SAO CÁC ĐẠI GIA LẠI ĐI TU?

Xuyên Sơn

Ngày nghỉ, cafe sáng với vợ. Thị khen chồng pha cafe ngon.

Tôi bảo, khỏi khen, vì sáng chủ nhật nào anh chẳng pha cafe cho em.

Bỗng thị hỏi:

– Anh ơi, sao các đại gia lại đi tu?

Đại gia Trung Nguyên Đặng Lê Nguyên Vũ,

đại gia AVG Phạm Nhật Vũ,

rồi lại đại gia Tôn Hoa Sen Lê Phước Vũ nữa…

Nghe toàn tên Vũ.

Tôi nói:

– Mấy con gà ấy ăn chơi đến rụng hết lông thì thành anh trọc chứ có gì phải ngạc nhiên?

Mà đâu chỉ đại gia.

Các đại quan bốc hốt đã đời rồi cũng theo gót quy y để thành tín đồ của các đại gia đấy thôi.

Cafe làm cho vợ tỉnh táo hẳn ra. Nhưng thị vẫn thắc mắc:

– Đất nước mình 95 triệu dân thì đã có 90 triệu người mê tín.

Lẽ ra mê tín thì người ta rất sợ thánh thần lẫn ma quỷ để mà lo hướng thiện. Nhưng mà sao ai ai cũng thi nhau làm việc ác, ác từ việc lớn đến việc nhỏ. Quan thì cấu kết với đại gia bốc hốt của dân, trí thức thì lưu manh cơ hội, còn dân thì bất tuân pháp luật,

việc ác gì cũng làm được. Là sao?

Tôi ngậm cafe, chỉ còn nghe hương vị đắng chát:

– Là bởi triết lý của tôn giáo Việt Nam đã thay đổi hoàn toàn. Không trực ngôn, nhưng cách làm của nhà chùa hiện nay là khuyến khích mọi người thi nhau làm việc ác.

Cứ làm việc ác đi rồi mang tiền vào chùa cúng giải vong, giải nghiệp là xong.

Cho nên nhà chùa hiện nay là kho lưu trữ tiền, vàng nhiều hơn cả ngân hàng nhà nước.

Lần đầu tiên tôi thấy trán vợ hằn lên những nếp nhăn, ra chiều suy tư lắm. Thị nốc cạn cả ly cafe và nói:

– Nhưng em thấy có giải vong,

giải nghiệp được đâu?

Kết quả là từ đại gia đến đại quan đều lần lượt vào lò mổ.

Còn đám dân đen thì vẫn đau ốm, bệnh tật và nghèo hèn.

Nhưng lạ là không thấy họ tỉnh ra?

Tôi cười:

– Thế mới gọi là mê tín.

Không ngẫu nhiên mà chùa ngày nay toàn dung nạp những quan tham, những đại gia ăn bẩn, những bọn đầu trộm đuôi cướp.

Bây giờ anh thấy ai siêng đi chùa đều nghi họ có âm mưu thủ đoạn gì đó.

Tôn giáo thành nơi cứu rỗi của cái ác. Điều này chưa có nhà nghiên cứu tôn giáo nào nghĩ ra nhưng công trình thì khoe đủ loại như là hiểu tận gốc về tôn giáo vậy!

Nguồn fb Chu Mộng Long


 

TUỔI GIÀ – MỘT KIẾP NGƯỜI LẶNG LẼ MÀ SÂU XA

Tu Le

Bài viết hay quá các bạn ơi . Nên đọc từ từ, chậm rãi và suy nghĩ xem có đúng không? Phụng

TUỔI GIÀ – MỘT KIẾP NGƯỜI LẶNG LẼ MÀ SÂU XA

Tuổi già là đoạn đường mà ai rồi cũng sẽ đến, nếu may mắn được sống đủ lâu. Có người đến đó trong an yên, có người đến trong cô độc. Có người hạnh phúc nhìn lại đoạn đời đã qua, có người lặng lẽ ôm những ân hận không thể sửa. Nhưng dầu là ai, ở tuổi già, ai cũng cần một điều – ấy là được sống như chính mình.

Cả một đời người, ta đã quen sống vì người khác. Hồi trẻ, cha mẹ lo cho con, rồi đến lúc làm cha mẹ, ta lại sống vì con cái. Mỗi ngày là một guồng quay – cơm áo, gạo tiền, trách nhiệm, bổn phận, hy sinh. Ta cặm cụi gây dựng cuộc sống cho gia đình, cho người thân, cho con cái có chỗ đứng trong đời. Có lúc vội đến nỗi chẳng kịp ngẩng đầu nhìn trời. Có khi mệt đến nỗi không biết mình đang buồn hay đang sống. Có những người suốt bốn, năm chục năm không có một ngày thật sự cho bản thân. Vui ít, lo nhiều. Lặng lẽ chịu đựng, nhẫn nại gồng gánh. Đến lúc nhìn lại, hóa ra bản thân là người ta bỏ quên nhiều nhất.

Vậy mà đến khi bước vào tuổi xế chiều, nhiều người lại mang tâm thế… chờ đợi. Chờ ngày con cái thành đạt, chờ cuộc sống ổn định, chờ lúc nhắm mắt. Có người già rồi mà tâm chưa chịu nghỉ. Cứ đau đáu chuyện con dâu, chuyện cháu học hành, chuyện nhà cửa sau này để ai, chuyện xóm làng dâu bể. Tâm cứ bận, lòng chẳng an. Ngồi giữa căn nhà đã dựng lên cả đời, vậy mà thấy mình như kẻ qua đường.

Tuổi già không phải là giai đoạn chờ chết. Mà là một mùa sống khác – chậm hơn, sâu hơn, nhẹ hơn, nhưng không kém phần đẹp đẽ. Nó giống như mùa thu – không rực rỡ như mùa xuân, không sôi nổi như mùa hạ – nhưng đằm thắm, dịu dàng, và đủ đầy.

Sống sâu – là học cách lắng nghe mình lần nữa. Là nhắm mắt lại mà vẫn thấy ấm lòng vì tiếng gió qua vườn, tiếng chổi quét lá mỗi sáng, tiếng cháu gọi ông bà ríu rít ngoài sân. Là một tách trà vừa đủ nóng, một ánh chiều vàng rơi nghiêng nơi hiên nhà. Là đọc lại quyển sách cũ từng gối đầu giường, ngắm lại ảnh cưới đã vàng màu năm tháng. Là nhớ về người xưa không còn với mình, mà lòng không buồn – chỉ thấy biết ơn.

Sống sâu – cũng là học cách tha thứ. Tha thứ cho người, và cho chính mình. Tha thứ cho những va vấp không sửa kịp, những sai lầm chưa kịp xin lỗi. Tha thứ cho quá khứ, để tương lai còn có thể nhẹ bước. Khi ta không còn nhiều thời gian như trước, lòng nhẹ mới là món quà quý nhất ta có thể tự tặng mình.

Sống nhẹ – là biết mình không cần chứng minh nữa. Không cần gồng mình để được công nhận. Không cần so sánh mình với người bên cạnh. Không cần gánh lấy vai trò đạo đức hay mẫu mực gì nữa. Bởi lẽ, sống một đời tử tế đã là đủ. Còn lại là học cách thảnh thơi, học cách im lặng đúng lúc, học cách mỉm cười khi không cần nói gì.

Tuổi già là lúc sống ít lời mà nhiều nghĩa. Là khi ánh mắt nhìn đời đã dịu lại, không còn sắc bén, không còn đòi hỏi. Là khi người ta có thể buông tay, nhưng không buông bỏ lòng nhân hậu. Là khi có thể im lặng, nhưng lòng vẫn đầy yêu thương. Là khi không còn tranh cãi hơn thua, mà chỉ muốn mỗi ngày còn được ăn một bữa cơm ngon, ngồi giữa tiếng cười con cháu, và ngủ một giấc bình yên.

Có nhiều người sợ tuổi già. Sợ bệnh tật, sợ cô đơn, sợ bị lãng quên. Nhưng nếu biết sống đúng, tuổi già không đáng sợ. Nó là phần thưởng cho người đã đi hết những năm tháng nhọc nhằn. Là cơ hội để sống lần nữa – nhưng lần này là cho mình. Không cần thành đạt, chỉ cần thảnh thơi. Không cần được ca ngợi, chỉ cần được sống thật với lòng mình.

Một mái nhà đơn sơ, một cái ghế mây kê ở ban công, một khóm hoa nhỏ trước hiên, vài người bạn tri kỷ, vài quyển sách cũ, một ấm trà nóng – thế là đủ. Hạnh phúc tuổi già không ở chỗ có bao nhiêu tiền trong sổ tiết kiệm, mà ở chỗ có bao nhiêu bình an trong tâm hồn.

Vậy nên, đừng chờ đợi điều gì nữa. Mỗi ngày còn tỉnh táo, còn có thể bước ra vườn hít một hơi thật sâu – là một món quà. Còn thấy được ánh sáng, còn nghe được tiếng chim – là còn có lý do để sống.

Tuổi già, nếu biết nhìn bằng đôi mắt yêu thương, sẽ không là đoạn kết. Mà là một mùa chín rộ, ngọt ngào, lặng lẽ – như trái cây cuối mùa, thơm bền và sâu vị. Một đời người nếu đã sống trọn, thì những năm tháng cuối cùng không phải là để sợ hãi, mà là để tri ân. Tri ân cuộc đời. Tri ân những người đã đi cùng ta. Và tri ân chính mình – đã đi qua bao bão giông, vẫn còn ngồi đây, còn thở, còn biết ơn.

Tuổi già không phải là chờ chết.

Mà là sống – một cách đầy đủ và trọn vẹn nhất.

_____

#gotacoffee

#ngườiviếtgiữahaimiền


 

Thánh Maria Magdalen (thế kỷ thứ 1)- Cha Vương

Hôm nay 22/07 Giáo Hội mừng kính Thánh Maria Magdalen (thế kỷ thứ 1). Mừng Bổn mạng đến những ai chọn thánh Nữ làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 3: 22/7/2025

Ngày trước, người ta lẫn lộn giữa Maria Magdalen với ba người phụ nữ được Phúc Âm nói đến là:

– Người đàn bà tội lỗi vô danh đã đến đổ thuốc thơm trên chân Chúa và lấy tóc lau (Lc 7,37-50)

– Maria ở Bethania, em của Mattha và Lazarius. Cô cũng đã xức thuốc thơm nơi chân Chúa và lấy tóc lau (Gio 11,1;12,3)

– Maria ở Magdala (Magdala là một làng nhỏ bên bờ hồ Tiberiade) người được Chúa Giêsu đuổi trừ bảy quỷ (Lc 8,2) và đã có mặt dưới chân Thánh Giá khi Chúa chết cùng với Mẹ Maria và Gioan. Cô dự vào việc mai táng Chúa, trở ra mộ Chúa hai hôm sau để xức xác, nhìn thấy ngôi mộ trống. Maria là người đầu tiên nhìn thấy Chúa sống lại và đi báo tin cho các tông đồ. Thì chỉ Maria Magdalen này được ghi trong niên lịch Phụng Vụ sau vụ cải tổ lịch Phụng Vụ Roma mới. 

    Cũng do sự nhầm lẫn lâu đời giữa ba nhân vật nên Maria Magdalen mới được coi như là quan thầy những phụ nữ hoàn lương, những người bán nước hoa và buôn găng tay.

    Cũng do sự nhầm lẫn lâu ấy mà có những tương truyền khác nhau như việc Maria Magdalen đã đến xứ Gaules (có từ thế kỷ thứ XI) người ta kính thánh tích của bà ở Vezelay, trên con đường hành hương đến Compostelle; cũng tại Provence, từ thế kỷ thứ XIII có những cuộc hành hương lôi cuốn nhiều người đến Sainte Marie de la Mere, nơi mà người ta cho rằng Maria Magdalen đã đổ bộ với em là Lazarius cùng nhiều phụ nữ khác, có cả người tớ gái là Sarah, quan thầy của những người phiêu bạt Gitans. Cũng như tại Saint Baume nơi có bọng đá mà người đã ở qua và tại Saint Maximin có phần mộ của người. 

    Tại Đông Phương, tương truyền rằng Maria Magdalen chết và được chôn ở Êphêsô. Năm 899, hoàng đế Leon VI đã chuyển thánh tích của người hay là được coi như vậy, về một tu viện ở Constantinople. Từ Đông phương, việc sùng kính đến Tây phương từ thế kỷ thứ X.

    Vậy chúng ta chỉ biết về những gì Phúc Âm nói đến về vị thánh nữ đặc biệt ấy và ngày nay hình như chỉ có Maria Magdalen này mới có tên trong lịch Phụng Vụ mới.  (Nguồn: Người Tín Hữu, hạnh các Thánh)

    Đức Giáo hoàng Benedict XVI nói: “Câu chuyện của Maria thành Mácđala nhắc nhở tất cả chúng ta một sự thật hiện hữu”… “Thánh nữ là một trong những môn đệ của Chúa Kitô, trong kinh nghiệm yếu đuối của con người, ngài đã khiêm nhường cầu xin Chúa thương xót, và đã được Chúa tha thứ, để rồi tiếp tục đi theo Chúa mà trở thành một nhân chứng về điều này: tình thương xót của Chúa mạnh hơn tội lỗi và sự chết”.

Hôm nay Bạn hãy xin cho được ơn hoán cải nhé. Xin thánh Maria Magdalen, cầu cho chúng con.

From Do Dzung

****************************

Trở Về Với Cha – Phan Hùng – Thế Thông – Nguyễn Hồng Ân – Ca Đoàn Sao Mai

MARIA MAĐALÊNA, BÀ LÀ AI? – Mary Ann Getty

Mary Ann Getty

Maria Mađalêna có một ảnh hưởng bền bỉ lâu dài, gợi hứng cho nhiều nghệ sĩ, tội nhân lẫn các thánh và cả những môn đệ của Đức Kitô qua nhiều thời đại.  Tiếng tăm này không thể dễ dàng giải thích dựa vào các thông tin về bà trong Kinh Thánh.  Điều Tân Ước nói về bà thật ít ỏi và gây thất vọng, đơn giản chỉ gọi bà là Maria Mađalêna hay Maria thành Magđala, nhưng có một chi tiết nhỏ thật có ý nghĩa và thách đố.  Cả bốn Tin Mừng đều khẳng định bà là môn đệ gương mẫu cho mọi thời đại.

Có điều gì đó bí ẩn và hấp dẫn về người phụ nữ này trong các Tin Mừng.  Một người phụ nữ mà tên riêng không đi kèm với tên một người đàn ông nào khác ngay trong Tân Ước thì đó là điều thật có ý nghĩa.  Khi xếp bà riêng ra thì hoặc bà là một nhân vật ngoại thường hoặc có vấn đề gì ở đây.  Có lẽ chính vì thế mà óc tưởng tượng bình dân đã “điền vào chỗ trống” và gán ghép bà với những phụ nữ khác trong Tân Ước, tạo nên một khối tù mù.  Trước khi xem các Tin Mừng nói gì thì chúng ta hãy xem thử những gì mà các Tin Mừng không hề nói.

 Bà không phải là ai

Thỉnh thoảng Maria Mađalêna bị đồng hóa cách sai lầm với người phụ nữ xức dầu thơm lên chân Chúa Giêsu.  Sự đồng hóa này lại càng thêm phức tạp bởi vì người ta thường nhầm lẫn câu chuyện xức dầu với một người phụ nữ tội lỗi, một cô điếm.  Và góp phần khiến vấn đề trở nên tệ hại hơn là hình ảnh của Maria Mađalêna và một người phụ nữ bị cáo buộc ngoại tình trong Tin Mừng Thánh Gioan lại nhập nhằng với nhau.

Trong câu chuyện Khổ Nạn, dầu mục đích sử dụng câu chuyện khác nhau, cả bốn Tin Mừng đều nói về một phụ nữ xức dầu thơm chân Chúa Giêsu (Mc 14, 3-9; Mt 26, 6-13), Thánh Marcô và Matthêu đưa trình thuật nói về một phụ nữ vô danh xức dầu cho Chúa Giêsu có ý nói về cuộc mai táng của Ngài.  Lúc ấy Chúa Giêsu đang ở nhà của ông Simon người phung hủi, ở Bêthania gần Giêrusalem.  Thánh Gioan cũng thuật lại câu chuyện xức dầu chân Chúa Giêsu không lâu trước cái chết của Ngài, xác định người phụ nữ là Maria thành Bêthania, bà làm thế để tỏ lòng biết ơn Chúa Giêsu đã làm cho em bà là Lazarô sống lại.  Maria là một tên gọi rất thông dụng và có lẽ chính vì thế mà hai bà tên Maria đã bị hòa lẫn vào nhau trong truyền thống Kitô giáo sau đó.

Thánh Luca kể về một phụ nữ vô danh đã xức dầu chân Chúa Giêsu khi Ngài đang ngồi bàn ăn trong khi đang thực hiện sứ vụ (Lc 7, 36-50) chứ không phải lúc cuối đời.  Lúc ấy Chúa Giêsu đang dùng bữa tối tại nhà ông Simon người Pharisiêu.  Có lẽ Maria Mađalêna đã bị nhầm lẫn với người phụ nữ này bởi vì Maria Mađalêna lần đầu tiên được gọi đích danh trong câu chuyện tiếp liền ngay sau trình thuật xức dầu của Thánh Luca (Lc 8, 2).  Góp phần để tạo thêm nhầm lẫn là người phụ nữ này đôi khi được miêu tả là người tội lỗi công khai (một cái tên thanh tao để gọi nghề làm điếm), người đã đổ nước mắt vì thống hối và hành động vì lòng hối hận.  Thế nhưng người phụ nữ xức dầu chân Chúa Giêsu là một phụ nữ vô danh trong Tin Mừng Thánh Luca, và nếu bà được ghi nhớ chỉ vì “tội lỗi” của mình hơn là tình yêu đưa dẫn đến hành động xức dầu chân Chúa, thì điều đó vừa trái với ý nghĩa của dụ ngôn mà Chúa Giêsu vừa mới nói đến trong dịp này lại vừa không phải là mục đích của Thánh Luca khi kể lại câu chuyện.

Vấn đề càng thêm phức tạp khi có một vài thủ bản Tin Mừng Thánh Gioan (7, 53 – 8, 11) nói về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình và gán ghép chị này với Maria Mađalêna.  Một truyền thống lâu đời trong văn chương và nghệ thuật Kitô giáo đã vẽ nên một Maria Mađalêna là người tội lỗi ăn năn, sau khi gặp được Chúa Giêsu thì bà đã trải hết phần đời còn lại để khóc than tội lỗi mình.  Thế nhưng các Tin Mừng không hề gán ghép Maria Mađalêna với người phụ nữ tội lỗi, hoặc tệ hơn nữa là một cô điếm.

Các Tin Mừng nói gì

Trong các Tin Mừng Matthêu, Marcô và Luca, bà được gọi là Maria Mađalêna hay “Maria Magđala” (xem Mt 27, 56.61; 28, 1; Mc 15, 40.47; 16, 1,9; Lc 8, 2; 24, 10).  Thánh Gioan gọi bà là “Maria thành Magđala”, một thành phố vô danh trong Kinh Thánh (xem Ga 19, 25; 20, 1.18).  Vài người cho rằng đó là thành phố Magađan (xem Mt 15, 39; Mc 8, 10), một thành phố nằm bên bờ Tây của Biển hồ Galilê, giữa Tiberia và Capharnaum.

Maria thành Magđala được ghép với một địa danh chứ không phải với tên của bất kỳ người đàn ông nào bên cạnh Chúa Giêsu.  Trong thế giới Tân Ước, người phụ nữ thường gắn liền với chồng, cha, con trai hoặc anh em của họ.  Như vậy, người phụ nữ vô danh đã theo Chúa Giêsu và hiện diện dưới thập giá đơn giản chỉ được gọi là “bà mẹ của các con trai ông Zêbêđê.”  Tên gọi Zêbêđê xuất hiện ở đây không phải vì ông hiện diện dưới chân thập giá cùng với vợ con ông, những người đã theo Chúa Giêsu từ Galilê cho đến Giêrusalem.  Song chính ông được nêu tên chứ không phải bà vợ đầy lòng tin của ông.

Maria thành Nazareth, Maria và Martha thành Bêthania được gắn liền với thành phố quê hương của họ nhưng đồng thời cũng được gắn liền với người đàn ông:  Maria với Giuse, Maria và Martha với Lazarô.  Còn Maria Mađalêna chính là môn đệ và tông đồ của Chúa Giêsu.  Không có hàng chữ nào nói lên vai trò này của bà trong Tân Ước.  Đúng ra, các Tin Mừng chỉ phác họa Chúa Giêsu là người thâu nhận “những người học việc” (“môn đệ”).  Sau thời gian học tập với vị Tôn Sư, các môn đệ này được “sai đi” (ý nghĩa của từ “tông đồ”) để rao giảng và hành động với thẩm quyền của Chúa Giêsu.  Từ các Tin Mừng, chúng ta biết rằng các môn đệ được kêu gọi. Chúa Giêsu dạy các môn đệ rằng họ phải làm nhân chứng, tiếp tục sứ mệnh mà Chúa Giêsu đã khởi đầu.  Các môn đệ được đòi hỏi phải theo Chúa Giêsu và kiên trì cho đến chết.  Họ đã tin và rao giảng sự phục sinh.

Ơn gọi của Maria

Có vài môn đệ được kêu gọi từ bỏ cuộc sống đang đà thuận lợi.  Thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan đã “bỏ mọi sự” mà theo Chúa Giêsu (Mc 1, 18).  Lêvi (hay Matthêu) là người thu thuế đã lập tức đứng dậy đi theo Chúa Giêsu (Mc 2, 13-14; Mt 9, 9).  Những người khác đã bỏ lại bệnh tật và khiếm khuyết của mình và “ơn gọi” của họ thật sự là một phép lạ đúng nghĩa.  Người mù gặp được Chúa Giêsu và được chữa lành.  Kể từ đấy ông đã “đi theo Người trên con đường người đi” (xem Mc 10, 52).  Tương tự như vậy, Maria Mađalêna sau khi được trừ “bảy quỷ,” đã đi theo Chúa Giêsu (xem Lc 8, 2; Mc 16, 9).  Thánh Luca kê tên bà trong số mấy phụ nữ được trừ quỷ và chữa lành bệnh tật đã đi theo Chúa Giêsu từ Galilê đến Giêrusalem, chăm sóc cho Ngài.

Các chứng nhân làm chứng cho điều họ thấy và nghe.  Các môn đệ được kêu gọi làm chứng cho Nước Trời đã đến trong lời nói và hành động của Chúa Giêsu.  Họ được trao ban nhiệm vụ (xem Mt 10; Lc 9 – 10) và được sai đi để làm điều Chúa Giêsu đã làm (Lc 10, 1.3.9).  Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải trở nên đất tốt để “khi nghe Lời Chúa với tấm lòng cao thượng và quảng đại, họ nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả” (Lc 8, 15).  Lời dạy này phù hợp với những miêu tả về Maria Mađalêna, sau khi được trừ quỷ, đã kiên trì và trung thành theo Chúa Giêsu cho đến khi Ngài chết trên thập giá, ngoài ra còn lấy nguồn lợi tức của riêng mình để chăm sóc cho Ngài và các môn đệ khác với tình chân thật và lòng quảng đại.

Theo Thánh Marcô, lời dạy cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ trước cuộc Khổ Nạn là “Hãy tỉnh thức!” (Mc 13, 36).  Họ đã chứng kiến sự đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu và cuối cùng là sự phục sinh của Ngài.  Thế nhưng các tác giả Tin Mừng nhìn nhận rằng các đấng môn đệ nam nhi đã không thể “tỉnh thức” với Chúa Giêsu dầu chỉ một thời gian ngắn ngủi trong Vườn Cây Dầu.  Vậy mà bà Maria Mađalêna và vài phụ nữ khác đã “tỉnh thức” để trông xem cuộc đóng đinh và rồi nán lại để “nhìn xem” xác Ngài được đặt ở đâu.  Thánh Matthêu nói rằng Maria Mađalêna và vài phụ nữ khác đã ra mộ từ sáng sớm ngày Phục Sinh để “trông chừng” ở đấy (xem Mt 27, 55-56.61; 28, 1.8-10).  Họ đã “xem thấy” ngôi mộ trống.  Cuối cùng, theo ba Tin Mừng Nhất Lãm, những phụ nữ này đã nghe sứ điệp phục sinh và về thuật lại cho những người khác.  Họ đã được “sai đi” làm sứ giả hay tông đồ cho các môn đệ khác.

Chứng nhân và sứ giả

Marcô đã xếp đặt bà Maria Mađalêna và những phụ nữ khác đứng dưới chân thập (Mc 15, 40-41).  Sử dụng Tin Mừng Marcô, Thánh Luca đã đặt ngay tâm điểm sứ vụ của Chúa Giêsu đoạn văn nói về những phụ nữ đi theo Ngài từ Galilê cho đến Giêrusalem để nói lên đức tin và sự kiên trì của họ (Lc 8, 1-3).  Còn theo Thánh Luca, tại Bữa Ăn Tối Cuối Cùng, Chúa Giêsu nhắc đến các môn đệ như là những người cùng đứng với Ngài trong cơn thử thách, “một lòng gắn bó với Thầy giữa lúc gian nan” (Lc 22, 28).  Maria Mađalêna chắc chắn là một trong số người đó.

Bất kỳ khi nào được nêu tên (ngoại trừ Ga 19, 25-27), Maria Mađalêna đứng đầu danh sách những phụ nữ đi theo và hầu hạ Chúa Giêsu.  Trong Tin Mừng Thánh Gioan, các phụ nữ này đã rời bỏ tuyến hậu phương để xuất hiện dưới chân thập giá.  Chỉ trong Tin Mừng Thánh Gioan thì nhóm phụ nữ này gồm có cả “thân mẫu Chúa Giêsu,” cùng với chị của thân mẫu Chúa Giêsu là bà Maria vợ ông Clopas, và Maria Magđala” (Ga 19, 25).  Được sự ttháp tùng của các phụ nữ này cũng như người Môn đệ Chúa yêu (theo chứng từ của Tin Mừng thứ tư), “thân mẫu Chúa Giêsu” đến sát cây thập giá đủ gần để nghe Chúa Giêsu trăn trối mình cho người môn đệ ấy chăm sóc.  Maria Mađalêna cũng đứng gần đấy, chứng kiến cái chết và lắng nghe Ngài như bà đã từng làm trong suốt cuộc đời mình.

Trái hẳn với các môn đệ nam nhi đã bỏ Chúa Giêsu mà chạy trốn, Maria Mađalêna cùng những người đồng hành phụ nữ không chỉ chứng kiến cái chết của Chúa Giêsu mà còn nán lại để đã xác minh nơi chôn cất.  Và các bà đã quay trở lại ngôi mộ để xức dầu thơm xác Ngài vào lúc sáng sớm sau ngày Sabbath.  Sau khi được Chúa Giêsu hiện ra, Tin Mừng Nhất Lãm nói rằng bà Maria Mađalêna đã đi và nói cho các môn đệ khác biết sự việc đã xảy ra thế nhưng họ không tin phụ nữ (Mc 16, 20; Lc 23, 49).  Dường như các môn đệ không tin vì họ xưa nay vốn chẳng tin chuyện phụ nữ.

Trong Tin Mừng Gioan, Maria Magđala đi ra mồ “từ lúc sáng sớm khi trời còn tối.”  Thấy tảng đá che cửa mồ đã lăn sang một bên, bà chạy đi báo cho Simon Phêrô và Người môn đệ Chúa yêu (Ga 20, 1-2).  Cả ba chạy trở lại ngôi mộ rồi các môn đệ trở về (Ga 20, 9).  Maria vẫn ở lại, khóc lóc (Ga 20, 11).  Cuối cùng, Chúa Giêsu hiện ra và nói chuyện với bà (20, 11-18).  Bà đã về và báo cho các môn đệ rằng: “Tôi đã thấy Chúa” và kể lại những gì Ngài nói với bà (Ga 20, 18).  Trong Tin Mừng Thánh Gioan, không thấy có ám chỉ nào nói rằng Phêrô và những môn đệ khác không tin Maria hoặc bà là một chứng nhân không đáng tin vì là phụ nữ.  Gioan chỉ nói rằng Phêrô và Môn đệ Chúa yêu đã chạy ra mộ để nhìn tận mắt, và người môn đệ Chúa yêu đã tin.  Gioan dường như bóng gió rằng Phêrô không tin ngay lập tức.  Maria Mađalên đã thấy chính Chúa Giêsu và lòng tin của bà được khẳng định trong nhiệm vụ được giao là nói cho những người khác biết về sự phục sinh của Chúa.

Vài kết luận

Các Tin Mừng đã phản ảnh một tranh luận trong xã hội ở thế kỷ đầu tiên về giá trị chứng từ của những người phụ nữ.  Sự chắc chắn và nhất quán của các Tin Mừng về tính đáng tin cậy của những phụ nữ và đặc biệt của Maria Mađalêna cho thấy rằng các cộng đoàn tín hữu của Chúa Giêsu đã có một nhãn quan mới về phụ nữ và chỗ đứng của họ trong một xã hội mới và trong Giáo Hội.  Một cách rất có ý nghĩa, các Tin Mừng đã ghi lại sự thất bại thảm hại của các đấng môn đệ nam nhi trong “giờ khắc” gay cấn nhất, rồi tiếp theo đó là họ đã không tin Maria Mađalêna cùng những phụ nữ khác đã vội vã chạy về loan tin Chúa Giêsu phục sinh cho họ.

Kinh Thánh thoát thai trong một nền văn hóa gia trưởng phụ quyền.  Trong nền văn hóa như vậy, người ta nói về phụ nữ không mấy tích cực. Để vượt qua bối cảnh này, cần phải thẳng thắn khi nói về các đấng môn đệ nam nhi cư xử như thế nào vào thời khắc cao điểm trong cuộc tự hiến của Đức Giêsu và giải thích vai trò cần thiết của các phụ nữ cũng trong thời điểm ấy. Trong suốt Tân Ước, đặc biệt là các Tin Mừng, hình ảnh tích cực của các phụ nữ vẫn còn là một tiếng nói muốn được giải thích và trả lại tính xác thực.

Maria Mađalêna đã bị đánh giá sai thậm chí bị khinh khi, qua nhiều thế kỷ chúng ta đã đánh mất hoặc bỏ qua vai trò của bà như là người tông đồ đầu tiên.  Mặc dầu các bình luận về bà vẫn còn dè dặt để chỉ nói điều ít nhất, cả bốn Tin Mừng đều đồng ý rằng bà Maria Mađalêna đã ở dưới chân thập giá, nơi ngôi mộ trống và là một trong những chứng nhân đầu tiên về sự phục sinh của Chúa Giêsu.  Bà đã trở thành người mà phụng vụ mùa Phục Sinh gọi là “Apostola Apostolorum” (Tông đồ của các Tông đồ).

  Mary Ann Getty

LM Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ

From: Langthangchieutim


 

“Dù xấu hay tốt ổng cũng là cha của mình”- Truyen ngan HAY

Chi NguyenNhững Câu Chuyện Thú Vị

 -Sáng nay một bệnh nhân nam 50 tuổi, làm ruộng đến khám bệnh xin thử mỗi đường huyết. Mình mới hỏi :

– Sao chú muốn thử đường huyết?

– Vì tôi sụt cân nhanh, người ta nói do bệnh tiểu đường.

– Đã bỏ công từ quê lên đây, sao chú không khám tổng quát luôn? Giả sử thử máu có kết quả bị đái tháo đường thì cũng phải xem chức năng gan, chức năng thận, và đánh giá biến chứng mới điều trị được chứ.

Mình vừa giải thích vừa nhìn bệnh nhân, và mình hiểu vẻ ngập ngừng đắn đo ấy, có lẽ bệnh nhân nghèo.

– Dạ, thử hết mấy thứ đó bao nhiêu bác sĩ?

– Bệnh viện công giá rẻ lắm. Chú đi thử đi.

Khi mình cầm kết quả phim phổi trên tay, tự nhiên mình nghẹn lời. Dù rằng mỗi ngày mình tiếp xúc với rất nhiều bệnh nhân với đủ loại bệnh tật khác nhau.

– Chú hút thuốc nhiều không?

– Cỡ 1 gói 1 ngày. Bữa nào buồn hút nhiều hơn.

– Chú uống rượu nhiều không?

– Mỗi ngày, nhưng chủ yếu vui chơi với anh em, người vài xị.

– Chú có vợ con gì không?

– Dạ, một vợ, 3 con. Nhưng nhà có vài công ruộng, nên tụi nó bỏ lên Bình Dương làm công nhân hết rồi.

– Cháu nghĩ chú nên qua khám bệnh viện Phạm Ngọc Thạch.

– Tôi bị lao hả bác sĩ.

– Cháu cũng hy vọng là lao. Nhưng ….

– Bác sĩ cứ nói đại đi. Tôi ở quê lên khám bệnh cực lắm.

– Cháu cũng nghĩ đây là khối u. Nhưng chú biết đó, có u lành u ác. Mà u ác bây giờ có thể trị được.

– Ý bác sĩ là ung thư phổi hả?

– Chưa chắc đâu. Phải làm thêm xét nghiệm, sinh thiết … mới có thể kết luận..

….Một khoãng im lặng kéo dài. Mình nhìn khuôn mặt bệnh nhân từ trắng bệch chuyển sang tím tái và khoãng 15 phút sau mới trở lại như bình thường.

– Ung thư phổi thì sống được bao lâu bác sĩ?

– Chưa chắc đây là ung thư. Nhưng nếu là ung thư thì có thể vài tháng, vài năm… Tuỳ vào cơ địa mỗi người, tuỳ vào đáp ứng điều trị.

– Tại sao lại là tôi chứ?

– Tại sao không là chú?

– Tại ….

….Lại một khoãng im lặng kéo dài. Mình không nỡ mời bệnh nhân kế tiếp dù sáng thứ hai rất đông.

– Tôi về bỏ thuốc lá và rượu có thể cứu vãn được không?

– Cháu nghĩ, bỏ được thì tốt. Nhưng bây giờ việc này không còn ý nghĩa nữa rồi.

Mình vẫn hay tự hỏi : Rượu bia và thuốc lá có điều gì hấp dẫn đến vậy, nhưng không có câu trả lời.

Lúc trước mình còn ngạc nhiên khi thấy Việt Nam là nước tiêu thụ rượu bia và thuốc lá lớn nhất thế giới, bây giờ thì mình không còn ngạc nhiên nữa. Vì đã hiểu một phần. “Vui cũng nhậu, buồn cũng nhậu, không vui không buồn cũng nhậu”, hình như rất đúng khi mô tả con người Việt Nam. Mỗi chiều tối đi làm về thấy quán nhậu nào cũng đông nghẹt khách. Hết chén chú rồi đến chén anh.

Rồi một ngày nào đó bệnh tật kéo đến. Có những bệnh có thể chữa lành, có những bệnh tiền mất rất nhiều nhưng không thể cứu vãn. Dù vẫn biết ung thư là “trời kêu ai nấy dạ”, nhưng mình không tin là mỗi ngày mình sống không tác động gì đến nó. Bạn thử nhìn xem, một người béo phì, ăn nhiều lười tập thể dục…làm sao mà không đủ thứ bệnh về chuyển hoá, một người suốt ngày hút thuốc uống rượu làm sao tránh khỏi ung thư phổi, xơ gan? May mắn lắm cơ địa người đó đặc biệt.

– Bây giờ tôi phải làm sao?

– Bây giờ cháu cho thuốc tiểu đường cho chú, còn bệnh phổi chú phải qua bên Phạm Ngọc Thạch, bên đó chuyên hơn.

– Bác sĩ có thể nói cho tôi biết, tôi có thể sống bao lâu nữa không để tôi thu xếp nhà cửa.

– Cháu nói thật, không dám chắc chắn về điều gì. Có những thứ hôm nay đúng, ngày mai lại sai. Có những thứ ngỡ là phước nhưng lại là hoạ. Điều quan trọng bây giờ không phải là chú sống bao lâu, mà sống có thật sự sâu hay chưa?

– Sống thật sâu?

– Đúng rồi. Chú còn rất nhiều thời gian để suy nghĩ về điều đó. Ví dụ như có bao giờ chú đến quỳ bên gối mẹ của chú và thì thầm lời cám ơn? Ví dụ như có bao giờ chú chở ba chú qua con đường làng nơi ngày xưa ba chú dẫn chú đi học? Ví dụ như có bao giờ chú cám ơn người vợ rất mực dịu hiền và chung thuỷ đã đi với chú gần ấy năm mà không một tiếng than van dù chú nát rượu và nghiện khói thuốc?

– Bác sĩ … Tôi … Tôi chưa từng nghĩ đến điều đó.

– Chú có bao giờ quan tâm đến những đứa con mình? Chú có nghĩ rằng một lời hỏi han của chú thôi đủ làm họ hạnh phúc?

– Ơ …

– Vậy đó, sống sâu là sống với những điều nhỏ bé đơn giản như thế đó. Cuộc sống vô thường và con người ai mà không có bệnh có tử. Sau giai đoạn choáng rồi, chú sẽ chấp nhận được thôi. Từ chấp nhận đến quay lại nhìn về chính mình gần trong gang tấc.

– Cám ơn bác sĩ.

—  —

– Chú ấy là gì của anh?

– Cha ruột.

– Anh có hay đưa chú đi khám bệnh không?

– Bận lắm bác sĩ ơi, với lại ở xa nhau.

– Anh có biết ba anh bị ung thư phổi?

– Dạ….

– Ông ấy hút thuốc nhiều lắm không?

– Chẳng những hút thuốc còn uống rượu. Mỗi khi say sỉn về là đập phá nhà cửa chửi bới vợ con…. Tôi nói thiệt từ nhỏ đến giờ ổng chưa dạy tôi bất cứ điều gì. Anh em tôi chẳng được đi học….

– Anh có hận chú không?

– Không.

– Sao không?

– Dạ, dù xấu hay tốt ổng cũng là cha mình mà bác sĩ. Đúng hay sai đâu có lỗi do ổng, tại ông bà hay môi trường sống nó thế..

..Mình bất ngờ trước cách trả lời của người con, khi mình mời bệnh nhân ra ngoài để gặp riêng. Anh ta làm công nhân, chắc chắn là ít học. Nhưng học chữ cho nhiều vào làm gì, bằng cấp tiến sĩ giáo sư làm chi mà không biết quan tâm yêu thương cha mẹ già, không biết sống sao cho có tình có nghĩa.

– Bệnh này điều trị tốn kém lắm. Về mua bảo hiểm gấp đi. Được đồng nào hay đồng đó.

– Dạ.

Nhìn hai cha con bước ra khỏi phòng khám mà lòng mình chùng xuống. Mình mong có phép lạ xảy ra, bởi một người con chí hiếu không bao giờ cuộc sống lại làm ngơ.

-“Dù xấu hay tốt ổng cũng là cha của mình”

Câu nói ấy theo đuổi mình tới tận giờ này!

Bài và ảnh sưu tầm


 

 Gom Góp Từ Ngữ Người Miền Nam Và Sài Gòn Xưa – Nguyễn Cao Trường

Kimtrong Lam

Nguyễn Cao Trường + (515 Từ Thông Dụng)

Bài này nhằm để ghi nhớ lại những từ mà ngày xưa người Sài Gòn/ Miền Nam hay dùng, như: Mèn ơi, Nghеn, Hén, Hеn, Tà Tà, Thềm ba, cà rịch cà tang, tàn tàn,…, và những câu thường dùng như: Kêu gì như kêu đò Thủ Thiêm, làm nư, cứng đầu cứng cổ, tháng mười mưa thúi đất, cái thằng trời đánh thánh đâm…

Xin nhờ bạn đọc commеnt thêm những từ nào còn nhớ để có thể góp nhặt ngỏ hầu lưu lại những tiếng gọi, câu nói thân thương của người Sài Gòn và miền Nam trước đây, е rằng một ngày nào đó nó sẽ mai một…

Giọng nói, sự pha trộn của ngôn ngữ miền Bắc di cư vào những năm 1950 hòa cùng ngôn ngữ Sài Gòn, miền Tây đã tạo nên thêm một phong cách, giai điệu mới… Và bài hát “cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ” của nhạc sĩ Phạm Duy phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên là hình ảnh cô gái chạy xе chậm rãi tỏ ra bất cần mấy anh chàng thеo sau năn nỉ làm quеn, không biết đã bao nhiêu lần làm bâng khuâng xao xuyến lòng người nghе. Nhất là cái giọng người Bắc khi vào Nam đã thay đổi nó nhẹ nhàng, ngang ngang như giọng miền Nam thì tiếng lóng miền Nam càng phát triển. Dễ nghе thấy, người Bắc nhập cư nói từ “Xạo kе” dễ hơn là nói “Ba xạo”, chính điều dó đã làm tăng thêm một số từ mới phù hợp với chất giọng hơn. chất giọng đó rất dễ nhận diện qua những Mc như Nam Lộc, Nguyễn Ngọc Ngạn mà các chúng đã từng nghе trên các vidеo chương trình ca nhạc, kể chuyện,…

Đặc biệt trong dịch thuật, nếu không am hiểu văn nói của Sài Gòn miền Nam, nếu dùng googlе dịch thì câu “qua biểu hổng qua qua qua đây cũng dzậy” (câu gốc: Hôm qua qua nói qua qua mà qua hỏng qua, hôm nay qua nói qua hỏng qua mà qua qua), googlе nó dịch ra như vầy: “through through through through this gaping еxprеssion too”. Ông Tây đọc hiểu được ý thì chịu chết… Hay như câu “giỏi dữ hôn” thì googlе dịch cũng ngất ngư con lạc đà…

Trong văn nói, người Miền Nam hay dùng điệp từ cùng nguyên âm, hay phụ âm, hoặc dùng hình tượng một con vật đễ tăng cấp độ nhấn mạnh: như bá láp bá xàm, cà chớn cà cháo, sai bét bèng bеng (từ bèng bеng không có nghĩa),… sai đứt đuôi con nòng nọc,… chắc là phải cả pho sách mới ghi lại hết…

Ai người miền Nam thì cũng hiểu câu này: “thôi tao chạy trước tụi bây ở lại chơi vui hén” , ở đây chạy cũng có nghĩa là đi về, chứ không phải là động từ “chạy = to run” như tiếng Anh.

Hay và lạ hơn, cách dùng những tựa hay lời bài hát để thành một câu nói thông dụng có lẽ phong cách này trên thế giới cũng là một dạng hiếm, riêng Miền Nam thì nhiều vô kể. Thí dụ: Khi nghе ai nói chuyện lặp đi lặp lại mà không chán thì người nghе ca một đoạn: “Nhắc chi chuyện cũ thêm đau lòng lắm người ơi!”, hoặc khi sắp chia tay thì lại hỏi: “Đêm nay ai đưa еm về!”. Người ngoại quốc ai không biết cứ tưởng là người đó đang ca chứ hổng phải đang hỏi mình, như khi nghе ai nói chuyện mà chuyện này ai cũng biết rồi thì lại nói: “Xưa rồi Diễm…” với cái giọng mà âm “…i…ễ…m…” kéo dài tha thướt.

Tuy nhiên, do những từ này được trình bày bằng chữ nghĩa nên cách xài nhấn âm, lên giọng của người Miền Nam không thể biểu lộ hết cái hay của nó, ví dụ như riêng câu: “thằng cha mầy, làm gì mà mồ hôi đổ ướt hết áo dzậy?”. cụm từ “thằng cha mầy” kéo dài hơi lại có nghĩa là gọi yêu thương chứ không phải la mắng, tương tự khi mấy cô gái nguýt (nói): “Xí! Hổng chịu đâu”, ”Xí! cha già dịch nè!”, ”Sức mấy!”, “Ông nói gì tui ưa hổng nổi nha!”, “cha già khó ưa! ” với cách nhấn giọng thì nghе rất dễ thương và dịu dàng nhưng khó gần lắm à nghеn. Nhưng đến khi nghе câu: ”Tui nói lần cuối, tui hổng giỡn chơi với Ông nữa đâu đó nghеn!” thì coi chừng… liệu hồn đó.

Thật ra không phải người Sài Gòn ai cũng xài hết mấy từ này, chỉ có người bình dân mới dám xài từ như “Mả cha, Tổ mẹ” để kèm thеo câu nói mà thôi. Dân nhà trí thức ít ai được ba má cho nói, nói ra là vả miệng không kịp ngáp luôn, giáo dục ngày xưa trong gia đình rất là khó, nhất là mấy người làm bên nghề giáo dạy con càng khó dữ nữa.

Ra đường nghе mấy đứa con nít nói “DM” thậm chí còn không hiểu nó nói gì, về nhà hỏi lại chữ đó là gì, chưa gì đã bị cấm tiệt không được bắt chước, lúc đó chỉ nghе Ba Má trả lời: “Đó là nói bậy không được bắt chước đó nghеn!” chưa kể tới chuyện người lớn đang ngồi nói chuyện mà chạy vô xầm xập hỏi thì cũng bị la rầy liền: “chỗ người lớn nói chuyện không được chеn vô nhớ chưa?”

Đến năm 1980 thì giáo dục cũng khác hẳn ngôn ngữ bắt đầu đảo lộn ở cấp tiểu học… tiếng Sài Gòn dần dần bị thay đổi, đến nay trên các chương trình Gamе Show chỉ còn nghе giọng miền Nam với câu nói: “Mời anh trả lời ạ”, “các bạn có thấy đúng không ạ”, ạ… ạ… ạ… cái gì cũng ạ… làm tui thấy lạ. Thêm nữa, bây giờ mà xеm phim Việt Nam thì hình như không còn dùng những từ ngữ này, khi kịch bản phim, hay tiểu thuyết đặt bối cảnh vào thời điểm xưa mà dùng ngôn ngữ hiện đại lồng vào, coi phim nghе thấy nó lạ lạ làm sao đâu á…

Tò tе tí tе chút, mong rằng các bạn khi đọc những từ này sẽ hồi tưởng lại âm hưởng của Sài Gòn một trời thương nhớ!

Trân trọng,

Nguyễn Cao Trường

Liệt kê một số từ ngữ của người miền Nam Và Sài Gòn xưa:

A-ma-tưa(ơ) = hổng chuyên nghiệp (gốc Pháp Amateur)

À nha = thường đi cuối câu mệnh lệnh dặn dò, ngăn cấm (không chơi nữa à nha)

Áng chừng, đâu chừng, hổng chừng, dễ chừng = dự đoán (từ đây qua kia áng chừng 500 thước – Đâu chừng thằng Sáu chiều nay nó dìa tới đó bây)

Anh em cột chèo

Áo ca-rô = áo kẻ ô (bắc)

Áo thun ba lá = Áo thun ba lổ, Áo May Ô (bắc) gốc Pháp maillot

Áp-phe = trúng mánh, vô mánh (chạy áp-phe vớt cú chót kiếm tiền!) gốc tiếng Pháp affair

Áp-phê = hiệu ứng, hiệu quả (billard: để hết áp-phê bên trái chúi đầu cơ xuống kéo nhẹ là nó qua liền hà)

Ăn coi nồi, ngồi coi hướng = Ăn trông nồi, ngồi trông hướng

Ăn cộc đi con = ăn nhiều dô (Gò Công)

Ăn hàng = ăn uống, đi ăn cái gì nhẹ như chè, chứ không phải ăn cơm trưa-chiều

Âm binh = Cô hồn, các đảng, phá phách (mấy thằng âm binh = mấy đứa nhỏ phá phách)

Bà chằn lửa = người dữ dằn (dữ như bà chằn)

Bá chấy, bá phát = quá xá – Ngon bá chấy bò chét chó! Là ngon quá trời đất luôn!

Ba ke, Ba xạo = xạo – sau này (1975) có thêm chữ ba đía rồi bớt dần thành đía ( đừng có đía= đừng có nói xạo)

Ba lăm = 35 = già dê (dê 35)

Ba lơn = tính hay đùa cợt, chòng ghẹo người khác nhưng không gây hại, hoặc có chủ đích hại người

Bá Láp Bá Xàm =Tầm xàm – Bá láp

Bà tám = nhiều chuyện (thôi đi bà tám = đừng có nhiều chuyện nữa, đừng nói nữa)

Ba Tăng = Bảo kê gốc Pháp Patent

Bang ra đường = chạy ra ngoài đường lộ mà không coi xe cộ, hoặc chạy ra đường đột ngột, hoặc chạy nghênh ngang ra đường

Bành ki = bự

Banh ta lông = như hết chuyện (gốc từ cái talon của vỏ xe)

Bảnh tỏn, Sáu bảnh= đẹp ra dáng (mặt đồ vô thấy bảnh tỏn ghê nha)

Banh xà lỏn

Bạt mạng = bất cần, không nghĩ tới hậu quả (ăn chơi bạt mạng)

Băng = nhà băng, ngân hàng gốc Pháp (banque)

Bặc co tay đôi = đánh nhau tay đôi

Bắt kế: là do PƠRKAI KUDA mà ra, Pơkai = Thắng vào xe, Kuda = Con ngựa

Bặm trợn = trông dữ tợn, dữ dằn

Bất thình lình = đột ngột, Bất tử

Bầy hầy = bê bối, ở dơ

Bẹo = chưng ra, Bệu (gốc từ cây Bẹo gắn trên ghe để bán hàng ở chợ nổi ngày xưa)

Bẹo gan = chọc cho ai nổi điên, ứa gan

Bề hội đồng = hiếp dâm tập thể

Bển = bên đó, bên ấy (tụi nó đang chờ con bên bển đó!)

Bí lù = không biết đường trả lời, không biết

Bí xị = buồn

Biết đâu nà, biết đâu nè, = biết đâu đấy

Biết sao hôn!

Biệt tung biệt tích, biệt tăm biệt tích, mất tích, mất tiêu, đâu mất = không có mặt, mất dấu

Biểu (ai biểu hổng chịu nghe tui mần chi! – lời trách nhẹ nhàng) = bảo, nhưng câu “ai biểu” thì lại có hàm ý người kia: “tự làm thì tự chịu”

Bình thủy = phích nước

Bình-dân = bình thường

Bít bùng

Bo bo xì = nghỉ chơi không quen nữa (động tác lấy tay đập đập vào miệng vừa nói của con nít)

Bỏ qua đi tám = cho qua mọi chuyện đừng quan tâm nữa (chỉ nói khi người đó nhỏ vai vế hơn mình)

Bỏ thí = bỏ

Bồ = gọi bạn thân thiết ( Ê chiều nay bồ rãnh tạt qua nhà chở tui đi luôn nghen)

Bồ đá = bị bạn gái bỏ

Bội phần, muôn phần = gấp nhiều lần

Bồn binh = Bùng binh, vòng xoay (nay)

Buồn xo, buồn hiu = rất buồn (làm gì mà coi cái mặt buồn xo dậy?)

Buộc = cột

Bữa = buổi/từ đó tới nay (ăn bữa cơm rồi về/bữa giờ đi đâu mà hổng thấy qua chơi?)

Cà chớn cà cháo = không ra gì

Cà chớn chống xâm lăng

Cà giựt = lăng xăng, lộn xộn

Cà kê dê ngỗng = dài dòng, nhiều chuyện

Cà lăm = nói lắp

Cà Na Xí Muội = chuyện không đâu vào đâu

Cà nghinh cà ngang = nghênh ngang

Cà nhõng = rãnh rỗi không việc gì để làm (đi cà nhõng tối ngày), có khi gọi là nhõng nhõng

Cà lơ phất phơ

Cà rem = kem

Cà rề, Cà rịt cà tang = chậm chạp

Cà rịch cà tàng

Cà rởn = giởn chơi cho vui, ngoài ra cũng có nghĩa như ba lơn

Cà tàng = bình thường, quê mùa,…

Cà tong cà teo = ốm, gầy yếu

Cà tưng cà tửng

Cái thằng trời đánh thánh đâm

Càm ràm = nói tùm lum không đâu vào đâu/nói nhây

Cạn tàu ráo máng; ăn cháo đá bát = vô ơn

Càng quấy = phá phách hư hỏng

Cạo đầu khô

Cảo = kéo, rít (cảo điếu thuốc gần tới đót)

Cảo Dược = làm cho thẳng

Có chi hông? = có chuyện gì không?

Coi = thử; liền vd: Nói nghe coi? Làm coi

Coi bộ ngon ăn, ngon ăn đó nghen = chuyện dễ ăn (không liên quan tới ngon dỡ – chuyện này làm coi bộ ngon ăn đó nghen!)

Coi được hông?

Còn ai trồng khoai đất này = chính là tôi, “tôi đây chớ ai”

Còn khuya = còn lâu ( uh! mày ngon nhào vô kiếm ăn, còn khuya tao mới sợ mày!)

Con ở = người ở, (nay Oshin từ tựa đề bộ phim của Nhật)

Cô hồn, các đảng

Công tử bột = nhìn có dáng vẻ thư sinh yếu đuối – Xem thêm

Cù lần, cù lần lữa = từ gốc từ con cù lần chậm chạp, lề mề, chỉ người quá chậm lụt trong ứng đối với chung quanh … (thằng này cù lần quá!)

Cua gái = tán gái

Cụng = chạm

Cuốc = chạy xe (tui mới làm một cuốc từ Hocmon dzia Saigon cũng được trăm hai bỏ túi!)

Cưng = cách gọi trìu mến (“Cưng” dân Trảng bàng nè! Trên cưng ”dẫn” ”sài” ”dậy” hà)

Cứng đầu cứng cổ

Chả = Cha đó

Chà bá, tổ chảng, chà bá lữa = to lớn, bự

Cha chả = gần như từ cảm thán “trời ơi! ” (Cha chả! hổm rày đi đâu biệt tích dzậy ông?)

Chàng hãng chê hê = banh chân ra ngồi (Con gái con đứa gì mà ngồi chàng hãng chê hê hà, khép chưn lại cái coi!)

Cháy túi = hết tiền

Chạy, Dọt, Chẩu = đôi khi cũng có nghĩa là đi về (thôi tụi bây ở chơi tao chạy (dọt) trước à!) Chẩu: 走 nguyên gốc âm lấy từ tiếng Quảng Đông

Chạy te te = chạy một nước – Con nhỏ vừa nghe Bà Hai kêu ra coi mắt thì nó xách đích chạy te te ra đằng sau trốn mất tiêu rồi

Chạy tẹt ga, đạp hết ga= kéo hết ga, hết sức – cũng có nghĩa là chơi thoải mái – “mày cứ chơi “tẹt ga” (mát trời ông địa) đi, đừng có sợ gì hết, có gì tao lo” (ga = tay ga của xe)

Chạy u đi

Chạy vắt giò lên cổ, Chạy sút quần, Chạy đứng tóc = chại không kịp thở

Chằn ăn trăn quấn = dữ dằn

Chăm bẳm = tập trung (dòm cái gì mà dòm chi chăm bẳm vậy?)

Chậm lụt = chậm chạp, khờ

Chận họng = không cho người khác nói hết lời

Chém vè (dè)= trốn trốn cuộc hẹn trước

Chén = bát

Chèn đét ơi, mèn đét ơi, chèn ơi, Mèn ơi = ngạc nhiên

Chèo queo = một mình (làm gì buồn nằm chèo queo một mình dậy?)

Chết cha mày chưa! có chiện gì dậy? = một cách hỏi thăm xem ai đó có bị chuyện gì làm rắc rối không

Chì = giỏi (anh ấy học “chì” lắm đó)

Chiên = rán

Chình ình, chần dần = ngay trước mặt (Nghe tiếng gọi thằng Tư quay đầu qua thì đã thấy tui chình ình trước mặt)

Chịu = thích, ưa, đồng ý (Hổng chịu đâu nha, nè! chịu thằng đó không tao gả luôn)

Chỏ mũi, chỏ mỏ= xía, xen vào chuyện người khác

Chói lọi = chói sáng

Chỏng mông = mệt bở hơi tai (làm chỏng mông luôn đây nè)

Chỗ làm, Sở làm = hãng xưỡng, cơ quan công tác

Chột dạ = nghe ai nói trúng cái gì mình muốn dấu

Chơi chỏi = chơi trội, chơi qua mặt

Chùm hum = ngồi bó gối hoặc ngồi lâu một chỗ không nhúc nhích, không quan tâm đến ai (có gì buồn hay sao mà ngồi chùm hum một chỗ dậy?)

Chưn = chân

Chưng hững = ngạc nhiên

Chưng ra = trưng bày

Dạ, Ừa (ừa/ừ chỉ dùng khi nói với người ngang hàng) = Vâng, Ạ

Dạo này = thường/nhiều ngày trước đây đến nay (Dạo này hay đi trễ lắm nghen! /thường)

Dấm da dấm dẵng

Dân chơi cầu ba cẳng = dân giang hồ – cũng có nghĩa khác là chịu chơi nữa (nhìn mày giống dân chơi cầu ba cẳng quá)

Dây, không có dây dzô nó nghe chưa = không được dính dáng đến người đó

Dè chừng = coi chừng (Tui lỡ nói lớn chút ai dè nó nghe được, chứ thiệt tình tui đâu có muốn)

Dễ tào = dễ sợ

Dì ghẻ = mẹ kế

Dị hợm = quái dị, không giống ai

Dĩa = Đĩa

Diễn hành, Diễn Binh= diễu hành, diễu binh (chữ diễu bây giờ dùng không chính xác, thật ra là “diễn” mới đúng)

Diễu dỡ =????

Dọt lẹ

Dô diên (vô duyên) = không có duyên (Người đâu mà vô diên thúi vậy đó hà – chữ “thúi’ chỉ để tăng mức độ chứ không có nghĩa là hôi thúi)

Dù = Ô

Du ngoạn = tham quan

Dục (vụt) đi = vất bỏ đi (giọng miền nam đọc Vụt = Dục âm cờ ít đọc thành âm tờ, giống như chữ “buồn” giọng miền nam đọc thành “buồng”)

Dùng dằng = ương bướng

Dữ đa, Dữ hôn và …dữ …hôn…= rất (giỏi dữ hén cũng có nghĩa là khen tặng nhưng cũng có nghĩa là đang răn đe trách móc nhẹ nhàng tùy theo ngữ cảnh và cách diễn đạt của người nói ví dụ: “Dữ hôn! lâu quá mới chịu ghé qua nhà tui nhen”, nhưng “mày muốn làm dữ phải hôn” thì lại có ý răn đe nặng hơn ) Dữ đa thường dùng cuối câu ”cái này coi bộ khó kiếm dữ đa”

Dzìa, dề = về (thôi dzìa nghen- câu này cũng có thể là câu hỏi hoặc câu chào tùy ngữ điệu lên xuống người nói)

Dừa dừa (vừa) thôi nhen = đừng làm quá

Đá cá lăn dưa = lưu manh

Đa đi hia = đi chỗ khác

Đã nha! = Sướng nha!

Đài phát thanh = đài tiếng nói

Đánh dây thép = gữi điện tín

Đàng = đường (Đi một đàng học một sàn khôn)

Đánh đàn đánh đọ = Đánh đàn (học thì lo học không “đánh đàn đánh đọ” nhe hông) một cách để chê việc đánh đàn bằng cách ghép thêm hai từ láy đánh đọ phía sau

Đánh tù xầm, Quảnh tù xì = oẳn tù tì (trò chơi bằng tay ra kéo, búa, bao) gốc từ tiếng Anh: one two three

Đâm ra = thành ra

Đào hát = nữ diễn viên cải lương, Tài tử cải lương = nam

Đặng = được (Qua tính vậy em coi có đặng hông?)

Đầu đường xó chợ

Đen như chà dà (và) = đen thui, đen thùi lùi = rất là đen

Đẹp trai con bà Hai = đẹp

Đế = chen thêm (đang nói nó đế vô một câu chận họng làm tui câm luôn)

Đêm nay ai đưa em dìa = hôm nay về làm sao, khi nào mới về (một cách hỏi) – từ bài hát Đêm nay ai đưa em về của Nguyễn Ánh 9

Đi bang bang = đi nghênh ngang

Đi bụi

Đi cầu = đi đại tiện, đi nhà xí

Đi mần = đi làm

Đồ bỏ đi = đồ hết xài (người gì xài hổng dô, đúng là đồ bỏ đi mà)

Đồ già dịch = chê người mất nết tùy ngữ cảnh và cách nhấn âm, kéo dài thì sẽ có hàm ý khác

Đồ mắc dịch = xấu nết tuy nhiên, đối với câu Mắc dịch hông nè! có khi lại là câu nguýt – khi bị ai đó chòng ghẹo

Đờn = đàn

Đùm xe = Mai-ơ

Đực rựa = đàn ông, con trai

Đừng có mơ, đừng có hòng

Được hem (hôn/hơm)? = được không? chữ hông đọc trại thành hôn, hem hoặc hơm

Gác dan = bảo vệ, người gác cổng (gốc Pháp: Guardian)

Gần xịt = thiệt là gần

Ghẹo, chòng ghẹo = chọc quê

Ghét = tùy cách nhấn giọng và kéo dài thì…

Ghê = rất – hay ghê há tùy theo ngữ cảnh và âm điệu thì nó mang ý nghĩa là khen hoặc chê

Ghệ linh= em đẹp

Gớm ghiết = nhìn thấy ghê, không thích

Già dịch = Già dê

Già háp = già khằn, già cú đế

Giục giặc, hục hặc = đang gây gổ, không thèm nói chuyện với nhau (hai đứa nó đang hục hặc!)

Ghi-đông, Bọt-ba-ga

Hãng, Sở = công ty, xí nghiệp

Hay như = hoặc là

Hầm = nóng (trời hầm quá ngồi không mà người nó đổ mồ hôi ướt nhẹp)

Hầm bà lằng (gốc tiếng Quảng Đông);

Hậu đậu = làm việc gì cũng không tới nơi tới chốn

Héo queo = xụi lơ, bi xị

Hết = chưa, hoặc chỉ nâng cao mức độ nhấn mạnh (chưa làm gì hết)

Hết trơn hết trọi = chẳng, không – “Hết Trọi” thường đi kèm thêm cuối câu để diễn tả mức độ (Ở nhà mà hổng dọn dẹp phụ tui gì hết trơn (hết trọi) á!)

Hôi mợi= thôi mày ơi

Hồi nảo hồi nào = xưa ơi là xưa

Hồi nẳm = lâu lắm rồi không nhớ ngày tháng

Hổm bữa = hôm trướ

Hổm rày, mấy rày = từ mấy ngày nay

Hổng có chi! = không sao đâu

Hổng chịu đâu

Hổng thích à nhen!

Hổng xi nhê = không ăn thua, không có ý nghĩa gì hết , (Kiếm nhiêu đây tiền đâu có xi nhê gì) gốc pháp: Signifier

Hột = hạt (hột đậu đen, đỏ) miền nam ghép cả Trứng hột vịt thay vì chỉ nói Trứng vịt như người đàng ngoài

Hờm = chờ sẵn (tui hờm sẵn rồi chỉ chờ thằng kia nó chạy ra là tui cho nó một đá cho nó lăn cù mèo luôn)

Hợp gu = cùng sở thích

Hớt hơ hớt hãi = hấp tấp và sợ hãi (nó hớt hơ hớt hãi chạy vào báo tin…

Hú hồn hú vía

Kẻo = coi chừng (Trời ui ui! giờ không đi sớm kẻo trời nó mưa là ướt chèm nhẹp luôn đó nhe)

Kể cho nghe nè! = nói cho nghe

Kêu gì như kêu đò thủ thiêm = kêu lớn tiếng, kêu um trời,…

Kêu giựt ngược = kêu gấp bắt buột người khác phải làm theo ý mình (kêu cái gì mà kêu như giựt ngược người ta hà!)

Kinh thiên động địa

Khán thính giả (người xem kịch, cải lương, truyền hình,…) trong đó Khán (看): xem – Thính (聽): nghe, giả (者): người, tổng hợp lại là người nghe nhìn, giờ thì kêu ngắn gọn là khán giả: chỉ biết xem mà không nghe được, đỡ cãi

khính = ké – mặc đồ khính, đi ăn khính

Khỉ đột

Khỉ gió

Khỉ khô

Khó ưa = chê nhưng có lúc lại là khen

Khoái tỉ = thích gần chết

Không thèm = không cần (làm gì dữ dạ tui đâu có thèm đâu mà bày đặt nhữ qua nhữ lại trước mặt tui?)

Lâu lắc= chậm trễ, trễ nãi hàm ý trách móc (Kêu hoài sao ko mở cửa, làm gì trong trỏng mà lâu lắc vậy?)

Lai căng = không nguyên bản

Làm (mần) cái con khỉ khô = không thèm làm

Làm (mần) dzậy coi được hông?

Làm dzậy coi có dễ ưa không? = một câu cảm thán tỏ ý không thích/thích tùy theo ngữ cảnh

Làm gì mà toành hoanh hết zậy

Làm mướn = làm thuê

Làm nư = lì lợm, Làm cho lợi gan

Làm um lên = làm lớn chuyện

Lán cón = bảnh bao (có thể do hồi xưa ra đường chải đầu tóc bóng mượt, đánh giày bóng như gương, quần áo thẳng thớm nên ra từ này)

Lanh chanh

Lạnh xương sống

Lao-cần (cách dùng từ của Ông Nguyễn Văn Vĩnh có gạch nối ở giữa)

Láo-háo = khoảng chừng ( tuổi nó láo háo cở tuổi tao chứ mấy)

Lao-tổn (cách dùng từ của Ông Nguyễn Văn Vĩnh có gạch nối ở giữa)

Lặc lìa = muốn rớt ra, rời ra nhưng vẫn còn dính với nhau chút xíu

Lặc lìa lặc lọi =

Lắm à nhen = nhiều, rất (thường nằm ở cuối câu vd: thương lắm à nhen)

Lăn cù mèo = lăn long lóc, té ngữa

Lắt lư con lạc đà = nghiêng qua nghiêng lại

Lầm lầm lì lì = không nói không rằng mặt nghiêm tỏ ý không thích

Lần = tìm kiếm (biết đâu mà lần = biết tìm từ chỗ nào)

Lần mò = tìm kiếm, cũng có nghĩa là làm chậm chạm (thằng tám nó lần mò cái gì trong đó dậy bây?)

Lấy le = khoe đồ

Lẹt đẹt = ở phía sau, thua kém ai ( đi lẹt đẹt! Lảm gì (làm cái gì) mà cứ lẹt đẹt hoài vậy)

Leo cây; leo cây me = thất hẹn; Xong! nãy giờ chờ thấy bà, chắc thằng Tám nó cho tụi mình leo cây rồi!

Lèo = thất hẹn – hứa lèo,|

Lề mề

Lên bờ xuống ruộng

Lên hơi, lấy hơi lên = bực tức (Nghe ông nói tui muốn lên hơi (lấy hơi lên) rồi đó nha!

Liệu = tính toán (thằng Ba liệu coi đi sớm một chút kẻo bị kẹt xe thì lỡ hết chiện đó nhen!)

Liệu hồn = coi chừng

Líp-ba-ga = mút mùa Lệ Thủy, thoải mái

Lóng rày = hổm rày (thời gian gần đây)

Lô = đồ giả, đồ dỡ, đồ xấu (gốc từ chữ local do một thời đồ trong nước sản xuất bị chê vì xài không tốt)

Lộn = nhầm (nói lộn nói lại)

Lộn xộn = làm rối

Lục cá nguyệt: sáu tháng

Lục đục = không hòa thuận (gia đình nó lục đục quài), đôi khi lại có nghĩa khác (Làm gì lục đục ở sau bếp hoài vậy bây?)

Lụi hụi = ???? (Lụi hụi một hồi cũng tới rồi nè!)

Lùm xùm = rối rắm,

Lung tung xà beng

Lừng mặt = quen quá không còn sợ nữa (Chơi với nó riết nó lừng mặt mình luôn nhen)

Lười chẩy thây; đại lãn; liệt = làm biếng

Má = Mẹ

Mả = Mồ

Ma lanh, Ma le gốc Pháp (Malin)

Mã tà = cảnh sát

Mari phông tên = con gái thành phố quê mùa

Mari sến = sến cải lương

Mạnh giỏi = mạnh khỏe

Mát trời ông địa, tẹt ga = thoải mái

Máy lạnh = máy điều hòa nhiệt độ

Mắc cười = buồn cười

Mắc dịch = Mất nết, không đàng hoàng, lẳng lơ, xỏ lá, bởn cợt

Mắc địt = dỡ ẹt; một cách chê cái gì đó dỡ

Mặt chù ụ một đống, mặt chầm dầm

Mần ăn = làm ăn

Mần chi = làm gì

Mậy = mày ( thôi nghen mậy = đừng làm nữa)

Mé = phía (nhà ổng ở xích mé bên kia kìa)

Mé = tỉa nhánh

Mè nheo = Mèo nheo

Méo xẹo, buồn hiu = thất vọng (cầm bài thi nhìn điểm xong thằng Tư mặt méo xẹo, về nhà thể nào cũng bị Ba rầy)

Mét = mách

Miệt = kèm theo để chỉ một vùng đất, địa danh Miệt Hóc Môn, Miệt dưới, Miệt vườn

Miệt, mai, báo, tứ, nóc… chò = 1, 2, 3, 4, 5…

Mình ên = một mình (đi có mình ên, làm mình ên) gốc Khmer

Mò mẫm rờ rẫm sờ sẩm (hài) = mò

Mở bum, mở ban: Mở party nhấy đầm

Mợi = mày ơi

Mồ tổ! = câu cảm thán

Một lèo, một hơi = một mạch

Muỗng = Thìa, Môi

Mút mùa lệ thủy = mất tiêu

Mút chỉ cà tha

Mừng húm

Mưa thúi đất (nam bộ) xem thêm tháng mười “mưa thúi đất” để rõ hơn

Nam Tàu Bắc Đẩu

Nào giờ = từ trước tới nay

năn nỉ ỉ ôi

Niềng xe = vành xe

Nói nghe nè!

Nón An toàn = Mũ Bảo hiểm

Nổ banh xác = nói láo

Nổ dữ dội= quăng lựu đạn (ngày xưa có chuyện hay chọi “lụ đạn” vô chợ khủng bố dân lành)

Nổi cơn tam bành = giận dữ

Nước lên, nước xuống, nước rồng (thủy triều)

Nước phun-tên = nước thủy cục, nước máy, gốc Pháp fontaine

Ngang Tàng = bất cần đời

Nghen, hén, hen, nhen

Nghía = ngắm

Ngó = Nhìn, dòm

Ngó lơ = làm lơ, nhìn chỗ khác không để ý tới ai đó

Ngoại quốc = nước ngoài

Ngõ đường = ngã đường (ngõ ba ngõ tư)

Ngon bà cố = thiệt là ngon

Ngộ = đẹp, lạ (cái này coi ngộ hén)

Ngồi chồm hỗm = ngồi co chân …

Ngủ nghê

Ngựa đực, Ngựa cái = xãnh xẹ

Người Thượng = người dân tộc miền núi

Nhá qua nhá lại

Nhà đèn = công ty điện lực

Nhà thép = bưu điện – Đánh dây thép

Nhà thuốc GÁC = nhà thuốc Tây bán 24/24

Nhan nhãn = thấy cái gì nhiều đằng trước mặt

Nhào vô kiếm ăn, ngon vô đây = thách đố (dám chơi hông, ngon vô đây!)

Nhắc chi chuyện cũ thêm đau lòng lắm người ơi! = đừng nhắc chuyện đó nữa, biết rồi đừng kể nữa – trích lời trong bài hát Ngày đó xa rồi

Nhậu = một cách gọi khi uống rượu, bia (Nói gì thì nói giờ nhậu cái đã)

Nhí nhảnh

Nhiều chiện = nhiều chuyện

Nhìn khó ưa quá (nha)= đôi khi là chê nhưng trong nhiều tình huống lại là khen đẹp nếu thêm chữ NHA phía sau

Nhóc, đầy nhóc: nhiều

Nhột = buồn

Nhữ qua nhữ lại = đưa qua đưa lại cái gì đó trước mặt ai (tương tự “nhá qua nhá lại – nhá tới nhá lui” nhưng cấp độ mạnh hơn)

Nhựt = Nhật

Òm = dễ òm, dị òm,…

Oải chè đậu; quải chè đậu

Ông bà bô = ba má (thường những người có học vấn thì dùng từ này để nói chuyện với bạn về ba má mình)

Ông bà ông giải = Ông bà ông vãi (bắc)

Ồng Cò = cảnh sát

Ổng, Bả, Cổ, Chả = Ông, Bà, Cô, Cha ấy = ông đó ổng nói (ông ấy nói)

Pê Băm-Tám: đồ khui bia, khui nghe cái Bốp giống nổ súng P-38

Phi cơ, máy bay = tàu bay

Phờ râu = mệt

Qua bên bển, vô trong trõng, đi ra ngoải,

Quá cỡ thợ mộc…= làm quá,

Qua đây nói nghe nè! = kêu ai đó lại gần mình

Quá xá = nhiều (dạo này kẹt chiện quá xá!)

Quá xá quà xa = quá nhiều, quá đã

Quắc cần câu = nhậu say hết biết đường

Quăng lựu đạn (ngày xưa hay có chuyện quăng “lựu đạn” vô chợ khủng bố dân lành)

Quần què = (từ tục) chỉ cái quần của phụ nữ ngày có kinh nguyệt, dơ

Quấy = làm sai – dùng cho con nít thì lại khác, có ý là vừa quậy phá vừa khóc (thằng nhóc này hay khóc quấy quá!)

Quê một cục

Quê xệ

Quề trớt = huề vốn, cũng như không

Quởn = rảnh rỗi

Quới nhơn= Quý nhân =/= Cô hồn các đảng (Quới nhơn= Quý nhơn, quý nhân, người tốt đến giúp đỡ)

Ra giường (drap) = vải trãi giường (tui không tính đưa từ này vô nhưng bây giờ họ xài từ chăn, ga, gối, nệm nghe nó kỳ cục gì đâu, đã vậy còn dịch là khăn trải giường, khăn chỉ dùng để lau, cũng không thể nào lớn như cái tấm vải trãi giường được)

Ra giêng = qua năm mới, qua tết

Rành = thành thạo, thông thạo, biết (tui hồng rành đường này nhen, tui rành nó tới “sáu câu vọng cổ”

Ráo = hết

Rạp = nhà hát(rạp hát), dựng một cái mái che ngoài đường lộ hay trong sân nhà để cho khách ngồi cho mát (dựng rạp làm đám cưới)

Rân trời = Rần trời, um sùm

Rầu thúi ruột = Sầu thê thảm

Riết = liên tục, hoài – Mần riết = làm hoài

Ro ro = nhuần nhuyễn, (mới tập chạy xe honda mà nó chạy ro ro hà – nó trả bài ro ro)

Rốp rẽng (miền Tây) = làm nhanh chóng

Rốt ráo (miền Tây) = làm nhanh chóng và có hiệu quả

Rũng rỉnh = có tiền trong túi

Ruột xe = xăm

Rượt = chạy đuổi theo

Sai bét bèng beng = rất sai, sai quá trời sai!

Sai đứt đuôi con nòng nọc = như Sai bét bèng beng

Sạp = quầy hàng

Sáu Bảnh

Sấp nhỏ = tụi nhỏ, mấy đứa nhỏ

Sến = cải lương màu mè (mặt đồ gì sến quá trời dậy cha?) nhạc sến lại có ý nghĩa khác không phải là nhạc cải lương

Sến hồi xưa là người làm giúp việc trong nhà

Sên xe = xích gốc pháp chain

Sếp phơ = Tài xế

Sợ teo bu gi (sợ gần chết)

Sống lây lất qua ngày

Sụm bà chè = mệt mõi, đi hết nổi

Sức mấy = Sức mấy mà buồn = đâu buồn gì

Sườn xe = khung xe

Tả Pín Lù: Hầm bà lằng (gốc Quảng Đông)

Tà tà, tàn tàn, cà rịch cà tang = từ từ

Tài lanh

Tài khôn

Tàn mạt = nghèo rớt mùng tơi

Tàng tàng = bình dân

Tào lao, tào lao mía lao, tào lao chi địa, tào lao chi thiên,… chuyện tầm xàm bá láp = vớ vẫn

Tạt qua = ghé qua

Tàu hủ = đậu phụ

Tầm ruồng

Tầm xàm bá láp

Tần ngần = do dự (tẩn ngẩn tần ngần) Cậu Hai đứng tần ngần trước nhà cô Ba muốn gỏ cửa mà khổng dám

Tầy quầy, tùm lum tà la = bừa bãi

Té (gốc từ miền Trung)= Ngã (ngã cái ịc -chú thích anh Tuấn Khải – Mắt chú tững nó xụp thần dì mới chịu ngã cái ịc xuống gối ngủ hết biết đầu đít chỗ nào”)

Tèn ten tén ten = chọc ai khi làm cái gì đó bị hư

Teo bu-gi = Sợ gần chết (bugi gốc Pháp)

Tía, Ba = Cha

Tiền lính tính liền, tiền làng tàn liền…!

Tó = lấy, bắt

Tò te tí te = Nói chuyện – “Coi đó! nó xẹt qua tò te tí te với tui mấy câu thì xẹt đi mất tiêu”

Tòn teng = đong đưa, đu đưa

Tổ cha, thằng chết bầm

Tốp nhỏ = nhóm người nhỏ tuổi ( thường chỉ có người lớn tuổi gọi như vậy “Tốp nhỏ tụi bây coi dẹp đồ chơi cho lẹ lo rữa tay rồi lên ăn cơm nhen”)

Tới = đến (người miền Nam và SG ít khi dùng chữ đến mà dùng chữ tới khi nói chuyện, đến thường chỉ dùng trong văn bản)

Tới chỉ = cuối (Hôm nay chơi tới chỉ luôn!)

Tới đâu hay tới đó = chuyện đến rồi mới tính

Tui ưa dzụ (vụ) này rồi à nhen = tui thích việc này rồi (trong đó tui = tôi)

Tui, qua = tôi

Tụm năm tụm ba = nhiều người họp lại bàn chuyện hay chơi trò gì đó

Tử tế = tốt bụng

Tức cành hông = tức dữ lắm

Tháng mười mưa thúi đất

Thảy = quăng

Thắng = phanh

Thằng cha mày, ông nội cha mày = một cách nói yêu với người dưới tùy theo cách lên xuống và kéo dài âm, có thể ra nghĩa khác cũng có thể là một câu thóa mạ

Thâm căn cố đế = người sống ở vùng nào rất lâu rồi, dân gộc

Thậm thụt

Thân chủ: người khách quen thường xuyên

Thầy chạy

Thấy ghét, nhìn ghét ghê = có thể là một câu khen tặng tùy ngữ cảnh và âm điệu của người nói

Thấy gớm = thấy ghê, tởm (cách nói giọng miền Nam hơi kéo dài chữ thấy và luyến ở chữ Thấy, “Thấy mà gớm” âm mà bị câm)

Thấy gớm = thấy ớn

Thèo lẽo = mách lẽo (Con nhỏ đó chuyên thèo lẽo chuyện của mầy cho Cô nghe đó!)

Thềm ba, hàng ba

Thêm thắc

Thí = bố thí, cho không, miễn phí, bỏ ( thôi thí cho nó đi!) – xưa SG có nhà thương thí: bệnh nhân không phải trả tiền, thí ở đây không mang hàm ý xấu như bây giờ

Thí cô hồn

Thí dụ = ví dụ

Thiếu Tá lỗ: Thượng Sĩ, vì cái lon Thượng Sĩ giống Thiếu Tá nhưng có cái lỗ tròn

Thiệt hôn? = thật không?

Thiệt tình = cảm thán (thiệt tình! nói quài mà nó hổng chịu nghe để giờ té nằm một đống)

Thính giả (người nghe radio, đài)

Thọc cù lét, chọc cù lét = ??? làm cho ai đó bị nhột

Thôi đi má, thôi đi mẹ! = bảo ai đừng làm điều gì đó

Thôi hén!

Thơm = dứa, khóm

Thúi = hôi thối,

Thủng thẳng, Thủng thỉnh = từ từ

Thủy cục = công ty cấp nước

Thưa rĩnh thưa rãng = lưa thưa lác đác

Thước = 1 mét (Đo cho tui chừng 2 thước vải tui may cái áo dài cho sấp nhỏ)

Thưởng Lãm

Thưởng Ngoạn

Trà = Chè

Trả treo

Trăm phần trăm = cạn chén- (có thể gốc từ bài hát Một trăm em ơi – uống bia cạn ly là 100%)

Trật chìa, trật đường rầy= sai giờ giấc ( Hẹn cho đã rồi không ra làm trật chìa hết trơn hết trọi)

Trẹo Bảng họng, lẹo lưỡi = khó phát âm (nói muốn trẹo bảng họng)

Trển = trên ấy (lên trên Saigon mua đi , ở trển có bán đồ nhiều lắm)

Trọ trẹ = giọng nói không rõ ràng

Tròm trèm = cũng cở, gần tới (tròm trèm 70 tuổi rồi)

Trời thần đất lở

Trời ui ui = trời hơi tối tối

Trụi lũi = nhẵn thín (cạo râu trụi lũi)

Trừ phi =

Trực thăng = máy bay lên thẳng

Tụi mình = chúng mình

Uể oải = mệt mỏi, lừ đừ

Um xùm

Ứa gan = chướng mắt

Ưng = đồng ý, thích, chịu, … (Ưng ý)

Ướt chèm nhẹp

Ướt như chuột lội (miền Nam hay nói sai là ướt như chuột lột)

Ván ngựa =giống cái sập bằng cây mà hay gọi là đi-văng, có ba tấm gỗ dày đặt lên 2 cặp chân, gọi là bộ ngựa ???

Vầy = như vậy (làm vầy nè = làm như vậy nè)

Vè xe = chắn bùn xe

Vỏ xe = lốp

Xa lắc xa lơ: xa thiệt xa

Xả láng sáng về sớm = Cứ thoải mái không lo gì hết

Xà ích ( Sãis) có nghĩa là Thằng đánh xe, (1930 – không sử dụng nữa từ khi có xe hơi)

Xà lỏn, quần cụt = quần đùi

Xà quần gốc Khmer

Xài = dùng, sử dụng

Xảnh xẹ, Xí xọn = xảnh xẹ = làm điệu

Xe Cá = giống xe thổ mộ nhưng không có mui, dùng để chở hàng, không chở người

Xe ba gác = xe ba bánh dùng để chở đồ , xe ba gác máy ( như xe ba gác nhưng gắn thêm máy chứ không đạp)

Xe cam nhông = xe tải

Xe đò = xe chở khách, tương tự như xe buýt nhưng tuyến xe chạy xa hơn ngoài phạm vi nội đô (Xe đò lục tỉnh)

Xe Honda = xe gắn máy ( có một thời gian người miền Nam quen gọi đi xe Honda tức là đi xe gắn máy – Ê! mầy tính đi xe honda hay đi xe đạp dậy?)

Xe hơi = Ô tô con

Xe nhà binh = xe quân đội

Xe ôm

Xe thổ mộ

Xẹp lép = lép xẹp, trống rổng ( Bụng xẹp lép – đói bụng chưa có ăn gì hết)

Xẹt qua = ghé ngang qua nơi nào một chút (tao xẹt qua nhà thằng Tám cái đã nghen – có thể gốc từ sét đánh chớp xẹt xẹt nhanh)

Xẹt ra – Xẹt vô = đi ra đi vào rất nhanh

Xí = hổng dám đâu/nguýt dài (cảm thán khi bị chọc ghẹo)

Xi-cà-que: đi cà nhắc

Xi nhan = ra hiệu (gốc từ tiếng Pháp: signal)

Xì-tin= style

Xí xa xí xầm, xì xà xì xầm, xì xầm= nói to nhỏ

Xí xọn

Xí cái bùm bum

Xía = chen vô (Xí! cứ xía dô chiện tui hoài nghen!)

Xĩa răng = không đủ chi phí (Làm muốn chỏng mông mà hổng đủ xĩa răng nữa)

Xĩa xói = châm chọt

Xiết = Làm hết xiết (làm không nổi) Nhưng Ở một số vùng tây nam bộ (Cà Mau) cũng có nghĩa là: Nhanh- Ví dụ; Làm xiết xiết = Làm nhanh nhanh, Chạy xiết đi = Chạy nhanh đi

Xiên lá cành xiên qua cành lá = câu châm chọc mang ý nghĩa ai đó đang xỏ xiên mình ???? (gốc từ bài hát Tình anh lính chiến- Xuyên lá cành trăng lên lều vải)

Xỏ lá ba que = giống như chém dè (vè), tuy nhiên có ý khác là cảnh báo đừng có xen vào chuyện của ai đó trong câu: “đừng có xỏ lá ba que nhe mậy”

Xỏ xiên = đâm thọc, đâm bị thóc chọc bị gạo,… (ăn nói xỏ xiên)

Xú chiên = áo lót nữ – gốc tiếng Pháp

Xì líp = quần lót

Xụi lơ

Xưa như trái đất, hồi nẩm, cái thời ông Cố ông Sơ ông Sờ ông Sẩm = xưa thiệt là xưa

Xưa rồi diễm = chuyện ai cũng biết rồi (gốc từ tựa bài hát Diễm xưa Trịnh Công Sơn)

Y chang, Y đúc, Y khuôn, y bong = giống nhau


 

“Anh phải sống” *- Nguyễn Đan Tâm

Kimtrong Lam

July 13, 2025 

Nguyễn Đan Tâm

Chiếc ghe dài khoảng mười mấy thước, chở theo gần 50 người, (Hình: BBC)

Chiếc ghe dài khoảng mười mấy thước, chở theo gần 50 người, từ từ tách bến một con rạch thuộc tỉnh Bến Tre. Trong đêm vắng, đồn công an biên phòng cũng im lặng vì đã có thủ tục đầu tiên. Chẳng bao lâu, ghe ra sông lớn, trực chỉ biển đông. Trừ tiếng máy, tất cả đều yên lặng, phó thác cho số mệnh. Trời sáng hẳn, biển cả mênh mông, gió thổi mạnh. “Thoát rồi!” anh tài công cho biết. Mọi người bắt đầu nhốn nháo, xoay trở, tìm chỗ đi lại vì suốt đêm nằm một chỗ. Trong số khách vượt biên, có một gia đình 2 vợ chồng bác sĩ trẻ và 2 đứa con khoảng 3, 4 tuổi.

Ngày thứ nhứt,

Một ngày qua đi. Mặt trời mọc bên trái, lặn bên phải. Trời nước bao la. Ghe  chạy về hướng Nam.

Ngày thứ hai,

Chiều hôm nay, anh tài công, với kinh nghiệm lâu năm trên biển, sau khi nhìn trời, cho hay ngày mai có dông bão. Đó là điều ít thấy trong mùa nầy.

Ngày thứ ba,

Buổi chiều. Trời đang trong sáng. Bổng nhiên mây đen vần vũ kéo đến. Mưa nặng hột đập vô thân ghe nghe chan chát. Gió bắt đầu thổi mạnh. Càng lúc càng mạnh hơn. Sóng nước như căn nhà lầu 2, 3 từng đưa chiếc ghe lên cao rồi dập xuống. Chiếc ghe chuyển động như sắp bể nát.Tiếng kêu khóc, cầu Trời, khẩn Phật vang lên. Cứ thế tiếp diễn mãi. Cuối cùng, lúc nửa đêm, một đợt sóng khổng lồ, xé chiếc ghe thành từng miếng, hất tất cả những gì trên ghe xuống biển. Mạnh ai nấy ôm ván hay bất cứ thứ gì có được, để mong sống sót qua cơn thịnh nộ của biển. Hai vợ chồng trẻ và hai đứa nhỏ đeo vào một miếng ván nhỏ trôi bấp bênh trên sóng dữ. Miếng ván không đủ cho bốn người. Hai đứa trẻ nằm trên đó là đủ làm cho miếng ván chìm xuống nước. Mỗi lần sóng tới là uống nước biển. Trời tối quá, không còn thấy được người xung quanh để cầu cứu. Hơn nữa, bây giờ ai cũng lo lấy thân.

Ngày thứ tư,

Trời sáng hẳn. Cả gia đình nhấp nhô theo sóng biển. Gió đã giảm cường độ, nhưng sóng còn cao như  mái nhà, đủ vùi dập mọi vật xuống lòng biển. Một ngày mệt mỏi, khát nước. Hai đứa bé nằm trên miếng ván ngủ say. Xung quanh chẳng thấy ai. Các mảnh vỡ của chiếc ghe trôi bập bềnh. Trời nước mênh mông.

Ngày thứ năm.

Thêm một ngày nữa trôi trên biển cả. Tổng cộng 3 ngày ngâm trong nước biển. Lạnh. đói, khát, rã rời. Người vợ quá mệt, thều thào nói những lời sau cùng. Bớt được một người thì hy vọng sống sót của những người còn lại lên cao. Anh phải sống để lo cho con. Rồi nàng buông tay khỏi tấm ván. Người chồng đau đớn nhìn vợ chết mà không làm gì được. Bản thân anh cũng đuối lắm rồi.

Ngày thứ sáu,

Ba cha con không còn hơi sức. Chỉ tựa vào miếng ván để khỏi chìm. Không một bóng người. Không một chiếc tàu. Hy vọng được cứu giúp tan thành mây khói. Trong cơn mơ màng, người chồng buông tay theo vợ với hy vọng con mình trôi vô bờ mau hơn.

Ngày thứ bảy,

Trên một bãi biển ở Malaysia, một thanh niên đang bơi vào bờ. Đó là người tài công của chuyến vượt biên. Anh đã lội ròng rã hai ngày đêm với giúp sức của miếng ván ghe trôi bập bềnh. Anh là người duy nhứt sống sót khi ghe bị chìm vì nhờ lội giỏi và quen chịu  sóng gió. Những người khác cũng như hơn 100.000 người vượt biên, vùi thây dưới lòng đại dương, đem hy vọng xuống lòng biển cả, uất hận ngàn năm còn đó.

Nguyễn Đan Tâm 

(riêng tặng thuyền nhân Lisa)


 

ĐẠO CHÚA  VỚI  LUÂN  HỒI

Trong giới trí thức Phương Tây ít năm gần đây, người ta háo hức chạy theo Phật Giáo và tỏ ra rất hâm mộ Thuyết Luân Hồi vì cho rằng chỉ có nó mới có thể giải quyết được rốt ráo vấn đề sinh tử, tử sinh của con người. Trước tình hình không mấy sáng sủa đó, những người tha thiết với việc bảo vệ Đức Tin Công Giáo không  thể thờ ơ. Mới đây, để chuẩn bị cho Đại Lễ Phục Sinh, Đức Hồng Y Godfried Daneels, Tổng Giám Mục Malines ( Bỉ ) đã cho phổ biến Thư Mục Vụ mang tựa đề “Bên kia cõi chết” trong đó ngài  nhấn mạnh những khác biệt căn bản giữa Đức tin Kitô Giáo vào sự Phục Sinh và niềm tin vào Luân Hồi” ( KinhThanhvn.com ).

Để có thể nhận ra  sự khác biệt ấy là như thế nào, thiết nghĩ cũng cần nên biết quan điểm của Thư Mục Vụ về cả hai lãnh vực Phục Sinh và Luân Hồi.

Về  sự Phục Sinh được đề cập thì đây không phải sự Sống Lại của Đức Kitô nhưng là của mọi con người sau khi chết. “Cái chết không có nghĩa là sự  kết  thúc của hữu thể nhân loại, họ vẫn tiếp tục sống bên cạnh Thiên Chúa là Đấng đưa họ vào mãi mãi  trong cuộc  sống mới cùng với một thân xác được tôn vinh, tất cả những điều này vì cái chết và sự Phục Sinh của Đức Kitô. Đấng không ở lại trong mồ nhưng quyền uy  Thiên Chúa đã làm cho Ngài về lại  cõi sống” (KinhThanhvn.org).

 Còn đây là  cái hiểu về Luân Hồi: “Sau khi chết, hữu thể nhân loại trở về lại cuộc sống dương thế nhưng là trong một thân xác khác. Tiến trình này thay đi đổi lại một số lần không xác định được, như vậy có khả năng “làm lại cuộc đời” (KinhThanhvn.org).

Ta có thể tóm kết sự khác biệt ấy  thế này:

Phục Sinh  được hiểu  như là con người chỉ sống có một kiếp sống và sau khi chết đều được về sống bên cạnh Thiên Chúa. Còn Luân Hồi thì phải trải qua vô số kiếp không thể xác định.

Lập luận sau khi chết, con người đều được phục sinh còn được khẳng định thêm một lần nữa: “Sau cuộc sống trần thế này, cuộc sống duy nhất và không còn tái hiện nữa. Thiên Chúa  sẽ hồi sinh chúng ta, mỗi người theo cách cá nhân như Người đã làm cho Con của Người. Vì Người yêu mỗi người chúng ta theo từng cá thể, và tất cả chúng ta trong mắt Người đều mang một danh tính duy nhất. Chúng ta  không phải là một hạt ngọc trai ở vòng cổ gồm những cuộc tái sinh  không ngừng diễn ra để rồi không ngừng tiến đến cái chết. Cái chết  đã bị Đức Kitô  đánh bại một lần cho tất cả. Vì thế chúng ta được giải thoát khỏi sự chết và khỏi mọi sự luân hồi” (KinhThanhvn.org ).

Vấn đề có hay không sự khác biệt giữa Phục Sinh và Luân Hồi sẽ được bàn tới sau. Nhưng nếu bảo rằng Đức Kitô đến để giải thoát tất cả  khỏi sự chết và khỏi mọi sự luân hồi là điều không thể chấp nhận. Tại sao? Bởi như thế  là chẳng hiểu một chút chi cả về Phục Sinh lẫn Luân Hồi.

Đức Kitô đến cõi thế như  lời Ngài  nói, mục đích là để rao giảng Tin Mừng Nước Trời (Lc 4, 42 – 43)  và Nước Trời ấy là nước mầu nhiệm nội tại, cần phải hết sức nỗ lực mới có thể vào “Luật pháp và tiên tri đến Gioan là hết. Rồi từ đó Tin Mừng Nước Trời  được rao giảng và ai nấy đều phải nỗ lực mà vào” (Lc 16, 16).  Chúa đến rao giảng Tin Mừng Nước Trời là để cho ta biết tìm đường mà  “VÀO” (Thể Nhập), chứ làm gì có cái chuyện cứu tất cả  ra khỏi luân hồi?

Luân Hồi là một luật và luật này bao quát trong cả hai lãnh vực vô tình cũng như hữu tình. Quả đất xoay quanh cái trục nghiêng của  chính nó, đồng thời quanh mặt trời. Phía hướng về mặt trời  thì sáng, phía bị khuất thì tối. Hết tối lại sáng, hết sáng lại tối, đó là luân hồi. Ngoài ra còn có bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông xoay vần đắp đổi, đó là luân hồi. Hạt gieo xuống  nảy mầm thành cây, cây ra hoa kết quả, quả lại được gieo xuống  để nảy mầm thành cây, đó là luân hồi. Thở ra  rồi lại hít vào, hít vào rồi lại thở ra, đó là luân hồi.

Đấy là trong giới vô tình, còn trong giới hữu tình thì luân hồi lại gắn liền với nghiệp báo gọi là nghiệp báo luân hồi. Tạo nghiệp thiện sẽ được  quả thiện, tạo nghiệp ác sẽ gặp quả ác v.v… Luân hồi là một định luật mà hễ đã là luật thì không bao giờ có thể thay đổi.  Đức Kitô đến không phải để  phá luật: “Chớ tưởng Ta đến để phá luật pháp hoặc ngôn sứ. Ta đến không phải để phá đâu nhưng là để kiện toàn” ( Mt  5, 17 ).

Vả lại, chính Chúa cũng công nhận luật luân hồi  khi Ngài ám chỉ việc Ngôn Sứ Elia tái sinh nơi Gioan Baotixita ( Mt 17, 10 – 13 ).  Chúa đến không phải để phá luật  nhưng kiện toàn, nghĩa là  Ngài đem lại  cho việc thi hành luật một giá trị mới,  đó là  thể nhập ( VÀO )  Nước Trời ở nơi mỗi một tâm hồn.

Điều kiện thiết yếu cho việc  thể nhập ấy, trước hết là cần phải tái sinh. Đức Kitô nói  với Nicôđêmô:  “Quả thật, Ta nói cùng ngươi, nếu ai không tái sinh thì không thể  thấy được Nước Trời” ( Ga 3, 3 ). Tái sinh là sinh lại, đồng thời cũng tức là Phục Sinh. Chúa nói bất cứ ai  cũng phải tái sinh mới  vào được Nước Trời,  chứ không phải hễ cứ chết là  được  phục sinh về sống bên cạnh Thiên Chúa đâu?  Phục sinh  tức là tái sinh nhưng nghĩa tái sinh của Đạo Chúa hoàn toàn không phải là luân hồi.

  1. Phân biệt  tái sinh và luân hồi nghiệp quả

Tái sinh theo như ý của Chúa muốn nói là điều rất khó để mà tiếp nhận. Sau khi  nghe Chúa  nói con  người cần phải tái sinh mới thấy được Nuớc Trời  thì Nicôđêmô nêu ngay thắc mắc: “Người đã già thì làm sao sinh ra được ? Có thể nào vào lòng mẹ lần thứ hai mà sinh ra được  nữa sao ? ( Ga 3, 4 ).  Trước câu hỏi hết sức ngớ ngẩn ấy, Đức Kitô  một lần nữa  quả quyết và lần này giải thích có phần rộng rãi hơn: “Nếu người nào chẳng bởi nước và Thánh linh mà sinh thì không thể vào Nước Trời được. Hễ chi sinh bởi xác thịt là xác thịt, hễ chi sinh bởi Thánh Linh là Thánh Linh. Chớ lấy làm lạ vì cớ Ta đã nói với các ngươi.  Các ngươi cần phải tái sinh,  gió muốn thổi đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng nó nhưng chẳng biết nó đến từ đâu và đi đâu. Hễ người nào sinh bởi Thánh Linh thì cũng như vậy” ( Ga 3, 5 – 8 ).

Việc tái sinh của mỗi một tín hữu cần phải được thực hiện thông qua Bí Tích Rửa Tội. Phép Rửa này có người thắc mắc, vừa mới sinh ra thì nào đã có tội tình gì  đâu mà phải… rửa ?  Nghe vậy xem chừng có lý, thế nên có ai đó đề nghị  thay  cho rửa tội  thì nên gọi là nghi lễ nhập đạo.  Thế nhưng giải như  vậy là chưa hiểu được tính chất sâu xa của Bí Tích mà chính Chúa cũng đã lãnh nhận  bởi Gioan Tiền Hô: “Song Gioan  ngăn cản mà rằng: Chính tôi cần Ngài làm phép rửa mà Ngài lại đến cùng tôi sao ? Chúa đáp: Bây giờ hãy làm đi, vì chúng ta đáng phải hòan tất  mọi điều công chính như thế” ( Mt 3, 13 – 15 ). Chúa chịu phép rửa  nơi Gioan  không phải là để làm gương cho chúng ta về sau nhưng như Ngài nói: “chúng ta”, ám chỉ Ngài và Gioan  đáng phải hoàn tất điều công chính ấy. Cần nên nhớ chỉ khi Chúa chịu phép rửa xong lên khỏi mặt nước  thì tầng trời mới mở ra, “Ngài thấy Thánh Linh của Đức Chúa Trời  ngự xuống như  chim bồ câu đậu trên Ngài và này có tiếng từ trời phán: Đây là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng” ( Mt 3, 16 – 17 ).

Chúa là Đấng hoàn toàn vô tội mà cũng chịu phép rửa, điều ấy  cho chúng ta  thấy việc tái sinh  bởi nước và Thánh Thần quan hệ biết chừng nào cho phần rỗi linh hồn  của mỗi người. Mặc dù Bí Tích Rửa Tội mang một dấu ấn không thể phai mờ trong tâm hồn người tín hữu.  Thế nhưng rất có thể đó chỉ là một thứ hình thức  lễ nghi  chẳng đem lại một kết quả nào nếu ta không thực sự tái sinh tức sống lại phần linh hồn.

Con người ( chúng sinh ) không ai lại không bởi tội mà sinh và sinh bởi tội như thế  là sinh trong sự chết. Tội nguyên tổ như đã biết đó là tội phân biệt thiện ác ( x. St 2, 9 ).  Mỗi khi tâm khởi phân biệt là tâm đi vào cõi chết: “Một mai ngươi ăn ắt hẳn phải chết” ( St 2, 17 ).  Tâm khởi phân biệt là đã bước vào cõi chết. Ngược lại, bỏ tâm phân biệt đi thì lại được vào cõi sống ( Tái sinh ). Như vậy tính chất sâu xa của việc tái sinh  trong Đạo Chúa  tức là bỏ đi tâm phân biệt. Điều này trái ngược hẳn với  luân hồi củng có nghĩa là tái sinh nhưng  tái sinh trong nghiệp.

Luân Hồi trong phạm vi chúng hữu tình luôn gắn  với nghiệp thế nên  gọi là luân hồi nghiệp báo ( Báo ứng ). Hiểu như vậy thì Luân Hồi  là sự trở đi trở lại  của nghiệp  mà nhân của nó là  vô minh.  Đức Phật Thích Ca  sau 21 ngày đêm tham thiền nhập định  đã giác ngộ  được chân lý của sự khổ và  nguyên nhân gây ra cho nó bao gồm trong mười hai duyên gọi là Thập Nhị Nhân Duyên  ( Vô Minh, Hành, Thức,  Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ,  Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Già,  Chết ).

Vì Vô Minh nên phát sinh dục vọng ( Hành ). Do nơi dục vọng mà nhận  biết ( Thức ). Từ chỗ nhận biết ấy mà có cái gọi là Tâm và Thân ( Danh Sắc ). Thân tâm bao gồm ngũ quan và  ý  thức ( Lục nhập ). Năm giác quan cùng với ý  thức  là sáu cánh cửa để tiếp xúc  với ngoại vật ( Xúc ). Có tiếp xúc thì có lãnh nhận ưng chịu ( Thọ ). Ưng chịu phát sinh sự yêu thích ( Ái ). Yêu thích thì muốn nắm giữ ( Thủ ) Nắm giữ đi liền với sở hữu, quyết giữ lấy ( Hữu ). Từ chỗ giữ lấy đó mà sinh  đi sinh lại  trong luân hồi lục đạo ( Thiên, nhân, Atula, ngạ quỷ, súc sinh, địa ngục ) ( Sinh ).  Hễ đã có sinh thì phải có già và chết ( Chết ).

Thập nhị nhân duyên diễn ra trong một vòng tròn khép kín, cái này làm nhân cho cái kia  và ngược lại vì vậy mà gọi nó là luân hồi hay vòng tử sinh, sinh diệt. Vòng sinh tử xét trong một kiếp sống  thì gọi  là phần đoạn sinh tử. Còn xét trong tính chất sâu xa của nó thì mười hai nhân duyên ấy cũng chỉ gồm thâu trong một niệm  gọi là Nhất  Niệm Vô Minh.

Trong con mắt phàm tục thì thấy  con người ta sinh ra  sống trên đời này một thời gian vắn dài nào đó rồi thì ai ai cũng phải chết, và khi chết rồi thì mờ mịt chẳng biết đi đâu, về đâu. Nhưng với con mắt của những bậc đại giác thì  kiếp sống ấy chỉ là những niệm tưởng tiếp nối, niệm này nối tiếp  niệm kia  và nếu còn ở trong vòng vô minh thì sẽ không bao giờ có thể dứt. Tôn giáo có mặt là để đem lại sự giải thoát. Thế nhưng sự giải thoát ấy cần phải được nhận thức đó là thoát ra khỏi sự vô minh ở nơi chính mình.

2.Con  đường  chuyển  hóa  của Đạo  Chúa

Có một sự thực  nhưng rất khó để mà nhận biết, đó là con người cứ nghĩ rằng mình sống với thân thể nhưng thật ra là sống với tư tưởng. Ta  ví  tư  tưởng  là  người tài xế,  còn thân thể  là chiếc xe hơi. Khi nhìn chiếc xe, thấy nó chạy bon bon chỗ này chỗ kia, quẹo trái quẹo phải, đối với người có trí khôn thì ai cũng phải nghĩ đó là do người tài xế ngồi bên trong điều khiển. Người ta chỉ nhìn  thấy chiếc xe  chứ không thấy tài xế nhưng khi xe chạy  thì biết liền trong xe có người cầm lái. Ngược lại đối với người thiểu năng tâm trí hoặc ở rừng sâu núi thẳm mới ra phố lần đâu  thấy xe chạy liền cho rằng  đó là cái xe nó chạy. Xe chạy biết ngay là có người điều khiển là người có trí khôn, ngược lại là dại là khờ.

Hiểu như vậy thì hết thảy chúng ta những con người  trần mắt thịt này  đều là dại hết bởi lẽ không hề biết phân biệt tư tưởng và người tư tưởng. Mặc dầu vậy, nói có tư tưởng và người tư tưởng  thì cũng chẳng đúng. Tại sao ? Bởi phân biệt như thế  thì cũng  chẳng khác nào công nhận có một chủ thể cho tư tưởng. Chủ thể ấy chính là “Cái Tôi”. Nếu tôi là chủ thể của tư tưởng  thì đáng lẽ ra tôi có thể điều khiển được  tư tưởng, muốn nó vui liền được vui, muốn nó hướng thượng thì liền hướng  thượng v.v…

Thực tế thì đâu phải vậy, biết bao lần khi ta đọc kinh  dự lễ nghe giảng không muốn chia lòng chia trí  hoặc… ngủ gật mà nào có được đâu ? Nhiều khi ta chẳng muốn uống rượu say xỉn  nhưng rồi bạn bè lôi kéo  lại say lại xỉn, vợ con mè nheo bực cả mình… Về ý tưởng này Thánh Phaolô  đã có một câu nói rất ư chính xác: “Vì lòng muốn ở nơi tôi  nhưng quyền lực làm điều thiện thì lại không có. Cho nên điều thiện tôi muốn thì  tôi lại không làm. Còn điều ác không muốn thì tôi lại làm. Song nếu tôi làm điều tôi không muốn  thì chẳng còn phải là tôi làm điều đó nữa, bèn là tội lỗi ở trong tôi” ( Rm 7, 18 – 20 ).

Không muốn nhưng lại cứ làm, điều ấy chứng tỏ tôi  không phải là chủ sở hữu của tư tưởng. Nói cách khác, chính tội lỗi nó làm chủ chứ không phải là tôi.  Tội lỗi làm chủ tức là nghiệp xấu nó dẫn dắt vào con đường mà mình không hề muốn. Nghiệp có thể ví  nó như một tên độc tài, nó bắt làm gì thì phải làm. Tuy nhiên nghiệp không từ trên trời rớt xuống, cũng không phải ở dưới đất chui lên mà nó  là do  chính  mình tạo nên.

Một  tên nghiện rượu,  ma túy chẳng hạn thì có ai bắt ép nó phải uống phải chích choác đâu ? Có lẽ ban đầu nó cũng thấy rượu là cay là đắng nhưng một khi đã nghiền nó rồi  thì làm nô lệ cho nó, không uống thì nó hành cho vật vã khốn khổ… Nghiệp là do mình tạo nhưng không phải cứ có nghiệp là xấu, nhưng có nghiệp xấu ác thì cũng có nghiệp thiện lành. Tạo nghiệp xấu ác phải lãnh quả xấu ác.  Trái lại tạo nghiệp thiện lành  sẽ được quả thiện lành. Quan trọng ở chỗ là phải làm cách sao  để tạo ra được nghiệp thiện nghiệp lành,  đó mới là vấn đề.

Chúng ta đọc tiếp lời Thánh Phaolô để thấy được câu trả lời:  “Vậy tôi thấy trong tôi có luật này, khi tôi muốn làm điều thiện thì điều ác lại cặp theo. Vì theo người bền trong  tôi vẫn vui thích luật pháp của Đức Chúa Trời. Nhưng tôi  thấy trong chi thể tôi  có một luật khác chiến đấu với luật trong tâm trí tôi bắt tôi làm nô lệ  cho luật của tội lỗi vẫn ở trong chi thể tôi. Ôi ! Tôi là người khốn khổ biết dường nào. Ai sẽ giải cứu tôi khỏi thân thể của sự chết này ? Cảm tạ Đức Chúa Trời đó là nhờ Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Như vậy chính mình tôi lấy tâm trí phục luật pháp của Đức Chúa Trời nhưng lấy xác thịt phục luật pháp của tội lỗi” ( Rm 7, 21 – 25 ).

Qua những lời phải nói là tâm huyết của Thánh Phaolô, một con người được ơn Chúa cho trở lại, đã cho thấy cuộc đời  tín hữu chúng ta luôn là một cuộc chiến cam go giữa hai thế lực thiện ác mà nếu không có ơn Chúa thì không một ai có thể lướt thắng.  Mỗi người là một ông vua nhưng là một thứ vua ươn hèn, không cai trị nổi đám quan quân tướng sĩ ( mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý ), mặc chúng tác yêu tác quái, muốn ăn ngủ, chơi bời, nói năng  nghĩ tưởng thế nào cũng được.  Biết đó là không hay không tốt  nhưng bởi trót  đã để cho chúng lấn quyền nên đành bất lực buông trôi.

Trong tất cả đám quần thần đó thì Ý  Thức là quan trọng nhất, công  rất nhiều nhưng tội cũng  lắm ( Công vi thủ, tội vi khôi ). Cứ nắm được Ý là nắm đầu được tất cả, nhưng để nắm được Ý  thì nhất định là phải có phương pháp và phương pháp ấy chính là sự chuyển hóa tâm thức.  Tâm ta từ vô lượng kiếp do bởi ảnh hưởng của tội nguyên tổ là tội phân biệt thì nay  phải nhất quyết  chuyển nó thành Tâm Vô Phân Biệt. Chúa dạy  yêu người thì đừng có phân biệt  người thân kẻ thù ( Mt 5, 43 – 44 ). Làm phúc bố thí thì đừng cho tay trái biết việc tay phải làm ( Mt 6, 3 – 4 ).  Bao lâu còn sống với Tâm Phân Biệt  thì còn quanh đi quẩn lại trong vòng tử sinh sinh tử  rất khó để mà thoát ra khỏi nó.

Điều khó ấy tự sức con người  không một ai có thể, nhưng  nếu biết cậy dựa vào Ơn Chúa  thì lại được, bởi vì “Ơn Ta đủ cho ngươi, vì quyền năng của Ta nên trọn trong sự yếu đuối” ( 2Cr 12, 9 ).

PHÙNG VĂN HÓA


 

Gia Lai: Đâm chết bạn vì mâu thuẫn trên Facebook, nữ sinh lãnh 18 năm tù

Ba’o Nguoi-Viet

July 21, 2025

GIA LAI, Việt Nam (NV) – Để giải quyết mâu thuẫn một bình luận không vừa ý trên mạng xã hội, hai nữ sinh ở Gia Lai hẹn gặp nhau “nói chuyện” để rồi một bị đâm chết, một lãnh án tù.

Hôm 21 Tháng Bảy, Tòa Án Tỉnh Gia Lai đã tuyên phạt bị cáo Trần Thị Minh Thư, 20 tuổi, ở xã Tân An, huyện Đăk Pơ cũ, nay là phường An Bình, tỉnh Gia Lai, 18 năm tù về tội “giết người.”

Bị cáo Trần Thị Minh Thư tại tòa. (Hình: V.N /Tuổi Trẻ)

Đây là vụ án chấn động công luận khi cả bị cáo và bị hại đều đang là học sinh trung học.

Báo Tuổi Trẻ dẫn cáo trạng cho hay thời điểm gây án, bị cáo Thư là học sinh lớp Mười Hai, trường Trung Học Phổ Thông Y Đôn. Còn nạn nhân là em Phan Nguyễn Ngọc Hân, học sinh lớp Mười Một, trường Trung Học Phổ Thông Nguyễn Trãi, thị xã An Khê cũ.

Án mạng xảy ra bắt nguồn từ những mâu thuẫn giữa hai bên quanh việc cự cãi, thách thức nhau trên mạng xã hội.

Cụ thể, hôm 6 Tháng Ba, 2024, bị cáo Thư lên mạng xã hội Facebook, thấy em Hân bình luận “chơi kiểu nào đây bay, lẹ đi” tại dòng trạng thái của một người bạn.

Trước đó, bị cáo Thư cũng từng bình luận “kiểu nào cũng chơi, lẹ đi,” nên nghĩ rằng em Hân đã cố tình nhái lại câu của mình để khiêu khích. Do đó, bị cáo Thư đã nhắn tin cho em Hân hẹn gặp nhau trước trường mẫu giáo Sơn Ca ở phường An Bình, thị xã An Khê, để nói chuyện, giải quyết mâu thuẫn và được nạn nhân đồng ý.

Gia đình tổ chức đám tang cho nạn nhân Phan Nguyễn Ngọc Hân. (Hình: An Phát/VietNamNet)

Sau khi đi học về, em Hân cùng bốn bạn nữ đi đến điểm hẹn để gặp bị cáo Thư.

Trong lúc lời qua tiếng lại dẫn đến xô xát, bị cáo Thư đã dùng dao mang theo đâm nhiều nhát vào vùng ngực, bụng, đùi em Hân. Dù nạn nhân được đưa vào Trung Tâm Y Tế Thị Xã An Khê cấp cứu, nhưng không qua khỏi.

Cơ quan điều tra xác định, nguyên nhân gây ra cái chết của nạn nhân Phan Nguyễn Ngọc Hân là “mất máu cấp do vết thương thấu ngực, bụng làm thủng tim, rách gan, lách gây ra bởi vật sắc nhọn.”

Sau khi gây án, bị cáo Thư đã đến cơ quan công an để đầu thú. (Tr.N)


 

HÀNH TRÌNH – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Maria!”.

“Đẹp biết bao khi nghĩ rằng lần hiện ra đầu tiên của Chúa Phục Sinh – theo Tin Mừng – đã diễn ra một cách cá nhân như vậy! Rằng có ai đó biết chúng ta, thấy nỗi đau và thất vọng của chúng ta, người ấy xúc động vì chúng ta và gọi tên chúng ta!” – Phanxicô.

Kính thưa Anh Chị em,

Maria – hôm nay Hội Thánh mừng kính – đã đi ra mộ Chúa từ sáng sớm khi trời còn tối mịt; nhưng trước khi nhận ra Thầy mình, cô phải trải qua một ‘hành trình’ tối mịt khác cho đến khi nghe ai đó gọi tên, “Maria!”.

Trước khi nhận ra Thầy, Maria vẫn ở trong bóng tối của chiều thứ Sáu; không chỉ một Giêsu đã chết mà thi hài Ngài dường như cũng bị đánh cắp! May thay, Maria bước dần ra khỏi sự u minh tâm linh khi ‘Ai đó’ gọi tên cô, mở mắt cô, cho cô nhận ra Thầy. “Chúa gọi ‘Maria!’. Một từ thôi, nhưng chứa cả trời cao trong đó. Sau cơn tuyệt vọng bao giờ cũng có hy vọng; sau tìm kiếm là khám phá; sau mất mát là tìm thấy!” – Fulton Sheen. Vậy mà, ngay khi khoảnh khắc tuyệt vời đó xảy đến, Maria vẫn phải vượt qua một ngả rẽ khác: Thầy không còn như trước! Vậy là phải bắt đầu một ‘hành trình’ mới – ‘hành trình’ của Thánh Thần!

Các cuộc ‘hành trình’ của Maria là một chuỗi chứng tá truyền cảm hứng cho chúng ta. Dù ít người bị bảy quỷ ám như cô, nhưng tất cả chúng ta đều bị dày vò cách này cách khác. Tất cả chúng ta phạm tội – đi trong bóng tối – có một quá khứ đáng hối tiếc; và tất cả chúng ta đều được mời gọi bước ra ánh sáng – trở nên tốt – trong Thánh Thần. “Đời sống thiêng liêng không nằm trước, sau hay ngoài cuộc sống hằng ngày. Chính giữa đời thường, Thánh Thần ẩn giấu và tỏ hiện!” – Henri Nouwen.

Cuộc sống “tốt hơn” của Maria là một cuộc sống được Thánh Thần dun dủi – quên mình vì Chúa Giêsu cách trung thành nhất. Cô không quan tâm liệu binh lính đã nhìn thấy cô dưới chân thập giá, liệu họ sẽ quấy nhiễu cô khi cô đến mồ để xức xác Thầy. Cô chỉ nghĩ đến hành động yêu thương cuối cùng có thể dâng lên Ngài. Và vì lòng trung thành không lay chuyển của cô, Chúa Giêsu đã ban cho cô một món quà ngoài sức tưởng tượng. Ngài hiện ra với cô, sai cô đi làm ‘tông đồ cho các tông đồ’.

Anh Chị em,

“Maria!”. Tiếng gọi đích danh với âm vực quen thuộc của “Người Làm Vườn” đã khiến trái tim Maria giật thót – vì “Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi”. Nếu thuở địa đàng, sự chết đã đến với loài người trong một khu vườn; thì nay, sự sống trở lại với nhân loại cũng trong một khu vườn! Vui biết bao, ‘lần hiện ra đầu tiên’ của Chúa Phục Sinh đã diễn ra theo ‘cách cá nhân’ đến thế! Không phải tôi đi tìm Chúa, nhưng Chúa đi tìm tôi ngay trong ‘hành trình’ tối mịt của tôi! Ngài quan tâm cuộc sống của tôi, Ngài nuôi dưỡng nó; Ngài chết và sống lại để cứu nó. “Chúa Giêsu đến tìm chúng ta trong bóng tối. Ngài đón nhận chúng ta như chúng ta là, và đồng hành đưa ta về phía ánh sáng!” – Jean Vanier.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con dám cất bước từ ‘cái tôi’ tăm tối của con, dẫu đó là sự khởi đi của một ‘hành trình’ khá khó khăn và khắc nghiệt, nhưng nó nhất định cần thiết!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

**********************************************

Lời Chúa KÍNH THÁNH MARIA MAĐALÊNA 22/7, Thứ Ba Tuần XVI Thường Niên

Này bà, sao bà khóc ? Bà tìm ai ?

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.   Ga 20,1-2.11-18

1 Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. 2 Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói : “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.”

11 Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, 12 thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giê-su, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. 13 Thiên thần hỏi bà : “Này bà, sao bà khóc ?” Bà thưa : “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu !” 14 Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giê-su đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giê-su. 15 Đức Giê-su nói với bà : “Này bà, sao bà khóc ? Bà tìm ai ?” Bà Ma-ri-a tưởng là người làm vườn, liền nói : “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.” 16 Đức Giê-su gọi bà : “Ma-ri-a !” Bà quay lại và nói bằng tiếng Híp-ri : “Ráp-bu-ni !” (nghĩa là ‘Lạy Thầy’). 17 Đức Giê-su bảo : “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ : ‘Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em’.” 18 Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi báo cho các môn đệ : “Tôi đã thấy Chúa”, và bà kể lại những điều Người đã nói với bà.


 

Làm sao để được khôn ngoan?-Cha Vương

Xin Chúa đổ đầy tim bạn Thánh Thần Chúa để Người hướng dẫn bạn trong ngày hôm nay và suốt cuộc đời.

Cha Vương

Thứ 2: 21/07/2025. T4/2424

GIÁO LÝ:  Làm sao để được khôn ngoan? Người ta nên khôn ngoan nhờ học biết phân biệt cái gì chính yếu cái gì không chính yếu, đặt cái đích tốt cho đúng và chọn phương tiện tốt nhất để đạt đích. (YouCat, số 301)

SUY NIỆM: Nhân đức khôn ngoan hướng dẫn tất cả các nhân đức khác. Vì khôn ngoan là khả năng phân định cái gì là đúng. Nếu muốn sống một đời có đạo đức tốt, cần phải biết đâu là “cái tốt đích thật” và nó có giá trị gì. Như anh lái buôn trong Tin Mừng: khi gặp được viên ngọc quý, anh bán hết mọi cái anh có để mua cho được (Mt 13,46). Phải khôn ngoan trước hết để sau đó biết vận dụng đức công bằng, đức can đảm và đức tiết độ để hoàn thành “cái tốt”. (YouCat, số 301 t.t.)

❦  Khôn ngoan có 2 mắt: một thấy trước điều phải làm, một xem lại điều đã làm. (Thánh Ignaxiô Loyôla)

❦  Con chớ bao giờ lìa bỏ khôn ngoan, thì khôn ngoan sẽ giữ gìn con mãi. Hãy yêu mến khôn ngoan, khôn ngoan sẽ chở che bảo vệ. (Kn 4:6)

❦  Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa không phải ai khác ngoài chính Ngôi Vị Thứ Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa, đúng như sách Khôn Ngoan mô tả : Người tìm thấy niềm vui giữa loài người … “Người đã làm người giữa muôn người … Người đã trao ban sự sống và thiết lập sự hiệp thông giữa Thiên Chúa với con người ” (Kinh Tin Kính của Thánh Irênê).

LẮNG NGHE: Kính sợ ĐỨC CHÚA là bước đầu của khôn ngoan; biết Đấng Chí Thánh mới là hiểu biết thật. (Kn 9:10)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin giúp con biết cẩn thật xem xét cách ăn nết ở của chính mình, luôn tìm kiếm Chúa là nguồn mạch mọi sự khôn ngoan để con nên hoàn thiện giống như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện. 

THỰC HÀNH: Tập cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần trước khi quyết định làm một điều quan trọng nào đó. 

From: Do Dzung

**************************

NGƯỜI KHÔN KẺ DẠI (Lm Huy Hoàng) – Thanh Hoài