Bàn về Hạnh phúc- Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

Tôi là con người của thường dân, hay viết về những gì diễn ra xung quanh mình bằng những từ ngữ đơn giản. Hôm nay, tôi sẽ cố gắng dùng những từ đơn giản để nói về một vấn đề tưởng như phức tạp mà lại thật là đơn giản

Gần đây có vụ ông « giáo sư » Phan Văn Trường nói về hạnh phúc về tiêu chuẩn văn minh…

Giáo sư đã trở thành người nổi tiếng rầm rầm và cũng bị ăn rất nhiều gạch đá. Nhân vụ này, tôi mạo muội bàn về hạnh phúc.

Hạnh phúc không phải là một vật chất cụ thể, chỉ là 1 trạng thái, không cân đong đếm được vì thế mấy kẻ lộng ngôn cũng có thể dựa vào đó để múa mép biện hộ cho 1 cái gì đó hoặc dẫn dắt du luận.

Thực ra, theo tôi, hạnh phúc cũng chẳng phải một khái niệm gì trìu tượng đến mức khó hiểu và người ta muốn nói thế nào cũng được.

Có rất nhiều người định nghĩa hạnh phúc khác nhau. Mình tổng kết lại thì đại loại như sau :

« Hạnh phúc là một trạng thái của một đời sống viên mãn, luôn luôn có sự hài lòng, nó đươc thể hiện bởi những cảm xúc tích cực, những thành công trong cuộc sống và sự cân bằng trong tất cả các khía cạnh của cuộc sống »

Tuy nhiên, nói như vậy vẫn rắc rối quá. Nếu cứ nói một cách dân dã nhất và ngắn gọi nhất thì hạnh phúc chẳng qua là sự sung sướng. Hết chuyện.

Tuy nhiên cái sự sung sướng ở đây nó phải được hiểu như một sự sung sướng bình thường được đa số chấp nhận hay cho đó là sung sướng. Nói như vậy là để loại những kẻ lý luận cùn cho rằng ăn C hay ở tù cũng có thể là là sung sướng…

Đúng là mức độ thỏa mãn của con người rất khác nhau. Có người cần phải có nhà lầu xe hơi… thì mới sướng, có người chỉ cần có một căn nhà nhỏ và 1 cái xe đạp. OK, cái đó đúng. Tuy Nhiên, để đáp ứng được cái sướng thì cũng cần phải có một cái tối thiểu gì đó. Không có nó thì chắc chắn không thể sướng được mà thậm chí đau khổ. Muốn sướng bắt buộc phải có một lượng vật chất nhất định đã.

Bây giờ nói về cảm nhận sự sướng(hay hạnh phúc)

Sáng nay, tình cờ đọc được bài kể về một cậu bé. Bố chết, mẹ bỏ nhà lên thành phố « làm việc » và không bao giờ về. 3 anh em phải ở với bà ngoại và đi làm thêm để kiếm sống. Rồi bà cũng chết nên cậu bé phải lên thành phố tìm mẹ, sống vất vưởng, trong người chỉ có mấy nghìn đồng…Cậu bé được người chủ quán phở cho ăn và cho tiền để quay về quê.

Nếu hỏi cậu bé có hạnh phúc không thì chưa chắc nó đã biết trả lời cho đúng và có khi cũng không hiểu hạnh phúc là gì.

Một thí dụ khác nữa là có 1 bạn lý luận rằng một bộ phận dân Ấn độ không có nhà cửa, sống vất vưởng cùng với chuột, với cứt đái…  họ không cảm thấy đau khổ và vậy họ có thể vẫn hạnh phúc.

Nhưng nếu hỏi đa số quần chúng trên thế gian này thì tất cả những người bình thường đều cho rằng hai thí dụ nêu trên là những trường hợp khổ(hay bất hạnh).

VẬY, SUNG SƯỚNG (HAY HẠNH PHÚC) CÒN PHẢI LÀ SỰ CẢM NHẬN, SỰ ĐÁNH GIÁ CỦA SỐ ĐÔNG CHỨ KHÔNG PHẢI CHỈ LÀ SỰ CẢM NHẬN CỦA 1CÁ NHÂN, MỘT THẬP THỂ (Nhiều khi) VÔ THỨC.

Đây là tôi mới đang nói về sự sướng liên quan đến đời sống vật chất. Người ta cũng không thể sướng được khi phải sống trong một xã hội không có tự do. Và trớ trêu thay, kể cả có rất rất nhiều vật chất mà không có tự do thì vẫn chỉ là thân nô lệ bất hạnh. Vật chất không có nhiều, tự do cũng không có thì không thể nói là dân hạnh phúc hơn được. Đó chỉ là một thứ ngụy biện bằng thước đo hạnh phúc và văn minh riêng của mình.


 

Chuγện xảγ ra ở hành lang một Ьệпh viện-Truyen rat ngan

Võ Thanh

Chuγện xảγ ra ở hành lang một Ьệпh viện. Cô con dâu nhăn mặt nói với chồng:

– Ở nhà đủ thứ ρhải lo, làm sao mà vô trong đâγ hầu ba được?

Anh nói cô Năm haγ cô Bảγ ở không thì chia nhau vô chăm sóc ba “.

Anh con trai chưa kịρ trả lời thì có lẽ cô Năm haγ cô Bảγ gì đó đã cong môi ρhản đối:

– Tui cũng có đủ thứ chuγện để lo chứ bộ, quên tui đi”.

Một cậu con trai khác cau cau lông màγ:

– Nói chung là ai cũng bận hết, với lại ba mắc Ьệпh lâγ nhiễm, vô hầu ba rồi lỡ bị lâγ thì làm sao ?

Cô con dâu trưởng ρhán một câu:

– Thôi khỏi bàn tán gì hết, mướn người nuôi là xong chuγện.

Tất nhiên sau đó, sự việc xảγ ra đúng như hoạch định của họ.

Một ρhụ nữ khỏe mạnh, có dáng vẻ nông dân đang nuôi một người Ьệпh nằm giường bên cạnh ông cụ đã chủ động đề nghị nuôi Ьệпh cho ông cụ luôn.

Công việc tỉ mỉ, cần sự chu đáo, từ việc cho uống sữa, uống Ϯhυốc đến thaγ quần áo, lau người (ông cụ đã mất hết cảm giác vệ sinh), nhưng chị vẫn làm với sự chăm chút, không để lộ bất cứ thái độ ghê tởm nào, lại còn có vẻ hiền hậu, dịu dàng như con đối với cha mẹ.

Trong lúc ấγ, có lẽ γên tâm vì cha đã có người chăm sóc, đám con trai, con gáι, dâu, rể hơn một chục người của ông cụ thỉnh thoảng mới lượn qua như một luồng gió nhẹ.

Tiếc thaγ, sự chăm chút của chị ρhụ nữ không kéo dài bao lâu, chỉ hơn một tuần sau là ông cụ đã quα ᵭờι.

Con cái, cháu chắt ông kéo vào mới đông chứ. Họ khóc lóc khá ồn ào nhưng vẫn bình tĩnh chỉ huγ việc khâm liệm ông cụ, và ở hành lang lại xảγ ra một cuộc cãi vã xem người nào ρhải chi nhiều nhất cho đám tang ?…

Anh con trai trưởng cầm một xấρ tiền đến trả cho chị ρhụ nữ đã nuôi Ьệпh cha mình. Hai mắt đỏ hoe, chị trả lời:

– Tôi nuôi cụ ấγ vì thấγ xót xa cho cụ có lắm con nhiều cháu mà chẳng ai đoái hoài, chứ tôi có làm cái nghề nàγ đâu mà lấγ tiền ?

Đám người đang khóc mếu, cãi nhau…

Đột nhiên im bặt. Rồi từng người một lẻn ra ngoài…

Nguồn sưu tầm


 

Ông Tổng bí thư Trọng có chết vì một nguyên nhân tự nhiên?

Ba’o Nguoi-Viet

July 30, 2024

*Chuyện Vỉa Hè

*Đặng Đình Mạnh

Những ngày cuối đời, ông Nguyễn Phú Trọng xuất hiện trước mắt công chúng với bộ dạng sức khỏe ngày càng kém, nhưng không phải là quá kém đến mức thập tử nhất sinh.

Sau ngày phải muối mặt chấp thuận đề cử ông Lương Tam Quang làm Bộ trưởng Bộ Công an và thượng tuần tháng 06/2024, cho dù trước đó đã chỉ đạo Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị 9 loại Lương Tam Quang ra khỏi Bộ Chính Trị.

Bà Ngô Thị Mận (trái), đứng trước quan tài chồng, ông Nguyễn Phú Trọng, cùng ông Thủ tướng Phạm Minh Chính (thứ hai từ trái) và Chủ tịch nước Tô Lâm (giữa), trong tang lễ ngày 26 Tháng Bảy 2026 ở Hà Nội. (Hình: Nhạc Nguyễn/AFP/Getty Images)

Để gỡ gạc, một tuần lễ sau đó, trung tuần Tháng Sáu 2024, ông Trọng đã chỉ đạo truyền thông trong nước đưa tin về việc ông họp với các lãnh đạo chủ chốt. Theo đó, trong các hình ảnh được truyền đi, ông trông phương phi, khỏe mạnh, tươi cười ngồi giữa Chủ tịch nước Tô Lâm. Thủ tướng Phạm Minh Chính, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường, Chánh Văn phòng Trung ương đảng Nguyễn Duy Ngọc. Trong ảnh, ông Trọng ngồi chính giữa, vị trí trung tâm quyền lực, như ngụ ý rằng ông ấy vẫn là người nắm giữ quyền lực cao nhất, chứ không phải là người đã từng bị ép buộc phải chấp nhận nhân sự làm Bộ trưởng Bộ Công an từ nguồn khác.

Vẫn Tháng Sáu, vào dịp hạ tuần, báo chí Nga đưa hình ảnh ông Trọng ngồi hội đàm với nguyên thủ của họ là Tổng thống Putin tại Hà Nội, nhân dịp ông Putin đến thăm Việt Nam.

Chưa hết, đến đầu Tháng Bảy 2024, trong Hội nghị Đảng ủy Công an Trung ương, tin dẫn từ truyền thông trong nước cho biết, ông Trọng lại gởi văn bản đến yêu cầu lực lượng Công an cần có giải pháp khắc phục triệt để tình trạng lộ bí mật Nhà nước, tập trung phòng, chống cài cắm nội gián của “các thế lực thù địch”, tránh tình trạng “trong nhà chưa rõ, ngoài ngõ đã tường”.

Cho thấy rằng, tuy không khỏe như trước, nhưng ông ấy vẫn đủ sức theo dõi tình hình và chỉ đạo sát sao công việc, kể cả tiếp quốc khách nước ngoài. Đột ngột 10 ngày sau, ngày 18/07/2024, Bộ Chính trị CSVN ra thông báo cho rằng ông ấy lâm bệnh và cần phải nghỉ việc để điều trị tích cực. Chỉ 24 giờ sau, ông ấy được thông báo chính thức là đã qua đời.

Thông báo cần được điều trị tích cực rồi thông báo qua đời chỉ trong 24 giờ sau đó, có nghĩa là ông ấy chỉ được điều trị bệnh trong một ngày ngắn ngủi rồi xuôi tay!? Diễn biến khá lạ lùng này khiến công chúng không khỏi nghi ngờ. Họ vẫn không chắc rằng nguyên nhân ông Trọng qua đời là theo cách tự nhiên do bệnh, già? Hoặc do ai đó đã quá sốt ruột, nên quyết định cấp tốc “làm công tác nhân sự” với trường hợp đặc biệt của ông Trọng.

Nhưng điều chúng ta biết rất rõ rằng nếu ông Trọng sống thêm khoảng ít thời gian nữa thôi, thì với vụ Ciputra đã được Bộ Công An tung ra một cách hữu ý sau 2 thập kỷ được ưu tiên giấu nhẹm, thì khi qua đời, tang lễ của ông Trọng sẽ lặng lẽ hơn rất nhiều và thậm chí, rất có thể sẽ có một phiên bản Vũ Mão đến đọc bản điếu văn hạ nhục người quá vãng như trong tang lễ tướng Trần Độ…

Vì nếu sống thêm nữa, điều đó đồng nghĩa với việc kéo dài thời gian tại vị chức vụ tổng bí thư của ông Trọng đến tận thời điểm tổ chức đại hội đảng lần thứ 14 vào đầu năm 2026. Khi ấy, chưa rõ ông Trọng đã sẵn sàng nghỉ hưu hay chưa? Hoặc lại vẫn ung dung tại vị nhiệm kỳ thứ tư với tư cách “Trường hợp đặc biệt” như đã từng có tiền lệ vào năm 2021.

Chưa kể rằng, nếu quyết định nghỉ hưu, thì rất có thể ông ấy sẽ có sự chọn lựa người kế vị khác chứ không phải chọn lựa ông Tô Lâm, một người đầy tham vọng đang rất sốt ruột với việc ông Trọng quá lỳ lợm và quá thọ trong chiếc ghế tổng bí thư lâu đến như vậy!

Không chỉ thế, dù ông Trọng không giới thiệu người kế vị, thì trước kỳ đại hội đảng, các ứng viên đều ở mức xuất phát ngang nhau, cơ hội cho ông Tô Lâm trúng cử cũng sẽ thấp hơn. Thậm chí, cơ hội bằng không (0) khi mà hầu hết số đảng viên có quyền bỏ phiếu tại đại hội đều xem ông Tô Lâm là mối nguy tiềm tàng, kẻ sẽ tống giam họ bất cứ lúc nào vì nắm giữ hồ sơ tham nhũng dày cộp suốt bao lâu nay của họ.

Dân ở Hà Nội ôm hình ông Nguyễn Phú Trọng trong ngày tang lễ ông Tổng bí thư ở Hà Nội ngày 26 Tháng Bảy 2024. (Hình: Lương Thái Linh/AFP/Getty Images)

Cho nên, chờ đợi đến kỳ đại hội chính thức để “Đêm dài lắm mộng” là hoàn toàn thất sách. Ông Tô Lâm không thể kiên nhẫn hơn được nữa. Thế nên, thời điểm này, thời điểm mà vị thế của ông Tô Lâm đang ở mức cao nhất thì ông Trọng phải chết, không chết tự nhiên vì bệnh, vì già thì cũng phải chết vì sự tranh đoạt quyền lực trong Đảng để ông Tô Lâm có thể thành tựu tham vọng cuối cùng của mình là ngồi vào chức vụ tổng bí thư đầy quyền lực.

Giữ chức vụ tổng bí thư, không chỉ là thỏa mãn tham vọng quyền lực, mà còn là lá chắn có giá trị như “Thượng phương bảo kiếm” bảo đảm cho sự an toàn cá nhân của ông Tô Lâm sau cả một đời kết oán khắp chính trường Việt Nam, từ người dân lương thiện cho đến những kẻ xưng hô là đồng chí với nhau.

Riêng với thân phận ông Trọng, như bánh xe luân hồi quay đủ một vòng trầm luân. Năm 2021, ông ấy dẫm đạp lên Điều lệ Đảng một cách vô pháp để tranh đoạt nhiệm kỳ tổng bí thư thứ ba. Bằng cách đó, ông mở đường, tạo tiền lệ cho sự tranh đoạt quyền lực bất chấp Điều lệ Đảng của ông Tô Lâm lúc này. Ông Nguyễn Phú Trọng đã chết vì sự vô pháp của chính mình.


 

CHẤP NHẬN Ý CHÚA KHI THẤT VỌNG – Jeannie Ewing

Jeannie Ewing

“Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi.  Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên.  Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người.  Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng.” (Tv 34:1-5)

Trong nhiều loại cảm xúc, thất vọng được liệt kê dưới dáng vẻ của nỗi buồn và sự xấu hổ.  Sự thất vọng kéo dài có thể chuyển sang cảm giác mất tinh thần hoặc không hài lòng.  Những từ đồng nghĩa này tiết lộ nhiều điều cho tâm hồn đang gặp rắc rối.  Trong các chu kỳ tôn giáo, nơi tâm linh tươi sáng được đề cao, sự thất vọng bị che giấu, bị vô hiệu, bị làm ngơ.  Tuy nhiên, hầu như mọi Kitô hữu đều trải qua sự thất vọng ở một mức độ nào đó trong cuộc sống.

Cách đây không lâu, con gái lớn của tôi muốn bày tỏ cảm giác thất vọng khi một người họ hàng gần quyết định từ chối chuyến thăm đã được lên kế hoạch từ nhiều tháng trước.  Con gái tôi đã hủy chuyến đi theo đúng nghĩa đen một tuần trước khi chuyến bay đến Indiana.  Nói Felicity thất vọng sẽ đánh giá thấp cảm xúc của con gái; nó đã bị tàn phá, bị nghiền nát.  Theo yêu cầu của con gái, chúng tôi đã tìm cách chia sẻ cảm xúc của nó một cách trung thực và cởi mở.  Phản ứng mà con gái tôi nhận được là “Mọi người đều thất vọng trong cuộc sống.  Bạn sẽ phải học cách đối phó với nó.”

Đôi khi chúng ta hiểu cùng một thông điệp này khi chúng ta thất vọng về ý Chúa đối với cuộc sống của chúng ta.  Có thể chúng ta đã mong đợi một kết quả khác với lời cầu nguyện của mình hoặc được yêu cầu “có thêm đức tin” rằng Thiên Chúa sẽ ban một phép lạ.  Khi điều có vẻ trái ngược với phúc lành làm suy sụp niềm tin của chúng ta vào lòng nhân lành của Thiên Chúa, thì thật khó để tiếp tục theo cách tương tự.  Chúng ta cảm thấy bị lừa dối và kiệt quệ, xa rời việc cầu nguyện – như thể bí ẩn vĩnh cửu về cách thức và lý do Thiên Chúa chọn hoặc cho phép những hoàn cảnh nào đó tạo ra vực thẳm nghi ngờ trong chúng ta.

Ở đây, Thánh Vịnh gia biết rõ về sự thất vọng.  Không phải lúc nào chúng ta cũng có thể nhảy vượt từ việc thực hiện ước mơ của mình đến một nơi vui mừng và ca ngợi Thiên Chúa.  Thay vào đó, đức tin của chúng ta linh hoạt hơn và thường lên xuống khi chúng ta vật lộn với những gì Chúa có thể yêu cầu chúng ta chịu đựng.

Phần đầu của Tv 34 sử dụng cách đặt liền nhau giữa người nghèo và người giàu.  Thánh Vịnh gia không viết về sự giàu có hay nghèo khó về vật chất, mà nói đến người nghèo về tinh thần.  Điển hình như trong thực tại tâm linh, chúng ta thấy một nghịch lý – người nghèo thực sự là người giàu, trong khi người giàu lại thiếu những gì quan trọng nhất.

Có vẻ như Thánh Vịnh gia muốn chúng ta nhớ rằng, khi thất vọng hoặc nản lòng, chúng ta lớn lên trong ơn phúc của sự nghèo nàn về tinh thần.  Chúng ta trở nên trống rỗng về bản thân, và dù đau đớn đến đâu, chúng ta vẫn mở lòng để Thiên Chúa di chuyển tự do hơn trong chúng ta.  Trong Thánh Vịnh này, người nghèo là những người đã “tìm kiếm Chúa” và “kêu cầu” với Ngài.  Cũng vậy, chúng ta có xu hướng khuỵu gối trong nỗi tuyệt vọng và khóc lóc khi dồn dập có những sự mất mát.

Thật thú vị khi Thánh Vịnh gia muốn bắt đầu bằng việc ca ngợi Thiên Chúa, bởi vì điều đó có vẻ khó khăn hơn khi chúng ta chán nản và cố gắng chấp nhận ý Chúa dành cho chúng ta.  Tuy nhiên, khi chúng ta hành động trái với cảm xúc của mình và nhớ lại đường lối của Chúa rất rộng lớn, những điều kỳ diệu của sự sáng tạo của Ngài, và những phúc lành trong quá khứ mà chúng ta đã nhận được, điều đó tạo ra lời cầu được xây dựng trên đức tính kiên cường và sau đó có thể chịu đựng được đau khổ lớn hơn.

Ở đây, điều an ủi là Thiên Chúa thấy người đau khổ đang quay về với Ngài.  Chúng ta có thể không nhận được câu trả lời mà chúng ta đang tìm kiếm khi cầu nguyện.  Chúng ta có thể không có thập giá cụ thể nào bị loại bỏ khỏi cuộc đời mình.  Tuy nhiên, chúng ta có thể chắc chắn rằng Thiên Chúa lắng nghe và không quên chúng ta.

Cuối cùng, ai kính sợ Chúa và kiên định thì tìm thấy phần thưởng của mình.  Thánh Vịnh gia nhắc nhở chúng ta rằng sự trung thành với Thiên Chúa là nền tảng khi chúng ta gần đến bờ vực thẳm của sự vô vọng và muốn bỏ cầu nguyện.  Kính sợ Chúa không phải là khiếp sợ Chúa như bạo chúa nhưng là khiêm nhường và nhận biết rằng những cách thức huyền bí và nghịch lý của Chúa đến từ nơi có tình yêu thương sâu sắc đối với chúng ta.

Giống như bất kỳ cảm xúc nào, sự thất vọng phải được nhận biết và chấp nhận chính điều đó.  Chúng ta có thể làm điều này mà không suy sụp, nhưng thay vào đó bằng cách vượt qua những thăng trầm trong mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa.  Như trong tất cả các mối quan hệ, thử thách và kiểm tra thường tạo ra kết quả tốt đẹp nhất – nếu chúng ta sẵn sàng đi đúng hướng và chịu đựng những gì gian khổ và khó khăn.

 Jeannie Ewing

Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)

From: Langthangchieutim


 

Tôi khóc cho những người thấp cổ bé họng- Hiệp Trần/SGN

Ba’o Nguoi-Viet

July 27, 2024

Hiệp Trần/SGN

Đã làm chính trị là anh phải chấp nhận sự khen chê của người đời, nếu anh không chịu được sự khen chê thì đừng làm chính trị.

Vì anh làm chính trị tức là anh sống bằng tiền thuế của người dân, bằng mồ hồi, xương máu của nhân dân. Mỗi quyết định của anh ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng triệu người dân trên đất nước cả trong hiện tại và tương lai.

Vậy nên việc đánh giá, nhận xét, khen chê, phê bình, chỉ trích, thậm chí là chửi bới của người dân đối với lãnh đạo là hết sức bình thường! Và người dân có quyền được khen chê, cũng không có kẻ nào có quyền cấm người khác khen chê một người làm lãnh đạo cả.

Người lãnh đạo mà dùng quyền lực của mình để bắt nhốt, trả thù những ai lên tiếng chỉ trích phê bình mình là người lãnh đạo rất tồi tệ, nói thẳng ra là bất nhân, bất nghĩa, bất trung. Làm lãnh đạo là sống bằng tiền của dân, tiền đó nuôi sống bản thân mình, nuôi cha, nuôi mẹ, nuôi vợ, nuôi con cái ăn học… Vậy mà khi có người dân phản đối, phê bình, chỉ trích mình lại đem trả thù, bắt nhốt người ta thì không phải là loại bất nhân, bất nghĩa thì là cái gì?

Làm chính trị là đem tài năng, đức độ của mình phục vụ người dân, đem lại sự ấm no, hạnh phúc cho người dân, đó là một niềm vinh dự lớn của những người làm lên tới quyền cao chức trọng. Nếu anh là người lãnh đạo tốt, có tâm thì chắc chắn người dân sẽ yêu quí, khi chết còn để lại được tiếng thơm muôn đời, con cháu dòng họ sau này nở mày nở mặt, phúc lộc đầy nhà. Nhưng nếu anh là người lãnh đạo tồi tệ thì khi chết người dân sẽ hả hê, ăn mừng và phỉ nhổ muôn đời.

Tôi rất thích lời thề nguyện của ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát “Địa ngục còn người ta chưa thành Phật.” Lời thề nguyện đó muốn nói rằng ngài Địa Tạng không để bất cứ ai còn sót lại ở Địa Ngục. Người làm lãnh đạo đất nước cũng phải có được tinh thần đó, không được để bất cứ người dân nào bị oan ức, bất công, đó mới thực sự là một người lãnh đạo VÌ DÂN!

Anh làm lãnh đạo, anh làm vài việc tốt, chúng tôi ghi nhận, nhưng đầy những việc xấu, đầy rẫy những tiếng kêu than khóc, oan ức, đau khổ của người dân… nếu nhắm mắt làm ngơ cho qua không biết gì thì anh cũng là những kẻ ác mà thôi. Cũng là cá mè một lứa mà thôi! Người ác không phải là người đích thân ra tay làm ác, mà những người ủng hộ cho cái ác, vỗ tay reo hò khi thấy người khác làm ác, thấy người khác làm ác mà KHÔNG RA TAY NGĂN CẢN… Thì cũng đều là kẻ ác cả mà thôi. Cổ nhân cũng có câu, “cả đời làm thiện, thiện chưa đủ, một ngày làm ác, ác đã đủ đầy.”

(Hình minh họa: Kayla Ng)

Người Việt cũng có câu “Trăm năm bia đá cũng mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.” Hãy sống làm sao cho tốt, không để lại được tiếng thơm thì xin cũng đừng để lại tiếng thối. Và cũng đừng trách sao cuộc đời này quá tàn nhẫn, khắt khe với mình. Hãy tự soi rọi mình đã làm gì để người ta phải chửi rủa, phỉ nhổ… bởi cuộc sống rất công bằng và sòng phẳng!

Xin nhắc lại một lần nữa, là làm chính trị là anh phải chấp nhận sự khen chê của người đời, nếu anh không chịu được sự khen chê thì đừng làm chính trị. Và người dân có quyền được khen chê, cũng không có kẻ nào có quyền cấm người khác khen chê một người làm lãnh đạo cả.

Hôm nay người dân khóc thương cho sự ra đi của ông nhưng tôi lại khóc thương cho những tiếng kêu gào của những người dân thấp cổ bé họng, đã, đang phải chịu những bất công. Họ phải từng quỳ xuống kêu gào, gọi tên ông để được sự giúp đỡ.


 

3 “Liều Thuốc” Hạnh Phúc lúc Cuối Đời của Vị Tỷ Phú

 
Đời người tựa giấc chiêm bao, giàu sang phú quý, khi chết đi cũng chẳng mang theo được thứ gì. Nếu bạn vẫn đang đọc được những dòng chữ này, hãy thử nghĩ xem, điều gì mới thực sự nên trân trọng?

Có một tỷ phú sống trong căn biệt thư xa hoa. Nhưng một ngày kia mắc bệnh hiểm nghèo, ông chợt nhận ra rằng tất cả những danh vọng, tiền tài và vật chất, thực ra đều hư ảo như mây khói.

Vì lo sợ sẽ không sống được bao lâu nữa, ông bèn tìm đến một vị danh y để xin lời khuyên.

Sau khi bắt mạch, danh y nói với ông rằng: “Bệnh của ông ngoài cách này ra thì không thuốc nào có thể chữa khỏi. Tôi sẽ kê cho ông ba đơn thuốc, ông cứ theo đó mà làm, hết đơn thứ nhất thì chuyển sang đơn tiếp theo”.

Vị tỷ phú về nhà, trong lòng phấp phỏng hy vọng. Ông lấy đơn thuốc đầu tiên ra và đọc: “Hãy đến một bãi biển và nằm đó khoảng 30 phút, làm liên tục như vậy 21 ngày”.

Mặc dù thấy khó hiểu, nhưng ông vẫn quyết định ra bờ biển. Ông lang thang một vòng rồi ngả lưng nằm trên bãi cát. Bất chợt một cảm giác nhẹ nhàng và khoan khoái vô cùng bao trọn thân thể ông.

Vì trước đây công việc bận rộn nên ông không có cơ hội nghỉ ngơi. Nay ông có thể tĩnh tâm lại để lắng nghe tiếng gió thổi vi vu, tiếng sóng biển rì rào hòa lẫn với tiếng kêu thánh thót của đàn hải âu gọi bầy… Trái tim ông bỗng thổn thức, chưa bao giờ ông có được cảm giác thoải mái như bây giờ.

Ngày thứ 22, ông mở đơn thuốc thứ hai, trong đó viết: “Hãy tìm 5 con cá hoặc tôm rồi thả chúng xuống biển, liên tục như vậy trong 21 ngày”.

Trong lòng ông đầy rẫy những băn khoăn, nhưng vẫn cặm cụi đi mua tôm cá rồi thả chúng ra biển. Ngắm nhìn từng con vật bé nhỏ được trở về với biển khơi, trong lòng ông không nén nổi nỗi xúc động.

Ngày thứ 43, ông đọc đơn thuốc thứ ba: “Tìm một cành cây và viết những điều khiến ông cảm thấy không hài lòng lên bãi cát”.

Nhưng khi ông vừa viết xong, thủy triều lại cuốn tất cả xuống biển. Ông lại viết, sóng lại cuốn đi, lại viết, lại cuốn đi, rồi lại viết, và lại cuốn đi… ông bật khóc nức nở vì chợt hiểu ra tất cả.

Khi về nhà ông cảm thấy toàn thân nhẹ nhàng, tinh thần chưa bao giờ thoải mái và tự tại đến thế, thậm chí ông cũng không còn sợ cái chết nữa.
Thì ra con người ta chỉ cần học được 3 điều trên thì sẽ vui vẻ hạnh phúc:

Thứ nhất: Nghỉ ngơi
Thứ hai: Cho đi
Thứ ba: Buông xuống

Tham lam là một liều thuốc độc, và dục vọng là con dao hai lưỡi; có một cuộc sống ổn định rồi vẫn muốn theo đuổi sự thoải mái; có cuộc sống thoải mái rồi lại muốn hưởng thụ những vật chất xa hoa…

Nếu dục vọng không có điểm dừng thì con người vĩnh viễn không bao giờ cảm thấy đủ, không bao giờ cảm thấy thỏa mãn, và cũng không bao giờ tìm kiếm được niềm vui. Hãy trân trọng những gì bạn đang có, bạn sẽ thấy rằng bản thân mình là người giàu có nhất trên cõi đời này.

From: Anh Dang & KimBang Nguyen


 

“VÂNG, CON TIN!” – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

“Con có tin điều đó không?”; “Thưa Thầy, vâng, con tin!”.

“Niềm tin, về nhiều mặt, như chiếc xe cút kít. Cách đơn sơ, bạn phải thực sự đẩy nó để nó có thể hoạt động. Nếu không sống nó; bạn không tin nó!” – Anon.

Kính thưa Anh Chị em,

“Nếu không sống nó; bạn không tin nó!”. Lời Chúa lễ các thánh Matta, Maria và Lazarô đặt ra một câu hỏi căn bản: “Con có tin điều đó không?”, Chúa Giêsu hỏi và Matta nhanh nhẩu đáp, “Vâng, con tin!”. Hôm nay, Ngài hỏi bạn và tôi, “Con có tin tất cả những điều đó không?”; và thách thức của chúng ta trong thời hậu hiện đại này, là mau mắn thưa, “Vâng, con tin!”.

Nhưng tất cả những điều đó là điều gì? Trước hết, bạn có tin loài người phải gánh chịu hậu quả thảm khốc cách bí ẩn khi nguyên tổ bất tuân lệnh Chúa? Bạn có tin các tín điều trong Kinh Tin Kính? Và quan trọng nhất, bạn có tin Đức Kitô, Con Thiên Chúa, đã chết sống lại, chiến thắng tội lỗi, sự chết và đang sống để lôi kéo mọi người về với Ngài như Đấng Cứu Độ? Phải, thách thức lớn nhất của bạn và tôi là thưa lên, “Vâng, con tin!”.

Một trong những khó khăn lớn của chúng ta là giữ cho đức tin mình thật ‘đơn sơ’ như đức tin rất mực ‘chơn chất’ của Matta! Khuynh hướng của chúng ta là thích hướng tới sự ‘tinh vi và phức tạp’. Và dẫu suy nghĩ và lập luận tốt là một quà tặng, nhưng cần lưu ý, khuynh hướng chủ nghĩa duy lý bẩm sinh có thể không phải là khởi đầu tốt cho một đức tin chân chính. Một đức tin đơn sơ rất đẹp lòng Chúa, bởi Ngài có nhiều thời giờ hơn để làm một điều gì đó ‘trong chúng ta và qua chúng ta’; nghĩa là Ngài không cần mất thời giờ để thuyết phục chúng ta tin như đã không mất thời giờ với Matta.

Đức tin đơn sơ này – bài đọc một – được Gioan tóm tắt, “Hễ ai tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa thì Thiên Chúa ở lại trong người ấy và người ấy ở lại trong Thiên Chúa”. Thế thôi! Đó là những ai mạnh dạn thưa “Vâng, con tin!” với Ngài và đơn sơ sống giới răn yêu thương của Ngài! “Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy”. Thánh Vịnh đáp ca cũng phảng phất nét giản dị đó, “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy!”.

Anh Chị em,

“Thưa Thầy, vâng, con tin!”. Đức tin đơn sơ của Matta có thể thúc bách chúng ta tiến về phía trước và hướng ra các chân trời; đồng thời, khơi dậy và biến chúng ta thành những chứng tá của Vương Quốc trước nhu cầu cấp bách cứu các linh hồn. “Niềm tin đó như chiếc xe cút kít, và bạn phải thực sự đẩy nó để nó có thể hoạt động!”. Như vậy, đức tin của những ai sẵn sàng thưa “Vâng, con tin!” và quyền năng của Thiên Chúa đã ‘tìm kiếm’ nhau; và cuối cùng, ‘gặp nhau!’. Chính đức tin đơn sơ của Matta đã đưa Lazarô em cô ra khỏi mồ; và qua sự kiện kỳ vĩ này, hẳn Matta đã lôi kéo không ít người tin vào Chúa Giêsu, Đấng sẽ ban cho họ không chỉ sự sống ngắn hạn như đã ban cho Lazarô, nhưng còn ban cho họ sự sống dài hạn, đời đời, sự sống miên viễn thiên đàng.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin loại khỏi đức tin con bao phức tạp, cho nó thật dung dị, hầu có thể đem ra khỏi huyệt những ai đang cố nán lại trong ‘nấm mồ’ riêng của họ!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

From: KimBang Nguyen

****************

Ngày 29 tháng 7

Các thánh Mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô

lễ nhớ bắt buộc

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.

19 Khi ấy, nhiều người Do-thái đến chia buồn với hai cô Mác-ta và Ma-ri-a, vì em các cô là La-da-rô mới qua đời. 20 Vừa được tin Đức Giê-su đến, cô Mác-ta liền ra đón Người. Còn cô Ma-ri-a thì ngồi ở nhà. 21 Cô Mác-ta nói với Đức Giê-su : “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. 22 Nhưng bây giờ con biết : Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy.” 23 Đức Giê-su nói : “Em chị sẽ sống lại !” 24 Cô Mác-ta thưa : “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết.” 25 Đức Giê-su liền phán : “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. 26 Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không ?” 27 Cô Mác-ta đáp : “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.”


 

BÀ DƯ THỊ VIỆT NAM

Phạm Thanh Nghiên

Muốn biết thế nào là tận cùng nỗi đau khổ, oan ức, hãy nhìn vào bà ấy. Bà là Dư Thị Thành, vợ của ông Lê Đình Kình, một đảng viên cộng sản đã bị chính đồng chí của mình đang đêm lùa quân

xông vào tận giường ngủ bắn chết.

Các con, các cháu của hai ông bà hiện vẫn đang bị đày trong ngục với hai bản án tử hình, một án chung thân và nhiều năm tù cho những người nông dân Đồng Tâm khác.

Ông Kình, nghe nói vẫn chưa được làm giấy chứng tử dù đã chết mấy năm nay rồi. Người ta ép bà Thành phải “khai” rằng chồng bà chết ngoài Đồng Sênh, nhằm giũ bỏ sự thật hôm nay và không để lại một dấu vết tội ác nào có thể bị lưu lại trong sử sách ngày mai.

Tôi gọi bà ấy là Dư Thị Việt Nam.

#dongtam.


 

Kết thúc thời đại Nguyễn Phú Trọng: Tương lai chế độ thế nào?

RFA

Bình luận của Huỳnh Trần
2024.07.23

Các tấm biển quảng cáo cho Đảng Cộng sản VN ở đường phố Hà Nội hôm 23/1/2019 (minh họa)

 REUTERS/Kham

Thời kỳ cầm quyền của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã kết thúc. Dấu ấn và di sản của ông tiếp tục được nhìn nhận đa chiều, trong đó có ý kiến cho rằng ông để lại hai di sản dở dang là bảo vệ tư tưởng đảng và  chống tham nhũng.[1]  Không đề xuất được người kế vị, ông tân Chủ tịch nước Tô Lâm, nguyên Bộ trưởng Công an, thay ông điều hành Đảng. Trong bối cảnh khủng hoảng nhân sự, cải cách ‘thụt lùi’ và tăng trưởng khó khăn tương lai chế độ thế nào là câu hỏi lớn được đông đảo quan tâm?

(IV)

Tương lai chế độ thế nào

Việt Nam có chế độ chính trị tương đồng với Trung Quốc – Đảng cộng sản toàn trị. Hơn thế, do cùng chung hệ tư tưởng Mác – Lênin nên sự tương đồng được nhận thấy trong nhiều chính sách của hai đảng, đặc biệt là quan niệm về chủ nghĩa xã hội, chống tham nhũng và tập trung quyền lực trong thời kỳ cầm quyền của cố Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng (2011-2024) và ông Tổng bí thư Tập Cận Bình (2012- nay). Cả hai nhà lãnh đạo xuất hiện trên chính trường đều với tư cách những người “cứu Đảng” với chính sách an ninh quốc gia, trong đó nhấn mạnh an ninh chế độ, an ninh ý thức hệ. Ngoài ra, cả hai Đảng đã coi cùng xây dựng “cộng đồng chia sẻ tương lai” là có ý nghĩa chiến lược”, dấu mốc lịch sử trọng đại.[2] Đặc điểm này ảnh hưởng quan trọng đến những suy đoán về tương lai của chế độ đảng trị.

Trước hết, từ khi lên nắm quyền lãnh đạo tối cao, ông Tập Cận Bình thực hành hàng loạt các chính sách đối nội siết chặt kiểm soát xã hội và đối ngoại kiểu “chiến lang” khiến phương Tây lo ngại. Các nhà quan sát cho rằng Trung Quốc trỗi dậy hung hăng, ông Tập đang quản lý đất nước theo kiểu thời Mao và tư tưởng thực dụng khởi xướng bởi Đặng Tiểu Bình đã chấm dứt… Trong bối cảnh mô hình Trung Quốc “thoái trào”[3] tương lai thay đổi chế độ đã được suy đoán, trong đó có ba các kịch bản thu hút được sự chú ý, và có thể tham khảo cho trường hợp Việt Nam. Đây là ba phương án được đưa ra dựa trên sự tổng hợp các luồng ý kiến của nhiều học giả, nhà nghiên cứu, nhà quan sát phương Tây:[4] Thứ nhất là, Dân chủ hoá; Thứ hai là, Nội loạn kéo dài; Và thứ ba là, Chính thể độc tài mới.

Kịch bản thứ nhất cho rằng mô hình đảng CS toàn trị thời cải cách và mở cửa là ‘biệt lệ’ và sớm muộn gì sẽ trở về con đường phát triển tất yếu đến chế độ dân chủ. Nghĩa là một hình thức chế độ chính trị được đảm bảo bởi thể chế tam quyền phân lập, pháp quyền, quyền con người, trong đó tự do báo chí, tự do hội đoàn. Trong quá trình phát triển kinh tế những yếu tố này, tuy mạnh yếu, ít nhiều khác nhau, nhưng tiềm ẩn trong xã hội và sẽ bùng phát dẫn đến thay đổi. Tuy nhiên, nó chỉ diễn ra từ trên xuống (top-down)[5] và, việc thâu tóm, tập trung quyền lực đảng có thể trở thành chướng ngại vật cho tiến trình dân chủ hoá đất nước.

Kịch bản thứ hai lo ngại về bạo lực và hỗn loạn kéo dài khi chuyển tiếp chế độ khi những thách thức vượt tầm kiểm soát của đảng như kinh tế suy thoái do quá thái vật chất, khủng hoảng cơ cấu, suy giảm động lực, đời sống khó khăn, khoảng cách giàu nghèo nới rộng, ô nhiễm môi trường, già hoá nhân khẩu học… Ngoài ra, nạn tham nhũng trầm kha, mang tính hệ thống đang huỷ hoại chế độ. Tuy nhiên, chống tham nhũng nhưng lại lợi dụng loại bỏ các đối thủ chính trị để củng cố quyền lực tuyệt đối, tập trung đối đầu với phương Tây thay vì cải cách chính trị để thích nghi với bối cảnh quốc tế đang phân mảnh, phân cực. Theo đó, Đảng thúc đẩy an ninh quốc gia, an ninh chế độ, chủ nghĩa dân tộc…

Kịch bản thứ ba đề xuất Đảng CS có thể chấp nhận một chính thể pháp quyền tham vấn (consultative rule of law), chấp nhận tư pháp độc lập, chấp nhận đa nguyên nhưng không có bầu cử cạnh tranh. Có thể lãnh đạo chóp bu sẽ học hỏi mô hình của Singapore – bán dân chủ, nửa độc tài. Cố thủ tướng Lý Quang Diệu, người sáng lập ra Singapore hiện đại, từng giải thích rằng dân chủ là rào cản cho sự phát triển, vì thế, chế độ độc tài là cần thiết cho sự thịnh vượng quốc gia. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hai quốc gia là quá lớn, chẳng hạn Singapore được quản lý với quy mô chỉ như là một thành phố. Hơn thế, sự khác biệt về ý thức hệ sẽ là yếu tố quan trọng xác định mô hình thể chế độc tài kiểu này hay khác.

YouTube player

Việc phân tích tương lai là thách thức. Nhà biên kịch vĩ đại William Shakespeare (1564 – 1616) đã coi dự đoán là việc liều lĩnh, và việc đó được ông ví như một kẻ ngu ngốc kể chuyện. Thật khó khẳng định chắc chắn kịch bản nào ứng với chế độ trong tương lai chế độ. Tuy nhiên, xuất phát từ thực tế những gì đang diễn ra và quá trình vận hành chế độ như đã nêu trong các phần trước có thể ‘liều lĩnh’ đề xuất cách tiếp cận riêng.

Trước hết, tránh rơi vào kịch bản thứ hai là điều mong đợi hơn là có sự thay đổi ‘đột biến’. Một giai đoạn ‘chờ thời’ hiện hữu trong bối cảnh hỗn độn về nhân sự. Tiếp tục di sản của cố Tổng bí thư (bảo vệ tư tưởng đảng và  chống tham nhũng) sẽ là điều không dễ dàng với lãnh đạo ‘không được quy hoạch.’ Chế độ phải mất chí ít một nhiệm kỳ để ổn định chính trị, cũng như vạch ra đường hướng phát triển. Gần ba nhiệm kỳ dưới sự lãnh đạo của cố Tổng bí thư với đầy biến động, bất ổn, di sản và ngổn ngang ‘dấu ấn’, trong đó nguyên tắc tập thể lãnh đạo bị sói mòn, Bộ chính trị đã rệu rã và Ban chấp hành trung ương – cơ quan quyền lực nhất của đảng CS đã yếu đi. Dù đã có thời gian chuẩn bị nhưng chưa nhiều, ông tân Chủ tịch nước với quyền điều hành đảng cũng không thể ‘lấn lướt’ tập thể này. Ông ấy có thể sẽ được bầu vì sự ổn định, nghĩa là vì cá nhân họ thay vì ‘tâm phục, khẩu phục’.

Sau đó, chế độ có thể sẽ trải qua một chu kỳ vận hành mới khó lường. Trước hết, một khả năng nhãn tiền là phải tính đến xu hướng chuyển sang Trung Quốc hơn và giữ khoảng cách với phương Tây vì những lý do sau. Một là, đường lối cứng rắn ‘mới’ với trụ cột là an ninh chế độ ưu tiên chuyên chế cần thiết có đồng minh ý thức hệ; Hai là, thách thức “tứ bề thọ địch”, trong đó Trung Quốc đạo diễn khiến Việt Nam phải nhượng bộ: Biên giới phía Bắc tiềm ẩn bất ngờ, biển Đông nguy cơ căng thẳng do tranh chấp, từ phía Tây và Nam Campuchia ‘kết thân’ và Lào phụ thuộc ngày càng sâu về kinh tế;  Ba là, chính sách chống các quyền tự do dân chủ khiến các nhà đầu tư nước ngoài có thể hạ thấp kỳ vọng của họ về môi trường kinh doanh và làm trầm trọng thêm những ‘bước lùi’ cải cách. Bốn là, Việt Nam dường như phải đặt cược rủi ro nhiều hơn trước xu hướng đa dạng hóa đầu tư của phương Tây ra khỏi Trung Quốc. Trung Quốc tăng cường đầu tư, chiếm vị trí dẫn đầu vào Việt Nam và, cảnh báo được đưa ra liệu một trung tâm trung chuyển hàng hoá Trung Quốc sang Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác. Năm là, ‘ngoại giao tre’ của Việt Nam bị níu kéo bởi ý thức hệ CS có thể dễ  ‘uốn cong’ ngả theo hướng tới các đối tác độc tài “truyền thống”  cùng xây dựng cộng đồng chung tương lai. Việc “bỏ phiếu trắng” trên các diễn đàn Liên hiệp quốc tế đang gây quan ngại đáng kể…

Tuy nhiên, về lâu dài sẽ là sự  ‘tất yếu’ hướng tới dân chủ như kịch bản thứ nhất nêu trên với những lý do sau. Một là, dân chủ được phát triển đồng thời với kinh tế thị trường. Nó là sự kết tinh của tiến hoá nhân loại, nó sẽ không thể đảo ngược hoặc thay thế. Những động lực tăng trưởng mới như kinh tế xanh, kinh tế số, trí tuệ nhân tạo… suy cho cùng cũng từ cơ chế thị trường, nơi sản sinh sức sáng tạo, kiến thức, năng lượng cho sự phát triển; Hai là, tăng trưởng đảm bảo tính chính danh cho đảng ngày càng giảm khi kinh tế thị trường phát triển, mức sống ngày càng nâng cao của người dân và sự đòi hỏi thoả mãn nhu cầu tinh thần, trong đó có sự tham gia chính trị; Ba là, nền kinh tế mở là kết quả của chính sách hội nhập với thế giới để phát triển theo xu thế thời đại đã nâng vị thế Việt Nam, vượt qua khác biệt về ý thức hệ, và khó có thể thay đổi…

Thực tế phát triển kinh tế thị trường những năm qua đã cho thấy Việt Nam bị ràng buộc vào hệ tư tưởng cộng sản, phong trào xã hội chủ nghĩa quá sâu và quá lâu để có thể độc lập vươn lên. Ngoài ra, cân nhắc “5 lý do vì sao chủ nghĩa cộng sản sống thọ” [6] để cải cách thể chế sao cho khát vọng thịnh vượng của người dân không trở nên ‘viển vông’ . Cuối cùng, điều cốt lõi là tương lai đất nước và tương lai chế độ phải do tất cả người dân có ý chí và quyền tự do quyết định.

___________

Tham khảo:

[1]  Benoît de Tréglodé (19/7/2024). https://www.rfi.fr/vi/việt-nam/20240720-bảo-vệ-tư-tưởng-đảng-chống-tham-nhũng-hai-di-sản-dang-dở-của-tbt-nguyễn-phú-tr%E1%BB%8Dng

[2]  https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/xay-dung-cong-dong-chia-se-tuong-lai-viet-nam-trung-quoc-mang-y-nghia-chien-luoc-la-dau-moc-lich-su-trong-dai-119231213192702546.htm

[3]  https://www.rfa.org/vietnamese/news/comment/blog/china-model-out-of-trend-what-lesson-for-vn-part-1-04162024111025.html

[4]  Anh Khoa (2018). https://www.luatkhoa.com/2018/09/ba-kich-ban-cho-tuong-lai-the-che-cua-trung-quoc/

[5]  Fukuyama Fransis (2020). http://www.the-american-interest.com/2020/05/18/what-kind-of-regime-does-china-have/

[6]  https://www.youtube.com/watch?v=nSloLMlyMvY


 

Hãy chôn cất Chủ nghĩa Cộng sản-Ngô Nhân Dụng

VOA

26/07/2024

Tại một hội chợ sách ở Bắc Kinh, 2005. Các hình chân dung, từ trái: Marl Marx, Friedrich Engels, Lenin.

Trong bài trước, mục này đề nghị đảng Cộng sản Việt Nam hãy chôn cất chủ nghĩa Mác – Lê nin. Hơn nữa, từ nay phải chấm dứt không tôn thờ một thứ chủ nghĩa hay lý thuyết kinh tế, chính trị nào nữa. Đó là một căn bệnh tâm thần từ châu Âu lan ra thế giới từ thế kỷ 19, mà chính các nước Tây phương nay đã trị gần hết bịnh rồi.

Ông Nguyễn Phú Trọng phí bộ óc thông minh của mình cả đời cổ động cho lý thuyết chính trị lỗi thời của Karl Marx và Vladimir Lenin. Ông viết: “… điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin” (Trong bài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,” năm 2022.)

Ông Trọng ca ngợi “Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác – Lênin.” Nói “cách mạng triệt để” thì đúng, nhưng từ trăm năm nay ai cũng biết “chủ nghĩa” đó không hề có tính chất khoa học, từ khi loài người hiểu thế nào là khoa học.

Trước kia, các hiểu biết thường được gọi là khoa học nếu có thể xác nhận qua các bằng chứng hoặc thí nghiệm cụ thể. Nhưng Karl Popper, trong cuốn “Logik der Forschung” (Quy luật của Khám phá Khoa học), in năm 1934, cho thấy một đặc tính cốt yếu của các giả thuyết khoa học là chúng có thể bị chứng minh ngược lại (falsifiability). Điều nào không thấy chứng cớ bác bỏ được thì tạm coi là đúng, cho đến khi thấy bằng chứng mới. Karl Marx trình bày các lý do khiến kinh tế tư bản sẽ sụp đổ, các phát biểu này không thể dùng thí nghiệm để phủ nhận. Cuối cùng, ông chỉ phỏng đoán ra một tương lai, hoàn toàn tưởng tượng. Cho đến khi giấc mơ của ông được thi hành, bắt đầu từ nước Nga, cả loài người biết Marx sai lầm. Bây giờ mà còn tôn thờ chủ nghĩa đó thì đúng là mê tín, phản khoa học.

Một điều ông Nguyễn Phú Trọng luôn luôn khẳng định là: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc.” Có rất nhiều bằng chứng ngược lại. Sau Đại chiến Thứ Hai, bao nhiêu dân tộc đã giành lại độc lập, từ châu Á đến châu Phi, không ai dùng tới chủ nghĩa cộng sản. Trung Cộng, Bắc Hàn, Việt Nam và Cuba theo nên sau đó chậm phát triển, phải quay ngược chiều, bắt chước kinh tế tư bản.

Năm 2008, nói trên đài ti vi ở Hà Nội ông Nguyễn Phú Trọng đã báo tin rằng chỉ trong ba năm nữa thôi “Hội đồng Lý luận Trung ương” sẽ hoàn tất việc nghiên cứu để tìm ra một “Học thuyết xây dựng chiến lược Việt Nam trong thế kỷ 21.” Từ đó tới nay, cái “chiến lược” đó vẫn chỉ gồm những khẩu hiệu.

Trong bài phát biểu ngày 19 tháng 5, 2021, ông Nguyễn Phú Trọng tự trả lời cho câu hỏi “chủ nghĩa xã hội là gì?” Ông mô tả đó là “… một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; … có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc…; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.” Tất cả chỉ là những ước vọng, ai muốn hô lên cũng được không thể gọi là chiến lược hay kế hoạch. Chỉ có một điều cụ thể là ông xác nhận “nhà nước” phải “do Đảng Cộng sản lãnh đạo!” Ông Kim Jong Un cũng từng nói giống hệt như vậy với dân Bắc Hàn; ông Pol Pot nếu còn sống cũng hô hào không khác! Phải do Đảng của tui lãnh đạo!

Trong khi Đảng Cộng sản Việt Nam đang ca tụng ông Nguyễn Phú Trọng “để lại một di sản lý thuyết” lớn lao về chủ nghĩa Mác – Lênin, thì người Việt biết rằng chúng tôi không cần cái di sản tác hại đó! Hàng trăm năm qua loài người vẫn cứ thế tiến tới, không nhờ một chủ nghĩa nào chỉ đường dẫn lối cả. Bởi vì trước hết loài người phải sống đã, không ai chờ có một chủ thuyết nào rồi mới bắt đầu sống!

Cái bệnh đi tìm chủ thuyết phát sinh ở nước ta là do ảnh hưởng phương Tây. Các “ông Tây” sống duy lý từ mấy trăm năm trước đã xây dựng nhiều chủ thuyết để dẫn dắt người khác theo mình; nó thành một thứ bệnh truyền nhiễm.

Bệnh nặng nhất là ông Karl Marx, truyền xuống ông Lenin, lây dần dần sang nhiều người khác. Vì chủ nghĩa đó mà thế giới chia đôi, hai khối đánh nhau, người Trung Hoa, người Hàn quốc, người Congo, người Việt Nam chết nhiều nhất. Từ giữa thế kỷ 20 loài người bắt đầu trị bệnh chủ nghĩa, và đến mười năm sau cùng của thế kỷ thì hầu như mọi người đã trừ được loài vi khuẩn đó. Ngoại trừ ở những nước vẫn bế quan tỏa cảng, ngăn cấm thông tin, không cho dân được mở cái đầu ra, nhiều người vẫn còn mơ màng về một thứ chủ thuyết nào đó. Khi thấy chế độ cộng sản ở Nga và Âu châu sụp đổ, có những người ở Việt Nam lo lắng một cách thành thật rằng sau khi dẹp bỏ lý thuyết Mác Lê thì không biết mình sẽ nương tựa vào một ý thức hệ nào để mà sống! Đúng là lo… con bò trắng răng!

Con người sinh ra để sống chứ không phải để chuẩn bị sống, như một nhân vật của Boris Pasternak nói. Hay nói như Trang Tử, vì có người đi nên mới có đường đi (Đạo hành chi nhi thành); không phải vì có con đường rồi nên mọi người mới biết lối đi. Biết vậy, nhưng vẫn phải chờ tới khi chế độ cộng sản hoàn toàn thất bại ở Nga, thất bại hiển nhiên khi kinh tế suy sụp, thì loài người mới vỡ lẽ ra rằng tất cả câu chuyện chủ nghĩa là chuyện tầm phào!

Nếu vậy thì trong kinh tế tư bản người ta không cần một chủ nghĩa nào chỉ đạo hay sao? Đúng như vậy. Kinh tế tư bản chỉ dựa trên vài nhận xét của nhà đạo đức học xứ Scotland, Adam Smith. Ông ta thấy rằng bất cứ ai, một bà nướng bánh hay một ông hàng thịt, họ làm việc chính vì muốn kiếm lời; nhưng khi ai cũng làm như thế thì người chung quanh cũng được hưởng. Smith cũng thấy một điều là người ta thường chỉ trao đổi với nhau nếu cả hai bên thấy mình có lợi. Đó là hai ý kiến căn bản của kinh tế tư bản, có ai muốn gọi đó là một chủ nghĩa hay không?

Thức ra mọi môn khoa học đều không cần một chủ nghĩa và không nên có. Vì các kiến thức khoa học đều là những giả thuyết, người ta tạm dùng cho đến khi nào bị đánh đổ nếu có chứng cớ trái ngược. Trong thiên văn bây giờ mọi người tin ở thuyết Big Bang nhưng không ai tôn thờ nó như một chủ nghĩa. Trái lại, ai tìm ra được một kẽ hở nào trong lý thuyết đó sẽ được cả làng thưởng công! Trong kinh tế học cũng vậy, không có lý thuyết vĩ đại nào với tham vọng giải quyết mọi vấn đề nhân sinh, mà chỉ có những tìm tòi và khám phá cụ thể.

Một tấm gương là Leonid Hurwicz, nhà kinh tế lỗi lạc đã qua đời. Ông sinh ở Matx Cơ Va trước Cách mạng Tháng Mười, chạy qua Ba Lan năm 1919 để tránh chế độ cộng sản. Tốt nghiệp luật khoa ở Đại học Warsaw, ông sang Anh học về kinh tế, rồi năm 1940 sang Mỹ. Hurwicz chịu ảnh hưởng của những giáo sư kinh tế nổi danh ở London khi ông theo học ở đó, như Friedrich Hayek, Nicholas Kaldor, và Ludwig von Mises. Vào những thập niên 1930, 40, có những nhà kinh tế thất vọng trước cuộc thí nghiệm của Liên Xô đã cổ động việc cải thiện hệ thống xã hội chủ nghĩa. Tuy không đồng ý với lý thuyết kinh tế của Karl Marx và cũng không thích chế độ độc tài kiểu Stalin, Oskar Lange đã nẩy ra ý tưởng kết hợp kinh tế thị trường với Chủ nghĩa Xã Hội.

Trong khi đó, Hayek và von Mises nhìn thấy nhược điểm cơ bản của hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa, là vấn đề thông tin. Sống trong thời đại tin học chúng ta hiểu vấn đề này nhanh, nhưng vào thập niên 1940 thì đây là một khám phá. Đời sống kinh tế dựa trên tin tức, các quyết định kinh tế dựa trên thông tin. Trước khi trao đổi sức lao động, hàng hoá, tiền bạc, người ta thế nào cũng tìm hiểu tin tức. Không một uỷ ban kế hoạch nhà nước nào có thể thu lượm đầy đủ thông tin về nhu cầu cũng như khả năng của tất cả mọi người trong xã hội. Ngược lại, trong một hệ thống thị trường thì mọi người đều “tự động tiết lộ” những thông tin về nhu cầu và khả năng cung ứng của họ: Chỉ cần coi giá cả lên hay xuống khi họ mua bán, trao đổi với nhau! Giá cả là động cơ điều tiết thị trường.

Hơn thế nữa, như Friedrich Hayek đã biện luận, khi kinh tế được tập trung chỉ huy thì cuối cùng sẽ thất bại. Vì thất bại cho nên phải cưỡng chế, dẫn đến cảnh nô lệ hoá mọi người. Một chế độ kinh tế tập trung chỉ huy cuối cùng sẽ tước bỏ hết các quyền tự do. Từ đó, đến nhân phẩm cũng mất.

Leonid Hurwicz thoát khỏi giấc mơ Chủ nghĩa Xã Hội và các thứ “Chủ nghĩa” nói chung. Ông không xây dựng một chủ thuyết nào cả mà chỉ nêu những vấn đề thực tế, giải quyết từng chuyện cụ thể một. Một trong các đề tài ông theo đuổi là “động cơ kinh tế của mỗi cá nhân.” Làm cách nào để mọi người tham dự một cuộc chơi kinh tế tự tiết lộ những tin tức mình có, chứ không giữ kín. Hay là làm thế nào để mọi người cố gắng hết lòng cho xong công việc chứ không chỉ làm lấy lệ. Trong tất cả các vụ đó, phải vẽ ra những cách thưởng, phạt để người ta thấy có lợi nếu nói thật, và có lý do muốn làm hết sức mình.

Một thí dụ về phương pháp tạo động cơ thích hợp là câu chuyện chia đôi cái bánh. Bà mẹ có thể cắt cái bánh thật công bằng, chia cho hai con. Có thể trao nhiệm vụ cắt bánh cho anh, khuyên nhủ anh phải chia đều với em. Nhưng thế nào mỗi đứa con cũng thấy phần của mình nhỏ hơn, có thể trong lòng sẽ ganh tị. Bây giờ có thể bày ra một “cơ chế” như vầy: Một đứa con sẽ cắt bánh làm hai phần, nhưng đứa kia sẽ được chọn phần bánh trước. Với “cơ chế” như vậy, đứa trẻ có nhiệm vụ cắt bánh sẽ cố cắt hết sức công bằng, không cần phải nghe lời Đức Khổng Tử dạy hay là bị quản giáo nhồi sọ về một xã hội “công bằng, dân chủ, văn minh.”

Chính khi đi tìm những động cơ thích hợp để giúp một cơ chế kinh tế đạt kết quả, Hurwicz đã giúp người ta hiểu tại sao kinh tế cộng sản thất bại. Với những phương pháp thiết lập “động cơ thích hợp” nền kinh tế có thể hoạt động tự do mà xã hội vẫn theo đuổi được những mục tiêu ngoài kinh tế, như tôn trọng công bằng xã hội, trọng người già hoặc giúp trẻ em, vân vân, mà không cần“giáo dục” hay cưỡng bức ai cả. Điều quan trọng là không cần biến một thứ chủ nghĩa nào thành tôn giáo buộc mọi người tin theo.

Tự do dân chủ không phải là tên một chủ nghĩa. Dân chủ chỉ là những “luật chơi,” giống như luật đá banh vậy. Khi có tự do, người ta được chọn, khi cần phải cùng nhau chọn, đặt ra những quy tắc chọn lựa chung, thí dụ như bỏ phiếu. Cứ như vậy, loài người sẽ sống hạnh phúc hơn mà không cần tôn thờ một chủ nghĩa như lối người cộng sản trong thế kỷ trước.

Đa số những người cộng sản ở Việt Nam bây giờ, không tin vào chủ nghĩa nào nữa, chỉ tin ở thế lực kim tiền! Nhưng nhiều người vẫn còn muốn dân chúng tiếp tục tôn thờ chủ nghĩa Marx, để bảo vệ địa vị và tài sản của họ! Phải chấm dứt trò gian dối đó.


 

Kamala Harris huy động được $200 triệu từ lúc thế chỗ Biden

Ba’o Nguoi-Viet

July 28, 2024

PITTSFIELD, Massachusetts (NV) – Chiến dịch tranh cử của Phó Tổng Thống Kamala Harris huy động được $200 triệu từ lúc bà vươn lên thành ứng cử viên tổng thống Đảng Dân Chủ vào tuần trước, một khoản quyên góp đáng trầm trồ trong cuộc tranh cử với ứng cử viên Đảng Cộng Hòa, cựu Tổng Thống Donald Trump, thông tấn xã AP loan tin.

Chiến dịch tranh cử của Harris công bố tổng số tiền gây quỹ mới nhất hôm Chủ Nhật, 28 Tháng Bảy, cho biết phần lớn các khoản quyên góp — gồm có 66% — đến từ những người lần đầu tiên quyên tiền trong chu kỳ bầu cử 2024 và xuất hiện sau khi Tổng Thống Joe Biden tuyên bố rút lui và tiến cử Harris.

Hơn 170,000 tình nguyện viên cũng ghi danh hỗ trợ chiến dịch của Harris bằng các hoạt động gọi điện thoại, vận động cùng các nỗ lực vận động bỏ phiếu khác. Chỉ còn 100 ngày nữa là tới Ngày Bầu Cử.

Phó Tổng Thống Kamala Harris lên phi cơ Air Force Two ở Westfield, Massachusetts, ngày 27 Tháng Bảy, 2024 (Hình: STEPHANIE SCARBROUGH/POOL/AFP/Getty Images)

“Phó Tổng Thống Harris đang thực sự tạo ra động lực và tỏa ra sinh khí — các nguyên tắc căn bản trong chiến dịch tranh cử này cũng vậy: kết quả sẽ rất sít sao và chỉ cần một số ít cử tri ở một vài tiểu bang thôi cũng đủ mang đến kết quả thành hay bại,” Michael Tyler, giám đốc truyền thông của chiến dịch tranh cử, viết trong một bản ghi nhớ.

Hôm Thứ Bảy, Harris tổ chức vận động tranh cử tại Pittsfield, Massachusetts, thu hút hàng trăm người tới tham dự buổi gây quỹ được tổ chức từ lúc Biden vẫn còn là ứng cử viên hàng đầu của Đảng Dân Chủ. Ban đầu, buổi gây quỹ dự trù huy động được $400,000 nhưng cuối cùng lại thu về khoảng $1.4 triệu, theo chiến dịch tranh cử của Harris.

Harris nhanh chóng quy tụ làn sóng ủng hộ trong Đảng Dân Chủ sau khi Biden, thất bại trong cuộc tranh luận tệ hại hôm 27 Tháng Sáu trước Trump, rời khỏi cuộc đua. Cựu Chủ Tịch Hạ Viện Nancy Pelosi, Lãnh Tụ Khối Đa Số tại Thượng Viện Chuck Schumer, Lãnh Tụ Đảng Dân Chủ tại Hạ Viện Hakeem Jeffries, cựu Lãnh Tụ Khối Thiểu Số tại Hạ Viện Jim Clyburn, cựu Tổng Thống Bill Clinton và cựu Ngoại Trưởng Hillary Clinton lập tức tuyên bố ủng hộ Harris.

Những tên tuổi trong Đảng Dân Chủ từng là những nhà gây quỹ vĩ đại gồm có cựu Tổng Thống Barack Obama và cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama cũng tuyên bố ủng hộ hôm Thứ Sáu.

Hôm Thứ Bảy, trong buổi gây quỹ, Harris cho biết bà vẫn đang “dưới cơ” nhưng chiến dịch tranh cử của bà đang tăng tốc.

Future Forward, Đại Ủy Ban Hành Động Chính Trị SPAC lớn nhất trong nền chính trị Đảng Dân Chủ, loan báo vào tuần trước rằng họ cam kết các nhà tài trợ sẽ rót $150 triệu trong 24 giờ đầu tiên từ thời điểm Biden rút lui và tiến cử Harris.

Các ứng cử viên Đảng Dân Chủ tại Hạ Viện và Thượng Viện cho biết họ cũng chứng kiến ​​bà được ủng hộ nhiệt liệt từ lúc thăng tiến lên thành ứng cử viên có thể nhận được đảng đề cử chính thức của đảng phái. (TTHN)


 

Sự kiêu ngạo cộng sản-Nguyễn Thông 

Sự kiêu ngạo cộng sản

08:57 | Posted by BVN4

Nguyễn Thông 

Nhà thơ Việt Phương nói: “Ta đã thấy những vết bùn trên các vì sao”, nay chỉ ra vết bùn sự kiêu ngạo của “sao”, tôi chỉ mong muốn họ biết lắng nghe, thực tâm gột rửa để ngày càng trở nên sạch sẽ, gần gũi với mọi người dân trên đất nước này. Còn họ khăng khăng không thừa nhận cũng đành chịu, chả cãi họ được.

********

“Sự kiêu ngạo cộng sản” – Những chữ trên không phải do tôi nghĩ ra, cũng không phải do thế lực thù địch nào vu cáo, mà là chữ dùng của ông Phan Diễn. Ông Diễn người Quảng Nam, con cụ Phan Thanh – một nhân vật nổi tiếng thời Mặt trận Dân chủ 1936-1939. Ông Diễn từng là Ủy viên Bộ Chính trị, đóng đến chức Thường trực Ban Bí thư (tức nhân vật số 2 của đảng, chỉ sau Tổng bí thư). Họ hàng ông Diễn còn có những người là yếu nhân của chế độ, chẳng hạn ông Phan Bôi (tức Hoàng Hữu Nam), em ông Phan Thanh, ông Bôi là Thứ trưởng Bộ Nội vụ của chính quyền sau Cách mạng tháng 8, Chánh văn phòng chính phủ, người được cụ Hồ hết sức tin cậy; mẹ ông là bà Lê Thị Xuyến từng là Phó chủ tịch Trung ương Hội LHPN Việt Nam… Kể qua như vậy để nói rằng phát ngôn của ông Diễn không phải dạng ai đó nói vu vơ, nói lấy được, mà là rất có trọng lượng. Đó là nhận xét của người trong cuộc, “ở trong chăn…” chứ không phải bị kích động, xúi giục, nhẹ dạ gì (làm sao mà kích động nổi những người như ông Diễn, nay ông vẫn còn sống và mạnh khỏe, sáng suốt, ai không tin thì cứ hỏi ông).

Trong bài trả lời báo điện tử VnExpress đăng ngày 17.12.2016, ông Diễn chắc thấm nhuần tư tưởng của Lenin, người thầy của cách mạng vô sản thế giới, đưa ra nhận định “Tôi cho rằng, chúng ta ít nhiều đã có sự chủ quan, có thể gọi là “kiêu ngạo cộng sản” sau chiến thắng 1975. Việc này có thể hiểu là xuất phát từ những điều tự hào về lý tưởng và thành công của mình trên con đường cách mạng, nhưng rồi đi quá đà đến xu hướng chủ quan”(trích nguyên văn).

Cũng trong bài trả lời này, ông cựu nhân vật số 2 còn cho biết chi tiết rất đáng quan tâm đối với những người chép sử, ông bảo “Trước giải phóng, mỗi năm kinh tế miền Nam được Mỹ viện trợ khoảng một tỷ USD. Miền Bắc cũng được chi viện của các nước xã hội chủ nghĩa một lượng xấp xỉ như thế” (trích nguyên văn).

Nếu đúng như ông Diễn nói thì với 1 tỷ đô như vậy, ở miền Nam ngoài chi cho phương tiện chiến tranh, tiền viện trợ còn được biến thành nền kinh tế “phồn vinh giả tạo”, dân thực sự được nhờ, được sung túc, chứ 1 tỷ ở miền Bắc bị chuyển hóa hết thành vũ khí đạn dược để “giải phóng miền Nam”, nên dân chịu đói khổ thiếu thốn kéo dài suốt mấy chục năm.

Phải nói rằng, trong gầm trời này, từ thời thượng cổ đến nay, nếu nói về sự kiêu ngạo thì có thể nói rằng người cộng sản là số 1. Người đời vẫn nhắc với nhau một “tấm gương” điển hình về kiêu ngạo, đó là Quan Vũ (còn gọi là Quan Công, Quan Vân Trường) thời Tam quốc. Ông ta đứng đầu ngũ hổ tướng của Lưu Bị, tài giỏi, công lao khó ai bì, chỉ có điều kiêu ngạo quá lắm. Thiên hạ có thể khen ông nhiều điều, cho qua chuyện ông xem thường Mã Siêu (và cả Hoàng Trung, Triệu Vân nữa, những “đồng chí” của ông, tài giỏi chẳng kém ông, thậm chí còn hơn ông) nhưng chỉ với việc ông khước từ sự cầu hôn của nhà Ngô, họ muốn gả con trai vua Tôn Quyền lừng lẫy đất Giang Nam cho con gái ông để hai nhà liên kết, nhưng bằng thói kiêu ngạo ngấm trong máu, Quan Vũ thẳng thừng “con gái ta như loài hổ, lại thèm gả cho con loài chó à”, thì với chính thái độ đó ông đã phết chữ “tử” vào sự nghiệp của mình cũng như sự tồn tại của nhà Thục. Thói kiêu ngạo đã giết chết ông ta và nhà nước của ông chứ không phải nguyên nhân gì khác, dù Lã Mông rất giỏi. Ở đây cũng phải kể thêm cái “tội” của Khổng Minh, đã biết không thể tin cậy Quan Vũ trong việc giữ Kinh Châu mà vẫn cứ giao, bởi mấy chữ khuyên “Đông hòa Tôn Quyền, bắc cự Tào Tháo” đối với một kẻ kiêu ngạo chả có ý nghĩa gì, chả là cái đinh gì. Về vụ dùng người này, Khổng Minh kém Tư Mã Ý xa.

Kiêu ngạo là gì? Kiêu là sự ngạo mạn, không chịu phục tùng. Kiêu ngạo là thái độ khoe khoang, ngạo mạn. Kẻ kiêu ngạo thường tự cho mình hơn người, thậm chí mình là nhất. Kiêu căng ngạo mạn, trên đời không ai bằng mình. Kiểu Chí Phèo, “anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”. Từ đó dẫn đến coi thường người khác, coi thường tất cả. Việc gì mình làm cũng hay cũng đúng. Mình chả bao giờ sai. Luôn nhìn đời bằng nửa con mắt. Nếu có ai phê phán phản đối thì lấy làm khó chịu, nhẹ thì chê bai dè bỉu người ta, nặng thì dùng quyền lực tìm cách vùi dập. Trong mênh mông thế sự, kẻ kiêu ngạo luôn sống cô độc với vòng hào quang mà nó tự tô vẽ.

Nói cho công bằng, không phải ai cũng có thể sinh thói kiêu ngạo. Những hạng ngu đần, an phận, rụt rè, kém bản lĩnh, thiếu tài năng, tầm thường thì không thể là kẻ kiêu ngạo. Những người cả đời không lập công, không thành đạt thì lấy gì để kiêu ngạo. Phải có khí chất nhất định của kẻ anh hùng, phải hơn người mới có thể kiêu ngạo.

******

Kể từ khi chủ nghĩa cộng sản với cốt lõi là tư tưởng Marx – Lenin và học thuyết đấu tranh giai cấp được du nhập vào Việt Nam hồi nửa đầu thế kỷ 20, người cộng sản đã dần tìm được chỗ đứng trong đời sống chính trị bởi họ khá khôn ngoan. Họ biết lợi dụng và dựa vào dân nghèo, nhất là nông dân, lực lượng đông nhất ở một xứ thuộc địa. Những ông tổ của cộng sản, khi truyền bá học thuyết đấu tranh giai cấp đã khẳng định “ai nắm được công nông, người ấy sẽ chiến thắng”. Lý luận ấy từng chính xác ở nơi nào thì tôi chưa rõ lắm, nhưng xứ ta trước năm 1945 thì quả đúng như vậy.

Sau khi đã trở thành lực lượng chính trị quan trọng, người cộng sản VN từng bước giành thắng lợi. Đó là nghệ thuật biết thắng từng bước, dù họ thừa hiểu phải giá đắt bằng máu và nước mắt của dân. Dấu mốc lịch sử quan trọng vẻ vang nhất là họ khơi dậy được sức mạnh tổng hợp của quần chúng, khơi mối căm thù giai cấp bóc lột, hô hào nhân dân đứng lên làm cuộc lật đổ nhà nước thực dân – phong kiến, cướp chính quyền (chữ “cướp” được người cộng sản trước kia hay dùng, sau có lẽ thấy chối quá mới âm thầm bỏ), thiết lập được bộ máy cầm quyền mới vào tháng 8.1945.

Theo dòng lịch sử, trải qua cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 9 năm (1945-1954), cuộc nội chiến Bắc-Nam để thống nhất đất nước (1954-1975), cuối cùng người cộng sản đã đoạt chiến thắng chung cuộc. Đánh ván cờ xương máu, họ đã thắng. Đó là thực tế lịch sử. Bao nhiêu đau thương mất mát, biết bao bi kịch ám vào số phận từng cá nhân, từng gia đình, từng vùng đất và cả đất nước này ròng rã mấy chục năm trời để có ngày toàn thắng.

Tiếp theo nữa, gần nửa thế kỷ, suốt từ năm 1975 đến nay, người cộng sản hãnh diện mình đã có công trời biển thu non sông về một mối. Bộ máy tuyên truyền của họ hằng năm bắt mọi người phải nhớ ơn cái công lao được xây bằng núi xương, sông máu của hàng triệu con người. Sang năm, 2025, họ kỷ niệm 50 năm tròn cho sự kiện này. Non sông thu về một mối, nhưng lòng người, sự hòa giải hòa hợp thì không biết tới khi nào mới thành, nếu vẫn kiểu kỷ niệm “khắc sâu mối thù Mỹ Ngụy” như vậy.

Trong chiến tranh, do cần lợi dụng sức dân, người cộng sản đã khéo léo tô vẽ được hình ảnh về chiến sĩ hết lòng vì nước vì dân, hy sinh quyền lợi cá nhân, bình dị gần gũi, chan hòa với quần chúng, không ngại gian khổ không sợ hy sinh… Họ đầy ham muốn, nhưng lúc cần che giấu vẫn biết khôn khéo lui xuống vị trí cần thiết để tạo nên hình ảnh có lợi trong mắt dân. Có lẽ chính vì thế mà trong cộng đồng dân tộc những năm đầy ác liệt, người cộng sản được số đông dân chúng tin cậy, giao phó sứ mệnh chèo lái mà ít mảy may nghi ngờ, lăn tăn.

Đội ngũ văn nghệ sĩ “chiến sĩ trên mặt trận văn hóa nghệ thuật” hoặc với tấm lòng ngây thơ, hoặc có dụng ý, ăn cây nào rào cây ấy, đã thỏa sức làm thơ, kẻ nhạc, dựng kịch, đóng phim, viết tiểu thuyết… ca ngợi người cộng sản, nâng họ thành “tên quân cảm tử đi tiên phong”, “như cánh chim trời không biết mỏi, mỗi bước đi biết mấy yêu thương”. Những hình tượng, hình ảnh đẹp nhất, có sức lôi cuốn nhất ở trên đời được ví, được gắn với người cộng sản. Đó là vầng thái dương, đuốc soi đường, nguồn ánh sáng, đỉnh cao chói lọi, người cầm lái vững vàng, ngọn cờ bách chiến bách thắng, chiến sĩ tiên phong…, tất cả được báo chí, đài phát thanh, cán bộ tuyên huấn hằng ngày ra rả phong tặng cho người cộng sản. Nói một cách khách quan, công bằng, không phải toàn bộ cộng sản ở xứ này, không phải tất cả mọi thành viên (đảng viên) của tổ chức chính trị đòi độc quyền lãnh đạo xứ này đều xứng đáng đeo những tấm huân huy chương bốc trời ấy, nhưng thực sự trong đội ngũ họ có những người như vậy, chỉ có điều rất ít, rất hiếm hoi.

Đừng quá đòi hỏi cao ở người cộng sản. Thực ra họ cũng là người chứ không phải thánh nhân siêu nhân, dù có lúc họ là đấng bậc. Người đứng đầu của họ, cụ Hồ, từng dạy họ phải có đủ cả tài đức, “có tài mà không có đức là người vô dụng/có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Người ta đang ca ngợi một nhân vật với những chi tiết đức độ, nhưng nếu cứ theo “chuẩn” của cụ Hồ thì người ấy không chỉ “làm việc gì cũng khó” mà còn gây ra biết bao tai hại. Vậy mà đám đông được bộ máy đương thời giáo dục rèn luyện vẫn cứ ca ngợi lên mây. Ông bạn tôi bảo, giả sử Tố Hữu – siêu chuyên gia ca ngợi có sống lại cũng phải chắp tay tôn hậu sinh làm sư phụ, bậc thầy.

Một trong những sai lầm và định kiến khó chữa nhất của người cộng sản là họ luôn cho mình đúng. Họ xem cộng đồng xã hội như một cơ thể, mà họ là bộ óc. Óc chi phối tất cả, điều khiển mọi hành vi. So với tim gan phèo phổi mắt mũi chân tay thì chỉ óc mới là lý trí. Có sai cũng vẫn lý trí hơn tim gan phèo phổi. Độc quyền nghĩ, độc quyền đúng; Không chịu lắng nghe; Ít phục thiện, ít sửa chữa. Từ đó phát sinh ra những hệ lụy khủng khiếp. Khi sự kiêu ngạo đã thấm vào từng tế bào thì “mục hạ vô nhân”, chả có gì lọt vào mắt họ, ngoài chính họ.

Sinh thời, giáo sư Hoàng Ngọc Hiến, người nổi tiếng với câu nói “Ấy, cái xứ ta nó thế”, đã viết rằng, những nhà cai trị của chế độ này cần đọc Luận ngữ của Khổng tử. Đừng vội cho rằng tư tưởng, lý luận của ông Tàu hủ nho đó thì đọc làm gì. Bài Trung chống Tàu (cộng) không có nghĩa là sổ toẹt hết. Cái nào đúng, đã được thử thách giá trị qua thời gian thì chả tội gì phải bỏ. Thiển nghĩ rằng, thứ cần bỏ ngay bây giờ không phải những lời răn của Khổng tử hoặc Hàn Phi tử mà chính là học thuyết Marx – Lenin, nhất là sự xúi giục đấu tranh giai cấp và lý luận về một chủ nghĩa xã hội không tưởng của mấy ông này, và đừng kiên định đường lối đi lên chủ nghĩa xã hội nữa, bởi chúng đã quá lỗi thời. Lỗi thời từ khi mới ra đời.

Trở lại cuốn sách nho nói trên. Trong sách đó có thuyết “Tử tứ tuyệt” gồm: vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã. Đáng chú ý, “vô ý” có nghĩa là trong bất kỳ xã hội hoặc thể chế nào, không được dành đặc quyền cho ý kiến quan điểm nào cả, đừng tuyệt đối hóa nó, bởi nếu như thế sẽ khiến ta (nhất là người cầm quyền) không nhìn thấy những ý khác, điều khác có thể còn đúng, còn hay hơn ý của ta, kể cả những ý kiến trái chiều, đối lập. Chỉ một cái “vô” đó thôi, chúng ta đã thấy người xưa tiến bộ như thế nào, cách nay cả hơn hai nghìn năm.

Vậy mà bây giờ nhà cai trị nước này, xã hội này, nhất là đảng (cộng sản), luôn cho mình đúng, là đỉnh cao chói lọi. Mỗi nghị quyết của họ đều được họ hãnh diện gọi là “ánh sáng” (dưới ánh sáng nghị quyết của đảng), có nghĩa sánh ngang với mặt trời. Họ độc quyền, độc tôn chân lý, chỉ riêng mình là đúng. Vênh váo thế nên họ xem thường tất cả mọi ý kiến quan điểm trái chiều, khác suy nghĩ, không chấp nhận những ai nói ngược họ. Ai nghĩ khác họ, họ quy là thế lực thù dịch, gắn mác “tự suy thoái”, “tự diễn biến”, tìm cách loại bỏ. Khi còn quyền lực trong tay thì họ trấn áp, đe dọa, vùi dập, nhưng liệu trong dòng chảy cuộc sống đang biến đổi tích cực từng ngày từng giờ thì liệu có dậm dọa được mãi không?

Hồi các thể chế chính trị trên thế giới còn chia làm hai phe kình địch, lứa 5X chúng tôi ở miền Bắc luôn được nghe từ đài báo nhà nước, từ cán bộ tuyên truyền rằng “chủ nghĩa cộng sản là mùa xuân của nhân loại”, còn chủ nghĩa tư bản đang tự đào mồ chôn, đang giãy chết. Cứ nghe mãi những điều ấy rồi cũng thành niềm tin mặc dù chẳng biết chủ nghĩa cộng sản lẫn chủ nghĩa tư bản mặt mũi ngang dọc như thế nào. Cái mùa xuân mà họ nói thì quá xa xôi, chưa biết bao giờ mới “theo chim én về”, còn tư bản khi nào chết cũng chả biết. Mọi thứ đều rất mơ hồ, chỉ có nghèo đói, chiến tranh, xung đột là có thực, phải chứng kiến hằng ngày.

Phải thừa nhận người cộng sản, dù ở Liên Xô, Trung Quốc hay Việt Nam, rất giỏi tuyên truyền. Họ nắm được quyền lực, độc quyền quyền lực, rất mạnh tay thực hiện chuyên chính vô sản, huy động hết tất cả cung bậc của bộ máy tuyên truyền, lại cộng thêm mị dân siêu hạng, nên có những thứ họ tưởng tượng ra tuy chỉ là bánh vẽ nhưng phần đông dân chúng cũng tin là thực. Dường như bất cứ điều gì họ chủ trương, nêu ra, họ (người cộng sản) đều cho là chân lý. Chẳng hạn họ luôn đề cao chủ nghĩa duy vật, chống lại mọi quan điểm duy tâm; đề cao tập thể, chống tôn phò cá nhân… nhưng trên thực tế thì ngược lại. Chính họ duy tâm siêu hạng, tôn thờ cá nhân, sùng bái cá nhân siêu hạng.

Trước hết, có thể thấy rõ thói kiêu ngạo cộng sản lộ rõ ở những từ ngữ, khẩu hiệu mà họ thường dùng. Hằng ngày ta luôn bắt gặp trên sách báo, trong những bản tin đài phát thanh, trên cửa miệng của cán bộ tuyên truyền, trên những bức tường khắp vùng thành thị lẫn nông thôn những từ: muôn năm, mãi mãi, vô địch, đời đời bền vững, sống mãi, bách chiến bách thắng, bất diệt… tất cả đều hàm chứa sự duy ý chí, phản lại quy luật cuộc sống.

Đi đâu người ta cũng gặp những câu khẩu hiệu dạng: Chủ nghĩa Mác-Lê Nin bách chiến bách thắng vô địch muôn năm; Đảng Lao động VN quang vinh muôn năm (giờ đây câu này gần như hiện diện 100% trên sân khấu tại các hội trường cơ quan đơn vị, chỉ khác tí ti là thay chữ Lao động bằng chữ Cộng sản); Đảng là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng; Chủ tịch… sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta; Tình hữu nghị Việt-Xô (Việt-Trung) đời đời bền vững; Tinh thần cách mạng tháng Tám bất diệt… 

Hồi gần nửa thế kỷ trước, tôi đi xe lửa qua Nhà máy xi măng Bỉm Sơn (do Liên Xô giúp xây dựng) thấy trên nóc nhà máy câu khẩu hiệu đúc bằng bê tông to vật vã “Tình hữu nghị Việt-Xô đời đời bền vững”, sau năm 1991, nó mất đi lúc nào không biết.

Là người duy vật, lẽ ra họ phải hiểu hơn ai hết rằng chẳng có cái gì tồn tại mãi mãi, vững bền muôn thuở, chẳng có gì hoàn hảo không tì vết. Mặt trời còn có lỗ đen, ngọc còn bị sứt mẻ, nói chi con người, xã hội loài người. Thế nhưng họ cứ thích nói ngược, thích duy ý chí, biết sai vẫn cứ làm, chứ không phải do u mê lú lẫn mà làm.

Sự sùng bái cá nhân của người cộng sản dường như một phần được hình thành từ sự kiêu ngạo. Với họ, cứ là lãnh tụ thì sẽ là thần thánh, là đỉnh cao chói lọi, sáng như vầng thái dương, đẹp hơn cả mùa xuân. Mỗi lời nói của lãnh tụ chả khác gì “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”. Những Lenin, Mao Trạch Đông, Stalin, Kim Nhật Thành, Castro, và cả cụ Hồ, đều được họ ca tụng cực kỳ mẫu mực, đẹp đẽ. Còn hơn cả Phật, cả Chúa. Không cho ai được động vào thần tượng. Nói đâu xa, ngay cỡ lãnh tụ tầm vừa vừa nhơ nhỡ ở xứ ta, như các vị Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh… tới dịp kỷ niệm ngày sinh, ngày mất cứ ồn ào như hội, đó là chưa kể xây dựng đủ thứ nhà tưởng niệm, tượng đài nọ kia khiến thiên hạ cảm tưởng đó là Thánh chứ không phải người.

Cả dân tộc đâu phải chỉ “đói nghèo trong rơm rạ” mà còn khổ sở bởi sự hoang tưởng, kiêu ngạo, tôn sùng cá nhân của họ. Khi đã cố tình coi cá nhân như Trời như Thánh thì họ lờ đi tất cả những điều tầm thường, xấu xa, tội lỗi; chỉ khai thác, lần mò, đào bới, ca tụng những siêu việt của cá nhân, thậm chí còn bịa ra cho siêu nhân được hoàn chỉnh hoàn hảo để lừa đám quần chúng ngây thơ cả tin. Cộng sản nơi đâu cũng vậy, từ trước tới nay, nên mới có những Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành… tỏa hào quang chói lọi.

Tự xưng là lực lượng tiến bộ nhất của xã hội loài người, có tư duy khoa học, nhìn nhận sáng suốt, suy nghĩ biện chứng… nên họ rất kiêu ngạo. Sau cuộc nội chiến kéo dài suốt hơn 20 năm (1954-1975), người cộng sản giành phần thắng nên càng sinh kiêu ngạo. Sau ngày 30.4.1975 rất phổ biến tâm lý “từ nay đất nước ta hoàn toàn giải phóng, vĩnh viễn độc lập tự do”, “đất nước ta đã thu về một mối, vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của đế quốc thực dân, vĩnh viễn sạch bóng quân thù, hoàn toàn tự do độc lập”.

Những câu trên tôi trích trong Lời giới thiệu cuốn “Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội” của Nhà xuất bản Sự thật (nhà xuất bản riêng của Đảng), xuất bản tháng 8.1975.

Và không chỉ trong sách, chính Tổng bí thư Lê Duẩn cũng từng rất hào hứng khẳng định trong diễn văn tại lễ kỷ niệm quốc khánh 2.9.1975 rằng, kể từ nay đất nước vĩnh viễn sạch bóng quân thù, thênh thang con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự mừng rỡ say chiến thắng thái quá cùng sự kiêu ngạo đã làm họ không thấy những tai họa cận kề đang rình rập, kéo dài mãi tận bây giờ.

Nhưng có thể châm chước cho những suy nghĩ như thế nếu ở vào thời điểm núi lửa lịch sử phun trào dung nham quá nóng quá mạnh, chứ mãi về sau gần nửa thế kỷ, khi đất nước đang loay hoay xóa đói giảm nghèo, nghèo bền vững, lo tụt hậu, ở khoảng cách rất xa so với những nước trước kia cùng xuất phát điểm với mình, tham nhũng tràn lan, đạo đức xuống cấp, văn hóa lộn xộn, dân chủ bị co hẹp… thế mà người đứng đầu đảng vẫn sung sướng tự hào “từ xưa đến nay, đất nước có bao giờ được thế này chăng”, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, uy tín và vị thế quốc tế như ngày nay”, “dân chủ đến thế là cùng”…

Đó là cái nhìn, cách nghĩ của anh binh nhì đang tập đội ngũ dậm chân tại chỗ chứ không phải của người đang làm chủ cuộc sống, chứ chưa nói gì lãnh đạo xã hội.

Chính thói kiêu ngạo cũng đã làm xói mòn phẩm chất đẹp đẽ từng có của người cộng sản. Đã có thời họ gắn bó với nhân dân, cùng vui cùng buồn, cùng chia bùi sẻ ngọt. Thói kiêu ngạo đã tách cá ra khỏi nước, khiến họ rất khó coi, trở thành lố lăng, kiểu như ông Bộ trưởng, Chủ nhiệm văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng hùng hồn tuyên bố: “Nếu ta sai thì ta xin lỗi, còn nếu dân sai thì dân phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”; hay như nhận xét nổi tiếng của bà Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan: “dân chủ của ta hơn gấp vạn lần dân chủ tư bản”. Dạng “lời hay ý đẹp” như thế nhiều lắm, chả thể kể ra hết được.

Thôi thì, nói như nhà thơ Việt Phương, “Ta đã thấy những vết bùn trên các vì sao”, nay chỉ ra vết bùn sự kiêu ngạo của “sao”, tôi chỉ mong muốn họ biết lắng nghe, thực tâm gột rửa để ngày càng trở nên sạch sẽ, gần gũi với mọi người dân trên đất nước này. Còn họ khăng khăng không thừa nhận cũng đành chịu, chả cãi họ được.

N.T.

Nguồn: FB Nguyễn Thông