, nào người có hay”. “Tạ ơn Tình”,“hạnh phúc mênh mông” vẫn “bềnh bồng, trong gió trên mây.” tức nghĩa là: người được “cám ơn” vẫn thấy “mênh mông” một phúc hạnh rất “bềnh bồng”. Cám ơn đời/tạ ơn người vừa nằm xuống là cha giáo Úc cả một đời truy tìm tư-tưởng mới để rồi chia sẻ với mọi người, ở chân trời Sydney hôm nay. 

Chân trời Sydney hôm ấy, lại thấy đấng bậc Dòng mình cứ “cám ơn đời, cám ơn người”, rất hết mình qua bài điếu văn nói lên các đặc trưng/đặc thù của cha giáo Kevin O’Shea, quyết nói đến đặc trưng “truy tầm tư tưởng mới” của thày mình.

Được biết, hôm ấy Linh mục Giám tỉnh Ed Nixon có cho biết: mỗi ngày, cha giáo Kevin đều lên tàu sắt đi từ nhà phụ thuộc vùng New Castle, Sydney về nhà chính Kogarahmiệt mài “truy tìm tư tưởng mới” suốt 6 tiếng đồng hồ qua sách vở, rồi mới về.

“Truy tìm tư tưởng mới”, là động-thái lạ kỳ nhưng thiết-thực của nhiều bậc vĩ-nhân hôm nay. Kể ra tên tuổi các vĩ-nhân này quả là không hết. Có cố-gắng cho lắm, cũng chỉ hao tổn công sức và thì giờ, mà thôi. Thế nên, hôm nay, nhân cơ hội này, bần đạo xin mời độc-giả cùng bạn và tôi, ta kinh qua một số chuyện để rút tỉa kinh-nghiệm hầu sống cho thoải-mái, phúc hạnh.

Về việc “truy tìm tư tưởng mới”, bần đạo đây bèn nhớ lại câu nói đầy quyết tâm của một bạn đồng học từng nhắn nhủ, rằng: “Này bạn mình, sống mà không có tư tưởng nào mới cả, thà chết sớm còn sướng hơn, nhỉ?” Câu nhắn này, nghe qua cũng hơi mang tính “ngạo mạn” đấy! Thế nhưng, xét cho cùng thì có bảo thế cũng không sai.

Vừa qua, trong “truy tìm nguồn tư-tưởng mới”, bần đạo đây lại đã chộp được giòng chảy nhỏ của nhân-sĩ nọ có viết về “cuộc sống đầy dục tính” của loài người nói chung, xin tạm dịch một đoạn khá vui như sau:

“Có những sự việc lạ kỳ đang xảy đến trên thế-giới của chúng ta. Phía phụ nữ thì: sau khi phá vỡ các mẫu rập khuôn tuổi tác, đang đi vào địa-hạt phát-triển mọi nỗ-lực của con người. Các nước như Ấn Độ, Israel, Phillíppin, Na-Uy, Anh Quốc và nhiều nước khác đã và đang trở-thành thủ-lĩnh do dân bầu để cai-trị đất nước mình…” 

Thế đó, là một trong những cái mới nơi giòng chảy tư-tưởng của thời-đại. Thế còn, địa-hạt thần-học thì sao?   

Về thần-học, ta có thể nói mà không sợ sai lầm, rằng: ngay đến ông Phaolô của cộng-đoàn tín-hữu thời tiên-khởi cũng là người lâu nay và mãi mãi chủ-trương “truy-tìm nguồn tư-tưởng mới “. Chứng-cớ đành rành thấy rõ là qua khẳng-định đầy tâm-huyết của ông qua câu viết trong bức thư thứ hai gửi giáo-đoàn Corinthô ở đoạn 5 câu 17, vẫn cứ bảo:

“Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới.

Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi.” 

Cái mới-mẻ trong giòng chảy tư-tưởng, còn rải rác ở đây đó, chí ít là các bài viết hoặc sách/vở, ngày hôm nay. Dễ thấy nhất, là bài viết ta gặp được ở đoạn văn sau đây:

“Thiên Chúa vẫn thương-yêu ta, dù ta có ra thế nào đi nữa. Với Ngài, mọi người chúng ta đều là những con người phàm-tục đáng quí-trọng. Truyện kể hàng tư tế, còn nói lên một điều nữa, là: suy-tư của ta về các lỗi/tội hoặc sai sót/bất-toàn, không có chỗ đứng trong mối quan-hệ mật-thiết giữa ta và Thiên-Chúa. Điều này, còn có nghĩa: đã có khởi đầu mới, nên ta không cần ở mãi trong thân-phận tôi đòi, hoặc làm thân nô-lệ do gánh nặng của quá-khứ tạo cho ta.

 Một số người có vấn-đề về tội lỗi hoặc mang tâm-trạng tiêu-cực, lại cứ nghĩ: mình không xứng-đáng được Chúa cứu-vớt, nên càng phải xem xét cho thật kỹ thông-điệp này, hơn.” (X. Gs Marcus J. Borg, Gặp Gỡ Đức Giêsu Như Lần Đầu Từng Gặp”, Chương 6, nxb Hồng Đức 2018) 

Nói cho cùng, thì: người và ta cũng như ta và người, chỉ gặp được những gì là “mới mẻ” ở tư-tưởng thần-học, ngang qua và nhờ vào Thần Khí, mà thôi. Cố Gs Kevin O’Shea, CSsR cũng đã nhận ra được điều này, khi ông suy và niệm trình-thuật Tin Mừng do tác giả Gioan diễn và tả mọi sự việc xảy đến với cộng-đoàn tín-hữu thời tiên-khởi, mà bảo rằng:

“Trình thuật thánh Gioan, nay diễn tả là diễn và tả về Đấng tràn đầy Thần Khí, tức Đức Giêsu Kitô. Ngài là Chúa, rất thật như lịch sử cho thấy, mà không cần chứng minh. Tuy nhiên thời tiên khởi, nhiều người lại coi đây như danh xưng lờ mờ, chưa chứng tỏ. Có lẽ vì thế, cũng nên suy về thiên tính của Ngài để khám phá thêm về Đức Chúa.

 Thời xa xưa, khi nói Thiên Chúa là nói đến Giavê. Nếu có ai hỏi về những người sống cùng thời với Đức Giêsu xem Ngài có là Giavê Thiên Chúa không, thì câu trả lời khi ấy sẽ rất nhanh là tiếng “không”. Và, nếu có hỏi chính Đức Giêsu cũng bấy nhiêu từ, thì chắc hẳn Ngài cũng nói tiếng “không” hệt như thế.

 Bởi, người sống gần gũi Đức Giêsu lúc ấy, vẫn không nghĩ Ngài là Giavê Thiên Chúa, hoặc Đức Chúa của ai, mà Ngài chỉ là ngôn sứ do Giavê gửi đến, thôi. Thế nên, người sống ở thời của Chúa ít khi thắc mắc về “thiên tính” của Đức Giêsu, cũng dễ hiểu. 

Ngay thánh Phaolô cũng ít khi tự vấn mình bằng câu hỏi Đức Giêsu có là Thiên Chúa không? Tất cả các thánh thuộc Giáo hội thời ban đầu đều có ý nghĩ: Đức Giêsu có tràn đầy thiên tính nên Ngài mới kết hợp mật thiết với Thiên Chúa đến độ ngoài Ngài ra, không ai có được cảm nghiệm nào như thế. 

Kết cục là, Thiên Chúa vẫn hiện hữu và nổi lên cách đương nhiên ở bên trong và chung quanh Đức Giêsu, vì con người. Đức Giêsu sẻ san mọi điều Thiên Chúa đã và đang làm với Chúa và trong Chúa. Và, Thiên Chúa cũng thực hiện công trình của Ngài với Đức Giêsu và trong Đức Giêsu. Thiên Chúa và Đức Giêsu ở gần nhau đến độ không ngôn ngữ nào nói lên được sự gần gũi ấy.

 Tín hữu thời giáo hội tiên khởi phải mất một thời gian dài mới tìm ra ngôn ngữ chính xác để nói lên tương quan giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa cũng như giữa Thiên Chúa và Ngài. Tương quan ấy, dựa trên niềm tin rất chính xác rất mới về tính “có một không hai” của Đức Giêsu. Tín điều này, nảy sinh và lớn mạnh cũng chậm, nhất là với thế giới Hy Lạp.

 Ngay đến Tin Mừng của các thánh cũng viết theo văn phong cốt cách nhằm lôi cuốn sự chú ý phấn khởi của mọi người để biết rõ Đức Giêsu là Đấng nào. Tin Mừng các thánh viết ra không là văn bản lịch sử và cũng không là định nghĩa chính thức về Ngài. Tân Ước chỉ để ra đôi đoạn rời rạc về chuyện này và xem ra cũng không mang tính nhất quán. Có Tin Mừng nói rất rõ về thiên tính của Chúa, trong khi đó, có bản lại nói ngược hẳn.  

    Chừng như nhận thức công khai và rộng rãi về thiên tính của Đức Giêsu chỉ có được vào những năm cuối thế kỷ đầu, thôi. Nhiều người lại cứ nghĩ: mặc khải về thiên tính của Đức Giêsu, là điều cốt yếu của niềm tin, và được củng cố theo khuôn thước của Công đồng Hy-Lạp bằng cung cách dễ tiếp cận. Sự thật tuy còn đó, nhưng ngôn ngữ con người vẫn luôn nghi ngờ hết mọi sự.

 Thật ra, người thời ấy vẫn thấy khó mà nắm được ý nghĩa ngôn ngữ mà họ sử dụng hằng ngày. Giống như tiếng Hy Lạp vẫn là thứ ngôn ngữ rất lạ, đối với người thường. Lạ đến độ, có người vẫn tự hỏi lòng mình xem có cách nào khác để khám phá ra thiên tính đích thực của Chúa không? Cung cách mới chứ không phải ngôn ngữ cổ của thời xưa.” (X. Lm Kevin O’Shea CSsR, Lời Chúa Sẻ San năm B, 2018 tr. 114-115)

Cung cách mới chứ không phải ngôn-ngữ cổ thời xưa”, vẫn là những thứ và những sự làm bận tâm cộng-đoàn Hội-thánh suốt nhiều thời. Thời nay, nhiều người nắm bắt được điều mới mẻ ấy, vẫn nói những lời đầy cảm-kích như những ca-từ còn hát mãi, ở bên dưới:             

 “Như một lời cuối, tôi cám, tôi cám ơn người,

Nào người có hay,

nhưng tràng pháo tay là những phút giây,

làm tiếng hát thêm say, làm tiếng hát cao bay

đời ta bảy bờ 

Như một lời cuối, tôi cám, tôi cám ơn Tình,

Tình đến như mộng, với cuộc tình hồng,

với cuộc tình nồng cho tôi hớp cạn bao phút thiên đàng,

hạnh phúc mênh mông.

 Rồi mai đây nếu tôi không còn trên đời này,

thì lời này còn nồng nàn như hớp rượu say

Rồi mai đây nếu tôi không còn

thì lời này còn bềnh bồng,

bềnh bồng trong gió, trên mây

(Hoàng Thi Thơ – bđd)

Hát những lời “bềnh bồng trong gió, trên mây”, còn để mọi người trong đó có tôi và bạn, những con người đang suy-tư cảm-kích thứ “tình người” và “tình đời” vẫn mênh mông, rộng khắp chốn bằng đủ mọi hình-thức thân quen, mới cứng rất trân trọng ở đời người. Những tình-tự như thế, còn được trân-trọng bằng giòng truyện kể rất dễ nể như bên dưới:

“Có tên cướp đi vào ngôi làng nọ. Hắn ta ẩn vào nhà vị bác sĩ duy nhất trong làng, tức: người mà hắn tin rằng rất giàu, nên dự tính đến khuya sẽ nắm đầu ông bác sĩ và bắt ông nói chỗ cất giấu của cải quý giá của mình, rồi giết ông đi để bảo mật. 

Đêm hôm ấy, đột nhiên có điện thoại từ người thân của đứa trẻ làng bên cạnh đang bị bệnh rất nặng cầu cứu bác sĩ. Lúc ấy, vào mùa đông, trời đổ tuyết lớn, mưa gió bão bùng, thôn làng của đứa trẻ bị bệnh lại cách xa một quả núi, đi đến đó sẽ gặp nhiều nguy hiểm trên đường, mà trời lại quá khuya, trong khi ông đã trải qua một ngày trời quá mệt mỏi.

 Gác điện thoại, ông bác sĩ thở dài dự định lên giường để nghỉ. Nhưng rồi ông lẩm bẩm tự nhủ: mình không đi bây giờ lỡ ra đứa trẻ ấy chết đi thì sao. Nghĩ thế xong, ông lấy lại tinh thần bèn mặc thêm áo ấm, cầm theo cây đèn bão rồi mở cửa, ra đi. Dáng ông liêu xiêu trong gió tuyết. Sáng hôm sau khi ông bác sĩ trở về, tên cướp đón ông ngay trước cửa nhà, sụp xuống dưới chân ông:

-Ông có biết tôi chờ ông suốt từ đêm qua tới giờ không?

-Xin ông vào nhà để tôi khám bệnh cho ông, Bác sĩ đáp lại.

Tên cướp nói:

-Không phải thế. Tôi là một tên ăn trộm. Đêm qua, tôi đã ẩn nấp trong nhà ông. Tôi muốn bắt ông khai chỗ giấu của cải và rồi quyết-định sẽ giết ông. Nhưng hôm qua, giữa trời mưa gió bão bùng, tuyết rơi khắp chốn, ông lại bất chấp nguy hiểm đi chữa bệnh cho người ta. Tôi cảm thấy rất xấu hổ vì định làm hại một người có lòng tốt như ông. Khi ông ra đi trong đêm tối, ông không chỉ cứu đứa trẻ ở làng bên kia mà thôi, nhưng còn cứu chính bản thân ông. Và ông biết không, ông còn cứu cả tôi nữa”.

 Thật may cho ông bác sĩ và ông Thượng vì cả tên cướp trong câu chuyện trên và anh thanh niên được kể trong đề bài đều “không thể đối xử với tình thương bằng lòng tham của mình”. Sự may mắn ấy của một con người không phải đến một cách tình cờ mà nó được tích lũy bởi lòng chân thành và tình thương của họ. Tình yêu thương của con người vẫn có thể lay động cả đất trời.

 Bởi thế nên, có thể nói rằng: chúng ta bất kể giàu/nghèo, sang/hèn đều gắn kết với nhau được đó là  nhờ việc “cho đi”. Cho đi, giống như hành-động  của một Bill Gates, hay Warren Buffet là những vĩ-nhân có thể thay đổi cả thế giới. Chúng ta cũng có thể không hoặc chưa làm được những điều lớn lao như các vị này, nhưng chúng ta vẫn có thể cho đi bằng những hành-động bé nhỏ hằng ngày.

 Đó có thể đơn giản chỉ là một nụ cười dịu nhẹ tỏ ra với người bán hàng, hoặc lời cám ơn chân thành gửi đến người lao công ở trên phố, hoặc biết chia sẻ công việc nhà với bà con, hoặc biết xếp hàng ở phố/chợ, biết bỏ cọng rác vào thùng, biết xách hộ cái giỏ nặng cho phụ nữ mang bầu, biết nhường ghế cho cụ già vất vả trên xe buýt…

 Vào những lúc có thể, ta cũng nên làm những việc nhỏ bé, chỉ vậy thôi. Nếu tất cả mọi người đều biết cách sống mà “cho đi”, ắt hẳn tất cả mọi người lại sẽ nhận ra thiên đường, ở thế gian này.

 Có người lại sẽ bảo: tôi còn nhỏ tuổi và đời tôi đâu phải màu hồng mà phải làm thế. Riêng tôi thì nghĩ khác. Bút màu cầm trong tay, ai cũng có quyền tô vẽ màu sắc cho đời mình được hết. Để kết thúc những giòng chảy này, nay xin kể thêm câu truyện kể về hai cái hồ ở đất nước Palestine thuộc miền Trung Đông binh biến.

 “Nhiều người vẫn bảo: Palestine có hai biển hồ. Biển thứ nhất là Biển Chết. Đúng như tên gọi, không có sự sống nào ở bên trong hoặc xung quanh biển hồ này. Nước trong hồ, không loại cá nào lại sống nổi mà người uống cũng bị bệnh. Không ai muốn sống ở gần đó. Biển hồ thứ hai là Hồ Galilê. Đây là biển hồ thu hút khách du lịch nhiều nhất. Nước ở biển hồ lúc nào cũng trong xanh mát rượi, con người có thể uống được mà cá cũng có thể sống được. Nhà cửa được xây cất rất nhiều ở đây. Vườn tược ở đây tốt tươi là nhờ nguồn nước này…

 Nhưng, có điều lạ kỳ là: cả hai biển hồ này đều đón nhận nguồn nước từ sông Jordan. Nước sông Jordan chảy vào biển Chết. Biển chết đón nhận và giữ lại cho riêng mình mà không chia sẻ cho nơi nào khác, nên nước ở Biển Chết trở nên mặn chat, với mặn chằng. Biển hồ Galilê lại cũng nhận nguồn nước từ sông Jordan rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch khác, nhờ vậy nước ở hồ này luôn sạch trong và mang lại sự sống cho cây cối, muôn thú và cả con người nữa.

 Ánh lửa sẻ chia là ánh lửa lan đi khắp chốn. Môi người, có hé mở mới thu nhận được nụ cười. Bàn tay có mở rộng và trao ban mọi thứ, tâm hồn mới ngập tràn niềm vui bất tận.

 Thật bất hạnh cho những ai suốt cả cuộc đời chỉ biết giữ riêng cho mình đủ mọi thứ. Sự sống ở trong họ, rồi cũng sẽ chết dần chết mòn như nguồn nước trong biển chết”. (Truyện kể do St sưu tầm và chuyển tải để mọi người biết).

 Nói cho cùng, có cho đi thật nhiều rồi cũng sẽ thấy cuộc đời mình vui biết chừng nào. Hãy cám ơn đời/cám ơn người cho thật nhiều dù không nhận được bao nhiêu, từ người khác. Bởi, tất cả là ân-huệ; thế nên, sẽ có lúc người và ta cũng như ta và người tha hồ mà nhận lĩnh, mãi không thôi.

Thế đó, là ý-nghĩa của đời người. Một đời vẫn cứ cho đi nhiều hơn là nhận-lĩnh suốt có đính kèm một “cám ơn đời”, “cám ơn người” về mọi sự.

Trần Ngọc Mười Hai

và những quyết-định nhỏ

có thêm lời cảm tạ bậc thày 

là cha giáo Kevin O’Shea, DCCT

vừa quá vãng cũng mới đây.

MỘT NHÂN CÁCH TẬT NGUYỀN

Son Ngo and 3 others shared a post.
Image may contain: 1 person, sunglasses and text
Lê Huỳnh Long Ân

MỘT NHÂN CÁCH TẬT NGUYỀN

Y thị tên là: Dương Thị Thùy Trang – Chánh văn phòng Đảng ủy Khu kinh tế Hải Phòng.

ngày 2.5, trên đường Nguyễn Bình, quận Ngô Quyền, TP.Hải Phòng, Thị lái xe hơi va chạm với một sinh viên DHHH điều khiển xe gắn máy.
Sau khi xảy ra va chạm, nam sinh viên cho rằng mình không sai nên đã gọi báo công an. Hai bên chủ phương tiện xảy ra tranh cãi. Phía nữ tài xế ô tô và người đi cùng liên tục to tiếng xưng hô “mày, tao” với nam sinh viên. Tuy nhiên, sinh viên này vẫn giữ thái độ hòa nhã, xưng hô đúng mực với nữ tài xế.

Khi Cảnh sát có mặt và yêu cầu thị chở anh sinh viên bị thương vào viện thì Y thị tuyên bố xanh rờn rằng:

”Mạng người không quan trọng bằng xe tôi” !!!

https://baomoi.com/nu-tai-xe-tuyen-bo-mang-n…/c/25903556.epi

GÓC SUY GẪM…

 
 
Van Pham

Nếu Thực Sự Có Thượng Đế, Sao Còn Nhiều Người Khổ Cực Đến Vậy?… Tuệ Tâm…

Nếu trên thế giới thật sự có Thượng đế, thì sao vẫn còn rất nhiều người phải khổ cực đến vậy? Thượng đế vì sao không cứu giúp họ? Câu chuyện dưới đây, sẽ khiến nhiều người phải suy ngẫm về vấn đề này…

Nếu như Thượng đế thực sự tồn tại, vậy làm sao mới có thể gặp được Ngài? Cuộc đối thoại giữa một bệnh nhân nhí và vị nha sĩ sẽ cho chúng ta biết được phương pháp tìm kiếm Thượng đế.

Đợt trị liệu cuối cùng đã kết thúc, vị nha sĩ nói:
– “Tốt rồi, chúng ta đã trị liệu xong”.
Bệnh nhân là một cô bé, nói:
– “Vâng, xin cảm tạ Thượng đế”.
Nha sĩ mang ánh mắt nghi ngại nhìn cô bé và nói:
– “Thượng đế sao?”.
Cô bé hỏi:
– “Ông thấy có vấn đề gì ạ?”
Bác sĩ:
– “Cô bé, thời buổi này còn ai tin tưởng vào Thượng đế nữa chứ?”.
Cô bé đáp:
– “Cháu tin. Vì sao ông lại nghi ngờ điều đó?”
Bác sĩ:
– “Rất hiển nhiên, cháu không để ý thấy hết thảy chiến tranh, nghèo đói và bất hạnh trên cuộc đời này vẫn đang diễn ra hằng ngày sao? Vậy Thượng đế đang ở đâu?”.
Cô bé nói:
– “Nếu nói như vậy, cháu cũng không tin trên thế giới này có nha sĩ. Nếu trên thế giới thực sự có nhiều nha sĩ như vậy, thì tại sao vẫn có nhiều người đau răng, sâu răng, thậm chí rụng răng chứ?”.
Nha sĩ nói:
– “Những người đó không tới tìm ta trị liệu, thì ta đâu thể giúp được!”.
Cô bé nói:
– “Không sai! Thượng đế cũng là như thế. Chúng ta có thể nào hy vọng xa vời vào việc Thượng đế đi cứu giúp những người mà không cầu Ngài giúp đỡ, ngược lại kiên trì làm theo ý mình hay không?”.
Nha sĩ:
– “Vậy ta phải làm như thế nào làm mới có thể đi đến chỗ Thượng đế?”.

Cô bé đáp:
– “Hãy nói chuyện với Thượng đế, Ngài ấy vẫn luôn đang lắng nghe”.
************

Người có lòng tin vào Đấng tối cao và Thần Phật thường là người lương thiện, trong tâm họ luôn chứa đựng những lời dạy bảo và ý chỉ của trời cao. Họ luôn luôn vui vẻ, bao dung và biết ơn. Họ tin rằng thiện ác hữu báo nên họ không làm điều ác, tôn sùng điều thiện và hòa ái, chân thành.

Còn người không tin vào sự tồn tại của Thượng đế, không tin vào thiện ác hữu báo, thì họ dám làm bất kỳ điều gì để đạt được danh lợi cho mình, không có đạo đức để ước thúc tâm mình.

Shakespeare đã từng nói rằng:

“Đừng phỉ báng những điều bạn không biết sự thật, nếu không, tính mạng của bạn sẽ gặp trùng trùng điệp điệp những nguy hiểm”.

Hãy nhìn xung quanh chúng ta, nếu một thế giới không có đức tin đúng đắn, người ta sẽ không còn phân biệt được thiện – ác, đúng – sai. Chân thành, lương thiện, nhẫn nhịn, người có những đức tính này là những người tốt nhất. Còn người bị tiền bạc thay thế thiện niệm, bái lạy Thần chỉ vì danh lợi, họ đã bị mất đi phương hướng, tìm không thấy ý nghĩa đích thực của cuộc sống này.

Bản tính con người là thiện – ác đồng thời tồn tại. Vậy nên, hạt giống lương thiện ở trong tâm hồn mỗi chúng ta, hãy tưới lên nó đức tin đúng đắn, nếu như vậy bạn sẽ tuyệt đối không mất gì mà còn có được một cuộc sống hạnh phúc tròn đầy!

Image may contain: one or more people, people standing and outdoor

Giá trị bài viết chính là chỗ đó, chỗ ngài chữa bệnh.

 
Hoa Kim Ngo shared a post.

Kết thúc bài dài lê thê của mình, ngài đã viết:

“Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững niềm tin son sắt vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa cao đẹp và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ kính yêu và nhân dân ta đã lựa chọn, chúng ta quyết tâm đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, năng động và sáng tạo, nỗ lực phấn đấu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.”

Có lẽ ngài đã chấp bút trên giường bệnh sau nhiều đêm dài suy tư. Kết luận của ngài sẽ giá trị biết bao nếu nơi ngài tịnh dưỡng bệnh là Việt Nam hoặc Cuba, hai thành trì vững mạnh của chủ nghĩa xã hội, tương lai của nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới ngày nay, thay vì Nhật Bản, một xứ sở lâu đời của chủ nghĩa tư bản giãy chết của phần nhân loại đáng thương!

Giá trị bài viết chính là chỗ đó, chỗ ngài chữa bệnh.

BÀN VỀ SỰ “HÒA NHẬP” CỦA CÁO GIÀ CS

Đỗ Ngà

Phải nói chủ nghĩa Marx Lenin từ đầu nó đã xem lối trá là phần cốt lõi của sinh mạng chế độ. Đã là loài trâu bò thì ăn cỏ, mà hổ báo thì ăn thịt không thể khác, vì trong bộ máy sinh học mỗi loài nó định thế. Đã là dân chủ thì phải minh bạch và trung thực, còn CS thì phải dối trá và che đậy.

Nhìn vào cấu tạo bộ máy chính quyền và bộ máy Đảng thì ắt biết. Trong chính phủ có bộ TT-TT và trong bộ máy Đảng có Ban Tuyên Giáo. 2 cơ quan này chuyên làm dối trá với nhân dân để bảo vệ sự sống cho chế độ. Trong nước, chính quyền CS cho phối hợp 2 cơ quan dối trá kia với Bộ công an để thực hiện công cuộc tàn phá trí lực dân tộc. Ban Tuyên giáo và Bộ TT-TT vừa cấm sự thật vừa cấy dối trá, nếu kẻ nào lọt sổ vì cứng đầu không chịu tin lời nói dối, thì đến lượt Bộ Công an ra tay trấn át những kẻ đó bằng bạo lực. 2 tầng như thế thì trí lực dân tộc không nát thì cũng nhừ.

Với cấu tạo đặc thù như thế, giống như trâu bò gặm cỏ, nếu không còn cỏ nó sẽ chết đói. Cho nên không có dối trá CS sẽ vong.Vì vậy mà để làm CS suy yếu và sụp đổ thì không thể thiếu vải trò của việc truyền bá sự thật. Khi nào người dân còn từ chối sự thật khi đó CS còn đất sống.

Ngày nay có một nghịch lý mà ai cũng thấy. Đó là sự thật về một đất nước tan nát vì đạo đức xuống cấp, sự nghèo khó của nhân dân, sự hèn yếu của chính quyền vv… thì ai cũng biết, nhưng nhắt tới những sự thật quá khứ thì rất nhiều người không thể dung nạp được. Đến nay ai nói động tới sự thật về Hồ Chí Minh thì lập tức vô số kể phản ứng mãnh liệt, trong đó có cả những người được cho là có nhận thức tiến bộ.

Nếu bạn phân tích con người Hồ Chí Minh dựa vào những bài báo bịa đặt của ông ta dưới bút danh C.B thì chắc chắn bạn sẽ nhận vô số gạch đá. Nhưng nếu viết bài phân tích về sự dối trá của VTC về sự bịa đặt câu chuyện “giọt sữa cuối cùng” thì sẽ có nhiều sự đồng tình hơn. Nhìn thế chúng ta mới thấy, rất nhiều con người Việt Nam dù không hài lòng chế độ nhưng họ vẫn còn nhiễm dối trá rât nặng. Đấy là đất sống cho chính quyền CS.

Như đã nói từ đầu, dối trá là nguồn sống của CS. Bộ máy chính quyền nó được lập ra là để cấy sự dối trá, và tất nhiên dối trá là thứ thần dược của ĐCS. Trên thế giới còn 4 chính quyền sống bằng dối trá như thế và bọn chúng không thể nào lập thành khối chơi chung được. Trong 1 đám 4 thằng, CSVN chơi được 2 trong 3 thằng CS còn lại, một thằng là chủ nó và một thằng là bạn nó. Sân chơi CS trên toàn cầu xem như đã khai tử.

Có người nói đùa rằng “qua 32 năm người ta cho ngồi chung mâm cỗ với giới thượng lưu, nhưng anh CS Hà Nội vẫn chưa rửa sạch được phèn nơi gót chân”. Trong ao nhà Việt Nam, CS là vua, hắn giữa độc quyền cai trị. Hắn vẫy vùng với mớ nước phèn dối trá bịp bợm, gian xảo, lợi dụng vv… mà chẳng gặp trở lực gì. CS Hà Nội chỉ có thế, hành trang của hắn chả có gì khác nên hắn mang những hắn có ra chơi với thế giới văn minh.

Sân chơi toàn cầu bây giờ là sự minh bạch và trung thực của thế giới tự do. Nó có luật chơi chung hẳn hoi, một trong qui tắc đó là anh phải tôn trọng luật pháp chủ nhà khi anh đến đất nước người ta. Thói vừa côn đồ vừa gian xảo cần phải vứt bỏ. Ai cũng chơi theo luật đàng hoàng, chỉ mình anh làm trò khỉ phá rối sự quy củ của một tổ chức văn minh thì ai dung nạp được anh?

Thế nên sự tùy tiện bắt người, và dùng sự dối trá che đậy là một thói quen của chính quyền CS. Cách hành xử với dân như vậy được không có nghĩa là làm thế với EU được. Đức đang tiến từng bước chậm mà chắc để xử lí vụ bắt cóc người ngay trên nước họ, một quốc gia luật pháp hả hoi bị người của quốc gia khác bắt người ngay trên lãnh thổ họ. Hiện nay Slovakia tự dưng lại bị dính rắc rối với Đức vụ này, vì sự hiếu khách Slovakia đã phải chuốc lấy phiền phức. Lòng hiếu khách của một quốc gia đã bị lợi dụng. Chắc Slovakia họ sẽ tởn tới già với thằng láu cá VC.

Không biết vụ này sẽ ra sao, nhưng chắc chắn 1 điều, Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị EU trừng phạt vì bản năng hoang dã của CS. CS sẽ mãi mãi không thể hòa nhập vì bản chất của nó khác hoàn toàn với số số còn lại trong sân chơi. Vì dối trá, lật lọng, côn đồ, lợi dụng là bản chất sống còn của nó, nó chỉ đứng ké mà chưa bao giờ hành xử như những thành viên biết chơi theo luật. Mãi mãi nó là kẻ lạc lõng.

Tà đạo

Image may contain: one or more people
Tinh Hoa

Tà đạo:

🍀Những năm thập kỷ 60, không hiểu ở Trung Quốc có cái đạo gì mà xúi dục dân chúng cả nước ra sức đập phá không biết bao nhiêu là chùa triền, phá hủy biết bao nhiêu là tượng Phật, các công trình tâm linh, văn hóa, truyền thống đều bị đập phá, đốt phá không thương tiếc. Những thành tựu văn minh phải mất hàng nghìn năm mới hình thành được mà chỉ qua vài năm ngắn ngủi đã bị cái đạo đó xúi người ta phá hủy tan tàn, phá từ vật chất tới tinh thần, từ thể xác tới linh hồn.

🍀Nghe đâu còn lôi cả họ hàng thân thích ra đấu tố, con đấu tố cha mẹ, anh em đấu tố lẫn nhau, hàng xóm láng giếng đấu tố nhau, trò đấu tố thầy, mọi quan hệ, luân thường đạo lý đều bị xúi dục để tạo thành mâu thuẫn, cả xã hội lao vào cuộc đấu, đập, phá, giết. Biết bao nhiêu người bị đem ra xử tử, tạo nên nỗi kinh khiếp cho những kẻ còn sống xót.

🍀Nếu chính đạo dạy con người sống lương thiện, từ bi, chân thật, xả bỏ tham sân si hỷ nộ ái ố thì tà vạy đạo sẽ dạy những thứ ngược lại. Than ôi, thời đại biến đối ngày nay, người ta cho Thiện là Ác, cho tốt là xấu, coi Tà là chính, coi giả dối là chân thực nên chẳng còn biết đâu là chuẩn mực để đo lường tốt xấu, chỉ hùa theo đám đông khi nhìn nhận vấn đề và hành xử cũng theo đám đông bày đàn.

Thống Nhất và nỗi đau ly tán của dân tộc

Thống Nhất và nỗi đau ly tán của dân tộc

TẠP GHI HUY PHƯƠNG

  

 

 

 

 

 

 

 

… Các mảnh vỡ từ hai bên cố ráp vào vẫn rời ra, xộc lệch không tài nào ăn khớp.
(Trăm Năm Ly Hợp- Lê Khắc Hoan)

Cảnh sum họp của những người con có Cha tập kết ra Bắc trở về Nam sau ngày 30 tháng 4-1975, tưởng chừng vui tươi cảm động đầy nước mắt trong một màn tái ngộ, đã trở thành một cảnh ngỡ ngàng xót xa.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Lưu Quý Kỳ, Vụ Trưởng Báo Chí Ban Tuyên Huấn Trung Ương và TTK Hội Nhà Báo Bắc Việt, năm 1954, đã cùng vợ ra đi tập kết, để lại miền Nam hai đứa con, một trai mới lên một tuổi và một gái mới lên ba, cho bà Ngoại nuôi. Người con trai bị bỏ lại miền Nam khi mới một tuổi nay là Thiếu uý Lưu Đình Triều thuộc Sư Đoàn 7BB, chờ đợi cái ngày hội ngộ với Cha Mẹ sau thời gian ly tán 30 năm, đã thấy rõ ràng mình vẫn là kẻ thù của cha mẹ và những đứa em sinh ra ở miền Bắc, khi chúng đã hát trước mặt anh câu “xô lên xác thù hung bạo!” Kẻ thù đó là đứa con bị bỏ lại 30 năm về trước, đang bị kết án là dắt lính hành quân đi bắt heo, bắt gà của dân!

Lưu Quý Kỳ, hay thân phụ nhà văn Phan Nhật Nam, cũng như biết bao nhiêu người Cha đi tập kết trở về, rút cuộc chỉ có một câu động viên con đang ở trong nhà tù tập trung không có bản án: “Ráng học tập, lao động tốt cho mau về với gia đình!” (theo Bên Thắng Cuộc. T.1)

Trong thời gian chúng tôi đi tù ở huyệnTân Kỳ thì nhà ông anh rể tôi ở huyện Đức Thọ cùng trong một tỉnh, thư không có, mà thăm cũng không. Nghe gia đình ở Huế kể lại ông anh rể tôi viết thư lên án gia đình bên vợ là “đã gây nhiều tội ác” trong khi  nhà chỉ có mình tôi bị động viên vào lính, còn lại là bốn người làm nghề dạy học.

Lê khắc Nghi, Chú họ người viết bài này có vợ là một hoa khôi làng Văn Xá, “cưới nhau xong là đi!” Ở miền Nam đứa con trai duy nhất lớn lên, “được” VC xã dụ dỗ tham gia du kích vì có Cha đi tập kết, trong một cuộc hành quân bị nghĩa quân miền Nam bắn chết. Ba mươi năm sau, ông Chú trở về theo một bà vợ răng đen do đảng “cơ cấu” và mấy đứa con rặt Bắc, “cháu bác Hồ.” Ngày trùng phùng hoá ra là ngày khởi đầu cho một giai đoạn ngỡ ngàng cay đắng. Sum họp như thế thà chia lìa còn hơn! Họ không còn giống nhau từ sự hiểu biết, giọng nói, lối sống và tư tưởng. Vợ chồng mà đó, anh em ruột thịt mà đó, cha con mà đó, nhưng xa cách nghìn trùng, càng dùng ngôn ngữ để tiến lại gần nhau, càng thấy xa nhau.

Trong Đèn Cù, Trần Đĩnh kể chuyện một ông cụ thổi kèn Tây trong ban nhạc của triều đình Huế thời Bảo Đại, tập kết ra Bắc, sau ngày “chiến thắng” chỉ còn độc một đôi dép râu, không có cả…bít tất. Ông cụ nói như lời trăng trối: “- Cảm ơn ông, đoàn với ai, tụ với ai? Vợ con chưa biết hiện ở đâu, đi theo nhà khác mất rồi có khi. Họ hàng thì chết trong Tết Mậu Thân… Tôi về đó vẫn lại trơ làm thằng tập kết đợt hai trơ trọi một mình… Ra đi để thống nhất đất nước, bây giờ ai thống nhất với thân già tôi?”

   Trần Đĩnh cũng như triệu triệu người miền Bắc ngây ngô, mơ màng thằng dân trong này bị bóc lột tận xương tuỷ, không có nổi cái chén mà ăn cơm, trong hành lý vào Nam của Trần Đĩnh có năm bảy thứ cứu đói được mang vào, trong đó có cả một cái thùng nhựa đựng nước kẻo sợ trong Nam không có được cái miểng sành chăng?  Người ngoài Bắc nô nức đi Nam xem chúng nó bị bóc lột đến cỡ nào, không ngờ “trong kia dân nó ối chà giàu ơi là giàu. Vàng chỉ năm chục đồng Cụ một cây. Tủ lạnh vài chục đồng một chiếc. Lạnh cứ là liên lu liền lù suốt năm. Bảo cho tay vào lâu là hoá ra đá!” hay “buồng nào cũng máy lạnh. Xin lỗi anh, tôi thấy sướng nhất là đi toa lét!”

Dân miền Nam quả là không đợi không chờ ai  vào giải phóng. Câu chuyện của Minh Trường, nguyên phóng viên nhiếp ảnh TTX Bắc Việt, kể lại cái hí hửng của kẻ “giải phóng” khi vào Sài Gòn đã bị một thau nước lạnh dội vào mặt. Bà mẹ  ra mở cửa, thấy mặt anh thì vội vàng chấp tay lạy:

– “Anh còn sống thì tôi mừng nhưng anh về thì tất cả các đứa con bao lâu nay sống với tôi, chăm sóc phụng dưỡng tôi đều đã bị các anh lôi đi tù hết mất rồi. Anh về thì nhà này tan nát, thì tôi trơ trọi. Thôi, tôi xin anh, anh đi với đồng chí của anh đi cho mẹ con tôi yên!”

Lê Khắc Hoan, một ký giả, nhà văn cũng là nhà giáo “bên thắng cuộc,” đã viết cuốn “Trăm Năm Ly Hợp” nói về chuyện đoàn tụ và ly cách của dòng họ Lê Khắc từ một ngôi làng nhỏ của miền Trung sỏi đá: Văn Xá, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Sau 30 năm tập kết, cán bộ Bắc Việt Lê Khắc Hoan trở về, hí hửng tưởng bà con dòng họ này ai cũng chờ đợi, hân hoan đón tiếp.. Nhưng sự thật hoàn toàn khác những điều ông đã suy nghĩ! Ông về, vẫn mang theo loại chữ nghĩa nghịch với lỗ tai người miền Nam, có đoạn ca tụng “bác Hồ”, dùng chữ “ngụy quyền Saigon,” kêu gọi bà con “về đầu tư, xây dựng đất nước”, ca tụng làng Văn Xá Anh Hùng chống Mỹ (!), thiết nghĩ không có sức thuyết phục để anh em trong dòng tộc ngồi lại với nhau, mà chỉ gây thêm chia rẽ.

Nhưng khi tác giả trở về Nam, một số thân tộc đã bỏ nước ra đi, một số phải chịu cảnh tù đày, một số khác thất vọng, cay đắng, trừ những người ít bị thương tổn, không ai muốn liên lạc hay hợp tác, nhận họ với phía “giải phóng”. Ông tác giả này đã thú nhận gặp phải những sự lạnh lùng, ngỡ ngàng cay đắng, đã gửi đi hằng trăm e-mail, lời nhắn cho bà con, nhưng không hề được hồi âm, và ngay đối với người viết bài này, đứa em họ ở miền Nam, cũng ngần ngại không muốn cho tác giả biết địa chỉ, dù là địa chỉ e-mail. Ðiều này chứng tỏ, “miền Bắc nhận hàng” đã xong, nhưng miền Nam vẫn còn miễn cưỡng, chưa muốn “nhận họ”.

Cuối cùng, trong một sự thật cay đắng, người đi tập kết trở về đã phải thốt lên: “ … Các mảnh vỡ từ hai bên cố ráp vào vẫn rời ra, xộc lệch không tài nào ăn khớp!”

Sau 30 năm, khi con tàu xuyên Việt có thể nhả khói, kéo những hồi còi, chạy suốt, nối Hà Nội-Huế với Sài Gòn, nhân gian, bao nhiêu dòng họ tưởng là đoàn tụ, nhưng đây là lúc chia cách lớn nhất, không còn là vì khoảng cách của sông núi, mà bởi lòng người ly tán, tưởng chừng, rồi đây cả trăm năm sau, cũng chưa thể hàn gắn được

Để kết luận bài này tôi xin mượn lời của Lê Khắc Hoan, một nhà văn tập kết trở về sau ngày “thống nhất:” Hai phần ba thế kỷ trong vòng xoáy đối đầu tàn khốc, rốt cuộc, không một người nào ở phía nào được hạnh phúc vẹn tròn. Cho dù công danh hiển đạt. Cho dù vợ đẹp con khôn. Cho dù tiếng tăm lừng lẫy, chính trực nhân từ, tài ba uyên bác cũng nổi chìm quăng quật trong cuộc chiến đa diện, đa phương…”

Chúng tôi nghĩ khác, hạnh phúc sẽ được vẹn toàn, nếu từ nửa thế kỷ trước, nếu đất nước này không bất hạnh có nhân vật Hồ Chí Minh, mang chủ nghĩa Cộng Sản từ Liên Xô về để đày đọa dân tộc Việt Nam trong bao nhiêu năm. Chắc chắn chúng ta sẽ có “hạnh phúc vẹn toàn,” đó là ngày chế độ Cộng Sản tàn lụi trên quê hương Việt Nam.

(4- 2018)

43 năm đánh gục ý chí và tiêu diệt ý thức Dân tộc!

 43 năm đánh gục ý chí và tiêu diệt ý thức Dân tộc!

BNS Tự do Ngôn luận số 290

Ban Biên Tập

“Nhà cầm quyền Cộng sản VN đang rầm rộ kỷ niệm cái gọi là ’43 năm thống nhất Đất nước, giải phóng miền Nam, xây dựng cuộc sống độc lập, tự do, hạnh phúc, kiến tạo xã hội công bằng, văn minh, dân chủ’!?! Nhưng quốc dân, quốc tế và lịch sử đều thấy đó là cuộc thống nhất đất nước bằng xương máu và súng đạn, cuộc xâm chiếm một quốc gia độc lập và có chủ quyền; đó là việc làm cho Tổ quốc ngày càng lệ thuộc Trung Cộng, đời sống nhân dân mất hết mọi tự do cơ bản, ngày càng khổ sở điêu đứng; đó là việc tạo ra một xã hội đầy dẫy bất công bóc lột, ngập tràn bạo lực dối trá, hoành hành độc tài đảng trị. Hiện tình Việt Nam ngày càng hà khắc về chính trị, thụt lùi về kinh tế, chồng chất về thuế má, hỗn loạn về xã hội, ô nhiễm về môi trường, sa sút về văn hóa, suy đồi về đạo đức, thu hẹp về đất đai và nhất là bấp bênh về an ninh quốc phòng…” Bản Lên Tiếng của hơn 40 tổ chức và nhiều cá nhân người Việt hôm 30-04-2018 đã nói như thế.

Tất cả những tệ nạn và thảm trạng vừa nêu có thể nói là hậu quả của việc đánh gục ý chí chung của Dân tộc và hủy diệt ý thức của mọi thành phần trong xã hội, một âm mưu mà đảng đã cố công thực hiện 43 năm qua và trước đó nữa tại miền Bắc, để an toàn thống trị nhân dân và tùy ý sử dụng đất nước, kể cả việc bán Tổ quốc cho ngoại bang, ngõ hầu giữ được quyền lực và quyền lợi. Đúng như một nhà văn Nga từng nói: “CS thực chất là một sự ác tinh thần” (Spiritual evil).

1- Tiêu diệt ý thức đại diện quốc dân nơi thành viên Quốc hội. Được ngồi vào cơ quan quyền lực cao nhất nước với danh nghĩa này do đảng tuyển chọn, các thành viên ấy qua 14 khóa đã chỉ làm một công việc là “nhất trí cao, phấn khởi lớn, giơ tay đồng thuận” trước ý muốn của đảng, của Bộ chính trị (Hiến pháp đứng sau Cương lĩnh đảng, như Nguyễn Phú Trọng từng nói mà!). Những cuộc gặp gỡ, hỏi ý cử tri địa phương chỉ là trò mỵ dân; những cuộc chất vấn thành viên chính phủ thuần là màn trình diễn! Từ công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958, hiệp ước Thành Đô năm 1991, hiệp định lãnh thổ năm 1999, hiệp định lãnh hải năm 2000 ký với Tàu, đến thỏa ước cho Tàu khai thác bauxite ở Tây Nguyên năm 2008, xây dựng Formosa Vũng Áng rồi đầu độc biển năm 2016, chưa kể vô vàn vụ việc vi phạm nhân quyền khác, Quốc hội chẳng hề đứng về phía quốc dân để tìm hiểu, chất vấn, phản biện và hành động, một để cho Bộ Chính trị mặc sức tung hoành.

2- Tiêu diệt ý thức phục vụ công chúng nơi viên chức chính quyền. Là những kẻ đã được đảng bộ trung ương hay địa phương đặt để, chẳng được nhân dân bầu chọn (bao cuộc bầu cử hội đồng nhân dân các cấp chỉ là trò hề), những viên chức chính quyền ấy hầu hết ứng xử như những ông trời con, hung thần thổ địa, hống hách khinh người, chỉ lo tích lũy của cải hơn là phục vụ quần chúng. Kiểu cách “hành là chính” để móc túi người dân làm giấy tờ; những màn “cướp cơm chim” của kẻ nghèo khổ và nạn nhân bão lụt; các cuộc cướp đất của nông dân và thị dân dưới chiêu bài phát triển kinh tế quy hoạch sản xuất; việc cấu kết với các nhóm lợi ích (công ty, tập đoàn) để xẻ thịt tài nguyên quốc gia, đem tài sản công phục vụ tầng lớp tư bản; chuyện cho Tàu Cộng thuê rừng quốc phòng, rừng phòng hộ, yếu địa quốc gia, mua hàng loạt khu vực rộng lớn, thiết lập những nhà máy gây ô nhiễm, trúng thầu xây dựng những công trình kém chất lượng với chút “tiền lại quả “… đều là những chuyện sờ sờ xảy ra trên cả nước.

3- Tiêu diệt ý thức tôn trọng và bảo vệ nhân dân nơi công an cảnh sát. Bị nhồi nhét tư tưởng “còn đảng còn mình, làm lá chắn bảo vệ đảng, được đảng gầy dựng, lãnh đạo và trả lương”, giới này đã hoàn toàn trở thành công cụ đàn áp nhân dân: từ những đám dân oan bị cướp đất đứng lên đòi tài sản, những nhóm công dân cất tiếng đòi dân chủ, đến những nhóm tín đồ tập hợp đòi tự do hành đạo, những tốp thợ thuyền đình công đòi lương bổng xứng đáng. Lực lượng “bảo vệ luật pháp” này cũng đang là kẻ hỗ trợ cho công tố viên trong các phiên tòa chính trị, nỗi kinh hoàng cho những ai bị bắt về đồn công an với bất cứ lý do “vi phạm” lớn nhỏ, là người thuê mướn và khen thưởng bọn côn đồ theo dõi, ngăn chận và đánh đập các chiến sĩ dân chủ. Rồi lợi dụng quyền lực được đảng dung túng cho, tướng tá công an hết buôn ma túy đến bảo kê cờ bạc, mua rẻ công sản đến mua chuộc quan chức, lập công ty để bí mật kinh doanh cho ngành mình hay cho sếp mình.

4- Tiêu diệt ý thức bảo vệ Tổ quốc nơi hàng ngũ quân đội: Ghi tâm lời thề “trung với đảng” (thay vì trung với nước), “phấn đấu thực hiện một nước VN xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng…” (trích 10 lời thề của QĐND), coi việc “chính trị hóa/đảng hóa quân đội” là chuyện bình thường, rồi được cho tự do làm kinh tế, quân đội nhân dân nay thực sự trở thành công cụ của đảng, chỉ lo làm giàu (nhất là hàng lãnh đạo, vốn nắm vô số tổ chức kinh tài lớn nhỏ như Ngân hàng Quân đội, công ty Viettel), khi cần thì tước đoạt công sản lẫn tư sản (như phi trường Tân Sơn Nhất, đất ruộng thôn Hoành…), quên lãng bổn phận bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt trên lãnh hải, bỏ mặc ngư dân cho sự sách nhiễu, cướp bóc, tàn sát của Tàu Cộng. Hải quân, cảnh sát biển, lực lượng tuần duyên trang bị đủ thứ khí tài hiện đại nhưng chỉ bám bờ và xua dân bám biển. Các chiến hữu của mình đã tử trận trong chiến tranh biên giới, ở ngoài đảo Trường Sa, nhưng bị cấm tưởng niệm, thế mà lực lượng quân đội cũng chẳng dám lên tiếng phản đối.

5- Tiêu diệt ý thức bảo vệ luật pháp và công lý nơi viên chức tòa án. Dưới sự cầm trịch của CS, ngành tư pháp nói chung và giới viên chức tòa án nói riêng bị biến thành công cụ của đảng, theo cơ chế tam quyền phân công. Đặc biệt trong các vụ án chính trị, công an thẩm vấn, kiểm sát công tố và quan tòa xét xử hầu như luôn toa rập ăn ý với nhau, từ kết luận điều tra đến cáo trạng tội phạm và hình phạt tuyên xử. Tại những phiên tòa loại này, công tố chẳng cần xem xét bằng chứng, đối chất với luật sư biện hộ, thẩm phán thì ngắt lời bị cáo, xét xử chóng vánh cách kỳ lạ, có những “bản án bỏ túi” do trên ấn định sẵn mà thời gian gần đây hết sức bất công và nặng nề. Việc chạy án, việc hối lộ ba thành phần nói trên đều được coi như chuyện bình thường, nhất là trong các vụ án và phiên tòa hình sự. Ngoài những luật gia hay luật sư có tinh thần dân chủ (nay xuất hiện ngày càng nhiều và cũng bị đàn áp không ít), vô số luật sư vẫn sẵn sàng loại trừ các đồng nghiệp “có vấn đề” với đảng, sẵn sàng bênh vực hay ngậm miệng trước nhiều bộ luật chỉ có lợi cho đảng.

6- Tiêu diệt ý thức thương xót bệnh nhân nơi các y bác sĩ: Nền y tế VN từ lâu vẫn nổi tiếng thế giới với những bệnh viện quá tải, y sĩ thiếu khả năng, y phí tăng cao mãi, trang bị lỗi thời, vệ sinh tồi tệ; với cảnh bỏ mặc những ca cấp cứu chưa nộp tiền, đòi buộc bệnh nhân lót tay mới săn sóc chu đáo, cung cấp thuốc quá hạn hay thuốc dổm giả (vụ Công ty VN Pharma nhập 200 ngàn hộp thuốc trị ung thư); với cảnh ăn hoa hồng quá độ khiến giá dược phẩm bị đẩy lên tận trời, ưu tiên săn sóc cho đảng viên cán bộ, coi rẻ những ai dùng thẻ bảo hiểm y tế, đòi hối lộ kể cả khi chuyển viện hay đem xác về nhà, và dân nghèo vào bệnh viện chỉ có nước tử vong… Chữ “nhà thương” nay hoàn toàn vô nghĩa, vì ở đó chỉ có sự khai thác khổ đau của con người.

7- Tiêu diệt ý thức làm chứng cho sự thật và lẽ phải nơi giới tu hành: CS từng phỉ báng tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ nhân dân, nhưng nay lại muốn tôn giáo trở thành thuốc phiện thực sự. Và nó đang làm được điều đó với những chức sắc chỉ còn biết ý nghĩa cuộc sống và hoạt động tu hành của mình là xây dựng điện thờ nguy nga, tổ chức lễ hội rầm rộ, xuất ngoại kiếm bạc xin tiền, mà hoàn toàn dửng dưng trước cảnh sự thật bị xuyên tạc, công lý bị xem thường, đồng bào, thậm chí đồng đạo bị đàn áp, xã hội bị băng hoại, tổ quốc bị lâm nguy… Những vị này còn lý luận mình không muốn “làm chính trị” -do dị ứng với từ này- chỉ lên tiếng về các nguyên tắc luân lý chung chung (an toàn hơn) chứ không can thiệp vào những trường hợp cụ thể (dễ gặp nguy hiểm). Họ sẵn sàng đặt tượng tên tội đồ dân tộc, từng bách hại tôn giáo bên cạnh Đức Phật trên điện thờ, hay lấy tên của y làm danh hiệu cho giáo phận… Thậm chí có vị thỏa hiệp hay làm tay sai cho chế độ.

8- Tiêu diệt ý thức lương sư hưng quốc nơi các cô thầy: Nền giáo dục CS mang tính chính trị, không nhắm đào tạo những công dân tự do cho nước nhưng là nhào nặn những thần dân nô lệ cho đảng. Chính vì thế, đảng đã quyết tâm quản lý chặt chẽ giới giáo chức, huấn luyện ra những thầy cô “hồng hơn chuyên”, buộc hiệu trưởng mọi loại trường (trừ một số trường mẫu giáo của các giáo hội) phải là đảng viên để nắm chắc đường lối chủ trương của đảng, để theo dõi tư tưởng lập trường của giáo viên và học sinh. Thành ra nền giáo dục VN ngày càng sa sút với vô số giáo viên mua bằng cấp, thiếu tư cách, thiếu khả năng, với vô vàn vụ việc thầy bạo hành trò, đổi tình lấy điểm, bắt nữ sinh làm điếm, để công an hành hạ học trò, cấm sinh viên lên tiếng đòi dân chủ hay biểu tình chống xâm lược… Từ đó, sự ngây thơ, tính trong sáng, đức chân thật, lòng yêu nước nơi học sinh cũng tiêu tùng. Tệ nạn học đường ngày càng gia tăng với vụ giáo viên bị bắt quỳ, học sinh đánh lộn nhau, hành hung thầy dạy, học hành kiểu gian dối hay kiểu đối phó, mua điểm…

9- Tiêu diệt ý thức tôn trọng sự thật nơi giới truyền thông. Vì chủ trương dùng bạo lực và gian dối để cai trị, CS quản lý toàn bộ nền truyền thông, với Luật báo chí kiểm soát chặt chẽ từ nhân sự đủ cấp đến phương tiện đủ loại, với Ban tuyên giáo trung ương nắm đầu mọi tổng biên tập và biên tập, với những đội quân chiến đấu trên mạng hàng chục ngàn người thuộc bộ Công an và bộ Quốc phòng, với đám lính đánh thuê mang tên dư luận viên lên tới cả trăm ngàn đứa… Tất cả cố gắng đem nguyên tắc “nghe theo đảng, nói theo đài” vào trong quần chúng, xã hội, sẵn sàng dối trá vì tiền, chà đạp tiếng lương tâm vì lợi, để tô hồng cho đảng, để đổ tội cho dân, để vu khống thóa mạ những ai cổ vũ cho công lý và sự thật.

Việc tiêu diệt ý thức của mọi thành phần có ảnh hưởng xã hội nói trên đều chỉ nhắm mục tiêu: đánh gục ý chí dân tộc, để không người Việt nào còn đủ sự sáng suốt của lý trí, sự vững mạnh của khí phách, sự nhiệt thành của trái tim ngõ hầu liên kết với nhau mà chống lại bạo lực và gian trá của CS, mà khôi phục nhân quyền và dân chủ cho Đồng bào, mà bảo vệ tự do và độc lập cho Đất nước. “Mọi lợi quyền phải qua tay mình”, đó là câu nhật tụng, lẽ sống còn của người CS, dù phải bảo toàn lợi lộc và quyền lực đó bằng việc tàn phá đất nước và dâng nộp tổ quốc cho kẻ thù truyền kiếp của Dân tộc, đang ngày đêm nuôi mộng Hán hóa Việt Nam.

Xã hội chủ nghĩa tàn tạ

Xã hội chủ nghĩa tàn tạ

Nguyễn Xuân Nghĩa
2018-05-01

Nhà máy xe hơi Ford của Mỹ tại Hải Dương, Việt Nam

 AFP

VDDKT050218.wav

00:00/00:00

Chủ nghia Xã hội tàn tạ

Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin kính chào chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Biến cố 30 Tháng Tư 1975 đã được Chính quyền Việt Nam chào mừng như một cuộc giải phóng và thống nhất đất nước dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, do một đảng độc quyền lãnh đạo. Nhìn về mặt kinh tế thì Việt Nam có chuyển biến, nhất là sau 10 năm khủng hoảng và hai đợt đổi mới vào các năm 1986 và 1991. Trong năm qua, Việt Nam còn đạt mức tăng trưởng khả quan là 6,8 % nên Chính quyền có thể hài lòng với thành tích ấy. Riêng ông thì thấy thế nào?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: – Nếu nhìn trên cái trục thời gian thì quả thật là Việt Nam đã có thay đổi sau khi tiến hành cải cách gọi là “đổi mới”. Nhưng tại sao lại phải đổi mới nếu xã hội chủ nghĩa là điều hay đẹp và cần thiết cho Việt Nam như giới lãnh đạo đã nói sau 1975? Nếu nhìn trên cái trục không gian, là so sánh với các lân bang, thì Việt Nam vẫn còn tụt hậu sau khi đã trả một cái giá quá đắt cho một cuộc chiến tương tàn. Điều thứ ba là cái đà tăng trưởng 6,8 % do Tổng cục Thống kê đã tính ra cho năm 2017 qua, coi như thuộc loại cao của Châu Á thì tôi cho là họ nên tính lại vì cũng áp dụng phương pháp kế toán quốc gia của Bắc Kinh nên không đáng tin. Cứ cộng các nhập lượng ở đầu vào, như số tín dụng hay mức tăng lương, mà coi đó là trị giá gia tăng của sản xuất là một sai lầm về kế toán. Cũng thế, thị trường chứng khoán Việt Nam được coi là tăng mạnh nhất nhưng đã lên tới đỉnh và đang tuột đáy vào tuần trước. Dù sao đấy là chuyện nhỏ. Chuyện lớn là hơn 40 năm sau khi xây dựng xã hội chủ nghĩa thì chủ nghĩa này đang có dấu hiệu tàn tạ!

Nguyên Lam: Nhân chuyện 30 Tháng Tư, Thính giả của chúng ta mong ông giải thích cho sự thể ấy. Thế nào là tàn tạ, thưa ông?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: – Chúng ta khó quên khẩu hiệu “tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa” do Việt Nam đề ra sau năm 1975. Sự thật thì giới lý luận của Hà Nội không định nghĩa được “xã hội chủ nghĩa” là gì mà đòi xóa bỏ tất cả những gì họ cho là không thuộc xã hội chủ nghĩa, gọi đó là “cải tạo”. Vì tính chủ quan duy ý chí khi có toàn quyền trong tay, họ đòi cải tạo “quan hệ sản xuất” để từ đó nâng “phương thức sản xuất” lên một trình độ cao hơn, là phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. Việc cải tạo quan hệ sản xuất chỉ xóa bỏ quyền tư hữu vật liệu sản xuất và tổ chức lại hệ thống lao động và phân phối sản phẩm. Đã vậy, cũng do ý thức hệ Xô viết, Hà Nội còn lao vào cuộc chiến Kampuchia trong 10 năm khiến tổng sản lượng bị mất mỗi năm 5%. Hậu quả là kinh tế bị khủng hoảng, sản xuất suy sụp và lạm phát tăng. Vì vậy, Hà Nội phải tiến hành đổi mới, là áp dụng quy luật thị trường, nhất là sau khi Liên Xô tan rã, nhưng giới lãnh đạo vẫn tiếc cái đuôi xã hội chủ nghĩa.

Định hướng Xã hội chủ nghĩa

Nguyên Lam: Thưa ông có phải vì vậy mà lãnh đạo của Việt Nam mới phát minh ra phạm trù “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” hay không?

Khác với ngày xưa thì “chuyên chính vô sản” là “chuyên chính trên đầu giai cấp vô sản”, ngày nay Việt Nam đã khá hơn khi theo quy luật thị trường, nhưng chỉ để xây dựng chế độ tư bản nhà nước, y hệt như Trung Quốc, mà thực chất là chế độ tư bản thân tộc cho tay chân của đảng và nhà nước, là đảng viên cán bộ.
-Nguyễn Xuân Nghĩa

Nguyễn-Xuân Nghĩa: – Như bên Tầu, họ vừa mò chân tìm đá mà bước qua dòng! Ban đầu còn là “kinh tế thị trường theo định hướng nhà nước”, sau Đại hội X mới lết cái đuôi “xã hội chủ nghĩa” mà chẳng ai minh định nổi nội dung đó là gì!

– Gần 20 năm trước, tôi gặp lại ông bác họ, là người đã tiến hành đổi mới đợt đầu, và được ông bảo rằng trong Bộ Chính Trị không ai giải thích được cái định hướng ấy là gì. Ông còn hỏi tôi nghĩ sao! Tôi có trình bày như thế này và ngày nay nhìn lại thì thì càng thấy ra sự tàn tạ:

 “Khi sinh con đẻ cái thì ai ai cũng ưa đặt tên thật đẹp, nhưng quan trọng là việc giáo dục sau đó. Lãnh đạo một nước nghèo, bị chiến tranh và cả sự u mê tàn phá, thì cần ưu tiên lo cho đa số dân nghèo trong xã hội. Ra khỏi sự u mê và áp dụng quy luật thị trường thì sản xuất có thể tăng, nhưng ai sẽ hưởng các sản phẩm đó một cách công bằng? Trong 20 năm đầu, thì nhà nước nên ưu tiên lo cho dân nghèo từ nông thôn trở lên chứ đừng duy ý chí đi từ trên xuống cho bằng các quốc gia đi trước. Mọi chính sách đều phải đi từ dưới lên và coi công bằng là trọng, cho đa số có thể tham gia sản xuất với năng suất cao hơn thì sẽ có lợi tức khá hơn. Nếu gọi đó là “xã hội chủ nghĩa” thì cũng được, nhưng phải ra khỏi bóng rợp của chủ nghĩa Mác-Lênin”.

Nguyên Lam: Ông kể lại câu chuyện của gần hai chục năm trước và đối chiếu với ngày nay thì thấy sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: – Ngày nay, cái “định hướng xã hội chủ nghĩa” vô hình và vô tâm đó đang phá sản! Kinh tế mắc nợ ngập đầu vì thiểu số ăn trên ngồi chốc, ngân sách bị bội chi vì quá nhiều lãng phí cho bộ máy cầm quyền, nên người ta đòi giảm chi và tăng thuế trong khi xã hội trở thành cực kỳ bất công hơn, với đại đa số vẫn sống trong cảnh bần cùng. Hơn 40 năm sau khi được hứa hẹn thiên đường xã hội chủ nghĩa, những người u mê nhất cũng thấy rằng đấy là một cơn ác mộng.

Nguyên Lam: Chúng ta sẽ phải đi từng bước để hiểu ra kết luận bi quan vừa rồi của ông.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: – Tôi xin nhấn mạnh một lần nữa rằng ưu tiên của xã hội chủ nghĩa trong các nước văn minh là công bằng xã hội, trong các xứ nhược tiểu là dân nghèo. Các đảng phái chính trị thuộc hai cánh tả hữu có thể đề ra ưu tiên ấy và phải thực thi, nếu không thì thất cử. Tại Việt Nam, chuyện bầu cử đó không thể có vì đảng và nhà nước quyết định tất cả dưới chiêu bài “xã hội chủ nghĩa”.

– Khác với ngày xưa thì “chuyên chính vô sản” là “chuyên chính trên đầu giai cấp vô sản”, ngày nay Việt Nam đã khá hơn khi theo quy luật thị trường, nhưng chỉ để xây dựng chế độ tư bản nhà nước, y hệt như Trung Quốc, mà thực chất là chế độ tư bản thân tộc cho tay chân của đảng và nhà nước, là đảng viên cán bộ.

– Vì cái định hướng xã hội chủ nghĩa đó, Việt Nam có chế độ sở hữu mập mờ về quan hệ sản xuất. Quyền tư hữu được chấp nhận nhưng chế độ công hữu vẫn giữ vị trí chủ đạo, thể hiện qua khu vực kinh tế nhà nước, với các tập đoàn hay tổng công ty được yểm trợ bằng các phương tiện sản xuất như đất đai và tín dụng và được bảo vệ với chính sách cạnh tranh bất chính. Các cơ sở sản xuất này thu dụng ít nhân công mà chất lên núi nợ, khi bị lỗ lã và sức ép của quốc tế cùng các nước cấp viện thì cũng tư nhân hóa hay cổ phần hóa rất chậm. Khi tiến hành việc đó thì các cơ sở quốc doanh được định giá thấp vì trị giá “bèo” của quyền sử dụng đất và được bán rẻ cho “tư nhân” là tay chân thân tộc ở bên trong. Vì vậy, ngân sách thu về được ít tiền, nay đòi đánh thuế để giảm bội chi quá nặng. Xã hội chủ nghĩa Việt Nam sản sinh ra các đại gia tỷ phú trong khi đa số người dân vẫn cực nghèo.

Hậu quả

Nguyên Lam: Thế còn việc quản lý ngân sách thì cái định hướng xã hội chủ nghĩa dẫn tới những hậu quả gì, thưa ông?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: – Có lẽ 40% ngân sách quốc gia Việt Nam phải nuôi bộ máy nhân sự của đảng và nhà nước, từ đảng viên mọi cấp tới hệ thống hành chính rồi bộ máy công an, cảnh sát và quốc phòng. Thành phần nhân sự đó tăng quá mạnh, chủ yếu là vì tăng lương chứ cũng chẳng vì cấp số lao động. Nhưng đa số ở dưới vẫn chưa đủ sống nên lấy bổng bù vào lương, là gây ra nạn tham nhũng và sách nhiễu người dân để kiếm tiền. Vì ngân sách cạn tiền, Bộ Công An trù tính giảm dần cấp số nhân sự theo tinh thần vu vơ là “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Tuy nhiên, sự kiện nhiều ông tướng công an đang bị điều tra và kỷ luật cũng cho thấy hậu quả của hệ thống quyền thế chính trị và thuộc tính của nó là nạn tham nhũng.

Tôi nghĩ là về dài, khu vực kinh tế quốc doanh sẽ suy bại dần, nhưng chưa nhìn thấy vai trò của tư doanh Việt Nam trong khi các cơ sở kiếm lời nhiều nhất vẫn là của nước ngoài. Như vậy, cái định hướng xã hội chủ nghĩa đang thành vô nghĩa.
-Nguyễn Xuân Nghĩa

— Công an đã vậy, nhân sự về giáo dục lại còn thê thảm hơn. Thành phần đào tạo ra thế hệ của tương lai cũng là thành phần khó sống nhất. Mà các thế hệ cho tương lai khó được giáo dục và đào tạo cho đúng với yêu cầu sau này. Trường ốc và học cụ thiếu thốn, học phí gia tăng, đa số dân nghèo khó cho con đi học khi nhà nước chối bỏ trách nhiệm dưới khái niệm “xã hội hóa giáo dục” là đòi xã hội trang trải.

– Việt Nam rơi vào vòng luẩn quẩn là bộ máy công quyền có “lực lượng lao động dư dôi”, tiếng là có việc có lương, mà thiếu khả năng, làm không đủ sống và tìm cách trưng thu ở bên ngoài và trải rộng mạng lưới tham ô vặt! Từ công an, giáo dục mà suy ra lĩnh vực y tế thì ta cũng thấy vấn đề tương tự là sự kiệt quệ và sẽ vỡ nợ của quỹ an ninh xã hội, cơ chế phụ trách về y tế, hưu liễm, trợ cấp thất nghiệp, v.v….

Nguyên Lam: Thưa ông, thế thì kinh tế thị trường có đóng góp được gì cho việc phát triển tại Việt Nam không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: – Chắc chắn là có. Nó đẩy lui bàn tay thô nhám và bất tài của doanh nghiệp nhà nước nhưng trao lợi nhuận cho nhà đầu tư ngoại quốc trong khi tư doanh vẫn bị chèn ép trừ phi liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài. Thí dụ ai cũng biết là từ nhiều năm nay, tập đoàn Samsung của Nam Hàn đã đầu tư 17 tỷ đô la vào Việt Nam, trở thành doanh nghiệp lớn hơn PetroVietnam, đại gia quốc doanh trong lĩnh vực dầu khí. Kết quả, Samsung giúp Việt Nam là nước xuất khẩu máy điện thoại tinh khôn thứ nhì của thế giới, chỉ sau Trung Quốc, và đóng góp một thần tư số xuất khẩu của Việt Nam, trị giá hơn 200 tỷ đô la. Họ thu về số lời là gần 60 tỷ! Dân ta làm gia công cho họ mà lãnh đạo vẫn cứ nói phét.

– Tôi nghĩ là về dài, khu vực kinh tế quốc doanh sẽ suy bại dần, nhưng chưa nhìn thấy vai trò của tư doanh Việt Nam trong khi các cơ sở kiếm lời nhiều nhất vẫn là của nước ngoài. Như vậy, cái định hướng xã hội chủ nghĩa đang thành vô nghĩa.

Nguyên Lam: Nguyên Lam xin đề nghị ông kết luận về bài phân tích u ám này.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: – Hơn 40 năm sau chiến tranh, Việt Nam vẫn là nột nước tụt hậu sau nhiều lân bang Đông Nam Á, nhưng đứng trên danh mục tham nhũng nặng theo cuộc khảo sát của tổ chức Transparency International. Nguyên nhân là đảng và nhà nước thiếu công minh, là công khai và minh bạch, với bộ máy công quyền không bị trách nhiệm trước công luận. Trong khi ấy, chức năng then chốt của một chính quyền xưng danh xã hội chủ nghĩa là lo cho xã hội và tránh nạn bất công thì chính quyền lại còn đào sâu sự bất công đó. Vì vậy, dân nghèo hết than vãn về nạn tham nhũng mà trở thành bi quan về đời sống trước mặt. Họ đã tụt đến đáy rồi mà ở trên vẫn hô khẩu hiệu vu vơ.

Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin cảm tạ kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về bài phân tích kỳ này.

Tại sao vụ Hội Thánh Đức Chúa Trời được làm rầm rộ?

Tại sao vụ Hội Thánh Đức Chúa Trời được làm rầm rộ?

RFA

Phi Cảnh
2018-04-30
 
 

Hình chụp màn hình trang web của Hội thánh của Đức Chúa Trời

Hình chụp màn hình trang web của Hội thánh của Đức Chúa Trời

 vn.watv.org
 

Truyền thông Việt Nam đang ầm ầm đưa tin về một loại “tà đạo” mang tên Hội Thánh Đức Chúa Trời. Cách thức đưa tin kiểu này có cái gì đó không bình thường.

Đưa tin một chiều

Trước tiên khẳng định một điều: Nếu có một loại “tà đạo” dẫn dắt con người đến con đường không đúng đắn thì việc cảnh báo người dân là cần thiết. Nhưng vấn đề là thế này: truyền thông Việt Nam có bao giờ đưa tin về những điều tích cực mà tôn giáo mang lại?

Chẳng bao giờ! Chính vì thế mà khi có một vụ việc không hay liên quan đến tôn giáo là đăng tin ồ ạt trên tất cả các phương tiện truyền thông thì rõ ràng nó mang dụng ý không tốt. Với những người Việt Nam phần lớn chỉ đọc tin lề phải, họ dễ dàng bị dẫn dắt theo hướng xa lánh tôn giáo, nhất là khi một “tà đạo” có cái tên chỉ đích danh Thiên chúa giáo như thế này.

Tầm quan trọng của tôn giáo

Chỉ ở những nước Cộng sản vô thần như Việt Nam, Triều Tiên, Cuba, Trung Quốc mới xem nhẹ vai trò của tôn giáo.

Hiếm có người Việt Nam nào chưa nhìn thấy tờ Đô la, nhưng chắc họ chẳng bao giờ thắc mắc một đất nước của khoa học kỹ thuật như Hoa Kỳ mà trên đồng tiền lại in chữ “In God We Trust” (Chúng tôi tin vào Chúa).

Nước Mỹ – “Một quốc gia dưới Chúa” (One Nation, Under God), nơi “người ta không tôn kính Chính phủ, mà người ta tôn kính Chúa” – lời của Tổng thống Donald Trump.

Will Gervais từ Đại học Kentucky nói với báo The Times rằng nói: “Mọi người dường như cho rằng tôn giáo là yếu tố tất yếu của đạo đức. Và không có tôn giáo, mọi người sẽ hành xử hoang dã vì không có ai yêu cầu họ phải trung thực. Tại sao họ không nên nói dối, ăn cắp và hãm hiếp?”. Vì thế người Mỹ không bỏ phiếu cho một tổng thống vô thần.

Các nước giàu có văn minh đều là các nước tự do tôn giáo cả, đông nhất là các nước Tin lành và Công giáo. Bà Thủ tướng Đức Angela Merkel nắm quyền 12 năm nay thuộc Đảng Liên minh Dân chủ Thiên chúa giáo, có ai nghĩ đảng phái hàng đầu nước Đức lại có cái tên “cổ lỗ sĩ” như thế.

Tự do tôn giáo tất nhiên thỉnh thoảng có mang đến những vấn đề, nhưng lợi ích của nó mang lại vẫn rất lớn, vì vấn đề gặp phải chẳng thấm vào đâu so với đàn áp tôn giáo. Ở những nước không được tự do tôn giáo, tình trạng đạo đức đều xuống cấp. Cựu Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln từng nói: “Nếu không có “Kinh Thánh”, chúng ta không thể phân biệt được thế nào là thiện ác”.

Ở Việt Nam, tình trạng lừa đảo phổ biến đến mức người dân cho đó là chuyện bình thường, cho là vì “ngốc nên mới bị lừa” chứ không nghĩ rằng do vấn đề đạo đức xã hội mà ra. Ngay cả lúc có việc đến các cơ quan công quyền (vốn để bảo vệ người dân) mà còn bị lừa kia mà!

Thời điểm đưa tin có vấn đề

Chính quyền Việt Nam vốn rất nhanh nhẹn trong việc đàn áp tôn giáo, đặc biệt là Thiên Chúa giáo dù tôn giáo này làm những việc tốt. Hay kể cả Phật giáo, ví dụ như Pháp Luân Công – bộ môn tu luyện thật sự tốt cho sức khỏe và làm người ta sống tốt lên thì lại đi ngăn cấm “vì Trung Quốc cũng cấm”.

Vậy mà “Hội Thánh Đức Chúa Trời” đã xuất hiện ở Việt Nam nhiều năm nay, được cho là làm toàn việc xấu mà tại sao bây giờ mới đưa tin rầm rộ – đây là một câu hỏi lớn.

Thật “tình cờ”, hoạt động của hội này được tung ra vào đúng dịp Ủy Hội Hoa Kỳ về Tôn giáo Quốc tế đề nghị Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào lại danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo. Liệu đây có phải là một sự ngẫu nhiên?

Một báo mạng Việt Nam có ngay một bài với cái tít: “Truyền bá tà đạo “Đức chúa trời mẹ” qua SIM rác”. Nội dung là “khó giải quyết tận gốc do thiếu thông tin chính xác về kẻ truyền giáo. Nguyên nhân là bởi kẻ xấu đã sử dụng SIM không chính chủ nên rất khó lần ra dấu vết”, chính vì thế “Quy định đăng ký lại thông tin thuê bao giúp xử lý dứt điểm tình trạng SIM rác, tin nhắn rác.”

Bài báo này vừa lên án hội “tà đạo”, vừa bào chữa cho công an lý do vì sao không dứt điểm được vụ việc, vừa bảo vệ Nghị định 49 bắt chụp ảnh chân dung, vừa không nhắc gì tới tình trạng sim rác là do chính nhà mạng gây nên. Đúng là 1 mũi tên trúng đến 3, 4 mục tiêu.

Chưa kể hội thánh này được đưa tin là xuất phát từ Hàn Quốc, cũng thật đúng thời điểm 30/4 khi mà các “thế lực thù địch” đang tuyên truyền rằng miền Bắc nghèo đói thì giải phóng miền Nam nỗi gì?

Đấy thấy chưa, tự do nhưng bất ổn như Hàn Quốc có hay ho gì không? Chúng tôi không đàn áp tôn giáo, chúng tôi chỉ ngăn cấm tà giáo và những người lợi dụng tự do tôn giáo. – Ý của Đảng là vậy.

Chính vì thế, việc Hội Thánh này có thật sự xấu như báo Đảng nói hay không, hoặc nếu nó có xấu thật thì người đứng sau nó là ai là những điều đáng phải suy ngẫm.

Một câu chuyện hay

Một câu chuyện hay

 * Có một tỷ phú sống trong căn biệt thư xa hoa nhưng phát hiện ra mình mắc bệnh hiểm nghèo. Tới lúc cái chết cận kề, ông mới chợt nhận ra rằng tất c ả danh vọng, tiền tài và vật chất, thực ra đều hư vô như mây khói. Ông tìm đến một vị linh mục để xin lời khuyên và hy vọng, tìm thấy tia sáng cuối con đường.

            * Sau khi bắt câu truyện của nhà tỷ phú linh mục mới nói: “Bệnh của ông ngoài cách này ra thì không thuốc nào có thể chữa khỏi. Tôi sẽ kê ba đơn thuốc, ông cứ theo đó mà làm, hết đơn thứ nhất thì chuyển sang đơn tiếp theo”.

          * Về nhà, vị tỷ phú lấy đơn thuốc đầu tiên ra và đọc: “Hãy đến một bãi biển và nằm đó khoảng 30 phút, làm liên tục như vậy 21 ngày”. Mặc dù thấy khó hiểu nhưng ông vẫn quyết định ra bờ biển, lang thang một vòng rồi ngả lưng nằm trên bãi cát. Bất chợt một cảm giác nhẹ nhàng và khoan khoái vô cùng bao trọn lấy cơ thể ông.

           Trước đây, vì công việc bận rộn nên ông không có cơ hội nghỉ ngơi. Nay ông có thể tĩnh tâm lại để lắng nghe tiếng gió thổi vi vu, tiếng sóng biển rì rào hòa lẫn với tiếng kêu thánh thót của đàn hải âu gọi bầy… Trái tim bỗng thổn thức, chưa bao giờ ông có được cảm giác thoải mái như bây giờ.

         * Ngày thứ 22, ông mở đơn thuốc thứ hai, trong đó viết: “Hãy tìm những người nghèo và giúp đỡ họ, liên tục như vậy trong 21 ngày”. Trong lòng ông một lần nữa đầy rẫy những băn khoăn nhưng vẫn cặm cụi đi tìm những người nghèo và giúp đỡ họ. Ngắm nhìn từng gương mặt hạnh phúc của họ, trong lòng ông không nén nổi nỗi xúc động.

          * Ngày thứ 43, ông đọc đơn thuốc cuối cùng: “Tìm một cành cây và viết những điều khiến ông cảm thấy không hài lòng lên bãi cát”. Nhưng khi ông vừa viết xong, thủy triều lại cuốn tất cả xuống biển. Ông lại viết, sóng lại cuốn đi, lại viết, lại cuốn đi, rồi lại viết, và lại cuốn đi… Ông bật khóc nức nở vì chợt hiểu ra tất cả.

        Khi về nhà ông cảm thấy toàn thân nhẹ nhàng, tinh thần chưa bao giờ thoải mái và tự tại đến thế, thậm chí ông cũng không còn sợ cái chết nữa.

        Thì ra con người ta chỉ cần học được 3 điều thì sẽ vui vẻ hạnh phúc:

Thứ nhất: Nghỉ ngơi

Thứ hai: Cho đi

Thứ ba: Buông bỏ

Nguồn: Sưu tầm

From Kristie Phan & Lucie 1937