KHÓC TRONG VÔ THỨC

Image may contain: outdoor
Image may contain: sky, outdoor, nature and water
Image may contain: 1 person, selfie and closeup
Image may contain: outdoor, text and water
Đỗ Cao Cường is with Đỗ Cường.

KHÓC TRONG VÔ THỨC

Ngày hôm nay, tôi định dành cả buổi để nghiên cứu kỹ hồ sơ, dựng phim về những người dân oan ngoài Hà Nội, nhưng vô tình đọc được tin tức về những người đồng bào bị lũ cuốn trôi, chứng kiến cảnh những đứa con Tây Bắc nằm sõng soài, bất lực trước quê hương, đất nước, nhiều ngôi nhà che mưa che nắng nay đã không còn, tài sản, gia súc, gia cầm cũng bị lũ cuốn theo… thật khó mà cầm lòng cho được.

Năm nào cũng vậy, một năm mấy bận, con mất mẹ, vợ mất chồng, nhiều đứa trẻ đỏ hỏn quanh năm thiếu ăn thiếu mặc, nhiều đứa trẻ nuôi hy vọng là được ra thủ đô chơi một lần cho biết, vậy mà, giờ đã không kịp nữa rồi.
Tôi cũng xin phép được nói thẳng, thiên tai chỉ là một phần, còn phần khác, chính quyền định đổ tội cho ai?

Các bạn cứ ngẫm mà xem, từ bao đời nay, đồng bào vẫn sinh sống yên bình, dựng nhà dựng cửa giữa vùng thung lũng, lấy vợ sinh con, sau bao thế hệ mà có làm sao đâu. Vậy mà, chỉ trong vòng mấy năm nay, sao mà khổ quá trời!
Trong chuyến đi thực hiện phóng sự “Tiếng kêu cứu từ rừng Tây Nguyên” của mình, mặc dù rất âm thầm, nhưng không hiểu sao sau khi làm việc với kiểm lâm, vừa ra khỏi cổng trạm thì lập tức có vài thanh niên lạ mặt bám theo, tôi đoán được rằng họ đã báo cho nhau biết, nên mới có câu chuyện “con voi chui lọt lỗ kim, còn con kiến thì không”.

Một thanh niên chở 2 thớt gỗ dễ dàng bị phát hiện, bị khởi tố, còn nhiều xe gỗ được chở âm thậm, qua bao nhiêu trạm mà lại không ai biết?
Nhiều người dân địa phương đã phải thốt lên rằng, “còn rừng nữa đâu mà làm phóng sự hả chú”.

Chắc cũng chỉ mấy năm nữa thôi, nhiều trận lũ lịch sử cũng sẽ tìm đến đồng bào Tây Nguyên, không riêng gì miền Trung, miền Bắc. Chính ông chủ tịch huyện Buôn Đôn cũng đã thừa nhận với tôi, “giám đốc vườn quốc gia chính là lâm tặc”.
Cùng với đó, việc xây dựng các đập thủy điện không minh bạch, không tính toán kỹ về khoảng cách an toàn, mức độ, lưu lượng… cũng là nguyên nhân gây ra lũ.
Còn nhớ thời điểm năm 2015, thủy điện Sông Miện 5 xây vượt thiết kế và tích nước vượt quy định an toàn cho phép, nhiều người dân Hà Giang kêu cứu, sau đó họ bất lực ngồi nhìn, và bây giờ họ vẫn đang ngồi nhìn nhau, nhưng ngồi ở bên kia suối vàng.

Công trình thủy điện không phép, với nhiều sai phạm, nhưng không hiểu sao nó vẫn ngang nhiên tồn tại, tôi biết, bạn biết, nhưng nói ra thì người ta lại quy cho mình cái tội phản động.

Làm thủy điện không minh bạch, phục vụ các nhóm lợi ích, muốn xả lúc nào thì xả, làm sân golf, biệt thự, trang trại cũng không minh bạch, chiếm hết đất rừng, làm cháy rừng, phá rừng nguyên sinh trồng cây công nghiệp không mang lại hiệu quả lâu dài…

Và cuối cùng, nhiều cánh rừng nguyên sinh đã bị chặt hạ không thương tiếc… kéo theo đó là người, gia súc cũng chết theo, ruộng nương, xóm làng tiêu điều, đồng bào vốn đã khổ nay còn khốn khổ hơn.

Một số chết rồi còn đỡ, chứ sống mà cứ phải nhìn cảnh nhiều người thân bị lũ cuốn trôi, chó cưng, nhà cửa, quê hương cũng không còn, đêm xuống thì quần áo ướt nhèm, không biết ngủ ở đâu, cũng chỉ biết ngồi khóc, khóc từ ngày này qua ngày khác, sống như thế, có khi còn khổ hơn là chết.

SỐNG TẠM

Đất nước tôi sao mà buồn đến thế
Hết cây xanh bị chặt đến rừng thiêng bị phá
Biển đầy tôm cá bất lực trước nhân tai
Ruộng lúa hoang mang, cò bay đâu hết cả?
Giếng nước trong lành là ký ức đã ngủ quên
Tuổi thơ khốn khó nghèo nàn, em tôi ơi đừng khóc
Mùa đông không áo không quần, em còn đứng đợi ai?
Cơn lũ này chưa qua, lũ sau đã lại về
Người mẹ già còng lưng đợi con mình đi biển.
Sao mãi chẳng chịu về, các con ơi?
Nước mắt cứ rơi…
Vì những gánh hàng rong còn dang dở
Phường thu hết rồi, u biết lấy gì nấu cháo nuôi em?
Thôi tối nay cố nhịn, đừng buồn, con yêu nhé
Rồi sớm mai u lại gánh hàng rong ra chợ
Dù ngày mai có chết, ta vẫn phải lê lết, các con ơi.

Câu Chuyện Về Chữ Nhẫn

Có một nhà sư chọn tu pháp Nhẫn nhục Ba la mật, sau nhiều năm tháng nỗ lực tu tập thì sư cũng thành tựu được rất nhiều công hạnh, trụ vững như kim cương khi bình an trước mọi nghịch cảnh, bị người khách ganh ghét, lăng nhục, mưu hại sư vẫn luôn nở nụ cười trên môi thản nhiên như không.

Rất nhiều người tán thán sư và thường xuyên đến chỗ sư để đàm đào và thực tập hạnh tu này, sư luôn vui vẻ tiếp đón và chia sẻ những kinh nghiệm thuu5c tập được cho họ.

Một hôm có một thanh niên đến tham quan chùa, anh ngưỡng mộ hạnh tu của sư nhưng vì mới tìm hiểu đạo nên không biết chuyện gì để tham vấn, nhìn quanh thấy trên tường treo tấm bảng gỗ có một chữ sư viết rất bay bướm, anh liền hỏi:
-Thưa Thầy, đây là chữ gì ạ?
Sư trả lời đầy vẻ tự hào:
– Chữ Nhẫn viết theo lối thư pháp, ta phải tập viết hàng trăm lần mới được như ý đấy con à.
Anh gật gù vẻ tán thưởng, sau khi đi lòng vòng ngó nghiêng đây đó anh đứng trước tấm bảng gỗ gãi đầu gãi tai:
-Thưa Thầy chữ gì đây ạ?
Nhà sư tươi cười trả lời:
– Ta tu hạnh nhẫn nhục nên viết chữ Nhẫn đó mà.
Một chút sau, anh lại ngắm nghía tấm bảng và hỏi:
– Thưa Thầy, thầy viết chữ gì đây ạ?
– Chữ NHẪN!
Trước khi ra về anh lại tần ngần trước tấm bảng:
– Thưa Thầy, chữ gì đây ạ?
Nhà sư không chịu nổi nữa , nộ khí xung thiên:
– Chữ nhẫn! nhẫn ! nhẫn! Đồ ngu , ngu gia truyền ! Có một chữ mà nãy giờ hỏi hoài, hỏi hoài! Cút ngay!

Lời bàn:
Chữ Nhẫn được ghép từ hai chữ: Đao ở trên và Tâm ở dưới. Tâm (tức là trái tim) mà không chịu nằm yên thì Đao (tức con dao) sẽ phập xuống tức thì. Vậy đấy, tự mình mà nhẫn nhịn được thì đao kề cổ vẫn bình yên vô sự, bằng không thì tai họa sẽ giáng xuống đầu mình trước tiên

Cách viết chữ nhẫn:

Chữ ĐAO (con dao) ở trên và chữ TÂM (con tim) ở dưới. Lưỡi dao ấy ở ngay trên tâm, và nếu như gặp chuyện mà không biết nhẫn nhịn thì tránh sao khỏi đau đớn, có nhẫn nhịn mới chuyển nguy thành yên, bại thành thắng, dữ thành lành …
“… Có khi nhẫn để yêu thương
Có khi nhẫn để tìm đường tiến thân
Có khi nhẫn để xoay vần
Thiên thời, địa lợi, nhân tâm hiệp hòa
Có khi nhẫn để vị tha
Có khi nhẫn để thêm ta, bớt thù
Có khi nhẫn: tỉnh giả ngu
Hơn hơn, thiệt thiệt đường tu khó lường
Có khi nhẫn để vô thường
Không không, sắc sắc đoạn trường trần ai
Có khi nhẫn để lắng tai
Khôn khôn, dại dại nào ai tránh vòng
Có khi nhẫn để bao dung
Ta vui người cũng vui cùng có khi
Có khi nhẫn để tăng uy
Có khi nhẫn để kiên trì bền gan …”

Có 12 loại “NHẪN”:
Nhẫn Nại = công việc nhiều rắc rối khó khăn, tiến hành chậm chạp, vẫn quyết trí làm cho được.
Nhẫn Nhục = Việt Vương Câu Tiễn thất bại, chịu đủ thứ hành nhục, khổ phiền, nằm gai nếm mật, chờ thời cơ phục quốc.
Nhẫn Nhịn = Chờ cho đúng thời cơ, chờ cờ đến tay, không nôn nóng. Đôi khi để kẻ khác giành lấy tiên cơ, ưu thế trước.
Nhẫn Thân = Phục Hổ Tàng Long để kẻ thù đang thế mạnh không tìm diệt mình. Khi lành bệnh, đủ lực sẽ xuất hiện chọc trời khuấy nước.
Ẩn Nhẫn = Trốn tránh, chịu đàm tiếu, xúc xiểm, không còn tỏ ý ham danh đoạt lợi. Có khi trốn tránh luôn, cũng có khi do thời chưa đến.
Nhẫn Hận = Ức lắm, thù lắm, bị xử ép nhưng không tỏ rõ thái độ bất bình, oán hận.
Nhẫn Hành = Thấy đã có thể hành động được rồi, nhưng còn kiên tâm chờ thêm cho chắc.
Nhẫn Trí = Khôn khéo hơn thượng cấp rất xa, nhưng giả ngu khờ hết mức.
Nhẫn Tâm = Thấy ác, thấy nạn, bỏ qua không có thái độ bênh vực, cứu giúp.
Tàn Nhẫn = Bất Nhẫn, tự làm những việc không màng tới lương tâm.

From: Do Tan Hung & Kim Bang Nguyen

Chính lối giáo dục và hoàn cảnh ở những nước CS đã biến người dân của họ trở thành loại người thích sống ngoài kỷ luật ở những nước tư bản.

Quoc Vo shared a post — with Haiviet Hoang.

Bàn ngoài vấn đề này một chút, chính lối giáo dục và hoàn cảnh ở những nước CS đã biến người dân của họ trở thành loại người thích sống ngoài kỷ luật ở những nước tư bản.

Băng đảng ở những nước tư bản cầm đầu bởi những người xuất thân từ những nước XHCN là 1 cánh khác trong xã hội đen hiện nay.

Điều ông này nói không có gì mới lạ, cứ nhìn cảnh đám cờ đỏ CSVN ở Đức thì ta hiểu ngay vấn đề.

Chắc chắn rằng tình báo công an ở những nước Âu châu đã chú ý loại người miền Bắc CSVN để đề phòng.

Việt Nam phản ứng trước cáo buộc là “tội phạm có tổ chức”

Trần Bang and 2 others shared a post.
Image may contain: 1 person

Đài Á Châu Tự Do

Việt Nam phản ứng trước cáo buộc là “tội phạm có tổ chức”

Ngày 24/6, trang web của đài Tiếng nói Việt Nam dẫn lời của ông Hồ Minh Tuấn, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước CHXHCN Việt Nam tại Cộng hòa Séc cho biết, phát biểu của Chủ tịch Ủy ban đối ngoại Hạ viện Cộng hòa Séc là “hoàn toàn không phù hợp với sự phát triển tốt đẹp của mối quan hệ hữu nghị và hợp tác truyền thống giữa hai nước những năm qua”.

Cũng theo VOV, Đại sứ quán Việt Nam tại Séc đang xem xét ý kiến phản đối phát biểu của ông Zaoralek thông qua kênh ngoại giao chính thức.

Hôm 21/6/2018, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Cộng hòa Séc cho rằng, “Việt Nam là tội phạm có tổ chức và trở thành mối đe dọa an ninh quốc gia hàng đầu”.

Trang Vietinfo.eu, một trang tin tức của cộng đồng người Việt sinh sống tại Châu Âu thuật lại những chỉ trích gay gắt của cựu Ngoại trưởng Séc trong khuôn khổ bàn luận về vấn đề ngân sách tài chính năm 2017 của ngành ngoại giao nước này.

Trước đó, Thư ký nhà nước Séc Miloslav Stasek mô tả cho các nghị sĩ tình hình cấp thị thực nhập cảnh Cộng hòa Séc tại một số quốc gia. Ông này lưu ý tình hình phức tạp vẫn tiếp tục diễn ra ở Việt Nam và đề tài này cần tranh luận chuyên môn.

Hồi tháng 4/2016, trong cuộc trả lời phỏng vấn của RFA về phiên tòa xét xử mật vụ Nguyễn Hải Long (người Séc gốc Việt), nhà báo Lê Trung Khoa, chủ bút trang Thoibao.de đã cho rằng trong mắt một số người Châu Âu và kiều bào ở Đức thì “Việt Nam là một nhà nước tội phạm”.

Từ tháng 10/2017, Đức đã phát lệnh truy nã quốc tế đối với Trung tướng Đường Minh Hưng, hiện là Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh, Bộ Công an.

Một số tình tiết tại phiên tòa xét xử vụ bắt cóc ông Trịnh Xuân Thanh cũng cho thấy, Bộ trưởng công an Tô Lâm có dính líu trong vụ này. Các nước bị “lợi dụng” để đưa cựu cán bộ dầu khí về VN có thể bao gồm cả Ba Lan, Slovakia và Cộng hòa Séc.

TRƯỚC KHI QUỐC HỘI BẤM NÚT VỀ LUẬT ĐẶC KHU

Hoa Kim Ngo shared a post.
Image may contain: 1 person, closeup
Image may contain: 1 person, smiling, suit

Nguyễn Xuân Vượng

Nhà văn Tạ Duy Anh, tác giả cuốn tiểu thuyết “Mối Chúa” bị đình chỉ xuất bản năm ngoái vì động chạm tới “uy tín” của bề trên… 

Bà con hãy tham khảo ý kiến của anh về “Luật đặc khu” sắp được QH bấm nút thông qua.

TRƯỚC KHI QUỐC HỘI BẤM NÚT VỀ LUẬT ĐẶC KHU

Lão Tạ 
(Tạ Duy Anh)

Có thể trên thực tế Quốc hội dưới sự lãnh đạo của đảng đã bấm nút về Luật Đặc khu rồi, hoặc ai không định bấm rồi sẽ phải bấm (như biểu quyết sáp nhập Hà Tây vào với Thủ đô) nhưng tôi vẫn kiên nhẫn nói thêm với các vị đôi điều.

Các vị đã từng cho phép thành lập những Tập đoàn kinh tế nhà nước, với lý lẽ để tạo nhiều quả đấm thép đưa nước ta bắt kịp Hàn Quốc. Khi đó ai nói khác đi là bị dọa “Bộ chính trị đã đồng ý”. Giờ thì nhìn đấy, mô hình Tập đoàn kinh tế là thảm họa chưa có lối thoát cho đất nước, là nơi công nghệ rác thải của Trung Quốc làm mưa làm gió trên lưng người dân Việt. Và thay vì mau mau sánh kịp Hàn Quốc, chúng ta tụt lại so với họ thêm một quãng dài miên man.

Các vị đã từng cho phép khai thác Bô-xít ở Tây Nguyên cũng với lý lẽ để tạo nguồn thu cho ngân sách và tăng trưởng quốc gia. Khi đó giới trí thức ra sức can ngăn, đều bị quý vị bỏ ngoài tai còn người can ngăn thì bị coi là phá hoại, là thế lực thù địch. Trong Quốc hội nếu có ai nói khác đi là bị dọa “Bộ chính trị đã đồng ý”. Giờ thì các vị đã thấy trắng mắt ra chưa? Lỗ nặng chưa phải là thảm họa đáng sợ nhất. Môi trường bị tàn phá tan nát chưa phải là thảm họa kinh khủng nhất. Hãy hình dung mấy chục năm các cơ sở của Trung Quốc không làm kinh tế, mà chuẩn bị cho việc to lớn hơn là thôn tính lãnh thổ, thì điều gì xảy ra hẳn các vị có thể hình dung, mặc dù thực lòng tôi nghi ngờ lòng yêu nước và trí tuệ của đa số quý vị.

Các vị đã từng cho phép khu công nghiệp Fomosa, tập đoàn kinh tế bị xua đuổi khắp nơi vì gây ô nhiễm vào tọa chiếm vùng xung yếu về an ninh của bờ biển Hà Tĩnh, với thời hạn tới 70 năm, cũng vẫn với lý lẽ để tạo cú huých cho tăng trưởng kinh tế, tạo bức tranh sáng cho đầu tư nước ngoài, vực dậy một vùng nghèo đói và nào là đánh thức tiềm năng…Giờ thì quý vị thấy hậu quả đã nhãn tiền. Tôi dám đảm bảo, thứ mà Fomosa tạo ra cho đất nước chúng ta, chỉ bằng một phần rất nhỏ thứ mà nó làm mất đi của đất nước. Đấy là chưa kể, trong 70 năm dài dằng dặc, sẽ còn bao nhiêu sự cố kinh hoàng như đã xảy ra, đi kèm sẽ là những cuộc nổi loạn không ai dám nói trước có thể kiểm soát của ngư dân.

Tôi không phải là người cứ muốn là nói lấy được, càng không là tín đồ của chủ nghĩa dân tộc một mực bài Trung Quốc. Có nhiều thứ chúng ta còn xa mới làm được như Trung Quốc. Đó là một sự thật. Nhưng sự thật mà tôi muốn nói ra trước tiên, là chúng ta đang tự trở thành miếng mồi ngon dưới con mắt của con sư tử Đại Hán chưa khi nào tàn bạo và tham lam như hiện nay.

Còn quá nhiều ví dụ khác mà tôi không còn hứng thú và sức lực để dẫn ra. Nhưng những thứ mà tôi đã dẫn và chưa dẫn, không phải để khía thêm nỗi bẽ bàng mà các quý vị đã và sẽ nhận đủ, mà chỉ để nhắc các vị nhớ lại, trước khi quyết định một vấn đề to lớn hơn tới vận mệnh và số phận của đất nước: Vấn đề thành lập các đặc khu kinh tế. Tôi cho rằng, mạng xã hội, với tình cảm quá sốt sắng, đang có sự nhầm lẫn khi hướng chú ý vào sự lựa chọn giữa hậu quả nhỏ và hậu quả lớn. 99 năm hay 70 năm, hay 50 năm không phải là vấn đề. Vấn đề là có cần phải thành lập các đặc khu trong bối cảnh hiện nay (xét cả về xu hướng phát triển, tiến bộ công nghệ, đòi hỏi của hoàn cảnh đất nước và nhất là KHI MÀ CHÚNG TA, BAO GỒM CẢ CÁC ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI, BIẾT RÕ TRUNG QUỐC đang muốn gì ở cái mảnh đất hình chữ S này?) Mục tiêu cuối cùng của họ là biến cả Việt Nam thành một ĐẶC KHU của họ. Nếu tôi là Tập Cận Bình, thì tôi cũng sẽ làm thế, nhân danh lợi ích dân tộc Trung Hoa. Vì thế (tôi đang nói với tất cả) thay vì trách họ nham hiểm (trách Trung Quốc nham hiểm khác nào trách sao họ có tới một tỉ rưỡi người!), hãy trách mình trước: Vì sao mình lại dại dột để cho họ dắt mũi, vì sao mình không có chiến lược bài bản như họ, vì sao mình thiếu vắng những nhà lãnh đạo có tầm nhìn như họ…Vấn đề đó không ai giải quyết thay người Việt, vì thế, không ai có lỗi ngoài chính chúng ta. (Tôi thấy lạ, khi tận giờ này vẫn có người lập luận rằng chúng ta gặp khó vì Hoa Kỳ nước đôi, vì Nga thực dụng, vì Camphuchia hai ba bốn mặt, vì Lào thân Trung Quốc hơn, vì thế giới tối mắt trước lợi ích…)

Trở lại chuyện đang bàn. Đừng lấy ví dụ thành công của Thâm Quyến hay bất kì sự thành công của các đặc khu nào khác làm lý lẽ thuyết phục cho sự ủng hộ luật đặc khu. Cũng không cần phải mang sự thất bại của mô hình này ở đâu đó ra để tăng trọng lượng cho ý kiến phản đối. Chúng ta nên tham khảo kinh nghiệm của thế giới, nhưng đã đến lúc người Việt phải tập thói quen độc lập khi đưa ra những quyết định liên quan đến sự tồn vong của mình. Trên tinh thần đó, tôi đồng ý với nhà báo Huy Đức là chúng ta không cần phải có đặc khu kinh tế, không cần ưu đãi nơi này hơn nơi khác khiến đất nước thêm chia rẽ, trong khi tốn tiền xây thành trì cho tội phạm và tư bản thân hữu, mà hãy tạo một không gian mà sự kiếm sống để hưởng hạnh phúc của người dân trở nên thuận lợi, nhân bản cho cả cái đất nước này. Đừng hành hạ dân, hãy tạo ra một thế chế mà không quan chức nào muốn và có thể tự biến mình thành con mối chúa kéo theo cả đàn mối đục khoét đất nước, đừng bỏ rơi người tài chỉ vì họ không thích thú với các nguyên tắc chính trị hiện hành, hay khi họ căm ghét sự xu nịnh, không chịu nói như vẹt. Và xin đừng cố gắng biến nhân dân thành vật thế chấp cho các mục tiêu tù mù…Chỉ cần ngần ấy thôi, tự đất nước sẽ thanh bình, sẽ phát triển, sẽ giầu có mà không cần phải “lót ổ cho phượng hoàng” khi biết trước là diều cắt, cú vọ sẽ nhảy vào trước.

Các quý vị có tự hỏi và có biết là người dân đang hỏi: Vì sao Quốc hội lại sốt sắng với luật Đặc khu đến thế? Một bộ luật đụng chạm đến an nguy quốc gia, đến sự tồn vong của nòi giống, đến cuộc sống của nhiều thế hệ tương lai, mà sao lại cập rập trong thảo luận, trong tập hợp ý kiến người dân? Khôn ngoan của người Việt để đâu hết cả rồi? Tôi không muốn làm kẻ nói bừa, nhưng tôi tin rằng nhất định là có khuất tất.

Vài hôm nữa, với danh nghĩa là cơ quan quyền lực tối cao, quý vị có thể bấm nút thông qua luật đặc khu, bất chấp mọi sự phản đối và lo lắng của người dân cùng với giới sỹ phu (tôi muốn dùng lại từ này). Nhưng tôi muốn chân thành khuyên quý vị, làm diễn viên tồi quá lắm chỉ đáng chê cười vì thế, nếu vì miếng cơm manh áo mà phải thủ vai thì cũng được. Nhưng đừng tự biến mình thành tội đồ, khi biết rõ hoặc linh cảm thấy khả năng đó là rất cao. Dân tộc này có thể tha thứ mọi tội lỗi-như lịch sử từng cho thấy-trừ tội theo chân Trần Ích Tắc và Lê Chiêu Thống.

TẠ DUY ANH.

Con đường dân chủ thực tiễn cho Việt Nam (phần 1&2)

Con đường dân chủ thực tiễn cho Việt Nam (phần 1&2)

Hate Change

Chánh Nguyễn

Phần 1:

Có được một đời sống ấm no, không sợ hãi trong một xã hội phát triển ổn định là nguyện vọng của mọi dân tộc trên thế giới. Tất cả những diễn biến lịch sử, những phát triển kinh tế, xã hội, và những khám phá khoa học đều đưa đến một kết luận chính trị chung. Chỉ có thể chế dân chủ với một hệ thống chính phủ mà quyền lực của người cầm quyền đương thời bị giới hạn, kiểm soát theo những nguyên tắc dân chủ mới có thể đáp ứng được nguyện vọng của xã hội một cách dài lâu. Chỉ có một chính quyền được dân bầu lên, bị dân kiểm soát, do dân thay đổi thì mới giữ được bản chất là chính quyền của dân và vì dân.

Sự ưu việt của thể chế dân chủ không còn là một đề tài trong những cuộc tranh luận nghiêm túc ngày nay. Ngay chính độc tài cũng công nhận, cũng phô bày “dân chủ” như một món đồ giả. Giả vụng về, trắng trợn: Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên. Giả mập mờ, lấp liếm: Dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ tư bản. Thế nhưng những cải cách để đưa đến một thể chế dân chủ ở Việt Nam, nếu có, thì vẫn rất chậm, rất miễn cưỡng.

Chính quyền đương thời nào cũng có động lực củng cố và triến khai quyền lực của mình. Khi nền tảng dân chủ chưa có thì chính quyền sẽ chống lại, tìm cách triệt hạ mọi xu hướng đối lập, ngay cả chém giết khi họ thấy cần. Đài Loan và Nam Hàn đều trải qua giai đoạn này dưới thời Tưởng Giới Thạch và Phát Chính Hy (cả hai đều chống cộng). Vấn đề không phải là chủ thuyết hay nhận thức mà là bản chất tự nhiên. Chính quyền Việt Nam đương thời, dân tộc Việt, xã hội Việt cũng không là ngoại lệ.

Trong nước đã xuất hiện một số người chống lại chính quyền hay chính sách của chính quyền. Nhưng nhiều người vẫn ta thán rằng chưa có phong trào và nhân vật đối lập nào có được sự ủng hộ sâu rộng của quần chúng. Một quan điểm đang thịnh hành trong số những người chống chính quyền trên mạng là quá nhiều người Việt chưa đủ trí tuệ để nhận ra tội ác của chế độ, chưa đủ dũng khí để chống lại chính quyền, và vô cảm truớc những tệ nạn xã hội mà nhà nước phải chịu trách nhiệm. Một dân tộc Việt ngu, hèn, và trơ là lý do họ thường nêu ra để giải thích sự tham gia tương đối tẻ nhạt của người dân trong phong trào đấu tranh cho dân chủ.

Sự mâu thuẩn lớn trong quan điểm này là tư duy độc tài – tự đặt mình lên trên để nhìn xuống và miệt thị số đông trái ý mình – của một số người đang lớn tiếng hô hào dân chủ. Có thể nghi ngờ họ không hiểu dân chủ thật sự là gì. Thái độ của họ không tạo ra sự tin tưởng rằng nếu được quần chúng ủng hộ thì họ sẽ không đi vào vết xe đổ của Mohamed Morsi. (Được dân Ai Cập bầu lên sau khi chế độ độc tài của Hosni Mubarak sụp đổ, Morsi và đảng Huynh Đệ Hồi Giáo đã nhanh chóng tập trung quyền lực chống lại mọi hoạt đông dân chủ.) Dù vô tình, chính họ đã là một dẫn chứng hùng hồn cho sự ngụy biện của chính quyền rằng đa đảng, đa nguyên chỉ đưa đến loạn lạc. Không có gì lạ khi họ không được đa số người Việt trong nước hổ trợ.

Một số Đảng viên, cựu Đảng viên lão thành cũng đã nhận ra sự cần thiết của cải cách dân chủ. Nhưng những lời kêu gọi cải cách của họ vẫn chưa và có lẽ cũng sẽ không có hiệu lực gì. Họ không có quyền, không còn nắm những chức vụ quan trọng. Ảnh hưởng của họ, nếu có, chỉ trên bình diện tư duy, tinh thần. Nhưng chính quyền đương thời chống những hoạt động dân chủ không phải vì thiếu suy nghĩ, cần được thức tĩnh mà chỉ vì sự bám víu quyền lợi, một bản chất cố hữu của con người. Những nhân vật như George Washington và Nelson Mandela đều là ngoại lệ, hiếm có. Khách quan mà suy luận thì cái xác suất trong giới lãnh đạo của Việt Nam hiện nay có người đủ quyền và đủ lòng để tiến hành cải cách như Mikhail Gorbachev ở Liên Xô trước đây là rất thấp.

Không có gì đáng ngạc nhiên khi tất cả những kiến nghị, tâm thư, đề xuất… của những người mong có được một cải cách thể chế thật sự đều đã không đi đến đâu. Ủng hộ dân chủ bằng phương pháp đưa thư, đệ đơn này không những đã không có hiệu quả thực tế mà lại còn có vấn đề về khía cạnh tư tưởng. Có thể nói những người chọn con đường này đã mặc nhiên chấp nhận chính quyền là một thực thể trên dân, có tư cách ban phát cho dân. Dù họ là người có lòng yêu nước, thương dân thì đây vẫn là tư duy lạc hậu của thời phong kiến, hoàn toàn trái ngược với lý tưởng dân chủ.

Có lẽ vì nhận thấy sự quan trọng của tư duy và phương pháp trong cuộc đấu tranh chống độc tài, một số người đã cho rằng cần phải có một đội ngũ trí thức ưu tú để hướng dẫn quần chúng đấu tranh đòi dân chủ. Thành phần trí thức đi tiên phong này có thể sẽ được đào tạo, học hỏi ở nước ngoài rồi về nước lãnh đạo quần chúng. Họ sẽ là những người vững vàng với lý tưởng, không ngại gian khổ, hy sinh. Sách lược này không phải là mới, đã được áp dụng thành công bởi Hồ Chí Minh cùng các đồng chí của ông để chống lại chế độ thực dân Pháp. Nhưng trong thực tế ngày hôm nay thì sách lược này không thể thực hiện được.

Câu hỏi quan trọng là những người trí thức này sẽ nói gì, sẽ làm gì để được quần chúng tín nhiệm, tự nguyện đi theo cho họ hướng dẫn, lãnh đạo. Họ sẽ nói gì, làm gì để người dân chịu gánh thêm gian khổ, có thể bị tù đày và hy sinh mà không sợ cảnh “tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa”? Ngoài trường hợp không thực tiễn là có siêu nhân xuất hiện, câu trả lời khách quan sẽ là gáo nước lạnh tạt vào giấc mơ tranh đấu dân chủ theo sách lược này.

Hơn nữa, khác với những năm ba mươi, bốn mươi của thế kỷ trước, đây không phải là một cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Tất cả những liên hệ đến thế giới bên ngoài sẽ bị chính quyền đương thời tuyên truyền là tay sai của ngoại bang. “Thế lực thù địch”, một khái niệm mơ hồ mà chính quyền vẫn dùng để biện minh cho sự đàn áp những hoạt động dân chủ, đột nhiên sẽ hết mơ hồ. Những người trí thức này sẽ bị chận bắt trước khi họ có cơ hội lãnh đạo, hướng dẫn quần chúng. Đây là một sách lược tranh đấu dân chủ vô kế khả thi nếu người lãnh đạo phải là “trí thức ưu tú” thuộc một trường phái nhất định.

Những diễn biến chung quanh vụ Trung Quốc kéo giàn khoan xâm phạm lãnh hải Việt Nam vào tháng Năm vừa qua ( tháng 5/2014) đã làm rõ nét hịện trạng giới hạn cũng như một con đường đấu tranh dân chủ có hiệu quả trong tương lai. Phản ứng và thái độ của quần chúng từ những người cành sát biển, phóng viên, đến ngư dân, sinh viên, người già, giới trẻ… chứng tỏ rất nhiều người Việt, có thể là đa số, không hèn và vô cảm, không thờ ơ với vận nước khi có một mục tiêu rõ rệt như chống ngoại xâm. Rất nhiều người đã nhận định chính xác rằng phải có cải cách thể chế mới có thể bảo vệ được chủ quyền lâu dài. Thái độ bí ẩn và phản ứng khó hiểu của chính quyền trong vụ này chứng tỏ rằng đặt tin tưởng vào một chế độ độc tài trong việc bảo vệ chủ quyền chung của đất nước cũng nguy hiểm như tin rằng họ sẽ tạo ra một xã hội chung ngày càng giàu mạnh hơn. Thế nhưng khi câu hỏi ai, tổ chức nào sẽ thay thế nhóm lãnh đạo và Đảng Cộng Sản Việt Nam đuợc đặt ra trên mạng thì những người kêu gọi chống chính quyền đã không có câu trả lời thoả đáng. Phản ứng của họ gây ra ấn tượng là chính họ đang bị bế tắc trong tư duy và trong sự vận động đa đảng, đa nguyên.

Không thể gạt qua câu hỏi này bằng cách nghi ngờ động lực và trình độ của người hỏi như nhiều người vẫn làm. Bất kể người hỏi là ai, đây là một câu hỏi chính đáng cả trên nguyên tắc và trong thực tế đấu tranh dân chủ. Một câu hỏi quan trọng đòi hỏi câu trả lời rõ ràng, nghiêm túc.

Trước hết, đây là một câu hỏi thực tế về thực lực đối kháng. Đưa ra một viễn ảnh cụ thể để chứng tỏ sẽ có đủ đối trọng là một việc làm cần thiết nếu muốn được quần chúng tin theo. Cũng là một việc làm vô vọng. Dù muốn hay không, đại dìện duy nhất cho nước Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc hôm nay là nhà cầm quyền đương thời, một chính quyền đã có quan hệ ngoại giao chính thức với các quốc gia lớn. Không một nước dân chủ nào sẽ nhảy vào hổ trợ vũ lực chống chính quyền đó. Ngoại lệ duy nhất, trên nguyên tắc, là khi có nội loạn, nội chiến gây ra quá nhiều chết chóc cho dân lành. (Thực tế thì vẫn rất khó như phản ứng của Anh và Mỹ với tay độc tài Assad ở Syria đã chứng tỏ.) Thế là cách duy nhất để khả dĩ có đủ đối trọng lật đổ chính quyền vẫn phải là sự ủng hộ đông đảo của quần chúng. Nhưng những người kêu gọi cách mạng, đấu tranh lật đổ chính quyền lại không có sự ủng hộ này. Họ vẫn không thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn tạo ra bởi những tư tưởng lỗi thời, không thích hợp với thực tế ngày nay.

“Nhân dân vùng lên” là một câu khẩu hiệu, không phải là đường lối chính trị. “Dân hèn, ngu, và trơ đông như quân Nguyên” là một biện minh cho sự thất bại chính trị, không phải là một nhận định hữu ích thực tiễn.

Tạo nên một cuộc cách mạng quần chúng để lật đổ chế độ hiện hành chỉ là một ảo tưởng vì hai lý do cơ bản. Thứ nhất là khi không thấy có đối trọng, không thấy có hy vọng thành công, ta thường chọn con đường để có được những nhu cầu thực tế trước mắt theo bản năng sinh tồn. Người mà nhu cầu thiết yếu của họ bị đe doa sẽ có khuynh hướng vùng lên, liều chết kháng cự, nhưng trong thực tế hiện nay thì tỉ lệ của những người như thế không đủ để làm cách mạng.

Lý do thứ hai là sự tàn độc không phải là mục đích, là nguyện vọng của nhà cầm quyền độc tài hiện nay ở Việt Nam. Nó chỉ là phương tiện để giữ vững độc quyền, đặc lợi. Chính quyền sẽ thắt nới tùy hoàn cảnh để vừa giữ vững quyền lợi vừa tránh nạn “cùng tắc biến”. Họ đã thành công và không có dấu hiệu gì là họ sẽ thất bại trong tương lai gần như nhiều người vẫn hy vọng.

Hô hào quần chúng xuống đường đối kháng chính quyền và miệt thị họ ngu, hèn khi họ không đáp ứng là việc làm vô ích, phi dân chủ và gây phản cảm, nhất là từ những người đang được sống ngoài vòng cương toả của chế độ độc tài.

Thỉnh nguyện không được, vùng lên lại chẳng có mấy ai. Tiến trình dân chủ sẽ như thế nào?

Câu hỏi “Ai sẽ thay Đảng…?” chính là một cơ hội để những người trí thức chống độc tài khẳng định lại bản chất và mục đích của cuộc tranh đấu cho dân chủ nhằm thu hút sự ủng hộ của quần chúng. Trên nguyên tắc, người đấu tranh dân chủ đúng nghĩa không tranh đấu cho quyền lãnh đạo của một người hay một đảng. Người đấu tranh dân chủ đúng nghĩa tranh đấu cho cái quyền được chọn lựa: Mỗi người dân một lá phiếu. Đấu tranh để có quyền chọn lựa như thế là mới chính là đấu tranh dân chủ. Không phải mọi phong trào chống độc tài đều là đấu tranh dân chủ. Đặt sự chọn lựa đảng phái, chủ thuyết, người lãnh đạo… trước khi có quyền chọn lựa sẽ biến cuộc đấu tranh này thành một sự xung đột giữa những thế lực khác nhau, dễ khiến người dân nghi ngờ hơn là tin cậy.

Cuộc đấu tranh dân chủ chân chính là cuộc đấu tranh để mọi người dân thật sự có quyền chọn lựa. Chọn lựa cụ thể như thế nào thì tùy dân, là quyền của dân. Theo tinh thần bất hủ của Voltaire (khi ông nói về quyền tự do ngôn luận), người đấu tranh dân chủ chân chính hẳn phải có tâm niệm: Dù tôi không đồng ý với sự chọn lựa của họ, tôi vẫn tranh đấu đến cùng cho quyền được chọn lựa của họ. Người đấu tranh dân chủ chân chính sẽ chống lại mọi khuynh hướng giới hạn quyền chọn lựa của người dân. Ngoại trừ độc tài đương quyền, không ai chống lại mục tiêu và con người đấu tranh như thế: Đấu tranh bất bạo động cho quyền được chọn lựa của mỗi người, của mọi người, bất chấp đảng phái và chính kiến.

Chỉ bằng cách khẳng định thật rõ ràng rằng mục tiêu đấu tranh là cái quyền được chọn lựa của mỗi người, của mọi người mới có thể thu hút được sự hổ trợ của đông đảo quần chúng. Từ những người vẫn nghĩ rằng Đảng CSVN đã có công trong sự giành độc lập, thống nhất đất nước cho đến những người vẫn tin rằng CS là một đại họa của dân tộc, tất cả (trừ độc tài đương quyền) đều muốn có được cái quyền ấy. Đây là mục tiêu quan trọng tối hậu. Bên cạnh nó, những tranh chấp về các diễn biến lịch sử, đúng sai của những chủ thuyết chính trị, công tội của những nhân vật lịch sử v.v… chỉ là những vấn đề để nghiên cứu và tranh luận khi trà dư tửu hậu, khi đã có được một thể chế dân chủ.

Dĩ nhiên là độc tài đương quyền sẽ tìm mọi cách, dùng mọi thủ đoạn để trấn áp tất cả những hoạt động đấu tranh dân chủ. Họ sẽ đưa ra mọi lý lẽ để phân hoá, để chứng tỏ cuộc đấu tranh dân chủ chỉ là một sự tranh giành quyền lợi hay có ý đồ làm loạn. Đấu tranh thành công cần phải có đủ một số yếu tố. Quan trọng nhất là làm thế nào để có thể tạo được sự ủng hộ đông đảo, dù âm thầm, của quần chúng. Lý tưởng dân chủ – cái quyền được chọn lựa của mỗi người –  tự nó chỉ là một khái niệm trừu tượng đối với những người phải quần quật, đầu tắt mặt tối để mưu sinh. Tư tưởng và phương pháp đấu tranh cụ thể để có được một tiến trình dân chủ thành công là nội dung của Phần II.

_____

Phần 2:

Thế giới qua hơn nửa thế kỷ nay đã chứng tỏ rằng bất bạo động là phương pháp đấu tranh duy nhất thực sự hữu hiệu trong việc xây dựng nền tảng dân chủ. Có nhiều lý do để tránh mọi hình thức bạo động. Thực tiễn đơn giản nhất là khi chính quyền độc tài nắm hết mọi công cụ của bạo lực thì chiến thắng bằng bạo động là chuyện không tưởng. Hy vọng có được hổ trợ vũ lực từ bên ngoài trong hoàn cảnh hiện nay của Việt Nam cũng hoang đường không kém. Chắc chắn không mấy ai nhân danh dân chủ mà lại cổ súy bạo động chống chính quyền. Nhưng đấu tranh bất bạo động hữu hiệu cần phải theo một số nguyên tắc mà hầu như ít ai chú ý.

Tranh chấp dưới bất cứ hình thức nào cũng nhằm tạo ra áp lực buộc đối phương phải nhượng bộ. Tranh đấu bạo động thì áp lực chính là quân sự. Trong những cuộc đình công bất bạo động ở xứ tự do thì áp lực chính là kinh tế. Tạo ra áp lực cho đối phương cũng như chống lại áp lực của đối phương đều đòi hỏi phải trả giá. Bên thua cuộc là bên không đủ sức trả cái giá cuộc đấu tranh đòi hỏi. Người đấu tranh dân chủ phải tự hỏi họ sẽ tạo ra được áp lực gì đối với chính quyền độc tài và sẽ phải trả giá như thế nào. Hô hào xuống đường khi không có câu trả lời thấu đáo thì chỉ là một hành động bồng bột khó đem lại kết quả như ý muốn.

Phong trào Occupy Wall Street dù đã lan rộng khắp các thành phố lớn ở Mỹ với sự tham dự và ủng hộ đông đảo của thanh niên vẫn không đi đến đâu vì không tạo ra áp lực gì (và cũng không có những đòi hỏi thực tiển). Ngược lại những cuộc biểu tình của Đảng Trà (Tea Party) đã có ảnh hưởng mạnh trên chính trường Mỹ vì áp lực của lá phiếu. Trong một nước toàn trị thì áp lực của lá phiếu, hay ý dân, là một điều vô nghĩa. Vì thế mà hành động xuống đường biểu tình tự nó không phải là một hình thức tranh đấu dân chủ hữu hiệu trong mọi thời điểm. Điển hình là sự bất lực của thanh niên Hồng Kông trước những áp đặt của Bắc Kinh. Dù họ có ý thức chính trị cao và đã chuẩn bị công phu nhưng vẫn không thể tạo ra áp lực đủ mạnh để buộc Bắc Kinh phải nhượng bộ.

Bất phục tùng dân sự (civil disobedience) có thể như cây gậy thọc vào cái bánh xe của chính quyền độc tài. Gậy đủ lớn thì có áp lực đủ mạnh để làm hỏng bánh xe. Nhưng trong thực tế thì rất khó có thể hô hào người dân tạo ra một phong trào bất phục tùng dân sự chống lại chính quyền độc tài. Cái giá của hành động bất phục tùng là tù đày hay ngay cả sinh mạng. Một cái giá quá cao mà bất cứ ở đâu, thời nào cũng chỉ có một thiểu số nhỏ dám chấp nhận.

Xuống đường biểu tình, đình công, bất phục tùng dân sự để tạo ra áp lực của cử tri, áp lực kinh tế, áp lực xã hội, là những hình thức tranh đấu bất bạo động hữu hiệu với một chính quyền có lương tâm. Nhưng dưới chế độ độc tài thì những hình thức tranh đấu này sẽ không tạo ra áp lực gì và do đó sẽ thất bại như ở Hồng Kông (không đạt được mục đích là có qưyền bầu cử thật sự) nếu những người tranh đấu dân chủ chỉ dựa vào chúng.

Chà đạp nhân quyền của người đấu tranh bất bạo động, chính quyền độc tài cũng phải chịu sự phê phán của dư luận quốc tế, sự tẩy chay của những nước văn minh. Nhưng lịch sử thế giới đã chứng tỏ rằng đây là một cái giá mà mọi chế độ toàn trị sẳn sàng chấp nhận khi họ thấy cần. Cuộc thảm sát ở Thiên An Môn năm 1989 là một ví dụ đẫm máu hùng hồn. Vì vậy mà đấu tranh như thế thì phần chủ động sẽ luôn luôn nằm trong tay chính quyền, khó mà thành công được.

Áp lực duy nhất sự đấu tranh bất bạo động có thể tạo ra được trong một chế độ độc tài là một áp lực mà thoáng nghe thì có vẻ mơ hồ nhưng lại là một áp lực hữu hiệu nhất, mạnh nhất. Đó chính là áp lực của lương tâm. Lương tâm của ai? Lương tâm của người dân, lương tâm của xã hội, lương tâm của những viên chức, bộ đôi, công an trong bộ máy chính quyền. Rất có thể là lương tâm của chính những người đang cầm quyền sinh sát của chế độ. Vai trò của “lương tâm” trong cuộc đấu tranh dân chủ là một vấn đề rất tế nhị. Người đấu tranh dân chủ không thể ngây thơ, chủ quan, mà phải chấp nhận và suy tính rằng chính quyền độc tài vốn không có lương tâm, sẽ không từ một thủ đoạn nào để ngăn chặn quyền dân chủ. Nhưng đồng thời họ cũng phải thấy rõ rằng lương tâm của mỗi người, ngay cả những cá nhân trong guồng máy độc tài, cũng không bao giờ biến mất. Lương tâm con người, ngay cả những lương tâm bị che mờ vì lòng tham và thù hận, chính là đối tượng đế chiến thắng của những người đấu tranh dân chủ.

Một khi con người và xã hội cho rằng những chính sách, những biện pháp hiện hành của chính quyền là “vô lương tâm” thì cái chính quyền đó hoặc sẽ phải nhanh chóng thay đổi hoặc sẽ sụp đổ mà không cần cái giá của nhiều hy sinh xương máu. Khi người lính của chính quyền ngần ngừ tay súng, khi thượng cấp của anh ta trì hoãn lệnh bắn, khi những người có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của chính quyền không muốn tiếp tục công việc.. thì chỉ cần một diễn biến nhỏ cũng có thể nhanh chóng đưa đến một sự thay đổi chính trị sâu rộng. Rất có thể những tay lãnh đạo trong chính quyền độc tài cũng sẽ nhận ra sự tỉnh thức của lương tâm xã hội để tiến hành cải cách thật sự hòng tránh tai họa cho chính họ. Nhưng nếu không có một sự rung chuyển trong lương tâm của những thành viên trong xã hội, thì đấu tranh dân chủ sẽ khó mà thành công. Nếu không có áp lực đủ mạnh của lương tâm thì cái giá độc tài phải trả khi ra tay chém giết là rất thấp so với cái giá xương máu của người đấu tranh dân chủ.

Trong cuộc đấu tranh dân chủ này, không có thành trì để chiếm đóng, không thể đánh bại binh đoàn của độc tài, chỉ có thể xoay chuyển được lương tâm của xã hội. Vì thế mà đây không phải là cuộc tranh đấu chống quân thù. Nhưng về phía chính quyền thì càng tạo ra được ấn tượng của một cuộc chống phá bởi những “thế lực thù địch” thì càng dễ khiến xã hội thờ ơ với phong trào đấu tranh dân chủ. Có thể vì không nhận ra bản chất và mục tiêu thực tế của cuộc đấu tranh, nhiều người vẫn dùng những ngôn từ và hình thức sáo mòn để đả kích chính quyền, trong đó có nhiều phần tử họ cần phải thuyết phục và có thể thuyết phục được, như một kẻ thù để tiêu diệt. Dù vô tình, chính họ đang tiếp tay cản trở tiến trình dân chủ của đất nước với cái tư duy, ngôn ngữ, và hành động đã trở thành thói quen từ những cuộc đấu tranh bằng vũ lực của thời xưa.

Để thành công, cuộc đấu tranh dân chủ cho Việt Nam hôm nay phải có bản chất của một cuộc đấu tranh về tư tưởng, đấu tranh để thuyết phục từng cá nhân trong xã hội rằng cuộc đời của họ, tương lai con cháu họ, tương lai đất nước sẽ tốt đẹp hơn với những đòi hỏi cụ thể của những người đang dấn thân tranh đấu. Tùy hoàn cảnh, quá khứ, và tâm hồn, có người đã chọn con đường đấu tranh dân chủ, có người sẽ cảm nhận và ủng hộ, dù âm thầm, và cũng sẽ có người, trong số những người đang được hưởng độc quyền và đặc lợi, quyết chống mọi tiến triển dân chủ. Cho đến khi mà đa số người dân hiểu và đồng tình ủng hộ những đòi hỏi cụ thể của phong trào dân chủ thì trọng tâm của cuộc tranh đấu vẫn phải là sự thuyết phục quần chúng chứ không phải tổ chức những hoạt động kêu gọi chống chính quyền. (Chính quyền sẽ có những vi phạm đòi hỏi một sự phản đối mạnh như một cuộc biểu tình chẳng hạn. Nhưng người xuống đường cần phải cân nhắc tùy theo vụ việc để thuyết phục thêm được quần chúng thay vì để lọt vào cái bẩy “gây rối loạn, phá hoại đời sống” của chính quyền.)

Ngày mà bà con, bạn bè của những người dấn thân cho dân chủ không hỏi tại sao làm thế, ngày mà họ ủng hộ cuộc đấu tranh, dù chỉ là ngấm ngầm trong tư tưởng, ngày mà đa số những người chọn đứng bên lề chỉ vì họ sợ, chỉ vì họ không thể hay không dám trả cái giá chống độc tài chứ không phải vì bất đồng tình thì đó là ngày mà thành trì và súng đạn của chính quyền độc tài sẽ trở thành vô hiệu dù bên ngoài vẫn rất hoành tráng. Đây là lý do tại sao những cuộc đấu tranh dân chủ bất bạo động thành công đều có vẻ như đã bùng phát đột ngột và nhanh chóng đạt được kết quả. Thật ra đó chỉ giai đoạn kết thúc của một quá trình xoay chuyển lương tâm của xã hội đã thành công. Vấn đề là làm thế nào để thành công.

Trước hết ta hãy điểm qua những việc làm không có hiệu quả, nếu không nói là phản tác dụng trong việc thuyết phục đa số quần chúng để có được một đất nước dân chủ. Một trở ngại lớn là sự chia rẽ vì lịch sử, hay đúng hơn là vì sự đấu tố lịch sử theo cảm tính, của những người đang cùng kêu gọi dân chủ. Lịch sử Việt Nam dĩ nhiên là phức tạp, bị bóp méo, viết lại nhiều hơn lịch sử của những nước tự do. Tìm hiểu sự thật lịch sử, ngay cả ở xứ tự do, vẫn là một việc làm đòi hỏi tinh thần khách quan và trình độ nghiêm túc của các sử gia chuyên nghiệp. Khi những người không thể phân biệt đâu là sử kiện, đâu là tin đồn, không thể đánh giá được sự khả tín và biện minh của nhân chứng… mà lại hùng hục lên án hay tung hô theo cảm tính thì sẽ không thuyết phục được ai. Đây là một hành động có thể đem lại hứng thú cho những người vốn có cùng niềm tin nhưng vô dụng cho tiến trình dân chủ. Dù lịch sử có như thế nào thì con đường cần đi trước mắt vẫn không thay đổi; và nếu những tệ nạn hiện thời không đủ để rung chuyển lòng người thì sự thật lịch sử cũng chỉ là chuyện cổ tích.

Sự xung khắc không đúng lúc giữa những người cùng đấu tranh dân chủ cũng là một hành động phản tác dụng khác. Dân chủ – quyền được lựa chọn của mọi người, mỗi người dân một lá phiếu – không đòi hỏi người ta phải có ý kiến cụ thể như thế nào, mà chỉ đòi hỏi sự chấp nhận quyền chọn lựa của người khác. Đây chính là mẫu số chung cho tất cả mọi hoạt động đấu tranh dân chủ. Sự bất đồng ý kiến trong những vấn đề liên quan đến cuộc sống hằng ngày là một điều không thể tránh khỏi, và cũng chính là một yếu tố làm xã hội tiến bộ với thời gian. Những người đấu tranh dân chủ thường không có, không cần có (và cũng không nên có) cùng chính kiến ngoài lý tưởng dân chủ, đặt quyền chọn lựa của dân trên hết. Khi chưa có được quyền chọn lựa thì những tranh chấp khác chỉ làm phân tán nổ lực đấu tranh đòi quyền dân chủ. Những khác biệt này, dù quan trọng, vẫn là những vấn đề phải để hạ hồi phân giải, một khi đã có được thể chế dân chủ. Đây là điều hiển nhiên đến nhàm trên lý thuyết, nhưng thực tế thì bản chất con người vẫn có những đố kỵ, những tham vọng khiến ta khó mà bỏ qua những khác biệt về quan điểm để cùng sát cánh. Rất may là thực tế cũng không đòi hỏi mọi người mà chỉ cần một vài người có uy tín, đại diện tinh thần, của những nhóm tranh đấu dân chủ khác nhau có đủ tâm trí để nói lên và làm theo nguyên tắc thỏa hiệp dân chủ này.

Mắng chửi Cộng Sản một cách chung chung cũng phản tác dụng. Gốc rễ chỉ là thể chế và bản chất con người. “Người Cộng Sản” đã là một khái niệm vô nghĩa. Trong hàng ngũ Đảng viên và lãnh đạo hôm nay có những kẻ đã bòn rút, trấn lột dân, những kẻ mà người Cộng Sản 70 năm trước hẳn sẽ giết không tha. Và cũng trong hàng ngũ của những Đảng viên hôm nay, những kẻ được hưởng quyền lợi của chế độ toàn trị lại có những người đứng lên, chịu trả giá tù đày, để đòi cải cách, quyền dân chủ. Những người dùng một cái nhãn hiệu đã lỗi thời để chửi rủa chung chung chỉ biểu lộ tâm trí cạn cợt, chỉ có thể khích động hận thù, hoàn toàn vô ích trong cuộc đấu tranh bất bạo động. Chính những người họ đang miệt thị, những cá nhân trong guồng máy chính quyền, là người mà lương tâm sẽ quyết định tương lai dân chủ của Việt Nam.

Một đặc điểm của đấu tranh bất bạo động, đấu tranh tư tưởng là sức mạnh của phong trào tùy thuộc vào sự minh bạch, công khai của những người tranh đấu. Họ lên tiếng, họ chống đối đường hoàng dõng dạc cho nhân quyền, cho lợi ích của xã hội, cho công lý… Họ không hành sự lén lút, không tuyên truyền nặc danh. Trước những người như thế, đội ngũ an ninh chuyên điều tra, đối phó với những hoạt động chống đối bí mật sẽ trở thành vô dụng đến khôi hài, ngay cả đối với những người công an đang làm nhiệm vụ. Đây cũng là bước đầu để chuyển hoá tâm tư họ. Dù trong hoàn cảnh đối nghịch, ít người có thể nuôi lòng hận thù hay hằn học lâu dài khi đối phương rõ ràng là chống đối để cải thiện, để xây dựng, không chống đối để tiêu diệt hay đập phá.

Diễn biến Thiên An Môn 25 năm trước là một bài học đáng chú ý về khả năng thức tỉnh lương tâm của đấu tranh bất bạo động cũng như cái giá độc tài chịu trả để giữ vững chế độ. Trong bảy tuần biểu tình ôn hòa của sinh viên Bắc Kinh, người dân Bắc Kinh ngày càng ủng hộ họ. Những sinh viên này chẳng nguyền rủa Mao Trạch Đông, chửi Đảng, mà chỉ đòi tự do ngôn luận, thêm quyền dân chủ, dẹp tham nhũng… Ai có lương tâm cũng phải đồng tình, bất kể chính kiến. Đặng Tiểu Bình và đồng bọn không dám tin vào sự trung thành của những binh đoàn đang trấn thủ Bắc Kinh, những người lính đã thấy, đã nghe những sinh viên này trong mấy tuần qua. Lãnh đạo Bắc Kinh đã hoán chuyển những binh đoàn ở xa về để trấn áp. Những người lính này thật lòng nghĩ rắng nhờ có Đảng và lãnh tụ mà đời sống họ khá hơn, nước Trung Hoa được ngẩn mặt với thế giới. Đối với họ những thanh niên đang tranh đấu chỉ là quân “phản động”. Vì thế họ đã không ngần ngại giày xéo khi có lệnh. Hoàn cảnh Việt Nam và thế giới hiện nay thuận tiện hơn nhiều cho cuộc đấu tranh tư tưởng để xoay chuyển lương tâm một cách rộng lớn.

Chính quyền Việt Nam ngày nay có lẽ cũng không thua kém gì Đặng Tiểu Bình và đồng bọn về thủ đoạn chống dân chủ. Những người đấu tranh có nhiều ảnh hưởng chắc chắn phải trả giá. Họ đã và sẽ phải chịu cảnh tù đày. Nhưng tiếng nói của họ dần dà sẽ có được sự ủng hộ, dù là thầm lặng lúc đầu, của đa số quần chúng. Một chính quyền có lương tâm không thể có tù nhân lương tâm. Và những tù nhân lương tâm chính là tiếng chuông mạnh nhất để thức tỉnh lương tâm xã hội, lương tâm thế giới. Tiếng chuông của Nelson Mandela, Aung San Suu Kyi đã đem lại những thay đổi lớn cho nền dân chủ của nước họ (dù hiện vẫn có nhiều trở ngại). Những người chịu trả cái giá tù đày để nói lên điều cần nói, những người tù lương tâm, bao giờ cũng là nổi lo lớn nhất của độc tài. Chính quyền Việt Nam đã nghĩ ra được một giải pháp để tạm thời đối phó. Họ sẽ “xuất khẩu” những ai đã tạo ra ảnh hưởng lớn với lòng can trường dám chấp nhận ngục tù. Tiếng nói của người sống trong một xã hội phồn thịnh, tự do sẽ không có cái hùng tráng đầy sức thuyết phục của tiếng nói bị chận bóp vọng ra từ trong tù. Nhưng thủ đoạn này sẽ không thể làm ngưng tiếng chuông đánh thức lương tâm vì Việt Nam xưa nay vẫn có những người can trường chịu ngồi tù cho lý tưởng.

Mức độ lên tiếng kêu gọi cải cách dân chủ tùy vào tâm tư và hoàn cảnh của mỗi người, tùy vào cái giá họ sẳn sàng chịu trả để có tiếng nói công khai. Nhưng dù ít hay nhiều, những tiếng nói ấy, nếu tránh được những tranh cãi luẩn quẩn đưa ra ở trên, sẽ có tác dụng thay đổi cách nhìn và xoay chuyển lương tâm của xã hội. Trong cuộc tranh đấu này, “chiến trận” không chỉ là lúc đối đầu với công an, an ninh mà chính là trong những lúc đối thoại, tâm tình với bà con, bạn bè, đồng nghiệp, hàng xóm… Dù muốn hay không, tác phong, nhân cách, tâm hồn, tính tình của những người đấu tranh dân chủ đều là những yếu tố thuyết phục (hay gây phản cảm) cho phong trào dân chủ. Để có thể “chiến thắng”, người đấu tranh dân chủ phải tránh gây ra cảm giác, dù đúng hay sai, là họ chống đối chính quyền vì hận thù hay vì tham vọng cá nhân hơn là vì quyền lợi chung của xã hội.

Người chọn dấn thân trên con đường đấu tranh dân chủ lúc nào cũng phải có một mục tiêu, một đòi hỏi cụ thể cho quyền lợi trước mắt của người dân. Dân chủ – quyền chọn lựa của mọi người – tuy là mục đích tối hậu nhưng cũng là một khái niệm trừu tượng đối với đa số dân. Khi một số đông cảm thấy là đời sống kinh tế đã có nhiều tiến bộ so với mười, hai mươi, ba mươi năm trước thì những lý luận trừu tượng khó làm rung động lòng họ. Những người phê phán chống đối mà không đưa ra được một giải pháp thực tiển, nhất là với ngôn từ và thái độ hằn học, sẽ dễ dàng bị dân coi thường. Tuy chế độ toàn trị là gốc rễ của hầu hết những tệ nạn trong xã hội, thực tế đấu tranh dân chủ hằng ngày cần phải tập trung vào những đòi hỏi thực tiển mà mọi người đều thấy rõ sự lợi ích của chúng. Qua quá trình đấu tranh đòi hỏi những điều này, và phản ứng của chính quyền, người dân sẽ cảm nhận cái giá trị và sự cần thiết của thể chế dân chủ cũng như bản chất tệ hại của mọi chính quyền toàn trị. Để minh họa, ta hãy tưởng tượng một phong trào có thể xảy ra trong thực tế như thế.

Mọi người, dân cũng như quan, đều lên tiếng chống tham nhũng. Hãy phát động một phong trào bài trừ tham nhũng, làm công khai những thu nhập của các quan lớn. Đây hẳn là một đòi hỏi rất hợp lý và có ích lợi thực tiển. Thu nhập minh bạch của quan chức sẽ tạo thêm lòng tin cho dân, làm quan thêm rạng rỡ – vàng thật không sợ lửa – và bớt gánh nặng cho dân, cho công quỹ vì tệ nạn đục khoét, hối lộ. Không ai có thể chống đối đòi hỏi này trên nguyên tắc. Trong thực tế thì đây là điều mà chính quyền độc tài, lũng đoạn bởi tham quan, sẽ kiên quyết chống. Và đây cũng chính là dip để người dân cảm nhận vai trò của thể chế và ủng hộ, dù thầm lặng, những hoạt động dân chủ không bị ràng buộc bởi quá khứ, hay màu cờ, sắc áo. Đây chỉ là một ví dụ. Có nhiều điều cụ thể như thế, trực tiếp liên quan đến đời sống hằng ngày, trước mắt của người dân, những đòi hỏi không liên quan đến ý thức hệ hay quá khứ chính trị, có thể tạo được sự ủng hộ rộng lớn để đem đến những cải cách dân chủ thật sự.

Bạo hành của công an, hối lộ của chính quyền địa phương, những tổ chức làm ăn gây thiệt hại cho xã hội, luật lệ bất công, v.v… đều có thể là đề tài cho những phóng sự cụ thể, những nhận định chính trị, những đòi hỏi mà đa số dân và ngay cả những Đảng viên có lòng yêu nước đều ủng hộ như ta đã thấy. Nhưng thay vì chỉ đưa ra những lời chỉ trích chung chung hay những kiến nghị, cần phải có những phóng sự chất lượng với những chi tiết và nhân vật cụ thể để vạch trần bản chất vô liêm sĩ, một sự vô liêm sĩ phi chính trị, của những người dùng quyền thế để bòn rút và che đậy tội lỗi. Trước luật pháp, dù là luật pháp khập khiển hiện hành tại Việt Nam, thì đây vẫn là những điều phạm pháp và những tên tội phạm đòi hỏi phải có sự xử lý và trừng phạt thích đáng. Nhưng khi kẻ cướp lại vừa là quan tòa vừa là cảnh sát, hệ quả tất yếu của chính quyền toàn trị, thì cách trả lời thường thấy sẽ là sự trấn áp những phóng viên, những nhà báo nói lên sự thật và những người đòi công lý cụ thể cho xã hội. Người dân sẽ nhìn những tay gian tham này và bộ máy chính quyền phục vụ chúng với cặp mắt đầy khinh bỉ. Không có một biện minh chính trị nào, quá khứ lịch sử nào có thể che lấp được cái bản chất xấu xa của những kẻ đã bị thoái hoá vì quyền lực và dục vọng thấp hèn.

Trong xã hội hiện nay, chính quyền đã không còn có thể hoàn toàn khống chế đời sống kinh tế của mọi người được nữa. Sẽ có những phóng viên, nhà báo độc lập điều tra và phơi bày sự tham nhũng, những đổi chác hại nước, hại dân, những sự bạo hành, phạm pháp của nhiều đại quan. Chính quyền chỉ có thể đối phó bằng cách chà đạp nhân quyền của họ. Bố ráp, kết tội, tống giam những người có dũng khí tìm hiểu và nói lên sự thật, phơi bày cái ai cũng cho là xấu để cải thiện xã hội, thì không chỉ là một vi phạm nhân quyền trắng trợn mà bản chất còn là một sự vô liêm sĩ, bất luận chính kiến và thời đại, đáng khinh của bạo quyền. Những người anh dũng dám đứng mũi chịu sào này chắc chắn sẽ được sự ủng hộ của nhiều người, của cả thế giới, của ngay chính những người thấp cổ bé họng trong guồng máy toàn trị. Khi cai ngục đã có lòng kính trọng tù nhân thì thay đổi, cải cách thật sự chỉ còn là chuyện một sớm một chiều mà thôi. Bước đầu tiên có lẽ là chính quyền sẽ phải chấp nhận và tôn trọng quyền tự do ngôn luận, nền tảng của mọi hoạt động dân chủ. Chỉ cần một bước đầu như thế là rất có thể sẽ làm cả hệ thống toàn trị phải nghiên ngã.

Tập đoàn lãnh đạo Việt Nam hẳn cũng không phải toàn là những người u mê. Khi họ thấy lương tâm xã hội đã thay đổi, nền tảng toàn trị đã rạn nứt, rất có thể chính họ sẽ nhanh chóng tiến hành những cải cách cần thiết mà người dân đòi hỏi. Cuộc đấu tranh dân chủ như thế có nhiều triển vọng đem đến những thay đổi sâu xa và tốt đẹp về chính trị, thể chế, như từng xảy ra ở Đài Loan và Nam Hàn.

Đấu tranh như thế dĩ nhiên đòi hỏi phải có những người dấn thân, chịu trả cái giá cá nhân rất cao, nhưng lại không đòi hỏi quần chúng phải trả giá, không làm đời sống xã hội khó khăn hơn, dù tạm thời. Đấu tranh như thế tuy vẫn rất cam go nhưng có sức thuyết phục, dễ đánh thức lương tâm hơn tất cả những gào thét, nguyền rủa, hay kêu gọi người dân đứng lên lật đổ Đảng và chính quyền Cộng Sản như ta vẫn thường nghe thấy trong 40 năm qua. Đây chính là con đường đấu tranh dân chủ thực tiễn nhất. Thực tế hiện nay cũng có những lợi điểm cơ bản khiến ta có thể hy vọng vào một tiến trình dân chủ khả quan ở Việt Nam.

Người Việt không có những xâu xé lâu đời vì chủng tộc hay tôn giáo. Cùng một tiếng nói chung, giao thông, liên lạc đã không còn nhiều trở ngại về địa lý hay hành chánh, người Việt dễ có cùng chung những giá trị về chân, thiện, mỹ khi không còn bị ràng buộc bởi ý thức hệ và lòng hận thù. Từ trong lòng của chế độ, từ lớp người hoàn toàn trưởng thành trong sự giáo dục một chiều, cứng nhắc của chế độ vẫn xuất hiện những người với tài năng, khí phách và tâm hồn khiến hầu hết mọi người phải khâm phục. Bên cạnh họ hẳn phải còn rất nhiều người cũng băn khoăn, mong muốn có được một đất nước thịnh vượng. Ngay cả những người trong tập đoàn độc tài đang bị thao túng vì quyền lợi và tham vọng cá nhân cũng không thể phủ nhận sự thật hiển nhiên đến nhàm về vai trò cơ bản của pháp quyền và dân chủ. Tuy tệ nạn công lý rừng rú và nghị gật vẫn còn nhiều, Việt Nam cũng đã có những cơ sở, dù hiện thời chỉ là hình thức như phấn son tô điểm cho chế độ độc tài, để xây dựng một xã hội dân chủ. Ta đã thấy những người đấu tranh dân chủ hiên ngang tranh luận với công an, bất phục tùng trên căn bản pháp lý, và đưa đại quan ra tòa. Nếu ta có thể rũ bỏ được ý thức hệ, nhãn hiệu, và hận thù – những tàn dư, dù là tàn dư sâu đậm của quá khứ – để tập trung vào những thay đổi, đòi hỏi, chống đối để cải thiện xã hội, chính quyền, và đời sống chung thay vì đập phá thì chắc chắn sẽ có được những thành quả lớn trong tương lai gần.

CHỚ CAO GIỌNG DẠY DÂN LÒNG YÊU NƯỚC

Hoa Kim Ngo is with Sương Quỳnh and 10 others.

CHỚ CAO GIỌNG DẠY DÂN LÒNG YÊU NƯỚC

GS Tương Lai

Những ngày vừa qua, đề đối phó với làn sóng biểu tình dâng lên mạnh mẽ phản đối “Luật Đặc khu kinh tế”, mở đường rước kẻ cướp đảo cướp biển của Việt Nam vào trấn giữ ba vị trí xung yếu của duyên hải Việt Nam, và “luật An ninh mạng” tạo cơ sở pháp lý cho việc bịt miệng dân, đang lan rộng ra cả nước, cùng với việc dùng bạo lực trấn áp, đánh đập dân rất tàn nhẫn, một cơn dịch vu cáo dân, cao giọng dạy dỗ dân “phải biết yêu nước đúng cách”. Cơn dịch ấy đang lây nhiễm khá bài bản trên mạng lưới truyền thông nhà nước. Khốn khổ, điều đó lại đang tăng thêm nguy cơ ô nhiễm môi trường sống của chúng ta về vật chất cũng như về tinh thần đã tệ hại, càng tệ hại thêm.

Chuyện sử dụng bạo lực để trấn áp, thôi không cần phải nói dài. Tức nước vỡ bờ, mọi thế lực cầm quyền đều biết điều ấy. Nhưng trong thế bí, họ buộc phải làm, cho dù đó là cách giải khát bằng thuốc độc. Khi quyền lực thấy ra được sức phẫn nộ của dân đã đến cái ngưỡng dẫn đến sự cáo chung của một thể chế toàn trị phản dân chủ chỉ tồn tại được nhờ sự bảo kê của thế lực bên ngoài, thì trong cơn bấn loạn, họ có thể buộc phải làm những điều mà họ cũng biết là dại dột. Ở đây sẽ gợi lên đôi điều về bạo lực chỉ có thể được che đậy với một lời nói dối. Và, lời nói dối chỉ có thể được duy trì nhờ bạo lực. Ai từng đem bạo lực ra làm cứu cánh, thì rồi cũng sẽ buộc phải lấy dối trá làm nguyên tắc. Chuyện này có gì đáng ngạc nhiên đâu. Quỷ có thể lấy cả Kinh Thánh để dẫn dắt cho ý đồ đen tối của nó, huống hồ những người có trong tay cả một bộ máy tuyên truyền mà đến như Goebbel thời phát xít Hítle cũng còn thua kém xa.

Chỉ có điều, họ đã thiếu cân nhắc khi định chọc vào một lĩnh vực nhạy cảm vào bậc nhất trong tâm thế Việt Nam : lòng yêu nước và tinh thần quật khởi chống Tàu, kẻ xâm lược mà nhiều thế hệ Việt Nam trong suốt mấy ngàn năm lịch sử chưa một phút nào thôi căm hận. Từ đứa bé còn nằm trong nôi nghe tiếng vó ngựa quân xâm lược, phải vụt lớn lên để kịp đánh giặc cứu nước, cho đến người già từng trải chống ngoại xâm vẫn đau đáu chưa đền được nợ nước mà đầu đã bạc, “quốc thù vị báo đầu tiên bạch”. Nay thì việc Trung Quốc chiếm đảo, chiếm biển, hàng ngày đâm chìm tàu cá, đánh đập ngư dân hành nghề trên biển mà cha ông mình bao đời vẫn ra khơi vào lộng thì làm sao không căm hận? Lại thêm chứng kiến thái độ ngang ngược của bọn Tàu đến làm ăn, du lịch như ở Bình Thuận, nơi dân đang quá bức xúc và phẫn nộ khiến cho sự nhẫn nhục đã bục vỡ.

Nay lại nghe nói trong dự thảo Luật có điều khoản Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc có khả năng giao đất cho nhà đầu tư nước ngoài, mà thật ra là nhà đầu tư Tàu, đến 99 năm thì mối hận trên càng trào dâng. Không ai khác, cách đây 70 năm cụ Hồ đã nói rõ : “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra”. Có được điều đó là vì : “Đặc điểm rõ nhất trong tư tưởng của dân chúng là họ hay so sánh. Họ so sánh bây giờ và họ so sánh thời kỳ đã qua. Họ so sánh từng việc và so sánh toàn bộ phận. Do sự so sánh, họ thấy chỗ khác nhau, họ thấy mối mâu thuẫn. Rồi do đó, họ kết luận, họ đề ra cách giải quyết. Dân chúng so sánh đúng, giải quyết đúng, là vì tai mắt họ nhiều, việc gì họ cũng nghe, cũng thấy. Vì sự so sánh kỹ càng đó mà cách giải quyết của dân chúng bao giờ cũng gọn gàng hợp lý, công bình”.*[Hồ Chí Minh Toàn Tập. Tập 5. NXBCTQG.1995. tr.295-296]

Vậy đó, thưa các vị. Các vị đang giương cao khẩu hiệu “Học tập và làm theo đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh” nhằm tìm kiếm một tấm bình phong che dấu cho những việc làm tệ hại của các vị theo cách “quỷ dẫn kinh Thánh” vừa nói ở trên, tôi buộc phải chép lại hơi dài vì e rằng, có vị ngập chìm trong cuộc chiến quyền lực, chẳng còn hơi sức và thời gian mà “học tập và làm theo” Hồ Chí Minh. Vả chăng, nếu theo như vậy thì làm gì còn cái ghế của các vị đang ngồi! Nhưng chép lại cũng để nói rằng “dân chúng so sánh đúng, giải quyết đúng, là vì tai mắt họ nhiều, việc gì họ cũng nghe, cũng thấy”*. [nt, tr.296]
Cho nên, họ biết các vị quá rõ. Biết từng đường đi nước bước trong “quy trình” tiến thân của các vị. Khi các vị cao giọng dạy họ “phải biết yêu nước đúng cách” thì họ cũng đã biết các vị đã yêu nước như thế nào. Có những vị đã từng có cách thu xếp sao để không cần phải “xếp bút nghiên” theo tiếng gọi cứu nước đúng vào lúc chiến trường đang giục giã, mà vẫn miệt mài “bút nghiên” để cứ thế yên ả “cống hiến cho đất nước” một cách ngoạn mục bởi những nấc thang danh vọng ra sao. Đương nhiên, hoạn lộ của mỗi vị đều mang những sắc thái riêng mà kể tuốt ra đây sao cho đủ, cho hết. Vả lại, người có chút hiểu biết không bỏ mất người, mà cũng không phí lời “trí giả bất thất nhân, diệc bât thất ngôn” [Luận Ngữ, thiên Vệ Linh Công]. Chỉ e không hiểu cái quy trình tiến thân ấy có nằm trong “quy trình” mà Ông Nguyễn Đức Tâm, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức TƯ đã khái quát đưa lên báo : “ Chức thấp tiền ít. Chức càng cao tiền càng lớn. Đã bỏ ra, có chức có quyền rồi thì người ta phải thu về. Mà thu về thì phải có lãi. Càng lãi nhiều càng tốt” [báo Pháp Luật TPHCM, ngày 16.4.2005].

Khi các vị cao giọng dạy dân lòng yêu nước, dân không nói không phải vì họ định ứng xử theo cung cách của G.Washington, vị tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ, “Kiên nhẫn làm tròn nhiệm vụ và im lặng là câu trả lời tốt nhất cho những lời vu khống”. Vì rằng, lời khuyến dụ cao thượng ấy là nhằm đối phó với lời chỉ trích của đối thủ khác chính kiến trong cuộc tranh luận với tinh thần của Voltaire: “Tôi không cùng ý kiến với ông, nhưng suốt đời tôi, tôi sẽ bênh vực quyền của ông được bày tỏ ý kiến đó” như ông viết cho J. Rousseau. Bối cảnh đó trái gược hẳn với cái ta đang có.

Vì thế, trong thảm trạng của đất nước hôm nay, sự im lặng trước lời vu khống của một số người thiểu hiểu biết trong giới cầm quyền sẽ là một tội ác. Vì vậy dân đã nói lên bằng những bước chân nổi giận xuống đường biểu tình. Mà cần nhớ rằng, hệ thống truyền thông nhà nước đang rêu rao rằng dân đi biểu tình là bị kẻ xấu kích động và dụ dỗ thì chính đó mới là việc làm vi hiến.
Tại sao? Vì biểu tình là quyền hiến định của công dân đã được ghi trong Hiên pháp. Không chỉ Hiến pháp 1946 do Hồ Chí Minh làm Trưởng ban Soạn thảo, mà cả Hiến pháp năm 2013 với Điều 25 cũng đã ghi rõ. Không tạo đủ điều kiện để dân thực hiện quyền hiến định ấy là tội lỗi của nhà cầm quyền. Rồi họ phải đối diện với sự phán xét của lịch sử. Đành rằng, “Theo quy định tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013 thì công dân có quyền hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Việc cho đến nay việc “do pháp luật quy định” chưa được thực thi là do thủ đoạn đen tối và ngoan cố của một bộ phận thế lực cầm quyền chần chừ rồi ỉm đi Luật Biểu tình đã từng được soạn thảo khá hoàn chỉnh. Vì sao phải ỉm đi?

Sẽ rõ ngay nếu xem cung cách người ta sợ ban hành Luật Biểu tình đến cỡ nào với chính Chủ tịch Nước cũng bị khóa miệng khi đề cập đến điều “phạm húy” này. Thì đó, ngày 19.6. 2018, báo Tuổi trẻ đưa tin “Chủ tịch nước đồng ý cần ban hành Luật biểu tình” với nội dung ban đầu là “Tiếp xúc cử tri với vai trò đại biểu Quốc hội TP.Hồ Chí Minh, Chủ tịch Trần Đại Quang nói ông đồng tình với kiến nghị cử tri cần có luật Biểu tình và hứa báo cáo Quốc hội về nội dung này” – nhưng chỉ mấy tiếng đồng hồ sau, nội dung bài đã được sửa lại và không còn bất kỳ phát ngôn nào của Chủ tịch Nước đề cập đến Luật Biểu tình trên mặt báo nữa!

Thử hỏi, Chủ tịch Nước, theo quy định của Hiến pháp, sẽ là người ký quyết định ban hành Luật, nay trước đông đảo cử tri, cũng có nghĩa là trước nhân dân cả nước và trước dư luận của quốc tế trong thời đại Internet nối mạng toàn cầu, vừa đưa ra ý tưởng “đồng tình với Kiến nghi cử tri” thì lập tức bị khóa miệng? Vậy thì cái “Nhà nước” này còn ra thể thống gì nữa? Có sự bung bét, bấn loạn nào trong bộ máy cầm quyền phơi bày trước mắt dân bằng sự việc điển hình này?

Cứ ngỡ như nhận xét của Balzac, văn hào Pháp, chỉ là một thủ thuật hư cấu mang tính hài hước trong tiểu thuyết: “Bộ máy hành chính là cơ cấu khổng lồ được những người lùn điều khiển” thì hóa ra lại mang tính phê phán hiện thực hết sức cập nhật ở nước Việt Nam ta . Chẳng trách mà chưa lúc nào tình trạng hỗn quân hỗn quan trong cung cách bắt bớ, nhục mạ, chửi bới, đánh đập dân một cách tàn nhẫn lại trắng trợn, ngang ngược và hung hãn đến như thế dưới ống kính của phóng viên nước ngoài. Thảm trạng ấy diễn ra ngày càng tồi tệ, chưa thấy điểm dừng. Thậm chí, họ còn huy động cả một đội ngũ những người vì những toan tính và động cơ khác nhau hùa theo giọng điệu vu khống, thóa mạ dân mà không lường được hậu quả lâu dài họ sẽ phải gánh chịu trong sự phẫn nộ và khinh bỉ của công chúng, lý do tồn tại và nguồn sống của lớp người nhẹ dạ cả tin đó. Các cụ ta xưa hay nhắc lại điều Mạnh Tử giảng: “Trời không có mắt có tai, dân nhìn tức là trời nhìn, dân nghe tức là trời nghe” [Kinh Thư. thiên Thái tuệ] Các cụ cũng dẫn lời Mạnh Tử khuyên, phải “tìm lại cái tâm đã thất lạc của mình”. Tại sao? Vì “Con gà con chó mà chạy lạc thì ai cũng biết đi tìm, vậy mà có kẻ để lương tâm thất lạc lại không biết cách tìm nó. Thật đáng thương” [Cáo tử thượng. bài 11]

Mà đâu phải chỉ người xưa, tôi chợt nhớ đến một bài viết đăng trên báo Tuổi trẻ năm ngoái đã phàn nàn rằng “những người đáng tin cậy” thực hiện sứ mệnh “kết nối giữa chính quyền bang, liên bang và người dân bình thường của nước Mỹ. Họ từng được coi là những người hùng. Nhưng ngày nay họ đã biến mất, mang theo cùng họ một bộ lọc có lương tâm và đáng tin cậy với trách nhiệm xã hội dân sự rõ ràng”. Đương nhiên báo Tuổi trẻ “chỉ nói chuyện ở nước Mỹ”! Thì phải vậy chứ sao, có thế người đọc chúng ta hôm nay mới có bài không bị xóa để mà xem, mà nghĩ ngợi, và nhất là hiểu được ý tứ của bài viết: “Để kết luận, khi mà tin tức thật sự bị đẩy lùi, tin giả mạo sẽ lan tràn. Chúng ta từng thấy những hậu quả kinh hoàng của điều này trong quá khứ – và thách thức lớn nhất của chúng ta sẽ là tìm ra cách thức chống lại cơn triều đang lên hiện giờ”. [Tuổi Trẻ ngày 21.3.2017] “Cơn triều” nào vậy, các bạn hãy trả lời giúp tôi đi!

Thật ra thì cũng chẳng cần lao tâm khổ tứ nhiều đâu, đã từ lâu nhà Khai Sáng Pháp, Voltaire đã nói toẹt ra : “Chính quyền cần tới cả người chăn cừu lẫn tên đồ tể”. Chỉ có điều, tuy đã gần như là một quy luật “Một xã hội của loài cừu cuối cùng sẽ phải sinh ra một nhà nước của loài sói ”. Nhưng may mắn thay, bằng sự trải nghiệm của chính mình trong trường kỳ dựng nước và giữ nước, truyền thống bất khuất quật cường của dân tộc ta chưa bao giờ phôi pha. Như đốm lửa ủ trong tro bếp, khi thổi vào sẽ bùng lên thành ngọn lửa. Ngọn lửa ấy càng cháy càng bốc cao. Chính vì biết hun đúc, nuôi dưỡng truyền thống đó mà cha ông chúng ta dám tồn tại và phát triển trước nanh vuốt của kẻ thù luôn như hổ đói chỉ chực vồ mồi. Nếu là cừu, dân ta đã bị con hổ đói phương bắc sát kề nuốt sống từ lâu rồi.

Đâm lao phải theo lao, những thế lực cầm quyền đang tối mắt vì món lợi trước mắt nhằm cứu vãn ngân sách đã quẫn bách của một nền kinh tế được tạo dựng trên nền tảng của một thể chế không có sự cân bằng quyền lực trong điều hành và kiểm soát. Trong khi tiếp tục chính sách vừa dựa vào mượn tiền nước ngoài, với mục đích xây dựng hạ tầng phục vụ kinh tế nước ngoài, thì lại thường nhằm vào cắt xén để đút vào túi giới có quyền. Đó cũng là lý do chính quyền hăng hái khuyến khích đầu tư nước ngoài, nhưng lại không nhằm vào chuyển giao công nghệ, hệ lụy đau đớn của chính sách phát triển công nghiệp không chiến lược hiện nay. Cũng chính vì thế có thể nói, nền kinh tế của ta đang được xây dựng trên núi nợ. Hiệu quả thấp, năng suất tăng ở mức thấp, nên GDP cũng tăng ở mức thấp. Núi nợ ấy vẫn tiếp tục tăng mạnh khi Chính phủ vẫn theo đuổi mức tăng tín dụng ở mức 20%. Hệ quả là khả năng trả nợ trong tương lai thật khó lường khi lãi suất trên thị trường thế giới đã tăng trở lại cũng như lạm phát cũng thế, đang quay lại trên thị trường, có khả năng vượt 4% trong năm 2018. Trong khi đó, thể chế hiện nay đã bị lạm dụng làm giầu cho một số người liên quan đến địa ốc. Thực chất đó là một kiểu tham nhũng dựa trên chính sách thu hồi đất giá rẻ so với thị trường, trong khi sức sản xuất đại diện bằng năng suất lao động thì đang tăng ở mức thấp. Thậm chí đã phải bán cả danh hiệu doanh nghiệp được coi là thành công rất hiếm hoi của nước mình cho công ty nước ngoài! Cho dù thế thì tỷ lệ nợ của khu vực tài chính trên GDP của Việt Nam thuộc loại cao nhất thế giới. [Xem bài Của Vũ Quang Việt. Những biểu hiện sai lầm trong chính sách và kế hoạch tăng trưởng kinh tế không có mục tiêu chiến lược]

Đứng trước thực trạng bê bối đó, thay vì dựa vào dân, phát động sức dân đi liền với thực sự cầu thị nhằm mạnh dạn thay đổi thế chế để có thể tăng cường nội lực, nhằm xoay chuyển cục diện, thì thế lực cầm quyền chịu sự thao túng và áp lực của Bắc Kinh lại quay lưng lại với dân ! Họ không hiểu được rằng, khi họ thóa mạ vu khống dân, trấn áp khủng bố dân chỉ vì dân bằng hành động quyết liệt của mình thể hiện lòng yêu nước, ý chí quật khởi dân tộc, kiên quyết chống mọi âm mưu và thủ đoạn của nham hiểm của Trung Quốc thì họ đã tự biến mình thành lực đối kháng với dân. Họ quên mất một chân lý lịch sử : đẩy thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân.

Ấy vậy mà người ta lại dám ngạo mạn cao giọng dạy dỗ dân cách yêu nước ! Thậm chí ông Tổng Bí Thư còn khẳng định : « Xem những thành phần bị công an bắt là ai? Toàn là bất hảo cả ». Còn “Chủ tịch QH Việt Nam, bà Nguyễn Thị Kim Ngân tránh nói đến vấn đề tâm lý chống Trung Quốc tại Việt Nam, ” như hãng Reuters đã lưu ý. Nếu đợi để cho các vị dạy yêu nước theo đúng cách của các vị, thì đất nước này đã trở thành một khu tự trị thứ 6 của Tàu nằm kề khu tự trị Choang, Quảng Tây , Trung Quốc từ lâu rồi !
Lớp học sinh, sinh viên miền bắc những năm 60,70, đặc biệt sinh viên khoa Văn các trường đại học, trong đó có Đại học Tổng hợp, chắc đều biết đến bài tùy bút nổi tiếng của Ilya Erenburg về “Lòng Yêu nước” do Thép Mới dịch. Không ít người đã nhớ nằm lòng đoạn văn “Lòng yêu nước ban đầu là yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh…Người xứ Ukraina nhớ bóng thuỳ dương tư lự bên đường, cái bằng lặng của trưa hè vàng ánh, …tiếng ong bay khẽ xua động cái yên lặng trọng thể. Người xứ Gruzia ca tụng khí trời của núi cao, những tảng đá sáng rực và nỗi vui bất chợt của một dòng suối óng ánh bạc… vị mát của nước đóng thành băng, rượu vang cay sẽ tu trong bọc đựng rượu bằng da dê”.

Vậy đó, yêu cái “vị thơm chua mát của trái lê mùa thu”, yêu cái “vị mát của nước đóng thành băng”, vì những cái tầm thường nhất đó đã từng xao động trái tim con người và khi họ cầm súng bảo vệ mảnh đất quê hương thì những xao động đó trở thành nguồn sức mạnh vô biên giúp họ xốc tới. Đó chính là lòng yêu nước đích thực. Những ai định ngạo mạn và láo xược dạy cách yêu nước cho họ chỉ có thể là những kẻ « xảo ngôn loạn đức » mà Khổng Tử từng khinh bỉ [Luận ngữ. Thiên Vệ linh công] ! Người thật lòng yêu nước sẽ không bạc bẽo với mảnh đất sinh ra và nuôi dưỡng mình để chê trà Việt Nam không ngon bằng trà Trung Quốc nhằm làm vừa lòng quan thầy. Không biết thưởng thức trà để biết trà ngon hay trà dở, điều ấy không đáng trách. Nhưng, biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe, đừng loạn ngôn mà làm nhục quốc thể. Mà đã thế, thì đừng cao giọng dạy cách yêu nước cho dân.

Những người yêu nước chân chính không nói nhiều, và khi cần, họ nói bằng chính sinh mệnh của mình. Khi bước ra khỏi Hỏa Lò để chuẩn bị lên máy chém, Nguyễn Thái Học cùng các nghĩa sĩ hô vang: “Chúng tôi đi đền nợ nước đây”. Khi đao phủ đặt ông vào máy chém, Phó Đức Chính bảo hắn : « Hãy cho ta được nằm ngửa cổ về phía lưỡi dao để ta nhìn lên trời xanh, và nhìn thẳng vào lưỡi dao tội ác của giặc Pháp”. Hoàng Văn Thụ thì khảng khái ngâm câu thơ « Việc nước xưa nay có bại thành, Miễn sao giữ trọn được thanh danh »

Trong đời thường, người dân cũng vậy, không dài lời giảng giải, lại càng không lý luận vòng vo về lòng yêu nước và chống Trung Quốc xâm lược. Họ hành động. Mà chính vì hành động quả cảm, quật cường của họ mà đất nước trường tồn và phát triển bên bờ Biển Đông, đầu sóng ngọn gió. Những ngọn đòn tàn nhẫn, những đe dọa về đời sống không khất phục được họ, chỉ càng bừng cháy thêm ngọn lửa căm hờn trong lòng họ.

May thay, khi viết đến đoạn cuối, tôi được một người bạn gửi cho một clip ghi lại buổi anh Nguyễn Thiện Nhân, Bí thư Thành Ủy TPHCM, một người bạn mà tôi vẫn giữ được sự quý mến, phát biểu trong cuộc gặp bà con Thủ Thiêm ngày 10.6.2018 với một câu in đậm trên trang nhất : « Cán bộ phải biết sợ khi dân không hài lòng ». Tôi sẽ không nói gì thêm về nội dung cũng rất đáng nói trong toàn văn bài nói chuyện. Vì, với tôi chỉ một câu ấy cũng đã nói lên điều tôi mong được nghe trong bối cảnh nặng nề và u ám khiến lòng tôi đang trĩu nặng lo âu.

Trong đám Giỗ ông Sáu Dân năm ngoái, Nguyễn Thiện Nhân có đến bàn tôi ngồi, thân thiết bắt tay và hứa sẽ đến thăm tôi. Tôi thành thật nói với anh : thôi khỏi, mình biết ông còn nhiều việc phải làm, thăm nhau tốt nhất là cùng chia sẻ với nhau những gì có thể đóng góp được cho dân, cho nước theo sự mong mỏi của ông Sáu Dân mà chúng ta đã từng cố gắng. Thế là đủ. Tôi nghĩ rằng, với ý tưởng mà tôi tin là chân thành của người bạn quý mến đang phải gánh vác một trọng trách rất phức tạp thì, với nhận thức đó, biết dựa vào dân, kính trọng dân, lắng nghe dân như ông Sáu Dân từng nêu gương , anh sẽ vượt qua được thử thách cam go mà đi tới.

Hãy nhìn những clip quay hình ảnh biểu tình, những bài viết từ nạn nhân của các thủ đoạn trấn áp đang được dưa lên trên mạng internet mỗi ngày, sẽ càng thấy ngọn lửa của cuộc chiến đấu chống Trung Quốc xâm lược gắn với cuộc đấu tranh đòi tự do dân chủ, đòi quyền con người đang bừng lên như hình ảnh giàu sức biểu đạt trong câu thơ của Nazim Hikmet :

Nếu tôi không cháy lên
Nếu anh không cháy lên,
Nếu chúng ta không cháy lên, Thì làm sao
Bóng tối,
Có thể trở thành
Ánh sáng.

Sài Gòn ngày 23.6.2018

ĐEM YÊU THƯƠNG VÀO NƠI OÁN THÙ.

Hoa Kim Ngo and Lê Việt Kỳ Nhi shared a post.
Image may contain: 1 person, standing and outdoor
Image may contain: plant, basketball court, flower and outdoor

Nguyễn Ngọc LụaFollow

ĐEM YÊU THƯƠNG VÀO NƠI OÁN THÙ.

 

Đi tìm sự tự do là một nhu cầu tất yếu do sự ngột ngạt ở Việt Nam đã bóp chết những cơ hội muốn vươn lên sống đúng phẩm giá của một con người tự do đúng nghĩa. Phải nói khi người yêu nước dám bước chân xuống đường biểu thị thái độ phản đối của mình, giây phút đó họ đã trở nên thật sự tự do với chính họ, tự do với chính suy nghĩ của họ. Gây phút đó họ đã cho phép mình tự cởi trói khỏi những xiềng xích sợ hãi vô hình bấy lâu nay.

Trên thực tế bắt bớ, đàn áp sẽ là những chính sách đường lối thất bại vì nó chẳng thu phục nhân tâm mà luôn tìm cách dựng nên những hàng rào kẻm gai ngăn chặn tự do của Dân chúng. Để dẫn đến những cái sai trái, dối trá khác như phải tạo ra những làn sóng thông tin giả hồng đánh lừa người dân như dàn dựng, tuyên truyền và bịa đặt để biến nhân dân thành kẻ bạo động để rồi đàn áp mọi tiếng nói ôn hòa khác. Điều đó chứng tỏ họ không có năng lực và khả năng để lãnh đạo đất nước.

Con đường Tự do, dân chủ, nhân quyền là nỗi khát vọng, là ước mơ của người Việt. Và cái giá của nó là chịu đàn áp, bỏ tù, đánh đập, trục xuất, và bị gọi là “phản động”. Những điều đó không làm nhục chí, mà càng tạo ra Sức mạnh để chúng ta cùng nhau xuyên qua nó.

“Dây kẽm gai đâm nát trời chiều” sẽ không còn là vấn đề của con người gây ra tổn thương với con người, mà đã trở thành vấn đề con người xúc phạm trực tiếp đến Đấng Tạo Hóa, Đấng đã kêu gọi con người để phục vụ chứ không phải cai trị bằng sự áp đặt, Đấng có quyền trên tất cả nhưng vẫn để con người sống có tự do, sống có phẩm giá chỉ để con người bắt chước và làm theo bài học đó

Thương những anh em đã bị bắt bớ đánh đập chỉ vì biểu tình, ngoài những tổn thương về thể xác, biết khi nào những tổn thương về tinh thần của họ sẽ vơi đi? hay là giống như mình, mỗi khi nghĩ về nó, cảm thấy tê dại và xót xa như nuốt phải muối ớt, gợi nhớ về một màn hành hung tập thể thời đêm trường nô lệ…yêu quái xấu, nhưng con người đáng sợ hơn nó nhiều. Nhà nước này đã mang lấy ách của nó sao? Dẫu sao xin anh em cũng hãy vui lên, vì “Phúc thay ai bị bách hại vì sự công chính, vì Nước Trời là của họ”.

Nếu không tha thứ được chính chúng ta đang uống chén độc của người cộng sản: chính là gieo rắc sự căm thù, và bạn sẽ chết vì nộc độc đó trước khi người cộng sản chết, bạn phải mạnh mẽ hơn họ ở trái tim bao dung, yêu cho đến khi họ trở về với nhân dân. Có nhiều anh chị em dân chủ, vẫn đấu tố người cùng chuyến tuyến, vẫn miệt mài khinh miệt và chửi rủa đòi chém giết người cộng sản. Nghĩa là vẫn uống chén của người cộng sản, vậy làm sao thay đổi được cộng sản?

Nếu có dịp ngang qua đây, xin hãy dừng lại để lại trên những hàng rào kẽm gai những bông hoa với thông điệp muốn nói của mình, và có thể lưu giữ nó bằng những hình ảnh đẹp, để ai đó muốn bắt bớ ngăn cản chúng ta xuống đường cũng ý thức một điều rằng, chính là những bông hoa màu nhiệm chứ không phải điều gì khác, mới hồi phục lại một xã hội văn minh tình thương.

Lê Việt Kỳ Nhi shared a post.
Vừa bắt gặp một tấm lòng mình rất trân trọng và quý mến. Qua bài viết này! Tôi chợt nhớ đến bài diễn văn xuyên thế kỷ của Martin Luther King, đến những bông hoa người Đông đức tặng cho cảnh sát, bài học tình yêu thương chúng ta cần phải học chớ có chê cũ rích.

Mong rằng sẽ bắt gặp được nhiều người Việt Nam như Lụa, ngày thay đổi sẽ phải đến thôi !

Ngón nghề của độc tài Cộng sản

Ngón nghề của độc tài Cộng sản

FB Phạm Đoan Trang

Ở đâu và bao giờ cũng vậy, hai kỹ thuật chính để bọn độc tài giữ được ghế là: 1. dối trá, lừa lọc (tuyên truyền); và 2. gieo rắc sự sợ hãi (phòng), đàn áp bằng bạo lực (chống).

Tà quyền CHXHCN Việt Nam đã và đang rất tích cực thi triển hai ngón nghề đó. Một mặt, chúng cho dàn báo đài rống lên vu những người dân tay không tấc sắt là “phản động”, “thế lực thù địch chống phá đất nước”, “khủng bố”. Nguyên tắc của kỹ thuật tuyên truyền vốn dĩ là phải biết ngụy biện và nói dối thật trơ trẽn mà không ngượng mồm, nói đi nói lại, nói thật nhiều mà nội dung và sắc mặt không thay đổi. Nắm bắt được tâm lý nhiều người sẽ thắc mắc, kiểu “đám ấy chắc phải làm gì công an mới bắt chứ”, “nếu công an làm gì sai thì cũng khó ăn khó nói lắm chứ”, v.v., nên chúng càng ra sức vu khống, dựng chuyện, đổi trắng thay đen hơn. Không chút ngượng ngùng.

Lắm kẻ não trạng dư luận viên còn đủ độ khốn nạn để hỏi “bằng chứng đâu” cho việc hàng trăm người dân bị công an hành hung, tra tấn. Quái lạ, thế mà họ lại chẳng bao giờ đặt câu hỏi tương tự về các “huyền thoại đấu tranh cách mạng” ở “địa ngục trần gian” Côn Đảo (?!).

Mặt khác, tà quyền chủ trương gia tăng đàn áp, khủng bố để gieo rắc nỗi sợ hãi trong nhân dân (chúng gọi là tăng cường sử dụng biện pháp mạnh để kiểm soát, ngăn chặn mọi âm mưu chống phá). Tất cả những người bị chúng bắt bớ, hành hung tập thể đều bị công an gắn sẵn cái nhãn “phần tử gây rối”, từ đó thẳng tay bắt bớ, tra tấn, sỉ nhục họ – điên cuồng như một bầy chó dại.

Dù sao, chiến lược đàn áp, khủng bố của tà quyền sẽ thất bại nếu không đạt được mục đích “gieo rắc sự sợ hãi”. Có một thực tế mà những tên ác ôn khát máu không bao giờ hiểu được, đó là: Những người vốn sợ chúng thì đã sợ rồi và sẽ chẳng bao giờ dám làm gì bày tỏ chính kiến của họ; còn những con người đã dám lên tiếng chống lại sự sai trái, bất công, áp bức, thì càng đàn áp càng đẩy họ xa hơn. Không chỉ là xa rời “quỹ đạo của Đảng và nhà nước” như đám tuyên giáo và công an vẫn lải nhải, mà là đi xa hơn trên con đường đấu tranh chống lại thể chế độc tài vô nhân tính.

Trong những người bị ác ôn đánh đập tàn bạo ngày 10 và 17/6 vừa qua mà tôi biết, tôi chưa thấy ai trở nên im lặng, tê liệt. Một trong những bạn trẻ bị đánh đập gây thương tích nặng nề nhất (hiện vẫn phải nằm một chỗ, chưa đi lại được) đã nói, ngay khi đôi môi vẫn còn sưng: “Tất cả chỉ mới bắt đầu thôi. Không có chuyện tôi dừng lại”.

Lũ ác ôn nhà sản, chúng mày đánh thêm một người, là mất thêm một người. Nhớ lấy.

Luật Biểu Tình không phải là thứ để ban phát, bố thí cho dân

Luật Biểu Tình không phải là thứ để ban phát, bố thí cho dân

Nguyễn Tường Thụy
2018-06-22

Những người biểu tình hô khẩu hiệu phản đối luật Đặc khu trong cuộc biểu tình ở Sài Gòn hôm 10/6/2018

Những người biểu tình hô khẩu hiệu phản đối luật Đặc khu trong cuộc biểu tình ở Sài Gòn hôm 10/6/2018

 AFP

Biểu tình là một sự ô danh?

Ít ra, từ Mùa hè năm 2011 (hoặc có thể sớm hơn, từ 2007?), nhà cầm quyền đưa ra khái niệm “biểu tình trái phép”, được báo chí, tuyên giáo, dư luận viên và cả lãnh đạo sử dụng nhằm chụp tội người biểu tình. Khi bị phản biện, quyền biểu tình là quyền hiến định thì họ ngụy biện rằng biểu tình nhưng phải theo qui định của pháp luật, khi chưa có luật biểu tình thì không được biểu tình. Vì vậy, họ cho Luật biểu tình là món quà, có thể ban cho dân lúc nào thì dân được hưởng lúc ấy mà không thấy đấy là trách nhiệm của họ phải luật hóa trong thời gian sớm nhất. Bởi quan niệm như thế, Luật biểu tình bị hoãn đi hoãn lại bởi những đầu óc bảo thủ, quan điểm ban phát trong Đảng, trong Quốc hội. Tiên phong trong việc chống Luật biểu tình là Hoàng Hữu Phước, đại biểu quốc hội khóa 8. Ông ta chê dân trí Việt Nam thấp nên chưa thể ra luật biểu tình. Hoàng Hữu Phước căm ghét biểu tình tới mức láo hỗn cho rằng biểu tình là một sự ô danh: “Việt Nam chưa phải là siêu cường kinh tế để có thể đài thọ cho một sự ô danh”.

Người dân có quyền biểu tình mà không phải chờ luật biểu tình.

Trước hết, quyền biểu tình là quyền hiến định ghi ở điều 25 Hiến pháp”

“Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Khi đã là quyền hiến định thì không có một cơ sở pháp lý nào để nói rằng, người dân không được phép biểu tình, cho dù có luật biểu tình hay không.

Quyền lãnh đạo của đảng CSVN cũng được hiến định tại điều 4 Hiến pháp. Tuy nhiên, điều 4 cũng qui định “Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Cho đến nay điều 4 cũng chưa được luật hóa nhưng đảng CSVN vẫn cứ thực hiện quyền lãnh đạo của mình, thọc tay vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, mặc dù thọc đến đâu thì hỏng đến đó.

Đảng CSVN không cần luật hóa điều 4 mà vẫn thể hiện quyền lãnh đạo của mình thì lý do gì mà người dân phải chờ Luật biểu tình mới được thể hiện lòng yêu nước?

“Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” – Điều 25 Hiến pháp

Trên nguyên tắc và tinh thần bình đẳng trước pháp luật, giả định một cuộc mặc cả giữa một bên là nhân dân, một bên là đảng CSVN như thế này: nếu dân đồng ý tạm dừng biểu tình để chờ luật thì đảng CSVN cũng phải dừng hoạt động để chờ luật. Đảng CSVN có chấp nhận không? Dĩ nhiên là không bao giờ họ chấp nhận, nhưng lại bắt nhân dân phải chấp nhận.

Miệng họ nói biểu tình là trái luật nhưng ghi nhận bằng văn bản đâu phải là điều đơn giản. Vì vậy mới có chuyện ngày 18/8/2011, chính quyền Hà Nội ra một thông báo cấm biểu tình, kỳ quặc và bôi bác chưa từng thấy, được gửi đến tận từng người biểu tình và đọc cả lên đài Phát thanh và truyền hình Hà Nội. Thông báo không có ai ký mà chỉ có cái dấu treo. Nơi nhận không có và số công văn cũng không có nốt. Nghĩa là chẳng ai phải chịu trách nhiệm cả.

Ai cần Luật biểu tình hơn?

Luật biểu tình không phải là thứ để ban phát, bố thí cho dân. Ngược lại, bên cần Luật biểu tình hơn phải là nhà cầm quyền. Họ cần để quản lý hoạt động biểu tình. Về phía người biểu tình dù có luật hay không có luật, họ vẫn có quyền biểu tình. Có khi ra luật biểu tình lại bất lợi hơn cho người dân vì những điều khoản khắt khe, phức tạp như chờ thời gian đăng ký (hay xin phép) cùng với đủ các giới hạn khác, có thể là cấm một số tuyến phố “nhạy cảm”, xét duyệt nội dung các khẩu hiệu, qui định về thời gian, hạn chế số người tham gia… Đó là còn chưa kể các tiểu xảo khác như cho hồng vệ binh khiêu khích rồi vu cho dân gây rối trật tự công cộng để bắt hoặc giải tán biểu tình.

Ai bảo có luật biểu tình rồi thì sẽ không bị đàn áp, không bị đánh? Luật nào cho phép đánh người mà công dân vẫn bị đánh đập đến tàn phế?

Và điều này còn quan trọng hơn: ai bảo có luật biểu tình rồi thì sẽ không bị đàn áp, không bị đánh? Luật nào cho phép đánh người mà công dân vẫn bị đánh đập đến tàn phế? Luật nào cho phép ngăn cản quyền đi lại của công dân để họ đưa công an với một lực lượng đông đảo canh khắp các nhà mỗi khi có biểu tình? Thế nhưng, những việc đó vẫn xảy ra thường xuyên, phổ biến tới mức nhiều người dân cứ tưởng công an họ có quyền làm như vậy?!

Cho nên, Luật biểu tình có hay không, không phải là điều bức thiết đối với người dân, mà quan trọng ở chỗ nhà cầm quyền có tôn trọng pháp luật không? Những gì đã diễn ra trong suốt thời gian đảng CSVN cầm quyền cho thấy câu trả lời là không. Chưa bao giờ, nhà cầm quyền Việt Nam, đặc biệt là ngành công an lại vi phạm pháp luật trắng trợn với một diện rộng như hiện nay.

Nghị định không thể điều chỉnh Hiến pháp.

Đó là một lẽ đương nhiên. Thế mà khi tranh cãi về quyền biểu tình bị đuối lý, thì nghị định 38/2005/NĐ-CP của Chính phủ và sau đó là thông tư  09/2005/TT-BCA của Bộ Công an cấm tập trung từ 5 người trở lên lại được coi là cứu cánh cho nhà cầm quyền. Họ không nói không được biểu tình nữa mà nói cấm tụ tập đông người. Tại các khu vực biểu tình, loa phóng thanh ra rả đem nghị định 38 ra đòi giải tán, đe dọa. Tất nhiên chẳng ai nghe.

Dùng thông tư 38 để điều chỉnh hoạt động biểu tình là vi hiến. Vì không thể giới hạn mọi cuộc biểu tình phải dưới 5 người được.

Anh Trịnh Văn Toàn bị đánh chấn thương sọ não đang được điều trị ở bệnh viện ở Sài Gòn hôm 17/6/2018.
Anh Trịnh Văn Toàn bị đánh chấn thương sọ não đang được điều trị ở bệnh viện ở Sài Gòn hôm 17/6/2018. FB Khánh Trần

Tuy vậy, những người biểu tình vẫn cứ bị bắt, bị đánh đập tàn bạo. Hai đợt biểu tình vào các ngày 9, 10 và 16,17 tháng 6-2018 là những ví dụ gần nhất cho thấy điều đó.

Lẽ ra, một đất nước tôn trọng luật pháp thì cùng một hành vi sẽ bị xử lý như nhau. Nhưng thực tế thì cách cư xử đối với mỗi cuộc biểu tình lại khác nhau. Nếu biểu tình có lợi cho họ thì không bị đàn áp, như những cuộc biểu tình bị họ lợi dụng để làm giá với TQ chẳng hạn. Nếu cuộc biểu tình nào bất lợi ít thì bị đàn áp ít, cuộc nào hại nhiều cho họ thì bị đàn áp dữ dội như biểu tình phản đối Luật Đặc khu, Luật An ninh mạng trong những ngày vừa qua. Điều này cũng chỉ là một ví dụ trong ngàn vạn dẫn chứng nói nói lên đất nước này vô luật.

Mặc dù quyền biểu tình của công dân đã rõ ràng như vậy nhưng giới cầm quyền vẫn cứ nói biểu tình trái phép, tập trung đông người là vi phạm để đàn áp, bắt bớ, đánh đập. Trong cuộc biểu tình đẫm máu ngày 17/6/2018 vừa qua, Công an TP Hồ Chí Minh đã bắt 179 người, và nhiều người bị đánh đập vô cùng dã man.

Quyền biểu tình chỉ bị tước đoạt khi nó bị xóa ra khỏi Hiến pháp đồng thời luật pháp có điều khoản cấm biểu tình. Nếu chỉ xóa ra khỏi hiến pháp mà không có điều luật cấm thì dân vẫn có quyền biểu tình vì người dân có quyền làm những gì pháp luật không cấm.

Phần IV: Công sản VN bán nước – Mở ải ‘Nam Quan’ cho giặc tràn vào

Thiên Đức

Kính thưa quý vị. Hôm nay tôi xin post tiếp phần IV của công trình nghiên cứu với đề tài: Vạch trần âm mưu thôn tính nước ta của Tàu cộng Bắc Phương. Bài này có phần dịch ra tiếng Anh

GS David Tran

Phần IV: Công sản VN bán nước – Mở ải ‘Nam Quan’ cho giặc tràn vào

Để bắt đầu viết phần cuối của bài tôi xin mượn một nhân vật trong lịch sử TQ mà tôi đã nhắc ở phần trên để làm lời dẫn:

Ngô Tam Quế (1612-1678) là một đại tướng nhà Minh (Trung Hoa) trấn thủ “Sơn Hải Quan” (Hà Bắc, TQ ngày nay) án ngữ biên cương phía đông bắc Trung Hoa. Một cửa ải tối quan trọng ngăn chặn quân Mãn Thanh luôn đe dọa Trung Nguyên. Năm 1644 nhận thấy nội tình chính trị nhà Minh đã đến lúc suy tàn, nguy cơ sụp đổ rất lớn, Ngô Tam Quế đem lòng phản trắc, mưu cầu danh lợi… đã thông đồng với quân Mãn Thanh mở toang cửa ải Sơn Hải Quan cho quân Mãn tràn vào, cáo chung triều đại nhà Minh, chiếm toàn bộ Trung Hoa và lập nên triều đại nhà Thanh.

Để thưởng đại công trên, triều đình Mãn Thanh phong Ngô Tam Quế làm Bình Tây Vương trấn thủ Vân Nam, uy lực cả một góc trời, cao sang vọng lọng.

Dưới mắt người Hán thì Ngô Tam Quế là một trong những “Đại Hán Gian” cũng như Tần Cối dưới thời nhà Tống. Để làm gương cho người đời sau, tại Sơn Hải Quan người ta dựng lên một hình nộm và ghi tên Ngô Tam Quế, mọi người (dân Hán) qua lại đều nhổ nước bọt lên mặt hình nhân và chửi rủa thậm tệ. Sơn Hải Quan mãi còn đó và Hán gian Ngô Tam Quế không bao giờ phai trong tiềm thức dân tộc Hán.

Đọc lịch sử Tàu và nhìn lại thời cuộc của đất nước VN trong thời gian gần thế kỷ qua ta lại ngẫm nghĩ và thấy có những điểm tương đồng. Thế nhưng với thời hiện đại mọi lĩnh vực trong xã hội đều biến thiên một cách không tưởng, do đó trong hành động xâm lăng hay phản dân bội nước, mưu cầu danh lợi nó cũng tiến lên ở bậc tinh vi hơn.

Âm mưu thôn tính VN và bá quyền cả vùng Đông Nam Á là giấc mộng ngàn năm trong thẳm sâu tiềm thức của mỗi triều đại bắc phương.

Năm 1963 của thế kỷ trước, chính Mao Trạch Đông trong một buổi tiếp Lê Duẩn ở Bắc Kinh với sự có mặt của Đặng Tiểu Bình và Trường Chinh. Mao Trạch Đông đã khẳng định rằng ông ta là chủ tịch của hơn 500 triệu nông dân TQ đang thiếu chỗ ở và đất canh tác, cho nên ông phải đưa người TQ đến ở những nơi này (Đông Nam Á).

Mao Trạch Đông còn khẳng định trong cuộc họp của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1965: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore… Một vùng như Đông Nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản… xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy… Sau khi giành được Đông Nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…”. (Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, NXB Sự Thật, 1979).

Vào thời phong kiến, một nước lớn xâm lăng một nước nhỏ thì cứ ngang nhiên xua quân vào chiếm cứ, lập làng mạc và xây dựng chính quyền rồi đặt ách cai trị. Ngày nay với làn sóng ý thức hệ dân chủ hướng đến toàn cầu, do đó hành động xâm lăng được biến tướng sang một hình thái khác tinh vi và bài bản cao siêu hơn.

Để thôn tính và Hán hoá cả vùng bao la này (ĐNÁ), tập đoàn đảng CSTQ trong hậu bán thế kỷ 20 đóng vai trò kẻ cả, là quân tử (nguỵ quân tử) giúp cho CS VN nhiều tiền của, vũ khí, lương thực, quân trang, quân dụng để tiến chiếm Miền Nam VN với chiêu bài là ‘giúp cho VN hoà bình thống nhất đất nước’. Nhưng thật ra, chúng lợi dụng xương máu thanh niên, nhân dân VN lót đường xây mộng bá quyền về phương Nam. Chứ trong lúc này có hàng triệu nhân dân TQ phải chịu chết đói vì thiếu lương thực và cảnh nghèo nàn lạc hậu luôn bao trùm xã hội TQ dưới chế độ độc tài của CS Bắc Kinh.

Không từ bỏ giấc mộng vàng, CSTQ tiến hành nhiều âm mưu thâm độc, trong phần này tôi không nhắc lại những âm mưu khống chế về kinh tế, thương mại, tràn ngập hàng hoá độc hại, ma tuý, sách báo, phim ảnh đen tối… nhằm Hán hoá dân tộc VN mà tôi đã trình bày trong phần II ở trên

Với địa chính trị đặc thù, VN đóng vai trò cực kỳ quan trọng trên bước đường bành trướng về phương Nam của Bắc Kinh.

VN là cửa ngõ quan trọng để làm bàn đạp cho quân Bắc phương tiến về phía trước, là tiền đồn trọng yếu của ĐNÁ, giống như con đập vững chắc ngăn chặn mọi nguồn nước từ phương bắc đổ về nam. Từ Bắc Kinh phóng tầm nhìn về ĐNÁ được đi qua hai ngả đường biển và đường bộ. Cho nên trong những lần giặc Bắc phương xâm lược nước ta trong các thời Đinh, Lê, Lý, Trần, hậu Lê… chúng đều chia quân làm hai ngả đường biển và đường bộ để tiến vào.

Về đường biển thì VN với vai trò là yết hầu của biển Đông cũng là một Ải Nam Quan trên biển. Muốn khống chế Đông Hải trước tiên phải thôn tính vùng lãnh hải, hải đảo và thềm lục địa VN từ đó vòi bạch tuộc sẽ vươn dài ra khắp một vùng rộng lớn, kiểm soát một hải trình quốc tế quan trọng nối liền Ấn Độ Dương ra bắc Thái Bình Dương. Do đó trong thời gian qua TQ đã hung hăng, làm mưa làm gió khống chế Biển Đông, đặc biệt áp đặt mọi thứ và xâm lăng trắng trợn các vùng biển, hải đảo VN với cương vị là kẻ ngồi trên đầu đảng CSVN, buộc đảng và nhà nước CSVN câm miệng cúi đầu thần phục.

Một mặt nữa là TQ bao vây VN về ngoại giao sử dụng quyền lực mềm ( soft power), lấy thế mạnh là nước lớn với tiềm lực kinh tế dồi dào, là nhà đầu tư và ân nhân của các nước nhỏ, nghèo trong khu vực mà không có tranh chấp trên Biển Đông với TQ từ đó lôi kéo họ về cùng phía để cô lập, gây áp lực với các nước có tranh chấp biển đảo như VN, Philippines… cụ thể như Campuchia, Lào, Miến Điện, Thái Lan… Rõ nét nhất là việc Campuchia quay lưng với CSVN một cách trắng trợn và phũ phàng qua hội nghị thượng đỉnh Asean trước đây đã cho thấy rõ.

Về đường bộ trên đất liền, đường biên giới VN-TQ kéo dài gần 1450 km, từ trước đã có hai cửa khẩu chính là Hữu Nghị (Lạng Sơn) và Đồng Đăng (Lạng Sơn) đây là cửa khẩu đường sắt. Từ hai cửa khẩu này mọi hàng hoá, dịch vụ, các phương tiện giao thông vận tải công khai qua lại tràn ngập thị trường đất nước VN. Đó là chưa kể một phần rất lớn được thâm nhập vào VN không qua cửa khẩu mà bằng đường bộ tự phát hay vượt suối băng rừng… dọc dài biên giới.

Xét thấy chưa đủ để đáp ứng cho cơn lũ Bắc phương ồ ạt tràn về phương Nam thì cả hai chính quyền VN-TQ đã lập thêm một cửa khẩu nữa là cửa khẩu Kim Thành (Lào Cai VN – Hà Khẩu, Vân Nam TQ). Cửa khẩu này khi mới thành lập mở cửa từ 7h sáng đến 19h tối và lễ khai trương chính thức đã diễn ra ngày 8/11/2012 nhân ngày hội thương mại biên giới Việt-Trung lần thứ 12 tổ chức tại Hà Khẩu TQ từ đó mở cửa 24/24 giờ mỗi ngày cho đến nay. Như vậy cửa ngõ để vào thôn tính VN và cả vùng ĐNÁ thênh thang rộng mở.

Cửa khẩu quốc tế đường bộ số II (Kim Thành)

Chưa dừng lại ở ba cửa khẩu với giao thông đường bộ, đường sắt thênh thang và thuận tiện này. TQ còn đang tiến hành mở một con đường sắt xuyên Á thật qui mô. Một mũi tên xuyên suốt, xâu chuỗi các nước mà mở đầu là VN đến Lào, Thái Lan và cuối cùng là Singapore. Lộ trình này bắt đầu từ Côn Minh thủ phủ tỉnh Vân Nam qua Ngọc Khê, Mông Tự, Hà Khẩu sang Lào Cai (VN) rồi xuyên qua Lào, Thái Lan, Singapore. Con đường sắt xuyên Á này trên phần đất TQ đã hoàn thành, phần còn lại đang tích cực thi công.

Như vậy với lộ trình này thì VN cũng vẫn là khởi điểm khi ra khỏi biên cương TQ. Cũng là một Ải Nam Quan để tiến vào vùng ĐNÁ. Mặt khác, đường mòn HCM được mở rộng với qui mô từ 2 đến 8 lằn đường xuyên suốt dãy Trường Sơn cũng không nằm ngoài mục đích chuyển quân và tiếp tế cho cả vùng Tây Nguyên một khi chiến sự nổ ra…nó song song với QL1 là 2 mũi tiến công thực hiện “Giấc mơ Trung Hoa” của Trung Nam Hải.

Hành trình nam tiến của TQ không ngừng mở rộng. Về hạ tầng cơ sở, đường sá đã và đang hoàn chỉnh, các phương tiện giao thông đã ồ ạt lại qua hàng ngày như hành hương về thánh địa. Để hợp thức hoá thủ tục di chuyển vận tải về người và hàng hoá hay vũ khí quân dụng sau này về phương Nam một cách dễ dàng hai nước CS đã ký kết hiệp định vận tải đường bộ. Thông qua hiệp định này thì các phương tiện vận tải có thể đi sâu vào nội địa của nhau trên một cung đường dài 1.300 km từ Thẩm Quyến đến Hà Nội. Ở đây chủ yếu là vào sâu nội địa VN chứ về phía lãnh thổ TQ thì chỉ có các tay sai nô thần VN đi triều cống hay nhận chiếu chỉ mà thôi. Như vậy từ đó cho đến nay mọi phương tiện vận tải và người của TQ tự do xâm nhập vào VN bất cứ nơi đâu. Vào đến Hà Nội – Ba Đình, là “trái tim” của chế độ rồi thì còn đi đến đâu chi nữa? Mà có muốn tiến xa về đến Sài Gòn thì cũng là điều hết sức dễ dàng. Cả Bắc, Trung, Nam núi rừng, biển đảo, nội đồng phố thị đâu đâu là không có người TQ? Thậm chí mọc rễ ăn sâu vào xã hội sinh con đẻ cái hàng 10 năm trời rồi mà công an, cảnh sát khu vực, an ninh không hề hay biết hay âm thầm làm ngơ, tiếp tay! Trong lúc đây là đội ngũ còn đảng còn mình có những cặp mắt cú vọ nhìn xuyên suốt màn đêm, rọi sâu vào nồi cơm xoong cá của nhân dân. Ai ăn no mặc đủ hay đói rách te tua… chúng đều rõ hơn ai hết.

Để chuẩn bị chu toàn cho cuộc hành phương Nam một cách hoàn hảo nếu có binh biến xảy ra, TQ cũng đã thiết lập một lữ đoàn tên lửa Quảng Đông. Lữ đoàn tên lửa đạn đạo 827 đặt tại TP Thiều Quang – Quảng Đông. Lực lượng này sử dụng tên lửa chống hạm Đông Phong 21D và Đông Phong 16 loại hoả tiễn đạn đạo mới có tầm bắn trên 1.200km.

Như vậy để biến Đông Hải thành ao nhà và bán đảo Đông Dương cùng cả vùng ĐNÁ thành sân chơi riêng, TQ đã làm tất cả những gì cần và có thể. Từ các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, giao thông đường biển, đường bộ, đường sắt và những tác dụng sâu xa về mặt xã hội, đời sống, văn hoá… TQ đã lập trình không thiếu một kẻ hở nào.

Đất nước VN từ mũi Cà Mau đến ải Nam Quan đều nằm gọn trong lòng tay đại Hán. Ải Nam Quan chỉ là dấu tích ngàn xưa của tổ tiên Hồng Lạc chứ bây giờ cho dù Sài Gòn Hà Nội hay bất cứ nơi đâu trên mảnh đất thân thương này cũng thấp thoáng bóng hình Tàu cộng.

Nhưng với ý chí quật cường, hàng vạn Anh Thư, Anh Hùng của dân tộc Việt không bao giờ chịu khuất phục trước quân thù. Chúng ta sẽ cùng nhau đứng lên đánh đuổi giặc ngoại xâm, tiêu diệt bọn tay sai bán nước, tham nhũng hung tàn bạo ngược với nhân dân.

Ngày xưa nước Tàu chỉ có một Hán gian như Ngô Tam Quế mở cửa ải Sơn Hải Quan cho giặc tràn vào thôn tính Trung Nguyên mà người đời dựng hình nộm đề tên để phỉ nhổ, nguyền rủa muôn đời.

Ngày nay VN thì có quá nhiều yêu tinh lộng hành bán biển đảo, đất đai rừng núi, đồng bằng phố nội, giao ải cho giặc tự do vào ra lúc nào cũng được để nuốt gọn giang san… thì ta biết đưa tên quỉ quái, yêu tinh nào lên hình nộm dựng ngay cửa Ải Nam Quan để con cháu đời đời nguyền rủa?

Tôi xét thấy các loại yêu tinh trong “Liêu trai chí dị” thì loài “Hồ Tinh” là ghê gớm hơn cả. Hắn đủ trò, đủ chước, tàn ác, thâm độc mà lại tham lam vô độ… cưỡng bức xong đem con bỏ chợ, giết người diệt khẩu gây bao cảnh dã man, nghiệt ngã… Thôi thì ta cứ để mỗi một tên “Hồ Tinh” đứng đầu của mọi yêu tinh lên hình nhân vậy!

Giữa Ải Nam Quan sau này sẽ có một hình nhân bù nhìn nhục danh “Hồ Tinh” là “Đại Việt gian bán nước” để cho toàn dân và con cháu muôn đời phỉ nhổ.

Trên đây là một số điểm nằm trong hệ thống âm mưu xâm lược nước ta của tập đoàn cộng sản Bắc Kinh mà CS VN cúi đầu làm tay sai bán nước. Giúp cho giặc Tàu dễ bề thôn tính non sông Việt Nam. Tôi hy vọng rằng với công trình nghiên cứu trên cũng phần nào giúp cho nhân dân VN thấy rõ hơn bộ mặt thâm độc nham hiểm, gian dối trá hình dưới 16 chữ vàng mà đảng csVN cam tâm làm bồi thần nô lệ nối giáo cho giặc giết hại nhân dân và hiến dâng đất nước cho kẻ thù truyền kiếp Bắc Phương.

GS David Tran
Bảng tiếng Anh

Ladies and gentlemen. Today, I would like to post part IV of the study on the subject: Expose the conspiracy of our country to the North. 
Prof. David Tran

Part IV: Vietnamese products sold – Opening ‘Nam Quan’ for the invaders

To start writing the last part of the article I would like to borrow a character from Chinese history that I mentioned above to make the following statement:

Ngo Tam Que (1612-1678) was a Chinese general who controlled the “Son Hai Quan” (modern Hebei, China) frontier language in northeastern China. An important door to stop Manchu always threaten Trung Nguyen. In 1644, it was found that the internal politics of the Ming dynasty had come to a time of decline and the danger of collapsing was so great, Ngo Tam Que had fallen in love with the enemy. Customs for the Manchu Division, the General Ming Dynasty, occupied all of China and established the Qing dynasty.

In order to reward the great work, the court of Man Thanh Phong Ngo Tam Que made Binh Tay Vuong, Van Nam, the power of a corner of the sky, high expectations.

In the eyes of the Han, Ngo Tam Que was one of the “Great Han Dynasty” as well as Qin Maid during the Song Dynasty. To set the example for the next life, in Son Hai Quan people set up a dummy and named Ngo Tam Que, people (Han people) spit back to spit on the face and curses badly. Son Quan Quan still exists and Han Guan Tam Que never fade in the subconscious Han.

Read the history of the ship and look back on the times of Vietnam in the past century we have to think and find similarities. But with modern times all the fields in the society are unbelievably varied, so in the act of invasion or renegade people, the pursuit of fame it also advances on a more sophisticated level.

The overthrow of Vietnam and the hegemonism of Southeast Asia was a thousand years in the deep subconscious of each of the dynasties of the North.

In 1963, it was Mao Zedong in a Le Duan meeting in Beijing with Deng Xiaoping and Truong Chinh. Mao Zedong asserted that he was the president of more than 500 million Chinese farmers who lacked shelter and farming land, so he had to bring Chinese people to these places (Southeast Asia).

Mao Zedong asserted at a meeting of the Central Committee of the Communist Party of China (CPC) in August 1965: “We have to win Southeast Asia, including South Vietnam, Thailand. Thailand, Myanmar, Malaysia and Singapore … A region like Southeast Asia is rich, there are many minerals … worth the expense necessary to take over … After gaining Southeast Asia, we have To strengthen our strength in this area, we will have the strength to confront the Soviet-Eastern Europe block, the East wind will blow the West wind. (The truth about the relationship between Vietnam and China in the past 30 years, Truth Publishing House, 1979).

In the feudal era, a large country invaded a small country, then blatantly drove troops into occupied, established villages and built the government and put the yoke ruled. Today, with a wave of global democratic ideals, the aggression is transformed into a more sophisticated and sophisticated form.

To conquer and neutralize this immense region (SEA), the CSTQ group in the second half of the 20th century played the role of the eldest, the prince of the military, food, military equipment, military equipment to take over South Vietnam with the guise of “helping Vietnam peacefully unify the country.” But in fact, they use the bloody youths, the people of Vietnam paved the way to build the hegemonic South. At this time, millions of Chinese are starving for lack of food and poor backwardness that overwhelms Chinese society under the dictatorial regime of Beijing.

Not to give up the dream, the CCP carried out many malicious conspiracies, in this section I do not recall the economic and commercial control overflows, flooded with toxic goods, drugs, books, movies dark … to the Han nationalization that I presented in Part II above

With geopolitical characteristics, VN plays a very important role in the way of expansion south of Beijing.

Vietnam is the important gateway for the North Vietnamese advance, which is a key Southeast Asian outpost, like a strong dam that prevents water from flowing from the north. From Beijing, the vision of SEA is crossed by sea and road. So in the times of invading North Vietnam in the dynasty, Le, Ly, Tran, Le … they divide the army into two ways and sea road to enter.

On the sea side, Vietnam as a moat of the East Sea is also a Nan Quan on the sea. In order to control the East China Sea, the islands, continental shelf and continental shelf must first be annexed, whereby the octopus will extend across a large area, controlling an important international sea route connecting the Indian Ocean. to the north Pacific. Therefore, during the past time, China has aggressively stormed the South China Sea, imposing everything and blatantly attacking the sea areas and islands as a perpetrator on the Vietnamese Communist Party. The party and the communist state of Vietnam silently bowed their heads.

On the one hand, China embraces diplomatic ties with soft power. It has the advantage of being a large country with abundant economic power, as investors and benefactors of small and poor countries in the region. The South China Sea, which has no conflict in the South China Sea, has drawn them to the same island to isolate pressure on the disputed islands of the Philippines and the Philippines, such as Cambodia, Laos and Burma. , Thailand … The most obvious is the Cambodian turn away from the Communist bluff and blatantly over the past ASEAN summit has clearly shown.

On land roads, the borderline VN-China lasts nearly 1450 km, from the former has two main border gate is Huu Nghi (Lang Son) and Dong Dang (Lang Son) this is the railway gate. From these two border gates, all goods, services and means of transportation openly penetrate the Vietnamese market. That is not to mention a huge part is penetrated into Vietnam not through the gate but by spontaneous road or cross the forest streams … along the border.

Considering not enough to meet the North’s massive floods swept south, both authorities have set up an additional border gate is Kim Thanh (Lao Cai VN – Hekou, Yunnan China) . This border gate was opened from 7am to 19pm and the official opening took place on November 8, 2012 on the 12th Vietnam-China border trade fair held in Hekou from China. It is open 24 hours a day so far. Thus, the gateway to enter Vietnam’s annexation and the wide area of ​​Southeast Asia.

International road No. II (Kim Thanh)

Not stop at three border crossings with good road and rail traffic. China is also opening a truly trans-Asian railroad. An arrow across, the countries that open Vietnam to Laos, Thailand and finally Singapore. This route starts from Kunming, capital of Yunnan Province, through Ngoc Khe, Mong Tu, Ha Khau to Lao Cai (VN) and through Laos, Thailand and Singapore. This trans-Asian railway is completed in China, the rest is actively constructed.

So with this roadmap, Vietnam is still the starting point when it comes out of the Chinese border. It is also a Nan Quan to enter Southeast Asia. On the other hand, the Ho Chi Minh Trail was expanded with two to eight lanes across the Truong Son range, not only for the purpose of moving troops and supplies to the Central Highlands once the war broke out … it was parallel to QL1 is the two shots to launch the “Chinese Dream” of Zhongnanhai.

China’s forward journey is constantly expanding. Infrastructure, roads have been completed, the means of transportation has been massively through daily pilgrimage to the site. In order to legalize the process of transporting people and goods or military equipment into the South, the two countries have signed a road transport agreement. By means of this agreement, the means of transport can be penetrated into each other’s hinterland on a 1,300 km long route from Shenzhen to Hanoi. This is mainly in inland Vietnam, but in the territory of China, only the servants of the gods of Vietnam to pay tribute or receive only. So far, all means of transport and people of China have been free to enter Vietnam anywhere. Arrive in Hanoi – Ba Dinh, Is the “heart” of the regime then go to any more? It is very easy to go to Saigon. North, Central, South mountain forests, sea islands, inner city where is no Chinese people? Even roots rooted in society give birth to the baby for 10 years and then the police, regional police, security do not know or silently ignore, help hand! While this is the team and the party also have eyes shot through the night, deep into the rice cooker of the people. Those who eat well enough or hungry torn t … they are all clearer than anyone. While this is the team and the party also have eyes shot through the night, deep into the rice cooker of the people. Those who eat well enough or hungry torn t … they are all clearer than anyone. While this is the team and the party also have eyes shot through the night, deep into the rice cooker of the people. Those who eat well enough or hungry torn t … they are all clearer than anyone.

In order to perfect the South’s rhythm, if a mutiny occurs, China has set up a Guangdong rocket brigade. 827 ballistic missile brigade located in Thieu Quang – Guangdong. This force uses 21st and East Phong defenses of Dong Phong anti-aircraft missiles with 16 types of ballistic missiles with a range of over 1,200 km.

Thus, in order to make East China Sea a home and a peninsula of Indochina and Southeast Asia into a private playground, China has done all it can and should do. From political, economic, military, diplomatic, maritime, road and railroads, and profound social, life and cultural implications, China has programmed no less. an open one.

The country from Ca Mau to Nam Quan is located in the hands of Han Han. Nam Quan is the ancient mark of the ancestors of Hong Lac, but now whether Sai Gon Hanoi or anywhere in this land is also diminished by the shadow of the Chinese.

But with the willpower, tens of thousands of English letters, Heroes of the Vietnamese people never bowed to the enemy. We will stand together to beat off foreign invaders, destroy the henchmen to sell water, corruption brutal with the people.

In the past, China had only one Han, such as Ngo Tam Que, who opened the gate of Hai Son Quan for the invaders to overrun Trung Nguyen, whose life was shaped by the name of the people to spit, curse forever.

Today, there are too many goblins selling islands, forests, mountainous land, the streets of the city, the freedom of the enemy to enter the place is always to swallow giang san … then we know the name evil monsters, goblins on the dummy set up at the door of the Nam Quan to the children forever cursed curse?

I consider the types of goblins in the “Liao boys”, the species “Ho Tinh” is more formidable. He enough games, enough, cruel, malicious, but greedy insatiable … forced to take the children to the market, kill people kill the barbaric scene, brutal … A name “Ho Tinh” the leader of all goblins on the human figure!

In the midst of the Nam Quan Gate, there will be a humorous puppet “Ho Tinh” for the entire people and descendants to spit.

The above are some points in the system of conspiracy to invade our country’s Communist conglomerate that VN communists bow as salesmen in the water. Helping the Chinese invaders to assassinate Vietnamese rivers. I hope that with the research on the part helps the people of Vietnam to see more clearly the face of malicious sin, fraud under the shadow of 16 yellow words that the Communist Party committed suicide slave gods for the enemy. killing people and dedicating the country to the enemy in the North.

Prof. David Tran