Lòng tin và sự xấu hổ

Lòng tin và sự xấu hổ

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đọc diễn văn trong phiên họp khai mạc cuộc họp Shangri-La bàn về an ninh khu vực Đông Nam Á, ngày 31/5/2013.

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đọc diễn văn trong phiên họp khai mạc cuộc họp Shangri-La bàn về an ninh khu vực Đông Nam Á, ngày 31/5/2013.

Nguyễn Hưng Quốc

13.06.2013

nguồn:VOA

Nhân nhắc đến khái niệm lòng tin chiến lược trong bài nói chuyện của ông Nguyễn Tấn Dũng, chúng ta thử bàn về chuyện lòng tin trong chính trị nói chung. Nói đến lòng tin, ở đây tôi chỉ muốn tập trung vào sự tin cậy (trust, chứ không phải faith hay belief) và chỉ giới hạn trong phạm vi chính trị đối nội, trong nội bộ một quốc gia.

Trước hết, hầu như ai cũng biết sự tin cậy là một trong những yếu tố quan trọng nhất để mọi người có thể sinh hoạt chung với nhau trong xã hội, từ phạm vi nhỏ và riêng tư nhất là gia đình và bạn bè đến những phạm vi lớn hơn như các cơ sở làm ăn buôn bán hoặc các đoàn thể và cuối cùng, sinh hoạt chính trị trong cả nước. Nền tảng của cái gọi là đạo đức công dân, thật ra, là vấn đề tin cậy: mình tin người khác và làm cho người khác tin mình bằng cách, trước hết, tự mình làm cho mình đáng tin cậy. Nền tảng của dân chủ, nghĩ cho cùng, cũng là sự tin cậy: tin cậy vào thiện chí của người khác và vào quyết định của đa số (biểu hiện cụ thể nhất là qua các lá phiếu).

Trong chính trị đối nội, lòng tin có ba loại: tin vào các nhà lãnh đạo, tin vào các tổ chức công quyền và tin vào cơ chế.

Trong các tổ chức công quyền, nổi bật nhất là lập pháp (tập trung vào Quốc hội – ở một số nước, có hai hình thức chính Thượng viện và Hạ viện), hành pháp (tập trung vào phủ Tổng thống và/hoặc văn phòng Thủ tướng) và tư pháp (qua hình ảnh của toà án cũng như công an). Ranh giới giữa lòng tin vào các nhà lãnh đạo và các tổ chức công quyền không hoàn toàn rạch ròi: Ở các cơ quan hành pháp, người ta có khuynh hướng nhìn vào người lãnh đạo cao nhất (tổng thống hoặc/và thủ tướng); còn ở các cơ quan khác, từ lập pháp đến tư pháp, vai trò tập thể nổi bật hơn vai trò của cá nhân, do đó, người ta có thói quen nhìn vào cả cơ quan hơn hơn là từng người cụ thể, ngay cả là người lãnh đạo cao nhất.

Đối với các nhà lãnh đạo, lòng tin cũng có nhiều loại: Một, tin vào cá tính và đạo đức của họ; và hai, tin vào lý tưởng cũng như các chính sách mà họ theo đuổi. Trong hai loại lòng tin ấy, cá tính của người lãnh đạo là yếu tố quan trọng đầu tiên, có vai trò thu hút quần chúng nhất. Không có cá tính mạnh và không có sức cuốn hút quần chúng, không ai có thể trở thành lãnh tụ được, nhất là ở các quốc gia dân chủ, nơi để trở thành lãnh tụ, người ta phải trải qua những cuộc tranh cử và bầu cử gay gắt, trước hết, trong nội bộ đảng, và sau đó, trong phạm vi quốc gia. Nhưng yếu tố đầu tiên này tức khắc trở thành thứ yếu khi người ta trở thành lãnh tụ thực sự. Khi trở thành lãnh tụ, yếu tố được quần chúng quan tâm nhất lại là lý tưởng và từ đó, chính sách của họ. Lý tưởng, vốn thường lớn và chung chung, là yếu tố đầu tiên để gây chú ý và sự đồng cảm. Tuy nhiên, yếu tố chính để quần chúng đánh giá giới lãnh đạo chính là đường lối và chính sách, tức những khía cạnh nhằm hiện thực hoá lý tưởng mà họ tuyên truyền. Đối với đường lối và chính sách, ba điều kiện căn bản nhất là: một, rõ ràng; hai, nhất quán; và ba, hiệu quả. Xuyên suốt từ đầu đến cuối, vấn đề đạo đức của nhà lãnh đạo luôn luôn là một vấn đề quan trọng. Có điều, ở đây là đạo đức công dân chứ không phải là đạo đức cá nhân. Những cái gọi là hiền lành, khiêm tốn, hòa nhã, dễ thương, mau nước mắt, v.v. đều thuộc loại đạo đức cá nhân. Là đạo đức cá nhân, chúng chỉ có ý nghĩa trong phạm vi liên-cá nhân, giữa người này và người khác, trong một không gian có giới hạn. Điều người ta quan tâm nhất ở nhà lãnh đạo là thứ đạo đức công dân, trong đó, nổi bật nhất là sự trong sạch, tinh thần trách nhiệm và tôn trọng pháp luật, bởi vậy, ba cái xấu thường dễ bị theo dõi và lên án nhất chính là tham nhũng, vô trách nhiệm và lạm dụng quyền hành.

Đối với các tổ chức, nội dung của cái gọi là lòng tin chỉ tập trung chủ yếu vào khía cạnh thực hành với hai nội dung chính: năng lực và tính hiệu quả. Tiêu chí để đánh giá việc thực hành là hiến pháp và luật pháp. Nói đến năng lực và tính hiệu quả của các cơ quan, người ta phải đối chiếu việc thực hành của các cơ quan ấy so với các quy định ghi trong hiến pháp và luật pháp. Nếu nhiệm vụ chính của công an, chẳng hạn, là bảo đảm an ninh và an toàn trong xã hội thì năng lực và tính hiệu quả của công an cần phải được đo lường và đánh giá trên mức độ tội phạm các loại trong xã hội.

Đối với cơ chế, lòng tin chủ yếu tập trung vào tính lý tưởng, tính hiệu quả và sự bền vững của nó.

Qua ba loại lòng tin ở trên, chúng ta có thể nhận thấy sự khác biệt giữa các xã hội dân chủ và các xã hội phi dân chủ.

Ở các xã hội dân chủ, từ Mỹ đến Úc và toàn bộ các quốc gia Tây Âu và Bắc Âu, dân chúng có thể mất lòng tin vào giới lãnh đạo hay các cơ quan công quyền, nhưng họ luôn luôn tin tưởng vào cơ chế. Cơ chế dân chủ mà họ thiết lập và hoàn thiện suốt cả trăm năm hoặc lâu hơn nữa không những có tính lý tưởng cao, phù hợp với những bảng giá trị phổ quát của nhân lại (tôn trọng tự do cá nhân và sự bình đẳng giữa mọi người cũng như tinh thần thượng tôn pháp luật) mà còn có tính hiệu quả trong việc vận hành kinh tế, an sinh xã hội và đặc biệt, quản trị đất nước. Hơn nữa, mọi người còn tin tưởng vào sự bền vững của nó: Một mặt, giới lãnh đạo hay các cơ quan công quyền có thể thay đổi, nhưng cơ chế dân chủ thì không; mặt khác, chính cơ chế ấy bảo đảm mọi sự thay đổi quyền lực đều diễn ra một cách êm thắm, không gây nên bất cứ một xáo trộn nào trong xã hội. Chính vì vậy, ở hầu hết các nước dân chủ, tâm lý quần chúng thường khá an tâm sau các cuộc bầu cử. Trong bầu cử, người ta có thể tranh đấu với nhau một cách dữ dội nhưng bầu cử xong, tuy có kẻ thắng người thua và tuy sẽ có những chính sách khác nhau, mọi người vẫn biết rõ một điều: tự do, dân chủ, nhân quyền và pháp chế vẫn được tôn trọng và duy trì. Dưới chính phủ mới, một số người có thể bị cắt bớt một phần trong các trợ cấp thất nghiệp hay trợ cấp xã hội, chẳng hạn, nhưng chắc chắn, sẽ không có ai bị bỏ đói, bị tước đoạt đất đai hay bị bắt bỏ tù một cách vô lý vì một số phát ngôn hay vì tham gia một cuộc biểu tình nào đó.

Cũng chính vì tin cậy vào cơ chế nên ở các quốc gia Tây phương, hầu như không ai nghĩ đến chuyện gây bạo loạn để lật đổ chính quyền. Mọi sự thay đổi, nếu có, đều diễn ra bên trong cơ chế, với các luật chơi gắn liền với cơ chế.

Ở các nước phi dân chủ, ngược lại, điều người ta ít tin nhất, lại là cơ chế. Thoạt đầu, chế độ phi dân chủ nào cũng khuếch đại tính lý tưởng của nó để thu phục nhân tâm. Nhiều người sẵn sàng tin và có người sẵn sàng hy sinh tính mạng để thực hiện các lý tưởng ấy. Nhưng cái thiếu nhất của các chế độ độc tài là tính hiệu quả. Khái niệm hiệu quả ở đây không chỉ giới hạn trong phạm vi kinh tế mà còn trải rộng ra mọi phạm vi khác, từ luật pháp đến xã hội, văn hóa, chính trị và nhân quyền. Cứ nói mãi đến tự do nhưng đi đâu cũng đối đầu với công an, lúc nào cũng có nguy cơ bị công an còng tay hay đạp vào mặt; cứ nói mãi đến dân chủ, nhưng tranh cử thì hạn chế, bầu cử thì gian lận, bộ máy công quyền đều được giao phó cho những kẻ bất tài nhưng có nhiều “quan hệ”… dần dần người ta sẽ mất hết niềm tin. Chính vì có sự trái ngược giữa tính lý tưởng và tính hiệu quả như vậy, mọi chế độ độc tài đều thiếu hẳn tính ổn định và bền vững. Kiểu tuyên truyền ưu tiên cho ổn định ở các nước độc tài, trong đó có Việt Nam, là một lối ngụy biện đầy nghịch lý, bởi, tự bản chất, đã độc tài thì không thể ổn định, và vì không ổn định, nó cũng không thể bền vững.

Đó chính là tình trạng ở Việt Nam hiện nay.

Lần lượt, nhiều người, ngay cả những kẻ từng cúc cung phục vụ chế độ gần như cả đời, đều nhận ra một điểm: tất cả các khuyết điểm ở Việt Nam đều bắt rễ từ một cái lỗi chính, có người gọi là “lỗi hệ thống”. Lỗi hệ thống tức là lỗi ở cơ chế. Lỗi ở cơ chế chủ yếu là lỗi ở ba khía cạnh: một, phương thức lên cầm quyền (thường, một cách chính đáng, phải gắn liền với các cuộc bầu cử tự do); hai, ở phương thức phân quyền (yêu cầu tối thiểu là tính chất độc lập của tư pháp, và đằng sau nó, lực lượng công an); và ba, phương thức kiểm soát quyền lực (chỉ đáng tin cậy khi, thứ nhất, người kiểm soát độc lập với người bị/được kiểm soát; và thứ hai, từ nhiều nguồn khác nhau. Ở Tây phương, cơ cấu kiểm soát quyền lực thường chằng chịt nhiều tầng và từ nhiều góc độ khác nhau, từ tư pháp đến truyền thông, các tổ chức chính trị đối lập, các tổ chức phi chính phủ và, bàng bạc khắp nơi, dân chúng).

Lâu nay, dường như chính quyền Việt Nam cảm thấy tuyệt vọng trong việc củng cố lòng tin của dân chúng vào cơ chế nên bộ máy tuyên truyền của họ thường hiếm khi đề cập đến cơ chế, vốn gắn liền với chế độ. Họ chỉ sử dụng biện pháp tiêu cực là cấm đoán việc phê phán cơ chế hoặc lâu lâu vẽ vời vài chuyện nhăng nhít (trong đó, mới nhất là việc bỏ phiếu tín nhiệm giới lãnh đạo) để mị dân hoặc lừa dân với ảo tưởng là cơ chế ấy đang trong tiến trình tự hoàn thiện. Nhưng cố gắng xây dựng lòng tin dựa trên lời hứa hẹn là nó đang tự thay đổi và hoàn thiện chỉ là một trò chơi nửa vời của những kẻ đang biết là mình thua cuộc. Nó thiếu hẳn tự tin. Và cũng thiếu lòng tin ở cơ chế.

Trước đây, bộ máy đảng và chính quyền tập trung thật nhiều công sức vào việc gây dựng lòng tin vào các nhà lãnh đạo bằng cách thần thánh hóa, hoặc ít nhất, thần tượng hóa một người nào đó, trước là Hồ Chí Minh, sau là Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp. Nhưng với giới lãnh đạo thuộc các thế hệ sau, các nỗ lức ấy bị biến thành tuyệt vọng ngay cả trước khi họ bắt đầu thực hiện. Lý do chính, tôi nghĩ, là do sự phát triển của truyền thông. Với thế hệ lãnh đạo đầu tiên, việc thần thánh hóa tương đối dễ: dưới mắt dân chúng, ông Hồ Chí Minh, chẳng hạn, lâu lâu mới thoáng qua một lần. Toàn bộ hình ảnh của ông là do các cán bộ tuyên truyền hoặc chính ông vẽ ra. Không ai có thể kiểm tra được cả. Giới lãnh đạo gần đây, đi đâu cũng có các ống kính chĩa vào ghi hình và ghi âm, rất dễ bộc lộ những sự hớ hênh trong cả trí tuệ lẫn nhân cách. Huống gì hầu hết các nhà lãnh đạo gần đây đều thuộc loại kém cỏi. Họ khó đủ sức để giữ được lòng tin của quần chúng.

Dĩ nhiên, nói đến lòng tin của dân chúng đối với lãnh đạo Việt Nam, chúng ta khó tìm ra một bằng chứng cụ thể nào để phân tích. Bầu cử thì gian lận; các cuộc điều tra dư luận thì bị cấm đoán, mọi cố gắng tìm kiếm số liệu đều trở thành vô vọng. Nhưng ít nhất cũng có một số người biết chắc chắn là dân chúng không tin giới lãnh đạo: Đó chính là giới lãnh đạo hiện nay. Biết, nên họ sợ và tìm mọi cách để tránh né việc đối đầu với việc bày tỏ cách đánh giá của dân chúng. Họ biết chắc chắn một điều: nếu để dân chúng tự do bộc lộ lòng tin, họ sẽ chỉ đạt được số âm.

Như vậy, ở đây, chúng ta lại thấy một khía cạnh khác: Ở Việt Nam, không phải chỉ có việc dân chúng mất lòng tin vào cơ chế, cơ quan công quyền và giới lãnh đạo mà còn có hiện tượng bản thân giới lãnh đạo cũng không tin vào cơ chế và đặc biệt, vào quần chúng. Họ không bao giờ dám để dân chúng phát biểu một cách tự do và trung thực. Họ cũng không dám để dân chúng được tự do lựa chọn. Đây đó, họ giải thích lý do tại sao Việt Nam không thể đa đảng: đa đảng sẽ gây nên hỗn loạn. Tại sao đa đảng, ở các nơi khác không gây nên hỗn loạn mà ở Việt Nam thì có? Họ trả lời: Tại dân trí Việt Nam còn thấp! Nói thế tức là không tin vào trí tuệ, vào phán đoán, và cuối cùng, sự lựa chọn của dân chúng.

Trên diễn đàn quốc tế, giới lãnh đạo Việt Nam nói đến lòng tin, nhưng một trong những bi kịch lớn nhất ở Việt Nam là không ai tin ai cả. Trong quan hệ xã hội, người ta không tin nhau. Trong quan hệ chính trị, dân chúng không tin nhà cầm quyền và nhà cầm quyền, ngược lại, cũng không tin dân chúng. Khi lòng tin bị đánh mất, yếu tố thống trị mọi quan hệ xã hội và chính trị chỉ còn là sự giả dối.

Giả dối thì ở đâu cũng có, nhưng ở Việt Nam, sự giả dối có hai điểm đặc biệt: Thứ nhất, nó không phải chỉ hiện diện, thậm chí, không phải chỉ phổ biến mà còn thống trị mọi sinh hoạt và mọi loại quan hệ; và thứ hai, chính vì tính chất thống trị ấy, nó trở thành một điều bình thường, không còn làm cho ai xấu hổ cả.

Không có một xã hội nào có thể lành mạnh nếu thiếu sự tin cậy và không có một nền đạo đức nào có thể đứng vững nếu thiếu sự xấu hổ.

Tiếc, Việt Nam thiếu cả hai.

Ráng Chiều Đẹp Hơn Nắng Bình Minh!

Ráng Chiều Đẹp Hơn Nắng Bình Minh!

Thứ sáu đầu tháng sáu là lễ Kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, ngày thế giới xin ơn thánh hoá các linh mục. Tháng Sáu cũng có “Ngày của Cha”. Nhận lời uỷ thác của người linh mục lãng tử, tôi đến thăm một nơi như nắng đang dần tắt, những người cha già ở đó khi đời xế bóng trong âm thầm mà rất bình an. Niềm bình an chỉ có được khi họ tin tưởng phó thác vào lòng thương xót của Chúa, chứ không phải vào những ảo ảnh phù phiếm thế gian…

Như nắng đang dần tắt….

Chỉ cách thế thôi, một hàng rào, mà thế giới hình như đã chia hai. Kể từ khi đặt chân vào và chạm hai gốc sứ với nhiều hoa trắng đang tỏa hương, tôi lạc vào một thế giới khác. Thế giới của những người như nắng đang dần tắt.

Tĩnh lặng. Tĩnh lặng tưởng như không người. Cái yên tĩnh khiến chính bản thân khách lạ cũng không dám bước bình thường, phải rón rén nhẹ nhàng, kẻo làm vỡ mất một bầu khí rất mỏng manh, rất bình lặng.

Có một căn phòng cửa mở, có lẽ cả tòa nhà ba tầng cổ xưa này duy nhất có một phòng này mở cửa, khiêm nhu phía trên gắn hai chữ xanh cũng quá cũ theo thời gian : Văn Phòng.

Không có người chăng ? À ! Một sơ đang lúi húi làm một việc gì đó. Màu áo xám động đậy theo cử động đôi tay. Hóa ra khi làm cái việc tỷ mỉ ấy, người nữ tu đã bỏ lại sau lưng mình cả một cuộc đời. Mới đó mà cũng đã mấy chục năm với màu áo xám này. Sơ đã quên đi đời thiếu nữ để trở thành một người mẹ vô cùng đặc biệt.

Khi phát hiện ra khách,mỉm cười nhẹ nhàng : “Con ngồi chờ chút nhé ! Để sơ đóng nốt chỗ sữa chua này cho xong. Phải làm luôn chứ thứ thực phẩm này ngưng lại bỏ ngang là hỏng ăn luôn con ạ !”

Chút kiên nhẫn của tôi có đáng là bao so với sự kiên nhn của đôi vai gy tưởng như rất nhỏ nhắn của sơ. Người nữ tu ấy đã gắn bó với mái ấm này cùng với hai cộng sự để chăm sóc những người “đặc biệt”. Những người làm “cha”, có “con”, mà vĩnh viễn không bao giờ lập gia đình !

– Đấy con à ! Cha T. mới mất, còn cha H. thì vừa nhập viện. Sơ vừa giặt xong áo cho ngài. Coi nè, sạch không ? Để chiều còn đem vào viện.

Mặt bàn khách, dưới tấm kiếng dày, có nhiều ảnh các linh mục rạng rỡ cười, là các cha hưu dưỡng tại đây. Các ngài đã ra đi bình an hoan hỉ trong Chúa.

Hiện giờ ở đây chỉ còn 12 cha già thôi con ạ ! Cha lớn tuổi nhất là cha V. Thiếu một năm nữa là đầy trăm tuổi rồi đó ! Ờ… Con nhận xét rất đúng. Ở đây tĩnh lặng quá đúng không ? Thì già cả rồi mà ! Có cha giờ luôn trong phòng, chẳng còn bước xuống cầu thang được nữa, nói chi ngó ra đời sống ngoài kia. Chúa sắp đặt rồi con. Ừ, đợi sơ, sơ sẽ dắt con đi thăm từng cha. Chắc các ngài mừng lắm đấy !

·       Như hoa rã cánh rơi không tiếng-chẳng hái mà hoa cũng hết dần

Tôi muốn mượn hai câu thơ của Xuân Diệu để viết tiếp về nơi này, “Như hoa rã cánh rơi không tiếng – chẳng hái mà hoa cũng hết dần.” Theo chân người nữ tu, tôi lần lượt vô thăm một số cha già. Gõ cửa cho đúng phép tắc vậy thôi, khi nghe tiếng mời vào là khách chủ động đẩy ca vônhiều cha rất yếu, chỉ mấy bước chân từ ghế ra cửa cũng đã là rất khó.

Cha già đầu tiên tôi gặp, đầu cạo trọc, móm mém rất dễ thương. Cha mặc sẵn áo chùng đen. “Để lỡ có ai vào mình phải chỉnh tề, không làm xấu danh Chúa!” Cha cho biết thế. Rồi cha tự xoa cái đầu láng o, cười móm mém : “Ở nhà Chúa mà làm một sư cụ xem sao. Nói đùa con đó. Cha mới đi bệnh viện về. Người ta cạo đầu truyền nước biển và tiện chăm sóc cho đỡ cực vậy mà !”

Tôi xúc động chẳng biết nói gì, khi chính người mục tử 96 tuổi đời ấy nhắc tôi : “Con ráng đi thăm từng cha nha ! Ông này thì điếc. Ông kia thì mắt mờ rồi nè. Còn cụ kia thì không nói được nữa, cấm khẩu rồi. Chắc vài hôm nữa Chúa đón về thôi con ạ…

Khi tôi nói người linh mục dòng không về nơi này được, có ý ủy thác tôi tới thăm các cha già, thì cha rưng rưng lệ và nói : “Ừ, trước đây ông đó ghé cha hoài. Cha biết ông đó vẫn được người ta gọi là linh mục lãng tử, thế thì nhắc ổng phải ráng ra đi. Đức Giêsu cũng là lãng tử vì Người phiêu bạt khắp chốn, không có nơi tựa đầu. Lãng tử là người sống “an nhiên tự tại”, không bám trụ vào cái gì, không bám vào chức tước địa vị, vào quyền lực thế gian, cũng không bám vào ai cả ngoại trừ Thiên Chúa. Cả chúng con cũng phải ra đi. Phải để tình Chúa xót thương đến với nhiều người, nhất là người nghèo khổ. Muốn cách nào thì cách !”

Có những căn phòng cửa đóng, sơ cho biết cha mệt, đang ngủ rồi. Chúng tôi lặng lẽ đi qua. Người già giấc ngủ hiếm hoi, để các ngài chợp mắt

Tôi vô phòng thăm cha V. là người lớn tuổi nhất trong nhà hưu dưỡng này. Cha không thể nằm được mà ngồi trên một ghế được chế tạo như một cái giường. Nửa nằm nửa ngồi thế mới duy trì được hơi thở mong manh như sương khói.

Tôi run run nắm tay cha già. Bàn tay gần như đã khô, làn da chẳng khác nào loại giấy gió mà người ta vẽ tranh đông hồ, mỏng đục và trong suốt, nhìn rõ từng tĩnh mạch. Cha nằm đó bất động, không thể nói được gì nữa, chỉ nằm thế thôi. Cha sống đời thực vật, để duy trì sự sống cho cha, các sơ phải cạy miệng nhỏ từng giọt sữa.

Tôi khóc. Vâng, tôi đã khóc. Để những giọt lệ lăn trên gò má, tôi cố ngăn tiếng nấc nghẹn ngào. Chẳng phải trước mặt tôi là những con người đã từng “một thời vang bóng” đó sao ? Có những cha đã xây bao nhiêu nhà thờ, trường học, coi sóc bao nhiêu giáo xứ, nhà trường, bệnh viện, trung tâm. Có những cha đã từng đi du học nhiều nước, từng đọc thiên kinh vạn quyển, viết bao nhiêu sách, dạy bao nhiêu học trò. Có những cha bước chân truyền giáo đã đi khắp vùng đất nước, lặn lội hang cùng ngõ hẻm, đưa bao nhiêu người vào Đạo, thực hiện biết bao chương trình bác ái xã hội. Học trò của các cha bây giờ có người làm giám mục, bề trên, giám đốc, cha sở… Giáo dân của các ngài bây giờ nhiều người thành danh, con đàn cháu đống, nhà cao cửa rộng, nắm chức vụ cao cấp trong nước cũng như tản mạn ở nhiều nước trên thế giới. Bây giờ có mấy người còn nhớ đến người thầy, người cha của mình năm xưa ? Bao tinh hoa học vấn cùng sức khỏe các cha đã vắt hết, vắt cạn, đã dâng trọn để làm vinh danh Chúa. Những người mục tử đã sống hết mình vì đoàn chiên, hết lòng với giáo hội, giờ biết mình tuổi già sức yếu lặng lẽ rút vào bóng tối để cho lớp đàn em tiến lên. Những ngọn đèn dầu leo lắt ấy vẫn tiếp tục đóng góp cho giáo hội bằng lời cầu nguyện âm thầm, bằng những hy sinh chịu đựng đau ốm bệnh tật và nỗi cô đơn quạnh hiu…

Muốn tôi vơi bớt nỗi xúc động trào dâng, sơ đưa tôi tới một phòng khá đặc biệt. Phòng toàn sách là sách, lọt thỏm trong nhà sách tựa như cái kho đó là một cụ già đôi mắt tinh anh. Cụ có thói quen rất lạ lùng : 89 tuổi nhưng có thể đứng trò chuyện với khách cả tiếng đồng hồ. Ngay cả khi tôi lấy ghế mời cha ngồi, cha vẫn không chịu mà đứng thế như một cách rèn bản thân. Cha đã 89 tuổi.

Cha già nói với tôi : “Con ạ ! Uống nước phải nhớ nguồn. Không có cha mẹ là không có mình. Các con phải nhớ điều đó !”

Cha cập rập lấy ra bức ảnh phụ mẫu của ngài tặng cho tôi và tiếp lời : “Nghe cha dặn nè. Đi đâu thì đi. Làm gì thì làm. Vào nhà thờ là giản dị, dùng tiếng mẹ đẻ của mình. Cha vẫn nhắc các linh mục trẻ rằng giảng dạy bớt pha tạp tiếng Tây. Nếu trích dẫn bằng tiếng nước ngoài là phải chú giải ngay cho bà con người ta hiểu. Giảng gì thì phải đơn giản thực tế dễ hiểu. , mà cha quên… Con là giáo dân, đâu có phải là linh mục chớ !”

Rồi cha đọc cho tôi một câu thơ cổ, chắc là thơ từ thuở người ta còn học tam tự kinh :

“Trai thì chữ hiếu làm đầu,

Gái thì đức hạnh làm câu sửa mình.”

Bỗng như là khói sương, cha dặn tôi : “Con ghé hết các cha chưa ? Nhớ ghé cha Xuyên. Ngài không được khỏe.”

Tôi cắn chặt môi, nén tiếng khóc nức nở : “Cha ơi! Cha Xuyên mới qua đời rồi ! Hóa ra con người tinh thông, tài giỏi trước mặt tôi dù có thể đứng cả tiếng đồng hồ không mỏi lại không thể đi lại bình thường, không thể xuống ba tầng cầu thang bộ, và trí nhớ đã lẫn khi quên mất người bạn mới qua đời. Thế giới của cha là kho sách nhuốm bụi này với bao tinh hoa trí tuệ. Cha rất vui khi ai đó tới chơi để cha có dịp trò chuyện.

Khi tôi chuẩn bị ra về, sau khi đã gửi lại đầy đủ các phần quà do người linh mục lãng tử ủy thác đến từng người trong tòa nhà cổ kính này, thì có một anh giáo dân ghé thăm.

Sơ mừng rỡ : “Ồ may quá! Sơ đang đợi anh đây. Chịu khó vào giúp sơ một tay, chứ mình sơ loay hoay không làm được !”

Thì ra có những món đồ bị hỏng : vài cái bàn long chân, những vòi nước cũ kỹ hoen rỉ đã hư mục, mấy bóng đèn chập chờn, ổ khoá bị hóc, cây quạt bị hỏng…

Vâng, nơi này không chỉ là nỗi cô đơn của người già. Nơi này còn là khó khăn của những người phục vụ phải loay hoay nuôi các cha già, mà tuổi tác bệnh tật giờ giống như trẻ thơ, rất và rất cần được nâng niu chăm sóc kỹ lưỡng.

Thầm lặng trước đài Đức Mẹ, tôi ao ước. Một ao ước rất giản dị là có nhiều giáo dân và các mục tử tới nơi này như con cháu về nhà thăm viếng chính cha mẹ mình, để những nơi cô tịnh này được rộn ràng bước chân, tíu tít lời thăm hỏi và rộn rã nụ cười. Đó là cách tri ân những hạt lúa đang chấp nhận mục nát dần đi để cánh đồng truyền giáo trổ sinh nhiều hoa trái. Sự mục nát ấy thật có giá trị và rất đáng nâng niu.

Cảm ơn ông, người linh mục lãng tử, cảm ơn một tấm lòng lặng lẽ sẻ chia. Rời nhà hưu dưỡng, khi nắng chiều đang dần tắt, vài cánh hoa sứ rơi rụng trên vai, vẳng nghe tiếng kinh từ trong ngôi nhà nguyện, thấy những bóng hình già yếu, run run tay chắp, mắt nhắm nguyện cầu, tôi chợt thấy “đôi khi ráng chiều đẹp hơn nắng bình minh…”

THU HƯƠNG

Từ bỏ… để gặp gỡ , Hay gặp gỡ… rồi từ bỏ???

Từ bỏ… để gặp gỡ

Hay gặp gỡ… rồi từ bỏ???

Lung Linh

Tôi là một cô gái điếm nổi tiếng trong vùng với nhan sắc trời cho duyên dáng mặn mà.

Khách hàng của tôi khá đa dạng trong đó có cả những ngài biệt phái đạo mạo, nhà luật sĩ nghiêm trang, thậm chí một vài tư tế có vẻ cao siêu thánh thiện nữa đấy…

Ban ngày, họ lên mặt đạo đức xa lánh, khinh rẻ những người hè hạ như tôi…Nhưng ban đêm, với bóng tối đồng lõa, họ tìm tới tôi như con hổ đói mồi… ngấu nghiến ăn một món fast food cho thỏa ‘con lợn lòng’…rồi mau chóng lẻn đi vào ngõ hẻm tối hù… nơm nớp lo sợ bị người khác bắt gặp…

Thỉnh thoảng, lúc nửa đêm về sáng, tôi trằn trọc.. không tài nào ngủ được. Những câu hỏi liên tục tra tấn tâm trí tôi:

–  Tại sao cũng là con người mà tôi lại phải mang thân phận nhơ nhớp như thế này?

–  Tại sao cũng là con người mà tôi lại bị coi như một món đồ chơi cho những kẻ thừa tiền rửng mỡ??

–  Tại sao cũng là con người mà tôi không thể ngẩng mặt lên với đời. mọi người khinh bỉ tôi, tìm cách xa lánh tôi???

Và tôi không thể nào tìm ra câu giải đáp cho cuộc đời khốn khổ của mình.

Bất ngờ một hôm, tôi nghe người ta kháo láo với nhau về một chàng Giêsu nào đó. Kẻ khen, người chê…khiến cho tôi càng thêm tò mò. Tôi ăn mặc thật kín đáo, trộn lẫn vào đám đông để tìm hiểu xem chàng Giêsu này thế nào.

Quả thực, tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Chàng rất khác người.

Những lời chàng nói thực mãnh liệt và tràn đầy tình thương:

“Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa.
Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.

Thực thế sao??? bấy lâu nay tôi cứ tưởng đã làm thân gái điếm bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa.. thì chỉ có một con đường duy nhất đó là ngưỡng cữa hỏa ngục đang mở rộng để một ngày nào đó lũ quỷ dữ hè nhau lôi tôi vào đó.

Nay lại nghe chàng nói như thế lòng tôi bừng lên một niềm hy vọng sáng ngời.

Cụ thể hơn, một hôm tôi nghe chàng tuyên bố:

“Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần.
Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.”

Tôi có cảm tưởng không phải chàng nói cho các môn đệ của chàng…mà dường như chàng nói với chính tôi đây. Chàng đang kêu gọi tôi sám hối ăn năn.

Khi chữa bệnh cho người bị bệnh phong, chàng giơ tay đụng vào anh ta và bảo:

“Tôi muốn, anh sạch đi.”

Thế là tôi bắt đầu xây mộng… hy vọng một ngày nào đó chàng cũng chạm vào tôi và nói: Tôi muốn, cô sạch đi.”

Mới tuần trước đây, tôi âm thầm theo chàng và chứng kiến một cảnh tượng đầy cảm động trong đám con con trai bà góa thành Naim. Chàng lại gần, sờ vào quan tài và nói:

Này người thanh niên, tôi bảo anh : hãy trỗi dậy !

Lại một lần nữa ước mộng của tôi rực sáng hơn.

Đúng rồi. tôi cũng phải chỗi dậy thôi.

Và thời cơ đã đến. tôi nghe nói chàng sẽ dự tiệc tại nhà ông Simon, một người Pha ri sêu. Thế là tôi chuẩn bị một bình bạch ngọc đựng dầu thơm.

Thấy tôi vừa bước vào, nhà mấy tay Pharisêu tính ra chận lại..không ngờ trong đó có hai ‘khách hàng’ của tôi, tôi khẽ kín đáo liếc mắt. Họ dội lại, nhường lối cho tôi bước vào.

Thấy chàng, nước mắt tôi trào ra…người ta cứ tướng đó là những giọt lệ ăn năn. Không phải vậy.. mà đó là niềm vui gặp gỡ người mà tôi âm thầm quý mến từ lâu.

Rồi tôi lấy dầu thơm mà đổ lên chân chàng.

Tay Giuđa, một môn đệ của Thầy, có vẻ tiếc cho bình bạch ngọc dầu thơm. Nhưng tôi, lúc đó được ở bên Thầy, tôi sung sướng quá, chẳng còn thiết bất cứ sự gì nữa.

Tuy Phúc âm không không nói rõ, nhưng từ đó tôi bỏ hẳn nghề ăn sương tệ hại này và quyết tâm âm thầm làm môn đệ Thầy….

Những lời Thầy nói quả thực là khó hiểu… thậm chí khó có thể chấp nhận nổi.

–  Có ngươi báo tin rằng có Mẹ thầy và anh em thầy ở ngoài kia. Thầy liền chỉ ngay những người ngồi chung quanh

Ai là mẹ tôi ai là anh em tôi?

Trời!!! nghe có vẻ bất hiếu thế không biết?

–  Khi nói về Áp-ra-ham, Thầy dám tuyên bố:

“Thật, tôi bảo thật các ông: trước khi có ông Áp-ra-ham,

thì tôi, Tôi Hằng Hữu!”

Họ liền lượm đá để ném Người. Nhưng Đức Giê-su lánh đi và ra khỏi Đền Thờ

Xin lỗi… không biết Thầy có Nổ quá không?? Bị ném đá cũng phải thôi!!!

–  Kinh khủng hơn nữa thầy dám sánh mình ngang bằng Thiên Chúa

“Tôi và Chúa Cha là một.”
Người Do-thái lại lấy đá để ném Đức Giê-su.

Bị ném đá cũng phải thôi!!!

Bởi vì ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa.

Nhưng trước khi chịu khổ hình, Thầy đã để lại cho các môn đệ những lời thật tuyệt vời, êm ái và ngọt ngào…

Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em.

Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy.

Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con,

Sau khi Thầy về trời, tôi thường lui vào góc vườn khuất kín để vừa nhớ Thầy vừa nghiền ngẫm những lời cuối cùng cực kỳ thân thương này.

Thật kỳ diệu thay!!! sau nhiều năm tháng, tôi dần dần nhận ra rằng:  quả thực mình đang ở lại trong tình thương của Thầy. Tôi ở trong Thầy và Thầy ở trong tôi.

Thì ra… nhờ được gặp gỡ Thầy rồi…tôi mới từ bỏ.

Trước hết là từ bỏ nghề ăn sương..

Rồi từ bỏ những tư tưởng tiêu cực: tự ti mặc cảm tội lỗi, hỏa ngục, hình phạt,

Bắt đầu đón nhận tư tưởng tích cực: tập vui sống với Chúa trong lòng mình….

Vào cửa quan

Vào cửa quan

Nguyễn Tường Thuy

Lần đầu tiên làm cái việc đi đút lót mà trên sách báo, văn bản người ta hay gọi là hối lộ, đối với hắn quả là khó khăn. Việc này trước đây hắn thường đùn đẩy cho vợ.

Nhưng hôm qua, vợ hắn bảo:

– Tới đây cái Ly đẻ, em sẽ đi Sài Gòn một thời gian trông con cho vợ chồng nó. Anh phải thay em làm tất cả nên tập lo dần là vừa. Ngày kia, anh đi nộp đơn, em đã chuẩn bị tiền nong đầy đủ.

Hắn ngạc nhiên:

– Đi nộp đơn, lít xăng, chén nước cùng lắm là vài cốc bia, có gì mà phải chuẩn bị.

– Giời ạ. Anh như người trên mây ấy. Bây giờ đi làm cái gì cũng phải có tiền, không thì đừng nghĩ đến chuyện được việc gì.

Hắn vẫn chưa thông:

– Nhà thằng Manh chiếm đất nhà mình, phạm pháp rõ ràng mà kiện nó vẫn phải mất tiền là sao. Tưởng nó muốn giảm tội thì mới phải đút lót chứ?

– Anh chẳng hiểu gì cả. Thằng bị kiện phải đút, thằng đi kiện cũng phải đút, đứa nào đút nhiều hơn thì mới mong thắng. Đúng sai là ở họ chứ đâu phải ở pháp luật. Người ta coi luật pháp là cái gì đâu.

Hắn tìm cách thoái thác:

– Anh không đi đâu, ngượng lắm. Người ta làm việc đã được trả lương. Mình làm thế, chẳng hóa ra coi thường người ta, xúc phạm đến nhân phẩm của họ, coi uy tín, danh dự cán bộ nhà nước chỉ bằng mấy triệu đồng sao?

Vợ hắn cáu:

– Chúng nó làm quái gì có nhân phẩm mà xúc phạm. Anh mà biết ngượng thì đừng sống ở cái xã hội này nữa.

Độ này vợ hắn ăn nói bừa bãi quá, mở miệng ra là nói đến tiêu cực xã hội. Hắn đi học, người ta dạy hắn rằng đó là tàn dư của chủ nghĩa tư bản. Thế mới phải trải qua thời kỳ quá độ. Vợ hắn suốt ngày lo chạy chợ rồi chúi đầu vào việc hầu hạ chồng con, làm sao hiểu được những điều sâu xa ấy.

Từ trước đến nay, bao nhiêu chuyện rắc rối xảy ra làm thiệt hại cho nhà hắn mà toàn do người khác gây nên cả. Vợ chồng hắn gửi đơn từ đi khắp nơi nhưng cuối cùng không cơ quan nào giải quyết. Hỏi riết thì họ trả lời rằng nội dung đơn kiện của nhà hắn “không có cơ sở” hoặc là chuyển đơn về chính cái cơ quan bị nhà hắn kiện để trả lời hắn. Những ai thạo đời thì bảo nhà hắn thua bên kia vì tiền.

Lần này, nhà hắn bị hàng xóm phá tường chiếm mất chục mét vuông đất. Vợ chồng hắn lại phải làm đơn kiện. Chẳng lẽ cứ để cho đứa nào muốn làm gì nhà hắn thì làm.

Hôm đi nộp đơn, vợ hắn dặn dò thật kỹ, còn lường trước tất cả những tình huống có thể xảy ra. Cô làm sẵn cho hắn mấy cái phong bao mỏng để xử lý ở các cửa.

Hắn tới cổng cơ quan, thấy mở liền dắt xe vào. Một tiếng gọi giật giọng:

– Anh kia! đi đâu?

Hắn giật mình đánh thót:

– Dạ! em vào nộp đơn …

– Đơn gì?

Nhớ đến lời vợ dặn, hắn vội móc ra chiếc phong bì nhét vào túi anh gác cổng. Anh ta chẳng cần đọc xem đơn gì, trả hắn rồi chỉ cho cho hắn lối vào nơi cần nộp đơn tên người cần gặp một cách cặn kẽ.

Hắn nhận chiếc vé gửi xe làm bằng vỏ bao thuốc lá vinataba, rụt tè hỏi:

– Thế để xe ở đâu anh.

Tay gác cổng nhìn cái dáng vẻ ngờ nghệch của hắn, thương hại:

– Anh mới đến lần đầu à. Cứ đi vào, để ở đâu cũng được.

Thế thì tiện, chứ cơ quan rộng mênh mông thế này, đi bộ có mà chết. Xung quanh lại có tường bao, thật an toàn. Cổng thì đã có bảo vệ kiêm thu tiền. Hắn thấy nhiều người ra vào nhưng không lấy vé, chắc là người trong cơ quan. Hắn nghĩ: vậy là cái vé của hắn là vé vào cổng chứ đâu phải là vé gửi xe. Hắn có tự trông được thì người ta vẫn bắt lấy vé cơ mà. Chẳng lẽ cả cơ quan này là một bãi giữ xe. Nhưng thôi, đấy là việc của họ, mấy nghìn đồng tiền vé chưa ảnh hưởng gì đến bát cơm nhà hắn. Hắn đang lo một việc quan trọng hơn nhiều cơ.

Hắn dựng xe trước phòng tiếp dân rồi ngồi chờ. Lúc này có sáu người ngồi ở hàng ghế kê ngoài hành lang. Cửa phòng tiếp dân bịt bằng kính trong suốt nhưng bên trong lại được che bằng rèm màu xanh lơ dìu dịu, cứ mấy phút lại hé cho một người ra để người tiếp theo vào. Kể cũng nhanh. Chừng 30 phút sau thì đến lượt hắn.

Lúc này thì hắn đã có chút kinh nghiệm. Tránh bị quát phủ đầu, hắn kẹp luôn cái phong bì vào tờ đơn. Cán bộ tiếp dân nhìn đơn đọc tên, địa chỉ của hắn rồi ghi vào giấy biên nhận. Không thấy anh ta hỏi giấy tờ tùy thân. “Chắc cái phong bì đã thay cho chứng minh thư” – tự nhiên hắn có ý nghĩ đen tối thế.

Hắn thăm dò:

– Đơn của em giải quyết có nhanh không ạ?

– Cái đó còn tùy, có thể nhanh, có thể chậm.

Hắn hiểu ý, đặt lên một chiếc phong bì nữa.

Anh ta ra chiều suy nghĩ một lúc:

– Thôi được, đơn của anh tôi sẽ trình ngay. Chắc chỉ trong vòng dăm ngày anh sẽ nhận được giấy mời.

***

Bốn ngày hôm sau thì hắn nhận được giấy mời đến phòng số 21 tầng 2 nhà D3 gặp ông Lưu để giải quyết. Trước khi đi, vợ hắn nhét 300 đô la vào phong bì đưa cho hắn.

Tới nơi, hắn lại bị hỏi y như lần trước. Hắn ranh mãnh:

– Sếp gọi em đến để giải quyết cái đơn hôm trước mà. Chắc anh quên em rồi.

Tay gác cổng nhớ ra, giúi vào tay hắn chiếc vé gửi xe rồi cho hắn vào.

Đến chân cầu thang, hắn gặp thằng Manh, cái thằng đã cướp đất của hắn sáu hôm trước đi xuống. Không biết nó đi đâu. Chẳng lẽ nó cũng đi kiện hắn, vừa ăn cướp, vừa la làng chăng. Nó nhìn hắn, vẻ mặt vênh váo đầy thách thức. Tất nhiên chẳng đứa nào hỏi đứa nào.

Hắn tới cửa phòng làm việc có gắn số 21, gõ nhẹ hai tiếng rồi đứng chờ.

Một tiếng nói lạnh lùng và đanh gọn:

– Mời vào.

Hắn run run đẩy cửa vào:

– Dạ, chào anh … báo cáo anh, em …

Rồi khúm núm đưa giấy mời ra, lập bập trình bày nội dung sự việc.

Ông cán bộ tên Lưu hỏi:

– Đất nhà anh có sổ đỏ chưa?

– Dạ chưa, nhưng là đất ở lâu năm. Chúng em vẫn đóng thuế nhà đất hàng năm đầy đủ …

Ông ta phẩy tay ra hiệu cho hắn ngừng nói:

– Vấn đề là ở chỗ ấy. Anh chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có nghĩa là nhà nước chưa công nhận quyền sử dụng đất cho anh. Thằng kia nó chiếm đất của anh, ai cũng biết. Nhưng về mặt pháp luật, bảo là đất của nhà anh thì không có cơ sở.

-“Lại không có cơ sở” , hắn chán nản nghĩ. Vậy là mình dại rồi. Đúng ra hôm ấy, hắn phải đánh nhau với nhà thằng Manh không cho nó chiếm đất. Nó có kiện nhà hắn đánh nhà nó thì dựa trên cơ sở nào. Ai quay phim, chụp ảnh để làm bằng chứng.

Ấy là lúc điên điên lên thì hắn nghĩ thế thôi chứ làm sao mà hắn dám đi đánh nhau với người khác vì hắn là con người được giáo dục tử tế. Và chính cái sự tử tế ấy đã hại hắn, làm hắn khốn khổ bao nhiêu rồi.

Ông Lưu mở luôn phong bì ra. Đếm xong, ông ta đặt xuống bàn rồi lấy trong ngăn bàn một cái phong bì khác, rút ra xòe cho hắn xem sáu tờ bạc mệnh giá 100 đô là Mỹ:

– Của thằng kia đấy. Nó sai nhưng cái lý của nó (ông vỗ ba đầu ngón tay vào cái phong bì của thằng kia) gấp đôi lý của anh (vỗ vào phong bì của hắn). Cái chỗ đất ấy anh bảo của anh nhưng nó cũng cãi là của nó. Thế thì tốt nhất là nên hòa giải, hai bên chia đôi. Nếu anh đồng ý thì tôi cho gọi cả hai bên đến. Vậy là mỗi bên được một nửa mà tiền nó lại mất nhiều hơn anh, thế là coi như anh thắng nó. Được cái thuận cho các anh là hai bên đều biết “giá thị trường”. Nếu phải quay về lấy thêm thì mất một lần đi lại nữa. Còn nếu anh không nghe, đi kiện đâu thì đơn cũng về đây thôi. Tôi thấy anh có vẻ thật thà nên tôi cũng nói thật.

Trước khi hắn về, ông ta còn cẩn thận sờ hai túi quần của hắn xem có máy ghi âm, máy ảnh gì không rồi đẩy hắn ra, đóng sập cửa lại.

Hắn khoe với vợ:

– Thắng rồi em ạ. Mà nó lại phải mất nhiều tiền hơn mình. Tưởng thế nào chứ đút lót cũng dễ. Hết bao nhiêu, người ta nói thẳng, may mà hôm nay vừa đủ. Nếu thừa chắc họ trả lại. Đỡ phải băn khoăn. Thế mà em cứ dạy anh mãi.

Vợ hắn toe toét:

– Em đã bảo mà. Cái gì cũng có giá của nó. Giá cả rõ ràng như vậy lại hóa hay. Những lần trước mình thua chỉ tại vì không biết giá. Hóa ra cơ chế bây giờ cũng thoáng thật. Nói toạc, không úp mở.

Rồi cô bắt hắn kể tỉ mỉ diễn biến đưa đến cái chiến thắng hôm nay như thế nào. Nghe hắn kể xong, cô rít lên:

– Giời ơi! thế mà bảo thắng là sao?

Hắn nhớ đến lời phân tích của ông Lưu, liền giải thích lại cho vợ:

– Thì nó được năm mét vuông, mình cũng được năm mét vuông. Mà tiền nó lại mất gấp đôi mình, chả thắng là gì.

– Nó bịp anh rồi. Sao đầu óc anh tối tăm thế. Cả mười mét vuông ấy là đất của mình. Mình sử dụng ổn định từ trước khi có Luật đất đai. Nó chỉ mất sáu trăm đô mà được năm “mét”. Còn mình mất không năm “mét” cho nó lại còn tiền phong bao mấy hôm nay nữa. Vậy thắng ở đâu?

Ừ nhỉ. Tại lúc ấy hắn sợ quá nên không nghĩ ra. Hắn tức lắm. Chợt nhớ tới lời ông Lưu nói, hắn thách lại vợ:

– Nếu em không nghe thì cứ việc kiện đâu thì kiện. Cuối cùng đơn cũng về tay ông ta thôi.

Sự thật cay đắng đó không phải là vợ hắn không biết vì chính nhà hắn đã từng nhiều lần gặp phải cũng như biết bao dân oan khác. Nhưng việc hắn nhắc lại lời ông Lưu đã làm cho cô nhụt chí.

Vợ chồng hắn ngao ngán nhìn mảnh đất nhà hắn ngày càng bé đi. Liệu rồi hắn có giữ nổi phần đất còn lại không? Ai là người bênh vực hắn?

Hắn chợt nghĩ: ”hay là bán nhà đi chỗ khác ở” . Nhưng hắn vội gạt ngay: đi đâu bây giờ? Tài cán của hắn chỉ cho phép hắn loanh quanh trong biên giới này thôi. Thôi thì đành cố chịu, chờ cho qua cái thời kỳ gọi là quá độ.

Nhưng chờ đến bao giờ?

Đằng Sau Những Lần Về Thăm Quê Hương

Đằng Sau Những Lần Về Thăm Quê Hương

(06/11/2013)

nguồn: Vietbao.com

Tác giả : Trần Mỹ Duyệt

Trần Mỹ Duyệt
(Theo lời kể và phần hiệu đính pháp lý của Pt. Nguyễn Mạnh San.)

Những lần về Việt Nam có nhiều chuyện vui và chuyện buồn. Chuyện buồn đầu tiên là gặp rắc rối với hải quan tại phi trường. Tuy nhiên chuyện buồn này cũng có thể dễ dàng giải quyết khi biết được thủ tục “đầu tiên” là tiền đâu. Tâm lý chung sau nhiều giờ mệt mỏi trên phi cơ, ai cũng mong có chút thời gian thư dãn, gặp lại người thân đang chờ ngoài kia. Rầy rà với mấy anh chị hải quan chỉ thêm bực mình, nên thôi đành chịu mất năm ba đồng cho xong chuyện. Nhưng cũng có những chuyện buồn mà tiền bạc không giải quyết được. Không những thế hậu quả của nó còn có thể kéo theo đổ vỡ của cả một gia đình.

Câu chuyện tưởng như mơ nhưng lại là câu chuyện có thật đã xảy ra cho một người sau chuyến về thăm quê hương. Câu chuyện tưởng như rất tầm thường nhưng kết luận lại hết sức quan trọng. Nó quan trọng không phải ở chỗ sự việc đã xảy ra rất thực tế, nhưng quan trọng ở chỗ là nếu như nó đã không được giải quyết một cách trưởng thành, hiểu biết, và thông cảm thì hậu quả của nó đã kéo theo hạnh phúc của một gia đình. Câu chuyện đó đã xảy ra nhau sau:

Anh ta là con thứ trong một gia đình có hai anh em trai. Ba của anh qua đời trong trại tù cải tạo khi anh còn rất nhỏ. Năm 1980, anh tìm đường vượt biên và sau 1 tuần thuyền anh lênh đênh trên biển cả, bị hải tặc Thái Lan cướp hai lần, anh đã đến được trại tị nạn Thái Lan. Sống ở trại tị nạn gần một năm, anh đã được định cư tại Hoa Kỳ. Với bản tính cần cù, chịu khó, lại thêm trí thông minh, bốn năm sau anh đã tốt nghiệp kỹ sư Computer và kiếm được một việc làm cách rất dễ dàng. Thời gian đó những ai có bằng về Computer đều dễ dàng kiếm việc, được trả lương cao và đời sống kinh tế rất ổn định.

Việc đầu tiên sau khi ra trường, kiếm được việc làm anh lo chuẩn bị cho ngày thành hôn của mình. Người yêu của anh Mộng Bình không ai khác chính là người mà anh đã gặp trong thời gian còn ở trại tị nạn, nhưng tình cờ sau này lại học cùng trường với anh tại Hoa Kỳ. Sau đám cưới một năm anh lại hạnh phúc được làm cha. Đứa con đầu lòng của anh là một bé trai rất dễ thương. Thượng Đế như ưu đãi anh, hai năm sau đó vợ anh đã sinh cho anh một bé gái. Có trai và có gái. Chồng làm kỹ sư computer, vợ là y tá. Gia đình anh như vậy được gọi là một gia đình tương đối lý tưởng và hạnh phúc: Vợ chồng đều có công ăn việc làm, tài chánh gia đình ổn định, và với bầu khí yêu thương đầm ấm của một gia đình một vợ, một chồng và hai con nhỏ.

Hạnh phúc gia đình anh tưởng như không ai có thể chen vào và phá vỡ nổi. Con trai đầu của anh đang chuẩn bị ra trường y khoa, còn con gái thì hiện là một sinh viên xuất sắc với hy vọng sau này sẽ trở thành một nha sĩ.

Năm trước đây nhận tin mẹ đau nặng anh đã về Việt Nam lo cho mẹ, đồng thời giúp người anh tu sửa lại ngôi nhà của mẹ anh tại Việt Nam. Phí tốn cho lần trở về và tu sửa nhà cửa trên dưới 30.000$. Vợ anh đã rất rộng rãi, tin tưởng và lo đủ số tiền để anh về. Sau một thời gian ở Việt Nam trở lại Hoa Kỳ, anh rất vui vẻ. Đời sống gia đình đầm ấm và hạnh phúc, mọi chuyện đều êm đềm xuôi chảy, bỗng nhiên tính tình anh thay đổi một cách lạ thường. Anh hay thở dài, khó ngủ và thường hay bẳn gắt vợ con những chuyện rất vô cớ. Vợ anh gạn hỏi thì anh chống chế và cho là do sức ép của công việc. Những bẳn gắt, cáu giận của anh cứ ngày càng lên cao khiến vợ anh và các con thấy có gì không ổn. Đặc biệt nhất là sau những ngày tháng nóng nảy ấy, anh nhất định đòi về Việt Nam với lý do không rõ ràng. Anh nói mình phải về thăm mẹ già và đôn đốc việc xây cất nhà cửa. Trước thái độ đứng ngồi không yên của anh, và trước sự đòi hỏi của anh, vợ anh không còn lựa chọn nào khác đành lại thu xếp và chuẩn bị tiền bạc để anh về. Vé máy bay đã mua và ngày về Việt Nam đã được ấn định. Nhưng bất chợt một sự kiện không ngờ đã xảy tới.

Như mọi lần, cứ mỗi cuối tuần chị đều giặt quần áo chồng và trước khi bỏ quần áo vào máy giặt, chị có thói quen luôn luôn lục soát lại các túi áo và túi quần, để xem anh có bỏ quên tiền hay giấy tờ gì quan trọng không, vì đã nhiều lần chị đã tìm thấy tiền bạc hoặc giấy thông tư tin tức của sở làm gửi cho anh ở trong túi áo hoặc ở trong túi quần của anh. Nhưng lần này chị thấy có một phong bì thư đã mở sẵn, tên một người con gái lạ, từ Việt Nam gửi đến đích danh tên chồng chị, qua địa chỉ hộp thư riêng tại ty bưu điện, nên chị liền mở ra đọc.  Mắt chị như nhẩy nhót trên những hàng chữ: “Cái bầu đã lớn và em gần ngày sinh rồi sao không thấy anh động tĩnh gì? Nếu anh không về thì gửi tiền về cho em để lo sinh nở và nuôi con chứ. Còn việc anh ly dị với người vợ của anh đến đâu rồi sao anh lặng thinh. Anh đừng nghĩ đến chuyện “quất ngựa truy phong” chơi cho qua đường nha. Anh không nghĩ đến em thì cũng phải nghĩ đến giọt máu của anh chứ. Đừng đùa giỡn. Anh không chạy thoát khỏi bàn tay em đâu!”.

Không còn chịu đựng được hơn nữa, chị tìm đến với một phó tế kinh nghiệm về đời sống gia đình và kiến thức luật pháp để xin ý kiến. Thâm tâm chị là muốn làm lớn chuyện này để rồi đến đâu thì đến. Chị không thể ngờ được một người đàn ông như chồng chị lại phạm vào cái lỗi khốn nạn ấy. Niềm tin của chị lung lay và hầu như sụp đổ. Sau khi xem xong lá thư, vị phó tế đã khuyên chị cần phải bình tĩnh để giải quyết vấn đề.

Trước hết ông khuyên chị hãy bình tĩnh và cần phải hành động theo một tiến trình có suy nghĩ, có lý luận dựa trên tâm lý và luật pháp bằng cách:

1- Nhờ người trong gia đình hay người quen ở Việt Nam dò hỏi xem đó có phải là địa chỉ thật không? Và nếu là địa chỉ thật thì làm quen hỏi xem có người trong nhà mang tên theo tên trên bì thơ không? Nếu có thì liên hệ gì với người ở Mỹ? Nhất là xem coi cái bụng bầu gần ngày sanh ấy có thật sự đúng hay chỉ là giả tạo?

2- Đặt giả thiết mọi chuyện đều đúng, có nghĩa là người thiếu nữ ấy thật sự có bầu, thì bước kế tiếp là chờ coi xem đó có thật sự là con của chồng mình hay con của một ai khác. Điều này có thể thực hiện được qua thử nghiệm DNA.

3- Và sau cùng, theo dõi để tìm cách làm ngãng trở mối liên hệ giữa chồng chị với người phụ nữ tự xưng là tình nhân của chồng chị.

Sau khi đã nhờ người nhà dò hỏi, chị được biết rõ là có một thiếu nữ tên gọi đúng như tên ngoài bì thơ ở địa chỉ đã ghi ngoài bì thơ, và người này nói mình có thân nhân bên Mỹ nhưng không cho biết người thân nhân ấy ở đâu. Điểm đặc biệt nhất là thiếu nữ ấy là một cô gái bán bar và không mang bầu. Như vậy trong trường hợp thứ nhất đã có câu trả lời. Vì người thiếu nữ đó không mang bầu nên những vấn nạn về gửi tiền cho nàng sinh con, nuôi con và việc thử DNA không cần thiết. Còn lại là tìm cách làm ngãng trở mối liên hệ giữa chồng chị với thiếu nữ tình nhân đó.

Theo đúng từng bước đã được hướng dẫn, chị giả bộ đòi về Việt Nam cùng với chồng viện lý để tiện dịp thăm mẹ chồng, cũng như giúp anh sớm hoàn tất công việc tu sửa nhà cửa. Mục đích là không để chồng chị gặp lại người thiếu nữ đó nữa. Thoạt đầu chồng chị nhất định không cho về chung với lý do giá phí tổn đi về quá cao, rất đắt đỏ, và gấp quá không kịp chuẩn bị, không dễ mua được vé máy bay. Sau những màn tranh cãi và giận dữ. Linh cảm một điều gì đó có thể làm lộ tẩy ý định của anh khi về Việt Nam, chồng chị đã hủy bỏ chuyến bay với số tiền phạt là 100$.

Tuy không về Việt Nam, nhưng anh vẫn lén lút trấn an người tình ở Việt Nam. Xem ra càng ngày anh càng tỏ ra lúng túng, sợ hãi. Có lẽ anh sợ người tình anh sinh con mà không có tiền bạc rồi làm đổ bể câu chuyện. Nghĩ vậy, nhưng anh cũng không dám giử tiền bạc về. Nghi rằng vợ anh đã biết chuyện, nên anh lo lắng tìm cách dò hỏi, và cuối cùng vợ anh đã cho anh biết rằng anh không thể về Việt Nam một mình được vì anh đã có bồ tại Việt Nam. Anh thề sống, thề chết, nhất định từ chối hành động ngoại tình của mình.

Sau khi biết được người đã đứng sau lưng phá đám cuộc tình tay ba của mình, anh đã gọi điện thoại đến văn phòng của thày phó tế tranh luận và chửi bới ông này thậm tệ. Kết luận cuộc tranh luận này, vị phó tế đã nói với anh qua điện thoại:

“Tôi không có tội gì trong vấn đề hạnh phúc của anh và gia đình anh. Tôi cũng không xen vào việc gia đình anh, nhưng với lương tâm của một người hiểu biết và quan tâm đến hạnh phúc hôn nhân của gia đình, tôi đã khuyên chị tế nhị theo dõi, đồng thời nếu cần về Việt Nam với anh, chị nên về. Đó là sự tiên liệu khôn ngoan và cần thiết. Bởi vì không ai dám tự cho mình là “vững vàng” trước những cám dỗ tình cảm như vậy. Tóm lại, nếu anh thật lòng về Việt Nam chuyến này chỉ để lo lắng cho bà mẹ, và xem xét lại việc tu sửa nhà cửa mà không hề có một ý đồ gì khác thì tại sao không cho vợ anh cùng về. Biết đâu chị ta chẳng giúp anh một tay. Hay là anh có chủ ý nào khác? Vậy nếu anh trong sạch và vô tội trong lần về này, ngày mai mời anh lên văn phòng tôi. Tôi sẽ đóng cửa văn phòng và quì xuống trước mặt anh để xin lỗi anh. Còn nếu như anh có một ý định gì khác, tôi tin là anh đã biết.”

Nghe vậy, anh tự động gác máy.

Sự thật câu chuyện đã bắt đầu trong lần về Việt Nam năm trước. Anh đã theo một số bạn bè rủ rê vào mấy quán bia ôm, mấy nơi đấm bóp để cho biết mùi đời và thư dãn. Đám bạn anh đã gài anh với một cô tuổi bằng con gái của anh mà cái tên đã có trên bì thư gửi qua cho anh. Nhưng trên thực tế, cô này không hề có thai, và vẫn tiếp tục bán bar, tiếp khách như cô đã từng làm đối với anh. Anh chỉ là một nạn nhân của thói ăn chơi đàng điếm, của tính nhẹ dạ, cả nể, và không muốn bị bạn bè chê là thứ chết nhát. Anh là con nai vàng ngơ ngác không hơn không kém trước những cạm bẫy xã hội.

May mắn cho anh, với bản tính thật thà và hiền lành. Cộng thêm còn một chút lương tâm đạo đức, anh đã nhận lỗi và làm hòa với vợ. Mặc dù sự tha thứ và làm hòa đã có, nhưng vết thương lòng vẫn chưa hoàn toàn được lành.

Đừng vội cho rằng đàn bà “forgive but not forget”, nhưng một vết thương như vậy, một tình huống như vậy cũng cần phải có thời gian để lành. Trên thực tế, vợ anh có quyền giận anh và đau khổ vì anh, bởi vì đối với vợ anh, anh vẫn là tất cả. Tình yêu vợ anh dành cho anh là một tình yêu không chia cắt. Riêng anh, anh cũng cần thời gian để minh chứng sự thành thật thống hối của mình. Anh đã làm cho con tim vợ anh bị tan nát, và thiếu một chút nữa cả gia đình anh tan nát, hạnh phúc hôn nhân của anh bị đổ bể.

Trở lại người chồng, sau khi đã có cơ hội làm hòa với vợ, anh đã gọi điện thoại đến văn phòng thày phó tế và lần này chính anh đề nghị:

“Con cám ơn thày đã giúp gia đình con. Con có lỗi trong vụ này, vậy xin thày cho một cái hẹn, để con đích thân đến văn phòng và quì gối xin lỗi thày.”

Dĩ nhiên lời đề nghị của anh không được chấp nhận, vì niềm vui của phó tế đó là giúp đem lại hạnh phúc cho gia đình anh, chứ không chờ lời xin lỗi của anh. Ông đã được trả công rồi!

Quan câu chuyện này, độc giả có thể rút ra được những bài học khác nhau tùy từng hoàn cảnh. Tuy nhiên, một vài điểm chung có thể sẽ giúp ích cho nhiều người đó là:

Khi du lịch về Việt Nam, nhất là đi với nhóm bạn bè, hoặc một mình thì dù là phái nam hay phái nữ cũng cần tự chủ. Thật sự không biết chuyện gì sẽ xảy ra cho mình sau những giây phút yếu lòng. Có thể là nhiễm HIV. Có thể là sẽ làm chồng, làm cha, làm vợ, làm mẹ bất đắc dĩ. Thông thường những phút giây lãng mạn, tình tứ ấy chỉ mang tính nhất thời, mau qua. Chúng chỉ làm cho con tim nặng nề, và lương tâm thêm bất ổn.

Nếu! Nếu như vì yếu lòng mà trót “ăn vụng” thì nhớ phải biết thống hối. Coi đấy như một bài học để đời, đừng huênh hoang, tự cao, tự đại cho mình là “hoàng tử”, là “công chúa” để rồi có ngày thần tượng sụp đổ và kéo theo sự đổ vỡ của cả gia đình. Những mối tình qua đường ấy chưa đủ để thẩm định và đo lường sự chung thủy, tính chất trưởng thành, và chính đáng của tình yêu. Để mình là tác giả của những ngậm ngùi nuối tiếc “anh đã lầm đưa em sang sông”, hoặc “em đã lầm đưa anh sang đây” là việc làm thiếu ý thức, không cần thiết. Hai chữ “lợi dụng” trong những trao đổi tình cảm kiểu này không chỉ làm ta thân bại, danh liệt, mà còn phá vỡ hạnh phúc gia đình của mình nữa. Đáng buồn là nó vẫn tiếp tục xảy ra cho nhiều người đằng sau những lần về thăm quê hương!

Sau đây là phần pháp lý tổng quát, có liên quan đến nội dung của câu chuyện trên đây:

1. Nếu câu chuyện trên đây xẩy ra tại tiểu bang Oklahoma, theo như Đạo Luật Gia Đình của tiểu bang này, điều luật số 21, đoạn 871, quy định bất cứ ai vi phạm tội ngoại tình (Adultery Offense), hoặc còn gọi là hành động chuyển nhượng tình cảm (Alienation of Affection) của mình là người đã có vợ hoặc đã có chồng cho người khác, nếu bị truy tố ra tòa với bằng chứng hiển nhiên, có thể lãnh án tù ở không quá 5 năm, hoặc chỉ bị phạt vạ tối đa là $500 Mỹ kim, hoặc vừa lãnh án tù ở lẫn đóng tiền phạt vạ. Nhưng hiện nay, rất may là đạo luật này đã được đa số các tiểu bang bãi bỏ, trong đó có tiểu bang Oklahoma, ngoại trừ còn một số rất ít, không đáng kể, như tiểu bang Hawaii, Illinois, North Carolina v.v.. vẫn con duy trì đạo luật này.

2. Mặc dầu điều luật phạm tội ngoại tình được bãi bỏ, nhưng hành động ngoại tình vẫn được áp dụng trước công lý, để dùng làm bằng cớ được quyền giữ con cái còn nhỏ tuổi (Custody of Minor Children) và được quyền hưởng tiền cấp dưỡng nuôi con cái (Child Support), cho tới khi con cái tới tuổi trưởng thành, trong các vụ án ly dị trước tòa án hay trong sự thỏa thuận của đôi bên, mà không cần có phiên tòa xét xử.

3. Trường hợp trên đây, vì Hoa Kỳ đã ký hiệp ước bang giao quốc tế với Việt Nam, mà người chồng phạm tội ngoại tình ở đây và giả sử cô bồ nhí ở đây có con với người chồng ngoại tình này ở Hoa Kỳ, thì trước quốc tế công pháp của hai nước đã ký kết với nhau, cô bồ nhí vẫn có thể tiến hành các thủ tục pháp lý, đòi hỏi người chồng ngoại tình ở Hoa Kỳ phải cấp dưỡng cho cô tiền nuôi con hàng tháng, cho tới khi đứa trẻ khôn lớn đến tuổi trưởng thành.

Nói tóm lại, đã có một vài trường hợp xẩy ra trong quá khứ tại Việt Nam, không bị người vợ ở Hoa Kỳ khám phá ra là chồng mình đang có bồ nhí ở Việt Nam, tương tự như câu chuyện vừa kể trên, nhưng tới ngày mấy ông chồng này sắp sửa quay trở về lại Hoa Kỳ đoàn tụ với vợ con, thì bị công an địa phương ở đây, đột nhập vào căn phòng trong lúc hai người đang hưởng giây phút trăng mật, nên đương sự bị buộc vào tội mua dâm. Vì không muốn bị liên lụy đến vấn đề pháp lý và bị ngồi tù, hơn thế nữa hạnh phúc gia đình có thể bị đổ vỡ nếu bị tiết lộ trước công chúng, nên các đương sự đành phải ngậm đắng nuốt cay, đóng tiền phạt vạ khá nặng, để được lên đường trở về Hoa Kỳ an toàn.

Tuy nhiên, trong những trường hợp như thế này, đối với những đương sự nào chưa nhập tịch Hoa Kỳ, vẫn còn là thường trú nhân, thì cần phải thận trọng, vì nếu chính quyền cộng sản thông báo cho Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam biết, là những đương sự này, đã bị bắt giữ về tội mua dâm và đã nhận tội, bằng lòng đóng tiền phạt, để khỏi bị truy tố ra tòa, thì vấn đề xin nhập tịch Hoa Kỳ trong tương lai chắc chắn sẽ bị trở ngại lớn.

VINH QUANG ?

VINH QUANG ?

Anmai, CSsR

Con người khi bước vào trần gian này, còn bé thì chỉ lo chơi, lo ăn, lo học chứ chẳng nghĩ gì đến danh và đến phận. Lớn lên một tí, khi bước vào đời, dần dần theo năm tháng, con người lại đi vào cái vòng danh lợi quanh quanh để tìm chút danh chút phận gì đó ở đời.

Ước mơ, hoài bão có danh có phận trong cuộc đời cũng là ước mơ hợp tình hợp lẽ thôi bởi lẽ là người thì ai cũng mong thế. Thế nhưng mà cái vinh quang, cái danh dự mà ta có được nó đến tự đâu thì ta cũng nên xét lại.

Thi thoảng, cha anh trên cũng khá xa lớp. Năm nay anh cũng có “tí tuổi”, anh được trao gửi để giúp cho những mầm non của nhà dòng. Thi thoảng có dịp gặp nhau anh em lại hàn huyên tâm sự. Gặp anh, anh truyền cho những cảm nghiệm sống trầm lắng và bước đường khá dài trong đời tu trong những môi trường anh đã đi qua.

Thời còn trẻ, anh đi thanh niên xung phong, lớn lên vào nhà tu. Ở đâu cũng có chung có đụng, có va, có chạm để rồi những lần chung đụng, những lần va chạm ấy là bài học lớn cho đời của anh.

Khá nhiều lần, anh chia sẻ về những lần lên lớp của anh. Anh kể rằng : “Mình hay nói với mấy đứa nhỏ là phải cẩn thận. Bởi vì ngay từ bé, chúng cứ thứ Hai đầu tuần đều hát rất to câu này : “Đường vinh quang xây xác quân thù”. Mình dặn mấy đứa là làm gì thì làm, sống trong nhà tu, cố gắng đừng kiếm vinh quang bằng con đường xây xác anh em”.

Anh kể lại tâm tình khi anh lên lớp đó như nhắc nhớ tôi rằng đừng bao giờ kiếm vinh quang bằng con đường xây xác anh em cả.

Lời anh dặn vẫn còn đó vì lẽ trong cuộc sống, tôi phần nào cũng nếm được những cái vinh quang mà người ta có đó đã xây xác anh em đồng loại của mình. Không phải xây xác một cách bình thường mà là một cách mãnh liệt và bất chấp. Người ta đi tìm vinh quang cho người ta bằng mọi giá, kể cả tán tận lương tâm và che đậy sự thật.

Tối nay, lang thang xem tin tức, bỗng dưng thấy có vị đại biểu tên là Huỳnh Thành, không biết vị đại biểu này có lòng yêu mến Chúa Giêsu hay là đã có cơ duyên nào đó bắt gặp tâm tình của Giêsu hay chăng mà ông đã đề nghị cần thay lời  “Đường vinh quang xây xác quân thù” bằng nội dung khác.

Góp ý cho điều 13 (chương 1) dự thảo sửa đổi Hiến pháp ngày 4/6, đại biểu Huỳnh Thành cho rằng giai điệu quốc ca hào hùng rất phù hợp và đi vào lòng người, nhưng nên thay lời cho phù hợp với thời kỳ phát triển mới của đất nước.

Không biết có đổi, có thay hay không nhưng ông đã can đảm nói lên tiếng lòng của mình. Chắc có lẽ ông cũng đã nghiệm được sự đau đớn của đồng loại là vinh quang của một người hay của một nhóm người nào đó.

Vinh quang mà Chúa Giêsu mời gọi cách riêng cho những ai theo Chúa không phải vinh quang theo kiểu thế gian vẫn tìm. Vinh quang của Chúa Giêsu đó chính là thập giá. Với thế gian, thập giá là điên rồ nhưng với Thiên Chúa lại là vinh quang. Vương miện của Chúa Giêsu chính là mão gai, ngai vàng của Chúa Giêsu chính lại là cây gỗ giá. Thế nhưng chính từ vòng gai nhọn và cây gỗ giá đó chính lại là nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian để rồi những ai tin vào Đấng Cứu Độ trần gian thì được cứu.

Hóa ra là cái vinh quang mà con người vẫn ngày đêm mày mò đi tìm ở cái địa vị quyền cao chức trọng đó cũng chỉ là vinh quang của thế gian mà thôi.

Ít ai nghĩ đến và cũng ít ai dám nghĩ đến như Thánh Anphongsô. Trong tác phẩm Chân Lý Đời Đời, thánh Anphongsô không ngần ngại nói thẳng cho con người về cái thân phận mà chỉ sau 3 ngày thì giòi bọ nó bâu. Dù giàu sang phú quý nhưng khi nằm xuống và chôn trong lòng đất thì con người cũng chỉ là mồi cho giòi bọ mà thôi.

Ở đời, mấy ai được vinh quang như Anphongsô nhưng : Thế gian ơi, ta biết mi rồi ! Và từ ngày ấy, Ngài đã rời bỏ pháp đình chỉ để đi tìm vinh quang của Thiên Chúa mà thôi. Từ bỏ vinh quang thế gian, Anphongsô đã được hưởng vinh quang thật mà Thiên Chúa hứa cho những ai đi theo Ngài.

Hôm nay, một lần nữa nghe một người nhắc đến việc sửa đổi “Đường vinh quang xây xác quân thù” lại một lần nữa nhắc tôi về vinh quang.

Dĩ nhiên trong cuộc sống ai cũng muốn vinh quan nhưng đừng chỉ vì một chút lợi danh để đi tìm vinh quang bằng việc xây xác anh em của mình.

Ngày mỗi ngày, mở mắt ra ta đều thấy được biết bao nhiêu xác của anh em phải nằm xuống để cho vinh quang của một người và một nhóm người được tỏa sáng.

Là người kitô hữu, là người môn đệ chân chính và đích thực của thầy Chí Thánh Giêsu chắc có lẽ không có con đường nào khác là con đường thập giá mà Thầy mình đã đi. Nếu không đi theo con đường thập giá thì kitô hữu chỉ là một cái nhãn, một cái mác mà người ta gắn vào bao bì cho thêm phần bắt mắt mà thôi. Thực chất bên trong như thế nào mới là điều quan trọng.

Giật mình chợt nhìn ra mình là người môn đệ đang đi theo con đường của Thầy Chí Thánh Giêsu để rồi đừng đi tìm vinh quang của thế gian, vinh quang phù vân, vinh quang hão huyền. Tất cả những vinh quang đó dù cho có đi chăng nữa nhưng nó cũng trở về với cát bụi mà thôi. Sống ở đời, căn cốt là vinh quang Thiên Chúa chứ không phải là vinh quang của người đời.

Xin những ai đang muốn xây pháo đài vinh quang của mình thì cứ xây nhưng xin đừng xây xác anh em đồng loại của mình. Vinh quang của mình mà xác hại anh em đồng loại thì đau lắm.

Tiên vàn hãy tìm Nước Thiên Chúa, mọi sự khác Ngài sẽ ban cho

Anmai, CSsR

Ai có thể đánh bại được Cộng sản?

Ai có thể đánh bại được Cộng sản?

Nguyễn Hưng Quốc

10.06.2013

VOA

Nhìn lại lịch sử tranh chấp giữa hai khối tư bản và Cộng sản trong gần suốt thế kỷ 20, nhận xét đầu tiên người ta có thể rút ra là: Không ai có thể đánh bại được Cộng sản.

Nhận xét ấy được hỗ trợ bởi hai bằng chứng:

Thứ nhất, trên phạm vi toàn cầu, trong 70 năm đầu tiên, chủ nghĩa Cộng sản phát triển cực nhanh, nhanh đến độ dường như không có ai và không có cái gì có thể ngăn cản được. Ra đời tại Nga năm 1917, năm năm sau, 1922, Liên bang Xô Viết được thành lập với vai trò nòng cốt của Nga, châu tuần bởi các nước láng giềng nhỏ của Nga, như Ukraine, Belarus, Georgia, Armenia và Azerbaijan. Sau đó, một số nước khác bị sáp nhập vào Liên bang Xô Viết, như Estonia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Latvia, Lithuania, Moldova, Tajikistan, Turkmenistan và Uzbekistan. Đến giữa thập niên 1980, Liên bang Xô Viết, với diện tích trên 22 triệu cây số vuông và đường biên giới trên 60.000 km, chiếm đến một phần sáu diện tích trái đất, rộng bằng cả Bắc Mỹ. Năm 1945, sau Đệ nhị thế chiến, một số nước thuộc Trung Âu và Đông Âu lần lượt rơi vào tay Cộng sản: Albania, Ba Lan, Bosnia, Bulgaria, Croatia, Đông Đức, Hungary, Macedonia, Montenegro, Romania, Serbia, Slovakia, Slovenia, Tiệp Khắc, Nam Tư. Sau đó nữa là các nước thuộc châu Á và châu Phi, như Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Afghanistan, Campuchia, Congo, Mông Cổ, Yemen, Angola, Benin, Congo, Ethiopia, Somalia, Eritrea và Mozambique. Vào giữa thập niên 1980, khối Cộng sản rất mạnh, chiếm một phần ba dân số thế giới. Cho đến lúc ấy, câu khẩu hiệu chủ nghĩa Marx-Lenin hoặc chủ nghĩa Cộng sản bách chiến bách thắng vang lên khắp nơi. Dân chúng ở các nước Cộng sản, vốn bị nhồi sọ, tin điều đó, đã đành. Ngay phần lớn dân chúng ở Tây phương, tuy biết tất cả những mặt trái đầy tiêu cực của chủ nghĩa Cộng sản, vẫn không tin là Tây phương có thể đánh bại được Cộng sản.

Thứ hai, dù cả hai bên, tư bản và Cộng sản, lúc nào cũng cố gắng tự kiềm chế, nhưng ít nhất cũng có hai nơi cuộc chiến tranh lạnh đã biến thành chiến tranh nóng: Ở Triều Tiên trong ba năm, 1950-1953, và ở Việt Nam, từ 1954 đến 1975. Ở trận chiến đầu, hai bên hòa nhau, Triều Tiên bị chia đôi, Nam và Bắc. Điểm phân cách vẫn là vĩ tuyến 38, đúng với quyết định của phe Đồng Minh trong hội nghị Potsdam vào tháng 8 năm 1945. Ở trận chiến sau, Mỹ tự nhận là thua sau khi rút khỏi Việt Nam vào tháng 4 năm 1975. (Về điểm này, tôi có phân tích khá kỹ trong bài “1975: Việt Nam có thắng Mỹ?”. Ở đây, tôi tạm thời chấp nhận cách nhìn quen thuộc và phổ biến để khỏi bị gián đoạn mạch lý luận trong bài viết này.)

Có điều, từ nhận xét nêu ở đầu bài viết, không ai có thể đánh bại được Cộng sản, người ta lại chứng kiến một sự kiện oái oăm vào thời điểm bản lề giữa hai thập niên 1980 và 1990: chủ nghĩa Cộng sản đã bị sụp đổ trên phạm vi toàn cầu. Cái gọi là “sụp đổ” ấy có hai mức độ: sụp đổ hoàn toàn và sụp đổ một phần, hơn nữa, phần lớn. Nhưng dù sụp đổ hoàn toàn hay sụp đổ một phần thì cũng vẫn là sụp đổ. Một sự sụp đổ lớn lao, nhanh chóng, và đặc biệt, hoàn toàn nằm ngoài dự kiến của mọi người ở mọi phía.

Sự sụp đổ hoàn toàn diễn ra ở Nga, Đông Âu, Trung Âu, Trung Đông, Trung Mỹ và châu Phi.

Trước hết, ở châu Âu, chỉ trong vòng chưa tới ba năm, toàn bộ các đảng Cộng sản đang nắm quyền sinh sát gần như tuyệt đối ở Đông Âu và Trung Âu đều mất sạch quyền hành; chế độ độc đảng trở thành đa đảng; bầu cử tự do được tổ chức khắp nơi, các thành phần đối lập hoặc lên cầm quyền hoặc được chia quyền (ở Ba Lan, ngày 4/6/1989; Turkmenistan 7/1/1990; Uzbekistan 18/2/1990; Lithuania 24/2/1990; Moldova 25/2/1990; Kyrgyzstan 25/2/1990; Belarus 3/3/1990; Nga 4/3/1990; Ukraine 4/3/1990; Đông Đức 18/3/1990; Estonia 18/3/1990; Latvia 18/3/1990; Hungary 25/3/1990; Kazakhstan 25/3/1990; Slovenia 8/4/1990; Croatia 24/4/1990; Romania 20/5/1990; Armenia 20/5/1990; Tiệp Khắc 8/6/1990; Bulgaria 10/6/1990; Azerbaijan 30/9/1990; Georgia 28/10/1990; Macedonia 11/11/1990; Bosnia & Herzegovina 18/11/1990; Serbia 8/12/1990; Montenegro 9/12/1990; và Albania 7/4/1991). Liên bang Xô Viết tan rã. Hầu hết các quốc gia trước đây bị sáp nhập vào Liên bang đều tuyên bố độc lập hoặc tự trị. Ngay cả ở Nga, đảng Cộng sản không những bị mất quyền mà còn bị khinh bỉ và tẩy chay, không còn đóng vai trò gì trên bàn cờ chính trị quốc nội.

Xin lưu ý; sự sụp đổ của chế độ Cộng sản ở các nước trên đều diễn ra rất gọn gàng, không gây xáo trộn và đặc biệt, không đổ máu, trừ Romania, nơi Ceaușescu bị lật đổ và giết chết, kéo theo cái chết của khoảng 1.100 người khác.

Sự sụp đổ ấy nhanh chóng lan sang các vùng khác, đặc biệt các vùng Trung Mỹ, Trung Đông và châu Phi. Năm 1990, ở Nicaragua, sau một cuộc bầu cử tự do, đảng Cộng sản mất quyền; ở Angola, cuộc chiến giữa Cộng sản và phe chống Cộng chấm dứt; năm 1991, ở Ethiopia, Trung tá Mengistu Meriam, nhà độc tài Cộng sản từng thống trị đất nước suốt gần 15 năm, chạy trốn khỏi đất nước, và Eritrea tuyên bố tách khỏi Ethopia, trở thành độc lập và từ bỏ chủ nghĩa Cộng sản. Ở Trung Đông, năm 1990, chế độ Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Yemen bị sụp đổ, sau đó, hợp nhất với Nam Yemen, thành lập nước Cộng hòa Yemen; ở Afghanistan, chế độ Cộng sản của Najibullah sụp đổ vào mùa xuân 1992.

Sự sụp đổ một phần diễn ra ở Trung Quốc, Lào, Cuba và Việt Nam.

Chế độ Cộng sản, như nó từng tồn tại từ năm 1917 đến cuối thập niên 1980, dựa trên ba nền tảng chính: Về ý thức hệ, dựa trên chủ nghĩa Marx-Lenin; về kinh tế, dựa trên chính sách quốc hữu hóa và nguyên tắc kế hoạch hóa tập trung; và về bộ máy quyền lực, dựa trên sức mạnh độc tôn của đảng, công an và quân đội. Ở cả bốn quốc gia kể trên, từ đầu thập niên 1990, nền tảng ý thức hệ coi như đã bị phá sản; nền tảng kinh tế cũng bị biến chất theo chiều hướng tư bản hóa. Trên cái thế kiềng ba chân của chế độ, hai chân đã bị sụp. Chỉ còn một chân là bộ máy quyền lực. Gọi chế độ Cộng sản ở bốn quốc gia này bị sụp đổ một phần, thậm chí, phần lớn, là vậy.

Trên thế giới hiện nay, chỉ có một quốc gia duy nhất còn giữ được chế độ Cộng sản chính thống và “truyền thống” trước năm 1990, đó là Bắc Triều Tiên. Tuy nhiên, không ai xem đó là điều đáng tự hào. Ngược lại. Nó chỉ bị xem là một thứ quái thai.

Như vậy, chúng ta chứng kiến một nghịch lý: một mặt, có cảm tưởng như không ai có thể đánh bại được Cộng sản; mặt khác, chỉ trong vòng mấy năm thật ngắn ngủi, tất cả, với những mức độ khác nhau, đều thi nhau ngã gục. Vậy thì ai đánh bại nó?

Có nhiều câu trả lời đã được đưa ra. Nhưng câu trả lời được nhiều học giả đồng tình nhất là: Không có ai đánh bại Cộng sản cả. Chỉ có Cộng sản mới đánh bại được Cộng sản.

Cộng sản đánh bại Cộng sản bằng cách nào?

Bằng nhiều cách. Thứ nhất, bằng các sai lầm có tính hệ thống trong kinh tế khiến nước Cộng sản nào cũng nghèo đói xơ xác. Giữa thập niên 1980, phần lớn các cửa hàng quốc doanh, kể cả cửa hàng thực phẩm, ở phần lớn các nước Cộng sản, bao gồm cả Liên Xô, đều trống không. Nợ nước ngoài chồng chất. Riêng Ba Lan, nơi chế độ Cộng sản sụp đổ đầu tiên, nợ các nước Tây phương đến trên 100 tỉ đô la và đối diện với nguy cơ không thể trả được. Thứ hai, tình hình kinh tế tồi tệ ấy càng tồi tệ thêm nữa do nạn tham nhũng tràn ngập ở mọi cấp. Thứ ba, những thất bại về kinh tế, sự hoành hành của tham nhũng và những chính sách độc tài tàn bạo của chính quyền làm dân chúng bất mãn và nổi dậy tranh đấu đòi thay đổi chính sách, đặc biệt, dân chủ hóa. Cuối cùng, đối diện với tất cả các vấn đề ấy, hầu như mọi người, kể cả các cán bộ cao cấp nhất, đều mất hẳn niềm tin vào chủ nghĩa Cộng sản. Họ biết chắc chắn một điều: họ không thể tiếp tục tồn tại được nếu họ không tự thay đổi. Chính sách glasnost và perestroika của Mikhail Gorbachev ra đời là để đáp ứng lại nhu cầu đó. Nhưng ngay cả khi đưa ra chính sách cải tổ và tái cấu trúc như vậy, giới lãnh đạo vẫn không an tâm hẳn. Họ biết đó chỉ là những biện pháp vá víu. Tự thâm tâm, tất cả đều mất niềm tin vào chế độ.

Chính vì mất niềm tin như vậy nên ở những thời điểm quan trọng nhất, mọi người đều đâm ra hoang mang, không ai dám quyết định điều gì. Ngày 9 tháng 11 năm 1989, khi dân chúng đổ xuống đường biểu tình trước bức tường Bá Linh, bộ đội và công an, dù đông hơn hẳn, không biết đối phó thế nào. Họ gọi điện thoại lên cấp trên. Các cấp trên của họ sợ trách nhiệm, cứ đùn qua đẩy lại với nhau: Cuối cùng bức tường bị đổ. Ở Nga cũng vậy, trước các cuộc xuống đường của dân chúng, không ai dám ra lệnh quân đội hay công an nã súng vào dân chúng: cuối cùng, chế độ sụp.

Không phải cán bộ, công an hay giới lãnh đạo bỗng dưng nhân đạo hơn. Không. Ở đây không phải là sự thay đổi trong tính khí. Mà ở nhận thức. Tất cả đều nhận thức được sâu sắc mấy điểm chính: Một, ngày tàn của chế độ Cộng sản đã điểm; nó không thể tồn tại thêm được nữa. Hai, nó cũng không thể cứu được. Mọi nỗ lực cứu vớt đều tuyệt vọng và chỉ gây tai họa không những cho đất nước mà còn cả cho chính bản thân họ. Cuối cùng, như là hệ quả của hai điều ấy, chọn lựa tốt nhất mà họ nên làm là buông tay bỏ cuộc.

Cả ba nhận thức ấy đều không thể có nếu không có hai điều kiện: Thứ nhất, người ta có dịp so sánh với sự giàu có, tự do và dân chủ ở Tây phương và thứ hai, các nỗ lực tranh đấu không ngưng nghỉ của dân chúng, đặc biệt giới trí thức, trong việc vạch trần các sai lầm và tội ác của chế độ. Cả hai điều kiện đều quan trọng, nhưng điều kiện thứ nhất chỉ có thể phát huy được tác dụng là nhờ điều kiện thứ hai. Những sự phê phán và tranh đấu cho dân chủ liên tục càng ngày càng làm nổi bật sự khác biệt sâu sắc giữa tự do và toàn trị, càng làm lung lạc niềm tin ngay cả ở những kẻ cuồng tín và mê tín nhất, cuối cùng, cô lập những kẻ lì lợm bám víu vào bộ máy độc tài. Khi sự cô lập đến mức độ nào đó, người ta chỉ còn hai lựa chọn: hoặc trở thành Gorbachev hoặc trở thành Ceaușescu (hay gần hơn, Muammar Gaddafi ở Libya).

Thượng-đế và khoa-học

Thượng-đế và khoa-học

Trong lớp học, vị giáo-sư Triết-học ngắt giọng “Hãy để tôi giải-thích vấn-đề của khoa-học đối với tôn-giáo”, và ông yêu-cầu một học-sinh đứng lên.

– Em theo đạo Chúa ?

– Thưa Thầy, vâng.

– Em tin vào Thượng-đế ?

– Tất-nhiên.

– Thượng-đế có tốt không ?

– Chắc-chắn là tốt.

– Có phải là Ngài Toàn-năng ? Có thể làm được mọi việc ?

– Thưa vâng.

– Em là tốt hay xấu ?

– Kinh-thánh bảo là kẻ xấu.

Vị giáo-sư cố ý cười, suy-nghĩ chốc lát và bảo :”À ha ! Kinh-thánh ? Giả-sử ở đây có người bệnh và em có thễ chữa lành. Em có khả-năng. Em có giúp anh ta? Em có thử không ?

– Thưa Thầy, em sẽ thử.

– Vậy em là người tốt.

– Em không có ý nói thế.

– Tại sao lại không nói như thế ?. Nếu có thể, em sẽ giúp một người bệnh, tàn-tật. Hầu hết chúng ta sẽ làm nếu có thể, nhưng Thượng-đế thì không !
Cậu học-trò không trả-lời, và vị giáo-sư tiếp-tục. “Em trai tôi là tín-đồ đạo Chúa đã chết vì ung-thư mặc dầu đã từng cầu nguyện xin Chúa Jesus cứu chữa… Sao mà cho Chúa Jesus tốt được ? Em có thể trả-lời được không ?.

Cậu học-trò vẫn im-lặng.

Vị giáo-sư nói “em không thể trả-lời phải không ?”. Ông cầm lấy ly trên bàn nhấp môt ngụm nước tạo thời-gian cho cậu học-sinh bớt căng thẳng. “Chúng ta bắt đầu trở lại. Thượng-đế có tốt hay không ?”.

– Dạ … tốt !

– Quỷ Satan có tốt không ?

Cậu học-trò không ngại-ngần : “Không”.

– Vậy Satan đến từ đâu ?

Cậu học-trò ngập-ngừng : “Từ Thượng-đế” .

– Đúng thế. Thượng-đế tạo Satan. Em cho tôi biết có kẻ xấu ác trên thế-giới này không ?

– Dạ có .

– Kẻ xấu ác có khắp nơi. Và Thượng-đế tạo mọi thứ, có đúng không ?

– Dạ đúng.

Vị giáo-sư tiếp-tục :

– Vậy ai tạo ra kẻ xấu ác ?. Nếu Thượng-đế tạo ra mọi vật, thì Ngài tạo ra kẻ xấu ác. Do bởi xấu ác hiện-hữu, và theo nguyên-lý “hành-động định-danh con người”, vậy Thượng-đế là kẻ xấu ác.

Cậu học-trò lại không trả-lời.

– Có phải bệnh-tật, vô đạo-đức, hận-thù và xấu xa hiện-hữu trên cõi đời này ?

Cậu học-trò đứng im lúng-túng “Thưa vâng”.

– Vậy thì ai tạo ra chúng?

Cậu học-trò lại không trả-lời để vị giáo-sư lập lại câu-hỏi “Ai tạo ra chúng ?”.

Vẫn không có câu trả-lời. Đột-nhiên vị thẩy bước đến trước lớp học. Cả lớp như bị mê-hoặc. Ông tiếp tục hỏi một học-sinh khác “Hãy nói cho tôi nghe !”.

– Em có tin vào đức Chúa không ?.

– Vâng, Thưa Thầy, em tin.

Vị giáo-sư ngừng bước :

– Khoa-học bảo em có ngũ-giác-quan dùng để xác-định và quan-sát thế-giới
xung quanh. Em đã thấy Chúa Jesus bao-giờ chưa ?

– Thưa Thầy, em chưa bao giờ thấy Ngài.

– Có bao-giờ em cảm-nhận được Chúa của em, nếm Chúa của em hay ngửi thấy Chúa của em ? Có bao giờ em có những cảm-giác nhận biết đức Chúa hay Thượng-đế ?

– Thưa Thầy, đáng tiếc là em không có.

– Em vẫn còn tin Chúa ?

– Thưa vâng.

– Theo quy-tắc những giao-thức thể-nghiệm, khả-nghiệm, và chứng-minh được, khoa-học bảo Thượng-đế không hiện-hữu… Em nói như thế-nào vể điều đó ?

– Không. Em chỉ có đức tin của em.

– Vâng. Đức tin. Và đó chính là vấn-đề khoa-học đã có đối với Thượng-đế. Không có bằng-chứng, chỉ có đức tin.

Cậu học-trò đứng lặng lẽ một lúc, trước khi hỏi : “Thưa Thầy, có cái gì là nhiệt không ?”.

– Có.

– Và có cái gì là lạnh không ?

– Vâng, có cả lạnh nữa em à .

– Thưa Thầy, không phải vậy.

Vị giáo-sư quay nhìn vào mặt cậu học-trò tỏ vẽ thú-vị. Cả lớp đột-nhiên im lặng như tờ. Cậu học-trò bắt đầu giải-thích :

– Thầy có thể có rất nhiều nhiệt, thậm chí thêm nhiều nhiệt, siêu-nhiêt, vô-hạn-nhiệt, nhiệt trắng, môt chút nhiệt hay không nhiệt, nhưng chúng ta không có cái gì gọi là “lạnh”. Ta có thể đạt xuống 458 độ dưới zero mà không có nhiệt, nhưng ta không thể xuống hơn thế nữa. Không có gì là “lạnh” hết; nếu không ta có thể đạt mức lạnh hơn độ thấp nhất là -458 độ. Mọi thể-vật có thể nghiên-cứu được khi chúng có hay truyền được năng-lượng. Ở độ zero tuyệt-đối (-458 F) hoàn-toàn vắng bóng nhiệt. Thưa Thầy, Thầy có thấy “lạnh” chỉ là chữ ta dùng để diễn tả sự “vắng bóng nhiệt”. Ta không thể đo-lường “lạnh” Ta có thể đo lường nhiệt theo những đơn-vị nhiệt vì nhiệt là năng-lượng. “Lạnh” không phài là đối nghịch của nhiệt. Thưa Thầy, đó chỉ là vắng bóng nhiệt.

Cả lớp lặng im. Có cây bút rơi đâu đó, nghe như tiếng búa rơi.

– Thưa Thầy, còn “bóng tối” ? Có cái gì là bóng tối không ?

 


Vị giáo-sư đáp lại không do dự :

– Có. Đêm là gì nếu đó không là bóng tối ?

– Thầy lại sai lầm. Bóng tối không là một cái gì cả ; chỉ là sự vắng mặt một cái gì đó. Thầy có thể có ánh-sáng yếu, bình-thường, ánh-sáng mạnh, ánh sáng nháy, nhưng nếu ánh sáng không liên-tục, Thầy chẳng có gì hết và phải chăng đó được gọi là bóng tối ? Và nếu thế, Thầy có thể làm bóng tối tối hơn, Thầy có thể làm được vậy hay không ?

Vị giáo-sư bắt đầu nở nụ cười với cậu học trò trước mặt. Đây hẳn sẽ là một học kỳ tốt đẹp.  :

– Người bạn trẻ, em muốn nói đến điều gì ?

– Vâng thưa Thầy. Điều em muốn nói là tiền-đề triết-học Thầy khởi xuất là sai lầm, và kết-luận của Thầy cũng thiếu sót.

Lần này, nét mặt của vị giáo-sư không che giấu được sự ngạc-nhiên :

– Sai lầm ? Em có thể giải-thích được không ?

Câu học-trò giải thích :

– Thầy đang tạo một tiền-đề có hai mặt. Thầy tranh luận rằng có sự sống và rồi có sự chết; một Thượng-đế tốt và môt Thượng-đế xấu. Thầy đang có khái-niệm về Thượng-đế như là một gì hữu-hạn, là môt gì ta có thể đo đạc. Thưa Thầy, thậm chí khoa-học không thể giải-thích một ý-nghĩ. Dùng điện và từ, nhưng chưa bao giờ thấy, không hoàn toàn hiểu được đầy đủ. Xem cái chết như là đối nghịch với sống là không hiểu gì hết, thực ra cái chết không thể hiện-hữu như môt tồn-tại độc lập. Chết không đối nghịch với sống, chỉ là vắng bóng sự sống.. Bây giờ Thầy cho em biết có phải Thầy dạy học trò rằng chúng “tiến-hóa” từ khỉ ?

– Người bạn trẻ ơi, nếu em đề cập đến quá-trình tiến-hóa thiên-nhiên, vâng, tất-nhiên tôi đã dạy như thế.

– Có bao giờ Thầy dùng đôi mắt quan-sát sự tiến-hóa ?

Vị giáo-sư bắt đầu lắc đầu, vẫn cười mỉm như nhận ra cuộc tranh-luận sẽ như thế nào. Thật là một học kỳ tốt đẹp.

– Do bởi không một ai quan-sát được quá-trình tiến-hóa và lại càng không minh-chứng được nó đang tiếp-diễn, sao Thầy không dạy những quan-điểm của Thầy ? Phải chăng giờ đây Thầy chẳng là một khoa-học gia, mà là một người thuyết-giáo ?

Cả lớp học náo động. Người học trò vẫn im-lặng cho đến khi sự ồn ào lắng xuống.

– Để tiếp nối vấn-đề Thầy đã đặt ra cho bạn kia, em xin đưa một thí-dụ để rõ ý của em.

Người học trò nhìn quanh lớp :

– Có ai trong các bạn đã từng nhìn thấy bộ não của Thầy ?

Cả lớp bật vang tiếng cười.

– Có ai trong các bạn đã từng nghe bộ não của Thầy ? càm nhận bộ não của Thầy, rờ mó và ngửi bộ não của Thầy ? Chẳng thấy có ai làm vậy cả. Vậy thì, theo quy-tắc những giao-thức thể-nghiệm, khả-nghiệm, và chứng-minh được, khoa-học bảo Thầy không có bộ não, thưa Thầy, em vẫn với một lòng tôn kính. Vậy thì, nếu khoa-học bảo Thầy không có bộ não, làm sao chúng em có thể tin vào các bài giảng của Thầy ?

Giờ thì cả lớp lặng yên. Vị giáo-sư chỉ nhìn chăm chăm học trò, khuôn mặt khó hiểu. Cuối cùng, tưởng chừng như vô-tận, vị Thầy già trả lời :

– Tôi đoán em sẽ phải đưa họ về lại với đức tin.

Cậu học-trò tiếp-tục :

– Bây giờ Thầy chấp nhận rằng có đức tin, và trên thực tế, đức-tin hiện-hữu với đời sống. Bây giờ, có cái gì là xấu ác không Thầy ?

– Tất nhiên có. Chúng ta thấy hàng ngày. Những thí dụ vô-nhân của người đối với đồng loại; vô số tội ác và bạo-lực xảy ra khắp nơi trên thế-giới. Những điều này biểu-hiện không gì khác hơn là điều xấu ác.

Cậu học-trò trả-lời :

– Thưa Thầy, sự ác không hiện-hữu, hoặc ít nhất nó cũng không tự nó hiện-hữu. Đơn-giản, sự ác là vắng bóng Thượng-đế. Cũng giống như bóng tối và lạnh, chỉ là ngôn từ con người đặt ra để diễn giãi sự vắng mặt của Thượng-đế. Thượng-đế không tạo ra sự ác. Sự ác chỉ là kết quả những gì khi con người không có tình-yêu của Thượng-đế trong con tim của họ. Giống như “lạnh” đến khi không có nhiệt hay bóng tối đến khi không có ánh sáng.

Vị giáo-sư ngồi xuống.

Nếu bạn đọc một mạch đến hết và miệng mỉm nụ cười, bạn nên gửi cho gia-đình và bè bạn với tiêu-đề “Thượng-đế và Khoa-học”

Bị chú : Cậu học-trò trong câu chuyện là Albert Einstein

SỐNG THỬ VÀ BẤT ỔN

SỐNG THỬ VÀ BẤT ỔN

TRẦM THIÊN THU

Trích Ephata số 565

Ngày xưa người ta quan niệm “nam nữ thọ thọ bất thân”, quan niệm sống đầy tính luân thường đạo lý và nhân bản, nhưng ngày nay người ta “chỉnh sửa” quan niệm đó thành… “nam nữ cọ cọ sát thân”. Cách nghĩ quá “thoáng” như vậy trở thành phóng túng và tội lỗi !

Người ta còn cho rằng cứ sống thử trước, nếu hợp thì… sống tiếp, không hợp thì chia tay. Quá dễ dãi ! Và quan niệm mà người ta cho là tân kỳ và thoáng như vậy lại chỉ là quan niệm sai lầm mà thôi. Sự bất ổn gia đình tiếp tục tăng ở Hoa Kỳ mặc dù giảm tỷ lệ ly hôn đối với các gia đình. Các nhà nghiên cứu nói rằng mức tăng về việc sống thử ( sống chung chạ như vợ chồng mà không kết hôn ) là một phần của vấn nạn gia đình.

Ngày nay, tỷ lệ ly hôn cao. Nhiều người muốn cứu vãn hôn nhân của mình đang trên bờ vực thẳm ly hôn, người ta đã phải đôn đáo tìm nhà tư vấn. Vì thế, các trung tâm tư vấn ( tình yêu, hôn nhân, gia đình, và các vấn đề khác ) lần lượt xuất hiện nhiều, ngay cả báo chí cũng thường có mục tư vấn, và các đài phát thanh hoặc truyền hình cũng có các chương trình tư vấn.

Giáo sư W. Bradford Wilcox, thuộc Đại Học Virginia và Trung Tâm Hôn Nhân và Gia Đình của Viện Giá Trị Hoa Kỳ ( Institute for American Values’ Center for Marriage and Families ) tại New York, nhận xét: “Tỷ lệ ly hôn đối với các cặp vợ chồng đã trở lại mức mà chúng tôi thấy trước cuộc cách mạng ly hôn hồi thập niên 1970. Tuy nhiên, tính bất ổn gia đình lại đang gia tăng đối với con cái người Mỹ. Điều này có vẻ chiếm một phần vì nhiều cặp vợ chồng có con cái sống thử, và điều này rất bất ổn”.

Ngày nay, hơn 40% thanh thiếu niên Hoa Kỳ đều sống thử. Họ muốn có kinh nghiệm chia tay của cha mẹ hơn so với những đứa con của các cặp vợ chồng kết hôn. Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ chia tay cao hơn so với những đứa con của các cặp sống thử, lên tới 170%. Việt Nam cũng đang có nguy cơ tương tự, đạo đức luân lý suy thoái nên sự “dễ dãi” về tình dục cũng dần dần “thoáng” hơn !

Gíao sư Bradford Wilcox nói rằng con cái của các cha mẹ sống thử sẽ bị rắc rối nhiều hơn về các vấn đề xã hội và tình cảm ( lạm dụng ma túy, trầm cảm, bỏ học sớm, yêu đương nhăng nhít,… ) so với những đứa con có cha mẹ kết hôn hẳn hoi. Nghiên cứu này được thực hiện với 250 bài viết về hôn nhân & gia đình ở Hoa Kỳ và khắp thế giới. Nghiên cứu này cũng phân tích các dữ liệu của số liệu khảo sát Xã Hội Tổng Quát và Khảo Sát Thu Nhập và Tham Gia Chương Trình ( General Social Survey and the Survey of Income and Program Participation ).

Bản tường trình cho biết thêm: “Dù chúng ta thành công hay thất bại trong việc xây dựng văn hóa hôn nhân lành mạnh thì rõ ràng cũng là mối quan tâm chung hợp pháp và là vấn đề tối quan trọng nếu chúng ta muốn đảo ngược tình trạng cách ly khỏi nhịp phát triển xã hội của các thành viên dễ bị tổn thương nhất trong xã hội của chúng ta: giới lao động, dân nghèo, dân tộc thiểu số, và con cái”.

Con cái của các cặp sống thử có thể bị lạm dụng về thể lý, tình dục hoặc tình cảm gấp 3 lần so với con cái của các cặp vợ chồng vẫn nguyên vẹn hôn nhân. Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện tính bất ổn gia đình cũng góp phần phan biệt giai cấp, phe cánh. Con cái của các cha mẹ có học thức thấy cuộc sống gia đình họ ổn định, còn con cái của các cha mẹ ít học lại thấy cuộc sống gia đình họ càng ngày càng bất ổn. Những người sống dư dả tận hưởng gia đình “vững mạnh và ổn định”, còn những người khác đối mặt với gia đình “càng bất ổn, càng bất hạnh và càng mất tác dụng”.

Ly hôn liên quan con cái trở lại mức trước khi luật hôn nhân thay đổi để dễ ly hôn hơn. Khoảng 23% con cái có cha mẹ kết hôn đầu thập niên 1960 đều biết cha mẹ ly hôn khi chúng được 10 tuổi. Cũng gần tương đương tỷ lệ đó đối với con cái có cha mẹ kết hôn năm 1997.

Các tác giả của bản tường trình kết luận rằng hôn nhân nguyên vẹn giữa cha mẹ vẫn là “tiêu chuẩn vàng” đối với đời sống gia đình tại Hoa Kỳ. Ngày 16.8.2011, Viện Giá Trị Hoa Kỳ cho biết: “Con cái có thể phát triển tốt hơn về kinh tế, xã hội và thể chất nếu chúng sống trong các gia đình theo chuẩn này”. Hôn nhân là “điều tốt quan yếu của cộng đồng” với nhiều lợi ích về kinh tế, sức khỏe, giáo dục và an toàn, giúp ích hơn cho xã hội và chính phủ phục vụ công ích.

Lợi ích của hôn nhân cũng lan rộng tới người nghèo, giới lao động và dân tộc thiểu số, mặc dù có việc suy yếu hôn nhân trong 4 thập niên qua. Viện Giá trị Hoa Kỳ kết luận: “Việc sống thử gia tăng là mối đe dọa tiềm ẩn đối với chất lượng và tính ổn định của đời sống con cái trong các gia đình ngày nay”.

Tóm lại, sống thử hoàn toàn bất lợi – cả về tâm lý lẫn sinh lý, kéo theo hệ lụy làm suy giảm sức khỏe, điều mà khoa học cũng đã chứng minh. Xưa nay, xã hội vẫn đề cao việc “nam nữ thọ thọ bất thân”, chỉ bắt đầu “chuyện ấy” trong đêm động phòng, dành cho nhau những giây phút thăng hoa cao thượng nhất, và nhiều tôn giáo cũng khuyến cáo chuyện sống thử hoặc “ăn cơm trước kẻng”.

TRẦM THIÊN THU

THIÊN ĐÀNG

THIÊN ĐÀNG

Jos. Viet, O.Carm.

nguồn:chỉ 3 phút thôi

Thiên Đàng là gì? Trong Thiên Đàng có gì?

Chưa ai lên Thiên Đàng rồi trở về thế giới này kể chuyện cho mọi người nghe về cuộc sống mới của họ cả. Có người thao thức, suy tư và đưa ra một vài cảm nhận và suy đoán cuả mình về Thiên Đàng. Họ nói ở Thiên Đàng mọi người đều hạnh phúc vì được chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa Tình Yêu. Ngày đêm họ ngợi ca, chúc tụng, và chiêm ngưỡng thánh nhan của Người.

Nhạc sĩ Ngọc Lễ có một bài hát về Thiên Đàng mang tựa đề “Em Bé Bán Diêm”. Thân em nghèo khổ, côi cút quá. Em phải đi bán diêm để kiếm sống. Một ngày đông giá rét, những que diêm nhỏ bé không thể giữ lại hơi ấm trong em. Em chết trong cảnh đơn côi lạnh lẽo, và có lẽ là lạnh lùng của cuộc đời. Em đến Thiên đàng, nơi không còn hận thù, đòn roi, lạnh lẽo hành hạ tấm thân gầy. Thiên Đàng là một nơi có nhánh thông xanh của sự sống, có mẹ, có bà để sưởi ấm trái tim em. Nhà văn Mitch Albom trong tác phẩm “The Five People You Meet in Heaven” kể về một người đàn ông sau khi chết đi về Thiên đàng. Thiên đàng là một cuộc trở về nhà, mái nhà của hoà giải với chính mình, với anh chị em. Thiên đàng là nơi mọi người hiểu ra lịch sử cuộc đời mình với rất nhiều bất ngờ mà mình không bao giờ nghĩ tới. Thiên Đàng ấy là nhà của tình thương và hoà hợp, với tất cả lịch sử và kỷ niệm rất con người đã được Thiên Chúa biến đổi.

Trong dụ ngôn về ông phú hộ giàu có và người ăn mày nghèo khổ Lazarus, khi ông phú hộ xin tổ phụ Abraham cho anh Lazarus hiện về báo tin và cảnh cáo các anh em của ông thì Abraham trả lời: “Họ đã có Môsê và các ngôn sứ rồi.” (Lc 16:29) Ông phú hộ biện luận: “Cha Abraham ơi, họ sẽ không nghe họ đâu. Nhưng nếu có người từ cõi chết về nói với họ thì họ sẽ cải đổi.” (Lc 16:30) Abraham đáp lại “Nếu họ không nghe các ngôn sứ, họ cũng sẽ không nghe người chết hiện về báo cho họ đâu.”(Lc 16:31)

Chúa Giêsu cũng không mô tả về Thiên Đàng. Có lẽ như vậy sẽ tốt hơn cho tôi và bạn để chúng ta sống trọn vẹn tự do và nhân phẩm của mình. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã cho biết Chúa đi để dọn chỗ cho chúng ta. Tại sao? Vì Chúa muốn tôi và bạn cũng như tất cả anh chị em trong gia đình nhân loại này được ở bên Chúa, được Chúa chăm sóc và chia sẻ hạnh phúc với Chúa: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu thì họ cũng được ở đó với con.”(Ga 17:24)  Cần phải có điều kiện nào? Rất đơn giản: “Đây là điều Thầy truyền cho anh em: hãy yêu thương nhau!” (Ga 15:17)

Giêsu đã phục sinh thân xác con người, và Giêsu phục sinh ấy vẫn đến với bạn bè, anh chị em của mình với một lịch sử cụ thể mà  họ đã biết về Người: “Chính Thầy đây, anh em đừng sợ!”(Mt 28:10). Phải chăng đó là một gợi mở cho chúng ta biết rằng trong cuộc sống mới bên kia thế giới này chúng ta sẽ có những kỷ niệm thật đẹp để chia sẻ cho nhau. Chúng ta bước vào Thiên Đàng với tất cả lịch sử của mình, một lịch sử đã được biến đổi để tất cả cùng được quy tụ trong Tình Yêu vĩnh cửu. Thiên Đàng của chúng ta không là gì khác, mà là chính Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương con người đến cùng. Ở trong Thiên Chúa tức là ở trong Thiên đàng.

Trong ngày họp mặt thân mật và chan chứa yêu thương đó, chúng ta sẽ gặp nhiều anh chị em mà chúng ta chưa bao giờ biết mặt, nhưng đã có thể hiệp thông bằng nhiều cách. Sẽ có nhiều bất ngờ thú vị lắm nhỉ?! Và chính vì thế, hôm nay nếu tôi và bạn có thể làm được gì trong hoàn cảnh và sáng kiến của mình thì ta cứ làm. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ ngồi bên nhau kể lại cuộc hành trình với những kỷ niệm thân thương, bạn nhỉ !

Jos. Viet, O.Carm.

HÃY LUÔN BIẾT CHẠNH LÒNG THƯƠNG

HÃY LUÔN BIẾT CHẠNH LÒNG THƯƠNG

Tác giả: Lm. Nguyễn Thành Long

conggiaovietnam.net

Chúa Nhật 10 Thường Niên C

Mỗi ngày, người ta phải chứng kiến biết bao tai nạn đau lòng xảy ra khắp nơi trên đất nước này để lại những cảnh đời vô cùng thương tâm: cha mẹ mất con, chồng mất vợ, con cái mất cha hoặc mất mẹ, trở nên côi cút. Vụ tai nạn giao thông thảm khốc vừa xảy ra mới hôm qua tại Khánh Hòa khi chiếc xe khách đâm vào vách núi đã cướp đi sinh mạng của 7 người và làm bị thương hàng chục người. Trong đó, đa phần là các cô giáo của một trường tiểu học ở Huyện Hòa Vang, Đà Nẵng. Bà Võ Thị Nhung, đã ngoài 70 tuổi, mẹ của cô giáo bị thiệt mạng trong vụ tai nạn khóc ngất nói: “Tôi không ngờ nó còn trẻ vậy mà người đầu bạc khóc kẻ đầu xanh!”. Mọi người trong nhà cô Mai kể: “Cô giáo Mai mới chỉ 33 tuổi. Trong nhà, duy chỉ mình cô giáo Mai là được học hành đến nơi đến chốn”.

Chị Nguyễn Thị Liệu, chị ruột của cô Mai, khóc nức nở: “Con nó mới được 4 tuổi, hôm đi cả nhà động viên nhiều lắm nó mới chịu đi vì nghĩ nhà còn khó. Mà mấy chục tuổi đầu nó đã có chuyến du lịch nào đâu! Đây là chuyến đi đầu không ngờ cũng là chuyến đi cuối!”…

Bảy cái đám tang tại một ngôi làng trong một ngày, với biết bao nước mắt đau thương quả là nỗi mất mát quá lớn.

Có người bảo rằng nếu Chúa Giêsu làm người và sống vào thời đại hôm nay ngay trên đất nước Việt Nam này, thì Chúa Giêsu sẽ liên tục được mời đến những nơi xảy ra tai nạn giao thông và Ngài tha hồ làm phép lạ, nhất là phép lạ phục sinh cho những người chết vì tai nạn.

Thật vậy, trong suốt ba năm rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ, kể cả phép lạ hồi sinh người chết, như phép lạ phục sinh con trai bà goá thành Naim trong bài Tin Mừng hôm nay.

Có điều, khác hẳn với các phép lạ khác, trong phép lạ hôm nay, không ai xin Chúa và Chúa cũng không đòi hỏi lòng tin nơi người được chữa lành, hay nơi những người liên quan. Chỉ đơn thuần trên đường đi, Chúa Giêsu gặp đám tang con trai một bà góa thành Naim và Ngài đã ra tay phục sinh cho con của bà.

Quả vậy, Chúa Giêsu đã nhìn thấy hoàn cảnh rất đáng thương của bà. Đáng thương vì chồng bà mất sớm, bà trở nên đơn chiếc, trở nên góa bụa. Đáng thương hơn nữa, vì giờ đây đứa con trai duy nhất của bà cũng bỏ bà ra đi vĩnh viễn. Bà lâm vào cảnh “Tre già phải khóc măng non”, và trở thành người bơ vơ, không nơi nương tựa. Tất cả dường như sụp đổ, cuộc sống bà xem ra không còn hy vọng gì cả, bà chỉ có một niềm an ủi, một động lực để sống là đứa con thì nay niềm hy vọng cuối cùng đó cũng không còn nữa. Ai sẽ đứng ra bảo lãnh tài sản của mình trước pháp luật, và ai sẽ bảo vệ danh dự cho mình trong một xã hội trọng nam khinh nữ như xã hội Do thái đây? Bao nhiêu câu hỏi nghiệt ngã quay quắt đang nhảy múa trong đầu của bà.

Nhìn thấy cảnh đáng thương đó, Chúa Giêsu đã chạnh lòng trắc ẩn đối với bà, cả về mặt nhân tính lẫn thiên tính.

– Về mặt nhân tính: trái tim nhân loại của Con Thiên Chúa làm người đã chạnh lòng, đã thổn thức trước cảnh mất mát tuyệt vọng của bà. Ngài hiểu hơn ai hết rằng bà mẹ đã đau khổ đến mức nào. Nếu hôm ấy là đám tang của một người già an bình ra đi, có lẽ Chúa Giêsu đã không làm phép lạ. Thế nhưng ở đây Chúa Giêsu đang đối diện với một hoàn cảnh đáng thương tâm: một người mẹ đang vật vã khóc lóc tiễn đứa con trai độc nhất ra nghĩa trang (Lầu Ông Hoàng). Ngài dừng lại và thì thầm an ủi bà, với tấm lòng chân thành cảm thông nồng nàn qua giọng nói nghẹn ngào: “Này bà, bà đừng khóc nữa!”

– Về mặt thiên tính: quyền năng của Đấng Kitô đã “đụng” đến nỗi đau thương mất mát của bà. Quyền năng của một Thiên Chúa đã “chạm” đến niềm tuyệt vọng của một con người. Khác với trường hợp phục sinh người con trai của bà goá ở Xarepta mà ta vừa nghe trong Bài đọc I, tiên tri Êlia phải nằm lên đứa trẻ đến 3 lần và tha thiết kêu nài Đức Chúa đoái thương. Ở đây Chúa Giêsu dùng quyền năng của chính mình mà truyền lệnh cho con trai bà chỗi dậy, và chỉ với một lời nói đầy uy quyền, người chết đã sống lại.

Qua phép lạ phục sinh cho con trai bà goá thành Naim, Chúa Giêsu muốn bày tỏ tình thương vô biên của Thiên Chúa đối với con người trong cảnh khốn cùng. Thiên Chúa biết, Thiên Chúa thấu hiểu nỗi cùng khốn của nhân loại. Ngài cảm thông với nỗi đau khổ, nỗi bất hạnh của con người chúng ta và sẵn sàng ra tay xoa dịu. Chính vì thế chúng ta được mời gọi, trước hết, trong mọi hoàn cảnh sống, hãy luôn vững niềm tín thác cậy trông vào Thiên Chúa, không bao giờ được ngã lòng thất vọng. Thứ đến, hãy nỗ lực đáp trả tình yêu thương của Thiên Chúa trong tương quan đối với anh chị em mình bằng lối sống bác ái, bao dung, cảm thông và liên đới.

Tuy nhiên, nhìn lại thực tế cuộc sống hằng ngày, chúng ta thấy rằng có thể vì nhiều lý do, trái tim chúng ta bị chai lì, dửng dưng vô cảm trước những cảnh tượng thương đau của người khác. Có thể vì rất thường thấy người nghèo, nên chúng ta dễ vô tâm trước cái khổ của người nghèo. Có thể vì rất thường xuyên thấy người bệnh, nên chúng ta dễ vô tư trước nỗi đau của người bệnh. Và có thể vì rất quen thấy người tội lỗi, nên chúng ta dễ vô tình nhìn họ ngày càng chìm sâu trong lỗi tội.

Xin Chúa cất khỏi chúng ta trái tim chai cứng và ban tặng cho chúng ta trái tim mềm mại của Chúa, trái tim biết yêu thương, để chúng ta luôn biết thổn thức, biết chạnh lòng trước những hoàn cảnh, trước những mảnh đời đau khổ và bất hạnh để ra tay trợ giúp họ. Amen.

Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

“Em lo gì trời gió!”.

“Em lo gì trời gió!”.


“Em lo gì trời mưa!

Em lo gì mùa hè,
Em tiếc gì mùa thu.”
(Đức Quỳnh/Nguyễn Bính – Thoi Tơ)

(1Ga 2: 8-11)

Hôm ấy, thêm một ngày đẹp trời, bần đạo/bầy tôi đang lang thang trong khuôn viên chùa chiền, chợt nghe đứa cháu nội mới lên 5 đã biết ngâm nga câu hát do ông ngoại dạy mà không hiểu. Chẳng cần biết cháu đang tư-duy những gì với câu hát, ông nội cháu đây bèn hát tiếp đôi câu, như sau:

“Ta cứ yêu đời đi.

Như lúc ta còn thơ,

Rồi để anh làm thơ,

và để em dệt tơ.”

(Đức Quỳnh/Nguyễn Bính – bđd)

Vâng. Đúng thế! Khi xưa, lúc bầy-tôi-bần-đạo còn ấu thơ, ở đâu đó, vẫn có cảnh tình của cuộc sống, rất tốt đẹp. Cảnh tình đó, có những giờ phút êm ả mà người anh/người chị của chúng ta vẫn cứ đặt nhạc với những câu như “dệt tơ”, “làm thơ” cả vào mùa thu rồi nhắn nhủ: “Ta cứ yêu đời đi!” Yêu, như lúc ta “còn thơ”, và rồi chẳng còn “lo gì trời gió”, với “trời mưa”, rất ban tối. Và khi ấy, bần-đạo bầy-tôi đây chẳng tiếc nuối những “mùa thu”,hoặc “mùa hè” vẫn cứ lâm li, những lời như:

“Thơ anh làm, em hát,

tơ em dệt, anh may.

Ta xây đời bằng mộng,

như tiễn biệt con thoi.”

(Đức Quỳnh/Nguyễn Bính – bđd)

Vâng. Hôm nay đây, ở nơi này, người người vẫn sống trong phúc hạnh cũng chẳng vì đã “dệt tơ” hay làm thơ hoặc viết nhạc rất tiền chiến, nhưng vẫn ngồi đó hỏi han những vấn nạn nghe rất quen, mỗi khi có cuộc bầu bán Giáo Hoàng, cũng rất mới. Hỏi han, những câu nghe hoài không biết chán và cũng chẳng lạ, như:

“Theo anh chị và quý vị, có phải là Đức Giáo Hoàng tân cử của ta rồi ra sẽ cho phép Hội thánh tấn phong nhiều nữ phụ đạo đức nếu không được làm công việc của linh mục, thì ít ra cũng sẽ được vinh thăng thành “chị Sáu” hoặc “cô Sáu”, cũng chóng thôi, phải không? Hoặc, có khi còn tiến nhanh/tiến mạnh hơn nữa để đốt giai đoạn cho phép linh mục ta có vợ như giáo hội bạn, thật cũng tốt, phải thế không?”

Hỏi han/vấn nạn huỵch toẹt như thế, thì người nghe có là ai đi nữa cũng sẽ tự ý xung phong kiếm tìm lời giải đáp cho hợp lý. Có nghe có nói hoặc có gạn hỏi cho nhiều, thì bần-đạo-bầy-tôi đây chỉ xin tình nguyện gửi về người hỏi đôi câu đáp trả tuy hèn mọn cũng chỉ để khỏi hát đi hát lại mãi câu ở trên vẫn cứ nhủ: “Em lo gì trời gió”, “Em lo gì trời mưa”, lưa thưa, ọp ẹp cho đỡ mệt. Cũng may là, bần đạo chưa kịp vấn nạn những chuyện nắng/mưa đã được bầu bạn chuyển cho thông tin khá mới mẻ vốn dĩ bao hàm vài tư tưởng khá “thời thượng”, như sau:

“Vừa qua, đấng bậc vị vọng thuộc tầm cỡ chóp bu của giáo hội Công giáo Đức-quốc là Tổng Giám Mục Robert Zollitsch đã kêu gọi Hội thánh ta nên cho phép nữ giới được trở thành các vị “nữ phó tế” trợ giúp cử hành bí tích rửa tội hoặc hôn phối bên ngoài thánh lễ, tức: một giải pháp mới mẻ khả dĩ giúp phụ nữ mình tham gia xây dựng Hội thánh thời buổi này. Chuyện này, là thể theo báo cáo của tờ “The Local”, tờ báo địa phương, ở bên ấy.

Tổng Giám mục giáo phận Fribourg, đương kim Chủ tịch Hội đồng Giám Mục Đức lại đã kêu gọi hội thánh ta hãy có một vài đổi thay về cấu trúc, vốn dĩ từng là yêu cầu của nhiều người đã được đưa ra làm đề tài thảo luận vào buổi kết thúc 4 ngày hội thảo bàn về công cuộc cải tân, rất cần thiết.

Đây là buổi Hội thảo đầu tiên được tổ chức theo thể loại này, đã mời 300 chuyên gia Công giáo có kèm theo một đề nghị là: hội thánh ta cũng nên thực hiện cải tổ bao quát, lớn rộng. Đề nghị của Tổng Giám Mục người Đức trước đây từng vang vọng một đòi hỏi có từ nhiều năm nhằm cho phép nữ-giới trở thành phó tế, đã không còn là điều huý-kỵ nữa.

Đức Tổng Giám-mục Zollitsch có nói: Giáo hội Công giáo ta chỉ tái tạo được niềm tin và sự ủng hộ của mọi người nếu quyết tâm cải tổ, tận gốc rễ. Ngài Giám mục lại cũng mô tả sự việc khác xảy đến với buổi hội thảo được như thành-tựu rất mới, đó là: bầu khí cở mở, tự do. Vai trò của các phó tế chỉ để giúp linh mục trong các nghi tiết phụng vụ ở nhà thờ và các vị này cũng chỉ có quyền thực hiện nghi thức thanh-tẩy và hôn phối bên ngoài thánh đường thôi. Tuy nhiên, vai trò hàng đầu của các vị này là để phục vụ những người có nhu cầu trong cộng đoàn kẻ tin của mình, và trách nhiệm của các vị chỉ mang tính thế trần hơn là mục vụ.

Ngoài ra, còn đề nghị khác phát xuất từ hội thảo này là việc triển khai quyền của các vị từng ly dị nay quyết định tái giá được có chân trong cơ chế của hội thánh, như: hội đồng giáo xứ, ban thừa tác-viên thánh-thể, thế thôi. Các vị trong phần phần buổi hội thảo lại đã bàn thảo về việc cho phép các vị ấy được rước lễ và gặp cha để xưng tội.

Đức Tổng Giám Mục Zollitsch còn phát biểu: “Điều quan trọng đối với riêng tôi, là: dù ta không chủ trương hủy hoại tính thánh thiêng của hôn phối, những người nam và nữ này cũng nghiêm chỉnh đủ để ta cho phép họ được ở trong Hội thánh và cảm thấy mình cũng được trân trọng, ở cùng nhà.” Cho đến này, mọi canh cải vẫn còn ở tầm kích suy đoán hoặc biện bạch chứ chưa có gì là thực tiễn hết. Và, cũng chưa có đề nghị nào được đưa ra cho khung thời gian thực hiện những chuyện như thế ấy. Và, chuyện về các vị phối ngẫu nam nữ từng ly dị nay muốn tái giá, đã trở thành câu chuyên gây nhiều tranh cãi khá ồn ào, trong Hội thánh.” (x. CathNews, A Service of Church Resources, German arbishop calls for women deacons, 30/4/2013)

Thật ra thì, thắc mắc với vấn nạn về quyền được ngang bằng nam giới cả trong địa hạt phụng vụ hoặc chức thánh, với người ngoài đời, cũng như thể lời nhắn của nghệ sĩ, khi ông viết:

“Thơ anh làm em hát,

tơ em dệt anh may.

Ta xây đời bằng mộng,

như tiếng dệt con thoi.”

(Đức Quỳnh/Nguyễn Bính – bđd)

Kỳ thực thì, vấn nạn của nghệ sĩ xưa nào khác gì đề nghị của đấng bậc vị vọng ở nước Đức, cũng chỉ là: hãy thử để cho nữ-giới thực thi công việc của nam-nhân, hà tất sẽ có nhiều thuận lợi cho Hội thánh, rất hôm này. Thuận và lợi, không chỉ theo nghĩa kinh doanh hay thực tế ở ngoài đời, cho bằng chứng tỏ mình cũng biết sống hợp thời hợp buổi, rất đúng phép.

Kỳ thực thì, có đề nghị hay không, đâu chỉ mỗi đấng bậc vị vọng là ủng hộ ý kiến hoặc đề xuất/đề bạt mọi chuyện trên nguyên tắc, mà còn có ý kiến phản hồi của các vị từng sống thực tế ở ngoài đời, rất kinh nghiệm như sau:

Trước hết, là ý kiến của John Francis Collins:

“Là thừa-tác-viên lâu năm ở nhà thờ họ Baden-Wurttemberg bên Đức, tôi cũng có chút kinh nghiệm để đưa ra đây mà chia sẻ. Ở nơi tôi, các vị nữ thừa tác-viên từng thực thi công tác phụng vụ với đủ tầm cỡ cả về phẩm cách lẫn nét đẹp mà tôi nghĩ không có rào cản nào về ngôn ngữ hết.

Tôi còn nhớ rõ sự kiện này từng dấy lên vấn đề về phong chức cho nữ-phụ, mà tôi vẫn giữ mãi trong đầu. Thế nên, cũng chẳng có gì lạ khi thấy Đức Tổng của tôi lại đã dấy lên vấn đề phong chức sáu cho phụ nữ ở Đức và đặc biệt là ở xứ họ của chúng tôi ở Baden-Wurttemberg. Có thể nói mà không sợ sai lầm là: các nữ thừa-tác-viên mục vụ có nền giáo dục ở cấp cao, rất thành thạo về công tác này lâu nay vẫn cố duy trì Giáo hội Đức sống mãi trong lòng dân tộc.”

Và, dưới đây là kinh nghiệm của một nữ phụ tên Irena Mangone:

“Đã có một thời, Hội thánh ta cũng có khá nhiều nữ thừa-tác-viên hoặc gọi họ là “Chị Sáu” hay sao đó cũng tùy người. Ta thấy nhiều vị như thế trong sách Công Vụ khá năng nổ đến độ các thánh nam khó mà quản lý/điều động. Theo tôi, hãy giữ các vị này trong bếp hoặc Dòng tu thật cũng phải. Bởi, ngay ở những nơi như thế, các vị này cũng đã khó mà thấy an toàn trong hệ cấp toàn những nam nhân hết cầm cân nảy mực lại đe nẹt, doạ dẫm. Tôi chỉ muốn nói rằng: nay ta đang ở vào niên biểu 2013 chứ không còn sống vào thời Trung cổ nữa rồi, Giời ạ.

Và, một ý kiến của nữ phụ khác có tên Margaret M. Caffey:

“Ôi chao! Sao Đức Tổng Zollitsh của tôi lại can đảm đến thế, dám nêu vấn đề gai góc này lên ở đây! Như thế là ngài cũng công nhận vai trò quan trọng của các Nữ thừa-tác-viên trong Hội thánh thời tiên-khởi rồi đấy. Và, thật sự thì ta cũng đang có nhu cầu cảm thông cho những vị từng có vấn đề gãy đổ trong gia đình.

Có điều khiến tôi ngạc nhiên khi thấy rằng hiện thời ta đang bị mang tai tiếng rất nhiều trên khắp toàn cầu, vậy mà hàng giáo sĩ của ta chưa nhận ra được nhu cầu cần có được ảnh hưởng của nữ-giới trong công tác; và, các cụ vẫn chưa biết cách sử dụng món quà quý giá mà các phụ nữ từng đóng góp cho Hội thánh, trong công cuộc thừa tác rất cần thiết.”

Và, ý kiến của một giáo dân mang tên Phillip Turnbull ở Úc, cũng không tệ:

“Tôi thường tự nhủ: sao nhiều người lại cứ cho rằng thật khó cho phụ nữ được hoạt động trong Giáo hội, mà sự thật thì lâu nay lại có rất nhiều vị nữ-lưu từng điều hành Giáo hội Công giáo ở Úc với tầm cỡ tuyệt vời như cội rễ cho các tổ chức tôn-giáo như thế. Thật sự, thì các vị nữ lưu này từng thống lĩnh môi trường giáo dục ở nhiều nơi và chắc từng gây ảnh hưởng trên nền giáo dục mang tính chất rất Công giáo.

Ngay ở lĩnh vực giáo xứ cũng thế, rất nhiều phụ nữ từng có công gầy dựng công tác mục vụ có chất lượng và tạo ảnh hưởng lên nền phụng vụ của xứ sở. Kinh nghiệm của riêng tôi về công tác phụng vụ ở nhiều giáo xứ mà tôi có dịp ghé viếng thì hầu hết lực lượng thừa-tác ở nơi đó đều do phụ nữ đảm trách, đặc biệt là về âm nhạc và văn hoá. Vậy thì, ta còn chờ gì nữa mà không cho các vị ấy chức năng lành thánh hoặc vai trò gì đáng kể nữa cơ chứ?”

Ý kiến phản hồi tương đối là thế, tuy chưa gọi được là “rộng đường dư luận”, nhưng nếu có ai muốn truy tầm một chút Kinh Sách của đấng bậc thánh hiền trong Giáo hội, tưởng cũng nên đọc thêm đôi giòng sau đây:

“Anh em thân mến,

tôi viết cho anh em, điều ấy thật là thế
nơi Đức Giêsu và nơi anh em,
bởi vì bóng tối đang qua đi và ánh sáng thật đã tỏ rạng.

Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng
mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối.
Ai yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng,
và nơi người ấy không có gì nên cớ vấp phạm.”

(1Ga 2: 8-11)

Điều mà đấng thánh hiền viết ở trên, vẫn là lời nhắc nhở về điều răn mới rất yêu thương, ta xử sự với mọi người. Điều mới ấy có là lời răn bảo hay không, vẫn cứ là: “không có gì nên cớ vấp phạm”, cho mọi người. Điều mà đấng bậc ở trên đã đề nghị, chưa hẳn là “cớ vấp phạm” cho ai hết, mà chỉ là một nhắc nhở ta xem lại chức năng và ý nghĩa của cụm từ Hội thánh, như đấng bậc vị vọng khác cũng từng đề cập khi ngài nói về Lễ Hiện Xuống có Thần Khí Chúa đã đến, rất như sau:

“Lễ Hiện Xuống nhắc ta chuyện tương lai, ta dựng xây. Đôi lúc ta cứ nghĩ mình hoạt động trong tình huống có khuôn thước lịch sử có giới hạn, nên cũng chỉ vội vã thông qua với người Do-thái ở Cựu-ước, và tập trung nhiều vào Đức Kitô của thời ấu thơ, vội nhảy vào thời điểm Ngài công khai hoạt động, chú trọng nhiều đến sự chết và sống lại của Ngài, rồi thêm vào đó chuyện Ngài về Trời và gửi Thần Khí đến với muôn người trong ngày Hiện Xuống, chỉ thế thôi. Còn lại một việc, là: ta chỉ tìm đường về quê trời, sau đoạn kết của câu chuyện đời.

Khuôn thước lịch-sử vẫn ra như thế, nếu là lịch-sử cứu độ, e rằng cũng bức bách, hạn hẹp. Thật sự, thì: ta cần khuôn thước lớn rộng, bao gộp nhiều công đoạn để thực thi việc Hiện Xuống của Thần Khí trong tất cả lịch sử hay tiểu sử của mỗi người. Không chỉ quan tâm mỗi khuôn thước thánh-sử của Giáo hội mà thôi, nhưng của mọi nhóm hội/đoàn thể trong đó người người vẫn cứ làm mọi việc nhưng không nói ra, nhưng để Chúa tỏ cho ta thấy Ngài muốn ta làm gì vào Lễ Hiện Xuống, rất Ngũ Tuần. Ta đang ở trong tình huống có Hiện Xuống thời hiện tại, có bối cảnh một đại lễ đang bày cho ta việc để làm.

Nhìn vào thánh Hội hôm nay, lúc này, ta thấy rằng Hội thánh đang bận bịu rất nhiều việc, nhưng đã chắc gì Hội thánh ta đang theo khuôn thước của Hiện Xuống, có Thần Khí chỉ dẫn. Hội thánh ta cũng đang hoạt động thật đấy, nhưng vẫn đẩy lùi thế giới và con người ra bên ngoài. Hôm nay, mừng ngày Chúa Hiện Đến, có lẽ Hội thánh, tức toàn thể các kẻ tin chứ không chỉ là hệ cấp giáo quyền mà thôi cũng nên nhớ, rằng: mọi sự ở trần gian là một phần của tổng thể có Chúa, có ta, có cả Thần Khí cùng hoạt động trong Chúa và với Chúa. Hội thánh hôm nay cũng cần một nền giáo dục mới cho công tác ấy. Hội thánh cần mời mọi người lâu nay bị bỏ rơi ở bờ rìa, hãy cùng tham gia công việc chung của mọi người. Công việc thánh-hoá toàn thể thánh hội, như đã từng xảy ra trong ngày Chúa Hiện Đến.

Làm được thế, ta sẽ có cuộc di dân khá lớn rộng không phải từ nước này qua nước nọ, mà từ vai trò này qua chức năng khác, trong tổng thể. Và hiện nay đang có dấu hiệu cho thấy sự việc như thế đang dần dà tỏ hiện một lễ Hiện Xuống và Hiện Đến với muôn người.” (xem Lm Kevin O’Shea CSsR, Suy Niệm Chúa Nhật Lễ Hiện Xuống năm C 19-5-2013, www.suyniemloingai.blogspot.com)

Là người sống trong/ngoài thánh hội hoặc xã hội, bạn và tôi, vẫn là người cần dựng xây nhóm hội ấy cho phải phép, đúng cách. Dễ thực hiện. Giáo Hội và xã hội hôm nay không phải và không còn là thể chế rất cứng ngắc, vị luật và cố chấp. Nhưng, là một tổng thể gồm những con người sống cho phải đạo, và đúng lẽ đạo. Đạo làm người. Đạo của Chúa.

Để minh hoạ những điều nói trên cho nhẹ nhàng, thư giãn như chuyện đời sau đây:

“Vua Arthur vị vua trẻ tuổi của nước Anh, bị quân Pháp phục kích và bắt giữ. Lẽ ra vua nước Pháp sẽ giết ngài, nhưng vẻ trẻ trung dễ mến của Arthur đã làm cho vua Pháp cảm động. Ông ta hứa sẽ trả tự do cho Arthur nếu ngài giải được một câu đố cực khó. Thời hạn để Arthur đưa ra câu trả lời là một năm. Nếu sau một năm không tìm ra lời giải, Arthur sẽ phải chết.

Câu đố là: Phụ nữ thật sự muốn gì? Đó là câu đố mà có lẽ đến nhà thông thái nhất thế gian này cũng phải bó tay. Và với Arthur câu đố này quả là một thử thách quá lớn. Nhưng dù sao nó vẫn tốt hơn là cái chết. Arthur đành chấp nhận mạo hiểm.

Khi trở về Anh Quốc, ngài hỏi tất cả mọi người từ các công chúa, các cô gái mại dâm, các vị cha xứ đến cả các quan toà, nhưng không ai có thể đưa ra một câu trả lời hoàn hảo. Điều mọi người khuyên vua là đến hỏi bà phù thuỷ già bởi vì có lẽ chỉ còn bà ta mới giải được câu đố hóc búa này.

Những ngày cuối năm cũng đã tới gần. Arthur không còn cách nào khác là đến xin ý kiến của mụ phù thuỷ. Bà ta đồng ý sẽ đưa câu trả lời nhưng với một điều kiện. Đó là bà ta muốn lấy Garwain hiệp sĩ dũng cảm của Hội bàn tròn, người bạn thân nhất của vua.

Arthur thất kinh. Bà ta vừa xấu vừa bẩn thỉu. Ngài chưa từng bao giờ thấy một ai đáng tởm như mụ ta. Không, ngài sẽ không để bạn thân của mình phải chịu thiệt thòi như vậy.

Khi biết chuyện, Garwain nói với Arthur rằng sự hi sinh đó của chàng làm sao có thể so sánh được với sự sống của vua, sự tồn tại của hội bàn tròn và vương quốc Anh. Và chàng hiệp sĩ quyết định hy sinh. Cuộc hôn nhân được chấp thuận và vua Arthur cũng nhận được câu trả lời.

Điều phụ nữ thật sự muốn đó là “Có toàn quyền quyết định mọi việc trong cuộc sống của mình”.

Ngay lập tức ai cũng nhận ra rằng mụ ta vừa thốt ra một chân lý. Vua của họ nhất định sẽ được cứu. Quả thật vua nước láng giềng rất hài lòng với lời giải đáp và cho Arthur khỏi cái án tử hình.

Lại nói về đám cưới của mụ phù thuỷ và chàng hiệp sĩ. Tưởng chừng như không có gì có thể khiến Arthur hối hận và đau khổ hơn nữa. Tuy nhiên chàng hiệp sĩ Garwain của chúng ta vẫn cư xử hết sức chừng mực và lịch sự. Mụ phù thuỷ thì trái lại, trong tiệc cưới, mụ ta làm nháo nhào mọi thứ lên. Thỉnh thoảng mụ lại lấy bàn tay bẩn thỉu của mụ nhón cái này một chút, bốc cái kia một tý. Thật chẳng ra làm sao cả. Mọi người thì hết sức khó chịu.

Đêm tân hôn, Garwain thu hết can đảm bước vào động phòng hoa chúc. Nhưng, gì thế này? Trên giường không phải là mụ phù thuỷ già nua xấu xí mà là một cô gái vô cùng xinh đẹp đợi chàng tự bao giờ.

Nhận thấy sự ngạc nhiên trên nét mặt chàng hiệp sĩ, cô gái từ tốn giải thích là vì chàng rất tốt với cô lúc cô là phù thuỷ, nên để thưởng cho chàng hiệp sĩ, cô sẽ trở thành một người xinh đẹp dễ thương đối với chàng trong một nửa thời gian của 24 giờ một ngày.

Vấn đề là chàng phải lựa chọn hình ảnh đẹp của nàng vào ban ngày hay là ban đêm. Chao ôi sao mà khó thế? Garwain bắt đầu cân nhắc: Ban ngày nếu nàng là một cô gái xinh đẹp thì ta có thể tự hào cùng nàng đi khắp nơi, nhưng ban đêm làm sao mà ta chịu cho nổi? Hay là ngược lại nhỉ, ta đâu cần sỹ diện với bạn bè cơ chứ, cứ để nàng ta xấu xí trước mặt mọi người đi, nhưng khi màn đêm buông xuống, ta sẽ được tận hưởng những giây phút chồng vợ với thiên thần này.

Sau đó Garwain đã trả lời “Nàng hãy tự quyết định lấy số phận của mình. Nàng muốn đẹp hay xấu vào lúc nào cũng được”.

Tất nhiên câu trả lời này đã làm cho mụ phù thuỷ đội lốt cô gái xinh đẹp kia hài lòng và nàng nói với chàng rằng nàng sẽ hóa thân thành một cô gái xinh đẹp suốt đời cho chàng.

Đó là phần thưởng cho người biết tôn trọng ý kiến của phụ nữ…..khà …khà …

Nói cho cùng, thì: có cho phụ nữ làm phó tế vĩnh viễn hay không, hoặc có giúp vua Arthur tìm được hạnh phúc với người mình yêu hay không, cũng chỉ là vấn đề rất thực của người sống trong đời. Dù, đời ấy có là đời đi Đạo hay đời người sống đạo làm người cho phải lẽ, xin hãy như cháu nhỏ nọ cứ ngâm ngay câu hát, dù chưa hiểu hoặc chưa biết, như sau:

“Em lo gì trời gió!”.
“Em lo gì trời mưa!

Em lo gì mùa hè,
Em tiếc gì mùa thu.”

(Đức Quỳnh/Nguyễn Bính – bđd)

Hát thế rồi, ta lại sẽ hát thêm câu ca đầy ý nghĩa, trong mọi chuyện, rằng:

“Ta cứ yêu đời đi.

Như lúc ta còn thơ,

Rồi để anh làm thơ,

và để em dệt tơ.”

(Đức Quỳnh/Nguyễn Bính – bđd)

Hãy cứ yêu đời đi, rồi thì các nữ phụ trong đời rồi cũng sẽ thực hiện được điều mà Hội thánh ta phải nghĩ tới, rất ở đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn quan niệm:

kitô-hữu cũng như người đời

vẫn luôn có tự do

sống ở đời, như mọi người.

Suy niệm Lời Ngài đọc trong tuần thứ 11 Thường niên năm C 16.6.2013

“Em còn đó xoã lòng đêm tóc rối,”

“Tôi đứng đây, bụi lốc mịt mù xa.

Nghìn mắt lá, đang nhìn tôi ái ngại,

Đêm nguyệt quỳnh, hoá nở kiếp phù xa.” ”

(dẫn từ thơ Vương Ngọc Long)

Lc 7: 36-8: 3

Đêm tóc rối, có phải vì em đã xoã lòng đến rối bù? Nhìn ái ngại, tôi đoán chắc em đây rày miệt mài trong việc Chúa, như trình thuật kể.

Trình thuật thánh Luca, nay kể về nữ phụ nọ mải “xoã tóc” lau chân Chúa, chẳng cần ai. Đọc trình thuật, có vị lại cứ bảo: cụm từ “một người tội lỗi” ở đây, có nghĩa chỉ là gái điếm, không ngại ngùng. Ngại ngùng, nhưng vẫn quả quyết: nữ phụ ấy có là “người rất tội” về dục vọng mà nhiều người nay vẫn hiểu. Đọc kỹ Tin Mừng thánh Luca viết sau đó, người đọc sẽ định ra chị là đấng bậc thừa-tác mà thánh nhân nhắc đến qua tên gọi Gioanna, vợ của Khuza, tức: nữ-phụ lâu nay hăng say “cùng với nhiều bà khác lấy của cải mình mà trợ giúp Ngài.( Lc 8: 3)

Theo nguồn văn ngoài sách thánh, thì: Gioanna là nữ-phụ xuất thân từ gia đình vị-vọng ở Do thái sống trong lâu đài nhỏ, ở Galilê. Kịp khi khôn lớn, gia đình đã sắp xếp gả chị cho một người rể thuộc giòng-dõi quí-phái tên Khuza vẫn lân la nơi cung đình ở Tibêriát cạnh công chúa Nabêtêan, thứ thất của Hêrôđê. Khuza gia-nhập Đạo là nhờ đã thành gia-thất với Gioanna. Và từ đó, hai người sinh-hoạt mục-vụ rất đều ở Galilê. Không những thế, Gioanna còn sở-hữu tài-sản riêng của mình nhờ hồi-môn do cha để lại, như tập tục của nơi này. Chị sử-dụng tài-sản của mình một cách độc-lập đồng thời thừa-hưởng tư-cách quí-tộc từ phía chồng.

Đức Giêsu có quan-hệ đặc biệt với nhiều người ở Tibêria. Ngài là vị thày chữa trị người ốm đau/tật bệnh và trừ quỉ nữa. Tục truyền, Ngài vực dậy rất nhiều người đã từng chết được sống lại, tại miền Bắc xứ sở này. Gioanna có lúc đau yếu nhiều, nên chị cũng biết chạy đến kêu cầu Chúa chữa lành cho chị. Sau lần được Ngài chữa khỏi, chị nhận ra Ngài là Bậc Thày Vĩ Đại đến với muôn dân, chứ không chỉ là Thầy Thuốc chữa bệnh về thể xác mà thôi.

Qua các lần gặp Ngài, Gioanna khám phá ra Vương Quốc Nước Trời mà Ngài chủ trương và nhận thấy nơi Ngài nhiều tương-quan gắn bó với mọi người, cả đến người nghèo khó, thấp hèn, bị bỏ rơi. Chị hiểu rằng: mình chỉ là cảm-tình-viên bé mọn dấn-thân phục-vụ Chúa cách hăng say, nhưng chị còn muốn tiến xa hơn thành đồ đệ năng nổ của Ngài, nữa.

Điều này có nghĩa: chị từ-bỏ tài sản riêng và địa-vị quí phái của mình hầu gia-nhập công cuộc thừa-sai bé mọn hầu dấn thân phục-vụ Chúa. Là người Do thái năng nổ, chị nhớ đến người nghèo đói bằng quà thực tế và bán đi phần lớn gia-sản của mình để tài-trợ công-tác bác-ái, cấp bách. Chị làm thế, là để phụ giúp công cuộc thuộc-sai với tông-đồ Chúa. Vào thời chị, không phải ai ai cũng xử sự được như thế. Và, không phải nữ-lưu nào cũng được Chúa chấp nhận cho nhập đoàn lữ-thứ chuyên giảng rao Vương Quốc của Ngài, giống như chị.

Hai năm theo Chúa, chị hoạt động cùng với nhóm thừa-sai như đồ-đệ thừa-tác, dù không được kể vào “nhóm 12”, ai cũng biết. Nhóm nữ-phụ làm việc đắc lực không kém các tông-đồ gần gũi Chúa. Tông đồ Chúa, đa phần đều bỏ lại người phối ngẫu và gia đình mình ở phía sau, hầu dành trọn thời-gian cho công cuộc mục-vụ thừa-tác, rất bức thiết. Phần đông tông đồ Chúa, không đủ sức tài-trợ cho nhóm được hiệu năng. Nên, các vị vẫn dựa vào một số nữ-phụ có thâu-nhập khá dồi-dào; thế nên, trên thực tế, các thừa-tác-viên nữ giúp nhóm tông-đồ bằng nhiều cách trong nguyện cầu, chứ không chỉ lo nấu nướng, tu dọn bếp núc; bởi tông-đồ Chúa ăn uống rất giản đơn, tằn tiện.

Phần đông nữ-thừa-tác theo Chúa hầu hết là các vị độc-thân hoặc là mẹ đẻ của các tông đồ và hầu hết là “chị sáu” độc lập về tài-chánh. Và, Gioanna là một trong số các nữ-thừa-tác trong cảnh-tình như thế. Phu-quân Khuza của chị, vẫn ở lại Tibêria trong thời gian chị hoạt động tông-đồ; tuy nhiên, đôi lúc anh cũng về sống ở Antipas dù không cùng một nhóm với đồ đệ Chúa. Thế nên, ta cũng đoan-chắc được rằng: Gioanna là một trong nhóm 72 tông-đồ được sai đi chữa lành và sống chung với người nghèo khổ như họ. Cũng làm công-việc thừa-sai tông đồ, như Tin Mừng diễn tả, tức: cũng là người giảng-rao Nước Chúa không cần hành trang làm nền, nhưng chỉ trông chờ vào lòng mến khách của chúng dân, thôi.

Bậc nữ-lưu chuyên lo tông-đồ thừa-tác, không trực tiếp giảng-giải quần chúng hiểu, mà chỉ hầu chuyện các nữ-phụ trong vùng cạnh giếng nước hoặc phố chợ cũng như tại nhà-nguyện tư, theo từng nhóm. Chúng dân địa phương, thường mang người bệnh đến để các thừa-tác-viên như Gioanna giúp đỡ đần, chữa trị. Gioanna tháp tùng Chúa, cũng đã đi Giêrusalem dự lễ Vượt Qua theo truyền thống. Nên, chị biết nhiều và hiểu nhiều công cuộc mục-vụ thừa sai hơn ai hết về các hiểm nguy khi can dự chuyện đền thờ và/hoặc tác-động vực đỡ thi hài ông Lazarô, bạn của Chúa.

Khi biết Thày bị bắt giữ, Gioanna liên-hệ với bạn đạo và khám phá ra sự việc xảy đến với Thày. Chị giữ tư-thế chỉ dõi theo và xem xét từ xa các sự kiện xảy ra cho đến lúc Thày hoàn tất cuộc khổ nạn, trên thập giá. Mãi sau, chị mới có ý-định theo chân các nữ-phụ khác đi đến mộ-phần Thày định bụng để xức dầu tẩm xác Thày theo thói tục người Do-thái vẫn làm. Khuza chồng chị, cũng có mặt ở Giêrusalem với Antipas để dự lễ Vượt Qua. Và trước đó, anh không hề tham-gia nhóm hội đoàn-thể nào của Chúa. Tuy nhiên, sau ngày Chúa sống lại, anh đã cùng với Gioanna vợ mình, nhập-cuộc lập thành tổ/thành nhóm có vợ/có chồng đi đây đó để thực hiện công-cuộc thừa-tác giảng rao quảng-bá Nước Trời.

Khuza và Gioanna cũng có chân trong nhóm-hội thừa-sai gồm những người biết nói chút tiếng Hy Lạp và La tinh tuy không nhiều, nhưng biết sống theo kiểu người La Mã từ những ngày ông lân la cung đình Tibêriát. Có thể, hai vợ chồng chị cũng có quan-hệ mật thiết với cung đình Rôma nữa. Ở Rôma, tên tục của chị đổi thành tên La-tinh là Junia, đã khá quen; và sau đó, lại đổi một lần nữa thành Junias cho có vẻ nam-nhân đến độ người chép sử không biết vị này là nữ-lưu. Riêng Khuza chồng chị, cũng đổi danh thành Andrônicus. Cả hai lưu lại tại Rôma đến 10 năm, khiến thánh Phaolô gọi nhị vị không chỉ mỗi tông-đồ của Chúa mà thôi, nhưng còn là đấng bậc trổi-vượt giữa các tông-đồ. Về sau, hai vợ chồng chị bị giam-giữ rất nhiều tháng ngày dài ở Rôma, rồi sau đó không một sách dã-sử nào đáng tin cậy ghi chép chuyện của vợ chồng chị, hết.

Với thánh Luca, chuyện nữ thừa-tác Gioanna được ghi ở một chương/đoạn khác có liên quan đến truyện kể về nữ-phụ bị băng huyết những 12 năm dám sờ-chạm vào gấu áo của Chúa để được chữa, khiến Chúa phát hiện ra và nói: “Có kẻ đã sờ chạm vào tôi và tôi thấy quyền-uy chữa trị đã ra khỏi tôi”. Tuy là thế, vẫn không có chứng-cứ lịch-sử ghi rõ chuyện nữ-phụ Gioanna để người đọc xác định xem câu chuyện hai phụ nữ nói ở trên, có phải cùng một Gioanna hay không, cũng cần cứu xét thêm.

Tuy nhiên, chi tiết mà thánh Luca muốn diễn tả, là: đường đường một nữ-lưu từ giai-cấp trên cao lại trở thành đồ đệ bé nhỏ của Chúa, lại không hãi sợ gì để rồi tiến về phía trước dám “sờ-chạm gấu áo” của Ngài. Và, đường đường một nữ-phụ cao-quí cũng không ngại-ngần quì mọp bên dưới để lau khô chân Ngài, trái nghịch tập-tục Do thái, và còn hôn chân Chúa, xức dầu lên chân Ngài, cũng rất lạ. Lạ hơn cả, là sự việc Chúa công khai nhìn nhận lòng thương vô bờ của chị, nên đã thứ-tha chị. Như thế, mới là động thái của một đồ-đệ đích thực. Như thế, là chị đã trở thành tông-đồ thực thụ, của Đức Chúa.

Có lẽ, cũng nên tưởng tượng đôi điều về tình thế khá cụ thể qua đó Chúa đã tỏ thái-độ về thừa sai mục vụ vốn dĩ phải sống chung với những người mà đồ đệ Chúa cần rao truyền Vương quốc Ngài, là Hội thánh, là Nước Trời trần gian ở đây, bây giờ.

Ở đây, hôm nay, có rất nhiều bậc nữ-lưu cũng cao quí không kém đang phục-vụ Chúa bằng công việc thừa-tác mà chẳng ai biết tới. Các vị này, lâu nay chẳng được sử-gia hoặc thánh-sử nào biết đến để ghi chép thành truyện đạo hạnh, rất thánh. Nói chi là Kinh Sách thực thụ được mọi người công nhận. Có ghi hay không, chắc hẳn người đọc cũng nhận ra rằng: các vị này là thế hệ tiếp nối cũng muốn chọn Gioanna làm quan thày, bảo trợ rất sau này.

Ghi nhận công-đức của các nữ-lưu đã và đang làm việc lành thánh, ta sẽ cất lên lời thơ, rằng:

“Em còn đó xoã lòng đêm tóc rối,”

“Tôi đứng đây bụi lốc mịt mù xa.

Nghìn mắt lá đang nhìn tôi ái ngại,

Đêm nguyệt quỳnh hoá nở kiếp phù xa.”

(Vương Ngọc Long – Đêm Nguyệt Quỳnh)

Nguyệt quỳnh nở về đêm, không chỉ là người em của ai đó đang xoã lòng/xoã tóc đến rối bời. Nguyệt quỳnhg đây, có thể là: người chị/người em trong thánh-hội đang hoạt động tông đồ rất hiệu-quả như Chúa yêu cầu, ở muôn nơi. Rất mọi thời.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh – Mai Tá lược dịch