Tư cách của kẻ sĩ dưới thời toàn trị
Vài kỷ niệm đẹp với giáo sư Trần Ngọc Ninh ở VN sau 1975
Nguyễn Tư Quốc
Riêng tặng cô Trần Uyên Thi, chủ biên quyển Ước Vọng Duy Tân.
Phù thế giáo một vài câu thanh nghị – Nguyễn Công Trứ –
Tôi viết bài này, mừng thầy Trần Ngọc Ninh qua tuổi trường thọ và vẫn còn minh mẩn. Vị thầy mà các sinh viên y khoa Sài Gòn thuở trước ít có dịp gần gủi, nên ít hiểu ông. Những điều tôi sẽ kể đều là những sự kiện có thật, xảy ra sau tháng tư 1975, đến năm 1977 là lúc thầy rời khỏi Viện Nam. Tôi mong người nào có ngày viết sử, nên để mắt tới chuyện này, để biết rằng, ở miền nam, phần lớn trí thức không phải là những kẻ hèn. Có một bác sĩ đã dẫn lời giáo sư Nguyễn văn Trung, cựu khoa trưởng Đại học Văn khoa Sài gòn, nhận xét về giáo sư Trần Ngọc Ninh : Chỉ riêng lãnh vực văn hóa, ông đáng là thầy của họ (ý chỉ những giáo sư văn khoa ở Hà Nội vào nam sau 1975).
Giáo sư Đào Dức Hoành, lúc dạy sinh viên đã nói về người bạn thân của mình : Khi là sinh viên, anh đã đọc hết sách của nội trú. Khi là nội trú, anh đọc hết sách của thường trú. Khi là thường trú, anh đọc hết sách của giáo sư. Khi là giáo sư, không còn sách để đọc, anh đọc sang sách văn chương, lịch sử, ngôn ngữ học. Đó chỉ là một cách nói, vì ai vào thư viện trường y, mở sách ra, mà không thấy tên thầy Ninh, ông đã mượn và đả đọc gần hết sách của thư viện trường y khoa Sài Gòn. Khi học giả giáo sư Đào Duy Anh, từ Hà nội vào Sài Gòn, ghé thăm học giả Nguyễn Hiến Lê bàn về ngôn ngữ học.
Ông Nguyễn Hiến Lê bảo gs Anh nên tìm giáo sư Trần Ngọc Ninh mà nói chuyện, vì giáo sư Ninh giỏi hơn ông về lĩnh vực này Trong đại giảng đường trường y khoa Sài Gòn, ông là giám khảo buổi thi tốt nghiệp của sinh viên y khoa, ông nói “Các anh chớ có hội chẩn, một trăm con số không vẫn là con số không” Hội chẩn là cách tránh né trách nhiệm, sản phẩm của chế độ cộng sản, làm cho nhiều bệnh nhân thiệt mạng. Bà Bảy Vân, vợ hai của ông Lê Duẩn, kể chuyện về con gái mình ở Moscou bỏ mạng cũng vì chờ hội chẩn Khi giảng bài cho sinh viên, thầy Ninh bảo : Đây là lần cuối cùng, tôi giảng cho các anh chị về y khoa khoa học, vì sau này sẽ không còn y khoa khoa học nữa, mà chỉ có y khoa nhân dân thôi (nghĩa là hết khoa học).
Năm 1976, có một bà bịnh nhân bị gãy tay. Ông mổ xong, lúc tái khám, được bà cám ơn, bà nói : Xin đội ơn bác sĩ,, tay tôi nay đã khỏi, nhưng mắt tôi ngày càng mờ, không thấy gì rõ ràng nữa cả. Ông trả lời : Tôi cũng muốn được như bà đấy. Tôi muốn mắt tôi mờ để khỏi phải nhìn thấy những điều không muốn thấy, muốn tai tôi điếc để không phải nghe những điều không muốn nghe, muốn miệng tôi câm để khỏi phải nói những điều không muốn nói. Nghe xong, bà bệnh nhân sợ quá, bỏ đi tức khắc. Trong một bữa tiệc tiễn các bác sĩ sơ bộ chuyên khoa ngành chỉnh trục ra trường, có sự hiện diện của anh Năm Lực bí thư kiêm phó giám đốc bệnh viện Bình Dân. Gíáo sư Ninh phát biểu : “Lâu lắm rồi tôi mới thấy món thịt như bữa hôm nay”, rồi ông xin một trái ớt.
Giáo sư Ngô Gia Hy bảo : Anh thấy chưa đủ cay sao mà còn cần đến ớt. Năm Lực hiểu ra, không nói gì. Trong hành lang phòng mổ, lúc các nội trú chỉnh trực xin phép thầy chiều phải về trường học chính trị nên không thể phụ mổ với thầy . Ông bảo : Tốt, tốt lắm, các anh sẽ được dạy về chủ nghĩa Max-Lenin, đó là những lý luận một chiều, mà chiều đó ngược với chân lý ! Vì những lời lẽ đó, sinh viên tranh đấu thời VNCH Nguyễn Thanh Công đòi cho ông đi cải tạo – Nhưng rồi… sau cùng thì chính Công đã gánh những ê chề nhục nhã để “sáng mắt sáng lòng”, bị hạ tầng công tác, kiểm điểm vì khai man (hai hộ khẩu để mua nhu yếu phẩm), bị trù dập vì là trí thức tiểu tư sản thành thị. Cộng sản không ngu trên lãnh vực dùng người, nhất là trí thức. họ dùng trí thức như con cờ, được việc nhưng không bao giờ tin tưởng, vì trí thức không nằm trong thành phần cơ bản – Sau mỗi lần học chính trị, cộng sản bắt học viên phải báo cáo thu hoạch, có nghĩa là họ muốn biết học viên nghĩ gì để dễ bề đối phó.
Đêm trươ’c ngày thu hoạch, Đậu Ngọc Xuân người viết diễn văn cho ông Lê Duẫn (sau này lên làm bộ trưởng) đến tìm giáo sư Ninh trong bệnh viện Nhi Đồng để thuyết phục ông hôm sau phát biểu, do biết ông có uy tín trong hội đồng khoa, và đồng thời muốn thăm dò ý nghĩ của ông. Hôm sau GS Ninh phát biểu thế này : Học chính trị xong tôi mới biết, trong bao nhiêu năm trời tôi đã phạm rất nhiều sai lầm, nay tôi mới được mở mắt ra. trước kia tôi nghĩ mình cố học cố làm việc với kết quả tốt để cứu nhân độ thế. Nay tôi mới hiểu ra làm như thế là phản quốc. Tôi là tên đại phản quốc, đã phản lại đường lối cách mạng.
Học cho nhiều, làm cho tốt để phục vụ chế độ mỹ ngụy là phản động, cực kỳ phản động, lẽ ra tôi phải bỏ chết hết bọn ngụy kia thì mới tốt mới đúng. Họ biết ông nói kháy họ, thừa hiểu ông muốn nói gì, nhưng không thể bắt bẻ ông được. Lần khác, sau khi đã giảng cho các giáo sư bên thua cuộc về tính ưu việt của chế độ giáo dục xã hội chủ nghĩa, cán bộ tuyên huấn hỏi các giáo sư học viên xem có ý kiến gì không ?
Giáo sư Ninh trả lời là ông không có ý kiến, chỉ xin nêu một câu hỏi : Tuy Karl Marx đã được ăn học trong chế độ tư bản, Lenine trong chế độ sa hoàng, Mao Trạch Đông trong chế độ phong kiến Trung hoa, Hồ chủ tịch trong chế độ thuộc địa, thế mà họ lại lỗi lạc đến như thế, vậy thì rồi trong tương lai, các thế hệ được đào tạo trong môi trường giáo dục ưu việt xã hội chủ nghĩa sẽ sản sinh ra những anh tài kiệt xuất hơn Karl Marx, hơn Lenine, hơn bác Mao, hơn bác Hồ ư ?
Cán bộ giảng ngớ ra không thể trả lời, nói là sẽ hỏi “trên” để trả lời sau. Câu hỏi, mãi mãi không có lời giải đáp, dĩ nhiên rồi ! Ai mà dám trả lời một câu hỏi phạm thượng thế ! Đi học chính trị thời sau 75, là “ngữ cảnh” của câu thơ trào phúng thời ấy Chừng nào bạc giấy xài xu.
Người khôn đi học, thằng ngu dạy đời. Thời gian ấy, thầy Ninh như cái phao cho bọn thua cuộc ở trường y, ở bệnh viện bám vào dể tìm chút vui sống hàng ngày hầu quên đi cơ cực đói rách. Khi ông đi rồi, chẳng còn ai để bám víu, phải sống với bọn người theo “cơ hội chủ nghĩa”, chà đạp bạn bè đồng nghiệp lập công dâng đảng mong thăng quan tiến chức. Thật quá buồn ! Ai cũng hối tiếc thời gian trước tháng tư 75, tình thày trò, bạn bè, đồng môn, đồng nghiệp mới đẹp làm sao ! Nguyễn Tuân, nhà văn ngang tàng của Bắc Hà, lúc cuối đời có tâm sự với bạn bè “ Tao còn sống sót tới ngày hôm nay là nhờ biết sợ” Điều ấy nói lên sự khủng bố sắt máu của chế độ. Có lần tôi hỏi thầy, vì sao thầy không sợ họ ? Ông bảo từ khi ông mổ tách đôi hai trẻ dính siamois thì họ bắt đầu làm phóng sự ca tụng ông ở đài phát thanh Hà nội, nhất là khi Thông tấn Xã Tass ở Moscou đưa tin trên, như một thành tựu của xã hội chủ nghĩa, thì ông biết mình có cây dù che, vả lại ông đã tính chuyện ra đi nên ông… cóc sợ !
Lần khác, lúc trò chuyện bằng điện thoại, tôi hòi thày về giáo sư Tôn Thất Tùng, có thật là “thần Siêu, thánh Quát” như họ tuyên truyền không ? Ông trả lời : “Cái đáng nói ở giáo sư Tùng là thủ thuật mổ gan của ông, dùng ngón tay để cột các mạch máu thật nhanh, nhưng nếu dùng pince sẽ élégant hơn nhiều”. Rốt lại, theo tôi (người viết bài này) những gì gọi là khảo cứu của giáo sư Tôn Thất Tùng, với thời gian, chẳng có gì đáng để lại cho hậu thế, chưa kể ông theo chế độ, kết án thuốc độc khai quang của Mỹ gây ung thư gan cho dân miền bắc, nay ai cũng biết là do siêu vi trùng viêm gan B và C tạo ra. Lúc giáo sư Tùng vào nam sau 75, có hỏi giáo sư Ninh : “Ninh này, có cách nào mổ con nít mà không chết?” Giáo sư Ninh trả lời : “Anh phải bỏ hết các hành trang phẫu thuật cho người lớn để học lại về cơ thể học, sinh lý, bệnh lý, hồi sức nhi khoa, thì mới cứu sống được trẻ con. Thời ấy, vẫn chưa có ngành phẩu nhi riêng rẽ tại Hà Nội, và Liên xô dịch sách phẫu nhi cũ của Mỹ, đã xuất bản từ 10 năm trước đó. Trước lúc ông ra đi, họ báo cho ông biết, ông là một trong những giáo sư miền nam cũ, được quốc hội quyết định phong chức giáo sư, nhưng ông đã đi trước ngày thụ phong. Sự ra đi của ông, có ảnh hưởng rất lớn đến số phận của các bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ tù nhân cải tạo.
Họ được thả ra vì khi thày Ninh trả lời phỏng vấn của các đài phát thanh VOA và BBC. ông đã vạch trần sự dã man của chế độ toàn trị. Những suy nghĩ của vài trí thức miền nam khác mà tôi có dịp trò chuyện Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, phó chủ tịch hội Trí thức yêu nước thành phố HCM, đã nói với ông Võ văn Kiệt rằng, phải tuyển sinh trên tiêu chuẩn học lực, chứ không thể dựa trên lý lịch, vì sinh viên loại này sẽ không hấp thu được gì, chỉ mất thì giờ cho cả thày lẫn trò. Sau hai năm không có kết quả, ông từ chức các chức vụ được giao phó trong trường đại học Tổng Hợp, rồi trở về với nghiên cứu thực vật, rồi qua Pháp làm khảo cứu, sau đó tại Canada, đã cho xuất bản cuốn Cây Cỏ Việt Nam. Cái đáng khinh của người trí thức xã hội chủ nghĩa là ở chỗ này : Ông giáo sư đầu ngành thực vật ở Hà Nội viết sách, lấy tài liệu bao gồm cả hình ảnh từ cuốn Cây Cỏ miền nam của giáo sư Hộ nhưng không hề ghi xuất xứ nguồn tài liệu. Tệ hơn nữa, ông ta nói với giáo sư Hộ, nếu muốn tái bản cuốn Cây Cỏ Miền Nam thì phải đề tên ông vào cho dù ông không viết trang nào, nếu không thì không có chuyện tái bản cuốn sách. Giáo sư Hộ từ chối thẳng thừng vì ông chẳng sợ ai. Khi giáo sư Phạm Hoàng Hộ được trường đại học học Tổng Hợp báo cho biết, ông là một trong những giáo sư đầu tiên của miền nam được quốc hội phong chức giáo sư, và ông phải ra Hà Nội để nhận chức. GS Hộ trả lời : Tôi đã là giáo sư lâu rồi, không cần chức tước gì mới nữa. Và ông đã từ chối ra bắc. Việc này khiến tôi nghĩ đến thời quân chủ (gọi sai là phong kiến), có vua ban áo mão cân đai cho các tiến sĩ. Còn đâu qui chế tự trị đại học mà xưa kia, sinh viên cộng sản Huỳnh Tấn Mẫm đã kêu đòi, cốt để phá đám miền nam trong thời điểm trước 75! Tiến sĩ Phạm Văn Hai cũng là phó chủ tịch hội trí thức yêu nước, do vượt biên nên bị bắt. Thủ tướng Võ Văn Kiệt mời ông đến hỏi : “Tại sao anh bỏ đi, nếu anh muốn tôi sẽ thu xếp cho anh đi theo đường chính thức” Ông trả lời : “Người trí thức có thể chịu nghèo, chịu khổ, nhưng không thể chịu nhục. Các anh đã làm nhục trí thức miền nam lắm”
From: TU-PHUNG
Quy Luật Âm Dương – Hiểu Để Sống Thọ, Khỏe Tự Nhiên
Thật ra, phần lớn là vì chúng ta sống ngược lại với quy luật tự nhiên – quy luật Âm Dương.
Buổi tối là thời điểm âm hàn – cơ thể cần được giữ ấm để phục hồi và tái tạo tế bào. Thế nhưng ta lại ăn uống lạnh, nằm máy lạnh, tắm đêm, uống nước đá… khiến tế bào không đủ nhiệt để sản sinh. Khi cơ thể lạnh, máu huyết ứ trệ, tắc chỗ nào là đau chỗ đó. Lâu dần, sinh ra bệnh.
Đó không hẳn là “bệnh”, mà là cơ thể đang báo động: “Tôi đang lạnh! Tôi đang thiếu dưỡng chất!”
Nhưng tiếc là ta lại không nghe. Ta đi tìm thuốc, dập triệu chứng, mà không thay đổi lối sống, cách ăn.
Cơ thể cần ấm để sống. Đôi chân phải đủ ấm (khoảng 37 độ) thì tuỷ xương mới tạo máu, tế bào mới phục hồi. Ban đêm lại càng cần bổ sung những thứ ấm nóng: một ít gia vị cay, một chút béo lành mạnh – để giữ lửa bên trong cơ thể.
Sống khỏe cần hiểu: Cơ thể cần gì để sống?
Muốn cơ thể khoẻ, tế bào cần đủ 4 nhóm chất quan trọng:
– Đạm – nuôi tế bào, tạo máu.
– Béo – giữ ấm, tạo nhiệt, giúp hấp thụ vitamin.
– Đường tốt – cung cấp năng lượng cho não, cho bạch cầu hoạt động.
– Tinh bột và khoáng chất – là nguồn năng lượng cơ bản, giúp cân bằng nhiệt trong cơ thể.
Nhiều người sợ đường, sợ béo mà kiêng khem cực đoan. Nhưng không ăn béo cũng mỡ máu, không ăn đường vẫn tiểu đường là vậy.
Điều quan trọng là ăn đúng loại, đúng cách, đúng thời điểm.
Ăn đúng không chỉ là ăn đủ chất, mà còn phải ăn đủ vị
Tạo hóa ban cho chúng ta 6 vị tự nhiên để nuôi và dẫn dưỡng chất đến đúng nơi cơ thể cần:
– Chua – dẫn lên não, thông tắc nghẽn, giúp tỉnh táo.
– Chát – dẫn xuống chân, giúp chắc xương, khỏe dây chằng.
– Đắng – làm mát cơ bắp, mát gan, rã mỡ.
– Cay – dẫn vào tuỷ xương, làm ấm cơ thể, trị lạnh đau.
– Ngọt – giúp lưu thông toàn thân, giải nhiệt, tăng đề kháng.
– Mặn – giữ nước, làm ấm thận, giúp tế bào trao đổi chất.
Không có vị nào là xấu – chỉ sai khi ta lạm dụng một vị hoặc thiếu vắng một vị trong thời gian dài.
Ví dụ: Ăn chua quá nhiều mà không ăn chát – dễ rụng tóc, nhão cơ, lạnh da. Ăn cay mà không có đắng – nóng gan, nổi mụn.
Mỗi vị là một “chìa khóa” để mở cánh cửa dẫn dưỡng chất đến từng bộ phận cơ thể.
Nếu chỉ ăn đủ chất mà thiếu vị, cơ thể sẽ nơi thừa nơi thiếu – sinh ra rối loạn.
Âm dương trong thực phẩm – cần biết để ăn đúng giờ, đúng mùa
– Vị cay – chát – mặn là dương → nên ưu tiên ăn buổi tối và trưa.
– Vị chua – đắng – ngọt là âm → nên ăn vào sáng và trưa.
– Củ dưới đất như khoai, củ sen, gừng… dương hơn rau lá trên mặt đất.
– Trái cây như cam, bưởi, dưa hấu… gần mặt trời – âm hơn.
– Nấu chín sẽ làm thực phẩm dương hơn ăn sống.
Buổi tối là giờ âm – đừng nạp thêm thực phẩm âm như trái cây, nước đá, rau luộc nguội. Hãy thêm gia vị cay nhẹ, chút dầu tốt, ăn món hầm ấm nóng – giúp tuỷ làm việc, tạo máu khi bạn ngủ.
Bạn có thể bắt đầu ngày mới bằng một ly nước ấm để giữ ấm dạ dày và kích hoạt khí huyết lưu thông nhẹ nhàng.
Sống thuận tự nhiên – khoẻ tự nhiên
Tổ tiên ta ngày xưa không có thuốc men hiện đại, không có máy lạnh, không có đồ tinh chế – mà vẫn sống khoẻ nhờ thuận theo tự nhiên:
– Ăn đúng mùa, đúng vị.
– Dùng lửa, dùng nắng.
– Ăn đủ béo từ hạt, từ dầu tốt, từ mỡ động vật sạch.
– Dùng muối biển, đường tốt, không qua tinh luyện.
Ngày nay, chúng ta bỏ lỡ hết:
– Sợ mỡ, sợ đường → mất cân bằng.
– Ăn rau quả lạnh buổi tối → âm thịnh dương suy.
– Uống nước lọc quá nhiều mà không thêm muối → mất khoáng, mệt mỏi.
Chỉ khi hiểu quy luật âm dương, ta mới làm chủ được sức khỏe của mình.
Chỉ khi trở về với tự nhiên, ta mới sống thọ, sống khỏe và an yên.
Hãy lắng nghe cơ thể mỗi ngày.
Hãy nhìn lại bữa ăn hôm nay – có đủ 4 nhóm chất? Có đủ 6 vị? Có thuận giờ thuận mùa không?
Chỉ cần vậy thôi, cơ thể bạn sẽ tự sửa chữa – mà không cần đến thuốc men.
Nếu bạn thấy điều này ý nghĩa, hãy chia sẻ cho người thân yêu – để cùng nhau sống khoẻ, sống vui, sống thuận tự nhiên
Nguồn: sưu tầm
From: Anh Dang & KimBằngNguyễn
Welles Crowther đã cứu ít nhất 12 mạng người
Chỉ vài phút sau khi chuyến bay United Airlines 175 đâm vào tòa tháp Nam của Trung tâm Thương mại Thế giới, Welles Crowther, chàng trai mới 24 tuổi, đã để lại lời nhắn cho mẹ mình:
“Mẹ ơi, là con đây, Welles. Con chỉ muốn nói với mẹ rằng con vẫn ổn.”
Đó là cuộc gọi cuối cùng của anh — một bằng chứng cuối cùng về tình yêu và sự trấn an.
Welles làm nghề môi giới tài chính ở tầng 104. Nhưng khi thảm kịch xảy ra, anh không nghĩ đến sự an toàn của riêng mình. Anh chọn một con đường khác: lao xuống nơi hỗn loạn để cứu người.
Khi đến tầng 78, giữa khói lửa và đổ nát, Welles không còn là một nhân viên văn phòng bình thường. Anh trở thành một điều gì đó lớn lao hơn — “người đàn ông với chiếc khăn bandana đỏ”.
Anh buộc chiếc khăn đỏ quanh mặt, không phải để che giấu, mà để thở trong làn khói ngột ngạt. Rồi, với mảnh vải ấy, anh bắt đầu dẫn đường cho những người còn sống sót băng qua bóng tối và đống đổ nát.
Welles đã bế một người phụ nữ bị thương trên tay xuống 15 tầng. Sau đó, không ngần ngại, anh quay lại. Rồi lại cứu thêm người khác. Rồi lại quay lại. Anh đã làm đi làm lại con đường tử sinh ấy nhiều lần.
Anh nói với mọi người:
“Ai còn có thể đứng, hãy đứng dậy ngay. Và nếu bạn có thể giúp người khác, hãy làm đi.”
Giữa tiếng kêu khóc, khói đen và nỗi sợ hãi, giọng nói của anh là ngọn đèn soi sáng, mang đến bình tĩnh và quyết tâm. Anh không la hét, không bỏ chạy. Anh chỉ hành động — bằng một sự can đảm và lòng trắc ẩn khó tin, một bản năng bảo vệ mà không trường lớp nào có thể dạy.
Vài ngày sau, thi thể Welles được tìm thấy bên cạnh một nhóm lính cứu hỏa, trên tay vẫn còn cầm dụng cụ cứu hộ. Anh đã ngã xuống trên đường đi cứu lần cuối cùng.
Ling Young, một trong những người sống sót nhờ anh, đã nói về Welles bằng những lời đơn giản mà lay động:
“Anh ấy là thiên thần hộ mệnh của tôi. Nếu không có anh ấy, chúng tôi đã kẹt lại ở đó, chờ cái chết.”
Ngày hôm đó, Welles Crowther đã cứu ít nhất 12 mạng người. Anh ra đi với chiếc khăn bandana đỏ trên mặt — trở thành biểu tượng vĩnh hằng của sự hy sinh thầm lặng.
Có những anh hùng trở thành huyền thoại. Có người thành lãnh đạo. Nhưng những anh hùng vĩ đại nhất lại có khi chỉ là những con người bình thường, và với một chiếc khăn đỏ giản dị, họ nhắc nhở chúng ta rằng: sức mạnh lớn nhất trên đời này chính là tình yêu và ý chí cứu lấy người khác.
TG Văn Chương
Một lời nói sai lúc nóng giận, sẽ tạo ra vết thương không bao giờ lành
Dù bạn thông minh đến đâu, giàu có đến mức nào, hay có quyền lực ra sao… thì chỉ cần một cơn nóng giận bùng lên, mọi thứ đều có thể “rơi về số 0”.
Chỉ trong khoảnh khắc cảm xúc bốc đồng, chỉ số IQ của bạn tạm thời biến mất, và phải mất ít nhất vài phút sau, bạn mới có thể lấy lại sự bình tĩnh.
Và bởi vậy, hãy ghi nhớ: Trong lúc tức giận, tuyệt đối đừng đưa ra bất kỳ quyết định nào.
Sự cao quý của một con người không nằm ở bằng cấp, chức danh hay gia sản, mà nằm ở khả năng tự kiểm soát cảm xúc.
Khi ta để miệng lưỡi buông ra những lời làm tổn thương người khác, dù vô tình hay cố ý, thì đó cũng là hành vi dại dột nhất của lý trí.
Nhiều người nghĩ mình mất tự do vì hoàn cảnh, vì người khác, vì xã hội… Nhưng thật ra, chúng ta không tự do, là bởi bị cảm xúc tiêu cực bên trong chi phối.
Có một câu cổ ngữ rất đáng để suy ngẫm:
“Người có thể kiểm soát cảm xúc xấu trong lòng, mạnh hơn người có thể chiếm lấy cả một tòa thành.”
Bạn thấy đó, nước càng sâu thì càng lặng.
Càng hiểu chuyện, người ta càng biết cách nói chậm, nghĩ kỹ, và chọn im lặng đúng lúc.
Nói năng lưu loát có thể học trong hai năm. Nhưng học được sự im lặng đúng lúc… có khi cần cả đời.
Nói – là một loại khả năng.
Không nói – là một loại trí tuệ.
Và đôi khi, sức mạnh lớn nhất của con người không nằm ở việc “đáp trả” thật nhanh, mà nằm ở việc biết dừng lại, biết nhẫn, và biết giữ lòng mình bình yên giữa bão giông.
Nếu bạn đang giận dữ, nếu lòng đang xáo trộn…
Đừng phản ứng vội.
Hãy hít một hơi thật sâu, bước lùi lại một bước, giữ im lặng một lúc.
Vì có thể — chỉ một lời nói sai lúc nóng giận, sẽ tạo ra vết thương không bao giờ lành.
Đặc vụ di trú liên bang đột kích nhà máy Hyundai ở Georgia, bắt giữ 475 người
Đặc vụ di trú liên bang đột kích nhà máy Hyundai ở Georgia, bắt giữ 475 người, phần lớn là công dân Nam Hàn, giới chức loan báo hôm Thứ Sáu, 5 Tháng Chín, theo ABC News.
Nhà máy Hyundai ở Ellabell, Georgia – cách Savannah khoảng 30 dặm về hướng Tây – bị đột kích “trong cuộc điều tra hình sự về việc nơi này bị cáo buộc mướn người bất hợp pháp và phạm nhiều tội nghiêm trọng khác,” Bộ Nội An (DHS) ra thông báo cho hay.
Những người bị bắt làm việc cho vài công ty thầu phụ cũng như cho công ty mẹ, Hyundai, theo ông Schrank.
“Đây là chiến dịch thi hành luật di trú lớn nhất ở một nơi duy nhất trong lịch sử HSI,” ông Steve Schrank, người phụ trách văn phòng HSI ở Atlanta, cho biết trong buổi họp báo sáng Thứ Sáu.
CÁNH ĐỒNG MƠ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
“Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ bứt lúa, vò trong tay mà ăn”.
“Bước đi với Chúa Kitô biến những cánh đồng bình thường thành thánh địa!” – Henri Nouwen.
Kính thưa Anh Chị em,
Sẽ khá bất ngờ khi chúng ta chỉ dừng lại ở câu đầu tiên của Tin Mừng hôm nay. Các môn đệ hồn nhiên cùng Chúa Giêsu lang thang qua một cánh đồng. Với chúng ta, đó là một ‘cánh đồng mơ!’.
Chẳng phải thật tuyệt vời nếu được làm môn đệ của Chúa Giêsu vào những ngày ấy, cùng Ngài lang thang rảo qua đồng lúa của ai đó, hái những bông lúa trên những cọng lúa, và hồn nhiên thưởng thức vị ngọt của những hạt vàng thơm lừng được nghiền nát giữa những ngón tay? Đó là một ngày giản dị, tinh khôi, cùng Ngài rảo bước, được phúc nghe Ngài kể lại câu chuyện đời xưa – vua Đavít. Đó là một cuộc dạo chơi bình thường nhưng thấm đẫm hạnh phúc, vì có Chúa ở cùng – giữa ‘cánh đồng mơ’. “Được ở với Chúa Giêsu – dù chỉ trên cánh đồng – cũng phong phú hơn mọi cung điện không có Ngài!” – Charles Spurgeon.
Thế nhưng, sao lại luyến tiếc một quá khứ mà bạn không thể quay trở lại? Chúa Giêsu từng nói, “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế!”. Ngài hiện diện trong Thánh Thể, lặng lẽ bên ngọn đèn cháy sáng cạnh Nhà Tạm trong những lần chúng ta trầm lắng nguyện cầu. “Đức Kitô không phải là ký ức của quá khứ nhưng là Sự Hiện Diện của hiện tại!” – J. Ratzinger. Không cánh cửa khép kín nào có thể ngăn Ngài đến với chúng ta; không bức tường nào có thể chặn đứng sự thân mật mà chính các môn đệ xưa cũng chẳng có được. Ngài vẫn ở đó, đợi mỗi người để cùng chúng ta bước đi trên ‘cánh đồng mơ’ đời mình, lắng nghe, chia sẻ, và đổi mới chúng ta mỗi ngày. “Trong mỗi Nhà Tạm, ngọn đèn thắp sáng nhắc nhở ta: Ngài ở đây, chờ đợi bạn!” – Fulton Sheen.
Các môn đệ ngày ấy đã thấy những bông lúa tươi mới thật hấp dẫn. Còn chúng ta, mỗi khi đến bàn tiệc Thánh Thể, liệu bạn và tôi có nhận ra sự tươi mới khôn tả? Nơi đây, Đấng bất biến trở nên của ăn cho một nhân loại luôn đổi thay; Ngài biến đổi ‘cái tạm bợ’ của chúng ta bằng sự vĩnh hằng của Ngài. “Thánh Thể là nhịp đập của một con tim được đổi mới!” – Carlo Acutis. Vì thế, mỗi lần rước Chúa, là mỗi lần được tham dự vào “chén phúc lộc”, là để cho Ngài đổi mới, hầu chúng ta có thể mang Vương Quốc vào lòng thế giới. “Trong Thánh Thể, Đức Kitô làm mới mọi sự!” – J. Ratzinger.
Anh Chị em,
Cánh đồng ngày ấy chỉ là một ‘lát cắt’ của thời gian. Nhưng nhờ Thánh Thể, nó trở nên biểu tượng cho cánh đồng của những ước mơ – ước mơ vĩnh cửu: được ở lại trong sự thân mật với Chúa – Đấng vẫn thì thầm, “Này đây Ta đổi mới mọi sự!”. Vì thế, ước mơ của chúng ta không chỉ là được đi trên cánh đồng với Con Thiên Chúa hai ngàn năm trước, nhưng là để Ngài bước vào cánh đồng đời mình, gia đình mình hôm nay, biến nó thành cánh đồng hồng ân, cánh đồng của những biến đổi. “Với Đức Kitô, cả những cánh đồng thời gian cũng trở thành cánh đồng của những ước mơ!” – Henri Nouwen.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, cho con biết mơ trên cánh đồng của Ngài, nơi mọi giấc mơ đều nảy mầm trong Thánh Thể!”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
*******************************************
Lời Chúa Thứ Bảy Tuần XXII Thường Niên, Năm Lẻ
Tại sao các ông làm điều không được phép làm ngày sa-bát.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 6,1-5
1 Vào một ngày sa-bát, Đức Giê-su đi băng qua một cánh đồng lúa ; các môn đệ bứt lúa, vò trong tay mà ăn. 2 Nhưng có mấy người Pha-ri-sêu nói : “Tại sao các ông làm điều không được phép làm ngày sa-bát ?”
3 Đức Giê-su trả lời : “Ông Đa-vít đã làm gì khi ông và thuộc hạ đói bụng ? 4 Ông vào nhà Thiên Chúa lấy bánh tiến mà ăn và cho thuộc hạ ăn. Thứ bánh này, chỉ có tư tế mới được ăn mà thôi. Câu chuyện ấy, các ông chưa đọc sao ?” 5 Rồi Người nói : “Con Người làm chủ ngày sa-bát.”
TỪ BỎ ĐIỀU QUÝ ĐỂ CÓ ĐƯỢC ĐIỀU QUÝ HƠN – Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
Lời Chúa Giê-su nói hôm nay thật không dễ nghe, thậm chí còn gây sốc nếu ta hiểu theo nghĩa đen. Chúa nói “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta”
(Lc 14,26). Lời mời gọi của Chúa Giê-su thật mạnh mẽ và dứt khoát.
Theo Chúa là một lựa chọn và hy sinh
Nghe lời tuyên bố của Đức Giê-su ở trên, mỗi người chúng ta nói gì và trả lời ra làm sao? Tiêu chuẩn để làm môn đệ Đức Giê-su thật gắt gao. Ai muốn theo Chúa, phải từ bỏ tận căn, không những của cải, người thân, mà cả những tiện nghi, kế hoạch riêng, sự quyến luyến, những giao tiếp hợp pháp và thậm trí cả chính mạng sống mình nữa nữa (x. Lc 14). Chúa yêu cầu phải “bỏ” cha mẹ, vợ con, anh em, chị em.
Có người hỏi: Phải chăng, điều răn thảo cha kính mẹ, yêu thương người thân cận bị đảo lộn rồi hay sao? Nghĩa là để đi theo Đức Giê-su, người ta phải thay thế tình yêu đối với người thân cận bằng sự từ bỏ đối với họ? Không phải thế, Đức Giê-su đòi hỏi người môn đệ phải phân định và lựa chọn giữa Thiên Chúa và loài người, Thiên Chúa phải là nhất. Yêu cha mẹ và đồng loại, nhưng yêu Thiên Chúa hơn, vì Thiên Chúa là Đấng dựng nên cả cha mẹ chúng ta, nên Đức Giê-su yêu cầu con người dành cho Thiên Chúa một vị trí đặc biệt và cao nhất. Chúa Giê-su không cổ võ việc từ bỏ gia đình hay cắt đứt tình thân, mà Người đòi hỏi một sự đảo chiều trong ưu tiên của ta: Phải đặt Thiên Chúa làm trung tâm, hơn cả những điều quý nhất.
Chúa không xem thường cha mẹ, vợ con, nhưng Chúa biết rằng: nếu ta yêu mến Người hơn, thì ta sẽ yêu người thân một cách đúng đắn hơn, yêu với tình yêu vô điều kiện và không chiếm hữu.
Thánh Gio-an Kim Khẩu đã từng nói: “Đức Ki-tô không lấy đi khỏi chúng ta những gì là quý giá, mà Người dạy chúng ta đặt mọi sự vào đúng trật tự: yêu Chúa trước hết, để mọi tình yêu khác được thanh luyện.”
Theo Chúa là từ bỏ điều quý để đạt được điều quý hơn. Như người xây tháp hay vị vua sắp ra trận trong Tin Mừng hôm nay, ai cũng cần lượng giá, biết người, biết mình.
Xin ơn khôn ngoan
Tác giả sách Khôn Ngoan thốt lên: “Ai trong loài người có thể biết được ý định của Thiên Chúa?” (Kn 9,13).
Đúng vậy, nhiều lúc con người tưởng mình khôn ngoan, thành công, sắp đặt được mọi sự, nhưng không biết rằng khôn ngoan đích thực là nhận ra điều Chúa muốn nơi mình, và sống theo đó. Vì thế, trong Hiến chế Gaudium et Spes, Công đồng Vaticanô II đã viết: “Con người chỉ thực sự là chính mình khi hiến dâng trọn vẹn cho Thiên Chúa” (GS 24).
Lời Chúa hôm nay mời gọi ta xét lại: Tôi có đang chọn Chúa là nhất chưa? Tôi có sẵn sàng từ bỏ một chút tiện nghi, một chút thời gian, một chút tự ái… để sống theo thánh ý Chúa không?
Đón nhận tha nhân với niềm tin yêu
Trong thư gửi ông Phi-lê-môn, thánh Phao-lô nài xin ông đón nhận lại người đầy tớ tên Ô-nê-xi-mô không còn như một nô lệ, nhưng như một người anh em trong Chúa (Plm 16). Đây là một bằng chứng sống động rằng: theo Chúa không chỉ là lựa chọn cá nhân, mà còn là thay đổi cách ta nhìn người khác. Từ bỏ sự phân biệt, tự cao, thành kiến để đón nhận tha nhân với tình yêu mới.
Đến nhà thờ, chúng ta không chỉ gặp Chúa, mà còn gặp nhau. Và nếu gặp Chúa thật sự, thì ta cũng phải đối xử với anh em như những người cùng được Chúa yêu thương.
Chúa Giê-su chính là mẫu gương tuyệt đối của tình yêu tự hiến: Chúa từ bỏ vinh quang Thiên Chúa để mang lấy phận người. Từ bỏ sự sống để chết trên thập giá. Từ bỏ mọi quyền năng để ẩn mình trong tấm bánh nhỏ bé, một sự ẩn mình khó tin để ở lại với chúng ta.
Theo Chúa là một chọn lựa có hy sinh. Nhưng Chúa cũng hứa: “Ai bỏ mọi sự vì Thầy, sẽ được gấp trăm ở đời này, và sự sống đời đời” (x. Mc 10,29-30).
Ước chi mỗi người chúng ta, Lễ xong ra khỏi nhà thờ mà không kết thúc, nhưng kéo dài trong từng chọn lựa hằng ngày: Chọn nói lời yêu thương thay vì giận dữ. Chọn tha thứ thay vì chấp nhất. Chọn phục vụ thay vì đòi hỏi, và nhất là, chọn Chúa thay vì chính mình. Thánh Au-gút-ti-nô nói: “Chúng ta hãy trở nên điều chúng ta lãnh nhận.” Chúng ta đã rước Chúa Giê-su Thánh Thể, vậy chúng ta hãy trở nên “tấm bánh bẻ ra” cho gia đình, giáo xứ và xã hội hôm nay.
Theo Chúa không dễ vì đòi hỏi chúng ta từ bỏ điều quý. Nhưng nếu từ bỏ vì tình yêu, vì Chúa, thì ta đạt được điều quý hơn gấp bội. Chúa Giê-su hỏi từng người chúng ta: “Con có sẵn sàng chọn Thầy, chọn thánh ý Thầy, dù phải hy sinh điều gì đó không?”
Câu trả lời không nằm trong lời nói, mà trong chọn lựa sống mỗi ngày. Xin Thánh Thể Chúa giúp chúng ta can đảm chọn Chúa, vì chỉ có Chúa mới là kho tàng đích thực của đời ta. Amen.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
From Langthangchieutim
Chúng Ta Chỉ Có Thể Cùng Nhau Đi Một Đoạn Đường
Tất cả những gì có mặt trong cuộc đời này, từ con người, mối quan hệ, đến tài sản, danh vọng… đều khởi lên từ nhân duyên. Không có gì tự nhiên mà đến. Cũng không có gì mãi mãi thuộc về ta.
Việc ta gặp một người, yêu quý hay ghét bỏ họ, tất cả đều là quả của những nhân duyên đã tạo trong nhiều kiếp sống trước.
Có người vừa gặp đã thấy thân thương, như đã từng gắn bó sâu sắc đâu đó trong quá khứ. Có người vừa nhìn đã khó chịu, bực bội, đó không phải vì họ xấu, mà bởi ta và họ từng oán kết sâu dày trong quá khứ.
Mỗi đứa con, mỗi người bạn đời, mỗi người thân… chỉ là người lữ khách có duyên ghé qua đời ta. Họ đến, rồi họ đi. Họ đến khi duyên khởi. Và sẽ rời đi khi duyên tan.
Chúng ta thường khổ vì lầm tưởng rằng: “Cái gì đến với mình thì là của mình.”
Thật ra không phải vậy.
Người con ngoan ngoãn, tài giỏi, đột nhiên rời cõi đời sớm… không phải là oan nghiệt, mà có thể là họ chỉ ghé ngang cõi người một đoạn, để trả một chút duyên, rồi tiếp tục hành trình theo phước nghiệp cao hơn.
Như một số tiền chuyển nhầm vào tài khoản, ta vui mừng, nghĩ là tài sản của mình. Nhưng đến khi ngân hàng xin lại, ta buồn bã, than trách.
Nhưng đó chưa bao giờ là của ta cả. Chỉ là một duyên tạm.
Người con ấy, người bạn ấy, người thân ấy… cũng thế.
Sự thật là: Chúng ta chỉ có thể đồng hành cùng người khác một đoạn đường.
– Cha mẹ chỉ đi với ta đến một khúc tuổi thơ, rồi rời đi trước.
– Con cái chỉ gắn bó một giai đoạn, rồi có cuộc đời riêng.
– Người bạn đời cũng đến rồi đi, theo cách đời sống sắp đặt.
– Bạn bè, người thân, ai rồi cũng có lúc không còn bên nhau nữa.
Vậy nên, hãy trân quý từng khoảnh khắc hiện tại, khi duyên còn. Hãy yêu thương đúng cách, không dính mắc. Biết rằng: Gặp nhau là duyên. Ở bên nhau là nợ. Hết duyên, hết nợ, ai rồi cũng phải đi.
Tập buông để nhẹ lòng.
Đừng khư khư giữ lấy những thứ vốn không thuộc về mình mãi mãi.
Tất cả tài sản, người thân, địa vị, tình cảm… đều chỉ là duyên trần, có thì quý, hết thì buông.
Nếu không buông, thì khi duyên tan, ta sẽ khổ. Nếu biết buông, thì ngay cả khi chia ly, ta vẫn mỉm cười.
Hãy nhìn đời bằng con mắt nhân duyên, để:
– Không quá đau khi mất mát.
– Không quá chấp khi được trao.
– Và không quá khổ khi phải chia xa.
Ai đi qua đời ta, xin cảm ơn họ.
Ai rời khỏi đời ta, xin chúc họ bình yên.
Vì tất cả chỉ có thể cùng đi với nhau một đoạn đường.
Nguyện cho tất cả ai hữu duyên đọc được bài này, biết trân trọng những gì đang có, biết buông bỏ những gì đã qua, và sống nhẹ nhàng, thảnh thơi giữa cõi đời vô thường.
From:”Nga Thu Tran”& NguyenNThu
Gió chướng đã đổi chiều-Tác Giả: Nguyễn Văn Lục
Tác Giả: Nguyễn Văn Lục
04/09/2025

(Một ngày nào đó, các anh sẽ trở về, ôi những đứa con lưu lạc). Sébastien. Ch. Le Comte (le masque de fer)
Cách đây vừa đúng 50 năm, 1975-2025, trên chiến hạm chỉ huy Blue Ridge thuộc hạm đội thứ 7. Người ta nhận thấy có một số nhân vật trong chính quyền My mà đặc biệt có một số ký giả từng có mặt trong cuộc chiến VN.
Họ tề tựu khá đông đủ nơi đây như những chứng nhân quan sát cơn hấp hối của Saigon từ trên biển một cách bình thản.
Người ta nhận thấy có ký giả Stanley Karnow, tác giả cuốn: Viêt Nam. A hístory.
David Haberstam với cuốn The best and the Brightest. Và Frank Snepp, người mới tháp tùng tt. Nguyễn Văn Thiệu từ Đài Loan trở về, tác giả các cuốn Decent interval và An Insider Account of Saigon.
Frank Snepp có mặt ở đây lúc này là để chuẩn bị đón tiếp đại sứ Mỹ Martin- người Mỹ cuối cùng sắp rời Saigon.
Ngoài khơi, người ta nhận thấy những con thuyền nhấp nhô như những lá tre trôi trên biển.
Đó là những con thuyền đủ loại, đủ cỡ của những người Việt Nam đầu tiên bỏ chạy cộng sản. Họ là ai, số phận họ sẽ ra sao sau này?
Chẳng ai trong số những ký giả đang chứng kiến cảnh tượng bi đát ấy và ngay cả những người ngồi trên những chiếc thuyền đó có câu trả lời và tiên đoán được điều gì!!
Trong khi đó, Stanley Karnow với cái nhìn mỉa mai như chế nhạo nói với Haberstam:
- Này anh, công cuộc di tản này hẳn có sự đóng góp công sức của những người như anh?
Haberstam, một ký giả một thời từng phê phán cuộc chiến tranh một cách hăng say lạnh lùng, tỉnh bơ đáp:
“ Anh nói không sai, nhưng điều đó chứng tỏ sức mạnh của người Mỹ chúng ta nằm ở chỗ nào? Đâu phải chỉ có sức mạnh của B.52? Anh đồng ý chứ?
Và hôm nay chúng ta là những nhân chứng duy nhất và cuối cùng chứng kiến cảnh tháo chạy. Và tôi nghĩ rằng đó là trách nhiệm của tôi và anh ở đây.
-Karnow đáp lại:
Phần tôi, sẽ không quên được câu chuyện ngày hôm nay. Tôi cảm thấy xấu hổ cho nước Mỹ, trong đó có tôi.
Trong khi đó, trong phòng chỉ huy trưởng của chiến hạm, người ta nghe tiếng đối đáp của ông chỉ huy trưởng với ngài Kissinger. H. Kissinger hỏi viên chỉ huy trưởng:
- Ông có biết bây giờ là mấy giờ ở Hoa Thịnh Đốn không? Trong một giờ nữa mà ông đại sứ Martin không có mặt trên chiến hạm của ông thì kể như cuộc triệt thoái của người Mỹ thất bại.
- -Thưa ngài Kissinger, ông đại sứ nán lại để cứu vớt những người Việt Nam cuối cùng cần được cứu vớt.
- Kissinger cáu kỉnh quát trong ống nghe: Anh nói với ông ta là lệnh của tôi, ông ta phải lập tức rời Viet Nam. Tôi không cần biết phải cứu ai. Sao cái bọn “chó chết” đó không chết phứt đi cho rồi.
- Stanley Karnow nghe được cuộc điện đàm đó đã đưa ra nhận xét:
- “ông Kissinger và ông Lê Đức Thọ nói cùng một thứ ngôn ngữ. Ông Thọ cũng gọi những người đang lố nhố trốn trên biển là những đống rác mà chúng tôi cần tống ra biển ‘
- Cả người Mỹ và kẻ thù của họ đều coi VN như một thứ rác rưởi cần phải tống khứ đi cho rồi.
Chẳng bao lâu sau, đại sứ Mỹ đã có mặt trên chiến hạm và ông đã nhận được một công điện của H. Kissinger đánh đi như sau:
- “Người Mỹ đến VN như thế nào thì khi rút đi cũng như vậy. Đó là thành công của ông cũng như của chúng ta. Congratulation!!
Ngay sau đó, đại sứ Martin đã nhận được từ dưới bong tàu chỉ huy, một cựu tướng lãnh VN mà ông từng quen biết muốn gặp ông.. ông đã từ chối và nói với viên sĩ quan tùy viên nhắn lại:
“Nói với ông ta, ở đây không phải Sài gòn mà là nước Mỹ trên biển.. Hiện nay, chúng tôi coi ông ấy như một người “ vô tổ quốc”. Ông ấy phải tự tước bỏ lon chậu và không được tuyên bố điều gì.
Người tùy viên đã tuân lệnh nói lại và ghi lại như sau: ông cựu tướng đã quỳ xuống sàn tàu một cách tuyệt vọng và dơ hai tay ngửa mặt lên trời kêu lên rằng:
- “Ta thề với trời đất, một ngày nào đó, ta sẽ trở về.”
(Câu truyện và hình ảnh như một bi kịch biểu tượng vho những ngày mất Saigon, Tuy nhiên được biết, sau này ông có trở về thật, nhưng không phải để chiến đấu chông cộng sản, mà để bắt tay hòa giải với cộng sản.)
Tin tức sau này cho hay rằng, đã có khoảng 250.000 ngàn người đã được vớt trên biển và được định cư trên nước Mỹ.
Ngày nay, nhiều người ngồi hồi tưởng lại không thể mường tượng nổi, họ đã có thể liều lĩnh làm một việc như vậy.
Nhưng cái “ sô” vớt người trên biển đầy tình người của người Mỹ nói lên rằng: Người Mỹ có thể làm được tất cả mọi việc một cách quy mô, hoành tráng , ngay cả việc trốn chạy.
Hãy cứ tưởng tượng trong số 250 ngàn ấy, ít ra cũng đến phân nửa ở tuổi vị thành niên và nay nếu muốn diễn tả lại tâm trạng của họ thì có thể tóm tắt là tất cả đều hoang mang và không có một chút hy vọng gì về tương lai..
Vậy mà nay giới trẻ ấy đã đóng góp tích cực, đóng góp vào cộng đồng hải ngoại mà không cần nói hết ra ở đây.
- Và cứ như thế, các con số thuyền nhân trốn khỏi Việt Nam càng gia tăng tùy theo nhịp độ của những chính sách của Hà Nội như “đi vùng kinh tế mới”, “học tập cải tạo”, “đánh tư sản mại bản”. Và cuối cùng, chính sách”đi bán chính thức” nhằm xua đuổi giới Hoa kiều ra khỏi VN.
- Con số nay không còn là 250.000 người mà nhảy vọt lên hơn hai triệu người.
- Giữa sự ra đi của 250.000 người và của hai triệu người sau này có sự khác biệt sâu xa về tính chất và về nục đích. Về tính chất, con số 250.000 người chỉ do sự hoảng kinh mà bỏ chạy. Trong khi những người đi sau từng nếm trải kinh nghiệm sự tột cùng khốn khổ. Họ bị đẩy vào chân tường và lối thoát duy nhất là bằng mọi giá, bằng mọi phương tiện, bằng sự trả giá ngay cả sự sống để trốn thoát ra khỏi Việt Nam mà sau này người ta gọi là “ boat people”. Ngoài những người may mắn sống sót, còn biết bao nhiêu người bị hãm hiếp, bị giết bởi hải tạc Thái Lan, để xác trên biển cả?
- Cho đến nay, con số này chẳng ai biết là bao nhiêu. Gia đình các nạn nhân chỉ còn ngậm ngùi trong bóng tôi trong sự tiếc thương. Người chết thì đã chết. Tiếc nuối rồi cũng nguây ngoa. Thời gian rồi sẽ xóa nhoà tất cả.
Và như tiêu đề bài viết; Ngày nào đó, các con sẽ trở về.
- Về phía nhà cầm quyền cộng sản.
Họ cho rằng chính thức nhà nước không cưỡng bức bất cứ một ai muốn bỏ nước ra đi và cũng không giữ một ai muốn ra nước ngoài sinh sống. Và cuối cùng để tránh tình trạng xô bồ vượt biển gây khó khăn cho các nước láng giềng. Chính quyền cộng sản đã đồng ý với Liên Hiệp Quốc theo một chương trình ra đi có trật tự (ordely departure program).
Thảm cảnh thuyền nhân trên biển đã giảm mức độ.
- Tất cả cái thảm cảnh trên biển nay đã đảo ngược trở thành cái mà Michel Tauriac trong Hồ sơ đen của cộng sản
( Le dossier noir du Communisme) tóm tắt đầy đủ ý nghĩa tóm gọn trong một câu “ Những con bò sữa thuyền nhân”
Từ nay gió đã đổi chiều.. Gió chướng đã thổi họ ra biển, nay ngọn gió nào đã đưa họ về? Hình ảnh sắp tới thật biểu tượng và gợi hình. Thật vậy, tất cả những con bò sữa thuyền nhân đã ra đi với hai bàn tay trắng để lại nhà cửa, tài sản, ruộng vườn. Nay Bộ Nội Vụ quản lý toàn bộ các tài sản, tiền bạc, nhà cửa. Đây lại cho thấy một hình thức “ nhổ sạch lông” những bọn người lưu vong này. Kẻ rỗi hơi ngồi tính nhẩm việc nhổ sạch lông này đem lại cho nhà nước 25 tấn vàng.
Nhưng tính lại, 25 tấn vàng vẫn là chuyện nhỏ.
Và để gọi tên những thuyền nhân này tùy thuộc vào từng thời kỳ. Thoạt đầu là bọn phản quốc, bọn bán nước hại dân, bọn tay sai, bọn Mỹ-Ngụy.
Cho mãi đến năm 1990, người ta vẫn còn nghe có người gọi là bọn việt gian.
Sau này, chữ dùng xem ra có vẻ khách quan hơn cả là: Việt Kiều.
Xin nhắc lại vụ án tàu Viêt Nam Thương Tín để cùng suy gẫm lại.
Trên báo Quân Đội Nhân Dân, số ra ngày mồng 3/7/1977, ở trang ba, có viết như sau:” Luật lệ trừng phạt những kẻ phản cách mạng đã được ban hành ngày 19/11/1976 đã ấn định rõ như sau: Tội chạy trốn sang hàng ngũ địch hay trốn ra ngoại quốc vì những mục tiêu phản cách mạng sẽ bị phạt từ 3 đến 12 năm tù. Trong những trường hợp nghiêm trọng tổ chức tội phạm sẽ bị kết án chung thân hay Tử hình.
Về số phận những người đi tàu Việt Nam Thương Tín theo báo chí, họ đã bị phân tán đi Lào Cay, Yên Bái, Thái Nguyên.
- Về phía những người Việt Nam ra hải ngoại như các nhà văn, nhà thơ, xin ghi lại một vài tâm trạng của chúng ta lúc bấy giờ như bài viết của Nguyễn Đình Toàn hay nhà thơ Cao Tần.
“ Thù quê hương như tên hề ốm nặng.
Hồn tang thương sau mặt nạ tươi cười.
Ôi trong ví mỗi người dân mất nước
Còn một oan hồn mặt mày ngu ngơ
Thù hận bọn làm nước ông nghèo xi
Hận gấp nghìn lần khi chúng đánh ông văng.
Nếu mai mốt đổi đời phen nữa
Ông anh hùng ông cứu được quê hương.
Ông sẽ mở ra nghìn lò cải tạo
Lùa cả nước vào học tập yêu thương.
- Gió chướng không còn nữa. Gió đâ đổi chiều .
Những thành phần trước đây bị coi là rác thải nay trở thành rác quý chế biến thành những sản phẩm. Rác thải cứ thế mà thay hình đổi dạng.
Những chiếc xe Mercdes, những biệt thự sang trọng như ở Mỹ, những khách sạn Sofitel Vinpearl Resort-Spa, 5 sao tại Hòn Tre. Khu Vinpearl Resort tại Nhatrang..
Những đại gia mà trước đây có thể chỉ là dân thuyền chài sang Mỹ trở thành chủ tàu đánh cá nay trở về. Những mệnh phụ phu nhân mà trước đây có thể là chị bán cá chợ Trần Quốc Toản. Họ nói tiếng Mỹ eo éo, trơn tuột, liến thoắng đến không ai hiểu.
Phải chăng trước đây cuộc di tản là nỗi bất hạnh nay trở thành đại hạnh cho chính họ và con cháu.
Hà Nội đã trải thảm đỏ đón họ từ phi trường Tân Sơn Nhứt trở về như đón một đứa con phung phá nay đã trở về thành đạt.
Câu truyện về họ nay như những câu truyện thần thoại. Mà những câu truyện trước đây kể về họ ngày càng trở nên nhạt phèo như nước ốc.
Gió chướng không còn nữa, gió đã đổi chiều, ngôn ngữ đổi chiều, giọng
lưỡi đổi giọng.
Không còn thứ chữ nghĩa làm đau lòng nhau nữa.
Trên sách báo, trên các trang nhà, không còn tìm thấy bất cứ thứ chữ nào nói xa, nói gần đến chế độ miền Nam. Những chữ như “bọn ngụy quân”, “ngụy quyền”, “bọn tay sai” đã không còn tìm thấy chính thức trên báo Nhân Dân nữa.
Ngược lại không thiếu những chữ mật ngọt như “ tổ quốc VN luôn mở rộng vòng tay chào đón những người con xa xứ.. “ Nhà nước bảo hộ những quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn quan hệ gắn bó với quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước.”.
Luật quốc tịch ghi rõ ràng thế này ở điều II: “Người Việt Nam ở nước ngoài là công dân Việt Nam.. Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”
- Hãy nhìn vào những con số
Năm 1987 mới chỉ có 8000 người về thăm quê hương. Năm 1993, con số đã là 160.000 người. Năm 2002 là 380.000..
Nay thì con số đã lên tới 2 triệu người và trong vài năm nữa, con số nhắm tới là 10 triệu người như Thái Lan với các đường bay thẳng Sài Gon- Mỹ, Sài Gòn- Âu Châu..
Giả dụ, mỗi Việt Kiều về Việt Nam ở hai tuần lễ, chi tiêu khoảng 4000 đô la.
Cán cân kinh tế được kích cầu lên không nhỏ. Tiềm năng thật lớn. Tương lai cũng đày hứa hẹn.
Đó là một nền kinh tế dựa trên một kỹ nghệ không khói.
Tuy nhiên, từ trước đến nay, nhà nước chỉ giữ có một độc quyền không thay đổi.
Mang tiền về thì được, nhưng đừng mang “chữ” về.
“Chữ” hiểu theo nghĩa rẩt rộng như sách báo, tư tưởng, âm nhạc, ca hát, nghệ thuật.
Cần nhớ rằng từ khi thành lập đảng đến nay, chữ vẫn là độc quyền tuyệt đối nằm trong tay đảng. Nó nằm trong một hệ thống khép kín. Chủ nghĩa hay ý thức hệ, bạo lực khủng bố và một chính quyền toàn trị.( Ideology, terror and totaliarian government).
Hiểu như thế, chẳng lạ gì, khi về Việt Nam, người ta thường khuyên có một điều duy nhất: anh muốn làm gì thì làm, chẳng hạn cờ bạc, chơi bời đủ kiểu, cà phê đủ kiểu, gái gú đủ kiểu, sex đủ kiểu, ăn đủ kiểu, đĩ điếm đủ kiểu, gian trá đủ kiểu, lưu manh đủ kiểu, thằng ăn cướp xử thằng ăn cắp đủ kiểu..
Ta có quyền đủ kiểu hết, miễn là đừng đụng chạm đến chính trị .
- Vài mẫu người việt di tản nay về sống ở Việt Nam.
Phải nói thẳng với nhau rằng họ là những người “ ngoại quốc” sống trên chính quê hương họ: tách biệt và đẳng cấp.
Họ ở những khu riêng biệt với những biệt thự sang trọng, đủ tiện nghi như ở Mỹ, Canada.
Những khu nhà có những bãi cỏ xanh, hồ bơi, những mái nhà mái màu cam kiểu California, có những hàng dừa cọ, bên cạnh có chữ tiếng Anh “Welcome”.
Họ lái những chiếc xe SUV ra khỏi cổng săt tự động mở.
Chẳng hạn anh chàng Võ Quy, kèm theo cái tên là là Larry trước đây là sĩ quan không quân cùng với bà vợ có tên cúng cơm là Ngọc, nay là Linda.
Anh năm nay đã 70 tuổi, về hưu. Anh ở trong một ngôi nhà với đồ dùng toàn Inox, phòng tắm lớn có vòi tắm hơi, thiết kế theo kiểu jacuzzi của Ý.
Toàn đồ xịn không à. Anh tỏ ra hãnh diện. Anh thiệt là Việt kiều.
Có điều oái ăm là khi ở Mỹ, người ta bằng mọi cách nhắc nhở và nhớ về Sài gon và đặt các tên như Little Sài gòn, Phở Bắc, bánh mì Tân Định, bánh cuốn Dakao, restaurant Hoài Hương, phở Hà Nội, phở Nguyễn Huệ, Brodard restaurant vv.. để gợi nhớ về một miền Nam thân yêu của một thời..
Nay ở Việt Nam thì họ lại tiếc lối sống ở Mỹ, nhớ những kỷ niệm về Mỹ.
Họ trở thành người ngoại quốc trước đồng bào của họ.
Trường hợp anh chàng Hoàng Tiến rất bực mình khi người hàng xóm đã vứt những bao rác trước cửa nhà anh. Lại còn mở nhạc karaoke ầm ĩ bất kể giờ giấc.
Hoàng Tiến khi ở Mỹ thì bắt con học tiếng Việt. không muốn trở thành một thứ Melting Pot.
Về Việt Nam, anh lại chỉ quen xổ tiếng Mỹ.
Trong tương lai, Hoàng Tiến sẽ còn gặp nhiều điều rất khó chịu. Chẳng hạn, một anh cán bộ phường cứ xồng sộc vào nhà mà chẳng điện thoại trước.
Trường hợp Nguyễn Anh lại ở một dạng khác. Anh tốt nghiệp kỹ sư, năm nay 35 tuổi làm việc cho một công ty nước ngoài.
Những khó chịu của Nguyễn Anh cũng khá nhiều. Vào ngân hàng, ở siêu thị khi trả tiền, anh chứng kiến cái cảnh chen lấn, huých khủy tay.
Nhất là mấy cô thiếu nữ.
Nguyễn Anh còn sững sờ khi giúp đỡ một người khác mà không bao giờ nhận được tiếng thanh kiu, thanh kiếc gì hết.
Hầu như tiếng cám ơn là một điều xa xỉ với họ.
Về môn giải trí xem đá banh thì thực sự Nguyễn Anh đến ngỡ ngàng không hiểu được. Đá thì các đội có lúc được có lúc thua.
Thua được đó là chuyện bình thường.
Thanh niên, thiếu nữ bỏ ăn, bỏ làm.Ngay truyện chăn gối cũn tạm hoãn lại.
Họ sẵn sàng thức trắng đêm để xem các trận đấu. Họ la lối, tức tối, cởi phanh áo ngực, chửi thề như thể họ mới là cầu thủ.
Phần các cô thiếu nữ có những lối bày tỏ đến ngỡ ngàng đến không ở đâu trên thế giới này có cảnh tượng như vậy. Có thiếu nữ còn đứng trên yên xe, cởi chuồng trơ chẽn la hét mà không biết ngượng.
Quả thực, tuy là người Việt Nam, nhưng anh Nguyễn Anh lại không hiểu gì về người mình.
Chưa kể những thiếu nữ miền Bắc, xinh đẹp dễ sợ, sexy dễ sợ, ăn mặc thiếu vải không che đậy, hấp dẫn con mắt không chịu được.
Vậy mà mở cái mồm xinh đẹp ra là địt cha, địt mẹ, liếm nọ liếm kia như chỗ không người.
Thanh niên thì ngồi ăn nhậu tối ngày, đụng một tý là rút dao ra đâm chém chỉ vì một câu nói khích và coi mạng người như cỏ rác với một thứ luật rừng..
Phần người viết bài này tự hỏi :
Phải nhìn nhận ở Việt Nam có nhiều điều không hiểu được.
Không biết cái tương lai bảng chỉ đường đất nước chỉ về đâu hay vẫn có thể chỉ trật đường?
Và tôi có cảm tưởng, họ, tất cả không trừ đang chơi một canh bạc giả mà Hà Nội là tay chủ sòng.
CANH TÂN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
“Rượu mới phải đổ vào bầu da mới!”.
“Quan niệm sai lầm về sự toàn vẹn và thánh thiện của Giáo Hội nằm ở chỗ, bạn có thể ‘cộng thêm’ Chúa Kitô vào cuộc sống mà không cần phải ‘trừ bớt’ tội lỗi. Đó là thay đổi niềm tin mà không cần thay đổi hành vi; phục hưng mà không cần cải cách; trở lại mà không cần ăn năn! Điều quan trọng là cần thắp lên một ngọn đuốc sám hối, và mỗi người cho phép mình có một trải nghiệm mới, trải nghiệm canh tân!” – Patrick Morley.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cho phép mình có một trải nghiệm mới, trải nghiệm biến đổi của ân sủng – đó là một hành trình không ngừng ‘canh tân!’.
Trong Chúa Kitô, Phaolô mời gọi chúng ta chiêm ngắm tình yêu vô bờ của Thiên Chúa, “Trong Người, muôn vật được tạo thành!”; “Nhờ Người”, muôn vật được đổi mới – bài đọc một. Trong bài Tin Mừng, các kinh sư và biệt phái đặt vấn đề với Chúa Giêsu, “Môn đệ ông Gioan năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người Pharisêu cũng thế, còn môn đệ ông thì ăn với uống?”. Đây là một lời kết án ‘khéo nguỵ trang!’. Đáp lại, Ngài kể cho họ dụ ngôn áo mới, vải cũ; bình cũ, rượu mới. Ngài muốn nói, hãy có một tầm nhìn mới, ‘tầm nhìn xót thương’, đó là sự ‘canh tân’ của con tim. “Nếu không có sự đổi mới từ trái tim, mọi cuộc cải cách đều chỉ là lớp phấn son bên ngoài!” – Henri Nouwen.
Với giới kinh sư biệt phái, “rượu mới” chính là tin nhận Chúa Giêsu, Đấng Chúa Cha sai đến; với chúng ta là trở nên tạo vật mới trong Ngài nhờ phép Rửa và ân sủng các Bí tích tuôn trào từ thập giá. Nhờ đó, chúng ta trở nên mạnh mẽ và hoan lạc trong Thánh Thần mà Ngài luôn ân ban. Thánh Vịnh đáp ca mời gọi, “Hãy vào trước thánh nhan Chúa giữa tiếng hò reo!”; nhưng các điều ấy xảy ra làm sao nếu chúng ta cứ ‘cộng thêm’ Chúa vào cuộc sống, mà không cần ‘trừ bớt’ tội lỗi? “Chúa Kitô không chỉ muốn làm sạch bạn, Ngài muốn biến đổi – ‘canh tân’ bạn. Ngài không đến để sửa một mái nhà dột, nhưng đến để xây một lâu đài mới, nơi Ngài có thể ngự trị!” – C.S. Lewis.
Anh Chị em,
“Rượu mới phải đổ vào bầu da mới!”. Lời Chúa mời gọi chúng ta đón nhận “rượu mới” bằng cách sẵn sàng từ bỏ con người cũ tội lỗi để trở nên một con người mới thánh khiết. Nhưng “Đi đôi giày cũ vẫn dễ chịu hơn!”, việc đổi thay có thể rất khó khăn; vì lẽ, đổi mới bao hàm cắt tỉa, bỏ mình và chết đi. “Mọi cuộc canh tân đều đòi cái chết của con người cũ, để con người mới có thể trỗi dậy!” – Thomas Merton. Đó là một hành trình hoán cải, từ niềm tin đến hành vi; từ lối sống đến cách nhìn vốn phải luôn kèm theo một lòng sám hối chân thành. Chúng ta dễ tự mãn và hài lòng với cuộc sống; vậy mà điều đó sẽ cản trở rượu mới ân sủng của Chúa Kitô những muốn đổ lai láng vào linh hồn mỗi người. Ước gì bạn và tôi biết rằng, một sự ‘canh tân’ bên trong ngày càng sâu sắc hơn sẽ là dấu của vầng hồng phục sinh đang lấp ló ở cuối chân trời!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, thêm Ngài thì dễ, bớt tội thì khó; cho con – mỗi ngày – can đảm trừ bớt tội lỗi, cộng thêm ân sủng và nhân lên niềm vui!”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
********************************************************
Lời Chúa Thứ Sáu Tuần XXII Thường Niên, Năm Lẻ
Sẽ có ngày chàng rể bị đem đi ; ngày đó, khách dự tiệc mới ăn chay.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 5,33-39
33 Khi ấy, các người Pha-ri-sêu và các kinh sư nói với Đức Giê-su rằng : “Môn đệ ông Gio-an năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người Pha-ri-sêu cũng thế, còn môn đệ ông thì ăn với uống !” 34 Đức Giê-su trả lời : “Chẳng lẽ các ông lại có thể bắt khách dự tiệc cưới ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ ? 35 Sẽ có ngày chàng rể bị đem đi ; ngày đó, họ mới ăn chay.”
36 Đức Giê-su còn kể cho họ nghe dụ ngôn này : “Chẳng ai xé áo mới lấy vải vá áo cũ, vì như vậy, không những họ xé áo mới, mà miếng vải áo mới cũng không ăn với áo cũ.
37 “Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu mới sẽ làm nứt bầu, sẽ chảy ra và bầu cũng hư. 38 Nhưng rượu mới thì phải đổ vào bầu mới. 39 Cũng không ai uống rượu cũ mà còn thèm rượu mới. Vì người ta nói : ‘Rượu cũ ngon hơn’.”
Thư gửi cho chính mình khi về già
Vanhoa Nguyen – Chuyện tuổi Xế Chiều
Thư gửi cho chính mình khi về già
Con à, khi con già đi…
Đừng cố dạy ai điều gì. Dù con có đúng, hãy nhớ lại, ngày xưa chính con cũng khó chịu thế nào khi người lớn tuổi luôn cho rằng họ biết hết.
Đừng ép buộc ai, cũng đừng cố bảo vệ hết thảy những người thân khỏi mọi nỗi khổ của cuộc đời. Chỉ cần yêu họ thôi là đủ.
Đừng suốt ngày than phiền về bệnh tật, về hàng xóm, về chính quyền hay về lương hưu. Đừng biến mình thành một bà cụ cáu kỉnh.
Đừng mong chờ con cái phải biết ơn. Hãy nhớ: không có con cái nào vô ơn cả – chỉ có những bậc cha mẹ dại khờ, đặt quá nhiều kỳ vọng vào lòng biết ơn.
Đừng bao giờ nói những câu khó nghe như:
“Ngày xưa mẹ bằng tuổi con thì…”,
“Cả tuổi thanh xuân mẹ đã hy sinh cho con…”,
“Mẹ lớn tuổi hơn nên mẹ biết nhiều hơn…”.
Những lời ấy chẳng giúp gì, chỉ khiến người nghe thêm nặng lòng.
Nếu có cháu, hãy để chúng gọi con bằng bất cứ cái tên nào chúng thích. Điều quan trọng không phải là cách gọi, mà là tình cảm chúng dành cho con.
Đừng lãng phí tiền vào những liệu pháp “cải lão hoàn đồng”. Vô ích thôi. Hãy dành số tiền ấy cho một chuyến đi, một trải nghiệm vui, một kỷ niệm đẹp.
Đừng soi gương trong bóng tối để tự lừa dối mình. Hãy nhìn thẳng vào tuổi tác, và cố gắng giữ cho mình nét thanh lịch, sang trọng. Không cần trẻ lại, chỉ cần đẹp trong sự chín muồi.
Hãy chăm sóc chồng con, ngay cả khi ông ấy đã trở thành một ông già gầy yếu, khó tính. Đừng quên rằng, đã có lúc ông ấy trẻ trung, mạnh mẽ, vui tươi… Và có thể chính lúc này, ông ấy mới thật sự cần con nhất.
Đừng cố chạy theo thời đại: con không cần phải rành công nghệ mới, không cần ép mình theo dõi mọi tin tức, không cần học thêm mọi thứ chỉ để “không tụt hậu”. Hãy làm những gì khiến con vui, thế là đủ.
Đừng tự trách mình vì những gì đã qua – trong đời con hay trong đời con cái. Con đã làm hết sức rồi.
Và trên hết, hãy giữ phẩm giá của mình, trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Cho đến giây phút cuối cùng.
Cuối cùng, xin nhớ: nếu con còn sống, nghĩa là vẫn có ai đó cần đến con.
Tác giả vô danh – nhưng như viết cho tất cả chúng ta.
Sưu tầm