Những Người Không Chịu Lùi Bước Trước Nghịch Cảnh

Những Người Không Chịu Lùi Bước Trước Nghịch Cảnh

Tác giả : Đoàn Thanh Liêm

Hồi đầu tháng 8 mới đây, tôi được nhà báo Thanh Thương Hoàng dẫn đi tham dự một buổi trình diễn văn nghệ thật là đặc sắc diễn ra tại Trung tâm Hội Nghị của thành phố Santa Clara gần với San Jose. Các nghệ sĩ trình diễn đều là những người khuyết tật, người thì cụt hết cả cánh tay mặt như nhạc sĩ Thế Vinh, người thì bị mù lòa như nhạc sĩ Hà Chương, người thì bị câm ngọng hồi còn nhỏ như ca sĩ Thủy Tiên v.v… Cử tọa hôm đó gồm đến 600 người ngồi chật kín cả cái sảnh đường được trang trí như là một rạp hát và mọi người đều nhiều lần đứng lên vỗ tay tán thưởng các mục trình diễn cùa những nghệ sĩ khuyết tật – vừa có người mới từ trong nước qua, vừa có người đã định cư lâu năm tại Mỹ.

I – Từ chương trình văn nghệ “Ngọc Trong Tim” của Việt Nam đến các cuộc thi đua thể thao “Special Olympics” của Mỹ.

Buổi trình diễn văn nghệ nói trên là một trong những tiết mục sinh họat được tổ chức lưu động tại nhiều địa điểm trên thế giới, nơi có đông bà con người Việt sinh sống. Chương trình này nhằm giới thiệu tài năng và cố gắng luyện tập hết sức công phu bền bỉ của những người khuyết tật hầu đạt tới trình độ cao về nghệ thuật sáng tác và trình diễn âm nhạc cũng như trong một số bộ môn khác. Chương trình có tên gọi là “Ngọc Trong Tim” ngụ ý diễn tả cái kho tàng quý báu vẫn còn chứa chất trong trái tim con người – cụ thể như tấm lòng trắc ẩn cảm thông trước nỗi khổ đau của người khác – mà đặc biệt là sự quan tâm chăm sóc đến sự phát triển tài năng của lớp người bị thua thiệt do số phận ngặt nghèo của tật nguyền gây ra. Điển hình là Trung tâm Hướng Dương do nhạc sĩ Thế Vinh thiết lập ở Bình Dương để giúp nơi ăn chốn ở và hướng dẫn việc học tập cho các em khuyết tật.

Chương trình “Ngọc Trong Tim” này làm chúng ta nhớ đến tổ chức “Special Olympics” (Thế vận hội Đặc biệt) dành riêng cho người khuyết tật tham gia thi đua tranh tài về thể thao tại nhiều thành phố trên đất Mỹ. Chương trình này xuất phát là nhờ ở sáng kiến vận động và tổ chức khôn khéo của bà Eunice Kennedy Shriver (1921 – 2009) là người em gái của Tổng Thồng Kennedy – mà cũng là phu nhân của ông Sargent Shriver người lãnh đạo tài ba tiên khởi của chương trình Peace Corps nổi tiếng của chính phủ Mỹ bắt đầu từ năm 1961. Khỡi sự từ năm 1968 – các cuộc tranh tài Special Olympics này đã được nâng lên tầm mức quốc gia không những tại nước Mỹ, mà còn được nhiều nơi trên thế giới mô phỏng theo nữa. Và hiện nay thì các người con của ông bà Shriver cũng đang tiếp nối góp phần vào việc điều hành chương trình này.

Cố gắng vượt qua sự hạn chế của tật nguyền do các nghệ sĩ cũng như các vận động viên thể thao nói trên mà thực hiện được – thì rõ rệt đã làm cho chúng ta nhớ lại nhận xét thật sâu sắc của cụ Nguyễn Du qua câu thơ trong Truyện Kiều, đó là:

Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều.
II – Chuyện về một số người “bất chấp bệnh tật”.

Trên đây là một số chương trình có tầm vóc lớn dành riêng cho số đông người khuyết tật có thể tham gia trong lãnh vực văn nghệ cũng như thể thao. Nhưng trong đời sống thường ngày của các cá nhân, ta vẫn thấy có rất nhiều người đã có những cố gắng bền bỉ phi thường để vượt qua được những nghịch cảnh trớ trêu của số phận – mà tôi xin ghi lại dưới đây một số trường hợp của những người trong số thân quen gần gũi với mình.

Trong số những bạn hữu tôi quen biết, thì cũng có khá nhiều người có ý chí vươn lên để vượt qua được nghịch cảnh do tuổi già hay do tật bệnh gây ra. Bài viết này xin được ghi lại một số chuyện “người thật, việc thật” của vài ba người mà tôi được biết từ bấy lâu nay. Và để công chúng được biết thêm về các chuyện đáng chú ý này, tôi xin các bạn được nói đến trong bài cho phép tôi được tiết lộ đôi chút trong cuộc sống riêng tư của mỗi người. Xin được ghi trước ở đây lời cảm ơn chân thành đến các bạn.

1 – Tác giả Nguyễn Công Luận vẫn không ngừng công việc nghiên cứu biên khảo, dù đã đau bệnh từ 25 năm nay.

Sau khi đi tù “cải tạo” về nhà ít lâu, thì Thiếu tá Nguyễn Công Luận mắc chứng bệnh Parkinson run rảy chân tay, đi đứng khó khăn. Nhưng anh vẫn kiên trì nhẫn nại theo đuổi công việc nghiên cứu sáng tác của mình – nhất là từ khi qua định cư ở bên Mỹ anh được tự do viết lách và phổ biến công trình biên sọan của mình. Anh được mời làm Phụ tá Chủ biên (Associate Editor) cho bộ sách dày 1,200 trang có tên là “The Encyclopedia of the Vietnam War” (Bách khoa Tòan thư về cuộc chiến tranh Việt nam) xuất bản năm 1998 – trong đó anh đã tham gia viết đến cả chục bài.

Và đặc biệt là cuốn Hồi ký do anh Luận viết trực tiếp bằng Anh ngữ trên 600 trang do nhà xuất bản Đại học Indiana ấn hành năm 2012. Cuốn sách này đã được nhiều người Mỹ vốn am hiểu tình hình Việt nam và nhất là các sĩ quan cao cấp trong Quận đội Mỹ ca ngợi nhiệt tình. Về phía người Việt, thì đã có nhà văn Mặc Giao ở Canada và cả tôi cũng đã viết bài giới thiệu cuốn Hồi ký này với độc giả trước đây nữa. Tác giả Nguyễn Công Luận sẽ giới thiệu cuốn Hồi ký nhan đề “ Nationalist in the Vietnam Wars ” này với công chúng tại San Jose vào đầu tháng 10 năm 2013 sắp tới.

2 – Nhà báo Trương Gia Vy vẫn lo điều hành tuần báo Viet Tribune và còn tham gia công tác từ thiện nhân đạo, dù bị bệnh tật ngặt nghèo.

Từ nhiều năm nay, dù bị bệnh phải thay lọc máu mỗi ngày, mà nhà báo Trương Gia Vy vẫn sát cánh cùng với phu quân là nhà văn Nguyễn Xuân Hòang trong việc điều hành tờ báo Viet Tribune ở San Jose. Vào đầu tháng 8 mới đây, khi được tin anh Hòang bị đau nặng, tôi đã tìm cách đến thăm anh chị tại nhà riêng ở thành phố Milpitas – thì tôi thấy anh Hòang tuy đau yếu gày còm, nhưng vẫn còn bình tĩnh tỉnh táo và chuyện trò vui vẻ với bạn hữu đến thăm. Thế nhưng anh cho biết hiện lúc đó là vào 10 giờ sáng ngày thứ Bảy mà bà xã Gia Vy vẫn còn đang phải lo việc lọc máu mỗi ngày.

Ấy thế mà vào chiều ngày Chủ nhật hôm sau, tôi lại thấy Gia Vy có mặt tham gia với Ban Tổ chức chương trình “Ngọc Trong Tim” tại Santa Clara Convention Center như đã ghi ở trên. Nhà báo Thanh Thương Hòang – là người đã từng sinh sống nhiều năm ở San Jose – cho tôi biết: “Trương Gia Vy là người phụ nữ rất năng nổ tích cực trong công tác từ thiện nhân đạo – mặc dầu chị bị bệnh tật lâu ngày và lại rất bận rộn trong việc điều hành tờ báo. Mà nay lại còn phải lo chăm sóc cho ông xã cũng đang bị chứng bệnh nan y nữa. Đó quả thật là một con người có ý chí nhẫn nại và tấm lòng nhân ái – đáng ca ngợi trong cộng đồng người Việt tại khu vực miền Bắc California này…”

3 – Họa sĩ Trần Bản Anh đến khi về hưu ở tuổi 70 mới ghi tên đi học vẽ.

Chị Bản Anh theo học ban Trung học tại trường Quốc Học ở Huế từ cuối thập niên 1940 qua đầu những năm 1950. Sau khi lập gia đình, chị đi làm nhiều năm tại Bộ Kinh tế ở Saigon. Qua Mỹ đầu năm 1990 với diện HO theo ông xã là anh Dương Công Liêm trước 1975 là Đại tá ở Cục Công Binh. Anh chị vẫn tiếp tục đi làm ở thành phố Los Angeles và sau năm 2000 mới về nghỉ hưu và hiện định cư ở San Jose.

Chừng 7 – 8 năm nay, chị Bản Anh mới đi theo học về hội họa theo lối Tàu với một giáo sư người Trung quốc. Nhận thấy chị có năng khiếu đặc biệt, nên ông thày ra sức khuyến khích và tận tâm chỉ dẫn cho chị. Và từ vài ba năm gần đây một số bức tranh của chị đã được ông thày tuyển chọn để gửi đi triển lãm ở bên Đài Loan. Kết quả là họa sĩ Bản Anh của chúng tôi đã mấy lần nhận được bằng khen của Ban Tổ chức cuộc triển lãm cũng như của chánh quyền của một thành phố bên đó.

Vốn tính khiêm tốn, chị không để cho giới nhà báo phỏng vấn để viết bài ca ngợi thành công của một họa sĩ nghiệp dư ở lứa tuổi đã cao. Mà chị chỉ để cho các bạn hữu thân thiết đến thưởng thức tác phẩm hội họa của mình tại nhà trong chỗ riêng tư, âm thầm kín đáo mà thôi. Vì thế, mặc dầu là chỗ quen biết gần gũi với anh chị đã lâu, tôi cũng chưa được chị gửi cho ảnh chụp bức tranh nào của chị để mà giới thiệu với công chúng bạn đọc được.

III – Chính khí ngất trời của Tổng Đốc Hoàng Diệu (1828 – 1882).

Lịch sử nước ta đã ghi lại rất nhiều tấm gương đẹp đẽ tuyệt vời của những vị anh hùng lẫm liệt đã hy sinh xả thân mình trong cuộc tranh đấu bảo vệ đất nước trước sự xâm lăng của ngọai bang. Một trong những vị anh hùng đó là Tổng Đốc Hòang Diệu – ông đã tự kết liễu đời mình khi quân Pháp xâm lược đánh chiếm được thành Hanoi do ông trấn giữ vào năm 1882. Ông đã tuẫn tiết bằng cách tự treo cổ mình trên một cành cây – để tránh không cho quân giặc bắt được vị chỉ huy pháo đài thành lũy.

Vì thế mà sau này trong dân gian nhiều nơi bà con ta vẫn truyền tụng bài thơ “Hà Thành Chính Khí Ca”- để ca ngợi tấm gương tiết tháo anh hùng của ông.

Chuyện của ông có chi tiết này mà chỉ gần đây tôi mới được biết đến – đó là do một hậu duệ của cụ Phạm Phú Thứ thuật lại. Xin lược ghi lại như sau:

Khi được triều Huế cử ra nhậm chức Tổng Đốc Hà Thành ngòai miền Bắc, cụ Hoàng Diệu đã đến thăm và vấn kế bậc đàn anh và cũng là người đồng hương từ đất Quảng Nam với mình: đó là cụ Phạm Phú Thứ người đã cùng với cụ Phan Thanh Giản đi sứ qua Pháp vào năm 1864 để bàn thảo chuyện thương thảo ngọai giao giữa hai nước Việt và Pháp sau khi quân Pháp đánh chiếm đất Nam Kỳ vào năm 1860 – 61. Cụ Phạm lúc đó đã nghỉ hưu, nhưng cũng giúp cụ Hoàng bằng cách phân tích chi tiết về tương quan thế lực giữa bên Việt nam và bên phía quân Pháp. Cụ Phạm kết luận là nhiệm vụ của vị Tổng Đốc Hà Thành thật là nặng nề khó khăn lắm đấy.

Cuộc hội kiến giữa hai cụ Hòang và Phạm chấm dứt. Trước khi vị khách ra về, hai vị chủ và khách đều “LạyTạ nhau” lúc từ biệt. Xin ghi rõ là hai cụ Lạy Tạ nhau, chứ không phải là vái, là xá nhau theo như lối chào hỏi xã giao thường lệ. Vì lý do là cả hai cụ đều biết rõ là vị Tổng Đốc Hà Thành sẽ phải đi vào chỗ chết, vì không có cách nào mà chống trả nổi thế lực quá ư hùng hậu mạnh mẽ của quân Pháp. Và đó là cử chỉ bày tỏ sự Vĩnh biệt giữa hai người bạn thân thiết quý trọng lẫn nhau. Mà cũng đúng như lịch sử đã ghi lại rành rành là: “Tổng Đốc Hòang Diệu đã phải tuẫn tiết sau khi Hà Thành thất thủ về tay quân xâm lược – lúc ông mới có ngoài 50 tuổi.”

Thành ra cụ Hoàng Diệu, dù biết trước nỗi hiểm nguy của chức vụ trấn thủ thành Hanoi, thì cụ cũng không hề nhát gan khiếp nhược để mà thóai thác cái nhiệm vụ này. Mà trái lại cụ vẫn lên đường và sẵn sàng đi vào cõi chết để giữ vững tiết tháo trung trinh của bản thân mình đối với đất nước – cũng như để bảo tồn được danh dự cho giống nòi.

Vào năm 1928, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Tổng Đốc Hoàng Diệu (1828 – 1928), nhà báo Phan Khôi là người cháu ngọai của cụ đã cho phổ biến rộng rãi trên báo chí nguyên văn bài hùng sử ca “Hà Thành Chính Khí Ca” – mà trước đó chỉ mới được phổ hạn chế trong dân gian theo lối truyền khẩu mà thôi.

Nhân tiện cũng xin ghi là khí phách rạng ngời của nhà báo kỳ cựu Phan Khôi trong vụ đòi tự do dân chủ thời phong trào Nhân Văn Giai Phẩm hồi năm 1955 – 1957 ở miền Bắc – thì chắc chắn là phải bắt nguồn từ cái truyền thống anh hùng bất khuất của Vị Tổng Đốc Hà Thành vốn là ông ngọai của nhà báo. Quả thật Phan Khôi là một hậu duệ rất xứng đáng của Tổng Đốc Hòang Diệu vậy.

Costa Mesa, California, Mùa Vu Lan Quý Tỵ 2013

NÉT ĐẸP ĐỜI LINH MỤC

NÉT ĐẸP ĐỜI LINH MỤC


LM. Nguyễn Tầm Thường, S.J


Cuộc sống quanh ta với biết bao là nét đẹp.  Nét đẹp của hoa cỏ đồng nội.  Nét đẹp của trăng sao, cá nước chim trời.  Nét đẹp của những cánh đồng mênh mông bát ngát, hay nét đẹp của những dòng sông hiền hòa, trĩu nặng phù sa.  Nét đẹp của thiên nhiên và nét đẹp của con người.  Đó là nét đẹp của trí tuệ, nét đẹp về hình thể, nét đẹp của lòng nhân ái bao dung, nét đẹp trong những lời thơ, tiếng hát v.v…  Thế nên, một nhạc sĩ đã từng viết: “Cuộc đời quanh ta có biết bao là nét đẹp.”  Vậy những nét đẹp của đời linh mục là gì?  Tại sao đời linh mục lại có những nét đẹp như thế?

Trong một bài viết đã lâu, linh mục Anthony Đào Quang Chính, OP, có đề cập đến 6 niềm vui sướng và 5 niềm khổ đau trong đời linh mục: “Cái sướng thứ nhất là được gọi bằng “cha”; thứ hai là được bài hát nào đó ca tụng rằng: Chúa chọn con lên hàng khanh tướng; thứ ba là nghe tội người khác; thứ tư là ngồi chỗ kính trọng; thứ năm là không bị lo lay-off, nghĩa là thất nghiệp; và thứ sáu là cha nói một tiếng bằng chúng con nói mười tiếng.” Suy cho cùng, những niềm vui sướng ấy chỉ dừng lại ở khía cạnh hình thức bên ngoài mà thôi.  Những niềm vui sướng ấy không nói lên những nét đẹp nơi căn tính và sứ vụ của người linh mục.  Căn tính sâu xa của đời linh mục đó chính là nét đẹp của tâm linh, nét đẹp của sẻ chia, nét đẹp của tha thứ, và nét đẹp của hy sinh.

Nét đẹp của tâm linh
Linh mục là con người của cầu nguyện, là thầy dạy về cầu nguyện.  Là con người của cầu nguyện, linh mục nguyện gẫm, suy niệm Lời Chúa, giảng dạy Lời Chúa, viếng Chúa, Chầu Thánh Thể và dâng Thánh lễ mỗi ngày.  Đó là những nét đẹp tâm linh trong đời linh mục.

Mỗi lần nguyện gẫm, linh mục có thời gian nhìn lại chính mình, nhìn lại mối tương quan giữa mình với Thiên Chúa, hay mối tương quan giữa mình với giáo dân.  Mỗi lần suy niệm hay giảng dạy Lời Chúa, linh mục phải là người để Lời Chúa soi sáng, dẫn đường để rao giảng những lời của an ủi yêu thương, những lời của sự thật và sự sống.  Mỗi lần viếng Chúa, chầu Thánh Thể, linh mục quỳ gối thinh lặng, cầu nguyện và chiêm ngắm Thánh Thể là bí tích của tình yêu, một tình yêu cao trọng, một tình yêu đến cùng mà Chúa Giêsu, vị linh mục thượng phẩm đời đời đã dành cho nhân loại.  Mỗi lần dâng Thánh lễ là mỗi lần linh mục hiệp cùng hy tế của Chúa Giêsu trên thập giá, để dâng cả những suy nghĩ, dự định, ước muốn; dâng cả những lỗi lầm, bất xứng trong đời linh mục lên cho Thiên Chúa Cha, để cầu nguyện cho bản thân, nhất là cầu nguyện cho những đau khổ của đoàn chiên mà Chúa trao phó.

Nét đẹp của sẻ chia
Nhiều bổn đạo đau khổ, tuyệt vọng bởi những biến cố đau thương giữa đời thường.  Họ tìm đến nhờ linh mục cho những lời khuyên, giúp lời cầu nguyện để vượt qua những khó khăn và thử thách.  Đau khổ về tinh thần lẫn vật chất.  Nhiều bà con vướng vào cảnh nợ nần, hoặc quá nghèo tìm đến với linh mục, nói thật những đau khổ ấy với linh mục, họ hy vọng được ngài sẻ chia.  Có cha mẹ nào lại không thương những đứa con đang hoạn nạn, nghèo túng của mình.  Vì vậy, người linh mục luôn đồng cảm với những nỗi thống khổ của nhiều bổn đạo trong giáo xứ mà ngài coi sóc.  Cha giúp lời cầu nguyện. Cha thăm viếng động viên.  Thậm chí cha giúp một chút tiền để họ vượt
qua khủng hoảng và bế tắc.  Vì vậy, linh mục là người “bị ăn”, là tấm bánh được bẻ ra để phân phát cho những ai đang đói khát.

Nhiều linh mục tổ chức mời đoàn bác sĩ ở thành phố về nhiều giáo xứ tỉnh lẻ ở thôn quê để khám bệnh, phát thuốc miễn phí cho bà con giáo dân.  Nhiều linh mục tổ chức những đợt phát quà cho bà con giáo dân nghèo mỗi dịp Giáng sinh hay Tết đến.  Nhiều linh mục tổ chức những đợt phát học bổng cho các em thiếu nhi có hoàn cảnh khó khăn nhưng chăm chỉ học hành.  Gia đình nào có tang chế, linh mục đến hiệp dâng Thánh lễ, cầu nguyện và chia sẻ sự mất mát lớn lao.  Đó là những nét đẹp của sẻ chia và yêu thương trong đời linh mục.

Nét đẹp của tha thứ
Theo gương Chúa Giêsu, người linh mục là con người của tha thứ.  Ngài tha thứ cho những bổn đạo nói xấu, chỉ trích, lên án mình.  Ngài tha thứ cho nhiều hối nhân nơi tòa giải tội.  Ngài tha thứ cho những lầm lỗi, thiếu sót cho bà con đang làm việc trong các hội đoàn.  Đó là nét đẹp của lòng bao dung.  Vì yêu thương con cái nên cha mẹ sẵn sàng tha thứ, không chấp nhất những lỗi lầm, khuyết điểm của con. Vì yêu thương đoàn chiên nên người linh mục luôn đón nhận tất cả vào vòng tay nhân ái của người mục tử nhân lành.

Vì vậy, nơi nét đẹp của tha thứ, mỗi Kitô hữu chúng ta còn khám phá ra nơi khuôn mặt của mỗi linh mục sự hiền lành và phúc hậu.  Nét đẹp ấy đã giúp nhiều hối nhân lấy lại niềm tin yêu và cậy trông vào Thiên Chúa.  Cả thế giới vô cùng cảm kích trước nghĩa cử Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tới một nhà tù, thăm hỏi và tha thứ cho người thanh niên bắn những phát súng để ám sát ngài.  Phải chăng đó là nghĩa cử xuất phát từ những gì Chúa Giêsu đã dạy và đã sống?

Nét đẹp của hy sinh
Làm linh mục đòi hỏi phải có sự hy sinh.  Hy sinh thời gian, sức khỏe; hy sinh những phút thư giãn của bản thân để phục vụ nhu cầu tâm linh của nhiều bà con bổn đạo; hy sinh sống đời độc thân không có vợ con để dành trọn thời gian và công việc cho việc phục vụ Giáo hội và mọi người.  Bởi vậy, nét đẹp của hy sinh được kết nên bởi những từ bỏ trong đời linh mục.  Người linh mục đúng nghĩa phải là một con người của sự từ bỏ của cải vật chất, từ bỏ những quyến luyến của tình cảm, của đam mê xác thịt, hay từ bỏ những cám dỗ quyền lực, danh vọng để sống đơn sơ, thanh thoát và dấn thân cho sứ vụ mục tử.

Tình yêu đòi hỏi phải có hy sinh.  Hy sinh càng nhiều tình yêu càng có ý nghĩa và đúng nghĩa.  Tuy nhiên, ngày nay, tâm lý tự nhiên ai cũng sợ hy sinh và từ bỏ.  Người linh mục sợ hy sinh vì thấy lòng mình chưa thật sự từ bỏ dứt khoát những lôi cuốn của sự đời.  Người linh mục sợ cô đơn vì động lực dấn thân vì lòng yêu mến Chúa, yêu mến Giáo hội chưa thật sự mạnh mẽ.  Vì vậy, tận trong sâu thẳm cõi lòng, nhiều linh mục vẫn chân nhận rằng mình cảm thấy cô đơn và đấu tranh với những phân mảnh trái ngược nhau diễn ra trong tâm hồn như trong “Lời Kinh Chiều Chúa nhật”, Linh mục Michel Quoit đã viết: “Lạy Chúa, chiều nay chiều Chúa nhật, một mình con quỳ đây đối diện với ngọn đèn chầu, đối diện với Thánh Thể Chúa.  Giờ này, nhiều gia đình đang sum họp ăn uống, cười nói vui vẻ bên nhau, còn con thì lặng lẽ âm thầm cầu nguyện với Chúa.  Con bắt tay nhiều người nhưng không giữ lại một bàn tay nào cho riêng mình.  Con tiếp xúc với nhiều trẻ con, nâng niu và vui đùa với chúng.  Nhưng lạy Chúa, đó là những đứa trẻ của người khác chứ không phải là của con.  Con giơ tay ban phép lành xá tội cho nhiều người, nhưng những tội đời của con thì chỉ có Chúa mới hiểu mà thôi… Lạy Chúa, làm linh mục có những phút giây cô đơn rất thật như thế, nhưng con tin rằng những phút giây ấy là cơ hội để con trắc nghiệm lại động lực ơn gọi dấn thân trong sứ vụ đời mình.”

Tóm lại, trong cuộc đời này cái gì cũng đều có hai mặt.  Đời linh mục cũng vậy.  Nhiều bậc cha mẹ muốn con đi tu làm linh mục cho sướng cái thân, ra đời lăn lộn kiếm tiền, vất vả khổ cực lắm!  Nhưng họ đâu biết rằng, đằng sau những hào nhoáng, sung sướng bên ngoài ấy, người linh mục hằng ngày phải chiến đấu với bản thân, chiến đấu trong lời kinh, nguyện cầu.  Làm linh mục có nhiều cái sướng nhưng khổ đau cũng không phải là ít, thậm chí khổ nhiều hơn sướng.  Thế nhưng, nhờ những nét đẹp tâm linh, nét đẹp của sẻ chia, nét đẹp của tha thứ, hy sinh mà người linh mục có thêm động lực tình yêu để sống trọn vẹn trong ơn gọi.  Những nét đẹp đời linh mục cho thấy Tin Mừng của Chúa Giêsu là Tin Mừng của niềm vui, của niềm tin yêu và hy vọng cho thế giới hôm nay.


LM. Nguyễn Tầm Thường, S.J

From: ngocnga_12

THIÊN CHÚA KHÔNG XÉT LÝ LỊCH

THIÊN CHÚA KHÔNG XÉT LÝ LỊCH

(Lc 13,22-30)

Tác giả: Cao Huy Hoàng

Lời của Chúa là Tin Mừng, không thể nào là tin buồn cả. Nhưng, thiết tưởng,  trang Tin Mừng hôm nay gợi lên cho mỗi người một nỗi buồn chính đáng, nỗi lo chính đáng. Nỗi buồn chính đáng về đoạn hành trình chúng ta đã đi qua, và nỗi lo chính đáng về hành trình chúng ta đang đi tới.

Chúa Giê-su cho chúng ta biết trước về sự tuyển chọn công dân Nước Trời, tuyển chọn người vào dự tiệc trong Nước Trời theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa. Thật đáng buồn thay khi phải đón nhận những lời yêu rất thẳng thắn mà cũng rất đáng buồn, đáng khiếp sợ nếu mỗi chúng ta phải nhận lấy lời này:

“Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến!”

“Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!”

Thiên Chúa không xét lý lịch

Rõ ràng là Thiên Chúa không phán xét mỗi chúng ta theo tiêu chuẩn lý lịch. Đáng buồn thay! Lâu nay chúng ta vẫn tự hào rằng chúng ta là con cháu của các Thánh Tử Đạo, của các chứng nhân anh dũng đã từng bị bách hại, bị giết chết ngàn ngàn người, bị chôn tập thể ở nhiều gò nhiểu nỗng mà bây giờ vẫn còn gọi là Gò Mã Thánh, hay Gò Thánh. Lại cũng có người khoe khoang rằng dòng họ nhà mình có vài người làm Đức Cha, có cả chục người làm Linh Mục, tu sĩ nam nữ thì vô kể. Người khác lại tự hào rằng dòng mình thì không có cha, có sơ nhưng ông cố, ông sơ theo đạo thời xửa thời xưa vài trăm năm trước. Đáng buồn thay khi không chỉ tự hào khoe khoang về lí lịch của mình, mà đôi khi còn lên mặt dạy đời cho những người tân tòng, chê bai dè bỉu những người mới theo đạo trong một hoàn cảnh đặc biệt nào đó. Theo đạo khi lập gia đình với người có đạo, theo đạo sau một cơn bạo bệnh được giúp đỡ, chẳng hạn… Đáng buồn thay! Chúng ta thật vô lý vì rõ ràng là chính mình đã có đạo, nhưng gần như chỉ là đạo danh nghĩa, đạo giấy tờ mà chửa thực sự sống tinh thần của Đạo. Chúng ta chẳng khác nào những người Do Thái ngày xưa lấy lí lịch của mình ra mà kỳ kèo với Thiên Chúa để được vào Nước Trời rằng: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi”.

Trong lý lịch ở đời, người ta có yêu cầu phải khai rõ làm nghề gì, ở đâu, nhưng đối với Thiên Chúa, Ngài không hỏi chi tiết này. Thế thì chúng ta có nhận ra sự vô duyên của mình khi mãi tự hào về chức vụ của mình trong Hội Thánh Chúa. Cần thiết để được chuẩn vào Nước Trời sao, mà có người cứ phải tranh giành làm ông kia bà nọ trong Giáo Xứ. Và khi không được bầu vào chỗ mà mình ước ao, thì đâm ra bất mãn, chê bai, tìm cách bêu xấu, hạ bệ những người đương chức. Không phải là hiếm những trường hợp kiện cáo vô duyên nơi các giáo xứ, các hội đoàn chỉ vì lòng ganh tỵ không đáng có. Đáng buồn thay. Chúa không tuyển vào Nước Trời theo tiêu chuẩn chức vị, chức vụ hay công trạng làm việc cho Chúa, cho Hội Thánh lâu năm.

Chúa cũng không xét về trình độ hiểu biết về Thiên Chúa. Vậy mà trong chúng ta vẫn có người rất tự mãn về vốn học, vốn tu nghiệp, vốn đào tạo một mớ kiến thức thần học. Cũng có người tự hài lòng về tài năng giảng thuyết về Thiên Chúa rất thuyết phục, rất hấp dẫn. Người khác lại tự hào về những tác phẩm viết về Thiên Chúa, những suy tư, những ca khúc, những bài văn, bài thơ, những công trình nghiên cứu đồ sộ… Đáng buồn thay! Chúa cũng không xét về trình độ, về tác phẩm.

Nhờ Lời Chúa hôm nay soi sáng, chúng ta có thể thấy còn nhiều điều đáng buồn cho cái suy nghĩ kém cỏi của mình, cái lầm tưởng của mình, khi tự vẽ ra cho mình một Nước Thiên Chúa y chang như một đất nước trần gian về chuyện thưởng, phạt. Vì quả thực, các nước ở trần gian thưởng không đúng người, phạt không đúng tội vẫn là chuyện cơm bữa. Nước nào càng kém văn minh về tình thương, kém hiểu biết về Thiên Chúa thì càng bất công, bất chính tồi tệ hơn.

Tiêu chuẩn của Thiên Chúa

Chúa Giê-su biết rõ lòng dạ con người chúng ta đang quá vấn vương mùi đời và không muốn cho chúng ta suy nghĩ lầm lạc về Nước Thiên Chúa. Ngài đã trả lời cho thắc mắc của một người rằng “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” bằng câu nói “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được”.

“Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào” chính là tiết lộ tiêu chuẩn của Thiên Chúa dành cho những ai muốn được vào Nước Trời.

Câu trả lời ấy là Lời Vàng cho mỗi chúng ta, nhắc nhở cho chúng ta một nỗi lo rất chính đáng trên đoạn hành trình còn lại của mỗi người: vào Nước Trời qua lối hẹp, lối mà Chúa Giê-su đã đi.

Hai từ “lối hẹp” hay “cửa hẹp” mà Chúa Giê-su dùng hôm nay như phần kết luận, hay bản tóm tắt cả một cuộc đời của Ngôi Con Thiên Chúa, tóm tắt bao nhiêu Lời đã mạc khải, Lời đã giảng dạy trong hành trình rao giảng Nước Thiên Chúa.

-Lối hẹp của lòng khiêm cung và vâng phục tuyệt đối: Con Thiên Chúa cao trọng quyền phép lại khiêm cung vô cùng để con người kiêu căng phải biết cúi đầu nhận tội. Con Thiên Chúa chịu bước xuống làm người, để con người được bước lên cùng Thiên Chúa. Con Thiên Chúa chấp nhận bỏ trời xuống đất, để con người biết buông bỏ mọi sự phù vân dưới đất mà lên trời vĩnh cửu. Con Thiên Chúa toàn năng, chí thánh, chí thiện bằng lòng mang thân phận tội nhân, để tội nhân được vinh phúc thông chia sự thánh thiện của Ngài…

-Lối hẹp của tình yêu thương tuyệt đối: Con Thiên Chúa yêu thương con người để con người hẹp hòi ích kỷ biết thương nhau. Con Thiên Chúa hiến thân chịu chết cứu chuộc con người để con người biết hy sinh cho nhau được sống và sống vui. Con Thiên Chúa biết chạnh lòng trước nỗi đau của con người để con người cũng biết chạnh lòng thương xót bao mảnh đời cơ cực. Con Thiên Chúa khoan dung tha thứ cho con người tội lỗi tày trời, để con người cũng biết thứ tha cho nhau và xây dựng bình an hạnh phúc…

Vâng, nói cách khác, tiêu chuẩn của Thiên Chúa: “qua lối hẹp”, “qua cửa hẹp mà vào” là hãy nên giống Chúa Giê-su trong mọi sự, hãy đồng hình đồng dạng với Chúa Giê-su trong hành trình cuộc đời hành hương, hãy đi con đường Thánh Giá mà Chúa Giê-su đã đi mới mong được vào Nước Thiên Chúa.

Bấy giờ, Thiên Chúa Cha không xét lý lịch, nhưng hẳn là ai đã nên giống Chúa Giê-su trong mọi sự, thì sẽ được Ngài đón tiếp, được cho vào Nước Thiên Chúa trước. Và dĩ nhiên là, cả tôi, cả bạn, cả những người trông mong và kỳ kèo Ngài xét cho cái lý lịch con ông cháu cha, chức vụ, hay tài năng trình độ của mình mà không nên giống Chúa Giê-su thì hẳn là chỉ còn biết trông nhờ vào Lòng Thương Xót của Ngài mà thôi, nếu không nói là bị quăng ra ngoài nơi khóc lóc, nghiến răng, trầm luân muôn kiếp.

“Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót”.

Nỗi lo thật chính đáng: “Tôi là kẻ đứng hàng đầu, lại xuống hàng chót đấy sao?”.

Cuộc đời là chuyến hành hương

Người đi phải chọn đúng Đường mà đi…

(Hương Nam)

Lạy Chúa Giê-su, xin tạ ơn Chúa đã cho chúng con biết tiêu chuẩn vào Nước Trời. Xin cho chúng con biết chọn con đường Thánh Giá của Chúa mà can đảm và kiên trì bước đi. A men.

PM. Cao Huy Hoàng,

24-8-2013

ĐỪNG SỢ KẺ GIẾT THÂN XÁC MÀ KHÔNG GIẾT ĐƯỢC LINH HỒN!

ĐỪNG SỢ KẺ GIẾT THÂN XÁC MÀ KHÔNG GIẾT ĐƯỢC LINH HỒN!

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

. Câu chuyện xảy ra trong khoảng từ năm 1950 đến 1967 khi đảng cộng sản vô thần nắm quyền tại Slovak.

Năm bước vào tuổi 16 cũng là năm tôi nếm mùi tù ngục. Tôi bị tống giam chỉ vì là tín hữu Công Giáo và là người tổ chức, điều động nhóm sinh viên học sinh, đối lập với cái gọi là ”Hội Công Giáo” do nhà nước cộng sản thành lập. Tôi còn bị bắt dưới nhãn hiệu ”thành viên cuồng tín của Vatican”. Như thế có nghĩa là ”một công dân nguy hiểm cho xã hội chủ nghĩa Tiệp-Khắc!”

Niềm đau lớn lao nhất của tôi lúc bấy giờ là bị bắt cùng lúc với thân phụ và bị đưa ra tòa với người. Bọn công an dùng một đòn tâm lý vô cùng ác độc. Để tra khảo tôi, để buộc tôi phải xưng thú hay chấp nhận điều gì, họ đánh đập Ba tôi trước mặt tôi. Không thể nào tả hết nỗi đớn đau tinh thần và thể xác khi tôi nhìn thấy Ba tôi bị đánh đập cách tàn bạo, máu trào ra từ những cơ phận chính!

Phản ứng tự nhiên của tôi là quay mặt đi nơi khác nhưng bọn công an tàn ác bắt buộc tôi phải chứng kiến cảnh tượng này.

Hình ảnh thân phụ bị đánh đập in đậm trong tâm trí tôi như hình ảnh của vị anh hùng tử đạo, không bao giờ có thể xóa mờ! Ngay khi đó, Ba tôi bị kết án tử hình nhưng rồi không hiểu sao họ đổi thành án tù chung thân. Sau 10 năm tù đày Ba tôi được trả tự do nhưng thật ra để về nhà và chết tại gia đình!

Các lính canh tỏ ra thương hại chúng tôi nhưng họ không làm hành động nào tốt để giúp chúng tôi, những thanh thiếu niên Công Giáo vô tội. Sau đó bọn tù chúng tôi bị giao cho các lính canh trẻ tuổi hơn, nhưng lại tàn ác hơn. Nếu chẳng may họ tìm thấy trên người hoặc nơi phòng giam chúng tôi những bảo vật tôn giáo như ảnh tượng thánh và tràng hạt Mân Côi chẳng hạn thì họ nổi điên. Họ mắng nhiếc và đuổi chúng tôi ra khỏi phòng, co ro trong các hành lang dài lạnh buốt.

Nhóm tù nhân thiếu niên chúng tôi gồm đủ mọi thành phần, trong số này có thiếu niên bị tù vì tìm đường vượt ra ngoại quốc. Các bạn trẻ này thường không chịu được cảnh tù tội như chúng tôi là thiếu niên Công Giáo. Do đó chúng tôi giúp họ bằng cách từ từ nói với họ về niềm tin tôn giáo. Dĩ nhiên có người chấp nhận, có người từ chối.

Trong thời gian bị giam cầm chúng tôi thường xuyên bị tuyên truyền đầu độc bởi học thuyết xã hội chủ nghĩa vô thần nhằm bài trừ tôn giáo. Ngoài ra nhóm canh tù cũng nhét vào đầu óc non trẻ của chúng tôi các tội phạm và gieo vào lòng chúng tôi tâm tình của người mắc tội và phải đền tội.

Chúng tôi khó cưỡng lại lời buộc tội vô căn cứ và một chiều này. Tôi nhớ rõ một ngày, một thiếu niên Công Giáo Slovak bị đưa vào giam chung với chúng tôi. Thiếu niên bị bắt và tống giam chỉ vì cậu đã kéo chuông vang dội báo hiệu cho giáo dân trong xứ biết là công an đến bắt Cha Sở mang đi.

Cậu bị buộc cái tội gọi là ”dám khơi dậy cuộc nổi loạn trong làng”. Thật tội nghiệp cho thiếu niên! Tâm tình ngây thơ vô tội khiến cậu không thể nào chịu được những vu khống trắng trợn của bọn công an. Kết quả là cậu bị mất trí. Nhiều đêm chúng tôi bị thức giấc vì tiếng la hét của cậu. Đôi khi cậu trở nên vô cùng hiền dịu, quỳ gối trước mặt ông canh tù và phân trần là cậu không bao giờ muốn giết chết một ai cả! Sau đó người ta mang thiếu niên này đi nơi khác.

Trong thời gian học tập cải tạo, chúng tôi phải hoàn toàn mù quáng chấp nhận tất cả bài học vô-lý vô-nghĩa do nhóm công an đưa ra. Khốn cho đứa nào dám cãi lại những lý luận một chiều của họ! Chính tôi từng kinh nghiệm điều này. Một ngày, chúng tôi được tin đội banh Liên-Xô thắng đội banh Canada. Người cai tù hãnh diện lớn tiếng giải thích:
– Chiến thắng này chứng tỏ chủ nghĩa xã hội của Liên-Xô vượt xa các chủ nghĩa khác!
Nghe vậy, tôi liền nói với người tù đang ngồi trước mặt:
– Lý luận thật hồ đồ, không giá trị, chẳng khác nào nói: ”Bởi vì con ngựa đua của nữ hoàng Anh Quốc thắng cuộc đua, nên chính thể Anh quốc là chính thể tốt đẹp nhất thế giới!”

Dĩ nhiên là sau lời phát biểu ý kiến tự do này, tôi bị tố cáo, bị trừng trị và bị biệt giam vì đã dám chỉ trích chủ nghĩa xã hội của Liên-Xô!

Những tháng ngày tù ngục trôi qua trong Đức Tin Công Giáo và niềm can đảm nhờ một lần tôi được trông thấy hình ảnh vị Giám Mục với chiếc áo đẫm máu, bị giam cùng một trại với chúng tôi.

… ”Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh chị em cho các hội đồng và sẽ đánh đập anh chị em trong các hội đường của họ. Và anh chị em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết .. Anh chị em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh chị em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục .. Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt CHA Thầy, Đấng ngự trên Trời” (Matthêu 10,17-18/28/32).

(”HÉROS OU TRAITRES”, Cyril Slovák et Jozef Inovecký, Roma 1976, trang 52-59)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

NGHÈO ĐÓI

NGHÈO ĐÓI

Gm. Bùi Tuần

Có lúc tôi cảm tưởng nhu nghèo đói là một luật lệ của thân phận gia đình tôi. Từ nhỏ cho tới bây giờ, tôi chưa bao giờ được thấy gia đình sung túc. May mà chưa có ai phải chết đói.

Nhưng không chết đói không có nghĩa là đã đủ ăn. Mà dù có lúc nói được là đủ ăn, thì thứ đủ ăn đó cũng chỉ là thứ đủ ăn của kẻ nghèo, nghĩa là ăn đủ no chứ không ăn đủ sức.

Đủ cơm ăn nhưng không đủ áo mặc, đủ gạo ăn nhưng không đủ nhà ở, đủ đồ ăn không đủ tiền mua thuốc và cho trẻ em đi học.

Thú vật chỉ cần no là đủ.

Con người no mà vẫn có thể nghèo thê thảm.

Con thú no là đã đạt được kiếp thú.

Con người no nhưng nghèo túng vẫn không thể sống cho ra kiếp người. Phương chi lại vừa đói vừa nghèo.

Kẻ nghèo thường phải mất mát nhiều quá, mất sự kính nể, mất bạn bè, có khi mất cả nhân phẩm, niềm tin và hy vọng.

Nhìn sang các gia đình chung quanh, tôi thấy cũng hơn kém như thế. Thì ra cảnh nghèo còn là một thứ quê hương chung của đa số đồng bào tôi.

Muốn an ủi mình và những kẻ cùng trong thân phận nghèo, có lúc tôi muốn lượm lặt tất cả những lời người ta đã nói tốt về cảnh nghèo, để đúc nên một bài ca tán tụng thân phận nghèo đói.


Nhưng tôi không làm được. Vì cảnh nghèo đói hầu nhủ chẳng được ai tán thưởng. Cũng có ít người tỏ vẻ muốn khen, nhưng khổ nổi là họ chẳng bao giờ muốn, đã dám và đã thực sự phải sống nghèo. Vì thế, lời họ khen đã trở thành mỉa mai và mang màu đạo dức giả tạo.

Còn Chúa Giêsu thì có bao giờ Ngài đã khuyến khích cảnh nghèo đói đâu. Trái lại, Ngài tỏ ý muốn mọi người được sống đầy đủ. Chẳng thế mà Ngài đã dạy ta: “Xin Cha cho chúng con lương thực hàng ngày’’. Lương thực hàng ngày ở đây được hiểu về tất cả những sự cần ích cho cuộc sống vật chất và tinh thần.

Nên Chúa có lần đã nói: “Phúc cho kẻ nghèo khó trong tinh thần’’, thì đó không phải là sự cổ võ cảnh nghèo đói, nhưng chỉ là một lời khuyên như mọi người, dù nghèo dù giàu, nên có tinh thần dứt bỏ với của cải.

Mặc dầu Chúa không xuống thế vì mục đích giải quyết vấn đề cơm áo cho nhân loại, nhưng không vì thế mà Chúa không quan tâm đến thân phận kẻ nghèo. Trong số hơn 40 phép lạ được kể trong Phúc âm, có bao nhiêu phép lạ Chúa đã làm cho kẻ nghèo và vì kẻ nghèo.

Đạo Chúa dạy tôi phải làm theo Chúa và giữ luật Chúa. Bổn phận đối với kẻ nghèo thì Chúa nêu lên nhiều gương đáng sợ, và ra nhiều luật quyết liệt. Như gương người giàu có và người ăn mày tên Lazarô. Như gương Chúa sẽ đối xử với người ta trong ngày phán xét căn cứ vào thái độ đối với kẻ nghèo. Như luật đã ghi trong kinh mười bốn mối thương xót.

Nghĩ tới đây, tôi thấy lương tâm tôi áy náy vô cùng.

Bao lần tôi đã không quan tâm đến cảnh nghèo của người khác. Bao lần tôi đã vô tâm xài phí tiền bạc bên cạnh những người đói khổ. Bao lần tôi đã nhẫn tâm khinh miệt hắt hủi những kẻ rách rưới, nghèo nàn. Bao lần tôi đã lên mặt đạo đức giả, gán cho kẻ nghèo những ý nghĩ xấu, chỉ vì họ quá nghèo đến nài van tôi giúp đỡ.

 


Lạy Chúa, con đã gặp kẻ nghèo hay con đã gặp Chúa? Có phải họ, hay là Chúa đó? Đúng là con đã gặp họ, nhưng cũng đúng là con đã gặp Chúa. Vì Chúa kể việc con làm cho kẻ nghèo như việc con làm cho chính Chúa. Đến ngày phán xét, Chúa sẽ tính tất cả, lúc đó, con biết ăn nói làm sao đây? Lạy Chúa, nếu Chúa căn cứ vào thái độ của con đối với kẻ nghèo để đánh giá con, thì con khó thấy có hy vọng được chọn.

Lạy Chúa, xin giúp con biết thành tâm xét kỷ lại thái độ của con đối với kẻ nghèo.

Gm. Bùi Tuần

Luật sư Trần Vũ Hải: Pháp luật Việt Nam không cấm lập đảng

Luật sư Trần Vũ Hải: Pháp luật Việt Nam không cấm lập đảng

Luật sư Trần Vũ Hải.

Luật sư Trần Vũ Hải.

22.08.2013

Một luật sư có tiếng tại Việt Nam khẳng định Hiến pháp và pháp luật Việt Nam không có điều nào cấm công dân thành lập và tham gia một chính đảng khác ngoài đảng cộng sản.

Luật sư Trần Vũ Hải, người tham gia nhiều vụ án chính trị trong nước, nói các văn bản pháp luật hiện hành cho thấy hoạt động thành lập và tham gia đảng phái chính trị không nhằm lật đổ chính quyền nhân dân không bị coi là bất hợp pháp.

Theo nghiên cứu của luật sư Hải, pháp luật Việt Nam quy định đảng phái không phải xin phép thành lập và điều lệ đảng không cần sự công nhận của nhà nước.

Ông đã gửi thư cho Quốc hội và các nhà luật học đề nghị cho ý kiến về vấn đề thành lập và tham gia đảng phái ở Việt Nam trong lúc vấn đề này đang được dư luận trong và ngoài nước quan tâm, giữa những lời kêu gọi thành lập thêm các đảng đối lập với đảng cộng sản Việt Nam để cạnh tranh, kiểm soát lẫn nhau, thúc đẩy dân chủ và phát triển xã hội.

Luật sư Hải kêu gọi nhà chức trách Việt Nam công bố quan điểm rõ ràng về việc có cấm công dân tham gia thành lập đảng phái hay không, nếu không cấm thì cần nêu rõ việc thành lập nên diễn ra thế nào cho phù hợp pháp luật Việt Nam.

Điều 4 Hiến pháp Việt Nam quy định đảng cộng sản nắm quyền độc tôn lãnh đạo đất nước.

Trong cuộc phỏng vấn do PhoBolsaTV đăng tải cuối tháng 7, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam, Nguyễn Thanh Sơn tuyên bố dân chủ không nhất thiết phải đa đảng.

Hậu quả của “Tư duy ngược”

Hậu quả của “Tư duy ngược”

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2013-08-22

000_Hkg4467982-305.jpg

Một đại biểu với lá phiếu trên tay trong ngày Đại hội toàn quốc lần thứ 11 của Đảng Cộng sản VN tại Hà Nội, 17/1/2011

AFP photo

Ông Lê Phú Khải, tuy là một phóng viên kỳ cựu của Đài truyền hình Trung Ương nhưng không bao giờ gia nhập Đảng Cộng sản mặc dù cả gia đình ông hầu hết là Đảng viên thâm niên. Lý do nào dẫn đến việc từ chối gia nhập Đảng của ông Lê Phú Khải được Mặc Lâm tìm hiểu thêm qua bài phỏng vấn sau đây:

Mặc Lâm: Như chúng tôi được biết ông là một phóng viên kỳ cựu của Đài Truyền hình Trung ương Việt Nam và xuất thân từ một gia đình hầu hết là Đảng viên Đảng Cộng sản nhưng chỉ có ông là không gia nhập Đảng. Xin được hỏi ông lý do nào ông chọn thái độ đứng ngoài Đảng thưa ông?

Ô. Lê Phú Khải: Là vì tôi đọc sách triết học rất nhiều, tôi thấy một xã hội có đối thoại thì mới tiến bộ được. Nếu độc thoại thì không thể nào khá được. Chính vì vậy nhận thấy mình không hợp với một xã hội độc thoại, một Đảng độc thoại như thế.

Đường lối của Đảng phải do đảng viên góp ý thì nó mới thành đường lối. Đàng này đảng viên phải nghe ý kiến nghị quyết của trên xuống và phải chấp hành thì quá phi lý. Đó là tư duy ngược!
– Ô. Lê Phú Khải

Đường lối của Đảng phải do đảng viên góp ý thì nó mới thành đường lối. Đàng này đảng viên phải nghe ý kiến nghị quyết của trên xuống và phải chấp hành thì quá phi lý. Đó là tư duy ngược! Ví dụ như báo Nhân dân nói “đưa nghị quyết đảng vào cuộc sống” như vậy là nghị quyết đảng từ trên trời rơi xuống à? Phải nói là đưa cuộc sống vào nghị quyết đảng mới đúng, để từ đó mới trở thành nghị quyết của Đảng. Đó chính là “Nhận thức luận”  của Lenin đấy. “Từ trực quan sinh động tới tư duy trừu tuợng”.

Tôi có anh bạn ở Cà Mau ra Bắc tập kết sau này anh ấy làm chức cũng lớn. Một lần anh ấy về quê anh ấy bảo: “má ơi nhà mình xa quá”. Bà má nổi đóa bả chửi: “chỉ có mày đi xa chứ nhà mình đâu có xa!” như vậy là tư duy ngược rồi còn gì nữa?

Mặc Lâm: Thưa ông, tuy nhiên có một nghịch lý là từ đó đến nay đã gần 70 năm, số lượng đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tăng không ngừng, cho đến nay đã có hơn ba triệu Đảng viên so với ngày đầu là 5.000 người. Câu hỏi đặt ra là tại sao số luợng cứ tăng mặc dù sai lầm vẫn rõ ràng như vậy?

Ô. Lê Phú Khải: Chính vì nó tăng như thế cho nên nó mới sai lầm! Bởi vì người ta cần chất lượng chứ không ai cần số lượng. Anh càng tăng bao nhiêu thì chứng tỏ cái chất lượng của anh bấy nhiêu. Số lượng không nói lên điều gì cả khi ngày xưa chỉ có 5.000 đảng viên nguời ta vẫn làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám. Bây giờ kết nạp cả học sinh, sinh viên vào Đảng nữa. Đảng lãnh đạo tuyệt đối thế thì học sinh lãnh đạo thầy à? Nó phi lý ở chỗ đó.

LPK-250.jpg

Ông Lê Phú Khải

Như trong bài viết của anh Lê Hiếu Đằng tôi thấy anh ấy viết rất đúng. Trong trường phổ thông cũng kết nạp học sinh vào đảng, thế thì cái thằng học sinh trong lớp nó còn coi thầy ra cái gì nữa? Vì nó là Đảng cơ mà! còn thầy là nguời ngoài đảng thì làm sao thầy dạy được? như thế có phải là tư duy ngược hay không?

Tôi không phải là đảng viên cũng không phải là nguời cách mạng nhưng tôi là nguời tư duy, và tôi thấy như thế là tư duy ngược cho nên dứt khoát tôi không vào Đảng. Tôi không thể chấp nhận cái tư duy ngược như vậy.

Mặc Lâm: Chúng tôi được biết ông là một phóng viên kỳ cựu của đài Truyền hình Trung Ương và từng có dịp gặp gỡ các nhân vật cao cấp trong chính phủ trong đó có Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Ông từng nói Thủ tướng Đồng là người có thái độ “kiêu ngạo cộng sản”. Theo ông thì đây là bản tính cá nhân hay nảy sinh từ hệ thống Đảng Cộng sản khiến cho Đảng viên thâm nhiễm cá tính này?

Ô. Lê Phú Khải: Không phải riêng ông Đồng đâu, rất nhiều người có chức có quyền như vậy. Do họ không đối thoại mà chỉ độc thoại nên họ rất chủ quan. Họ chỉ cho ý kiến của mình là đúng mà thôi.

Tôi nhớ ngày xưa khi ông nội tôi làm thư ký cho Toàn quyền Đông Duơng thì ông nội tôi kể khi đi đâu thì Toàn quyền cũng mang theo kỹ sư hay các nhà chuyên môn để nghiên cứu việc trồng cây gì nuôi con gì… Toàn quyền Đông Dương không có “quyết”. Chính anh kỹ sư phải xem phải suy nghĩ để “quyết” sau đó có biên bản đàng hoàng. Anh quyết, anh tham mưu sau này có chuyện gì tôi lôi cổ anh ra, như thế mới là khoa học.

Đây là cơ may cho ĐCS vì bây giờ có những người ôn hòa, nhiệt huyết, tâm huyết trong những vấn đề của đất nước, góp ý với Đảng để cùng với Đảng đối lập về tư duy để có đường lối đúng xây dựng đất nước.
– Ô. Lê Phú Khải

Còn bây giờ, một ông lớn xuống. Cây gì ổng thích thì bảo trồng cây đó và không ai được cãi cả. Nay trồng cây này, mai trồng cây kia mà không thăm hỏi gì cả thì chết dân!

Không thể nào tư duy xuôi chiều được mà phải tư duy nhiều chiều và có đối thoại thì mới tìm ra chân lý. Điều đó là quá rõ ràng, là ABC về triết học.

Tôi là một công dân, tôi sống trong chế độ Đảng cầm quyền thì tôi phải chấp nhận vì trước hết tôi phải sống đã. Tuy nhiên tôi không vào Đảng vì lý do đó.

Mặc Lâm: Trước tình cảnh mà ông gọi là tư duy ngược ấy thì đề nghị của ông Lê Hiếu Đằng như ông đã biết là thành lập Đảng Dân chủ Xã hội để đối trọng với Đảng Cộng sản Việt Nam phải chăng là cơ hội để Đảng Cộng sản có dịp tự thay đổi tư duy của mình qua phản biện của Đảng kia hay không?

Ô. Lê Phú Khải: Tôi thấy là quá đúng rồi chứ gì nữa? Đây là cơ may cho Đảng Cộng sản vì bây giờ có những người ôn hòa, nhiệt huyết, tâm huyết… rất nhiệt huyết trong những vấn đề của đất nước thì người ta góp ý với Đảng để cùng với Đảng đối lập về tư duy để có đường lối đúng xây dựng đất nước. Đây là cơ may của Đảng Cộng sản.

Những người này đều có “lý lịch” cùng chung với Đảng Cộng sản và đó là những người yêu nước chân thành. Họ chủ truơng ôn hòa từ trước tới giờ và rất đứng đắn.

Mặc Lâm: Một lần nữa xin được cảm ơn ông.

PHÚC CHO NGƯỜI ĐAU KHỔ

PHÚC CHO NGƯỜI ĐAU KHỔ

Lm. Lê văn Quảng

conggiaovietnam.net

Thật là ngược đời và chói tai khi chúng ta nghe những lời chúc phúc của Thiên Chúa: “Phúc cho những người khóc lóc. Phúc cho những người đau khổ” mà không phải phúc cho những người có đời sống vinh hoa phú quí, ngày ngày yến tiệc linh đình…

Câu chuyện sau đây sẽ giúp chúng ta hiểu được phần nào ý nghĩa của những lời chúc phúc đó:

Jacob, con người giàu có và có nhiều khả năng. Ông có xe và có cả một đoàn súc vật đông đúc. Ông có hai vợ và đông con. Vào một đêm kia, ông có một cảm giác lờ mờ rằng có một cái gì lạ thường sẽ xảy đến cho đời ông, một cái gì đó sẽ đánh dấu ông muôn đời. Nhưng ông không muốn nói với ai ngay cả những bà vợ của ông. Cũng trong đêm đó, ông chổi dậy đưa hai bà vợ, hai nàng hầu và mười một đứa con đi ngang qua vùng đất Tabbok. Ông đã đưa họ đi qua giòng suối cùng với tất cả đoàn súc vật của ông và chỉ còn lại một mình ông bên kia bờ suối. Xảy đến là có một người đến vật lộn với ông cho tới sáng. Chính bên giòng suối ấy, Jacob đã phải vất vả vật lộn suốt một đêm với thiên thần Chúa.

Đây là biểu tượng của một cuộc chiến trường cửu trên trần gian nầy giữa con người và Thiên Chúa. Đây cũng là biểu tượng của những cố gắng của con người để tìm hiểu, để hòa nhập với ý muốn cứu độ thật khó hiểu của Thiên Chúa. Và cuối cùng, đây cũng là biểu tượng của một cuộc chiến đấu gay go của mỗi một người giữa ý muốn của Thiên Chúa và những cám dỗ lôi cuốn của trần thế, của xác thịt.

Thật vậy, con người lúc nào cũng bị giằng co giữa hai điều phải lựa chọn:

– Phục vụ hay quyền bính.

– Chết trên thập giá hay đóng đinh kẻ thù.

Thật không phải dễ để chúng ta có thể tìm ra được một hợp đề giữa những thái cực đó. Có những lúc cái nầy cần phải được ưu tiên hơn cái khác, và nếu có sự ưu tiên thì sự ưu tiên đó phải là sự từ bỏ chính mình, phải là sự tử đạo mà Thiên Chúa Cha đã dành cho chính Con Ngài.

Chúng ta thấy gì trong cuộc chiến giữa Jacob và thiên thần Chúa ? Nhận thấy không thể làm chủ được Jacob, thiên thần Chúa đã đánh vào đùi của ông thật mạnh và thật đau để ông phải đi khập khễnh.

Trong cuộc chiến giữa Thiên Chúa với con người, để chiến thắng Jacob, Thiên Chúa đã đập ông bị thương, đã làm ông nên người tàn tật để ông biết yếu đuối của mình hầu biết tín thác và sống tựa vào Thiên Chúa, cũng như để ông biết sẵn sàng biến đổi thành một con người mới cho một chương trình mới theo ý muốn cứu độ của Thiên Chúa. Ngài muốn đổi tên ông. Ông sẽ không còn là con người cũ Jacob nữa nhưng sẽ trở thành Israel, con người mới của Thiên Chúa.

Israel, con người tàn tật, con người thương vong trong cuộc giao chiến với Thiên Chúa, nhưng bây giờ ông có thể hiểu được ý nghĩa tương quan giữa con người với  Thiên Chúa và giữa con người với nhau.

Trong cái thương vong, cái đau khổ mà ông đã học được từ cuộc chiến ấy, ông hiểu được rằng nhờ đau khổ con người trở nên khiêm tốn, trở nên biết chia xẻ, biết cảm thông với người khác, biết cầu nguyện để xin ơn trên phù giúp, biết cậy trông vào quyền lực của Thiên Chúa chớ không phải cậy trông vào sức mạnh của chính mình.

Quả thật, con người bị khủng hoảng về lý do tại sao đau khổ lại cần phải có, và tự hỏi: không tốt hơn sao nếu có một thế giới không đau khổ, nơi đó không có người tật nguyền, không có kẻ điên, không có người đui, không có kẻ què, không có những chiếc xe lăn, không có những cây nạng gỗ, không có những vành khăn sô…..

Không, không đau khổ, không chiếc băng ca, không vành tang trắng, thế giới nầy sẽ còn nhiều tội lỗi gấp trăm ngàn lần.

Thiên Chúa có thể tạo nên một thế giới không đau khổ. Ngài có thể làm nên một thế giới trong đó mọi người đắm chìm trong hoan lạc. Nhưng không, Ngài đã không làm như thế.

Ngài cho phép chúng ta hưởng một chút niềm vui của cuộc đời nhưng Ngài cũng đòi chúng ta phải làm quen với sự hy tế.

Không cần tưởng tượng đâu xa, hãy nhớ lại những tháng ngày chúng ta còn sống ở Việt nam hay ở bên các trại tỵ nạn. Quanh năm suốt tháng, từ sáng sớm tới chiều tối, trời mưa cũng như trời nắng, chúng ta phải lao động vất vả, cơm không đủ ăn, áo không có mặc, đau không thuốc uống, dẫu thân thể nhọc mệt vì lao lực, nhưng ngày ngày chúng ta vẫn sáng đi lễ, tối đọc kinh, bầu khí gia đình xem ra đạo đức, đầm ấm và hạnh phúc. Bây giờ sống trên những đất nước phù hoa, mọi sự đều sung túc, trời nóng có máy lạnh, trời lạnh có máy sưởi, ra đi có xe cộ, về nhà có truyền thanh truyền hình. Cuối tuần có nhiều thì giờ nghỉ ngơi, có nhiều thì giờ nhậu nhẹt, nhưng người ta không có thì giờ để đi lễ, để thờ phượng Chúa, để cảm tạ muôn hồng ân Chúa đã ban cho cuộc đời may mắn của họ. Và rồi từ đó, hạnh phúc gia đình họ cũng bắt đầu khủng hoảng.

Thật vậy, trong hoan lạc con người sẽ dễ quên mất Thiên Chúa và dễ đi tìm một thần tượng theo sở thích của mình.

Tôi thích lối giải quyết như trong câu chuyện của Jacob. Nó xem ra đơn giản nhưng hữu hiệu. Chính Thiên Chúa đã làm ông đi khập khễnh. Chính Ngài đã gây nên điều đó. Ngài đã để tai ương phá hại mùa màng, để quân thù giết hại dân lành. Ngài có thể can thiệp. Nhưng không, Ngài đã để chúng ta đau khổ.

Nhưng chắn chắn trong khi làm chúng ta đau khổ, Ngài muốn mang lại một cái gì tốt đẹp cho chúng ta từ đó.

Có bị thương vong, chúng ta mới trầm tĩnh con người chúng ta lại. Có khóc, chúng ta mới hiểu được những giọt lệ sầu của những người chung quanh. Có bị giam cầm, chúng ta mới thấy sự quí giá của những tháng ngày được tự do.

Nếu những người Do thái không bị thử thách, không bị đàn áp, không bị bóc lột, không bị khinh khi, không bị nguyền rủa, không bị đánh đập, không bị giết hại, không bị bắt làm thân trâu cày ở miền Aicập, Môisen không thể nào thuyết phục được họ lên đường trở về hứa địa. Nếu sa mạc cũng có đầy những hoa thơm trái ngọt, những giòng suối tươi mát, chắc chắn họ sẽ không thèm trở về đất hứa .

Thật vậy, không có một động lực nào thúc đẩy chúng ta hướng về ngày mai một cách hiệu quả hơn là ĐAU KHỔ. Đó là lý do tại sao thiên thần Chúa đã đánh vào đùi ông Jacob.

Lm. Lê văn Quảng

YÊU THẬT – MẤY AI?

YÊU THẬT – MẤY AI?

Mẩu Bút Chì

(Trích tập san ghxhcg tập 9)

conggiaovietnam.net

Những ngày đầu tháng 7 tại Huế

Xã hội ngày nay tràn ngập sự giả dối: hàng giả, học vị giả, đám cưới giả (chồng giả, vợ giả!); công ty ảo, tài chánh ảo, vinh hoa ảo; sống hình thức bề ngoài, xã giao hình thức bề ngoài, và… xây cất cũng hình thức bề ngoài nốt! Tình hình đó khiến lòng người cứ nơm nớp, hoang mang với hai xu hướng: Một là cảnh giác, e dè, thậm chí sợ hãi sự dối trá lọc lừa; hai là thèm được “gặp” cái thật, “ở chung” với “người thật, việc thật”. Thế nhưng mấy ai quyết chí SỐNG theo sự thật, TÌM KIẾM sự thật và XÂY DỰNG sự thật?

“Mấy ai” nghĩa là vẫn có, vẫn còn những “ai” – dù ít nhưng có. “Mấy ai” ấy phải mang trong mình một tình yêu rất thật, xuất phát từ Đấng Tối Cao, đủ mạnh để vượt qua tuổi tác, khó nghèo, và đủ thứ ngăn trở khác.

Tôi biết một linh mục già, đã quá tuổi “thất thập cổ lai hy” mà vẫn miệt mài ngược xuôi phổ biến giáo huấn xã hội của Giáo Hội, mong muốn xây dựng một xã hội lành mạnh, tôn trọng phẩm giá con người và trật tự luân lý.

Tôi biết một linh mục trẻ, vì nhiệt huyết rao giảng Tin Mừng, đã không ở yên nơi thâm nghiêm kín cổng cao tường mà can trường bước ra chốn đầu sóng ngọn gió, đứng mũi chịu sào.

Tôi còn biết nhiều linh mục khác, có tuổi cũng như trẻ tuổi, thương mến giáo dân vô cùng. Có vị ra tận ngõ đón đợi giáo dân (làm tôi cứ nhớ đến người cha nhân hậu trong dụ ngôn Tin Mừng), để mà truyền dạy hết lòng những bài học quý báu cho dù giữa trưa hè oi ả. Có vị “chẳng có gì làm của” ngoài sự khó nghèo, nhưng hễ được ai biếu món gì ngon lại gói ghém đem cho giáo dân, bề ngoài khiêm nhu hết mực nhưng bề trong lại chứa đựng một ý chí rất kiên cường. Có vị “tuổi đời còn mênh mông” nhưng dấn thân cho công lý, cho người nghèo không hề mệt mỏi, cho dù lắm lúc phải “tróc vẩy, trầy vi”.

Tôi biết có những tu sĩ nam nữ âm thầm trong đời sống khó nghèo, mai danh nhưng không ẩn tích, mà hòa vào dòng đời lắm lúc như những đợt sóng dữ. Ngày ngày la cà ở các bờ kênh hôi thối hay các khu nhà ổ chuột, lân la trò chuyện, đánh bạn với các trẻ đánh giầy hay bán bánh mì, vé số. Các vị ấy cũng làm thân với các cô gái phải bán thân để nuôi gia đình, hoặc những người mang những căn bệnh bị xã hội hất hủi rẻ khinh, để rồi trong ơn Chúa, tìm cách băng bó những mảnh đời bất hạnh, những tâm hồn tan nát ấy.

Đâu đó trong cuộc đời, tôi gặp những con người rất thành đạt, có học vị, có lợi danh. Nhưng họ lại làm tôi ngỡ ngàng, ngạc nhiên quá đỗi khi họ sống quá giản dị, đơn sơ. Họ làm việc hối hả để cống hiến cho đời. Họ như sợ những tháng ngày của đời người lướt qua như bóng câu qua cửa sổ. Và tôi cũng gặp những con người có cuộc sống thật túng thiếu, khó khăn, nhưng trái tim thật quảng đại. Họ như nhận ra Chúa mượn đôi chân họ để đến với tha nhân, mượn đôi tay họ để chăm sóc người nghèo. Đó là những người thật đáng kính trọng!

Sẽ là thiếu sót nếu chỉ thán phục, ngợi  khen những con người đáng mến ấy mà không nhắc đến những bậc làm cha mẹ, những người vợ, người chồng hay những người con đang âm thầm cổ vũ những hành vi đẹp, những hy sinh quên mình cho tha nhân. Họ hết thảy đều mang trong mình một tình yêu rất thật, rất đẹp, lấp lánh dung mạo của Thiên Chúa Tình Yêu.

Chẳng “mấy ai” nhưng nếu có kể cũng không cùng.

Tôi cũng biết một “chuyện tình” giữa những tâm hồn đồng điệu thật đẹp: “Mấy ai” Sài Gòn đi tìm “mấy ai” Huế để nối rộng vòng tay. Chỉ có bấy nhiêu mà sao như cảm thấy cả đất trời và lòng người đều nao nao xúc động.

Cơn mưa Huế bất chợt giữa mùa hè nóng bức như rửa trôi những căng thẳng, lo âu của lòng người, trả lại cho Huế cái nhẹ nhàng, lắng sâu. Cơn mưa như phép màu, như cái ôm hôn nhẹ nhàng của Chúa Cha nhân từ dành cho những đứa con bé nhỏ. Cơn mưa giữ chân người ở lại cùng nhau, để bày tỏ những điều cần thiết, để cởi mở và kết liên.

Rồi bữa cơm chia tay, cơn mưa lại đến, nhũn nhặn, nấn ná, để bầu khí trò chuyện càng thân tình. Bao nhiêu xúc động, suy tư, bao nhiêu trải nghiệm tuôn trào. Huế – Sài Gòn bắt tay nhau, nối kết nên một.

Sống cho sự thật vốn đã khó, yêu thật giữa dòng đời dối trá này lại càng khó hơn. Trong niềm tin tôn giáo, tôi tin tình yêu ấy đến từ trời: Một “tình yêu tay ba mang hình Thập Tự”, như tình yêu giữa Huế – Thiên Chúa – Sài Gòn.

Tôi luôn tin rằng mọi Tình Yêu chân chính bền vững – giữa cá nhân với cá nhân, tập thể với tập thể – đều phải có sự hiện diện của Chúa, Ngài ở giữa. Ngài là chất keo nối kết tuyệt vời.

Tác giả: Mẩu Bút Chì

BÓNG GIÁO ĐƯỜNG NƠI TRẠI PHONG

BÓNG GIÁO ĐƯỜNG NƠI TRẠI PHONG

Ngày tôi dâng Thánh lễ tạ ơn Linh mục ở quê nhà là một ngày có những kỷ niệm in sâu.  Giữa bao nhiêu khách mời, có một nữ tu đến muộn.  Muộn vì chị ở một nơi xa.  Xa cả khoảng cách không gian, và xa cả khoảng cách tình người.  Chị sống với những người cùi ở Tây Nguyên, nơi con người ngại lui tới.  Chị không gọi họ là “cùi,” chị gọi họ là những người “phong,” để làm dịu đi thực tế của căn bịnh, và làm dịu đi cái ấn tượng về những con người kém may mắn này.

Hơn 30 năm trước, chị dạy tôi giáo lý và cách sống đạo, rồi chị sống những điều chị dạy.  Tha nhân, niềm đau khổ, tình thương, và lòng cảm thông không còn là bài giáo lý trên những trang sách.  Chị biến những trang sách bằng giấy, thành trang sách của tâm hồn.  Rời giáo xứ ấm áp tình người, để đến nơi xa xôi thiếu bước chân con người.  Những hình ảnh tưởng chừng như chỉ có trong tiểu thuyết.

Hôm nay chị ghé qua nơi giáo xứ mà chị đã phục vụ khi tuổi còn thanh xuân, để xem người học trò năm xưa dâng lễ tạ ơn.  Chị không lái xe.  Người tài xế đưa chị bằng xe Honda là một người cùi.  Chị không ngại ngồi bên anh, tình thuơng phục vụ lớn lao hơn sự sợ hãi.  Chị đã lặng lẽ ngồi bên cạnh những người cùi cả một quãng đời dài.

Chị gần họ, hiểu nỗi đau và niềm cô đơn.  Cô đơn trong tình người, và cô đơn giữa những người cùng đạo.  Chị hiểu hơn điều này khi thấy người bạn cùi cùng với chị đến gần với giáo đường hôm nay, nhưng anh thấy mình thật xa lạ.  Anh ngại đứng bên những người lành lặn, nên chọn một góc xa cho riêng mình ở phía cuối cổng giáo đường.  Anh không ngại đứng xa, vì cả cuộc đời, anh đã sống ở một góc xa ở phía cuối cổng cuộc đời.

Anh nhìn những bước chân vội vã của trẻ thơ đi về giáo đường, những chiếc áo dài thướt tha của xóm đạo, những bộ vét sang trọng của người đi tham dự lễ tạ ơn, và cả những chiếc áo dòng bóng bẩy của nhiều tu sĩ trẻ.  “Giáo hội sang trọng quá,” anh thốt lên với người nữ tu khi tan lễ.  Chị cũng tỏ ý đồng tình,  “Ừ, vui hơn ở trong trại cùi.”

Trại cùi có gần một trăm em, không kể người lớn.  Nó ở một nơi hẻo lánh của miền tây nguyên.  Mảnh đất núi đồi, thiếu thốn phương tiện.  Thiếu thốn nhất là nguồn nước, điều kiện cần thiết cho những người bịnh phong tắm rửa mỗi ngày.  Các em sinh ra không có sự chọn lựa cho số phận của mình, vậy thì làm sao có được những bước chân rộn rã như trẻ thơ xóm đạo.  Người nữ tu biết những thánh lễ nơi xóm đạo là vui, nhưng lại chọn đến ở một nơi buồn.

Chị mang hình ảnh giáo đường đến với những con người vì số phận không dám đến với giáo đường.  Trong ý nghĩa sâu xa nhất, chị là hình ảnh của giáo đường.  Thầm lặng, không rộn vang tiếng hát, không có những tà áo dài thiết tha, nhưng có nhịp thở và trái tim rung cảm của cảm thông.

Ở nhiều nơi, giáo đường không có Thánh lễ nên giáo đường trở nên trống trải.  Nhưng có Thánh lễ mà không tiếp tục lễ hy sinh trong cuộc sống thì vẫn chỉ là những nghi lễ hững hờ.  Khi Chúa Giêsu truyền dạy, “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy,” Chúa không chỉ có ý truyền cho giáo hội cử hành Thánh lễ mỗi ngày nơi bàn thờ, mà là truyền dạy sống Bí Tích Thánh Thể qua hành động như Ngài hành động: trở nên bánh và rượu để nuôi dưỡng sự sống cho thế giới.  Mỗi một nghĩa cử yêu thương là bánh, mỗi một chọn lựa hy sinh, dâng hiến là rượu.  Tình yêu trao ban và lòng hy sinh làm nên thánh lễ cuộc đời.  Người mẹ thức khuya lo lắng cho con, người cha lam lũ cho cuộc sống tươi xinh của gia đình, hay như người nữ tu hiến dâng một đời cho những con người bất hạnh, tất cả đang sống mầu nhiệm Thánh Thể. Trở nên bánh và rượu cho anh chị em mình là đang tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô.  Thánh lễ trở nên thiết thực quá, không riêng gì cho Linh mục, nhưng cho tất cả mỗi Kitô hữu, biết sống cho tha nhân.

Khi Thánh lễ Tạ Ơn Linh Mục kết thúc, người nữ tu đến chào.  Ánh mắt chị vui, long lanh, xen nỗi xúc động.  Chị nói, “Chị đến xem em dâng lễ ra sao!  Vui quá”.  Thánh lễ vui thật vì có hoa, có nến, có ca đoàn rộn vang tiếng hát, có tấp nập bước chân, có cả quay phim và tiệc mừng nữa.  Nhưng Thánh lễ vui chỉ là khởi điểm bắt đầu của hy lễ hiến tế.  Để mời gọi sống những Thánh lễ trong cuộc đời có niềm vui xen lẫn nước mắt, có hạnh phúc và đau khổ, có nhận lãnh và mất mát, được yêu thương và có cả phản bội nữa.

Tôi nói với chị, “Thánh lễ em dâng hôm nay có hoa, có nến, có rộn vang tiếng hát, và có ngàn nụ cười trên môi.  Còn thánh lễ chị dâng trong cuộc đời bên những con người đau khổ, thiếu vắng nụ cười, để nuôi dưỡng sức sống và niềm hy vọng cho một phần thân thể đau khổ của Đức Kitô, thật sự là sống trọn vẹn bí tích Thánh thể: trở nên bánh rượu cho thế giới.”

Khi nắng chiều xuống dần, chị theo xe cùng người bạn cùi trở về nơi xa xăm.  Tôi đứng nhìn bóng dáng họ khuất dần theo nắng nhạt.  Ở phía xa, lác đác ánh điện đường bắt đầu sáng.  Xe chị không dừng lại giữa phố phường sáng rực, nhưng lăn lóc qua những làng quê tĩnh lặng, mộc mạc, khuất lấp giữa núi đồi.  Chị mang Thánh Lễ và mang cả bóng Giáo đường đến với nhiều cuộc đời ngổn ngang đang sống ở nơi xa xăm nhất của tình người.  Tôi nhìn bóng dáng chị, rồi nghĩ đến Thánh Lễ đời mình.

Những năm Linh mục qua đi với nhiều Thánh lễ nơi bàn thờ, nhưng lòng vẫn mãi băn khoăn, bao giờ mình mới sống trọn vẹn mầu nhiệm Thánh thể như người nữ tu ấy.  Bao giờ mình mới trở nên bánh rượu đích thực như chính Đức Kitô để nuôi dưỡng sự sống cho thế giới?  Hiến lễ nào cũng có giây phút bắt đầu, nhưng kết thúc lời kinh lại chỉ diễn ra qua những hành động trao ban.  Cuối Thánh Lễ sáng nay, tôi nguyện thầm với Chúa:

Lạy Chúa, xin cho thánh lễ con dâng mỗi ngày giúp biến đổi nghi lễ thành hành động yêu thương.  Xin cho lời truyền của Thầy Chí Thánh “Hãy làm việc này mà nhớ đến thầy” thôi thúc chúng con hành động vì tha nhân, như hình ảnh người nữ tu hao gầy trở nên bánh rượu cho một phần nhân loại khao khát tình người.  Có khi phần nhân loại khao khát ấy lại chính là những con người cụ thể luôn hiện diện trên từng lối đi của đời con.

Nếu lễ dâng được cử hành mỗi ngày nơi giáo đường, thì hành động trao ban của chúng con cũng cần được diễn ra nơi bàn thờ của cuộc sống như một hy lễ nối dài.  Nếu được như thế, Thánh thể sẽ trở thành nguồn sức sống cho gia đình con, cho cộng đoàn, và cho cái thế giới quanh con đang cần được nuôi dưỡng bằng niềm hy vọng.  Những Thánh Lễ ấy, tuy không có tiếng hát, không có hoa, có nến, không có những bài giảng hùng hồn, nhưng lại là những Thánh Lễ mang đến sức sống cho nhiều tâm hồn.  Con không thể mang Giáo đường vào cuộc sống, nhưng xin cho con trở nên bóng giáo đường giữa lòng đời, như người nữ tu hao gầy bé nhỏ, nhưng có một trái tim có khi lớn lao hơn cả những Giáo đường lộng lẫy nhưng thiếu vắng tình thương.

Nguyễn Thảo Nam

From: langthangchieutim@gmail.com &

Anh chi Thu Mai goi

Bông hồng trắng

Bông hồng trắng

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 12:36 Sáng 21/08/13

VRNs (21.08.2013) – Sài Gòn – Rằm Tháng Bảy được giới Tăng Ni Phật tử gọi là Đại Lễ Vu Lan, dịp đặc biệt để con cái báo hiếu các bậc sinh thành, tổ tiên đã khuất. Theo tín ngưỡng dân gian, Vu Lan còn là ngày xá tội vong nhân. Đây là Mùa Báo Hiếu, những ai còn mẹ thì được gắn Bông Hồng ĐỎ, những ai mất mẹ thì được gắn Bông hồng TRẮNG.

Mỗi năm đến dịp lễ Vu Lan tôi lại cảm thấy “ghen” với những người còn cha mẹ – nhất là còn mẹ, vì tôi thấy họ là những người may mắn! Người Trung quốc xác định: “Phúc đức tại mẫu”. Người có công trực tiếp với chúng ta nhất chính là Cha Mẹ: Mẹ khởi đầu cho cuộc sống, tình yêu và hạnh phúc; Cha khởi đầu cho ý chí, niềm tin và sức mạnh.

Mẹ già như chuối ba hương

Như xôi nếp một, như đường mía lau

Vu Lan nhắc nhớ chúng ta về chữ Hiếu mà có lẽ ngày nay có chút gì đó bị lu mờ. Người Việt nói riêng, và người Á Đông nói chung, rất trọng chữ Hiếu. Như vậy, Vu Lan là một nét văn hóa đẹp đáng tôn trọng và duy trì. Điều này hẳn không sai lệch, vì ai trong chúng ta cũng nhờ thừa hưởng từ cha mẹ mà có hình hài, có thân thể này. Sự trao truyền đó là huyết thống. Mọi điều hay, dở hoặc tốt, xấu của chúng ta là niềm vui mừng hoặc đau khổ của cha mẹ. Bổn phận làm con không bao giờ được quên ơn nghĩa sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ, vì đó là thâm ân, không thể chối cãi, không thể bác bỏ. Thiết tưởng cũng nên biết một chút về lễ Vu Lan – vì nhiều người Công giáo có thể chưa biết rõ!

TÍCH XƯA. Bồ tát Mục Kiền Liên là đại hiếu tử, vì ông đã cứu mẹ mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ.

Sau khi đã chứng quả A La Hán, ông tưởng nhớ và muốn biết mẹ mình thế nào nên dùng huệ nhãn dò tìm. Thấy mẹ rơi vào ngục A Tỳ làm quỷ, bị đói khát, khổ sở, vì đã gây nhiều nghiệp ác, ông đem cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ. Tuy nhiên, do đói lâu nên khi ăn, mẹ ông đã dùng một tay che bát cơm để không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, thế nên khi thức ăn vừa được đưa lên miệng thì lập tức hóa thành lửa đỏ. Quá thương cảm, Mục Kiền Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ. Phật dạy: “Dù ta thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Rằm Tháng Bảy là ngày thích hợp lập trai đàn để cầu siêu, thiết trai diên để mời chư tăng thọ thực. Trước khi thọ thực, các vị này sẽ tuân theo lời dạy của Phật mà chú tâm cầu cho cha mẹ và ông bà bảy đời của thí chủ được siêu thoát”.

Rằm Tháng Bảy là ngày chư tăng tự tứ (kết thúc hạ an cư), dùng thức ăn uống đựng trong bồn Vu Lan cúng dường Tam bảo sẽ được vô lượng công đức, cứu được cha mẹ 7 đời.

Tôn giả Mục Kiền Liên làm đúng như lời Phật dạy. Quả nhiên vong mẫu của ông được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ mà sanh về cảnh giới lành. Cách thức cúng dường để cầu siêu đó gọi là Vu Lan Bồn Pháp, lễ cúng đó gọi là Vu Lan Bồn Hội (tiếng Phạm là Avalambana), đó là nghi thức cầu siêu độ cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân thuộc nhiều đời, được cử hành vào ngày Rằm Tháng Bảy âm lịch hàng năm, theo lời Phật dạy trong kinh Vu Lan Bồn. Còn bộ kinh ghi chép sự tích trên thì gọi là Vu Lan Bồn Kinh.

Theo Phật Quang Đại từ điển, Vu Lan (tiếng Phạn là Ullalambana), cũng gọi là Ô-lam-bà-noa. Hán ngữ dịch là Đảo huyền (nghĩa là “treo ngược” – nỗi khổ của người chết giống như cái khổ của người bị treo ngược, cực kỳ đau đớn), cũng gọi là Vu Lan Bồn Hội hoặc Bồn Hội.

Và thế là mỗi năm, khi ngày này đến gần, các phụ nữ trong gia đình lại bận rộn hơn với công việc chuẩn bị cúng rằm nhớ ơn tổ tiên, lên chùa khấn cầu Phật phù hộ cho gia đình, cha mẹ được bình an phúc đức. Theo truyền thuyết Trung quốc, Vũ đế vương nhà Lương là người đầu tiên cử hành hội Vu Lan Bồn Hội.

Theo Từ điển Văn hóa Cổ truyền Việt Nam, Vu Lan (bồn) là cái chậu đựng hoa quả, phẩm vật dâng cúng. Lễ Vu Lan được cử hành vào Rằm Tháng Bảy âm lịch hàng năm, là lễ dâng các phẩm vật cúng chư tăng đựng trong chiếc Vu Lan để cầu siêu cho vong hồn người thân thoát khỏi địa ngục. Rằm Tháng Bảy âm lịch gọi là ngàu vong nhân xá, là ngày các vong hồn được tha tội. Bởi vậy người ta thường đốt vàng mã cúng gia tiên.

SUY TƯ. Người nào thấy cha mẹ già có vẻ lẩm cẩm một chút hoặc không văn minh hiện đại mà xem thường cha mẹ là có tội lớn. Dù cha mẹ lẩm cẩm bao nhiêu đi nữa, có kém kiến thức hơn mình, hoặc có là gì đi nữa, thì đó vẫn là những đấng sinh thành đáng kính. Chúng ta phải nhớ rằng bản thân mình là một phần thân thể cha mẹ, không thể tách rời, không thể đứng riêng, dù muốn chối bỏ cũng không chối bỏ được. Thân này đã là của cha mẹ mà mình phụ rẫy, vong ân bội nghĩa thì thật vô lý, không xứng đáng là một con người, vì một danh nhân đã nói: “Chỉ có ai biết yêu thương mới xứng đáng nhận danh hiệu con người”. Do đó, lòng hiếu thảo đối với chúng ta là một chân lý. Trên đời này không có ơn nào cao trọng bằng ơn cha nghĩa mẹ. Nếu ơn cao nghĩa dày như vậy mà chúng ta quên đi thì những ơn khác trong xã hội – ơn của bạn bè, tình làng nghĩa xóm, ơn của người vãng lai,… – làm sao chúng ta có thể biết ơn và đền ơn?

Kinh thánh dạy: “Hãy thảo kính Cha Mẹ” (x. Tb 4:3; Hc 3:8), còn Kinh Phật dạy: “Tột cùng thiện không gì bằng CÓ HIẾU, tột cùng ác không gì bằng BẤT HIẾU”. Không có gì đối lập, dù đạo hay đời. Thật tuyệt! Sau khi Đức Maria và Đức Thánh Giuse tìm thấy Chúa Giêsu và “trách yêu”: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2:48), nhưng rồi Chúa Giêsu vẫn ngoan ngoãn theo cha mẹ về Nadarét và hằng vâng phục các ngài (x. Lc 2:51). Vì vậy, lễ Vu lan gợi nhớ tinh thần cao đẹp của chúng ta dành cho tổ tiên. Nghĩ đến tình thương cha mẹ đối với chúng ta như thế nào để cố gắng tu thân, cố gắng đền ơn đáp nghĩa “chín đức cù lao” của song thân phụ mẫu, như thế mới phần nào xứng đáng là người con có hiếu – dù có thể chúng ta không theo kịp “nhị thập tứ hiếu” (chuyện 24 người con chí hiếu).

Hãy thắp một nén nhang mỗi tối và cầu nguyện cho những người đã khuất. Đó vừa là văn hóa vừa là đạo đức và sống đức tin Công giáo vậy!

TRẦM THIÊN THU

ĐỨC TIN CỦA ANH CHỊ EM TÂN TÒNG.

ĐỨC TIN CỦA ANH CHỊ EM TÂN TÒNG.

Phan Sinh Trần

08/2013

Ngày nay mốt thời thượng của nhiều bạn Trẻ là từ bỏ Đức Tin, nhưng trong số đó, cũng có nhiều người đang tỏ lộ một Đức Tin mạnh mẽ đáng cảm phục.

Làm sao để biết đức tin của Ta là mạnh hay yếu về phẩm và Đức Tin của người khác là nhiều hay ít về lượng. Làm sao đo lường Đức Tin?

ĐỨC TIN MẠNH ĐO BẰNG HIỆU QUẢ TRONG LỜI CẦU :

Năm 2011 chúng tôi có dịp hỏi về cách cầu nguyện của một Anh trong lớp Tân Tòng thuộc Giáo xứ Đức Kitô Ngôi Lời Nhập Thể , Houston , TX. Anh cho biết Anh cầu nguyện rất có kết quả cụ thể là cách đó khoảng mấy tuần, trong công việc lát gạch làm cho một nhà thầu nọ, khi đó, anh bí không thể lát được vì mặt phẳng đổ bê tông quá méo mó, không thể nào lát gạch được, trước đó đã có mấy thợ khác bó tay chịu thua. Ông nhà thầu liền chỉ định cho anh đến giúp, tính tới, tính lui anh cảm thấy mình cũng bị bí kế như họ, thế là … anh quì gối ngay tại chỗ làm, khoanh tay anh hỏi Chúa: “Cha, con bí rồi, Cha tính sao thì tính dùm đi” … Cầu nguyện xong, anh bắt tay làm ro ro một hồi , … khi làm xong , Ông chủ của Anh đến xem và còn khen là lát gạch đẹp nữa. Anh đơn sơ cho biết “ Cầu nguyện với đức tin thì rất kết quả”. Phần tôi thì rất thích cách cầu nguyện trong lòng tin, gọi Chúa bằng “Cha” của anh này. Anh đã nói “ Cầu nguyện với lòng Tin thì hầu hết trong mọi trường hợp đều được Cha ban cho nếu đó là điều có lợi cho mình”.

Rồi một thanh niên mới biết Chúa khác tên là Phúc ở Hội Thánh Baptist , Houston, TX. Anh rất hăng hái học hỏi Lời Chúa, một ngày nọ có một Chị tên là Nh trong nhóm chia xẻ Lời Chúa bị sưng phù chân, mắt cá chân sưng múp míp và kéo dài lên tới phần dưới của bắp vế cũng bị phù to, chị không thể đi đứng bình thường và nhờ cầu nguyện, Phúc được ông trưởng nhóm khuyến khích cầu nguyện cho Chị N, em quì xuống, cầu xin nhân danh tên quí yêu là Chúa Giê Su và truyền cho bệnh tật phải tan biến. Ngay ngày hôm sau, khi Nhóm họp lại thì đã thấy bàn chân của Chị N rút hết phù , bàn chân khô tóp lại và lộ cả mắt cá. Chị đi đứng nhanh nhẹn và bình thường như chưa hề bị đau chân.

Bạn biết không , anh Thanh Niên này cùng với cả nhà mới tin Chúa có ba năm rưỡi trời thôi ! nhưng đức tin, yêu Chúa Giê Su của anh đã mạnh hơn nhiều . Anh đã tin đến mức đạt được lời hứa của Chúa Giê Su: “Hãy xin, thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp; hãy gõ thì sẽ mở cho” (Luca 11:9)

Nếu bạn cho rằng hiệu quả của lời cầu xin cũng là thước đo Đức Tin của một người , thì có lẽ bạn cũng sẽ nhận thấy nhiều Anh Chị Em Tân Tòng có lòng tin vượt qua cả những Tín Hữu già cỗi là chúng ta nữa.

ĐỨC TIN MẠNH ĐO LƯỜNG BẰNG ĐỘ TRUYỀN TẢI:

Lúc đó là vào khoảng năm 2007 , khi Chị Ng còn là một dân chơi , không tuần nào không viếng vũ trường Diamond Club , Houston, và từng trải đủ các món ăn chơi, cũng như các tranh cạnh của cuộc chơi trong giang hồ. Rồi một hôm, sự say mê tin Chúa của con Chị đánh động chị , chị thắc mắc , con bé đó làm sao mà nó chịu đựng các la lổi, dằn vặt của mình từ ngày nó đi theo đạo Chúa và Nhóm Thánh Linh , làm sao mà nó cứ ở trước cái hộp nhỏ đựng bánh lễ trong nhà thờ hoài, nó quì có đến hàng giờ mà không biết chán, làm sao và làm sao, từ tò mò chị đến thử và được Chúa thu hút làm đệ tử hồi nào không hay ! Đức Tin bằng việc làm, bằng đời sống của con Chị đã cảm hóa Chị , rồi Chị cảm hóa Anh cũng trở nên giống như con và Chị . Đức Tin sống động từ Chúa thật có tính truyền tải cao, Đức Tin rất hay lây !

Thạt là tuyệt nếu đức tin của ta cũng có độ truyền tải cao như của cả nhà Chị Ngọc. Căn nhà Chị ở, trên đường Elridge, nay đã trở thành nơi ca ngợi Chúa cho nhiều anh em ngoại đạo. Từ chỗ một nhóm vài ba người nay đã lên đến hơn ba chục người , từ chỗ cầu nguyện trong một hai giờ nay đã lên đến ba bốn giờ và hai lần mỗi tuần. Xin Chúa cho đức tin của ta mạnh như Đức Tin Truyền Tải này của các Anh Em Tân Tòng !

ĐỨC TIN MẠNH ĐO BẰNG THÁI ĐỘ DẠN DĨ LÀM CHỨNG CHO CHÚA:

Một người có đức tin mạnh mẽ thì rất dễ biết vì đi đến đâu họ cũng mạnh dạn đứng lên làm chứng cho Chúa. Trường hợp của Chị Nh , có tiệm hớt tóc trên đường Bellaire, trong khu Salomon, Houston. Chị vốn theo đạo Phật Giáo Hòa Hảo từ nhỏ .Khi chị được biết về Chúa, thì tình yêu của Chúa thu hút Chị , đời sống của Chị được thay đổi, từ bệnh hoạn sang mạnh khỏe , từ buồn lo đến độ đau bao tử trở nên vui tươi bằng an. Từ tình trạng tan hoang gia đình đến độ phát quẩn , không còn đủ lý trí thành ổn định và hòa giải trong tình Mẹ Con, Vợ Chồng. Do đó , Chị Nh không bao giờ quên làm chứng cho Chúa về những ơn lành Chúa đã và đang ban cho từ ngày biết và yêu kính Chúa. Chị nói về ơn Chúa cho bắt cứ ai đến tiệm hớt tóc, muốn nghe về vị Chúa cứu khổ , cứu nạn của Chị , cho dù đó là Mỹ đen, Mễ hay người Việt , người Hoa. Cũng có khi gặp một vị khó tánh cho là Chị quá độ, Chị cũng không quê độ hay sợ hãi, chùn bước vì Chị cho rằng: “ ai nói gì mặc kệ họ, phần Chị không thể nào không tìm cách cứu giúp người ta để họ cũng được Chúa cứu như chị nhất là được Chúa cho sự sống đời đời ” .

Đối với Anh Chị Em Tân Tòng đi trong Tin Yêu trên đường Giê Su thì Đức Tin quả là một hồng ân.

Còn Chúng ta , những cây lâu ngày trong Giáo Hội thì sao?. Đúc Tin của chúng ta mạnh hơn hay yếu hơn, nhiều hơn hay ít hơn. Xin Chúa cho bạn và tôi có thể noi gương các Anh Chị Em Tân Tòng đạt đến viến tượng như Chúa muốn như trong sách Mat Thêu 13, 31-32:

“Về Nước Trời, thì cũng in như hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Nó nhỏ tí, thua mọi thứ hạt giống, nhưng khi nó đã lớn lên, thì to lớn hơn rau cỏ mà thành một cây, đến đỗi chim trời đến nương náu nơi cành nó”.

Phan Sinh Trần