Lời Chúa : một số người mang tâm trạng rằng “biết rồi ! Khổ lắm nói mãi !”.
Vâng ! Đúng là biết rồi khổ lắm nói mãi ! Nhưng nếu để tâm lắng đọng tâm hồn lại ta sẽ thấy Tin Mừng vẫn mới, mới mỗi ngày, mới mỗi giờ, mới mỗi phút, mới mỗi giây trong thực tại của cuộc sống.
Câu chuyện Chúa Giêsu đáp lời cho người thông luật trong trang Tin Mừng theo Thánh Luca chương 10, 25-37 thật hay. Câu chuyện đó vẫn mới, vẫn mới trong cuộc đời và câu chuyện đó vẫn chất vấn lòng, chất vấn lương tâm của chúng ta.
Thích thú, thấm thía và tâm đắc với câu chuyện mà người ta thường gọi là người Samaria nhân hậu này.
Thật khó để chia sẻ chứ không phải đơn giản. Đâu phải mình muốn nói gì thì nói bởi lẽ ngôn hành bất nhất và đôi khi suy nghĩ chưa tới nên cũng chẳng dám nói. Hôm nay, đụng chạm tới những gì rất thật trong đời thường nên chia sẻ.
Câu chuyện mà tôi thấy, tôi gặp, tôi chứng kiến ngày mỗi ngày đó là ngay cạnh bên tôi. Có nhiều người không phải là bị cướp như nạn nhân kia trong tin Mừng Luca. Họ cũng chẳng phải là những người đi từ Giêrusalem về Giêrikhô như nạn nhân kia. Họ là ai ? Xin thưa, họ là những người trở về từ khắp mọi miền của đất nước, thậm chí từ những vùng truyền giáo xa xăm ở ngoài nước trở về. Họ là những người dành cả cuộc đời dài để phục vụ anh chị em đồng loại, phục vụ anh chị em dân tộc thiểu số, phục vụ đồn điền, phục vụ những em học sinh … nay không phải bị cướp mà bị giới hạn của sức khỏe, của tinh thần nên cần băng bó, chữa lành, trợ giúp khi tuổi về chiều.
Họ là những người như thế, giờ đây đôi tay không còn vững để tự đưa cơm vào miệng nữa mà phải có bàn tay ai đó tay đỡ tay nâng. Có người giờ đây không còn khả năng ăn bằng miệng nữa mà phải cho thức ăn vào ống để đưa vào bao tử để sống những chuỗi ngày còn lại. Có người nằm đó sống đời sống thực vật gần hai chục năm trời … Họ nằm đó bất động hay đi lại một cách hết sức khó khăn thậm chí vệ sinh cá nhân cũng buông tay cho người khác giúp.
Bỗng dưng giữa những con người tàn hơi yếu sức đó lại có những người “samari” tự đâu Thiên Chúa gửi đến. Trong niềm tin, tôi tin là như vậy. Họ chẳng có họ hàng máu mủ gì với những tu sĩ linh mục thừa sai già yếu cả. Ấy vậy mà họ đã hy sinh sức khỏe, thời gian và nhất là cả tấm lòng để phục vụ những người đó.
Có những đêm về và nhất là những ngày này, thầy già nằm cạnh phòng thở gấp, thở vội, thở khó và những cơn ho kéo dài mệt mỏi nhưng những người đó vẫn sát bên với thầy. Có lẽ chẳng ai để ý và cũng chẳng ai muốn để ý đến đâu đó ở góc phòng của tu viện lại là những con người nằm đó tàn hơi yếu lực. Ở những căn phòng ấy, những người “samari” đâu đó đi ngang qua thấy thương và ở lại. Không chỉ đi công việc và hứa sẽ quay lại thanh toán nhưng họ ở lại, ở lại cho đến cuối cuộc đời.
Có những người “samari” thời đại quá nhân hậu. Nhân hậu đến mức ngoài sức tưởng tượng của ta. Họ đã hy sinh cả tuổi xuân, họ để lại ở nhà cả vợ, cả con của họ để ở bên những người mà chẳng có họ hàng máu mủ gì với họ cả. Có về nhà chăng cũng chỉ là thăm vội người thân một tí rồi lại trở về chăm sóc người già lão bệnh tật. Có người chẳng dám rời cha “của mình” nửa bước vì sợ người khác chăm sóc không cẩn thận. Hay là chỉ cần cha già ho mạnh một tí là chạy cuống cuồng lên và cái miệng cứ oai oái lên làm như không ai lo cho cha già vậy. Cũng vì thương cha già nên đôi khi cáu gắt với những người chung quanh. Cũng dễ hiểu vì người “samari” đó đã hết lòng với cha già đau yếu.
Chuyện những người Samaria thời đại mà tôi gặp thường ngày không chỉ ở gần tôi nhưng còn ở nhiều nơi trong nhiều nẻo đường của cuộc sống.
Những người Samari nhân hậu đó tôi bắt gặp trong các bệnh viện như Phạm Ngọc Thạch, Ung Bướu, 115 và nhiều bệnh viện nữa.
Ở viện Phạm Ngọc Thạch, có nồi súp từ thiện cho những con người nghèo khổ đau bệnh. Trong đó cũng có nhóm người cứ chiều đến là tự nguyện đến tắm rửa, lau chùi cho những bệnh nhân vô gia cư và cũng không còn người thân cận. Ở trung tâm ung bướu thì có nồi súp ngày nào cũng được nấu lên để chia sẻ bữa no bữa đói cho những người nghèo … ở bệnh viện 115 cũng vậy, vẫn thấy những phần cơm, phần cháo chờ sẵn để chia cho những người nghèo cần đến.
Những người Samaria thời đại vẫn hiện diện và sống với những bà lão neo đơn tuổi giả cô quạnh ở nhà dưỡng lão Bình Lợi, Tân Thông, Phước Tỉnh … hay cưu mang người bệnh như Nhà Cỏ, Cầu Dừa … mà tôi có dịp thăm viếng …
Nhiều và nhiều người Samari khác ngày đêm chung chia với những người nghèo và bất hạnh. Họ không nói và họ chỉ làm và làm thôi.
Những người Samari này phải chăng là những người thực thụ đi tìm Nước Thiên Chúa, đi tìm sự sống đời đời một cách thiết thực nhất trong đời sống phục vụ yêu thương của họ.
Xin cho góp một lời cảm ơn những anh chị em Samaria thời đại mà tôi có một lần quen biết, nhờ cậy và đặc biệt là những anh chị em Samaria thời đại đang ngày đêm chăm sóc những anh em đau yếu bệnh tật tàn hơi của chúng tôi.
Cảm ơn anh chị em rất nhiều bởi lẽ không có sự hiện diện, sự trợ giúp của anh chị em thì chúng tôi và chính bản thân tôi cũng không làm được gì.
Chuyện người Samari hôm nay ta nghe, ta đọc có phần nào thức tỉnh lòng ta hay không ? Hay là cứ nghe cho có nghe, cứ đọc như cứ đọc như một cái máy vậy ?
Cõi lòng, hành động của chúng ta như thế nào chỉ mình Chúa biết mà thôi.
Ta có mặc lấy lòng của người Samaria hay là ta sống theo kiểu của thầy tư tế hay thầy Lêvi vẫn là lời mời gọi tự do Chúa mời chúng ta.
Ngày báo chí Việt Nam năm nay có hàng trăm giải thưởng trao cho các nhà báo được xem là xuất sắc trong số hàng chục ngàn nhà báo các tỉnh thành, địa phương khắp nuớc. Mặc Lâm tìm hiểu thêm hiện trạng báo chí Việt Nam qua nhà thơ và cũng là nhà báo Vi Thùy Linh để biết thêm những gì thật sự đang xảy ra phía sau hậu trường của nền báo chí xã hội chủ nghĩa.
Gần 2 vạn nhà báo
Nhà báo Vi Thùy Linh cho biết nhận xét của chị về giải thưởng lần này qua cái nhìn tỉnh táo của một người yêu nghề và có hệ lụy với nó gần hai mươi qua, chị cho biết:
Vi Thùy Linh: Tôi đã tham gia làng báo 17 năm. Bằng những quan sát của mình, tôi nhận thấy rằng thực ra ở đâu cũng vậy thôi, tinh hoa luôn thuộc vào số ít, tinh hoa không thể là một đám đông được. Tôi thích tinh hoa trong bối cảnh của sự thi đua hăng say, sự yêu nghề. Độ lệch giữa tinh hoa và đối tượng không tinh hoa phải ít thôi, khả dĩ để cho ta hy vọng.
Tôi đã từng viết thẳng và nói thẳng: có nhiều bài phát biểu viết trước khi sự kiện được diễn ra thì bao giờ cũng có cụm từ “thành công tốt đẹp”. Thực tế không phải lúc nào cũng thành công tốt đẹp và tôi thấy có 3 điều như thế này:
Thứ nhất là về khoa học. Chúng ta có quá nhiều các giáo sư, tiến sĩ là những nhà nghiên cứu có công trình khoa học và giảng dạy. Đấy là những định nghĩa khái lược nhất nhưng nền khoa học của chúng ta lại rất thấp. Chỉ riêng hình ảnh này thôi đã gắn đến bao nhiêu đời nay rồi. Bà con vẫn còn phải cắm tay, cắm chân trong bùn lạnh để cấy lúa. Hằng nghìn năm nay vẫn không thay đổi được hình ảnh ấy. Tôi chỉ ví dụ một điều đó thôi. Bao nhiêu đời nay rồi, ở Việt Nam có bao nhiêu nhà khoa học, bao nhiêu giáo sư tiến sĩ không nghĩ được cái gì đó để thay đổi. Người nông dân quá vất vả mà đây là một đất nước nông nghiệp.
Thứ hai: có quá nhiều các danh hiệu nghệ sĩ. Tôi đi dự lễ trao danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân ở Nhà hát lớn vào ngày 19 tháng 5 năm 2012, đông kinh khủng, hàng mấy trăm nghệ sĩ được phong”ưu tú” và hàng trăm người được phong “nhân dân”. Vậy mà nền nghệ thuật Việt Nam thì vẫn còn rất thấp trên bản đồ thế giới. Đặc biệt điện ảnh là ngành tôi rất tâm huyết thì nó gần như bị bỏ rơi. Giờ chỉ còn phim thị trường. Dòng phim chính thống và phim nghệ thuật đại diện Việt Nam mang ra thi quốc tế, như là một hộ chiếu văn hóa của Việt Nam thì đã bị bỏ mặc rồi.
“Nền báo chí phải nói là đông kinh khủng. Hội nhà báo hiện nay đã có 17 ngàn nhà báo có thẻ hành nghề của bộ Báo chí và Tuyên truyền và 1.900 nhà báo được cấp thẻ hôi viên của hội nhà văn VN. -Vi Thùy Linh”
Cuối cùng là báo chí. Nền báo chí phải nói là đông kinh khủng. Hội Nhà văn là một hội rất khó vào. Trong lịch sử tồn tại 56 năm của hội vẫn chưa có được 1.000 hội viên. Một năm trong 500 đơn xin phép thì chỉ có hơn 20 người được vào. Hội nhà báo hiện nay đã có 17 ngàn nhà báo có thẻ hành nghể của bộ Báo chí và Tuyên truyền và 1.900 nhà báo được cấp thẻ hôi viên của hội nhà văn Việt Nam.
Như vậy là gần 2 vạn nhà báo và chưa kể số lượng các lực lương khác tham gia viết báo và số lượng các đầu báo của mỗi một ngành, một cơ quan, một tổ chức. Đến mức tôi cảm thấy khái niệm nhà báo không oai như hồi trước nữa, nhiều quá, nhàm quá. Trong cái bối cảnh đông như vậy, tôi lại không thấy trăm hoa đua nở mà lại bị tình trạng hỗn tạp phong trào và số lượng bài vở hàng chợ đã trở thành phổ biến. Nhiều tờ báo, nhất là những báo mạng, trở thành những trang để giải quyết cho giới show biz rất rẻ tiền, giật gân, thấp kém về cả từ lẫn tít và trình độ đưa tin nhưng mà vẫn tồn tại.
Mặc Lâm:Người ta thuờng cho rằng báo chí Việt Nam không thể vượt qua rào cản kiểm duyệt của nhiều cơ quan trong đó có chính bản thân nhà báo, họ phải tự kiểm duyệt mình trước khi giao số phận bài viết cho Tổng biên tập quyết định. Chị chia sẻ sự thật này ra sao?
Vi Thùy Linh: Có quá nhiều người viết nhưng có quá ít người tâm huyết thì việc đầu tiên không phải tại chính thể hay sự chỉ đạo của đảng hay của ban Tuyên giáo trung ương. Tôi nghĩ không phải lý do như vậy mà chính trong nội tại của những người cầm bút. Anh cứ viết hay đi cái đã nhưng anh có viết hay được đâu! Việc anh không viết hay, anh không lăn lộn vào nghề, trước hết là ở chính anh chứ không phải tại ai khác. Tất nhiên cũng có một số các yếu tố, ví dụ như tôi đã nói ở trên.
Anh biết rồi, để viết những phóng sự hay là người ta phải chấp nhận những nguy hiểm –nào là đóng vai để lọt vào sào huyệt của những giới xã hội đen hay là đường dây ma túy hoặc là đường dây mua bán gái … Tất cả những cái đấy đều nguy hiểm. Họ đều phải kỳ công, mà giờ người ta không muốn kỳ công, người ta muốn nhanh.
Một sạp báo ở Saigon. RFA photo
Mặc Lâm:Nếu vậy thì còn đâu ngọn lửa yêu nghề thôi thúc một nhà báo có các bài viết làm dậy làn sóng sư luận xã hội…Theo chị nguyên nhân nguội lạnh bắt đầu từ đâu?
Vi Thùy Linh: Bọn chúng tôi là 8X đời đầu hay 8X đời sau và 9X thì gần như không còn những người lửa nghề nữa vì nó có những nguyên nhân sau đây. Ngay những ngày đầu vào trường báo chí không phải là do yêu nghề, như tôi đã viết trong bài đã đăng “Khi nào có làn sóng phóng viên tài năng”. Họ vào là do tài cắm, vào do quan hệ, vào do tính đường khi ra trường xin việc, vào do mode thời thượng, vào do ý nghĩ “ừ làm báo cũng ninh nhỉ, bây giờ giới show biz nó sôi động như thế mình vào thì thiếu gì chuyện để đưa tin cho nó nhanh”. Tức là họ ngộ nhận về nghề- dễ dàng làm việc và nhanh nổi tiếng; Được vui vì đi dự cái này cái kia trong giới show biz.
Hiện nay ở Việt Nam báo chí cũng đang là ngành thời thượng vì sự bùng nổ của truyền thông, thông tin cao. Ở một mặt nào đó thì hào quang của nghề phóng viên mặc dầu không còn “oai oách” như thời xưa nhưng ở Việt Nam số lượng người háo danh ngày càng đông và đông đến mức bệnh hoạn cho nên bằng mọi giá không cần giữ danh dự, người ta sẵn sàng làm mọi thứ để được nổi tiếng.
Thiếu lương tâm nghề nghiệp
Mặc Lâm:Chị nhắc đến sự ham nổi tiếng làm tôi chợt nghĩ đến những cái tít rất gây hấn, nếu không muốn nói chính xác là quái dị…phải chăng giật một cái tít như thế cũng nằm trong mục đích muốn nổi tiếng của một thành phần nhà báo nào đó?
Vi Thùy Linh: Những cái tít ở trên báo nó man rợ quá. Chẳng hạn tôi đọc cái vụ giết người của thằng Lê Văn Luyện, “thằng ấy” không thể gọi là con người được mà phải gọi là thú cần phải loại ra khỏi đời sống của cánh rừng chứ không phải là đời sống của loài người. Tôi là một trong những người rất phẫn nộ mà máy móc theo luật khi chưa đủ 18 thì không thể tử hình.
Loại đấy thì tiếc nuối gì mà không loại bỏ ra khỏi xã hội loài người mà bảo vì thiếu vài tháng cho nên nó qua được khung tử hình. Rất nhiều báo phản ánh nó chứ không phải là không nhưng phản ánh theo cái hướng khai thác con người đó để thấy nó hoang lạc, khoái cảm, khoái chí khi miêu tả chi tiết của một thằng bệnh hoạn, man rợ vì lấy mạng sống của cả một gia đình ở Bắc Giang.
Tôi thấy cái đấy không phải tại ai chỉ huy, chỉ đạo cả mà do lương tâm và trình độ làm nghề rất thấp cũng như sự quản lý của các tổng biên tập của các tờ báo mạng đăng những cái bài mà dập những cái tít man rợ, khoái trá. Anh biết rồi, người ta có những video đen, xã hội đen, băng đen đọc những bài báo như thế với những hàng tít như thế và hàng triệu, hàng trăm người đọc. Trong những người đọc ấy có bao nhiêu người bản lĩnh, có đủ tri thức để không bị lôi kéo khi đọc những bài miêu tả rùng rợn như bị kích thích, như là cổ súy cho những việc đó. Còn lại là những số phận con người.
Mặc Lâm:Không lẽ chẳng còn một nhà báo có lương tâm nào sống sót trong cái mớ bòng bong báo chí ấy hay sao?
“Do lương tâm và trình độ làm nghề rất thấp cũng như sự quản lý của các tổng biên tập của các tờ báo mạng đăng những cái bài mà dập những cái tít man rợ, khoái trá. -Vi Thùy Linh”
Vi Thùy Linh: Có, tôi thấy như anh Đỗ Doãn Hoàng đã chịu khó đi lên Mường Nhé, Mường Tè… rồi những vùng sâu, vùng xa để viết về những đứa bé ăn mặc mong manh đi học. Cơm không đủ ăn (cơm bây giờ vẫn còn đựng trong túi nylon, buổi trưa có mùi, moi ra ăn cơm không), trèo đèo lội suối. Bao nhiêu nhà văn, bao nhiêu những người có trách nhiệm vẫn còn nghèo đã huy động nhau cùng giúp đỡ.
Những bài báo mang tính xây dựng xã hội như thế về những thân phận, những người bị oan sai, bị tù oan, bị chèn ép thậm chí là bị mổ nhầm, thậm chí bị cắt nhầm quả thận…những đối tượng ấy đều được phản ánh cả. Thế nhưng trong một cái guồng ăn xổi, chụp giật làm tôi thấy buồn vì giờ thì những chuyện giật gân lá cải gần như bằng với chính thống mặc dầu không ai tôn vinh nó cả nhưng nó đang nhiều đến mức độ nếu tính theo thói quen ở Việt Nam thì đa số hơn thiểu số. Cái đa số này đang gần như trở thành dòng chủ lưu rẻ tiền. Nó trở thành chủ lưu vì nó không bị tiểu trừng, không bị lên án và nó cứ hoành hành như thế.
Mặc Lâm:Bên cạnh những mảng xã hội tôi thấy báo chí rất thiếu thông tin về hoạt động chính trị của người dân, đặc biệt báo chí tỏ ra dị ứng với các cuộc biểu tình chống Trung Qúôc hay dân oan các tỉnh thành…
Vi Thùy Linh: Đúng là có hiện tượng ấy. Trong luật pháp Việt Nam thì được biểu tình nhưng những người biểu tình yêu nước, biểu tình lành mạn không có ném đất đá, không bạo động gì cả; Biểu tình đi qua đại sứ quán Trung quốc ở Hà Nội ở đường Hoàng Diệu thì công an Việt Nam cũng ra chặn, không muốn điều đấy. Cũng có những bà con mất hết đất đai đi thất thểu tôi đã nhìn thấy khi đi qua vườn hoa Mai Xuân Thưởng. Họ cầm băng rôn, biểu ngữ, ngồi thất thểu trong nắng nôi mệt mỏi. Tất nhiên là họ không bao giờ được vào bên trong cả, chỉ ngồi ở vườn hoa đối diện. Những hình ảnh đó hay thông tin đó thì ít khi được đưa trên báo chí. Chính những hình ảnh đó làm tôi suy nghĩ, thấy thương vì họ chính là dân đen theo đúng nghĩa như ngày xưa các cụ vẫn nói là “ phận áo ngắn”. Những người lao đông thì tội thật, khổ thật.
Mặc Lâm:Trước khi từ giã thính giả chị có kết luận gì trong buổi nói chuyện hôm nay, thưa chị?
Vi Thùy Linh: Đây là câu kết của tôi. Viện Báo chí tuyên truyền là nơi tôi được học từ năm 1997-2001. Tôi học ở phân viện và là lò đào tạo báo chí lớn nhất Việt Nam và chuyên nghiệp nhất hơn 50 năm rồi. Mỗi năm ra trường hơn 200 cử nhân, gần như không ai bị trượt. Đã làm luận văn thì được 9,10, mà đã thi tốt nghiệp thì hầu như đều qua hết. Thầy cô không nỡ cho em nào trượt cả.
Tuy nhiên 200 em sinh viên ấy ra trường thì bản thân từ khi tốt nghiệp đã có sự giả dối rồi. Chúng ta không có những phần mềm để đọc, dò những luận văn ăn cắp. Có rất nhiều luận văn được viết bằng sự xào xáo của nhiều trường đại học khác chứ không riêng gì báo chí. Đi học thì có những em sinh viên tôi được biết vì chính những em đó nhờ tôi viết bài để các em mang về nộp cho đủ vì khi đi thực tập nhiệm vụ của em phải có 10 bài nhưng giờ chỉ mới có 5. Nhuận bút thì của chị nhưng chị cho em đứng tên!
Giả dối từ lúc đi thực tập. Gỉả dối từ luận văn xào xáo. Những cử nhân ấy đúng là những cử nhân giấy; Ra trường thì làm sao đủ bản lĩnh và tri thức để tác nghiệp?
Mặc Lâm:Xin cám ơn nhà thơ, nhà báo Vi Thùy Linh về buổi nói chuyện hôm nay.
7/10/2013 GP VINH (AsiaNews) – Là những giám mục, và là người Việt Nam, thì “sứ vụ của chúng tôi” là đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Sự phát triển phải thông qua việc “thay đổi não trạng”, hủy bỏ vai trò trung tâm của “hệ tư tưởng Marxist” và đồng lòng “trở về với nền văn hóa truyền thống”. Đây là những gì mà Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp đã nhấn mạnh trong một cuộc phỏng vấn với hãng tin AsiaNews. Đức Cha Hợp hiện là Giám Mục chính tòa Giáo phận Vinh, ngài là một người ủng hộ mạnh mẽ chiến dịch sửa đổi hiến pháp (được thúc đẩy thông qua các kiến nghị thư và thu thập chữ ký) theo hướng nhằm kết thúc chế độ độc tài, đảng cộng sản. Đức Cha cũng đang là Chủ tịch Ủy ban Giám mục về Công lý và Hòa bình, ngài khẳng định rằng sự thống nhất ý chí là điều liên kết hàng giáo sĩ Việt Nam với phong trào của các nhà trí thức đang đòi sự thay đổi, bởi vì “đó là trách nhiệm của tất cả những ai đang nghĩ về vận mệnh của dân tộc.” Ngài cho rằng, mục tiêu này chỉ có thể đạt được thông qua “một nền giáo dục hướng đến giới trẻ, cách riêng là giới sinh viên”, họ được coi là “nhà kiến tạo” của sự phát triển đích thực, không chỉ ảnh hưởng đến nền kinh tế, mà còn liên quan đến “xã hội, chính trị và tôn giáo”. Năm nay 68 tuổi, là một tu sĩ Dòng Đa Minh, hồi năm năm 2010, Đức Giáo Hoàng Benedict XVI đã bổ nhiệm ngài làm giám mục Giáo Phận Vinh. Ngài nói, Việt Nam đang trong “một hoàn cảnh lịch sử khó khăn”, đặc trưng bởi “vấn đề liên quan với Trung Quốc” và việc độc lập trong quá khứ cùng các cuộc xung đột ở Biển Đông. Từ thập niên 80 nó đã tạo thành “một mối đe dọa” cho sự toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia đã có những tiến bộ to lớn “trong lĩnh vực kinh tế”, nhưng lĩnh vực “xã hội, chính trị và tôn giáo” thì không được như thế. Đức Cha Hợp nói thêm, “Hiện nay, sự thay đổi này đang xuất hiện rõ nét những hạn chế. Và đó là lý do tại sao cần có một sự thay đổi triệt để vì vận mệnh của đất nước”. Ngài cho biết, tất cả các vị giám mục đã “đồng thuận về quan điểm này.” Giáo Phận Vinh là một lãnh thổ đặc biệt nằm ở miền bắc Việt Nam, nơi đặc trưng xẩy ra các cuộc xung đột giữa giáo dân với chính quyền và thường dẫn đến việc chính quyền mở ra các cuộc đàn áp, bắt giữ, xét xử và kết án tù. Tuy nhiên, số lượng tín hữu ở đây đang phát triển: hơn 500.000 người Công Giáo trong tổng số 6 triệu dân (số liệu năm 2010) với một địa giới chia thành 179 giáo xứ. Đức Cha Hợp nói: “Chúng tôi đang gặp rất nhiều khó khăn nhưng đức tin thì kiên vững. Chúng tôi cũng có nhiều ơn gọi, để mọi người trẻ của chúng tôi hôm nay không chỉ có mặt ở Vinh mà còn trong các giáo phận khác nhau và trong nhiều cộng đoàn trên khắp đất nước”. Đối tượng của công cuộc phúc âm hóa “có cả ánh sáng và bóng tối”, bởi vì thật sự “người Công Giáo vững mạnh” nhưng vẫn còn những sự hạn chế dai dẳng, do đó “chúng tôi không thể rao giảng Lời Chúa một cách dễ dàng như ở các quốc gia khác”. Các cuộc xung đột giữa người Công Giáo và người cộng sản “là rất kiên quyết” … “Và ngay cả hôm nay, những vụ xung đột vẫn tiếp diễn, việc đối thoại đã không được kiên trì mà đáng ra nó phải nên như thế”. Ngài nói về việc Giáo Hội Việt Nam thiếu thốn phương tiện truyền thông hiệu quả (“chúng tôi không có đài truyền hình, đài phát thanh, báo chí…”), nhưng “sự xuất hiện của internet đã mang lại những sự thay đổi, cho nên mỗi giáo phận và mỗi cộng đoàn đã có trang web riêng của mình”. Vì vậy, hơn bao giờ hết, giờ là lúc ưu tiên thực hiện “đào tạo nhân sự” cho những người “có năng lực” chứ không phải chỉ “đủ điều kiện” giống như trong quá khứ. “Cả hai việc này liên quan đến công cuộc phúc âm hóa và sự phát triển xã hội. Chúng tôi muốn hình thành – nhất là cho giới trẻ, sinh viên – một cái nhìn về tương lai và để làm việc, để đóng góp cách cụ thể và hiệu quả vào sự phát triển của xã hội Việt Nam”. Hôm nay, Đức Cha Hợp đang chuẩn bị cho chuyến đi Nam Mỹ – nơi mà ngài từng giảng dạy trong nhiều năm – để tham dự Đại hội Giới trẻ Thế giới (World Youth Day), được cử hành tại Rio de Janeiro vào cuối tháng Bảy. Ngài khẳng định “sẽ có một phái đoàn nhỏ từ Việt Nam”, “không lớn vì Việt Nam đang cảm nhận sự khủng hoảng kinh tế đang bắt đầu. Nhưng đây sẽ là một cơ hội để được gặp Đức Thánh Cha Phanxicô cùng các bạn trẻ từ khắp nơi trên thế giới, và tôi cũng gặp lại những người bạn cũ ở Brazil và Peru”. Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp sinh ra tại Làng Anh, Nghệ An vào ngày 2 tháng 2 năm 1945. Ngài theo học tại Trung tâm Nghiên cứu Dominica và Đại học Văn Khoa Sài Gòn, nơi ngài nhận bằng Triết học Phương đông (1970). Ngài đến Thụy Sĩ để nghiên cứu luận án tiến sĩ triết học tại Đại học Fribourg (1978), và sau đó là tiến sĩ thần học luân lý tại Khoa Thần Học ở São Paolo (Brazil). Ngài được thụ phong linh mục ngày 8 tháng 8 năm 1972. Sau khi chịu chức thì dạy tại phân khoa thần học ở Lima (Peru) hồi thập niên 1980, và tại Đại Học Giáo Hoàng Thánh Thomas Aquinas ở Roma (1997-2003). Từ năm 2000, ngài dạy một khóa học về luân lý và học thuyết xã hội của Giáo Hội tại Trung tâm Nghiên cứu Dominica và các học viện tôn giáo khác nhau, kể cả đại học ở Sài Gòn. Nam Kha
Người ta thường chia bác ái ra làm nhiều loại tuỳ theo đặc tính của nó : bác ái đổi chác, theo nghĩa “bánh ít đi, bánh qui lại”; bác ái ngân hàng là bác ái kiểu cho vay lấy lãi một cách sòng phẳng; bác ái vị tha là bác ái hoàn toàn cho đi một cách vô vị lợi; bác ái quảng đại tức là biết sẵng sàng trao ban hơn cả những gì mà đối tượng chờ đợi, v.v… Thế còn bác ái Kitô giáo là loại bác ái nào?
Câu chuyện Dụ ngôn trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho ta biết bác ái Kitô giáo đúng nghĩa là gì. Theo trình thuật của thánh Luca, thì cả 3 nhân vật trong câu chuyện: người Samaria, thầy Tư Tế và thầy Lêvi đều trông thấy nạn nhân bên đường, nhưng chỉ có người Samaria biết “chạnh lòng thương”. Tuy nhiên, ông không chỉ dừng lại ở mức độ “từánh mắt” (trông thấy) “đến trái tim” (chạnh lòng thương); mà còn “đến cả đôi tay”, tức là bằng những hành động rất cụ thể.
Ông ta dừng lại, đến gần bên nạn nhân, cúi xuống, đổ dầu rượu (có lẽ ông đã dốc cạn dầu và rượu để làm dịu bớt sự đau đớn cho người bị nạn) và băng bó cẩn thận sau khi đã tẩy trùng cho vết thương, rồi đặt nạn nhân lên lưng lừa và đưa tới quán trọ mà săn sóc. Hơn thế nữa, ông còn ở lại với người bị nạn: “Hôm sau ông đưa ra hai quan tiền”. Từ ngữ “hôm sau”, mặc nhiên ta có thể hiểu ông đã ở lại với nạn nhân qua đêm để cho người đó qua khỏi cơn nguy kịch đã, rồi mới an lòng ra đi. Chưa hết, ông còn thanh toán mọi chi phí, và dặn dò cặn kẽ với người chủ quán: “Nhờ bác săn sóc người này, có tốn kém bao nhiêu, chính tôi sẽ chi trả khi trở về”. “Chính tôi” sẽ chi trả chứ không phải vợ con anh ta, cha mẹ anh ta, cũng không phải nhà băng, hay dịch vụ bảo hiểm y tế. Lòng quảng đại của ông thật tuyệt vời! Ông đã không ngại hy sinh thời giờ, sức lực và cả tiền bạc. Nói cách khác, ông đã quảng đại cho đi tất cả, nhất là cho đi chính mình.
Chính cung cách cư xử của người Samaria này đã làm nỗi bật lên đức ái hoàn hảo của Tin Mừng. Dụ ngôn cũng muốn ám chỉ cho ta thấy Đức Kitô đích thực là người Samaria nhân hậu đối với nhân loại chúng ta, khi Ngài đã sống trọn hảo đức bác ái đó của Tin Mừng. Ngài đã rời bỏ mọi vinh quang Thiên Quốc để đến trần gian. Ngài đã cúi xuống trên nhân loại khổ đau để băng bó và chữa lành các vết thương do tội lỗi và sự chết gây ra. Đoạn Ngài ra đi, để nhân loại trong quán trọ là Giáo hội của Ngài, để Giáo hội trông nom và chăm sóc hộ Ngài.
Và bây giờ đến lượt chúng ta cũng phải tiếp tục nhiệm vụ của người Samaria nhân lành bên cạnh tất cả những người mà chúng ta gặp gỡ: chân tình giúp đỡ và băng bó các vết thương của họ. Vết thương của nghèo đói, đau khổ, bệnh tật, cô đơn, chết chóc,… Con đường từ Giêrusalem tới Giêricô chính là đường đời, trên đó không thiếu những con người bất hạnh, bị bỏ rơi, bị bóc lột, bị để mặc trong tình trạng sống không ra sống, chết không ra chết. Họ đang là những nạn nhân của bạo lực, bất công, bệnh tật, chiến tranh hận thù… “Hãy đi và làm như vậy” luôn là một mệnh lệnh có tính cấp bách.
Chính vì thế, sứ điệp Tin Mừng đang thôi thúc chúng ta nỗ lực mỗi ngày làm một việc bác ái cụ thể trong môi trường mà mình đang sống: nơi thôn xóm, nơi công sở, nơi trường học, trên đường đi. Hãy làm với một niềm tin tưởng rằng mỗi một cử chỉ bác ái mà ta làm cho tha nhân, dù nhỏ bé đến đâu, cũng đều góp phần làm cho tình yêu của Thiên Chúa lan toả và làm cho nền văn minh tình thương của nhân loại được thăng hoa.
Chính Chúa Giêsu đã dạy rằng: “Không phải bất cứ ai cứ kêu lên: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa’ là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Chúa Cha, kẻ ấy mới được vào mà thôi” (Mt 7, 21 ). Ngài cũng đã dạy rằng Thiên Chúa chỉ tính sổ với ta về những hành động yêu thương, bác ái mà ta đã làm hoặc đã không làm cho những người anh em của ta (x. Mt 25).
Xin cho điều Chúa dạy, “hãy đi và làm như vậy” được mỗi người chúng ta ghi tâm khắc cốt và nỗ lực đem ra thực hành, để ta “được sự sống đời đời”, sự sống mà Chúa đã hứa ban cho tất cả những ai biết lắng nghe và thực thi vuông tròn các huấn lệnh của Ngài. Amen.
Nét đẹp văn hóa, nét đẹp của lòng người dành cho những người có công với tổ quốc, với dân tộc đó là tạc tượng của những người có công đó để như là ghi ơn, nhớ ơn của họ. Khi bức tượng được tạc xong người ta sẽ tìm vị trí đẹp để đưa bức tượng đó vào để cho mọi người đi qua chiêm ngưỡng, ngắm nhìn, ghi ơn.
Ngày 9 tháng 7 vừa qua, trong khu vườn Vương Cung Thánh Đường Buenos Aires – nơi mà trước đây Đức Hồng Y Jorge Mario Bergoglio đã cai quản trước khi trở thành vị Giáo hoàng của Mỹ Châu Latin đầu tiên trên thế giới – xuất hiện bức tượng chân dung ĐGH Phanxicô. Bức tượng chân dung này do nghệ sĩ Fernando Pugliese thiết kế. Khi hay tin như vậy, Đức Thánh Cha đã gọi điện thoại cho những vị cai quản Thánh Đường phải gỡ bỏ ngay lập tức bức tượng chân dung của Ngài ra khỏi khu vườn.
Dĩ nhiên những người có thành ý tạc tượng Đức Thánh Cha cũng do lòng thành kính và ngưỡng mộ của Ngài nhưng họ không ngờ rằng họ đã làm phật lòng của người được tạc. Họ quên rằng một Phanxicô khó nghèo thời đại đang sống giữa họ. Họ vì nhiệt thành quá nên quên tấm lòng của người thay mặt Chúa hướng dẫn Hội Thánh. Phần Đức Thánh Cha, chắc có lẽ Ngài rất khó chịu nên ra lệnh gỡ bỏ ngay bức tượng. Khó chịu bởi lẽ quan niệm sống của Ngài rất rõ ràng, lập trường sống của Ngài rất rõ ràng về Giáo Hội, và đặc biệt là một Giáo Hội của những con người nghèo.
Những bài học giản đơn từ Đức Thánh Cha Phanxicô đã, đang và sẽ được chuyển tải đến trong Giáo Hội bằng cách này cách khác, bằng những nẻo đường nhân sinh của cuộc đời.
Trong khi giữa cuộc đời này, người ta vẫn vội vàng, vẫn ganh đua nhau để làm điều gì đó được nổi tiếng, được thành công để nhân loại ghi ơn nhớ đời. Ấy vậy mà Phanxicô – một Giáo Hoàng của người nghèo – đã làm ngược lại. Không chỉ bằng lời nói nhưng cả một tinh thần mạnh mẽ, triệt để về lối sống khó nghèo và khiêm hạ ngày mỗi ngày được diễn tả trên cuộc đời của Đức Thánh Cha.
Một lần nữa, câu chuyện bức tượng Đức Thánh Cha bị tháo dỡ là bài học cho mỗi người chúng ta.
Trong cuộc sống, nhiều lần nhiều lúc chúng ta đã quên đi thần tượng duy nhất và chỉ có một mà thôi đó chính là Thiên Chúa. Thế nhưng trong thực tại cuộc sống, ta có tôn sùng Thiên Chúa là Chúa, là Chủ cuộc đời của ta hay ta lại đi tìm cho mình những ông thần, những ông chúa của quyền lực, của vật chất, của địa vị, của danh vọng.
Và, đôi khi ta mong người khác tạc cho ta những bức tượng thật lớn, bia ghi công thật dài và những bài sớ ca tụng về những kỳ công ta đã thực hiện. Với tất cả những gì ta có, tất cả những gì ta làm âu cũng là ân huệ nhưng không mà Thiên Chúa ban cho ta. Thế nên, đừng để cho bất cứ ai tạc tượng hay ghi công cuộc đời của mình cả. Có chăng hãy tạc tượng, hãy ghi công Thiên Chúa là Đấng là Chúa, là Chủ cuộc đời của ta.
Có những người chưa chết nhưng đã được dựng lên bức tượng như đã dựng nên tượng của Đức Thánh Cha Phanxicô.
Có những người chưa kịp chết nhưng người ta đã viết một tiểu sử thật dài để ca ngợi công ơn của những người đó.
Có những người chưa được chết mà người ta đã xây lăng tẩm và đã tạc bia đá thật lớn để ghi công.
Tất cả những điều đó sẽ rất đẹp, rất tốt với thế gian, với người đời nhưng với Thiên Chúa thì lại khác. Thiên Chúa biết rõ từng người một của chúng ta.
Chuyện quan trọng là ta có được một chỗ nào trong cung lòng của Thiên Chúa hay không mà thôi. Chuyện quan trọng là ta có được Thiên Chúa ghi tạc hình ảnh của ta vào cung lòng của Ngài hay không mà thôi. Và chuyện quan trọng là khi ta nhắm mắt lìa đời ta có được hưởng nhan Thánh của Ngài hay không mà thôi.
Sống trên đời, không hệ tại ở giàu hay nghèo, sang hay hèn, giáo hoàng hay không giáo hoàng, linh mục hay không linh mục. Chuyện quan trọng là ta có được hưởng ơn cứu độ mà Thiên Chúa trao ban hay ta khước từ ơn cứu độ từ nơi Thiên Chúa mà thôi.
Mỗi người có một suy nghĩ, một cái nhìn về cuộc đời. Có những người đi tìm vinh quang chóng qua ở cõi tạm nhưng cũng có những người đi tìm sự sống đàng sau cái chết, đàng sau sự sống hiện tại.
Hôm nay, chúng ta nghe một người thông luật chất vấn Chúa Giêsu : : “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”.
Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi của ông, Chúa Giêsu lại hỏi : “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào? “. Nhanh mồm nhanh miệng, ông ấy thưa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.”
Nghe ông nói rất chính xác và Chúa Giê-su bảo ông ta: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống.”
Tiếp đoạn thoại của Chúa Giêsu với người thông luật, Thánh Luca thuật lại cho chúng ta về dụ ngôn người Samari nhân hậu (29-37)
Con đường đi từ Giêrusalem xuống Giêrikhô băng qua sa mạc. Đây là đoạn đường không an toàn, thường xuyên bị các đám cướp tấn công. Một người vô danh, không rõ địa vị, nòi giống, quốc tịch và tôn giáo, đã rơi vào tay bọn cướp. Ông bị đánh nhừ tử, rồi bị bỏ mặc bên vệ đường giở sống giở chết: đây là một tình cảnh hết sức quẫn bách. Nói rằng một con người ở trong tình cảnh ấy cần được giúp đỡ, và ai giúp đỡ người ấy là thân cận của người ấy, điều này thật rõ ràng trước mắt mọi người. Thầy tư tế và thầy Lêvi đã thấy con người nằm đó dở sống dở chết, nhưng đã sang bên kia đường mà tiếp tục bước đi. Sự bận tâm đến sự an toàn và sự tiện nghi thì mạnh hơn lòng đồng cảm đối với người bị nạn. Lối xử sự của người Samari khác hẳn. Ông hành động cách gương mẫu, ông đẩy mọi sự khác vào bình diện thứ hai và chỉ còn thấy tình trạng cần kíp của con người đang nằm trên đường dở sống dở chết. Ông đau lòng trước tình cảnh đáng thương, ông tìm mọi cách để kéo anh ta ra khỏi tình trạng nguy kịch càng nhanh càng tốt. Ông đã tận dụng tất cả những gì ông có để cứu giúp người bị nạn (dầu, rượu, con lừa, bạc).
Chúa Giêsu đã cố ý chọn mẫu người bị nạn là người Samari. Hạng người lạc đạo ấy, không hể có kiến thức của nhà luật học, cũng không có phẩm cách của vị tư tế hay thầy Lêvi, lại tỏ ra hết sức nhân ái và đạo đức. Ông đã thực hành hai điều răn lớn của Cựu Ước về dức mến. Do đó, chính ông mới đáng được gọi là người Ít-ra-en chân chính.
Chúa Giêsu cho thấy rằng không thể vạch ra một giới hạn trong tình yêu thương đồng loại. Chúa Giêsu cũng không đặt ra những tiêu chí, xác định một con số giới hạn gồm những kẻ mà ta phải yêu thương. Như trong nhiều bài dạy khác, Ngài luôn mở rộng tầm nhìn cho con người về lòng bác ái, về tình yêu thương.
Nghe xong câu chuyện, vị thông luật hồ hởi hỏi : “Ai là người thân cận của tôi, kẻ mà tôi phải yêu thương?”.
Chúa Giêsu lại hỏi ngược lại người thông luật : “Ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?”. Như thế, Chúa Giêsu đã đảo ngược cái nhìn bình thường của người đời. Dụ ngôn và câu hỏi của Chúa Giêsu chính là lời đáp trả về vấn nạn sự sống đời đời của người thông luạt.
Sau khi minh giải bằng câu chuyện hết sức thực tế, giản đơn và dễ hiểu, Chúa Giêsu mời gọi ông ta : “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (c. 37).
Chúng ta thấy ông thông luật này cũng hay. Ông bận tâm về sự sống đàng sau cái chết. Có những chẳng hề quan tâm tìm biết là sau cái chết, sự sống có tiếp tục chăng và chuyện này xảy ra như thế nào. Nhiều người quá bận lòng với nhiều chuyện bận bịu với cuộc sống hiện tại rồi, nên không muốn nặng lòng với những mối bận tâm về sự sống đời đời. Đàng khác, người ta không biết được gì chắc chắn. Nhiều người trong chúng ta vẫn luôn tìm cách thỏa mãn các nỗi niềm chờ mong của mình trong đời sống hiện tại, chứ không quan tâm đến một sự sống đời đời.
Nếu sống và mang thái độ đó trong tâm trí nghĩ suy thì Chúa Giêsu đánh giá là “ngu” (Lc 12,13-21).
Với Chúa Giêsu, sự sống đời đời là một thực tại quyết định ngay ở đời tạm này. Giả như không có sự sống đời đời, nếu không có trách nhiệm trước Thiên Chúa hằng sống, thì rốt cuộc người ta hành xử như thế nào với người bị nạn chẳng có gì phải bận tâm, phải nặng lòng.
Qua câu chuyện người bị nạn này, chúng ta không có quyền suy nghĩ và nói rằng người thân cận của chúng tai có thể còn là người bà con gần với chúng ta; người cư ngụ cùng đường phố với chúng ta; người cùng làm việc trong một xí nghiệp với chúng ta; người có thiện cảm với chúng ta, v.v.”.
Chúa Giêsu không chấp nhận những giới hạn cho tình yêu thương đối với người khác. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải giúp đỡi bất cứ ai xuất hiện trên đường chúng ta đi đang ở trong tình trạng quẫn bách. Khi ấy không cần phải suy nghĩ đắn đo rằng họ có phải là người ta phải lo hay không.
Muốn thực sự giúp đỡ người lâm nạn, người ta phải dấn thân vào trọn vẹn. Việc ấy có thể làm cho ta phải mất thì giờ, tốn phí tiền bạc, gây phiền toái, làm xáo trộn sự yên tĩnh cũng như chương trình, thậm chí có thể kèm theo một nguy hiểm cho mình nữa. Nhưng đấy chính là thực sự yêu thương người thân cận, một tình yêu đưa đến sự sống đời đời. Như thế, phải luôn mở mắt và có trái tim sẵn sàng để nhận ra được rằng ai đang thật sự cần được tôi giúp đỡ và tôi phải giúp đỡ người ấy thế nào. Hôm nay trên đường đời, vẫn còn có vô số “kẻ cướp”, nên sẽ còn vô số người rơi vào tay “kẻ cướp”, nằm trên đường ta đi, và chờ đợi ta trợ giúp.
Một số nhận định của bà Henrietta Bowden-Jones, người thành lập nhà thương chữa trị bệnh cờ bạc đầu tiên tại Anh quốc Trong mọi thành phố lớn khắp thế giới hiện nay đều có các nhà đánh bạc Casino, nơi con người bị cám dỗ tới ”nướng tiền” cho các chủ sòng bài và guồng máy ăn chơi khổng lồ của nó. Nổi tiếng nhất phải kể đến Las Vegas bên Hoa Kỳ, là thành phố đỏ đen nằm giữa sa mạc, nhưng là nơi ăn chơi vô cùng sầm uất, với các sòng bài và đủ mọi màn giải trí cho du khách. Bên Á châu thì có các sòng bài Dubai và Macao. Nhưng các loại máy kéo tiền đủ loại hiện diện ở khắp mọi thành phố lớn nhỏ trên thế giới. Điều đáng ghi nhận là máu mê đánh bạc máy và ham kéo máy không phải chỉ là của người trẻ, mà của cả người già nữa. Bên Hoa Kỳ, trong thành phố nào bắt đầu mở khu phố đánh bạc, thì chỉ một thời gian sau là cộng đoàn thấy vắng vài cụ ông cụ bà trong các giờ phụng vụ và sinh hoạt. Các cụ bắt đầu mê cờ bạc và giải trí bằng cách đi kéo máy. Có cụ sau lễ Chúa Nhật là đi giải trí cho tới khi hết tiền mới về nhà. Biết đi kéo mày là chỉ có rỗng túi, nhưng không đi không được, vì qủy cờ bạc xúi bẩy xỏ mũi kéo đi. Thế là tiền hưu và tiền của con cháu biếu tặng tới đâu cúng hết cho sòng bài tới đó. Nghiện cờ bạc là một trong các tệ nạn trên thế giới hiên nay, khiến cho hàng triệu người lâm cảnh tán gia bại sản, gia đình tan nát. Nó đã trở thành một bệnh nguy hiểm. Thống kê của tổ chức sức khỏe thế giới OMS của Liên Hiệp Quốc cho biết trên thế giới hiện có 3% tổng số dân toàn cầu bị bệnh cờ bạc. Chỉ riêng Italia đã có tới 800 ngàn người bị bệnh cờ bạc và 1,7 triệu người có ”máu đỏ đen”. Mỗi năm số người này làm mất đi 69,7 triệu giờ làm việc, vì nạn cờ bạc. Theo kết qủa nghiên cứu của tổ chức ESPAD-Italia, do phân bộ bệnh dịch và nghiên cứu trên các cơ cấu y tế của Học viện vật lý bệnh xá, kiểu chơi ”Cạo và thắng”, Sổ số tự phát, và Siêu xổ số được 58% thiếu nữ ưa thích. Trong khi 30% thanh niên thì thích đánh cá về các trận đấu thể thao. Trong số đó có 52,5% người chơi trong các quán giải khát, 39,1% chơi tại nhà bạn bè và 22,5% chơi tại các phòng chơi. Giới trẻ thanh niên chơi bạo tay hơn, trong khi các thiếu nữ thường không chơi quá 10 Euros. Theo các thống kê mới nhất nạn cờ bạc tại Italia là dịch vụ hàng năm thu vào 80 tỷ Euros, tức tương đương với 5% tổng sản lượng quốc gia, nghĩa là Italia chỉ đứng sau Anh quốc. Bà Katia Lanosa, chủ tịch Hiệp hội các trạng sư về hôn nhân vùng Emilia Romagna trung Italia, cho biết nạn cờ bạc ngày càng là vấn đề gây đổ vỡ trong gia đình. Nó khiến cho một phần mười các cuộc hôn nhân bị đổ bể, và gia tăng số các trẻ em ăn cắp ăn trộm để có tiền kéo máy hay đánh bạc. Nạn cờ bạc cũng ngày càng gia tăng các cuộc khủng hoảng trong gia đình dẫn đến chỗ ly dị ly thân. Ngoài ra, hậu qủa của cuộc khủng hoảng trong tương quan hôn nhân là cảnh mất công ăn việc làm. Đồng lõa với nạn cờ bạc là thời giờ rảnh rỗi và tình trang không thỏa mãn trong cuộc sống. Bà Katia Lanosa cũng cho biết bệnh cờ bạc cũng thường là lý do của các cảnh bạo lực nghiêm trọng trong gia đình và ngoài xã hội. Nhu cầu cần tiền để đánh bạc khiến cho người bệnh có thể đi đến chỗ hành hạ vợ con và giết người thân, hay cướp bóc vũ trang. Ông Ugo Pastore, Biện lý trưởng vùng Emiglia Romagna, đặc trách về người trẻ vị thành niên cho biết càng ngày càng có nhiều thanh thiếu niên bị lôi cuốn vào tệ nạn cờ bạc. Lý do vì chúng là con cái các gia đình có cha mẹ nghiện cờ bạc, bị bỏ rơi không được săn sóc các nhu cầu tối thiểu, hay chúng bị lây bệnh cờ bạc của cha mẹ. Và số người trẻ trộm cắp tiền của bạn bè người thân gia tăng. Tại Bergamo, miền bắc Italia, dân chúng của một khu chung cư đã phẫn nộ phát động phong trào tẩy chay các quán đặt máy đánh bạc. Hiện đã có hàng chục quán, nhưng trong thời gian tới sẽ có thêm nhiều quán khác. Ông Anselmo Parolini, cha gia đình nói: ”Thật là xấu hổ. Chúng tôi lo âu cho con cái của chúng tôi. Chính vì thế chúng tôi đã phát động phong trào phản đối, tẩy chay các quán có đặt máy đánh bạc. Đã có 500 người ký tên, và chúng tôi sẽ đưa vấn đề lên văn phòng tài vụ của tình Bergamo. Chúng tôi cũng sẽ tổ chức môt cuộc biểu tình phản đối việc mở thêm các sòng bài điện tử và gây ý thức đối với tệ nạn xã hội ngày càng lan tràn và trầm trọng này. Nhưng thật ra, tuy có luật ban hành hồi tháng 12 năm 2012 thiết định các sòng bài điện tử phải ở xa các vùng nhậy cảm 400 mét, nhưng đã không có luật nào cấm mở các sòng bài điện tử như thế. Giới trẻ và cả người già ngày càng bị cám dỗ ghé vào kéo máy nơi các sòng bài điện tử này”. Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vi và các bạn một số nhận định của bà Henrietta Bowden-Jones, người thành lập bệnh viện quốc gia chữa trị bệnh cờ bạc đầu tiên tại Anh quốc, về căn bệnh cờ bạc. Bà Henrietta hiện cũng điều khiển nhóm 12 chuyên viên nghiên cứu thuộc 4 đại học Anh quốc trong nhiều chương trình khác nhau nhắm thám hiểm não bộ của những người mắc ”bệnh cờ bạc”. Bà cũng là cố vấn của chính quyền Anh quốc về vấn đề này. Hỏi: Thưa bà Henrietta, có thể thiết định số người mắc bệnh cờ bạc trên thế giới và tại Âu châu hiện nay là bao nhiêu không? Đáp: Không phải mọi quốc gia trên thế giới đều đã làm các cuộc nghiên cứu chuyên biệt. Vấn đề đó là khi dùng các dụng cụ khác nhau, chẳng hạn như SOGS và CPGI để chẩn đoán bệnh cờ bạc, thì khó mà có thể làm thống kê. Vì thế tại sao lại quan trọng việc chỉ nên dùng một phương pháp, ít nhất là tại Âu châu. Bên anh quốc, có 0,9% dân nghiện cờ bạc, tức khoảng nửa triệu người tất cả. Hỏi: Những người bị bệnh cờ bạc có nguy cơ phạm pháp không thưa bà? Đáp: Có khoảng một phần ba những người bị bệnh cờ bạc phạm pháp. Tuy nhiên, đây cũng là tỷ lệ của tất cả những người bị bệnh cờ bạc trên toàn thế giới. Các tội phạm thông thường nhất là lừa đảo và trộm cắp. Thường họ cũng ăn cắp trong nơi làm việc, sau khi đã trộm cắp nơi bạn bè và người thân. Hỏi: Thưa bà vậy chi phí chữa trị cho một người bị bệnh cờ bạc tại Anh quốc hiện nay là bao nhiêu?
Đến thăm nhà tù trên đảo Robben, nơi chính quyền Nam Phi thời kỳ phân biệt chủng tộc đã giam ông Nelson Mandela 18 năm, Tổng thống Hoa Kỳ, Barack Obama bày tỏ cảm xúc rằng đây là một trải nghiệm sâu sắc.
Sau đó, đến thăm Đại học Cape Town, ông Obama phát biểu:
“Nelson Mandela cho chúng ta thấy lòng dũng cảm của một người có thể thay đổi thế giới.”
Tại học đường từng chỉ dành cho người da trắng, ông Obama gặp mặt những sinh viên nhiều màu da, biểu hiện của viễn kiến ‘quốc gia cầu vồng’ mà ông Mandela từng nêu ra và phấn đấu cả đời để Nam Phi đạt được.
Sự nghiệp chính trị của Nelson Mandela, 94 tuổi, người hiện đang trong bệnh viện ở tình trạng rất yếu nhưng ổn định, không chỉ là giai đoạn thắng cử và tự nguyện rời bỏ chính trường, mà còn cả một thời kỳ đấu tranh lâu dài.
Luật sư nhân quyền
Thăm xà lim trên đảo Robben, tổng thống Barack Obama ca ngợi lòng quả cảm Nelson Mandela
Tổng cộng trong cuộc đời nhiều biến động, ông đã bị tù 27 năm và trong những giai đoạn không bị bắt giam hoặc ngồi tù, Nelson Mandela làm luật sư đấu tranh cho các bị cáo người da đen.
Xuất thân từ nông thôn, vài nămn 1942 ông nhận được việc hành chính tại một văn phòng luật sư da trắng có thiện chí cho người da đen làm việc.
Cùng lúc, Nelson Mandela ghi danh học luật bán trú tại Đại học Witwatersrand.
Luôn trung thành với tư tưởng nhà nước và xã hội pháp quyền, và tin rằng đấu tranh bằng con đường pháp lý là cách tốt nhất để thúc đẩy quyền lợi của người da đen, ông Mandela lập ra công ty luật đầu tiên của người châu Phi bản địa vào giữa thập niên 1950.
Cùng Oliver Tambo, người sau trở thành một lãnh đạo của ANC, ông Mandela đã nhận nhiều vụ bào chữa của giới đấu tranh nhân quyền.
Chính quyền apartheid đã dùng nhiều cách để ngăn cản hoạt động của công ty luật nằm tại trung tâm Johannesburg.
Các vụ phá phách, khám văn phòng chỉ là chuyện nhỏ.
Nelson Mandela và cộng sự bị hăm dọa, dọa giết, bị đánh, bắt và bỏ tù nhiều lần trong suốt thập niên 1960.
Chính quyền cũng tìm cách xóa tên ông khỏi danh sách Luật sư đoàn Nam Phi với lý do các hoạt động chính trị của ông thuộc loại ”vi phạm đạo đức nghề nghiệp”.
Nhưng niềm tin của Mandela vào sự công bằng của hệ thống pháp luật, dù bị ảnh hưởng của ý thức hệ chủng tộc, phần nào được củng cố khi một thẩm phán da trắng đã bác bỏ đơn của Hội Luật gia Nam Phi.
Nelson Mandela không chỉ hành nghề luật mà còn vận động cho các hoạt động nhân quyền của người đa den và đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng cho ANC.
Đòi công lý cho người da đen Nam Phi, nhóm công dân chiếm đa số nhưng bị tước các quyền chính trị, kinh tế và quyền sở hữu đất dù họ sống chủ yếu bằng nghề nông, ông cũng thách thức cả hệ thống chính trị apartheid.
Theo luật sư Sir Jeffery Jowell từ Anh và Giáo sư luật Hugh Corder từ Đại học Cape Town, Nelson Mandela trong lần bào chữa cho chính mình bị buộc tội “kích động biểu tình” trước tòa án ở Pretoria năm 1962 đã đặt câu hỏi về tính chính danh của chế độ.
Ông nói:
“Tôi e ngại rằng tôi sẽ không có một phiên tòa công bằng và chính đáng vì bản thân tôi cũng không bị ràng buộc cả về đạo đức và pháp luật bởi một Quốc hội tôi không có đại diện.”
Ông kết thúc bằng lời nói nêu bật tinh thần dân chủ và bình quyền như truyền thống của xã hội châu Phi và “tính luân lý nội tâm” của con người mà theo hệ thống apartheid đã không chấp nhận.
Sau khi lên cầm quyền, ông Nelson Mandela tiếp tục đề cao tinh thần pháp quyền và tuân thủ các quyết định của Tòa Bảo hiến kể.
Hai ông Mandela và De Klerk được giải Nobel Hòa bình vì tinh thần hòa giải
Kể cả khi tòa thách thức quyết định của ông ở cương vị tổng thống trong vụ xử năm 1994 là do Đảng cũ của ông, ANC nêu ra chống lại nghị viện, ông Mandela vẫn tỏ thái độ tôn trọng tòa, lúc này đã thuộc hệ thống tư pháp dân chủ.
Chính quyền của ông Mandela đã lập ra Ủy ban Sự thật và Hòa giải nhằm nói cho hết các vấn đề của xã hội Nam Phi thời apartheid nhưng nhằm hàn gắn, chứ không trả thù những đối thủ chính trị cũ.
Ngày nay, sự nghiệp đấu tranh của ông Nelson Mandela đã trở thành biểu tượng đấu tranh cho nhân quyền toàn cầu, các nhân vật từ phe tả và phe hữu đều có thể rút ra bài học, hoặc lấy cảm hứng từ cuộc đời ông.
Lý do là những gì ông Nelson Mandela nêu ra luôn mang tính phổ quát và vượt lên các lằn ranh chủng tộc, gia cấp, đảng phái và quốc gia.
Thông điệp của ông, cùng lúc, lại mang tính riêng tư cho mọi nhà hoạt động, điều được Barack Obama kể lại khi ông nói rằng cuộc đời Mandela đã khiến ông có dũng khí bước vào hoạt động cộng đồng và hành nghề luật ở Chicago.
Tai ương lắm lúc tựa như con dao sắc, chém chặt vào những mảnh đời, để lại những vết đau khôn lường. Nó dai dẳng làm tấy máu, bầm dập, lâu ngày tưởng lành nhưng vết thẹo còn sót lại lặn vào trong một nỗi đau sẵn sàng mưng mủ lở loét bất cứ lúc nào.
Con hẻm nhỏ bé này cứ mãi là những câu chuyện nối dài của những mảnh đời nghiệt ngã, nó khắc đậm một vết khắc của làng quê Việt Nam vốn dĩ hiền hòa chân chất, chân lấm tay bùn, chật vật ngoi lên giữa biển đời đầy giông bão luôn ập xuống.
Ngước mặt nhìn lên những tòa nhà cao ngất nơi phố thị để tận hưởng một chút phồn vinh rồi nhìn nhanh lại những mảnh đời rã nát nơi đây, lòng mênh mang từng sợi cảm xúc, có cái gì đó như thắt chặt, như đau nhói tận sâu thẳm con tim, nơi chất chứa những rung động, nơi khơi nguồn những xúc cảm để cùng chia sẻ với cuộc đời.
Bước chân chiều lòng vòng dẫn tôi ghé thăm nhà anh Trần Văn Quỳnh và chị Phạm Thị Bảy cùng sinh năm 1956, tại ấp Ba Rinh, xã Đại Hải, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Anh Quỳnh và Chị Bảy trước đây là một gia đình nông dân chí thú làm ăn. Ngoài việc canh tác 6 công ruộng, chị Bảy còn hàng ngày chịu thương chịu khó, thức khuya dậy sớm, ngồi chợ để kiếm thêm đồng rau đồng cá bổ sung thêm cho bữa ăn gia đình. Anh chị sinh được 5 người con, 3 trai, 2 gái. Con cái anh chị do được thừa hưởng gien di truyền chăm chỉ làm ăn của anh chị, nên từ nhỏ đã biết cật lực làm việc. Con cái lớn, anh chị vui với niềm vui dựng vợ gả chồng cho con, cho con ra riêng, cơ ngơi lập nghiệp.
Chỉ còn duy nhất đứa con trai út, em Trần Thanh Dũng, sinh năm 1990. Học xong lớp 9 do cảm nỗi vất vả của cha mẹ già, cha em bị tai biến nhẹ nên không thể lao động, mẹ nặng vai gánh gồng, em đã xin phép cha mẹ cho nghỉ học và xin lên Sàigòn tìm việc làm và đã được nhận vào làm tại Công Ty TNHH Lốp Kumho Việt Nam.
Niềm vui chưa tròn trịa, buổi sáng định mệnh ngày 15.12.2009 tai nạn ập xuống đời em khi đang trên đường từ nơi trọ đến công ty. Chị Bảy kể chuyện, đôi mắt như còn cô đọng lại vẻ thất thần, nhìn sâu vào đôi mắt người phụ nữ ấy tôi như sờ mó được những vết chém ngang dọc cuộc đời chị, để rồi hằn cộm lên vết đau. Tin dữ báo về con bị tai nạn xe, chị quơ vội nắm tiền chắt chiu, chân ướt chân ráo ngơ ngác lên bệnh viện tìm con. Tim chị co thắt lại khi nhìn con bất động cộng với lời khuyên của bác sĩ nên đưa con về. Chị gào khóc van xin các bác sĩ cứu con chị. Cảm thương với tấm lòng bao la như biển cả của người mẹ như chị.
Bác sĩ đã mời chị vào ký giấy cam kết vì tình trạng nguy cấp của con chị. Theo chẩn đoán máu tụ ngoài màng cứng trán đỉnh phải. Mười phần chết chín chỉ còn may mắn một phần. Giọng điệu chất phác chị kể: “Bác sĩ nói tui ký giấy, có gì chịu trách nhiệm. Còn nước còn tát. Còn 1% cũng cố gắng. Rồi người ta bóp bong bóng ba ngày ba đêm, con tui từ từ thở được…”
Hai mươi lăm ngày con chị nằm ở tầng 2 nhà thương Chợ Rẫy là khoảng thời gian đau khổ nhất trong cuộc đời chị, sinh mạng con chị như ngàn cân treo sợi tóc. Bao nhiêu tiền dành dụm phút chốc tan biến nhanh, bao nhiêu món đồ quí giá trong nhà lần lượt chia tay gia đình chị. Tình nghĩa máu mủ các con chị trút hết những giọt máu cuối cùng có thể được để san sẻ cho em mình. Sau 25 ngày em được chuyển sang Quận 8, ba tháng ở Quận 8, mỗi ngày ít nhất phải chi năm triệu tiền thuốc, cơm thì chị xin của hội từ thiện.
Một số tiền quá lớn, họ hàng rồi cũng chỉ biết ngồi nhìn mà ngậm ngùi. Anh chị bán dần 6 công ruộng, rồi bán luôn căn nhà hai trăm rưỡi triệu, cũng không thấm vào đâu. Con trai thứ của chị vì thương em cũng bán luôn căn nhà 150 triệu để phụ lo cho em. Cả nhà về tá túc ở ngôi nhà của bà nội. Bốn năm nay anh chị phải chuyển con từ bệnh viện này sang bệnh viện khác, cho đến bây giờ phế quản vẫn chưa đóng lại được.
Ngôi chợ chồm hổm buổi sáng cảm thương với gia đình chị, người chia sẻ bó rau, người cho miếng xương heo, người cho con cá giúp em Dũng. Thương vì em là đứa con có hiếu, biết nghĩ cho cha mẹ, thương vì chị phải gánh nỗi đau quá lớn. Nhà cửa tiêu tan, bốn năm nay chị kề cận chăm sóc Dũng, không làm gì ra tiền, gia đình lùi dần vào con đường bế tắc. Em Dũng còn đang chờ đợi để đương đầu với một cuộc phẫu thuật rút ống thông thanh quản ra. Đôi mắt chị xa xăm tìm kiếm một điều gì đó trong vô vọng…
Nhìn cách em Dũng bắt đầu bình phục, nghe hiểu rồi viết được tên mình, ai cũng vui mừng. Nhìn sâu trong mắt chị Bảy ai cũng đọc được sự hy sinh cao cả, tình mẫu tử thiêng liêng. Còn anh Quỳnh thì lặng lẽ âm trầm với nỗi đau quá lớn của gia đình. Anh thở dài vì anh cũng đang bệnh, mọi thứ chất hết lên vai chị. Các anh chị em Dũng thì cố sức làm việc, bên cạnh cái gánh gia đình còn cái gánh ruột thịt không bỏ vào đâu được. Sức nặng đang đè nặng trên vai mọi người, không ai nói với ai, nhưng tất cả đều cảm nhận từ nhịp đập con tim.
Tôi đưa tay bắt lấy tay Dũng hỏi em có muốn ngồi trên xe lăn tôi đẩy em ra khỏi con hẻm này cho vui không ? Em gật đầu vui vẻ, nhưng ngồi trên xe lăn đôi chân em run lên bần bật, em bấu chặt tay tôi. Chắc có lẽ tai nạn khủng khiếp vẫn còn ám ảnh trong em, nỗi sợ hãi run lên theo từng vòng bánh xe lăn. Tự dưng giọt nước mắt tôi rớt xuống, lòng tôi lại dậy lên niềm khao khát, không phải chỉ đẩy em ra khỏi con hẻm này để tìm nguồn vui mà luôn cầu mong mọi người hãy chung tay đẩy gia đình em thoát khỏi cơn khốn khó. Hãy cùng nhau dùng tình thương xoa dịu nỗi đau, tìm lại cho em nụ cười và tiếng nói trong trẻo. Hãy san sẻ với một người mẹ vì trái tim bà vẫn sáng như một kỳ quan của thế giới.
Chia tay gia đình anh chị Bảy, con hẻm nhỏ khuất sau lưng tôi nhưng hình ảnh thương tâm của em Dũng và ánh mắt sâu thẳm của anh Quỳnh và chị Bảy theo tôi, như thúc giục tôi hãy cố gắng làm một điều gì đó, ít ra là hãy đưa vào em vào thế giới yêu thương của mọi người. Để tình thương của mọi người đấp ấm làm lành vết chém mà cuộc đời vô tình đã đánh trúng vào gia đình em.
Cuộc sống nhiễu nhương không biết bao nhiêu là ngã rẽ, vậy đâu chính là con đường để nhân loại thủ đắc được cuộc sống hạnh phúc đích thực ? Ai cũng muốn hạnh phúc, muốn được tồn tại cách an toàn nhất. Thế nên, người ta thao thức truy tìm cho mình con đường không phải quá vất vả đấu tranh, đối mặt với cơm áo gạo tiền. Thế nhưng, có lối mòn trần thế nào không vướng đầy bụi của vật chất, danh vọng, tiền tài. Càng lo cơm ăn áo mặc, người ta càng tranh giành chém giết lẫn nhau. Muốn mình chiến thắng, tất yếu kẻ bên cạnh thành chiến bại. Chỉ có một con đường duy nhất, có thể giải thoát nhân loại thoát khỏi cám dỗ của dục vọng, của tham sân si đó là đường thập giá.
Trớ trêu, trong khi nhân loại khóc than, oán trách cuộc đời đã không cho mình lối thoát để không bị bóng tối thế trần xâu xé chỉ bởi cơm áo, thì con đường Đức Giêsu vạch ra lại chẳng mấy ai theo. Cuộc sống trần thế này phức tạp thật đấy, nhiễu nhương thật đấy những cạm bẫy khiến con người khó có thể tìm được hạnh phúc đích thực, nhưng lại chẳng mấy ai muốn bước theo con đường thập giá, con đường phải từ bỏ chính mình để sống cho Thiên Chúa và tha nhân.
Có lẽ, ai trong chúng ta cũng có thể hiểu được nguyên nhân. Không nguyên nhân nào khác hơn ngoài nhu cầu chủ nghĩa cá nhân được đề cao đến mức tuyệt đối. Ai cũng muốn sống cho mình, và là chính mình. Ai có thể từ khước bản thân để chỉ có thể sống cho Thiên Chúa và tha nhân cách nhưng không được ?
Nói trúng hơn, nhân loại chẳng phải không muốn trở nên tốt lành, nhưng khổ nỗi, cái thực tế cuộc sống với những nhu cầu tối thiểu đã khiến cho thế giới bị điên đảo trong những vòng lẩn quẩn của mất niềm tin và phương hướng. Đời sống tâm linh thực sự quan trọng nhưng thực tế cuộc sống lại phũ phàng hơn rất nhiều. Cứ thế, cứ thế… nó cấu xé nhân loại, để rồi con người bị cuốn vào vóng xoáy của đam mê và tham vọng. Thiên Chúa còn bị lãng quên, nói gì đến chân lý mà Ngài muốn để đời cho nhân loại.
Giữa muôn vàn lựa chọn bởi lý tưởng cuộc sống, các tông đồ phân vân tự hỏi không biết mình nên đi đâu về đâu, không biết phải làm gì để sống, phải theo ai giữa cái thế giới xô bồ đầy vất vả truân chuyên này. Sự hiện diện của Đức Giêsu với đường lối và những giáo huấn của Ngài như một mở ngỏ dẫn các ông bước sang một thế giới khác. Sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Các ông tin rằng, khi theo Đức Giêsu, các ông sẽ tìm được nơi nương tựa vũng chắc cho cuộc sống đầy bấp bênh này: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo” ( Lc 9, 58 ). Nhưng Đức Giêsu đã trả lời rất chân thật: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng con người không có chỗ tựa đầu” ( Lc 9, 58 ). Mặc dầu đã khẳng định như vậy, nhưng Đức Giê su vẫn mời gọi: “Anh hãy theo tôi” ( Lc 9, 59 ).
Đức Giêsu đã mặc khải cho các môn đệ hiểu giá trị Nước Trời mà các ông đang muốn theo đuổi, giá trị ấy không tùy thuộc về bất kỳ điều gì trên thế gian này, nhưng chỉ đặt nền tảng trên sự tôn kính Thiên Chúa và yêu mến tha nhân. Nhân loại ai cũng ngỡ rằng theo Chúa sẽ được tất cả, cơm đủ no, áo đủ ấm, địa vị xã hội được cải thiện… thế nhưng tất cả mọi việc thuộc về thế gian này đều không quan trọng bằng việc loan báo triều đại Nước Thiên Chúa, tất cả đều không quan trọng bằng việc làm chứng cho thế giới này hiểu rằng Thiên Chúa chính là tất cả, quan trọng hơn tất cả.
Đường lối Thiên Chúa và nhân loại khác nhau xa quá. Trong khi con người ngày càng cố gắng xây đắp của cải vật chất và địa vị vững chắc, thì Đức Giêsu lại dẫn đưa họ đến một lối sống khác biệt, sự sống ấy hoàn toàn không được xây nên bằng của cải thế gian này nhưng bằng tình yêu và lòng mến. Tình yêu với Thiên Chúa và lòng mến đối với tha nhân. Sự đòi hỏi ấy dường như vượt quá khả năng nhân loại, để rồi người thì tiếc xót, kẻ thì níu kéo và những thái độ ấy đều bị Đức Giêsu khiển trách: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” ( Lc 9, 62 ).
Lạy Chúa, “đi theo Ngài”, cụm từ ấy với con trải qua bao năm rồi nhưng vẫn không hề thay đổi. Ở tận đáy lòng, khi nào con chỉ cũng muốn theo Chúa và bước đi với Ngài mà thôi. Vì chưng, ngoài con đường ấy, con còn biết đặt chân đến nơi nào khác hơn. Chỉ có điều, có những giai đoạn trong cuộc đời con đã phải dừng lại, rẽ ngang, rẽ dọc… Thế nhưng, cho dù con có đi đến đâu, cũng không đi ra khỏi cõi lòng, nơi có con đường đưa con đến gặp Ngài. Dẫu hiện tại có phải mang gánh nặng nề bởi kế sinh nhai, nhưng niềm tin vào tình thương của Thiên Chúa đã giúp con vượt qua mọi thử thách.
Xin giúp con luôn hiểu rằng cho dù cuộc sống có cam go đến đâu, cũng đừng từ bỏ “đường theo Người”, để mà can đảm buông tay gửi mọi phù hoa cho thế trần.
nguồn:vietcatholic.net Khi nghĩ về những hồng ân, người đời thường nghĩ về những điều phúc, điều lành, chứ không ai coi cái họa, cái xui là hồng ân cả. Tuy nhiên, câu thành ngữ : “tái ông thất mã, an tri họa phúc”, có nghĩa là “ông lão ở biên giới mất ngựa, biết đâu là họa hay là phúc” thì chứng tỏ phúc hay hoạ là do chúng ta thôi. Chuyện Tái Ông Mất Ngựa trong sách Hoài Nam Tử như thế này: Ông lão ở nước Hồ bị mất một con ngựa, tưởng là xui. Ai ngờ vài tháng sau, con ngựa kéo thêm cho ông con ngựa khác, tưởng là phúc. Có ngựa nên con trai ông cưỡi ngựa bị gãy chân, tưởng là hoạ. Bị gẫy chân nên con trai của ông được miễn đi lính, tưởng là phúc…. Cái vòng luẩn quẩn phúc và họa ấy sẽ chấm dứt khi con người chết.Chết là hết chuyện. Thật vậy đối với đời sống con người cái chết là kết thúc mọi chuyện. Dù khi sống người ấy có là ông này bà kia, có giàu sang phú quý, hay nghèo hèn thế nào thì chết cũng là hết. Bởi thế không bản án nào nặng bằng bản án tử hình, tức là cướp đi sự sống của một người. Nói một cách khác, sự sống là món quà quý nhất mà Thiên Chúa ban tặng cho con người. Chết quả là sự cay đắng cho những ai chỉ cậy dựa và muốn hưởng thụ thế gian này, nhưng chết đối với người tin Chúa thì lại là niềm hy vọng được trở về hưởng Tôn Nhan Thiên Chúa, Đấng đã tạo ra mình. Đối với đức tin Công Giáo, thì sống cũng là hồng ân mà chết cũng là hồng ân, nếu cái chết ấy được chuẩn bị chu đáo để sẵn sàng về hưởng Tôn Nhan Chúa. Thánh Phaolô quan niệm sự sống và sự chết của Ngài như thế này “Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi “. (Pl 1,21 Theo quan niệm nhân gian, thì điều gì mình thích thì gọi là phúc, điều gì mình không thích thì gọi là họa. Sống thọ, có sức khỏe tốt, được người ta kính trọng, được giàu có thì ta gọi là phúc (hên). Ngược lại chết chóc, bệnh tật, bị hiểu lầm, bị nghèo đói thì gọi là họa (xui). Cho nên trong các lời rao đầu lễ Chúa Nhật, tôi thường nghe thấy những lễ xin tạ ơn như được khỏi bệnh, được thăng chức, được thi đỗ, được có việc làm, được bằng an.. chẳng bao giờ tôi nghe thấy xin lễ tạ ơn vì đã bị bệnh, đã bị hiểu lầm, đã thất nghiệp, đã bị đau khổ… mà thực ra những điều chúng ta không thích cũng là hồng ân Chúa ban để giúp ta đến gần Chúa. Suy tư về điều phúc và họa, tôi giật mình khi thấy đã bao lần tôi cất tiếng trong nhà thờ đọc kinh ‘Tám Mối Phúc Thật” mà chẳng ý thức về những điều Hội Thánh dạy. Phúc thay người có tâm hồn nghèo khó, người hiền lành, người sầu khổ, người đói khát sự công chính, người từ tâm, người có tâm hồn trong sạch, người kiến tạo hòa bình, người bị bách hại vì sự công chính, người bị xỉ nhục, bị bắt bớ, bị nói xấu, bị đặt điều vì Danh Chúa. Tôi không biết có bao nhiều người hiện diện trong nhà thờ cầu mong những điều phúc này. Toàn là những điều mà thế gian gọi là tai họa, thế mà những người Công Giáo đích thực lại cho là có phúc? Cái phúc ở đây ,theo người tin Chúa, là những cơ hội dẫn đưa ta về với Chúa là hạnh phúc cùng đích của đời sống. Sống không phải chỉ là sống mà là chuẩn bị cho sự sống bất diệt sung mãn cùng với Chúa Yêu Thương trong nước của Người. Lần tìm trong Sách Giáo Lý Công Giáo, tôi được hiểu thêm: “Những phúc thật này vẽ lên khuôn mặt Chúa Kitô và mô tả đức bác ái của Người. ..Các phúc thật là những lời hứa nghịch lý để nâng đỡ niềm hy vọng trong những lúc gian truân, loan báo nhưng phúc lành và những phần thưởng mà các môn đệ của Chúa đã âm thầm đạt được.” (GLCG, câu 1717) Người đời cho rằng trúng xổ số là có phúc, vậy mà theo báo Houston, ông Bille đã tự tử vì những đồng tiền từ trên trời rớt xuống ấy. Phóng viên Steve viết trong báo Houston rằng: ông Bille Bod Harrel Jr đã trúng 31 triệu dollars độc đắc bang Texas. Lúc đầu mọi sự đều tuyệt vời…Ông dùng tiền mua nhà, xe, làm từ thiện. Ông có thêm rất nhiều bạn… nhưng chỉ 20 tháng sau, gia đình ông tan tác, ông bị vỡ nợ và đã tự tử. (From A Treasury of Terribly sad Stories of Lotto Winners) Có ai khổ cực trăm bề bằng những người Công Giáo bị bắt đạo thời xa xưa. Họ bị hành hạ thể xác, hành hạ về tinh thần và phải chịu chết một cách dã man. Thế mà đối với chúng ta, các Ngài đã được phúc tử đạo. Tôi đã nghe và rất thích bài hát “ Tất Cả Là Hồng Ân”, tác giả cho rằng có những biến cố chúng ta cho là phúc, có những điều khác chúng ta cho là họa thì đối với Thiên Chúa Tất Cả Là Hồng Ân. Những phúc/họa này có mục đích hướng chúng ta nhận biết sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời mình và giúp chúng ta yêu mến Chúa nhiều hơn, giúp chúng ta đạt được mục đích đầu tiên khi được sinh ra trong cõi đời này là “ thờ phượng và yêu mến Chúa”. Như thế trong đời sống đức tin Công Giáo không có gì là họa, mà tất cả là hồng ân. Chúng ta phải cảm tạ Chúa về mọi hồng ân Chúa ban cho mình. Một bài thánh ca khác “ Khúc Ca Tạ Ơn”, tác giả cho rằng cuộc đời chúng ta được dệt bằng những niềm vui hân hoan hoà lẫn với những nỗi buồn da diết, những phút cười vui an bình pha lẫn những thử thách, long đong. Tất cả dệt thành Khúc Ca Tạ Ơn. Nếu đời của chúng ta găp toàn chuyện may lành, thì chúng ta không biết giá trị của đau khổ, ngược lại nếu đời toàn là đắng cay thì cuộc sống chưa trọn vẹn. Một bức tranh đẹp do người hoạ sĩ tài ba là Chúa Giêsu vẽ lên cho đời ta phải điểm muôn màu muôn sắc. Tạ ơn Chúa vì chính Ngài đã dùng những nét chấm phá phúc-họa để vẽ lên con giống Chúa hơn. Chúa đã dẫn tôi qua mọi biến cố của cuộc đời. Chúa đã cho tôi được gia nhập đạo Thánh Chúa khi vừa chào đời, Chúa đồng hành với tôi qua những tháng ngày tăm tối trong trại cải tạo, Chúa vui với tôi qua những tháng ngày bơ vơ nơi xứ người và Chúa nâng đỡ, kề cận tôi trong lúc tuổi già. Tôi đã phó thác trong tin tưởng để bước đi theo Chúa. Con đường quanh co, lúc thì phúc, lúc thì họa là con đường “Thánh Ý Chúa”. Lạy Chúa, con đường phúc-hoạ nào Chúa đã đi qua, xin cho con được bước đi theo Ngài. Xin dạy con nhận ra sự hiện diện và hướng dẫn của Chúa qua những biến cố trong đời con. Xin cho con biết chấp nhận để kiên trì vác thánh giá theo chân Chúa suốt đời con vì có Chúa thì “ Tất Cả Là Hồng Ân “. Amen. Giuse Thẩm Nguyễn
(Bài viết cũ, có bổ sung, vào ngày 27.6.2013, bằng tài liệu về Kỳ Công của Đấng Tạo Hóa.)
I- Lời dẫn nhập:
Có ”kẻ” cho rằng con người LÀM nên tất cả, chẳng hạn: vô số ”nhà LÀM RA Khoa Học” đáng được cả thế giới khâm phục!!! Tôi bèn hỏi: ”Vậy AI LÀM RA vũ trụ?” Và đây là câu trả lời của lắm người KHÔNG tin có Thượng Đế: ”Đó là DO TỰ NHIÊN!” Tôi liền nói: ”Chữ ”tự” có nghĩa là MÌNH, TỰ MÌNH; chữ ”nhiên” có nghĩa là NHƯ VẬY. Cả hai chữ ấy có nghĩa: KHÔNG DO sức người LÀM RA! Mà có MUỐN LÀM chăng nữa, con người cũng CHỊU THUA!!! Thua AI, ông biết không? Thua ĐẤNG LÀM ĐƯỢC. Đấng ấy xưng MÌNH là TA như trong Kinh Thánh vì Ngài TỰ MÌNH phán THÌ có vũ trụ. Ngoài ra, chữ TỰ NHIÊN đồng nghĩa với THIÊN NHIÊN. Mà THIÊN là TRỜI!!! Như vậy, THIÊN NHIÊN có nghĩa là DO TRỜI LÀM RA! (Xin xem từ điển của Cao Đài.) Chữ ”tự nhiên; thiên nhiên” (nature; Natur”) là do từ Latinh: NATURA, có nghĩa: ĐƯỢC SINH RA: BE BORN!!!
Cho nên, thật là VÔ LÝ và BẤT CÔNG, BẤT CHÍNH, VÔ ƠN khi con người ”mở miệng” CA TỤNG hết lời ông A ”CHẾ RA” đủ loại máy móc, nhưng QUÊN rằng kim loại (mà ông ấy sử dụng) là DO TRỜI LÀM RA, tức THIÊN NHIÊN như đã định nghĩa.
Nhắm giúp ”nhân-vô-tri-bất-mộ” được sáng mắt, sáng lòng, tôi xin giới thiệu, ở cuối bài viết, Video ”Birds of Paradise; Winged Seduction Birds Of Paradise ” là phần trích từ bộ phim dài mà ”thiên hạ” (40 cameramen: người quay phim) phải bỏ ra hết 3000 ngày, tới 200 địa điểm trên khắp thế giới để khám phá Quyền Năng của Đấng Tạo Hóa. Ngoài ra, còn có Truyền Hình của Việt Nam (VTV2) giới thiệu con người HỮU HẠN đi TÌM HIỂU về THIÊN CƠ (thang máy) DO Ông TRỜI làm ra.
II- BÀI VIẾT:
Những người vẫn ”khư khư chủ trương KHÔNG CÓ Thượng Đế” sẽ CHẲNG bao giờ chứng minh được rằng ”không có Ngài” CHO DÙ họ dựa vào những phát minh mới về Khoa Học! Tại sao vậy?
Bởi vì ”Khoa Học” (1) KHÔNG PHẢI DO con người LÀM RA. Ví dụ: Sức đẩy của nước (định luật Archimède) KHÔNG DO ông ấy ”sáng chế” VÌ nó ĐÃ CÓ từ thuở ”TẠO THIÊN, LẬP ĐỊA”! Càng ”khám phá” phần nào đó ”Khoa Học CỦA ĐẤNG Tạo Hóa” (The Science OF The Creator) qua vũ trụ, con người, BỊ ”giới giạn bởi thời gian và không gian”, vẫn THẤY mình quá NHỎ BÉ và còn ”DỐT” trước ”Tri Thức CỦA Kiến Trúc Sư Tuyệt Đối” LÀM RA ”thiên cơ” (then máy của Trời) mà mình KHÔNG tài nào HIỂU THẤU được hết.
Ban đầu, đào đất, tôi tạo được một cái lỗ nhỏ. Càng đào đất ngày nầy qua ngày nọ, tôi KHÔNG còn thấy cái lỗ, mà quanh mình lại là một ”cái hố” rất rộng. Trong Lĩnh vực Khoa Học, cũng thế! Với ”viễn vọng kính” hiện đại, tối tân, sự hiểu biết CỦA con người (VỀ vũ trụ) CHỈ LÀ một phần ”tri thức” QUÁ NHỎ nên nhiều nhà nghiên cứu Khoa Học phải khẳng định rằng ”vũ trụ bao la, không cùng” là điều chứng minh CÓ ”Đấng Lạ Lùng” chế ra thiên cơ. Xin đơn cử trường hợp như sau:
Ngoài mặt trời, ngôi sao ”gần chúng ta nhất” được gọi là ”Proxima” nằm trong ”chòm Alpha Nhân Mã” (Alpha du Centaure), CÁCH chúng ta chừng 41 NGÀN TỶ cây số!!! Các nhà thiên văn phải ”tính gọn” khoảng cách ấy bằng NĂM-ÁNH-SÁNG (l’année lumière)! Mà vận tốc của ánh sáng trong mỗi giây là 300 NGÀN cây số! Vậy, trong một năm, ánh sáng đi được là 9,5 NGÀN TỶ cây số. Muốn ”bay” nhanh BẰNG ánh sáng để lên tới sao Proxima, tôi phải mất 4 năm và 3 tháng!!!
Quả Đất là hành tinh trong thái dương hệ (solar system) gồm có: Mercure, Venus, Terre, Mars, Jupiter, Saturne, Uranus (được khám phá năm 1781), Neptune (năm 1846) et Pluton (năm 1930). Thái dương hệ lại nằm trong ”Giải Ngân Hà” (Voie Lactée / Milky Way / Galaxy) có chừng 200 TỶ (200.000.000.000) ngôi sao! Các nhà thiên văn CHỈ mới khám phá được chừng 100 tỷ Ngân Hà trong một phần ”nhỏ” của vũ trụ bao la! Cho nên ”chiêm tinh gia” nọ phát biểu và đặt câu hỏi như sau: ”Mới khám phá NGẦN ẤY về vũ trụ bằng viễn vọng kính TƯƠNG ĐỐI, mà tôi đã CHÓNG MẶT. Vậy, nên thư giãn tí xíu bằng cách tính kích thước ngắm được, thật KINH HOÀNG của Vũ Trụ, theo tỷ lệ KHIÊM TỐN của loài người! Phải chăng số NGÂN HÀ trong Vũ Trụ NHIỀU HƠN CÁT trên Địa Cầu?”
Big Bang (Sự Bùng Nổ Lớn: Gigantesque Explosion) KHÔNG phải là chân lý (2), mà CHỈ là giả thuyết thuần túy siêu hình (une pure hypothèse métaphysique) bắt NGUỒN từ Cựu Ước nói về việc Sáng Thế từ HƯ VÔ (La création ex nihilo: Creation out of nothing) DO Quyền Năng của Thiên Chúa. CHẲNG chứng minh được rằng ”không có Thượng Đế”, còn DÈ DẶT vì lý do này, lý do kia, một số nhà nghiên cứu Khoa Học BÈN phát biểu: ”Do KHÔNG thể thấy Vũ Trụ ra sao trước Big Bang, chúng ta cũng CHẲNG biết được điều gì trong giai đoạn ẤY. Nhưng một số lý thuyết cho rằng có thể Vũ Trụ của chúng ta ‘chào đời giữa lòng Vũ Trụ khác’ ĐÃ CÓ TRƯỚC (préexistant).”
Như vậy, xét cho cùng, khái niệm ”Vũ Trụ Đà CÓ TRƯỚC” không phải là thiên cơ hữu hình, MÀ LÀ ”Đấng Vô Hình, Toàn Năng, Tuyệt Đối, Toàn Tri, Toàn Hảo…” Ngài có TRƯỚC thời gian và không gian, TỨC Đấng Tự Hữu (The Self-Existing) CHÍNH LÀ Thượng Đế. Cựu Ước nói ngắn gọn về việc Ngài khởi sự TẠO DỰNG vũ trụ như sau:
”BAN ĐẦU, Thiên Chúa SÁNG TẠO trời và đất. Ðất còn trống không, mông quạnh, bóng tối bao trùm vực thẳm, và Thần Khí Thiên Chúa là là trên mặt nước. Và Thiên Chúa PHÁN: “Hãy có ánh sáng.” Và có ánh sáng. Và Thiên Chúa thấy rằng ánh sáng tốt đẹp và Thiên Chúa phân tách ánh sáng ra khỏi bóng tối. Và Thiên Chúa gọi ánh sáng là ngày, bóng tối là đêm. Đã có buổi chiều và buổi sáng: ngày thứ nhất.” (Sáng Thế Ký 1,1-5)
Gottfried Wilhelm Leibniz, nhà Toán Học, Triết Gia Đức, phát biểu: ”Thượng Đế tính toán, sử dụng ý tưởng của Ngài, cho nên thế giới đã được tạo thành. Trước hết mọi sự, Thượng Đế là VỊ tính toán vĩ đại, Nhà luận lý VĨNH HẰNG.” (Dieu calcule, il exerce sa pensée, et le monde est créé. Dieu est avant tout le grand Calculateur et l’éternel Logicien.)
Ông ta còn nói: ”KHÔNG có gì CHẲNG có gì mà KHÔNG có lý do.” (Rien n’a rien sans raison.) Câu ấy phải được hiểu như thế này: Mọi sự đều CÓ nguyên nhân. Nhưng Thiên Chúa KHÔNG phải là ”sự, cái gì” VÌ Ngài là Nguyên Nhân CỦA mọi sự, mọi loài, TỨC Đầu Hết, LÀ Alpha bởi vì, trước chữ Alpha của mẫu tự Hy-lạp, KHÔNG CÓ chữ nào cả!
”Tên đao phủ” Saulô đi lùng người tôn thờ Chúa Giêsu, đã được Ngài cho mù mắt để sáng lại, trở thành ‘‘Thánh Phaolô” đã cảnh cáo hạng người TƯỞNG mình là trí thức, nhưng vẫn MÊ MUỘI như sau: ”VÌ những gì thiên hạ có thể BIẾT về Thiên Chúa thì đã được mạc khải CHO HỌ. Từ thuở tạo thành vũ trụ, những việc tốt lành của Ngài mà mắt người đời không thấy được, TỨC là Quyền Năng vĩnh cữu và Thần Tính của Ngài. DO ĐÓ, họ VÔ phương chạy tội. VÌ đã BIẾT Thiên Chúa, NHƯNG họ KHÔNG tôn vinh Ngài là Thiên Chúa và cảm tạ Ngài. Trái lại, họ suy luận LẦM LẠC và tâm trí ngu si của họ trở thành TỐI TĂM. Họ tự KHOE là khôn ngoan, NHƯNG đã trở nên điên rồ.” (Roma 1,19-22)
Thật vậy, NHÌN cái ”máy vũ trụ” QUÁ LẠ LÙNG, vượt sức tưởng tượng của mình LÀ thọ tạo HỮU HẠN, ai CÒN ngoan cố, CÒN tự cao và CÒN KHÔNG TIN có Thượng Đế THÌ người ấy CŨNG nên làm kẻ ”điên rồ” bằng CÁCH lý luận rằng chiếc đồng hồ đeo tay chẳng có người nào làm ra!!!
Đaminh Phan văn Phước
Đức Quốc, 27 và 28.5.2012, Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, ban Ơn cho Kitô hữu mạnh dạn tuyên xưng Đức Tin.
Ghi chú:
1. Chữ ”science” là cách biến âm của từ Latinh ”scientia” vốn là danh từ của động từ ”scire”: savoir; know; biết! Có bản dịch dùng chữ ấy trong thành ngữ ”l’arbre de la science du bien et du mal”: cây biết điều lành và sự dữ. Như vậy, chữ ”science” đồng nghĩa với ”connaissance; knowledge”. Cây ẤY ở Vườn Eden LÀM biểu tượng NHẮC Adam-Eva nhớ tới Lời của Thượng Đế LÀ Đấng Toàn Tri. (L’OMNISCIENT) ”Cây” gậy của Mosê đập đá để lấy nước nuôi Dân Chúa khỏi chết khát trong sa mạc. Vì Adam-Eva muốn được BẰNG CHÚA, ”Cây” Vườn Eden đã biến loài người trở thành nô lệ của Satan! Nhưng ”CÂY” Thập Giá giúp loài người đè đầu NÓ!!!
2. Bài khác sẽ nói về Big Bang.
Đức Quốc, 27 và 28.5.2012, Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, ban Ơn cho Kitô hữu mạnh dạn tuyên xưng Đức Tin.