CHỈ CẦN CA NGỢI CHÚA, RỒI ƠN LÀNH SẼ ĐẾN.

CHỈ CẦN CA NGỢI CHÚA, RỒI ƠN LÀNH SẼ ĐẾN.
Phan sinh Trần
08/2013
Ai cũng biết Ca Ngợi Đức Chúa qua các bài hát là tốt, không phải chỉ làm cho Chúa vui mà còn có ích lợi cho mình .
Có thể Bạn sẽ nói, biết rồi ! Có khi Bạn cũng cảm thấy yêu Chúa hơn, gần Chúa hơn khi mình hát ca ngợi Chúa phải không ?
Về phần Nhóm chía xẻ Lời Chúa ở Giáo xứ Lord Incarnation, Houston chúng tôi cũng có những linh nghiệm mà hôm nay xin cùng chia xẻ với Bạn .
  • · Khi đó là vào năm 2009, chúng tôi đang họp nhau ca ngợi Chúa ở Dallas, Texas, thì có một chị, tên là H bước vào xin cầu nguyện, Chị H khóc lóc nhiều và xin cầu nguyện “cho Em và gia đình Em”. Chúng tôi chỉ biết dâng chị cho Chúa rồi lại tiếp tục thờ phượng Chúa qua các bài hát, “ I love you Lord and I lift up my soul to worship you”, “ Lời Ngài là ánh sáng đời con “…. Sau khi cùng chúng tôi ca ngợi Chúa xong thì chị về , một tuần sau chị lại quay trở lại, lần này chị hớn hở , mừng rỡ kể lại câu chuyện chữa lành, chị cho biết tuần trước sau khi xin cầu nguyện và ca ngợi Chúa, là ngày thứ bẩy, đến sang thứ hai thì chị lên bàn mổ vì có bướu trong tử cung, nhiều tháng trước, bác sĩ chụp cả thảy 6 tấm hình X-Ray và đã quyết định chị phải mổ khối u có đường kính 6 cm, vào ngày thứ hai hôm đó , khi Bác sĩ khám lần chót để định vị mổ thì không thấy khối u đâu nữa, Bác sĩ chụp lại X-ray và xác nhận khối u biến mất rồi. Chị H lập tức làm chứng rằng Chúa đã chữa cho chị khỏi. Phần chúng tôi, thì bối rối vì mới vở lẽ về những gì đã làm cho Chị khóc trong lo lắng và cười trong hân hoan. Chúng tôi nhận ra rằng Chúa đã thi ân khi chúng tôi chả biết gì ngoài việc Ca Ngợi và dâng cho Chúa ngưởi chị em của mình.
  • · Vào năm 2010, tôi có dịp tham dự tuần lễ tĩnh tâm của một nhóm 3000 người tại Arena nằm trên highway 59 gần Bellaire boulevard, buổi sáng hôm đó, được Đức Chúa Thánh linh tác động, mọi người ca ngợi Chúa kính yêu rất là mạnh mẽ , ai cũng reo hò , nhảy mừng. Ôi chỉ có năm phút sau thôi…, Chúa yêu quí đã chữa lành cho một chị mù cả hai mắt được nhìn thấy trở lại bình thường, sau đó chị lên sân khấu và làm chứng rằng Chị mù đã 6 năm, từ khi bị người chồng trong cơn ghen, điên loạn, ông đã bắn vào đầu chị, quá may mắn, viên đạn không làm chị chết nhưng nó làm mù cả hai mắt.
Cả 3000 người hôm đó chắc chưa kịp xin ơn vì mới bắt đầu ca ngợi Chúa với hết cả tấm lòng thôi mà.
  • · Mới đây vào tháng 7-2013 khi Nhóm chúng tôi có một người mới gia nhập cùng Ca Ngợi Chúa chung với Nhóm. Khi đã được bốn tuần thì Chị lên chia xẻ cho chúng tôi được biết, Chị vốn là một người ngoại Đạo, bị stress nặng, lúc nào cũng lo lắng đủ thứ và không thể ngủ ngon giấc đã lâu, bịnh không thể chữa khỏi hay thuyên giảm, bí kế, Chị theo lời một người Bạn mời đến Nhóm để “thử” . Khi Chị cùng tham dự ca ngợi Chúa đến tuần thứ hai thì stress đã giảm được 80%, sang đến tuần thứ ba thì có niềm an vui trong lòng và tự nhiên trong lòng mong chờ để mỗi tuần lại có dịp đi nhóm, ca ngợi Chúa và sống tình thân yêu như gia đình của Nhóm. Được nghe Chị kể, chúng tôi khi đó mới vỡ lẽ : “Ca Ngợi Chúa thì có quà tặng lớn Chúa ban đó là được có thêm một người Chị Em nữa nhận biết Chúa” . Trước đó, Nhóm chúng tôi lay hoay truyền giáo mà chả có kết quả gì, dù là đã nhọc công nhiều năm trời. Ca ngợi Chúa thật là tuyệt vời phải không thưa Bạn ?
  • · Khi Ca ngợi Chúa qua kinh lòng thương xót Chúa lúc 3 giờ chiều mỗi ngày , trong vòng khoảng hơn một tháng trời thì rồi Chúa cũng đã chữa lành cho một cháu của tôi được khỏi bịnh viêm xoang đã làm khổ Cháu trong 30 năm trời , hơn thế nhiều Chúa cũng chữa lành khỏi bịnh phạm đến thân xác cho Cháu này.
CHỈ CẦN CA NGỢI CHÚA ĐỂ LÒNG TA LÊN TỚI CHÚA KẾT HỢP VỚI CHÚA
Phần còn lại ta hãy cứ để cho Chúa lo, dù đó là bất cứ nan đề gì mà bạn đang gặp phải, đang khổ sở ? Chúa là Cha rất nhân từ, Ngài biết hơn ta và Chúa giầu có, quyền uy vô cùng sẽ lo cho đời mình. Nhưng làm sao để ta có thể ca ngợi Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Ca Ngợi Chúa một cách hiệu quả và được kết hợp với Chúa, vì cao điểm của Ca Ngợi là kết hợp với Chúa mà ?
Có mấy điều này đã làm cho tôi ca ngợi và kết hợp với Chúa:
  1. 1. Ca ngợi đòi hỏi ta phải làm hòa với Chúa và tha thứ cho Anh Em trước đã.
  2. 2. Khi Ca ngợi thực sự trong Chúa, thì ta cần mặc lấy tinh thần đơn sơ như em bé, để rồi thực sự vui mừng trong sự hiện diện của Chúa
  3. 3. Sự Ca ngợi thực sự thì không để cho những lo toan thường nhật ảnh hưởng, và phó thác mọi trăn trở, âu lo cho Chúa Giê Su.
  4. 4. Sự Ca ngợi đươc Chúa yêu thích là hát ca khen Chúa với hết tâm hồn, hết trí khôn và rổi yêu mến Chúa và ở trong Ngài.
Nếu Bạn ca ngợi theo cách kể trên thì có lẽ Bạn sẽ được Chúa ban ơn nhiều hơn, có khi gấp mười, gấp trăm lần những điều trải nghiệm của Nhóm chúng tôi kể ra trên đây nữa.
Xin hãy dùng hêt sức của Bạn để ca ngợi Chúa và rồi … Chúa sẽ biến đổi Bạn và thế giới riêng của Bạn. Chờ mong tin tức tốt lành nhờ sự ca ngợi Chúa của Bạn .

Liên Hiệp Quốc chỉ trích Việt Nam thi hành án tử hình trở lại

Liên Hiệp Quốc chỉ trích Việt Nam thi hành án tử hình trở lại

Một phòng thi hành án tử hình bằng cách chích thuốc độc.

Một phòng thi hành án tử hình bằng cách chích thuốc độc.

wikipedia

Thanh Phương

RFI

Tuyên bố với các phóng viên tại Genève hôm nay 09/08/2013, bà Cécile Pouilly, phát ngôn viên Phủ Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc đã bày tỏ mối quan ngại trước việc Việt Nam thi hành án tử hình trở lại sau gần hai năm tạm ngưng.

Ngày 6/8 vừa qua, Việt Nam lần đầu tiên đã hành quyết tử tù bằng tiêm thuốc độc. Trong gần hai năm qua, Việt Nam đã đình chỉ các vụ xử tử do chưa mua được hóa chất để tiêm cho tử tù.

Cụ thể, vào tháng 7 năm 2011, Việt Nam đã quyết định không xử bắn tử tù nữa, mà thay vào đó là dùng phương pháp tiêm thuốc độc. Nhưng trong nhiều tháng trời, Việt Nam đã không thể mua được đủ lượng hóa chất cần thiết, chủ yếu là do những hạn chế về xuất khẩu của Liên hiệp châu Âu. Đến tháng 5, Quốc hội Việt Nam mới sửa đổi luật, cho phép sử dụng hóa chất sản xuất nội địa để hành quyết tử tù.

Đối với phát ngôn viên Phủ Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, việc thi hành án tử hình trở lại sau khoảng 18 tháng tạm ngưng là một bước lùi về nhân quyền ở Việt Nam. Bà Pouilly nhân dịp này bày tỏ mối quan ngại về số phận của 116 tử tù đã bị bác đơn xin khoan hồng và nay đang chờ hành quyết.

Bà cũng nhắc lại là tháng trước, Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc Navi Pillay đã viết thư cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kêu gọi Hà Nội hủy bỏ án tử hình, nhưng đã không được hồi âm. Phát ngôn viên Phủ Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc một lần nữa kêu gọi Việt Nam gia nhập số ngày càng đông những quốc gia thành viên đã tạm ngưng thi hành án tử hình hoặc hủy bỏ án tử hình, trong đó có 19 quốc gia châu Á-Thái Bình Dương. Bà Pouilly cũng yêu cầu Việt Nam giải mật các dữ liệu về án tử hình ở Việt Nam, mà cho tới nay vẫn được xếp vào loại bí mật Nhà nước.

NGƯỜI PHỤ NỮ ĐẸP NHẤT

NGƯỜI PHỤ NỮ ĐẸP NHẤT

Một công ty mỹ phẩm nổi tiếng yêu cầu dân chúng trong một thành phố lớn gửi những lá thư ngắn nói về người phụ nữ đẹp nhất mà họ biết, kèm theo là chân dung của những người đẹp này. Trong vài tuần lễ, công ty đã được hàng ngàn lá thư trả lời.

Trong số này có một lá thư gây được chú ý đặc biệt nơi các nhân viên, và chẳng bao lâu sau, nó được trình lên ông Giám đốc. Tác giả lá thư là một cậu trai nhỏ, ở một ngôi nhà đổ nát trong một ngõ cụt. Trong lá thư còn đầy lỗi chính tả, có đoạn viết:

“Người phụ nữ đẹp đó ở cách nhà cháu một dãy phố. Cháu đến thăm bà mỗi ngày. Bà làm cháu cảm thấy mình là một đứa bé quan trọng nhất trên đời. Bà cùng chơi cờ với cháu và chăm chú lắng nghe những câu hỏi của cháu. Bà hiểu cháu rất rõ, và khi cháu ra về, bà luôn luôn nói to lên là bà rất hãnh diện về cháu. Bức tranh đó cho các ngài thấy bà qủa là người phụ nữ đẹp nhất. Cháu hy vọng sau này sẽ có một người vợ đẹp như bà.”

Bị hấp dẫn bởi lá thư, ông Giám đốc muốn xem ngay hình người phụ nữ đó. Cô thư ký đưa ra tấm hình của một bà cụ tươi cười nhưng đã rụng hết răng. Mái tóc muối tiêu của bà được búi gọn sau gáy, và những nếp nhăn hằn sâu dường như lu mờ đi phần nào dưới vẻ lấp lánh của đôi mắt trong xanh …

Cuối cùng, ông Giám đốc mỉm cười giải thích:

– Rất tiếc là chúng ta không thể dùng chân dung người phụ nữ này để quảng cáo, vì bà chứng tỏ cho mọi người biết: “Ðể trở nên người phụ nữ đẹp, chẳng cần đến những mỹ phẩm của công ty chúng ta.”

Satyr White

***

Lạy Chúa, xin giúp con nhận thức rằng sắc đẹp nào rồi cũng tàn phai theo thời gian năm tháng. Xin cho con biết trau truốt vẻ đẹp linh hồn mình để tô điểm cho đời! Xin cho con biết trang điểm phần tâm linh của mình không bằng các loại mỹ phẩm nhưng bằng những công việc lành bác ái, nụ cười với tha nhân, tấm lòng rộng mở với người nghèo. Xin cho con biết trân quý vẻ đẹp thiêng liêng nơi mỗi tâm hồn chúng con vì có ngày chúng sẽ phải đối diện với vẻ đẹp toàn bích của Ðấng Chân Thiện Mỹ. Amen.

Ngọc Nga sưu tầm &

Anh chị Thụ Mai gởi

MUỐN ĐƯỢC CỨU ĐỘ: “HÃY TỈNH THỨC”

MUỐN ĐƯỢC CỨU ĐỘ: “HÃY TỈNH THỨC”

Jos.Vinc. Ngọc Biển

Ngày 21/07/2013 vừa qua, giới ca sĩ và những người hâm mộ ca nhạc đã cảm thấy bàng hoàng sau cái chết của chàng trai ca sĩ Wanbi Tuấn Anh. Nhiều người đã bày tỏ cảm xúc tiếc thương cho số phận xấu số của anh. Anh ra đi vĩnh viễn ở tuổi ươm mơ dệt mộng khi mới 26 tuổi đời.

Xa hơn một chút, trận động đất và sóng thần tại Nhật Bản ngày 11/3/2011 đã cướp đi sinh mạng của hơn 16.000 người. Không ai biết trước nên chẳng chuẩn bị gì. Khi sóng thần ập tới, nó quét sạch mọi sự, sau trận động đất đó, chỉ còn lại một đống đổ nát và hoang tàn.

Như vậy, sự sống sự chết của mình không ai biết trước được. Cái chết nó đến với bất cứ ai, vào bất cứ lứa tuổi nào. Vì thế, khi nhà thơ Nguyễn Khuyến nghĩ về thân phận mỏng manh của kiếp người, ông đã thốt lên: “Ôi nhân sinh là thế ấy! Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao”.

Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã dạy cho các môn đệ của mình bài học: “Hãy tỉnh thức! Hãy sẵn sàng”; hay nói cách khác, muốn được sống: hãy học cách chết.

1. Tỉnh thức, sẵn sàng là thái độ cần của người môn đệ

Nếu Chúa Nhật tuần trước, Đức Giêsu khiển trách nhà phú hộ giàu có là “đồ ngốc” ông ta đã cảm thấy an tâm và cậy dựa vào tiền bạc thái quá mà quên đi phần hồn của mình; đồng thời ông cũng không biết sử dụng tiền bạc bất chính để mua lấy Nước Trời, thì Chúa Nhật này, Đức Giêsu đi xa hơn để dạy cho các môn đệ bài học “sẵn sàng”; “tỉnh thức” để đón đợi Chúa đến trong ngày Quang Lâm.

Hãy “thắt lưng cho gọn”, là hình ảnh của những người trong tư thế sẵn sàng. Thật vậy, khi xưa, người Do Thái thường hay may áo với những tua dài, khi đi nhanh hoặc chạy, họ phải vận tua áo vào thắt lưng để cho gọn gàng, như thế khi di chuyển mới không bị vướng. Đức Giêsu bảo các môn đệ “thắt lưng cho gọn”, là Ngài muốn dạy các ông phải trong tư thế sẵn sàng, để khi cần hành động thì được thanh thoát, nhẹ nhàng, không bị vướng bận vào những chuyện phụ thuộc.

Còn hình ảnh “thắp đèn cho sẵn”, là hình ảnh của những người trong tư thế chuẩn bị. Họ phải chuẩn bị đèn, dầu, để khi cần phải thắp sáng lúc đêm khua là có ngay, tránh tình trạng đến nơi rồi mới đi tìm, e rằng quá trễ như 5 cô trinh nữ khờ dại.

Thật thế, ngày Chúa đến không ai biết. Ngài đến như kẻ trộm lúc đêm khua. Ngày đó chính là ngày chết của mỗi người. Vì thế, Đức Giêsu đã mời gọi hãy tỉnh thức; “hãy sẵn sàng” như người đầy tớ chuyên cần: “Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức”.

2. Thái độ tỉnh thức của mỗi người chúng ta

“Hãy thắt lưng”; “hãy cầm đèn trong tay” là thái độ sẵn sàng để đón Chúa đến của mỗi người chúng ta. Có một câu chuyện giả tưởng kể về một cuộc họp kín của hội đồng Satan, rất nhiều kế sách được đưa ra… nhưng đều bị bãi bỏ hết, chỉ có một ý kiến được tất cả hội đồng nhất trí, đó là sáng kiến của một Quỷ già. Quỷ này đưa ra một chiêu thức như sau: gấp gì, còn kịp chán, để gần chết rồi ăn năn trở lại, hãy sống vui đã! Thật thế, không ít người đã vấp phải cạm bẫy này. Họ vẫn cứ ăn chơi trác táng, cờ bạc, rượu chè, trai gái… vẫn sống bất chính, tham ô, bóc lột, thờ ơ trước nỗi khổ của anh em… họ viện vào lý do là mình còn trẻ, vẫn khỏe nên chưa thể chết được, vì thế, để đến khi về già mới hay, đâu có muộn! Thế nhưng trong thực tế đời thường, có biết bao người chết khi tuổi mới đang độ thanh xuân…Có những người chết vì thiên tai, tai nạn, bệnh tật, hay chỉ một cơn gió độc ập đến đã đủ để cướp đi sinh mạng của mỗi người…  Chính vì thế, phải “sẵn sàng” trong tư thế “tỉnh thức”.

Tuy nhiên, tỉnh thức ở đây không có nghĩa là không ngủ, cũng không phải là cứ ngồi ì ra đó và chờ đợi, đôi khi cũng không hẳn là đọc nhiều kinh, xem nhiều sách, hoặc chỉ giữ đạo vì luật… Nhưng tỉnh thức ở đây chính là hãy lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa bằng những việc bác ái, yêu thương, là sám hối, canh tân, là sống đạo và đáp lại lời mời gọi của Tin Mừng cách trung thành.  Mặt khác, khi tỉnh thức là chúng ta phải chuẩn bị để can đảm đối diện với cái chết. Nói như thánh Phaolô: “mỗi ngày tôi phải đối diện với cái chết”. Hay như câu ngạn ngữ sau:Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”.  Đối diện với nó để đón đợi nó. Cái chết đối với người có tinh thần chuẩn bị được ví như một cuộc hẹn của tình yêu. “Maranatha: Xin Chúa hãy đến” phải là niềm mong đợi cho những ai có sự sẵn sàng. Khi chuẩn bị sẵn sàng như thế, ta thấy cái chết đến với ta bất cứ lúc nào, ở đâu…ta đều thấy an vui thanh thoát vì đã chuẩn bị.

Được như thế, là chúng ta đang trong tư thế sẵn sàng đón chờ Chúa đến với ta bất cứ lúc nào. Và, cái chết đến với ta như một “cõi đi về” trong hãnh diện: “Còn tôi, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã thi đấu trong cuộc đấu cao đẹp, đã chạy hết quãng đường dài. Giờ đây, tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính. Chúa sẽ trao phần thưởng đó cho tôi, và không phải chỉ cho tôi, nhưng cho tất cả những ai mong đợi người” (2 Tm 4,6-8).

Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn trợ lực cho chúng con, để chúng con can đảm vượt qua những cám dỗ và chuẩn bị cho tốt ngày Chúa đến với mỗi người chúng con khi Chúa Quang Lâm. Xin cũng ban cho chúng con một tấm lòng rộng mở, một tinh thần sẵn sàng, để ngày Chúa đến với mỗi người chúng con như một ngày hội của tin yêu và phó thác. Amen.

Tác giả: Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Có một người Thiên Chúa sai đến tên là Gioan (5)

Có một người Thiên Chúa sai đến tên là Gioan (5)

Đăng bởi lúc 2:52 Sáng 8/08/13

chuacuuthe.com

VRNs (08.08.2013) – Sài Gòn – DÂN CHÚA ÐÔNG ÂU MỘT THỜI BÃO TÁP

Vào thời Công Ðồng Vatican II họp, Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII đặc biệt quan tâm dến tình hình Liên Xô nói riêng, các nước Xã Hội Chủ Nghĩa nói chung. Ai chẳng biết đi vào quá trình cách mạng chuyên chính vô sản xã hội chủ nghĩa là Giáo Hội đi vào một chặng đường dài cực kỳ nguy hiểm và gian khổ mà hình như không thấy lối ra. Chỉ nguyên Liên Xô đã là một đất  nước mênh mông bất tận, sau Thế Chiến Thứ Hai lại thêm các nước Ðong Âu, rồi cả Ðại Lục Trung Hoa, lan sang Bắc Triều Tiên và Bắc Việt Nam. Ðến thời Ðức Giaon XXIII thì lại thêm Cuba ở châu Mỹ. Ðoàn chiên của Chúa như những con thuyền bị ném vào bão táp chẳng biết số phận ra sao. Khổ ải là dĩ nhiên rồi, nhưng cả đến tin tức cũng  bặt luôn. Thế giới bên ngoài đã coi khối các nước Xã Hội Chủ Nghĩa như ở sau một bức màn sắt, rất ít có gì lọt được ra ngoài. Nhìn sang phía đó chỉ thấy một cõi âm u bí hiểm, có vẻ vĩnh viễn không thay đổi, không tín hiệu. Ðôi bên bức màn sắt chỉ hiệp thông với nhau một cách thiêng liêng, bằng lời cầu nguyện chứ có thể làm gì khác?

Vậy mà từ năm 1956 đã có những xáo động đầu tiên báo hiệu chuyển biến. Chuyển biến ra sao thì còn trong lãnh vực dự đoán rất bấp bênh. Như chúng tôi đã trình bày trong bài trước, 1956 là năm bất ngờ ông Khrushchev hạ bệ thần tượng Stalin. Ðây là một chấn động rất lớn. Ở Việt Nam người ta vẫn còn nhắc đến những câu thơ của ông Tố Hữu khóc Stalin:

Yêu biết mấy nghe con tập nói

Tiếng đầu lòng con gọi Stalin

Ông Stalin ơi! Ông Stalin ơi!

Hỡi ôi ông mất đất trời có không?

Thương cha, thương mẹ, thương chồng

Thương mình thương một thương ông thương mười

Thì đây chỉ là một tiếng vọng xa xôi từ Việt Nam của một sự sùng bái ngút trời trong thế giới cộng sản đối với lãnh tụ. Stalin là “Cha già các dân tộc”. Ông là vị Cứu tinh siêu việt. Thiên Chúa thì người ta đã loại bỏ rồi, nhưng thay cho Chúa đã có lãnh tụ được gắn cho hào quang của thần quyền. Vậy mà bỗng nhiên lãnh tụ vĩ đại bị hạ bệ, bị tố khổ. Nửa đêm ngày 25.02.1956, khi các đại biểu đại hội thứ 20 Ðảng Cộng Sản Liên Xô bất ngờ được triệu tập để nghe Khrushchev đọc cáo trạng kể tội Stalin, thì trong phòng họp có 100 khách mời: họ là những đảng viên mới đưa từ nhà tù về làm chứng nhân minh họa cho những gì Khrushchev nói, họ đại diện cho hàng triệu con người đã từng bị đày đọa, bị chết oan vì sự tàn nhẫn và óc đa nghi đến bệnh hoạn của Stalin. Vậy thì mọi sự không còn như trước nữa rồi. Liệu đã có thể hy vọng một chân trời mới cho các nước Cộng Sản chưa?

Thực tế quá trình ra khỏi thế giới Stalin không đơn giản. Cả một nền toàn thống chính trị đã được thành lập và củng cố trong 40 năm không dễ gì có thể tan biến được. Bản báo cáo mật của Khrushchev nhanh chóng gây ra rúng động nguy hiểm cho chế độ. Trước tiên quê hương của Stalin ở Cộng Hòa Gruzia nổi lên chống chính quyền liên bang, khiến Matxcơva phải mang quân đội đến dẹp loạn. Kế đến hai nước Ðông Âu là Balan và Hungari nổi loạn.

Trường hợp Hungari bi đát nhất. 23.10.1956, dân Hung ào ào khởi nghĩa lật đổ chính quyền cộng sản. Một đảng viên bất đồng chính kiến trước đó đã bị thanh trừng, ông Imre Nagy, lên nắm chính quyền. Ông chủ trương lập một chế độ đa đảng, đa nguyên và rút ra khỏi khối Vacsava. Về mặt tôn giáo, Ðức hồng y giáo chủ Josef Mindszenty (1892-1984) đã từng bị lao tù, đánh đập, tra tấn cùng với nhiều giáo sĩ khác, được phe khởi nghĩa giải thoát. Khrushchev vừa thổi bùng lên ngọn gió tự do lại không còn cách nào khác, ngày 04.11 phải gửi quân đội và xe tăng đến đàn áp đẫm máu. 2500 người Hungari và 700 lính Liên Xô chết, 200.000 người Hung bỏ chạy ra nước ngoài. Ðức hồng y Mindszenty phải chạy vào sứ quán Mỹ tị nạn và ở lại đó 15 năm trước khi phải ra nước ngoài. Ông Nagy bị bắt và bốn năm sau bị các đồng chí cũ xử bắn. Ngày 4/11/1956 cuộc khởi nghĩa của dân Hung bị đè bẹp hoàn toàn. Hạ bệ Stalin là một chuyện, nhưng động đến chế độ thì chế độ sẽ phản ứng bằng bàn tay sắt. Trên đường tự do hóa, một xã hội cộng sản chỉ có thể tiến từng bước chật vật. Giải trừ hệ thống của Stalin không có nghĩa là được phạm đến nền chuyên chính. Hy vọng một sự chuyển biến nhanh là ảo tưởng.

So với Hungari, đảng cộng sản Balan xử lý cuộc khủng hoảng khéo léo hơn. Giữa những xung động lan ra trong nội bộ đảng và nhân dân khắp nước, một người cộng sản ôn hòa, ông Gomulka, lên nắm chính quyền. Liên Xô và Balan thương thuyết căng thẳng. Quân đội của cả hai bên đều rục rịch. Gomulka giải quyết bằng cách một mặt bảo đảm với Liên Xô là Ba lan cam kết không từ bỏ chủ nghĩa cộng sản và các hiệp ước đã ký với Matxcơva, bù lại Liên Xô để cho ông được tự ý tiến hành một số cải tổ ở Balan theo hướng nới lỏng sự độc tài của đảng. Từ đó giáo hội ở Balan sinh hoạt có phần tự do hơn so với các nước cộng sản khác, tuy quan hệ với Nhà nước vẫn luôn có những khó khăn, và Nhà nước vẫn tìm cách khống chế Giáo hội. Chính trong tình hình đó mà Đức hồng y giáo chủ Stefan Wyszynski từ năm 1953 đã bị tù rồi bị quản thúc, trở lại tòa tổng giám mục ngày 26.10.1956 và một người như linh mục Karol Wojtyla có thể được tấn phong giám mục tháng 10.1958 để sau này trở thành Ðức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II.

Balan là một trường hợp đặc biệt. Ở Công Ðồng Vatican II từ phía các nước xã hội chủ nghĩa chỉ có Balan và Nam Tư là có nhiều giám mục đến dự, trong đó có vị giám mục trẻ Karol Wojtyla sẽ có những đóng góp xuất sắc. Nhưng Balan cũng chỉ có 22 vị đến Rôma tham dự, còn 47 vị khác tuy không bị cấm đoán, nhưng không an tâm để bỏ đoàn chiên đi họp lâu. Các vị giám mục từ các nước Ðông Âu khác chỉ có mặt rất thưa thớt. Nhiều vị còn bị giam giữ. Ðức hồng y Mindszenty thì đang tị nạn trong sứ quán Mỹ ở Budapest. Tiệp Khắc có 15 giám mục, chỉ 5 vị còn làm việc, ví dụ như làm cha xứ ở một xứ đạo làng quê nào đó, hay làm thợ mộc, lái xe tải, 10 vị khác đang mất tự do, với những bản án 25 năm khổ sai, 24 năm tù, 15 năm tù, hoặc đang bị cầm giữ không biết ở đâu. Rumani có 10 giám mục, chỉ còn một vị làm việc rất khó khăn, các vị khác đang ở trại tập trung, ở tù hoặc bị quản thúc, chưa kể những vị đã chết trong tù. Anbani có năm vị giám mục hoặc giám quản, Tòa Thánh đã gửi thư từ liên lạc, nhưng không bao giờ nhận được hồi âm.

Tóm lại, dù Khrushchev đã giải trừ những phương diện đen tối nhất trong chính sách của Stalin và xã hội đã bớt phần nào sắt máu, nhưng riêng đối với tôn giáo nói chung, giáo hội công giáo nói riêng, chưa thấy có cải thiện nào đáng kể, trừ một vài ngoại lệ như Balan và Nam Tư. Tất nhiên hoàn cảnh của Giáo Hội ở Ðông Âu sẽ chịu sự chi phối rất lớn từ Liên Xô. Cho nên Tòa Thánh muốn qua Norman Cousins tìm hiểu tình hình và tìm cách cải thiện tình hình ở Liên Xô …

(còn tiếp)

Vũ Khởi Phụng, CSsR

Lương y như từ mẫu hay lương y như phù thủy?

Lương y như từ mẫu hay lương y như phù thủy?

Đăng bởi lúc 1:57 Sáng 8/08/13

 

VRNs (08.08.2013) – Sài Gòn – Ngày 7.08, báo Lao Động loan tin, sản phụ Trần Thị Phượng và đứa con mới sinh đã tử vong tại bệnh viện đa khoa Trung ương Cần Thơ.

Báo cho hay, người nhà sản phụ cho rằng, chính thái độ tắc trách của các bác sĩ và y tá đã dẫn đến cái chết của hai mẹ con chị Phượng.

Được biết, sản phụ Trần Thị Phượng, sinh năm 1974, ngụ ấp Trầu Hội A, xã Thạnh Xuân, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang.

Cát Bụi thất vọng: “Ngậm thấy rằng cái gì Thế Giới hiếm gặp thì ở Việt Nam gặp thường xuyên. Và điều đặc biệt rằng các bé thai nhi gần đây chết “rầm rộ” mà không hiểu vì sao mình phải chết. Nếu là do những người mẹ “tự giết con mình” thì đã rõ ràng. Đàng này các bé, thậm chí cả mẹ các bé chết trong tay của những vị “lương y như từ mẫu”. Ôi, đất nước tôi.” Mai Dzung mỉa mai: “Chị Tiến có công lớn trong việc như này.” Trinh Kim Kim chua xót: “Sau hàng loạt cái chết tức tưởi, oan uổng của trẻ sơ sinh, bà Tiến vẫn đương vị và tiếp tục làm ngơ với những cái chết đến từ tên tử thần Y tế. Những sản phụ cùng những thai nhi với sự chết khác nhau không thể khiến lương tâm những người lãnh đạo cắn rứt. Và chúng ta…vứt sự bình an của chính mình bởi sự im lặng và lãng quên đến đáng sợ!”.

Cách đây mấy ngày, 04.08, một trẻ sơ sinh, con của sản phụ Lữ Thị Lâm Quy suýt bị chôn sống do bác sĩ chuẩn đoán rằng bé đã tử vong do sinh non. Hiện nay, sức khỏe của bé rất yếu.

Gần đây, sự kiện 3 trẻ sơ sinh tại Quảng Trị tử vong ngày 20.07 sau khi tiêm vắc xin viêm gan B thì ngay lập tức cư dân mạng đã yêu cầu bà Bộ trưởng y tế Kim Tiến từ chức và cho đến thời điểm hôm nay đã có 18521 người đề nghị. Nhưng về phía nhà cầm quyền không có một động thái nào để lên án hành vi vô nhân đạo này!.

Hệ thống nhà thương không còn là nơi cứu người, ngược lại là nơi giết người cách trực tiếp hoặc gián tiếp điển hình như tại bệnh viện đa khoa huyện Hoài Đức, Hà Nội có khoảng 1.000 kết quả xét nghiệm huyết học dùng chung cho khoảng 2.000 bệnh nhân, đa số là những người sử dụng bảo hiểm y tế.

Báo Tuổi trẻ vào ngày 07.08 cho biết, đây là phương cách để bệnh viện rút ruột bảo hiểm y tế, bệnh viện sẽ thu được lượng tiền xét nghiệm gấp nhiều lần mà không phải tốn kém hóa chất, sinh phẩm, giảm thời gian chạy máy và cả chi phí nhân công.

Lien Huong Bui Thi hốt hoảng thốt lên: “Không thể tưởng tượng nổi một hành động vô lương tri của những người khoát áo trắng của ngành Y.” Lee Flower nói buồn bã: “Không bằng loài súc vật, đây là giết người gián tiếp”. Pha Lê Huỳnh giận giữ kêu lên: “Dzã man quá trời ơi!!!!!!!!!!!”. Nguyen Thuy Vân Larvik thắc mắc: “ Tại sao?…..Phải chăng họ là những người vô tôn giáo, không biết sợ Thượng Đế và họ chỉ gian dối từ kiếp nghèo của những ngày chiến tranh đến nay mà thành thói quen? không bỏ được ?????.”

Ngành y xuống dốc không phanh nhưng công cụ truyền thông nhà nước lại tiếp tục rêu rao nhà nước VN bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền con người.

VN đã đạt đạt được trong việc bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền con người, đây là lời khẳng định của báo điện tử chính phủ đã đưa tin vào ngày 06.08, trong buổi Hội thảo tham vấn về Dự thảo báo cáo quốc gia theo Cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ 2 của Hội đồng Nhân quyền LHQ.

Bài báo cho hay, đây là một trong những hoạt động tham vấn lấy các ý kiến khuyến nghị cho dự thảo báo cáo quốc gia, dự kiến sẽ được trình bày tại Hội đồng Nhân quyền LHQ vào tháng 1/2014.

Lô Đề VN phản hồi: “Nghị định 72 kiểm duyệt báo chí đây này”. Quyền tự do ngôn luận của người dân càng bị bóp nghẹt và kiểm duyệt khắt khe khi chính phủ ban hành Nghị định 72 vào ngày 15.07 và có hiệu lực vào ngày 01.09 sắp tới.

HT, VRNs

Biến Hình

Biến Hình

Một nhà giáo dục nổi tiếng người Pháp đã tâm sự về cuộc đời của ông như sau:

Khi còn trẻ, tôi có tinh thần cách mạng và mỗi khi cầu nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa một điều là:

“Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi thế giới này”

Khi đã lớn tuổi và nhận thấy gần quá nửa đời người trôi qua mà tôi không thay đổi được một người nào hết, nên tôi đã thay đổi lời cầu nguyện của tôi như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi những người trong gia đình của con.”

Giờ đây tôi đã già và những ngày còn lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện của tôi lại được thay đổi một lần nữa như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi chính mình con.”

Và ông kết luận: “Nếu tôi biết cầu nguyện như thế này từ ngày còn trẻ thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời.”

(Anthony de Mello, Trích trong “The Song of the Bird”)

***

Bạn thân mến! Tin Mừng Chúa Giêsu ngày mai cũng thuật lại một cuộc biến đổi.  Đó là cuộc biến đổi hình dạng của Đức Giêsu trên núi Tabor.

Trong ngày hôm đó, Ðức Giêsu đã mang theo các môn đệ thân tín của mình là các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan.  Ngài đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao.  Rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông (Luca 9:28b-36).  Trong cuộc biến hình đổi dạng đó, Ngài đã cởi bỏ thân phận con người để mặc lấy Thiên Tính của Thiên Chúa.  Ngài cho các ông được nhìn thấy vinh quang của Con Một Thiên Chúa, để thêm lòng tin cho các ông.

Hơn hai ngàn năm trước, Đức Giêsu đã biến hình trên núi Tabor.  Cuộc biến hình của Ngài vẫn còn tiếp tục diễn ra hằng ngày cho đến ngày nay.  Ngài biến hình qua bàn tay của Linh mục trong các Thánh lễ.  Ngài biến hình từ tấm bánh nhỏ bé để trở thành xương thịt của Ngài.  Ngài biến hình từ những giọt rượu nho để trở thành những giọt máu đào đã đổ ra trên đồi Golgotha năm nào để cứu chuộc con người.

Ngày nay Đức Giêsu cũng mang tôi và bạn đi riêng ra một chỗ.  Ngài không mang tôi và bạn lên núi Tabor như mang Phêrô, Giacôbê và Gioan xưa kia, nhưng Ngài mang tôi và bạn đến trong các Thánh lễ, đến trong các giờ chầu Thánh Thể, đến trong các Bí tích mà ta lãnh nhận… nơi đó Ngài dành cho ta những giây phút thinh lặng thánh thiêng mà chỉ có một mình ta với Ngài, nơi đó Ngài cũng biến đổi hình dạng để thêm lòng tin cho ta, và cũng nơi đó, Ngài ban cho ta lòng mến, sự tin yêu cậy trông phó thác, và nhất là sức mạnh để ta bước đi theo Ngài trên bước đường lữ thứ trần gian này.

Hôm nay, Đức Giêsu mời bạn và tôi cùng “biến hình” với Ngài.  Biến hình không phải là trở thành cái gì xa lạ khác thường, nhưng…

¨      biến hình là để trở về với cái tôi sâu thẳm của chính mình: “Tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa”.   Đó là ơn được làm con cái Thiên Chúa, là ơn Thánh Sủng, là ơn cao trọng nhất của người Kitô.

¨      Biến hình với Đức Giêsu là thay đổi cuộc sống của ta, là biến đổi tâm hồn ta, là mang vào lòng ta một trái tim mới, trái tim của yêu thương, của tin tưởng và cậy trông phó thác.

¨      Biến hình với Đức Giêsu là vất bỏ ý riêng của ta, là chấp nhận và vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa, là lên đường bước đi với Chúa trong tình yêu và ân sủng Ngài ban.

¨      Biến hình với Đức Giêsu là từ giã con người tội lỗi yếu hèn của mình, là trở nên giống Ngài mỗi ngày mỗi hơn.

***

Lạy Chúa Giêsu,

Xin ban ơn giúp sức cho con

để con cũng được “biến hình” với Chúa trong cuộc sống hàng ngày, để con được trở nên giống Chúa mỗi ngày mỗi hơn, và để con cũng được Thiên Chúa Cha nói với con rằng:

“Đây là con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về con…”

Amen.

Linh Xuân Thôn

From: Thiên Kim  &

Nguyễn Kim Bằng gởi

CỦA ĐỜI PHÙ VÂN

CỦA ĐỜI PHÙ VÂN

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Gv 1, 2 ; 2, 21-23; Cl 3, 1-5.9-11; Lc 12, 13-21

Hơn một lần hay nói đúng hơn là quá nhiều lần mỗi người trong chúng ta đã nhìn, thấy, chứng kiến những người thân thương của chúng ta qua đời. Họ có thể là ông, bà, cha, mẹ, anh chị em hay người thân thuộc, bạn bè, hàng xóm …

Nếu là thân nghĩa ruột thịt, chúng ta sẽ được tận mắt để nhìn nghi thức nhập quan của người đã qua đời.

Khi qua đời, người thân sẽ tắm xác và sẽ tìm một bộ đồ đẹp nhất mặc cho người quá cố. Kèm theo đó là những vật dụng thân thương mà người quá cố hay dùng khi còn sống để bỏ vào trong quan tài theo tâm niệm là để cho người quá cố “sử dụng” hay để “kỷ niệm”. Tất cả và tất cả những gì người qua đời cả cuộc đời lao nhọc khi nằm trong quan tài không được quá khổ cái quan tài. Nghĩa là những gì quý báu thì quý chứ không thể nào bỏ vào trong quan tài chiếc xe, căn nhà … cả. Những cái gì quý như vàng, hột xoàn hay đô la thì chẳng có người sống nào dại đển độ bỏ trong quan tài để vài ba bữa đem đi chôn hay đi thiêu.

Phận người là thế đó nhưng vật chất nó làm cho người ta phải điên đảo, phải tranh giành.

Hôm nay, chúng ta được nghe lại câu chuyện hài. Chúa Giêsu đi rao giảng Tin Mừng, chắc có lẽ thấy Chúa Giêsu được ảnh hưởng nhiều trên dân nên có một người đến nhờ Chúa Giêsu chia gia tài cho gia đình của anh ta. Chúa Giêsu nghe như vậy và nói luôn : “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh? “

Không dừng lại ở câu nói đó, Chúa Giêsu nói tiếp :  Và Người nói với họ: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.”

Chúa Giêsu quả là dễ thương, sợ người ta chậm tiêu ít hiểu nên cho họ một dụ ngôn : “Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới nghĩ bụng rằng: “Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu! Rồi ông ta tự bảo: “Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã! Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.”

Nghe thì cũng khó nghe đó chứ ! Thế nhưng, khổ một nỗi là cái gì khó nghe thì nó là sự thật.

Chuyện vật chất phù vân chúng ta cũng đã nghe ông Cô-he-lét nói : “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân. Quả thế, có người đã đem hết khôn ngoan và hiểu biết mà làm việc vất vả mới thành công, rồi lại phải trao sự nghiệp của mình cho một người đã không vất vả gì hết. Điều ấy cũng chỉ là phù vân và lại là đại hoạ. Chuyện gì xảy ra cho con người sau bao mối bận tâm và bao gian lao vất vả nó phải chịu dưới ánh mặt trời ?”

Ông than thở tiếp : “Phải, đối với con người ấy, trọn cuộc đời chỉ là đau khổ, bao công khó chỉ đem lại ưu phiền ! Ngay cả ban đêm, nó cũng không được yên lòng yên trí. Điều ấy cũng chỉ là phù vân !”

Quá chính xác ! Chuyện gì sẽ xảy ra sau khi nhắm mắt lìa đời.

Tâm thư của Thánh Phaolô hôm nay về những thú vui trần gian cũng quá hay : “Cứ đến đây, ta sẽ cho ngươi thử hưởng thú vui và nếm mùi hạnh phúc.” Thế nhưng cả cái đó cũng chỉ là phù vân. Tôi nói : “Cười là điên rồ. Vui là vô tích sự.”

Đúng như vậy ! Tất cả cũng sẽ chỉ là phù vân mà thôi.

Như đã nói, ngày mỗi ngày chúng ta thấy, chứng kiến cảnh ra đi của anh chị em đồng loại, của người thân. Thấy, chứng kiến nhưng những hình ảnh nấm mồ hay hủ tro có tác động gì đến ta hay không ? Chắc có lẽ là không bởi lẽ ngày mỗi ngày quanh ta và thậm chí ngay cả bản thân ta cũng vun vén, cũng tích lũy.

Có người thì tích lũy cho mình tiền, có người tích lũy cho mình danh vọng, có người tích lũy cho mình quyền lực, có người tích lũy cho mình chức vị … Tất cả những thứ đó thì ai ai cũng đi tìm và vun vén cả. Thật ra nó cũng là những nhu cầu và ước muốn bình thường của con người bởi lẽ con người vẫn mang trong mình phận người. Thế nhưng, một sự thật thật hơn những nhu cầu đó chính là khi nhắm mắt lìa đời tất cả những gì mà người ta vun vén.

Thi thoảng tôi nghe Trường Vũ hay Ngọc sơn ngân nga :

Sống trên đời này người giàu sang cũng như người nghèo khó.

Trời đã ban cho ta cám ơn trời dù sống thương đau

Mai kia chết rồi trở về cát bụi giàu khó như nhau

Nào ai biết trước số phận ngày sau ông trời sẽ trao

Này nhà lớn lầu vàng son

Này lợi danh, chức quyền cao sang

Có nghĩa gì đâu…sao chắc bền lâu

Như nước trôi qua cầu

Này lời hứa… Này thủy chung

Này tình yêu…chót lưỡi đầu môi

Cũng thế mà thôi

Sẽ mất ngày mai như áng mây cuối trời

Sống trên đời này tựa phù du có đây lại rồi lại mất.

Cuộc sống mong manh xin nhắc ai đừng đổi trắng thay đen

Nào người sang giàu đừng vì tham tiền bỏ nghĩa anh em

Người ơi xin nhớ cát bụi là ta…mai này chóng phai

Người nhớ cho ta là cát bụi trở về cát bụi

Xin người nhớ cho

Khánh Ly cũng diễn tả cái thân phận cát bụi của con người thật ngọt ngào tác phẩm “Cát Bụi” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn :

Để một mai vươn hình hài lớn dậy

Ôi cát bụi tuyệt vời

Mặt trời soi một kiếp rong chơi

Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi

Để một mai tôi về làm cát bụi

Ôi cát bụi mệt nhoài

Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi

Bao nhiêu năm làm kiếp con người

Chợt một chiều tóc trắng như vôi

Lá úa trên cao rụng đầy

Cho trăm năm vào chết một ngày

Mặt trời nào soi sáng tim tôi

Để tình yêu xay mòn thành đá cuội

Xin úp mặt bùi ngùi

Từng ngày qua mỏi ngóng tin vui

Cụm rừng nào lá xác xơ cây

Từ vực sâu nghe lời mời đã dậy

Ôi cát bụi phận này

Vết mực nào xóa bỏ không hay

Phận người là như thế nhưng tại sao ta cứ mãi bám theo những gì mà ta sẽ mất ngày mai.

Tại sao không đi tìm cái kho tàng mà mối mọt không đục khoét, trộm cắp không đào ngạch mà lại cứ mãi mê với cái trần gian hư vô mau qua chóng tàn này.

CHÚT TÌNH RIÊNG

CHÚT TÌNH RIÊNG

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Ở đời, có những chuyện riêng người ta giữ kín trong lòng chỉ để cho lòng mình biết. Thế nhưng cũng có những chuyện riêng như là kỷ niệm, như là niềm vui người ta muốn gửi đến cho những người thân quen khi có dịp. Kỷ niệm riêng, chút tình riêng ấy sẽ ở lại mãi trong lòng người cảm nhận.

Dăm ba năm trước, khi về chủ sự Lễ Hành Hương Minh Niên tại đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Sài Gòn, Đức Cha Phêrô phụ tá không ngần ngại nói lên tâm tình, nói lên tình riêng của mình. Đức Cha nói rằng Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Kỳ Đồng là nơi rất thân quen từ những ngày còn làm thầy và khi đã lãnh sứ vụ linh mục. Ngài thường lui tới nơi mảnh đất thiêng này và đặc biệt với Núi Đức Mẹ để thủ thỉ, để thỏ thẻ với Mẹ lòng của Ngài. Trở về Đền Đức Mẹ dâng Lễ lại nhớ lại hình ảnh ngày xưa và lại nhớ lại những ơn lành Mẹ trao ban cho Ngài.

Mới đây, Đức Cha Stêphanô Tri Bửu Thiên – giám mục giáo phận Cần Thơ – cũng trở về Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp để dâng lễ mừng kính Thánh Anphongsô đấng sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế.

Cảm xúc trào dâng, Đức Cha lại gửi đến tâm tình hết sức riêng và hết sức đặc biệt của Ngài : “Ngay từ nhỏ, lúc đó tôi khoảng chừng 8 tuổi. Mỗi lần đi Lễ tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, sau Lễ, mẹ tôi dẫn tôi ra núi Đức Mẹ đọc kinh rất lâu”. Còn nhỏ tôi chẳng hiểu gì nhưng tôi nghĩ rằng mẹ tôi nói với Đức Mẹ : “Mẹ ơi ! Con là người vợ góa, nhiều con thơ, một mình con không làm nổi gì đâu, Mẹ không tiếp sức thì con không làm gì được”.

Đức Cha ngừng lại một chút vì xúc động, tình thương của người con nhớ về mẹ của mình lại trào dâng, ngừng lại hơi nghẹn lời một chút rồi Ngài tiếp : “Mẹ tôi cầu nguyện với Mẹ và rồi Mẹ tôi nuôi các con ăn học. Tôi năm đó 8 tuổi, đứa út mới có 1 tuổi. Mẹ tôi nuôi chúng tôi và chúng tôi, anh em chúng tôi đứa nào cũng biết đọc biết viết. Mẹ tôi cầu nguyện với Đức Mẹ. Đó là bài học cho chính tôi, mỗi khi tôi gặp khó khăn thử thách thì chạy đến Đức Mẹ. Lúc tới đây, trước khi thăm các cha các thầy, tôi đã tới núi Đức Mẹ để cầu nguyện”.

Các đức cha có chút tình riêng với Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nói như thế. Nếu có dịp được nói, tôi cũng sẽ nói như thế này :

Ngày còn bé, chắc cũng vào khoảng 8 tuổi, Dì ruột của tôi ở Gia Kiệm, cứ mỗi lần Dì về Sài Gòn là Dì lại dẫn tôi lên nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế. Mỗi lần lên nhà thờ Dòng thì Dì lại dẫn tôi quỳ trước ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở cánh trái của nhà thờ. Chẳng biết Dì nòi gì nhưng chỉ thấy Dì cầu nguyện với Đức Mẹ thật lâu. Chưa hết, Dì còn dẫn tôi ra trước núi Đá của Mẹ để cầu nguyện thật lâu.

Khi xem lại hình kỷ niệm của gia đình, chỉ còn được vài tấm hiếm hoi. Có một tấm giá trị đó là hình cưới của ba mẹ tôi. Nhìn trong ảnh lại hình ảnh thân quen hiện ra đó là bức ảnh lưu niệm ngày cưới của ba mẹ tôi được chụp trước núi Đức Mẹ cùng với Cha Eugène Larouche Dòng Chúa Cứu Thế. Lại dính dáng đến Mẹ Hằng Cứu Giúp tại ngôi đền thiêng thánh này.

Không chỉ thế, ông bà ngoại tôi cũng là giáo dân của Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Huế do các cha Dòng Chúa Cứu Thế phụ trách. Cha Gioan Nguyễn Văn Thính trước khi mất cũng đã cho tôi những kỷ niệm về ông bà ngoại.

Cả cuộc đời cứ ở trong bàn tay của Mẹ Hằng Cứu Giúp thì phải.

Ba mẹ cưới nhau cũng ở ngôi Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp này, tôi khấn dòng cũng tại ngôi Đền này, lãnh sứ vụ linh mục cũng tại ngôi Đền này và … hy vọng chết cũng được chết trong tay của Mẹ ở ngôi Đền này.

Chắc có lẽ không chỉ các đức cha, bản thân tôi nhưng rất, rất nhiều người hơn một lần đến đây với Mẹ và ít nhiều gì đó cũng đã nhận ơn lành của Chúa đến từ Mẹ. Và như thế, tình riêng của mỗi người, ngày mỗi ngày lại sâu lắng, lại trào tràn đến với những ai chạy đến Mẹ.

Ngày này đây, ngày mỗi ngày và hàng giờ, hàng phút mỗi khi cổng Đền Thờ mở, lúc nào cũng có người đến với Mẹ để thỏ thẻ, thủ thỉ tâm tình với Mẹ. Cứ nhìn vào quyển sổ tâm tình với Mẹ ta nhận ra tình riêng của con với Mẹ. Những quyển sổ dày đặc lời xin ơn, lời tạ ơn cũng chưa nói hết tình riêng của những người đến đây. Nhiều và nhiều ơn lành khác mà chỉ người nhận và người trao ban mới biết mà thôi.

Tình riêng với Mẹ là vậy. Con thưa với Mẹ, Mẹ nghe con, Mẹ hiểu con và con yêu Mẹ.

Chút tình riêng cộng lại thành tình yêu lớn tại ngôi Đền Thánh Thiêng này.

Những ai đến với Mẹ chắc chắn sẽ không phải về tay không bởi lẽ lòng Mẹ bao la như mây trời và mênh mông như biển lớn.

Lm. Anmai, C.Ss.R.

Văn hóa nhậu đạt ngưỡng đỉnh cao

Văn hóa nhậu đạt ngưỡng đỉnh cao

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
2013-08-05

Các vũ trường sang nơi tiêu thụ rượu ngoại quốc xả láng

Các vũ trường sang nơi tiêu thụ rượu ngoại quốc xả láng

RFA

Có thể nói rằng đi từ Bắc chí Nam, không có thứ gì dễ tìm hơn một quán nhậu, đủ các hạng, các loại quán nhậu, từ bình dân vài trái cóc, xị rượu đế cho đến các quán thịt chó, quán lẫu dê, lẫu hải sản, quán thịt rừng và cao cấp hơn là các loại nhà hàng, khu nghĩ dưỡng miệt vườn, khu du nghĩ dưỡng sinh thái có phục vụ nhậu thâu đêm suốt sáng với các sơn hào hải vị có giá lên đến vài chục triệu đồng một mâm, một bữa nhậu có thể lên đến con số hàng trăm triệu đồng.

Mở đầu mọi việc bằng rượu và bia

Dân nhậu, cán bộ nhậu – khách hạng thấp, khách hạng trung… Một chủ quán nhậu ở Đông Hà, Quảng Trị, tên Củng, cho chúng tôi biết, trung bình, một đêm quán của ông tiếp chừng ba chục khách hạng vừa vừa và hai chục khách hạng thấp, khách hạng vừa vừa sẽ gọi bia lon, khách hạng thấp thì dùng bia chai hoặc rượu vodka. Quán ông Củng chuyên bán thịt dê, được chế biến theo nhiều cách. Giá thành ở quán cũng không rẻ cho lắm, khách ruột của quán là các cán bộ cấp phường, cấp quận và một số ít thanh niên, công nhân. Nhóm thanh niên, công nhân được ông xếp vào diện khách hạng thấp.

Một chủ quán khác tên Trung ở Khe Sanh, Hướng Hóa, Quảng Trị, chia sẻ với chúng tôi rằng nếu như ngày xưa, ông bà ta hay nói câu “miếng trầu là đầu câu chuyện” thì đến bây giờ có thể nói rằng ly rượu, ly bia là đầu câu chuyện, một người đàn ông nếu không biết nhậu thì sẽ không có bạn để chơi, một người làm ăn nếu không chịu nhậu thì sẽ chẳng bao giờ có mối có lái để mánh mung, để kết nối đường dây làm ăn, chuyện kinh tế được bàn trên bàn nhậu, thời sự cũng bàn trong lúc nhậu, thậm chí chuyện chính trị, văn hóa cũng có mặt trên bàn nhậu… Dường như mọi thứ đều có mặt trên bàn nhậu.

Các loại quán nhậu bình dân phổ biến được dân lao động hưởng ứng

Các loại quán nhậu bình dân phổ biến được dân lao động hưởng ứng. RFA

Ngày xưa, ông bà ta hay nói câu “miếng trầu là đầu câu chuyện” thì đến bây giờ có thể nói rằng ly rượu, ly bia là đầu câu chuyện, một người đàn ông nếu không biết nhậu thì sẽ không có bạn để chơi, một người làm ăn nếu không chịu nhậu thì sẽ chẳng bao giờ có mối có lái để mánh mung

Ông Trung nói thêm là quán ông có nhiều khách cán bộ luôn có mặt mỗi ngày, có người nhậu ký sổ lên đến vài chục triệu đồng, cuối năm trả một lần, cũng có một cán bộ vốn là chủ tịch một xã vùng cao, là khách quen của quán ông, nhậu ký sổ như chúa chổm, đùng một cái, bị phát hiện tham nhũng, hối lộ, mất chức, bà vợ trốn vào Nam làm ăn, không bao lâu sau, ông này cũng chuyển công tác lên một xã vùng núi khác, cả ba năm trời chưa gặp mặt, gọi điện thoại đòi nợ thì ông này cũng ỡm ờ hứa qua loa, coi như mất tiền. Ông Trung nói rằng thực chất thì ông đủ sức cho người lên tận nơi ông chủ tịch xã này làm việc để đòi nợ. Nhưng làm như thế sẽ ảnh hưởng đến khách trong quán, nhất là khi họ cũng đang nợ ông. Thôi thì im lặng cho nó lành việc.

Đó là chuyện nhậu của cán bộ và người có tiền một chút, còn cả chuyện nhậu vài cái trứng cút, vài trái cóc, vài trái ổi xanh chấm muối ớt, uống một xị rượu đế cho qua buổi chiều hoặc thèm quá, vào quán nốc một ngàn đồng rượu đứng để khỏi run tay, run chân rồi làm việc tiếp hoặc về nằm ngủ vì bệnh nghiện rượu hành hạ của một bộ phận không nhỏ dân nghèo, bất đắc chí.

Nhậu là một việc cần thiết để xả stress sau một tuần làm việc căng thẳng, tính chất đấu đá nội bộ cao hơn là hỗ trợ công việc với nhau trong công ty

Thành phần khách nhậu

Ngành sản xuất và nhập khẩu rượu bia tăng, quán nhậu mở vô tội vạ Một khách nhậu tên Tuấn, là nhân viên công ty xổ số kiến thiết, ông Tuấn thường nhậu vào mỗi thứ Bảy ở các quán ngoại ô thành phố Đông Hà, với ông, nhậu là một việc cần thiết để xả stress sau một tuần làm việc căng thẳng, tính chất đấu đá nội bộ cao hơn là hỗ trợ công việc với nhau trong công ty.

Có nhiều tụ điểm mở thâu đêm ở miền Trung. RFA

Có nhiều tụ điểm mở thâu đêm ở miền Trung. RFA

Ông Tuấn nói rằng tuy là đi nhậu có chu kỳ nhưng ông không bao giờ uống rượu gạo vì rượu gạo bây giờ quá nguy hiểm, nó được nấu bằng men Trung Quốc, không qua nấu chín, người nấu rượu chỉ việc trộn men vào gạo tẩm nước, ủ hai hoặc ba ngày rồi cho chưng cất lấy rượu. Lượng rượu nấu từ men Trung Quốc cũng cao gấp đôi lần so với nấu men truyền thống. Kể từ lúc men Trung Quốc xuất hiện, số người chết vì bệnh gan tăng lên vùn vụt.

Một khách hàng rượu đứng tên Nhật, hiện là phu bốc vác ở chợ Đông Hà, kể với chúng tôi rằng ông nghiện rượu đã hơn mười năm nay, mỗi sáng, ông phải uống một xị, tức 300ml lúc 6 giờ sáng, không cần ăn uống gì, ông đi bốc vác cho đến 9h, sau đó ăn qua loa một miếng gì đó rồi uống một xị nữa, làm việc đến trưa, ăn cơm trưa, ông uống nửa lít và nghỉ một chút, làm việc buổi chiều. Trong lúc làm việc của buổi chiều, nếu thấy mệt, ông ghé vào quán nốc một ly cho khỏi run tay run chân rồi làm tiếp, đến 6h chiều, ông ghé vào quán, mua một trái cóc, trái ổi hoặc vài trứng cút, uống tiếp một chai rồi về ngủ. Mỗi ngày, ông tốn hết ba chục ngàn đồng tiền rượu, có như thế ông mới làm việc được.

Một chủ nhà hàng hạng sang ở Khe Sanh, Hướng Hóa, cho chúng tôi biết là quán của ông không bao giờ phục vụ hạng khách bình dân vì những thứ ông bán quá đắt, hiếm có khách bình dân nào đến quán ông được, ông chỉ bán toàn những món lạ như ba ba, rùa, các loại thịt rừng. Khi chúng tôi hỏi vì sao nhà nước cấm bán các loại này nhưng ông lại có để bán. Ông cười, hỏi lại chúng tôi nhà nước là ai, cán bộ nhà nước là đại diện của nhà nước, vậy quán ông phục vụ cho toàn hạng cán bộ cao cấp, như vậy không phải là nhà nước đang nhậu các món này đó sao.

Một chủ nhà hàng hạng sang ở Khe Sanh, Hướng Hóa, cho chúng tôi biết là quán của ông không bao giờ phục vụ hạng khách bình dân vì những thứ ông bán quá đắt, hiếm có khách bình dân nào đến quán ông được, ông chỉ bán toàn những món lạ như ba ba, rùa, các loại thịt rừng

Và ông cũng nói thêm rằng với giới cán bộ, việc nhậu những món được xếp vào diện cấm luôn là một thú vui của họ, biết được tâm lý này, ông không mở nhà hàng mà chỉ mở một quán vườn, ở nơi hẻo lánh, chung chi đầy đủ cho các cơ quan, ban ngành mà ông thấy cần thiết phải chung chi, xem như sòng phẵng, chẳng ai nợ ai, ông thản nhiên bán vì nếu có bắt ông thì phải bắt những cán bộ đang ngồi ăn ngon lành những thứ hàng quốc cấm kia đi, họ biết cấm sao lại còn ăn, có mua thì phải có bán.

Nói đến đây, ông chủ quán vườn này kết luận rằng trong xã hội Việt Nam bây giờ, nhậu là một thứ văn hóa không thể thiếu, mọi thứ đều có mặt những cuộc nhậu, vui nhậu, buồn nhậu, không vui không buồn cũng nhậu, bàn chuyện làm ăn thì nhậu, bàn chuyện chính trị, văn hóa cũng nhậu, hẹn hò trai gái cũng nhậu, thậm chí, trong các buổi sinh hoạt đảng, đại hội đảng, nếu không tổ chức nhậu thì chẳng có ma nào đủ hào hứng mà phát biểu, góp ý xây dựng đảng. Không chừng, nhậu cũng là chính sách an dân của nhà nước, của đảng vì nó là thứ văn hóa đang rất thịnh hành.

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

Dân khí suy đồi và trách nhiệm con người

Dân khí suy đồi và trách nhiệm con người

Nhà văn Võ Thị Hảo

Gửi cho BBC Việt ngữ từ Hà Nội

Chủ nhật, 4 tháng 8, 2013

Người biểu tình Nguyễn Văn Phương bị tấn công trong lần biểu tình chống Trung Quốc mới đây nhất

Nhà văn Võ Thị Hảo nói ít người dám lên tiếng chống lại cái ác

“Dân khí nước ta bị suy giảm quá tệ… Khiếp sợ quen thói, nghe và thấy chật hẹp, tai như điếc, mắt dường mù…

“Người dưới phải làm điều đê tiện mà không biết hổ, phải chịu sự ô nhục mà không biết thẹn…”

(Phan Bội Châu –Bức thư viết bằng máu và nước mắt từ đảo Lưu Cầu)

Chuyện cướp bóc ở làng Vĩ Đại

Làng ấy nhỏ, nhưng có tính vĩ cuồng nên tự đặt tên là làng Vĩ Đại.

Ông Cột sống giữa làng Vĩ Đại gồm ba mươi ba người. Xung quanh có ông Kèo, bà Ninh, người làng cùng một số côn đồ.

Đám côn đồ chuyên hà hiếp cướp đoạt. Mỗi tháng tại làng có trung bình 9 vụ cướp bóc.

Người làng nhìn thấy nhưng lờ đi, chỉ đến khi mình là nạn nhân, mới kêu khóc thì đã muộn.

Không đành lòng, ông Cột, ông Kèo và bà Ninh bèn bênh vực những nạn nhân. Đám côn đồ phải chùn tay. Số vụ cướp bóc giảm còn 6.

Đám côn đồ ấy tức lắm, một hôm liền dựng ra một vụ đánh ghen, xúm lại đánh ông Cột, đã thế còn hô hào dân làng vào đổ tội, bêu riếu, làm nhục, làm chứng giả.

Ông Cột bị ném đá gẫy nát một chân, rồi từ đó cũng ê chề vì người làng xử ác, không dám lên tiếng nữa.

Số vụ cướp bóc tăng lên 1/3, lại trở thành 9 vụ.

Ông Kèo và bà Ninh vẫn liều mạng bênh vực người lành. Bọn côn đồ thấy chiêu dối trá bạo lực hiệu quả, liền đổ cho ông Kèo tội ăn cắp. Tòa án làng dẫu biết Kèo vô tội nhưng vẫn tống Kèo vào ngục.

Thế là chỉ còn bà Ninh đơn thương độc mã. Số vụ cướp bóc tăng lên thành 15. Thu nhập của đám côn đồ tăng theo. Mỗi tháng, tại làng Vĩ Đại có khoảng 15 nạn nhân.

Bọn chúng được đà, lại đổ tội làm giấy tờ giả, đưa tiếp bà Ninh vào tù. Số vụ cướp bóc tăng lên 20 rồi 25…

Bây giờ thì những người không phải côn đồ đều trở thành nạn nhân. Nhiều người trong đám côn đồ cũng bị kẻ mạnh hơn hà hiếp.

Lúc đó, có người dân làng Vĩ Đại mới đập đầu kêu khóc mà rằng: Bây giờ chúng ta dở sống dở chết, chẳng còn ai cứu giúp. Giá như ngày trước chúng ta dám kêu lên, không mặc kệ ân nhân bị hành hạ, không làm chứng dối, ném đá tiếp tay cho bọn cướp hãm hại người lành thì đâu đến nông nỗi này…”

Sự dối, bạo lực và dân khí suy đồi

Câu chuyện trên đây là thực tế đang có ở nhiều nơi tại VN, khi rất nhiều người trong chúng ta đã bỏ qua lương tri và sự thật, im lặng, vô cảm trước sự oan khuất của đồng bào mình.

Nhiều người đã từng chua chát tự hỏi, trong đám đông chen chúc kia, trong đồng nghiệp, trong hàng xóm, trong bạn bè, trong những nhà chức trách tại cơ quan đoàn thể… khi chúng ta làm điều đúng, khi bị oan khuất, liệu có bao nhiêu người trong số họ dám đứng ra nói sự thật và bênh vực ta?

Ai? Hy vọng nào ở đám người hoặc hèn nhát hoặc tham lam vô cảm chỉ sáng tối làm bóng lộn bộ da và căng đầy cái dạ dày của mình, sống chết mặc bay?

Hy vọng nào từ đa số dân biểu, quan chức, cơ quan đoàn thể, nhà báo, luật sư, văn nghệ sĩ, quan tòa, quân đội, công an, nhà khoa học, nhà giáo… – những người có công cụ ngôn ngữ, quyền lực hoặc vũ khí có thể bảo vệ công lý nhưng đã và đang cúi đầu khoanh tay câm lặng, chỉ lên tiếng khi đụng đến quyền lợi của chính họ?

“Đa phần mọi người đều nói rằng tìm người có dũng khí và trung thực bây giờ thật khó như tìm kim đáy biển.”

Đa phần mọi người đều nói rằng tìm người có dũng khí và trung thực bây giờ thật khó như tìm kim đáy biển.

Chính bởi thế, chúng ta là số đông, gần cả trăm triệu người, nhưng lại bị gọi là một đám đông hèn yếu, thậm chí còn không dám mở miệng cất lời bảo vệ chính mình, cam tâm nô lệ, còn nói gì đến việc bảo vệ người khác!

Đó là sự suy đồi của dân khí.

Vấn đề thịnh suy của một đất nước, đương nhiên ở trách nhiệm nhà cầm quyền, nhưng không thể không tính đến nguyên nhân dân khí.

Khí chất và khí phách của người dân thể hiện trong tính cộng đồng, trách nhiệm xã hội, trong sự lựa chọn, dám tôn vinh sự thật, biết tri ân những người vì cộng đồng và công lý, dám chống lại bất công, bạo ngược.

Dân khí mạnh buộc kẻ ác phải chùn tay và phải cư xử đúng mực. Dân khí cũng khiến mỗi người có được sức mạnh tinh thần để thoát vòng nô lệ luôn chờ chực bủa vây.

Chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu từng xót xa khi bàn về dân khí.

“…Cái tệ ấy buổi đầu là do tính nhu nhược, theo mãi, hóa ngu hèn đến nỗi … có miệng lưỡi mà không biết trình bày,…u mê gàn dở, không chút căm giận, sao mà hèn nhát sút kém đến thế…( Phan Bội Châu toàn tập. Tr 145. NNXB Thuận Hoá Huế.1990.

Hãy ngẫm nghĩ tiếp những lời của Phan Bội Châu: ” … Các người chỉ là một khối thịt sống, ù ù cạc cạc không biết cái gì, chỉ ngồi mà trách cứ lẫn nhau, trông mong lẫn nhau mà thôi….đến nỗi cùng xô đẩy dắt díu nhau xuống hồ cả một lũ, một đoàn… Ngó lại các ngươi, ta chỉ hổ thẹn với con chó của tên Đạo Chích…” (Thời thế và anh hùng- Phan Bội Châu toàn tập- tr175- 176- NXB Thuận Hóa- Huế- 1990)

Biểu tình chống Trung Quốc hồi đầu năm 2013

Ít người Việt Nam dám làm những điều khiến chính quyền bực mình

Những lời đó đã phản ánh tình trạng dân khí của người VN trong những năm đầu thế kỷ XX. Thời đó, với sự hà khắc của chế độ phong kiến, nếu dám trái ý triều đình, có thể bị tội tru di tam tộc.

Tệ thế, nhưng thời đó vẫn có những chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và đông đảo người ủng hộ… Đám tang người tù yêu nước Phan Chu Trinh ngày 4/4/1926 có tới khoảng sáu vạn người Nam kỳ (có tài liệu nói là khoảng mười vạn, tức là khoảng 1/3 dân số Sài Gòn) theo sau quan tài ông để bày tỏ lòng biết ơn và chí khí, bất chấp sự ngăn cấm của chính quyền, phong trào truy điệu để nối chí ông được tổ chức khắp ba kỳ.

Thật đáng buồn là sau hơn một thế kỷ, những nhận định của Phan Bội Châu vẫn mang tính thời sự, thậm chí thực tế còn đáng đau xót hơn hơn.

Làm sao tưởng tượng nổi là không khí quy chụp tư tưởng, vu oan giá họa, xét xử bất cần công lý thuở Cải cách ruộng đất những năm 50 của thế kỷ trước dường như đang sống lại ở thời này ở nhiều vụ việc, tạo vô số dân oan ở nơi nơi. Trong một số bài báo và phóng sự truyền hình, thật nhục nhã cho nghề nhà báo khi một số người thay vì làm rõ sự thật như sứ mạng, thì lại “gắp lửa bỏ tay người” chỉ để đổi lấy tiền bạc, chức vị hoặc sự yên ổn!

Trên thực tế, tỉ lệ người trộm cắp cướp đoạt không lớn so với dân số nhưng sự hoành hành của chúng thật không giới hạn. Chỉ có thể ngăn chặn bằng cải cách thể chế. Một mặt khác, mỗi công dân cũng không thể không nhìn lại trách nhiệm của mình trong việc đã để dân khí suy đồi.

Tù nhân lương tâm – những Tráng sĩ công lý

Những tù nhân lương tâm – những tráng sĩ vì đấu tranh cho lợi quyền chung mà phải giam cầm sau song sắt – lẽ nào ta không nợ họ?!

Khi tù nhân lương tâm Nelson Mandela khốn khổ vì bị nhà cầm quyền Nam Phi kết án chung thân, đày đọa ông trong tù tới 27 năm, mỗi người Nam Phi và người dân trên thế giới, kể cả người VN, đều nợ ông vì ông đã vì dám dũng cảm đứng lên chống lại chế độ phân biệt chủng tộc, bảo vệ quyền con người và tự do.

Mặc dù nhà cầm quyền đổ nhiều trọng tội, bôi nhọ bằng mọi cách, nhưng ông đã được tôn vinh là người anh hùng của Nam Phi và thế giới, lĩnh tới hơn 250 giải thưởng, trong đó có giải Nobel Hòa bình, trở thành vị tổng thống dân cử đầu tiên của Nam Phi và là một trong những vị cứu tinh của nhân loại.

Bà Aung San Suu Kyi tiếp xúc với người dân

Bà Aung San Suu Kyi đã bị giam cầm và quản thúc trong hơn 20 năm nhưng cuối cùng chế độ ở Myanmar phải thay đổi theo hướng bà kêu gọi

Tương tự, bà Aung San Suu Kyi đã bị chế độ độc tài quân phiệt Myanma nhục mạ, kết tội, giam cầm và quản thúc tới gần 21 năm chỉ vì bà lãnh đạo cuộc đấu tranh bất bạo động cho việc thiết lập một nền dân chủ và thể chế tiến bộ cho người Myanma. Bà cùng những đồng chí của mình đã thức tỉnh chế độ quân phiệt tàn bạo, khiến đất nước này gần đây phải chuyển đổi theo thể chế dân chủ và tự do. Bà là vị cứu tinh của Myanma, cũng được coi là vị anh hùng của thế giới.

Mỗi người Myanma, nếu có lương tri, đều biết rằng mình may mắn được nợ bà- nợ những nỗi thống khổ mà bà đã vì họ mà chịu đựng. Nợ những cử chỉ nhằm giải phóng chế độ độc tài quân phiệt mà bà đã bền gan thực hiện cho bà và cho họ.

Khi xã hội loài người tiến lên được một bước về phía tự do, bình đẳng và công lý thì thường lại có rất nhiều người phải hy sinh trong công cuộc đấu tranh chống lại những thế lực luôn lấy việc cưỡng đoạt hạnh phúc của người khác để phục vụ cho quyền lợi riêng của chúng làm lẽ sống.

Suy cho cùng, không ai sống trên đời mà lại có thể chối bỏ hân hạnh gánh trên vai những món nợ tinh thần phải trả cho mình và cho cộng đồng, cho niềm hạnh phúc của con người.

“Khi xã hội loài người tiến lên được một bước về phía tự do, bình đẳng và công lý thì thường lại có rất nhiều người phải hy sinh trong công cuộc đấu tranh chống lại những thế lực luôn lấy việc cưỡng đoạt hạnh phúc của người khác để phục vụ cho quyền lợi riêng của chúng làm lẽ sống.”

Bởi thế bất kỳ công dân nào cũng có trách nhiệm đương nhiên phải đấu tranh cho tự do, nhân quyền và công lý cho mình và cho mọi người.

Đó là khí chất làm người, là dân khí, là nhân tố cốt lõi tạo nên nền công bằng và vững mạnh cho một đất nước.

Cần ý thức rằng, khi một người chối bỏ trách nhiệm đó, là đem lại tổn thương cho chính mình và cho xã hội. Trong nỗi oan khuất của người vô tội này bao giờ cũng hàm chứa mối đe dọa về nỗi oan khuất rồi cũng sẽ đến với những người khác.

Khi công dân ý thức được điều đó, nghiễm nhiên sẽ có phẩm giá của loài hiểu biết, hãnh diện về khí chất làm người của mình, sẽ không còn sợ hãi bóng tối và những sự đe dọa.

Khi nhận thức được như thế, sẽ có sức mạnh tinh thần để biết tạ ơn và biết hành động để trả nợ, để không chỉ sống cho ta, trong kiếp ngắn ngủi này, mà biết còn hân hoan sống cho cộng đồng.

‘Thế lực thù địch’

Người VN, đương nhiên mỗi người cũng mang món nợ của mình.

Như người làng Vĩ Đại nợ những giọt máu, nợ cái chân gẫy, nợ sự oan khuất và tự do bị tước đoạt của ông Cột ông Kèo bà Ninh…

Ta hân hạnh nợ nần bao nhiêu người anh hùng bảo vệ đất nước, chống tham nhũng, ma túy, cướp bóc, những nhà tư tưởng và nhà khoa học vì con người. Ta nợ bao Tráng sĩ lương tâm – họ xứng đáng được tôn vinh là Tráng sĩ – vì có bản lĩnh dám chỉ ra những cái sai cho nhà cầm quyền biết- thực chất là họ đã giúp nhà cầm quyền để củng cố nền hòa bình, công lý và tự do.

“Những người dám nói lên sự thật, đòi quyền làm người, dám phản đối cái ác và bất công, hoàn toàn không hề là người đối lập với đảng và chính phủ VN, mà chính nhiều cá nhân, tổ chức nằm trong hệ thống quyền lực đã tự hành xử ngày càng đối kháng với quyền lợi chính đáng của nhân dân, đất nước.”

Thật đau lòng là nhiều người trong số họ lại đang bị giam cầm và hành hạ sau song sắt nhà tù. Đa phần trong số họ là vô tội, giữ được bản lĩnh. Càng bị đàn áp, bôi nhọ, phẩm chất của họ càng tỏa sáng.

Những người dám nói lên sự thật, đòi quyền làm người, dám phản đối cái ác và bất công, hoàn toàn không hề là người đối lập với đảng và chính phủ VN, mà chính nhiều cá nhân, tổ chức nằm trong hệ thống quyền lực đã tự hành xử ngày càng đối kháng với quyền lợi chính đáng của nhân dân, đất nước.

Nhưng danh sách tù nhân lương tâm tại VN tăng theo mức độ đàn áp. Chỉ trong nửa đầu năm 2013 này đã có tới khoảng 50 người bị bắt giam. Theo công luận và nhiều luật sư, họ đã bị kết tội oan. Đặc biệt bất công là trường hợp quy tội “trốn thuế” cho Điếu Cày và luật sư Lê Quốc Quân để bỏ tù và đối xử tàn nhẫn với họ, trong khi vô số cá nhân, công ty, đại gia, người trong giới biểu diễn…thiếu thuế hàng chục, hàng trăm tỉ đồng, thì chỉ truy thu và được gọi là “kê khai thiếu chứ không phải trốn thuế,”(theo trả lời PV của bà Lê Thị Thu Hương, Phó cục trưởng Cục thuế TP HCM- Theo VNExpress- 27/7/2013)

Gần đây, việc bị dồn vào tình thế phải tuyệt thực liên tiếp của một số tù nhân lương tâm như Cù Huy Hà Vũ, Lê Quốc Quân, Điếu Cày…và cuộc nổi dậy bất đắc dĩ của tù nhân tại trại giam Z30 A Xuân Lộc – Đồng Nai ngày 30/6/2013 vừa rồi đã lại làm phẫn nộ thêm nhiều người có lương tri trong và ngoài nước.

Hiện trạng ấy khiến cho dư luận đặt ra nhiều câu hỏi nhức nhối. Có khôn ngoan không, khi nhà chức trách đang chọn cách giải quyết những vấn nạn chính trị – kinh tế- xã hội bằng súng và xiềng xích đe nẹt tự do ngôn luận thay vì cải cách thể chế và cải cách kinh tế?

Chỉ tìm cách đổ lỗi cho các “thế lực thù địch diễn biến hòa bình” bên ngoài chứ không cắt bỏ khối ung bướu ngay trong thể chế, đó thực ra là một sự “tự sát”, không những làm trầm trọng thêm các vấn đề cấp bách hiện nay mà còn khiến VN càng thêm giảm uy tín và khiến cộng đồng quốc tế không thể làm ngơ.

Gần chót về tự do

VN hiện đang bị xếp thứ gần chót hạng(172/179 quốc gia) trong bảng Chỉ số Tự do Báo chí thường niên 2013 do Phóng viên Không biên giới thực hiện.

Không phải vô cớ, không chỉ có sự đòi hỏi từ một số đồng bào VN, mà ngày càng dồn dập tăng số lượng cá nhân và tổ chức trung lập có uy tín trên thế giới bày tỏ sự ủng hộ đối với những nhà phản biện và tù nhân lương tâm VN, đòi phải lập tức trả tự do cho họ.

Ngày 18/4/2013, QH châu Âu thông qua nghị quyết tố cáo VN đàn áp tự do ngôn luận và hạn chế tự do tôn giáo.

Ngày 17/6/2013, có tới 12 tổ chức NGO, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Thế giới, Trung tâm nhân quyền Kennedy(Mỹ) và một đoàn gồm 12 nghị sĩ Mỹ… cũng lên tiếng mạnh mẽ yêu cầu chính phủ VN phóng thích ngay luật sư vô tội Lê Quốc Quân, đồng thời yêu cầu chấm dứt việc đàn áp các luật sư và các nhà chỉ trích chính phủ về vấn đề nhân quyền.

Ngày 27/6/2013, bản Dự thào về luật nhân quyền cho VN đươc được UB đối ngoại Hạ viện Mỹ thông qua, đưa ra cảnh báo dứt khoát cho VN là phải cải thiện về nhân quyền, nếu không muốn có những tổn hại về kinh tế và thương mại, hoặc những nguồn viện trợ nằm ngoài tính cách nhân đạo từ Mỹ.

Một Dự luật nhân quyền cho Việt Nam và Dự luật chế tài nhân quyền Việt Nam, hiện đang được trình cho Hạ nghị viện và rồi Thượng nghị viện Mỹ, là những hành động cảnh báo mạnh mẽ để VN cân nhắc lại và hành xử cho đúng với những văn bản đã ký cam kết về quyền con người cùng thế giới.

Trong hoàn cảnh Chủ tịch nước VN vừa ký văn bản cam kết hợp tác toàn diện với Mỹ, nếu VN không cam kết suông, thì vấn đề cải thiện nhân quyền tại VN lại càng cấp bách hơn bao giờ hết.

Chủ tịch Trương Tấn Sang và ông Barack Obama ở Nhà Trắng hôm 25/7

Việt Nam và Mỹ vừa cam kết sẽ tiếp tục đối thoại về nhân quyền

Mỗi người VN xin hãy tỉnh táo để tránh thảm họa đều trở thành nạn nhân của nạn côn đồ cướp bóc, như người dân làng Vĩ Đại. Hãy mở miệng bảo vệ chính chúng ta và các Tráng sĩ công lý.

Mỗi người VN vốn đều mang căn tính thiện và dũng khí trong mình, với lòng yêu công lý, hòa bình và hạnh phúc.

Vậy hãy để cho căn tính này được tự nhiên bộc lộ.

Hãy hồn nhiên “”mở miệng” như tạo hóa vốn tạo nên ta thế. Như một sự xác tín rằng ta là con người, xứng đáng được hưởng những quyền tối thiểu, đương nhiên của con người đã được tạo hóa ban cho. Nếu sống mà không có quyền tự do ngôn luận, quyền được hưởng công lý và bình đẳng, thì sống khác nào đang chết.

Mỗi công dân nếu cố gắng vượt qua sự sợ hãi và vô cảm thì chắc chắn sẽ chấn hưng được dân khí.

Người VN cũng biết hân hạnh mang nợ và trả nợ lương tâm. Như thế không phải là chống đối nhà cầm quyền, mà là thức tỉnh họ phải trở lại con đường đồng hành cùng nhân dân xây dựng một nền dân chủ, tự do, đất nước toàn vẹn lãnh thổ và giàu mạnh./.

NIỀM VUI TUỔI GIÀ

NIỀM VUI TUỔI GIÀ

ĐOÀN THANH LIÊM

Thế hệ chúng tôi đang ở vào lứa tuổi 70 – 80, đã về nghỉ hưu để mà an tâm dưỡng trí được rồi. Cuộc đồi quả thật đã nhiều phen lận đận nổi trôi theo vận nước – vốn từng bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh liên tục suốt 30 năm (1945 – 1975). Và rồi sau đó là chế độ độc tài chuyên chế cộng sản – và bây giờ là cuộc sống định cư ở nước ngòai.

Nhiều người được cái may mắn có con cháu thành đạt, lại có lòng hiếu thảo – nên được các cháu chăm lo săn sóc cho thật là chu đáo từ việc ăn uống, áo quần đến chuyện nhà ở, và gia đình cả ba bốn thế hệ con cháu lại thường có dịp xum họp quây quần bên nhau v.v… Nhờ vậy mà gia đạo có phần được an vui, yên ấm. Đó là niềm an ủi thật lớn lao quý báu cho tuổi già sinh sống xa quê hương bản quán của mình vậy.

Không còn bị vướng mắc với chuyện phải chật vật bươn chải lo toan kiếm sống cho bản thân và cho gia đình với các món “cơm áo gạo tiền” gì gì nữa, nên chúng tôi có thật nhiều thời gian rảnh rỗi – mà có một vài người lại còn than phiền, đại khái như “không biết phải làm cái gì cho hết ngày hết giờ”…Lại nữa, người lớn tuổi thường ít ngủ, hay nằm trằn trọc trên giường, hoặc thức giấc nhiều lần trong đêm để mà lo chuyện “xả cái bàu tâm sự mau bị đày ứ” ấy đi.

Nhưng cũng có người biết chấp nhận cái quy luật muôn thuở của cuộc sống trên cõi đời này, đó là chuyện “Sinh, Lão, Bệnh, Tử” – tức là cái tiến trình lão hóa do tính chất sinh học khách quan – mà không một sinh vật nào, kể cả bất kỳ con người nào mà lại có thể vượt thóat khỏi được. Nhờ vậy mà họ an tâm vui vẻ tìm cách thích nghi êm thắm với cái quá trình khuôn thước đó.

Trong vòng vài chục năm gần đây, nhờ sự phổ biến rộng rãi của Internet, nên các bạn lớn tuổi của tôi đã có thêm được một nguồn vui mới – khiến làm tăng thêm phẩm chất của cuộc sống – và như vậy là có thêm điều kiện để thực hiện được cái lý tưởng “Sống lâu và Sống có ích” như nhiều người đã tâm niệm từ bấy lâu nay.

Bài viết này nhằm ghi lại cái kinh nghiệm bản thân của một số huynh trưởng và bạn bè thân thiết – mà tôi thường gặp gỡ hay trao đổi qua mạng lưới điện tóan tòan cầu trong thời gian gần đây.

Nói chung, thì môi trường sinh họat ở nước ngòai có tính cách thông thóang hơn – cả về mặt vật chất như thực phẩm, dịch vụ chăm sóc y tế, vệ sinh môi trường thiên nhiên … được bảo đảm trong lành hơn – và cả về mặt văn hóa tinh thần cũng thỏai mái hơn vì không bị công an mật vụ nhòm ngó, kiểm sóat hạn chế mặt này mặt khác. Do đó, mà cuộc sống có được phẩm chất cao hơn (high quality of life) – bà con được tự do sinh họat thỏai mái dễ chịu hơn, thơ thới vô tư hơn.

1 – Trước hết là trường hợp của nhà báo Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh và của Giáo sư Phó Bá Long.

Cả hai vị này đều đã từ giã cõi đời cách đây không lâu. Nhưng họ đã sống rất thọ và ở tuổi 85 – 87, các vị vẫn còn hăng say nghiên cứu viết lách – mà đặc biệt là sử dụng internet khá thường xuyên trong việc giao tiếp với bà con bạn hữu hay tra cứu tham khảo tài liệu để viết báo viết sách. Nhà báo Sơn Điền còn tham gia viết báo thường xuyên khi đã tới tuổi thượng thọ 90 – ông chỉ ngưng viết vào hơn một tháng trước khi qua đời vào tháng 8 năm 2012 vì tuổi già kiệt sức. Mỗi lần tôi đến San Jose, thì đều ghé thăm ông tại khu cư xá bên cạnh thương xá Lion trên đường King với Tully. Ông luôn giữ được sự bình tĩnh sáng suốt tinh tường của một nhà báo kỳ cựu – mà có tay nghề dễ đến trên 60 năm.

Còn Giáo sư Long, thì vào cuối đời ông vẫn hăng say với nhiều công chuyện về giáo dục và văn hóa. Cụ thể là ông lo việc phổ biến cho công chúng tại Mỹ bản dịch tiếng Anh từ cuốn Hồi ký của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường nguyên tác bằng tiếng Pháp “ L’excommunié “ (Kẻ bị khai trừ). Ông Long là môn sinh của Luật sư Tường tại trường Bưởi Hanoi hồi trước năm 1945, và rất mến phục sự uyên bác của vị giáo sư dậy môn văn chương này. Trước khi mất vào năm 2009, ông Long vẫn liên lạc qua e-mail với tôi và ông thúc giục tôi phải chú ý thực hiện rất nhiều việc này chuyện nọ.

2 – Hai nhà văn Uyên Thao và Trần Phong Vũ với Tủ sách Tiếng Quê Hương.

Hai nhà văn kỳ cựu này đã bước vào tuổi bát tuần, nhưng từ nhiều năm nay các anh đã miệt mài làm việc để cống hiến cho độc giả đến trên 50 đầu sách trong Tủ sách Tiếng Quê Hương được ấn hành tại hải ngọai. Nhà văn Uyên Thao bị bệnh thật ngặt nghèo – phải cắt đi đến quá nửa cái bao tử – ấy thế mà suốt ngày đêm vẫn bám sát máy computer – để lo viết bài giới thiệu cũng như biên tập, nhuận sắc cho những cuốn sách do các tác giả trao phó cho việc xuất bản. Anh được bà con trong vùng thủ đô Washington mến mộ vì sức làm việc dẻo dai kiên trì liên tục từ trên cả chục năm nay.

Nhà văn Trần Phong Vũ là bạn học với tôi từ tuổi niên thiếu hồi trước năm 1945  tại thị xã Thái Bình – đến nay tình bạn giữa chúng tôi tính ra đã tới trên 70 năm rồi. Anh là người được bà con ở California đánh giá cao vì rất tháo vát năng nổ trên lãnh vực truyền thông báo chí, đài phát thanh, truyền hình… Và đặc biệt là anh sát cánh với Uyên Thao – người bạn đồng nghiêp lâu năm trong ngành phát thanh và báo chí trước đây ở miền Nam Việt nam – để cùng điều hành Tủ sách Tiếng Quê Hương.

Cả hai anh đều sử dụng nhuần nhuyễn kỹ thuật hiện đại của Internet, nhờ vậy mà công việc nghiên cứu, biên tập và sáng tác của các anh luôn có năng suất rất cao. Rõ ràng là hai anh đã có niềm say mê với sách vở chữ nghĩa và hiện đang sống thật sung mãn trọn vẹn cái tuổi của lớp người cao niên vậy.

3 – Các bạn đồng môn tại Trường Bưởi & Chu Văn An .

Các bạn cùng học chung với tôi lớp Đệ Nhất Ban Tóan tại Trung học Chu Văn An ở Hanoi niên khóa 1953 – 54, thì nay đều đã bước vào cái tuổi 80 cả rồi. Hiện nay, còn có tới trên 20 bạn vẫn giữ liên lạc được với nhau qua thư từ, điện thọai hay e-mail. Mùa hè năm 2012 vừa qua, tôi ghé qua Paris, thì gặp lại khá nhiều các bạn vốn đã sinh sống tại đó từ trên 50 năm nay – cụ thể là các bạn Phạm Xuân Yêm, Vũ Dương Tuyền, Bạch Lý Từ (em thày Bạch Văn Ngà). Và mấy bạn mới qua đây sau năm 1975 như Đỗ Đăng Di, Võ Thế Hào.

Trong buổi gặp nhau đông đủ tại nhà bạn Yêm ở thị trấn Bourg-la Reine, chúng tôi đã thỏa chí với đủ thứ chuyện hàn huyên tâm sự – nhắc lại bao nhiêu kỷ niệm của tuổi trẻ thơ mộng từ cái thời 60 năm trước trên đất Bắc. Và đặc biệt, chúng tôi lại còn nói chuyện qua điện thọai với nhiều bạn khác như Bùi Thiệu Tường ở Montréal Canada, Vũ Ngọc Óanh ở San Jose California, Vũ Tiến Thông, Vũ Hữu Bao ở Texas, Ngô Đình Thuấn ở Washington DC v.v… Bạn Di là trưởng lớp vẫn giữ được cái tác phong của con chim đầu đàn nhằm giữ vững cái mối tình keo sơn gắn bó giữa anh em chúng tôi – nhất là bạn lại rất siêng năng với chuyện thông tin liên lạc của các thành viên trong Nhóm qua Internet.

Nhân tiện, cũng xin ghi thêm về sinh họat của các Phân Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Trường Bưởi – Chu Văn An tại nhiều địa phương như ở Nam và Bắc California, ở Texas, ở Washington DC, ở Canada, ở Paris v.v… Mỗi năm, hầu hết các Phân Hội này đều tổ chức các buổi Hội Ngộ Mùa Xuân, Mùa Hè và còn ấn hành các cuốn Đặc san hoặc Kỷ yếu để ghi lại những kỷ niệm thân thương trìu mến về Trường Xưa, Bạn Cũ nữa. Và nhờ qua Internet, mà việc thông tin liên lạc được mau lẹ và phổ biến rộng rãi cùng khắp nơi trên thế giới nữa. Quả thật Internet là một phương tiện thật đắc lực để giúp củng cố và tăng cường cái tình bạn từ thuở thiếu thời giữa các bạn đồng môn chúng tôi mà đều xuất thân từ trường Bưởi – Chu Văn An vậy đó.

4 – Sinh họat của các Hội đòan khác.

Tôi tham gia sinh họat với nhiều hội đòan như Hội Ái Hữu Hành chánh Tài chánh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Hội Ái Hữu Luật khoa VN, Mạng Lưới Nhân Quyền VN … Và nhất là tôi còn hay viết bài gửi đăng trên nhiều báo giấy cũng như báo điện tử on-line tại nhiều nơi trên thế giới.

Trong khi sinh họat với các tập thể như vậy, lớp người lớn tuổi như chúng tôi lại được các bạn trẻ tiếp sức – mà các bạn trẻ thì thường là rất thành thạo về kỹ thuật điện tóan – nhờ vậy mà họat động của tập thể chúng tôi đạt được nhiều kết quả tốt đẹp, có khi còn vượt quá sự mong ước của các thành viên nữa. Kết cục là anh chị em được tăng thêm niềm lạc quan phấn khởi sau những thành tựu thật tốt đẹp như thế.

Mà còn hơn thế nữa, lớp con cháu thuộc thế hệ thứ 2, thứ 3 trong gia đình thì lại còn nhuần nhuyễn gấp bội trong việc áp dụng những tiến bộ kỹ thuật về điện tóan – nên các cháu thường ra sức tiếp trợ về chuyên môn cũng như mua sắm máy móc hiện đại giúp nâng cao năng suất công việc của chúng tôi rất nhiều. Thành ra, tòan bộ gia đình gồm cả hai ba thế hệ đều cùng tập trung vào công chuyện xã hội nhân đạo cũng như tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền ở Việt nam nữa.

Qua việc hỗ trợ kỹ thuật cũng như tài chánh như thế, các cháu có thêm cơ hội để hiểu biết thấu đáo hơn về tâm sự cùng ước vọng của thế hệ người lớn tuổi – và từ đó mà có thêm sự thông cảm và quan tâm sâu sắc hơn đối với những vấn đề sinh tử của bà con ruột thịt của mình ở bên quê nhà. Và hệ quả là cái hố cách biệt giữa hai thế hệ già và trẻ trong cùng một gia đình (Generation Gap) cũng có cơ may được giảm bớt đi rất nhiều nữa.

5 – Kinh nghiệm cá nhân về sự tìm kiếm tài liệu trên Internet.

Nhân tiện, tôi cũng xin ghi vắn tắt về chuyện truy cập tìm kiếm thông tin tài liệu trên Internet. Phải nói rằng nhờ có Internet mà chúng ta có thể tìm được bất kỳ tài liệu nào liên hệ đến chủ đề mình đang theo đuổi nghiền ngẫm – nguồn thông tin đó lắm khi quá phong phú dồi dào đến nỗi có khi mình đâm ra nghi ngờ lúng túng không còn biết đúng sai ở chỗ nào nữa. Tuy nhiên, nếu mà giữ được sự bình tĩnh kiên nhẫn cần thiết, thì ta vẫn có thể tìm cách sàng lọc từ cái khối lượng thông tin hỗn độn đó để rút ra được những tài liệu khả tín, chính xác – khả dĩ có thể khai thác và sử dụng được cho bài viết của mình.

Việc này thường được gọi là “sự tiếp nhận có chọn lọc” (the selective reception) – đó là phương cách hiệu quả nhất cho bất kỳ cuộc truy tầm nghiên cứu nghiêm túc nào vậy.

Nói vắn tắt lại, nhờ khôn khéo áp dụng những tiến bộ mới trong thời đại Internet ngày nay ở vào đầu thế kỷ XXI, mà lớp người cao niên đang có triển vọng đạt tới được năng suất cao hơn ở mọi lãnh vực sinh họat cũng như tranh đấu góp phần với bà con tại quê nhà – trong công cuộc xây dựng một xã hội thật sự tiến bộ, nhân bản và nhân ái theo trào lưu phổ biến của thế giới hiện đại.

– Vấn đề là chúng ta phải thực sự có quyết tâm bền chí để cùng kết hợp với thế hệ trẻ là lớp con cháu nơi mỗi gia đình – trong việc hội nhập êm thắm với dòng chính của xã hội nơi chúng ta đã chọn lựa để mà định cư sinh sống lâu dài – sau khi thóat khỏi chế độ độc tài chuyên chế tòan trị do người cộng sản áp đặt trên quê hương bản quán là nơi chôn nhau cắt rốn của mình.

– Nhờ có việc hội nhập tốt đẹp như vậy, mà chúng ta còn kêu gọi thêm được sự hỗ trợ thật quý báu và hiệu quả từ phía nhân dân các quốc gia văn minh dân chủ trên thế giới – trong ý hướng cùng góp phần vào công cuộc tranh đấu trường kỳ cho chính nghĩa tự do, dân chủ và phẩm giá con người của đồng bào ruột thịt Việt Nam chúng ta hiện đang sinh sống trên quê hương đất nước mình nữa.

-Và đó mới đích thực là niềm vui lý tưởng trọn vẹn – với ý nghĩa cao quý trong cuộc sống của thế hệ người lớn tuổi như chúng ta hiện đang định cư tại những quốc gia văn minh trên khắp thế giới ngày nay vậy.

Westminster, California Hạ tuần tháng Bảy năm 2013

Đoàn Thanh Liêm