‘Tội diệt chủng’ với quản giáo cộng sản Romania

‘Tội diệt chủng’ với quản giáo cộng sản Romania

Thứ ba, 3 tháng 9, 2013

Ông Visinescu không bình luận gì sau khi bị truy tố.

Công tố viên ở Romania truy tố một quản giáo thời cộng sản vì tội diệt chủng.

Tội danh với ông Alexander Visinescu là lần truy tố đầu tiên kể từ cuộc cách mạng 1989 dẫn đến việc tử hình lãnh tụ cộng sản Nicolae Ceausescu.

Ông Visinescu, 88 tuổi, có thể chịu án tù chung thân nếu bị tòa kết tội. Ông từng là trưởng trại giam Ramnicu Sarat từ 1956 đến 1963.

Bên công tố nói các tù nhân chính trị ở đó bị đánh đập, bỏ đói, và không được chăm sóc y tế.

Viện điều tra tội ác cộng sản của Romania (IICCMER) liệt ông này vào danh sách 35 viên chức mà họ xem là vi phạm nhân quyền.

Viện này nói chế độ nhà tù ở Ramnicu Sarat đem lại điều kiện “phi nhân đạo, dẫn đến cái chết của nhiều tù nhân chính trị”.

Hơn 600,000 người bị án tù chính trị ở Romania từ 1945 đến 1989, theo Viện Bảo tàng Nạn nhân Cộng sản của Romania.

Tại Romania đã xảy ra cuộc nổi dậy đẫm máu lật đổ chế độ cộng sản.

Nhà độc tài Nicolae Ceausescu và vợ bị kết tội diệt chủng năm 1989 trong một phiên tòa chóng vánh.

Họ bị hành quyết ngày 25/12 năm 1989.

Nhưng kể từ đó, Romania chưa kết tội một quản giáo thời cộng sản nào.

Đảng sẽ đưa đất nước về đâu?

Đảng sẽ đưa đất nước về đâu?

Thanh Quang, phóng viên RFA
2013-09-02

000_Hkg8860693-305.jpg

Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị (P) và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hà Nội ngày 05 Tháng 8 năm 2013.

AFP photo

Việc luật gia Lê Hiếu Đằng “Suy nghĩ trong những ngày nằm bệnh” để “tính sổ cuộc đời” và rồi đề xướng lập “Đảng của những người bỏ đảng” nhằm mang lại sinh hoạt chính trị cho đúng nghĩa, hình thành xã hội dân sự cũng như xúc tiến dân chủ hóa xã hội VN khiến, cho tới giờ, khoảng 20 bài viết trên báo lề đảng như Nhân dân, Quân đội Nhân dân, Công an Nhân dân, Đại Đòan kết, Saigòn Giải phóng…đồng loạt công kích.

Bất công khắp nơi

Lên tiếng với phóng viên Gia Minh, luật gia Lê Hiếu Đằng cho biết:

Có thể nói đầu tiên khi tôi đặt ra những vấn đề đó thì thật ra đó là những vấn đề đi vào yếu huyệt của đảng cộng sản, của chế độ; thành ra quí vị đó phản ứng hơi mạnh. Tôi nghĩ đó là điều tất nhiên thôi. Mà vấn đề đó là vấn đề cốt tử hiện nay bởi vì một xã hội phát triển bình thường phải có những đảng chính trị đối lập để giám sát, chế ước lẫn nhau. Điều đó là xu thế trên thế giới…Bất cứ chính quyền nào, cộng sản hay không cộng sản mà ‘một mình, một chợ’, không có giám sát của xã hội dân sự cũng sẽ trở thành hư đốn, lộng quyền và lạm quyền thôi…

Khi nhận thấy “hàng lô những nhà lý luận cung đình”, chuyên hay thời vụ, quy chụp ông Lê Hiếu Đằng là “thay lòng đổi dạ”, phản bội lại lý tưởng mà ông đã theo đuổi, thì blogger Hùynh Ngọc Chênh nêu lên câu hỏi rằng “Ai thay lòng đổi dạ?”.

Qua bài blog với tựa đề như vừa nói, nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh lưu ý rằng số bài viết chỉ trích luật gia Lê Hiếu Đằng thì nhiều nhưng “luận điệu phản biện thì giống hệt nhau, nghèo nàn và xơ cứng, đi lại cũng hô các khẩu hiệu: Con đường đi lên CNXH là chọn lựa duy nhất của dân tộc VN, đảng độc quyền lãnh đạo là tất yếu lịch sử, đảng đưa đất nước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, xương máu của hàng triệu đảng viên (?) góp phần làm nên thắng lợi nên đảng đời đời độc quyền lãnh đạo là đương nhiên, dân chủ VN theo kiểu của VN…”. Vẫn theo blogger Hùynh Ngọc Chênh, các “tác giả lý luận cung đình” lề đảng ấy lại lặp lại cung cách của “dân nơi chợ búa” vẫn làm khi muốn “phản biện ” đối thủ của mình, đó là “thóa mạ, quy chụp, chửi bới về nhân thân cũng như động cơ của ông Lê Hiếu Đằng”.

000_Hkg8442283-250.jpg

Người nhà ông Đoàn Văn Vươn kêu oan cho ông trước TAND Hải Phòng hôm 02/4/2013. AFP photo

Sau khi  “thử hỏi lý tưởng mà ông Đằng đã theo đuổi suốt cuộc đời của mình, từ hồi trai trẻ còn cắp sách đến trường cho đến lúc gần đất xa trời, là gì ? Nhà báo Hùynh Ngọc Chênh cho biết đó là “đấu tranh chống bất công, chống áp bức, chống xâm lược nhằm xây dựng một đất nước Việt Nam độc lập, tự do, dân chủ, công bằng và hạnh phúc”, và blogger Hùynh Ngọc Chênh nêu lên vấn đề là “ai rời bỏ lý tưởng đó ? Đảng CS hay những người đã và sắp bỏ đảng như ông Lê Hiếu Đằng ?”. Tác giả hỏi tiếp rằng dưới sự lãnh đạo của đảng CS, nước VN thống nhất trong 38 năm qua đã có được những gì: Độc lập? Tự do? Dân chủ ? Hạnh phúc thực sự hay chưa ? Xã hội có công bằng không ? Và tòan dân có ấm no không ? Nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh lưu ý:

Nhìn vào thực trạng đất nước hiện nay, ông Lê Hiếu Đằng đã đưa ngay câu trả lời. Đảng lãnh đạo hầu như lệ thuộc vào đảng Trung Quốc từ lý luận đến thực tiễn hành động. Đất nước thì bị đe dọa mất chủ quyền bởi vòng kim cô “4 tốt, 16 chữ vàng” để bị kẻ thù phương Bắc bao vây trên nhiều phương diện: Quân sự, ngoại giao, kinh tế và cả văn hóa nữa. Kinh tế thì suy sụp, xã hội thì đảo điên, áp bức bất công khắp mọi nơi, nạn tham nhũng thì càng ngày càng phát triển đến mức không còn cách để ngăn chặn…


“Từ trước đến nay đảng chưa hề có một lời xin lỗi với nhân dân về những sai lầm của mình. Từ đó, những người ấy nghi ngờ rằng đảng đã không còn đi trên con đường lý tưởng như ban đầu đã chọn lựa.
– Nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh”

Điều gì đã đưa đất nước đi đến thực trạng như vậy? Ông Lê Hiếu Đằng cũng như nhiều trí thức nhân sĩ trong và ngoài đảng đều có chung một nhận định: Do đảng lãnh đạo đã liên tục mắc vào các sai lầm mà không hề đúc kết rút kinh nghiệm để sửa sai. Từ trước đến nay đảng chưa hề có một lời xin lỗi với nhân dân về những sai lầm của mình. Từ đó, những người ấy nghi ngờ rằng đảng đã không còn đi trên con đường lý tưởng như ban đầu đã chọn lựa.

Trong những ngày qua, một loạt những bài viết lề đảng “đấu tố” luật gia Lê Hiếu Đằng khiến blogger Phạm Đình Trọng liên tưởng đến “những bài viết rầm rộ, đồng loạt, tới tấp đánh Nhân Văn Giai Phẩm trên các báo ở miền Bắc hồi những năm 1956, 1957”, nó “sao giống khẩu khí, giọng điệu, giống cả thái độ quyền uy lấn lướt, giống cả sự hằn học nhỏ nhen, muốn làm sống lại cả không khí ngột ngạt, căng thẳng thời đánh NVGP đến thế”.

Hiện trạng đất nước

Nhà văn Phạm Đình Trọng nhận thấy trước kia, NVGP bị đánh theo “lệnh công khai phát ra từ chót vót trên cao” khi những “bài viết và nói nảy lửa” của “thi bá” Tố Hữu phát ra từ phát súng lệnh của “cung đình nhà Đỏ”, thì ngay lập tức, “các nhà nghiên cứu, các văn nghệ sĩ ào ào nhảy vào đánh túi bụi những mục tiêu đã được chỉ định. Đánh để cố tách xa mình ra khỏi NVGP, để bày tỏ lòng trung thành với đảng, để lập công với đảng nên không thiếu một tên tuổi nào, không sót một tờ báo nào trong cuộc đánh hội đồng này”.

Còn ngày nay, theo Đại tá Phạm Đình Trọng, chỉ có “dăm tờ báo với vài người viết tên tuổi lạ hoắc có thể coi là vô danh” mượn cớ đánh bài Suy nghĩ trong những ngày nằm bệnhcủa ông Lê Hiếu Đằng để, qua đó, đánh phá luôn cả phong trào đấu tranh đòi dân chủ hóa đất nước. Nhưng nhà văn Phạm Đình Trọng nhấn mạnh rằng dù mức độ đánh phá có khác, qui mô và khí thế có khác, còn nội dung thì “hoàn toàn là sự tái hiện vụ Nhân Văn Giai Phẩm, vụ Xét Lại Chống Đảng trong quá khứ, là quyền uy độc tài đánh phá ngăn chặn đòi hỏi tự do dân chủ, là lực lượng chuyên chính về tư tưởng bảo vệ quyền uy, bảo vệ đặc quyền đặc lợi của Nhà nước đảng trị chống trả lại tiếng nói vì dân vì nước”.

Giữa lúc thời nay đang “sống lại cả không khí ngột ngạt, căng thẳng của thời đánh NVGP ”, nhà văn Phạm Đình Trọng cũng không quên cuộc đấu tố “địa chủ” trong chiến dịch cải cách ruộng đất diễn ra kiểu “cánh đồng giết người” như bên xứ Chùa Tháp, khi những kẻ đấu tố “càng tỏ ra sôi sục căm thù”, tìm cách vạch ra cho được nhiều “tội ác” của nạn nhân bị gán cho là “địa chủ” thì càng được đánh giá là có “giác ngộ giai cấp”, càng được đảng tin cậy, cất nhắc. Do đó, theo nhà văn Phạm Đình Trọng, người đấu tố phải cố “lên gân” lập trường giai cấp, phải “tưởng tượng ra đủ các tội vu oan giá họa làm cho một nông dân hiền lành chỉ nhờ biết tổ chức làm ăn, chịu khó cần cù khuya sớm và tằn tiện ki cóp mà có đủ ruộng cày cấy và có cuộc sống tạm đủ ăn cũng trở thành địa chủ cường hào gian ác phải nhận bản án tử hình”.
Nhà văn Phạm Đình Trọng nhận thấy bài viết “Suy Nghĩ Trong Những Ngày Nằm Bịnh” của ông Lê Hiếu Đằng chỉ là một sự tiếp nối tiếng nói NVGP nửa thế kỉ trước đòi tự do dân chủ thật sự cho quê hương mà thôi.

000_Hkg8867232-250.jpg

Hà Nội sau một trận mưa lớn hôm 08/8/2013. AFP photo

Đại tá Phạm Đình Trọng nhân tiện lưu ý rằng những nhà viết lịch sử đảng, những nhà lí luận, những cán bộ tuyên huấn của đảng suốt mấy chục năm qua đều “một giọng cường điệu hóa, anh hùng ca hóa công tích của đảng Cộng sản Việt Nam mà không chịu nhìn vào thực tế là những sai lầm liên tiếp trong quá khứ, tham nhũng không có điểm dừng trong hiện tại của đảng đã đưa dân tộc Việt Nam đi từ thảm họa này đến thảm họa khác”. Những thảm họa đó là:

“Thảm họa cải cách ruộng đất đánh sập từ gốc rễ đạo lí Việt Nam, đánh tan tác văn hóa làng xã tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam.”

Thảm họa Nhân Văn Giai Phẩm, thảm họa ngụy tạo ra vụ Xét lại chống đảng đã giam cầm, đầy ải, giết dần giết mòn những tài năng, tinh hoa nhất của dân tộc Việt Nam.”

Thảm họa cải tạo tư sản ở miền Bắc sau năm 1954, cải tạo tư sản ở miền Nam sau năm 1975 tước đoạt quyền làm chủ của những chủ tư sản biết tổ chức sản xuất kinh doanh tạo ra việc làm cho người lao động, tạo ra của cải cho xã hội… Cải tạo tư sản đã hủy hoại, xóa sổ cả một nền sản xuất công nghiệp tự chủ đang lớn mạnh của người dân, của đất nước.”

Thảm họa tập trung cải tạo thực chất là tù đày lực lượng ưu tú nhất của xã hội miền Nam cũng là tài sản con người của dân tộc Việt Nam, đẩy một nửa dân tộc Việt Nam ra khỏi vòng tay Mẹ hiền Tổ Quốc Việt Nam. Từ đó dẫn đến thảm họa thuyền nhân vùi xác hơn nửa triệu người dân Việt Nam dưới đáy biển.”


“Thảm họa Vinashin, Vinalines làm thất thoát hàng trăm ngàn tỉ đồng vốn ngân sách Nhà nước, tạo ra đổ vỡ dây chuyền làm cho hàng trăm ngàn doanh nghiệp phá sản, đẩy nền kinh tế đất nước vào khủng hoảng kéo dài, không thể cất mình lên nổi
– Đại tá Phạm Đình Trọng “

Thảm họa mất đất mất biển. Những mảnh đất mang hồn thiêng tổ tiên người Việt Nam, thấm đẫm máu nhiều thế hệ người Việt Nam, những tên đất chói lọi trong lịch sử Việt Nam đã bị Nhà nước Cộng sản Việt Nam cắt sang đất Tàu”!

Thảm họa khai thác bô xít Tây Nguyên tàn phá môi trường, tàn phá văn hóa Tây Nguyên, làm chảy máu lâu dài nền kinh tế đất nước. Dự án khai thác bô xít Tây Nguyên liên tục ngốn nguồn vốn lớn hàng chục ngàn tỉ, hàng trăm ngàn tỉ đồng của nền kinh tế đất nước nhưng không làm ra một đồng tiền lãi, không bao giờ có lãi ở thời hiện tại!”

Thảm họa Vinashin, Vinalines làm thất thoát hàng trăm ngàn tỉ đồng vốn ngân sách Nhà nước, tạo ra đổ vỡ dây chuyền làm cho hàng trăm ngàn doanh nghiệp phá sản, đẩy nền kinh tế đất nước vào khủng hoảng kéo dài, không thể cất mình lên nổi”.

Thảm họa tụt lại sau thế giới, lạc lõng với thế giới. Năm 1975 Thái Lan phải ngước nhìn lên sự phát triển của kinh tế, xã hội miền Nam Việt Nam thì nay Thái Lan phải ngoái lại phía sau nhìn sự ì ạch của kinh tế xã hội Việt Nam vì Thái Lan đã vượt xa Việt Nam vài chục năm rồi và càng ngày, Thái Lan càng bỏ xa Việt Nam”.

Nhà văn Phạm Đình Trọng nhân tiện cảnh báo rằng một đảng đã đưa dân tộc Việt Nam đi “từ thảm họa này đến thảm họa khác”, một đảng đã “cắt cả đất đai thiêng liêng của tổ tiên” cho phương Bắc, một đảng đang “lún sâu trong tham nhũng”, dùng bạo lực chuyên chính vô sản “bóp chết những tiếng nói chính đáng đòi tự do dân chủ”, “kìm hãm sự phát triển của xã hội, của đất nước”, thì, theo blogger Phạm Đình Trọng, “ đó là một tội ác! Những tội đó còn ghi khắc mãi trong lịch sử đau thương của đất nước này”.

LS Hà Huy Sơn qua bài “Hãy tuân theo quy luật để tồn tại và phát triển” khẳng định rằng “một nhà nước dưới sự lãnh đạo của một đảng thì nhà nước đó không bao giờ là nhà nước của mọi công dân”, hay nói cách khác, nó không phải là một nhà nước “ của dân, do dân, vì dân”, cả về nguyên lý lẫn thực tiễn.

Có lẽ trước tình cảnh như vậy, nhà thơ Lang Thang “cảm tác” thành vầng thơ:

Lúc nào đảng cũng thắng, dân thua

Thì hỏi đảng vì dân hay vì đảng?

AI HẠ MÌNH XUỐNG SẼ ĐƯỢC TÔN LÊN

AI H MÌNH XUNG S ĐƯC TÔN LÊN

 

Nếu cuộc đời là một bữa tiệc, hẳn có nhiều thực khách đã chọn chỗ nhất mà ngồi. Tôi chọn ngồi chỗ nhất vì tôi thấy mình quan trọng, tôi xứng đáng được hưởng vinh dự đó…

Tiếc thay, không có nhiều chỗ nhất trong bữa tiệc cuộc đời, nên người ta phải tranh giành nhau bằng mọi thủ đoạn để chiếm được và giữ được chỗ nhất cho mình.

Những cuộc tranh giành như thế đâu phải là điều xa lạ.  Chúng vẫn diễn ra nơi gia đình, trong cộng đoàn, trong nhóm, trong giáo xứ, giữa các quốc gia… Nơi nào có hai người ở với nhau là có thể có đụng chạm, vì chỉ có một chỗ nhất.

Giữa một thế giới tự cao tự đại, rồi xâu xé nhau, Đức Giêsu mời gọi chúng ta sống tự khiêm, tự hạ. Nhiều khi chúng ta hiểu sai về khiêm nhường.

–      Khiêm nhường không phải là khinh rẻ bản thân, cũng không phải là thụ động, không dám nhận trách nhiệm, trách nhiệm làm người ở đời và làm con Thiên Chúa.

–      Khiêm nhường lại càng không phải là một mặt nạ để lôi kéo sự chú ý của người khác: tôi hạ mình xuống để được tôn lên.

Abraham là một mẫu gương khiêm nhường.  Ông ý thức mình chỉ là tro bụi (Kn 18,27), nhưng ông đã dám mạnh dạn mặc cả với Đức Chúa về số người công chính, đủ để cứu thành Sôđôma.  Giêrêmia đã từ chối làm ngôn sứ, lấy cớ mình còn trẻ người non dạ (Gr 1,6). Nhưng khi ông dám nhận trách nhiệm Chúa trao, thì ông trở thành khiêm tốn và can đảm.

–      Nhiều người định nghĩa khiêm nhường là chấp nhận sự thật.  Nhưng chấp nhận sự thật là điều khó biết bao, vì sự thật đòi tôi xét lại cách sống.

–      Khiêm nhường là nhận biết thân phận thụ tạo của mình: những gì tôi có và cả con người tôi, đều bởi Chúa.

–      Khiêm nhường là đón nhận đời mình như quà tặng Chúa ban, và dâng lại đời mình cho Chúa như một quà tặng.

–      Khiêm nhường cũng là nhìn nhận sự thật về mình: tôi chưa hoàn hảo, tôi có nhiều giới hạn, tôi cần được tha nhân nâng đỡ, góp ý… Tha nhân ấy không phải chỉ là người trên tôi, mà còn có thể là người kém tôi hay chẳng ưa tôi.

Nơi lời chỉ trích, tôi gặp được khá nhiều sự thật.

Nếu tôi khiêm hạ trước người khác, tôi sẽ thấy được nhiều ưu điểm bất ngờ của họ.  Những ưu điểm này không phải là mối đe dọa cho tôi nhưng là quà tặng làm tôi thêm phong phú.

“Xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa.”Càng biết, chúng ta càng khiêm nhường thẳm sâu. Thánh Phanxicô Borgia viết: “Tôi thực tâm muốn đặt mình ở dưới Giuđa, vì tôi đã thấy Đức Giêsu ngồi dưới chân anh ấy.

Nếu chúng ta chọn ngồi ở chỗ cuối, thì chỉ vì đó là chỗ ngồi quen thuộc của Đức Giêsu.

****************************************

Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm.

Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến

Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.

Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.

Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới.  Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.

Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ.

Trích từ ‘Manna’

Đức Khiêm Nhường

Đức Khiêm Nhường

Khiêm tốn vẫn được coi là một đức tính tốt ở mỗi người. Điều đó ai cũng hiểu nhưng làm sao để có được đức tính ấy?.

Trên chuyến xe lửa chạy từ ngoại ô vào trung tâm thủ đô Pari. Trong toa xe, có một ông già ngồi bên cạnh một chàng sinh viên trẻ. Khi tàu xe chạy được một đoạn thì ông già từ tốn lấy ra trong túi một chuỗi hạt và chỉ ít phút sau ông đã chìm vào trong sự cầu nguyện. Anh sinh viên liếc nhìn tỏ ra khó chịu. Thời gian trôi đi, anh ta vẫn thấy ông già vẫn im lặng, thành kính, say mê lần hạt. Anh sinh viên khó chịu quá thốt lên: Này ông! Đến bây giờ ông vẫn còn tin vào sự vơ vẩn này ư?
Ông già từ từ nhìn lên và nhè nhẹ gật đầu: Vâng, tôi vẫn tin, nhưng còn anh? Anh sinh viên cười khoái trí và trả lời rằng: hồi nhỏ tôi cũng có tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin được, khi khoa học đã mở mắt cho tôi khám phá ra những chân trời mới và cống hiến cho nhân loại với biết bao nhiêu điều tốt đẹp.
Ông già giơ tay ngắt lời anh sinh viên. Này anh, anh vừa nói là khoa học đã khám phá ra những chân trời mới, vậy anh có thể cho tôi biết chân trời mới ấy là thế nào không?

Anh sinh viên sôi nổi quả quyết: Vâng, nếu ông muốn biết, thì cứ cho tôi biết địa chỉ của ông, tôi sẽ gửi đến cho ông một cuốn sách. Khi đọc xong cuốn sách ấy, ông sẽ tức khắc bỏ những niềm tin vơ vẩn này đi ngay.
Ông già điềm tĩnh lấy ra tấm danh thiếp đưa cho anh sinh viên. Anh sinh viên đọc tấm danh thiếp, thoáng nhìn ông, bỗng ngượng tái mặt lẳng lặng bỏ sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp của ông già chỉ ghi vỏn vẹn có mấy chữ: Louis Pasteur – Viện trưởng Viện Hàn lâm Khoa học Pari.

Mẫu chuyện này có thể mang lại cho chúng ta một triết lý và kinh nghiệm sống. Đồng thời, nó nói lên tính tự mãn của con người khi người ta quá đề cao về thành tụ của khoa học mà thiếu vắng niềm tin nơi Thiên Chúa. Câu ngạn ngữ cổ Hy Lạp viết:“Kiêu căng là đặc quyền của kẻ khờ dại”. Còn trong sách Huấn ca thì dạy rằng: ” Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa. Vì quyền năng Đức Chúa thì lớn lao: Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường. Kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng và vô phương cứu chữa” (Hc 13,18-28).

Nối kết với bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su cũng đưa ra bài học rất thực tế về cách đối nhân xử thế. Ngài dùng dụ ngôn bữa tiệc để khuyên dạy dân chúng cần có thái độ khiêm nhường trong cách quan hệ xã giao. Thái độ này phù hợp với con cái Thiên Chúa trong mọi lãnh vực sinh hoạt. Bởi lẽ, có nhiều kẻ muốn được ngồi trên những hàng ghế vị vọng, muốn được người ta kính trọng, muốn trèo lên những vị trí hàng đầu. Đó cũng là cách thức mà người đời thường đánh giá về nhau qua địa vị, thành tích và ảnh hưởng xã hội về bản thân, họ tự cho mình là quan trọng, là bậc nhất, không ai có thể thay thế được.

Có lẽ, điều Chúa Giê-su nói với dân chúng không chỉ ở cái ghế ngồi, mà đằng sau cái ghế vị vọng đó còn có một ý nghĩa sâu xa hơn, đó là bữa tiệc của Nước Trời. Bữa tiệc mà mọi người được tham dự, thì sẽ không đánh giá qua địa vị và chức tước. Đối với Thiên Chúa, mọi người đều như nhau khi chúng ta ra khỏi đời này về bên Chúa thì sẽ có nhiều điều bất ngờ. Có khi một bà cụ già hiền lành, một kẻ ăn xin vô gia lại được đứng trước những kẻ vị vọng cao sang quyền quý… Điều quan trọng và cần thiết hơn là làm sao chúng ta được bước vào Nước Chúa, thì không còn là địa vị chức tước nữa, mà là thái độ của lòng khiêm nhường để nhận ra chân lý, nhận ra con người đầy khiếm khuyết và tội lỗi của chúng ta, vì Nước Trời không dành cho những kẻ kiêu căng tự phụ. Lời Chúa nói: “Phúc cho ai có lòng khiêm nhường vì Nước Trời là của họ”.

Cho nên, đức khiêm nhường không những được coi là một phẩm đức tốt mà còn là nền tảng của đạo đức, là cả một đạo lý. Với Lão Tử, khiêm tốn được khái quát lên thành cái “Đạo” của con người thông minh, cái đạo không thể thiếu trong xử thế. Lão Tử viết: “Kiêu Ngạo, ham muốn, nộ khí, ý nghĩ lệch lạc quá nhiều, chỉ có hại mà thôi”. Thật vậy, khi sống với người kiêu ngạo tự phụ, chúng ta sẽ thấy kẻ ấy chỉ lo cho bản thân mình, luôn tìm cơ hội để tiến chức, để được tán thưởng của người đời. Họ sợ thất bại, lo lắng sự đời đến chỗ giận dữ thái quá, ghen ghét, hận thù, và tìm cách hạ bệ người khác, cho mình là nhất, là hơn người, đó là một thái độ tự cao, tự đại của kẻ kiêu căng, nó đi ngược lại với đức khiêm nhường. Một thánh nhân đã từng nói: “Kẻ nào giàu có nhân đức mà thiếu đức khiêm tốn thì cũng giống như người cầm nắm cát đứng trước gió”.

Lạy Chúa, xin cho con đủ khiêm tốn để biết nhận ra con người thật của mình một cách chân thành và trung thực, đừng chạy theo sự giã dối và tự lừa dối mình. Xin cho con khiêm tốn đủ để đón nhận những điều tốt đẹp của người khác, cũng như những yếu đuối tội lỗi của mình. Nhất là bỏ đi tính kiêu căng tự phụ để trở nên con người hiền từ và khiêm nhường trước mặt Chúa và anh chị em con. Amen.

 

 

NGOẠI ÐẠO

NGOẠI ÐẠO

Lm Nguyễn Tầm Thường SJ

nguồn: Đài phát Thanh Chân Lý Á Châu

Lạy Chúa, con là người ngoại đạo
Nhưng tin có Chúa ngự trên cao.

Là người ngoại đạo sao lại tin có Chúa ngự trên cao? Ðã tin Chúa ngự trên cao là có đạo rồi. Nếu tin Chúa ngự trên cao mà vẫn ngoại đạo chỉ có nghĩa là có đạo mà không vào đạo thôi.

Nhiều người có đạo nhưng không vào đạo. Cũng như nhiều người vào đạo nhưng không có đạo. Thơ Nguyên Sa bảo rằng nắng Saigon tôi đi mà chợt mát vì em mặc áo lụa Hà Ðông. Cũng nắng Saigon tôi đi, nhưng sẽ chẳng chợt mát khi lòng tôi không có áo-lụa-em bay. Áo lụa cũng phơi bên sân hiền nhà ai. Dưới ngõ trúc cũng là áo lụa ai đi về. Cũng là áo lụa đó, nhưng vẫn là khác. Phải là áo-lụa-em bay lòng anh mới chợt mát.

Như thế, xem ra, cái gần gũi không gian có là gần mà vẫn là xa. Cái lòng mình chợt mát phải là cái gì thiêng liêng hơn, nó ở trong hồn ta chứ không ở ngoài ta. Nếu nó ở ngoài ta thì bất cứ áo lụa nào lòng tôi cũng chợt mát, bất cứ nắng nào cũng được chứ không phải nắng Saigon. Cái nắng Saigon, con đường Duy Tân lá đổ, hàng me già công viên, tự nó chỉ là me, là nắng, là lá đổ mà thôi cho những ai đi giữa Saigon mà không có Saigon với áo-lụa-em trong hồn mình. Còn ai có áo-lụa-em thì nắng là chợt mát, lá đổ là muôn chiều dư âm. Ðạo cũng thế, chỉ khi nào đạo ở trong tôi mới là có đạo, mới là “chợt mát”, là ơn cứu độ.

Thủa xưa cũng đã có một chuyện tình. Ngày đó, sau khi phạm tội, Ađam cùng Evà đi “trong địa đàng” nhưng vẫn là rũ úa giữa địa đàng. Như thế, “tôi ở trong địa đàng” vẫn là thống khổ, chỉ khi “địa đàng ở trong tôi”, lúc đó tôi mới “có địa đàng”, bấy giờ mới là gió lụa, mới là nắng hoa, mới là lòng mình chợt mát.

Nói về có đạovào đạo thì Phúc Âm có nhiều biến cố tường thuật về những người ngoại đạo nhưng lòng họ thì lại có đạo.

Một người ngoại đạo

Kết thúc cuộc đời rao giảng của Chúa là khúc đường vác thập giá lên Núi Sọ. Nếu Chúa vác không nổi mà chết trên đường đi thì hành trình cứu chuộc có dang dở không? Ðó là câu hỏi giả sử mà thôi. Thực tế, hành trình cứu chuộc đã không dang dở. Chúa đã không kiệt sức mà chết trên đường đi vì đã có người vác đỡ. Kẻ vác đỡ thánh giá là ông Simon, người xứ Kyrênê, ông là một người ngoại giáo (Lc. 23:26).

Một người ngoại giáo nữa

Trong quãng đời mục vụ của Chúa, Tin Mừng thánh Matthêu có kể câu chuyện đức tin của một người như thế này:

Khi Ngài vào Carphanaum, thì một viên bách quản đến gặp Ngài, van xin: “Thưa Ngài, tên hầu của tôi nằm liệt bất toại ở nhà, phải đau đớn dữ dằn.” Ngài nói: “Ta phải đến chữa nó?” Viên bách quản thưa lại: “Thưa Ngài, tôi không đáng được Ngài vào mái nhà tôi. Song Ngài hãy phán một lời mà thôi, thì tên hầu tôi sẽ khỏi, vì tôi đây tuy là thuộc hạ, thế mà có lính tráng dưới quyền tôi, tôi bảo người này: “Ði đi!” là nó đi; và bảo người khác: “Ðến!” là nó đến; tôi bảo tôi tớ của tôi: “Làm cái này” là nó làm”. Nghe vậy Ðức Kitô ngạc nhiên và nói với các kẻ theo Ngài: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, ta chưa hề gặp được lòng tin lớn như thế nơi một người nào trong Israel” (Mt. 8:5-10).

Lại một người ngoại giáo nữa

Câu chuyện trên là chứng nhân của niềm tin. Câu chuyện dưới đây nói về tâm tình biết ơn, cũng lại là một người ngoài.

Nhằm lúc Ngài vào một làng kia, thì mười người phung hủi đón gặp Ngài. Ðứng đàng xa, họ gióng tiếng lên mà rằng: “Lạy Thầy Yêsu, xin thương xót chúng tôi!” Thấy vậy, Ngài bảo họ: “Hãy đi trình diện với hàng tư tế.” Và xẩy ra là trong lúc họ đi, thì họ đã được sạch. Một người trong bọn thấy mình được lành thì quay lại lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa, và sấp mặt dưới chân Ngài mà tạ ơn. Người ấy là một người Samari. Ðức Yêsu cất tiếng nói: “Không phải là cả mười người được sạch cả sao? Chín người kia đâu? Không thấy họ quay lại mà chúc vinh Thiên Chúa, trừ có người ngoại bang này?” (Lc. 17:11-18).

Rồi lại một người nữa ngoại giáo

Thánh Luca thuật lại câu chuyện như sau: “Một người ở thành Yêrusalem xuống Jêrico, giữa đường bị kẻ cướp bóc lột hết và đánh nhừ tử, đoạn chúng bỏ người ấy nửa sống nửa chết mà đi. Tình cờ một trưởng tế đi qua đấy, ông thấy người ấy song tránh một bên mà đi. Lại có một thầy Lêvi cũng qua lối ấy, thầy thấy người ấy song cũng tránh một bên mà đi. Một người Samari nọ, nhân đi đường, cũng đến nơi ấy, thấy thế thì chạnh lòng thương, tiến lại đổ dầu và rượu, ràng buộc thương tích người ấy, đoạn vực người ấy lên lừa của mình mà đưa đến quán trọ, và săn sóc người ấy (Lc. 10:29-37).

Thầy tư tế và Lêvi chẳng những là người trong đạo mà còn hơn nữa, họ là kẻ giảng về đạo. Họ ở trong đạo nhưng lại không có đạo. Kẻ sống đạo lại là người ngoại đạo.

Rồi những người ngoại giáo nữa

Vào đêm Chúa sinh ra, trên bầu trời Belem năm ấy có một vì sao lạ. Cả triều đình và bao nhiêu pho Kinh Thánh, với những kinh sư chuyên môn cắt nghĩa ngôn sứ, mà họ chẳng biết gì, họ phải đợi cho tới khi những kẻ ngoại giáo từ phương xa tới hỏi: Ðấng Cứu Thế đã sinh ra ở đâu? (Mt. 2:1-12). Trên bầu trời Belem năm ấy, vâng: Con là người ngoại đạo, nhưng tin có Chúa ngự trên cao.

* * *

Lạy Chúa,

Nói về niềm tin thì các môn đệ khẳng định Thầy đâu có sống lại (Mc. 16:11, Yn. 20:25). Trong khi người có niềm tin mà tìm hết dòng dõi nhà Israel cũng không thấy lại là một người bên ngoài.

Kẻ vác đỡ thánh giá cho Chúa trên những bước chân xiêu té cuối đời cũng lại là người ngoại.

Nói về lòng biết ơn thì ít quá. Trong cái ít ỏi ấy lại cũng là một người bên ngoài.

Nói về lòng bác ái thương người thì cũng không phải là tư tế hay các vị chức sắc trong đạo mà lại là người Samari, một kẻ ngoại giáo.

Băn khoăn một chút thế nào là “người bên ngoài”, thế nào là “người bên trong”, thế nào là “ngoại đạo” và “có đạo”, con thấy một lần Chúa nói: “Ta bảo các ngươi, nhiều kẻ tự phương Ðông, phương Tây mà đến và được dự tiệc với Abraham, Isaac và Yacob trong Nước Trời, còn chính con dân trong Nước lại sẽ bị đuổi ra bên ngoài tối tăm” (Mt. 8:11-12).

Con không muốn là con dân trong Nước nhưng bị loại ra ngoài. Làm kẻ từ mười phương mà được Nước Trời thì vẫn tốt hơn. Nếu thế thì con phải hiểu ÐẠO là gì. Con phải băn khoăn thế nào là “vào đạo” và thế nào là “có đạo”. Trời chiều nay rộng quá, mênh mông như ÐẠO không bến bờ. ÐẠO mênh mông lắm, làm sao con có thể đem ÐẠO vào một định nghĩa chật hẹp được. Làm sao con có thể nhốt ÐẠO vào nhà thờ, vẽ chân dung ÐẠO bằng tờ giấy rửa tội. Ðã nhiều lần con loại bỏ những ai không cùng tôn giáo với con là người “ngoại đạo”.

Bỏ cái chật hẹp của lòng mình, con thấy ý nghĩa lời kinh kia quá đỗi thênh thang. Nếu những giải mây ngang đời trôi về vùng trời bao la không biết đâu là bờ bến thì ý nghĩa của lời kinh ấy cũng mênh mông không biết đâu là bến bờ. Lời kinh đó là:

Lạy Chúa, con là người ngoại đạo
Nhưng tin có Chúa ngự trên cao.

Lm Nguyễn Tầm Thường SJ
(Trích tập Con Biết Con Cần Chúa)

NHÂN ĐỨC ĐẦU TIÊN

NHÂN ĐỨC ĐẦU TIÊN

(Lm Phạm Quốc Hưng, CSsR)

 

Khi có người hỏi Thánh Augustinô: “Nhân đức đầu tiên con phải tập là nhân đức nào?” Thánh nhân trả lời: “Đó đức khiêm nhường!” Người ấy hỏi tiếp: “Nhân đức thứ hai là nhân đức nào?” Thánh nhân lập lại: “Đức khiêm nhường!” “Còn nhân đức thứ ba?” Thánh nhân vẫn nói: “Đức khiêm nhường!” Rồi ngài thêm: “Nếu anh tiếp tục hỏi về nhân đức ngàn lần, tôi vẫn cứ trả lời như thế. Vì khiêm nhường là sự thật, mà Thiên Chúa là sự thật nên ai thực sự có đức khiêm nhường là có Thiên Chúa ở cùng và có mọi nhân đức khác!” Nơi khác, thánh nhân quả quyết: “Không ai buớc vào Thiên Đường được nếu không nhờ đức khiêm nhường!”

Đức khiêm nhường, nhân đức đầu tiên và là mẹ mọi nhân đức mà Thánh Augustinô ân cần khuyên dạy chúng ta phải có để được cứu độ và nên thánh, là một trong những chủ đề dễ nhận thấy trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay. Thật vậy, ngay trong bài đọc một, tác giả sách Huấn Ca đã ân cần khuyên nhủ mọi người, nhất là những ai làm lớn, phải có đức khiêm nhường và tránh tội kiêu ngạo, để được đẹp lòng Thiên Chúa và được Người chúc phúc: “Hỡi con, con hãy thi hành công việc con cách hiền hòa, thì con sẽ được người đẹp lòng Chúa quý trọng. Càng làm lớn, con càng phải hạ mình trong mọi sự, thì con sẽ được đẹp lòng Chúa, vì chỉ có một mình Thiên Chúa có quyền năng cao cả, và mọi kẻ khiêm nhường phải tôn vinh Chúa. Tai họa dành cho kẻ kiêu căng thì vô phương cứu chữa, vì mầm mống tội lỗi đã ăn sâu vào lòng chúng mà chúng không biết. Người thông minh suy ngắm trong lòng lời dụ ngôn, chăm chỉ nghe là kỳ vọng của người khôn ngoan” (Hc 3:19-21,30-31).

Rồi trong Tin Mừng hôm nay, khi dự tiệc tại nhà một vị thủ lãnh và nhận thấy những thực khách chọn chỗ nhất, Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn về cách tham dự tiệc cưới và khuyên dạy mọi người: “Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho người này’. Bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết. Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến, nói với ngươi rằng: ‘Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên’. Bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc. Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nhắc lên” (Lc 14: 8-11).

Một tác giả dựa vào Tin Mừng hôm nay ghi lại câu truyện sau: Có một người ghi nhớ lời Chúa Giêsu dạy trong Tin Mừng hôm nay và quyết tâm thực hành. Một hôm, anh được mời tham dự một bữa tiệc mà chính Chúa Giêsu là Vị Thuợng Khách. Khi vào phòng tiệc, anh tìm ngồi vào chỗ cuối rốt. Các khách mời lần lượt bước vào. Anh hồi hộp chờ mong, nhưng chẳng ai mời anh lên chỗ cao hơn cả. Cuối cùng Chúa Giêsu đã đến. Có một chỗ danh dự ở trên dành cho Người. Nhưng lạ thay, Người không ngồi vào chỗ ấy, nhưng Người tiến về phía anh. Anh ngỡ rằng Chúa sẽ mời anh lên chỗ gần Người. Nhưng không phải thế! Chúa Giêsu đến và chọn ngồi vào chỗ bên cạnh anh. Và anh đã hiểu: Chỗ rốt hết là chỗ Chúa Giêsu chọn cho chính Người, vì Người chính là Hiện Thân của Sự Thật và của Đức Khiêm Nhường!

Linh mục Cajetan Mary da Bergamo (1672-1753) đã bắt đầu tác phẩm Khiêm Nhường Trong Lòng của ngài với nhận xét sau: “Trong Thiên Đàng có nhiều vị Thánh không bao giờ làm việc bố thí, vì các ngài quá nghèo. Có nhiều vị Thánh không hề hãm mình phạt xác bằng ăn chay, vì cơ thể các ngài quá yếu đuối bệnh tật. Có nhiều vị Thánh không đồng trinh, vì các ngài ở bậc kết hôn. Nhưng trong Thiên Đàng không có vị Thánh nào mà không khiêm nhường cả. Thiên Chúa đuổi các thiên thần ra khỏi Thiên Đàng vì kiêu ngạo; vậy nên làm sao chúng ta có thể đòi vào đó mà không lo giữ đức khiêm nhường?” Đây cũng là điều đã được Thánh Augustinô xác định khi người nhận xét:  Kiêu ngạo biến thiên thần thành ma quỷ, và khiêm nhường biến con người thành thiên thần!”

Cha Bergamo viết thêm: “Chúa Kitô mời gọi chúng ta vào trường học của Người, không phải để học làm phép lạ, cũng không phải để học làm cho thế giới phải ngỡ ngàng bằng những việc kỳ diệu, nhưng để học trở nên khiêm nhường trong lòng như chính Người đã phán Các ngươi hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhường trong lòng’ (Mt 11:29)”. Đây cũng chính là những lời của Chúa Giêsu mà Hội Thánh muốn chúng ta ghi nhớ khi cho lập lại trong phần tung hô Alleluia trong Phụng Vụ hôm nay.

Trong Kinh Magnificat, Đức Mẹ Maria cũng đã tuyên dương sự tuyệt đối cần thíêt và cao trọng của đức khiêm nhường khi Mẹ nói: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường(Lc 1:52). Sự cần thiết và quan trọng của đức khiêm nhường còn được Đức Mẹ khẳng định khi Mẹ hiện ra với Thánh Faustina-Tông Đồ của Lòng Thương Xót Chúa- và dạy Chị rằng: “Nếu con muốn làm con gái hai lần của Mẹ, con phải có ba nhân đức: khiêm nhường, khiêm nhường, khiêm nhường, trong sạch và kính mến Chúa”.

Ghi nhớ lời dạy của Chúa Kitô, Thánh Phêrô-Vị Giáo Hoàng tiên khởi của Hội Thánh cũng đã ân cần khuyên nhủ những tín hữu đầu tiên phải thực hành đức khiêm nhường như sau: “Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn hco kẻ khiêm nhường. Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định” (1Pr 5:5b-6).

Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII, trong Tâm Hồn Nhật Ký của ngài, cũng từng ghi nhận: “Tôi cần khiêm nhường và mến yêu. Nhưng có lẽ tôi cần khiêm nhường hơn, vì không thể có mến yêu thực sự ngoài sự khiêm nhường”. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Vị Thánh Sư của “đường thơ ấu thiêng liêng”, viết: “Tôi không biết mình có khiêm nhường không, nhưng tôi nhìn thấy sự thật trong mọi việc”.

Vì khiêm nhường là nhận biết và sống theo sự thật, nên chúng ta có thể noi gương Thánh Augustinô tập đức khiêm nhường bằng việc năng thưa cùng Chúa: “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con.” Biết Chúa là Đấng tốt lành vô cùng, quyền năng và nhân hậu vô cùng, để ta yêu mến Chúa và theo Chúa. Biết mình chỉ là hư vô và hơn nữa còn là tội nhân để ta bỏ mình và sửa mình. Một lời nguyện tất rất quý giá và đẹp lòng Chúa giúp chúng ta ghi nhớ và thực hành đức khiêm nhường và gia tăng lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu là: “Lạy Đức Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa”.

Ave Maria, xin Mẹ dạy chúng con biết nỗ lực noi gương Chúa Giêsu Con Mẹ sống khiêm nhường để trở nên những người con yêu dấu của Mẹ. Amen.

From: hnkimnga &

Anh chị Thụ & Mai gởi

Khi có cha là tỷ phú

Khi có cha là tỷ phú

Warren-Buffett

Là con trai thứ hai của nhà tỷ phú huyền thoại Warren Buffett, nhưng nói tới Peter Andrew Buffett người ta nhớ tới ngay một nhạc sĩ kiêm nhà soạn nhạc nổi tiếng. Dấu ấn duy nhất nhà tỷ phú này khắc lên con đường trở thành người nổi tiếng của con mình chỉ là sự tin tưởng…

Năm 19 tuổi, Peter nhận được số tiền thừa kế… 90,000 Mỹ kim. Gần 100,000 đô, “not bad” nếu như bạn xuất thân trong một gia đình bình thường. Nhưng nếu có cha là tỷ phú có khối tài sản hàng chục tỷ đô thì bạn nghĩ sao?

Và đây là tài sản thừa kế duy nhất của anh em nhà Buffett nhận được từ người cha nổi tiếng của họ.

Số tiền $90.000 mà ông Warren cho họ là tiền bán một trang trại của gia đình, họ cũng chẳng được nhận tiền mặt. Tiền được đổi thành cổ phiếu của công ty Berkshire Hathaway mà tỷ phú Warren làm chủ tịch và Peter được cha trao cho kèm với lời dặn dò: “Hãy thận trọng với món quà này. Vì con sẽ không bao giờ nhận được thêm gì nữa”.

Và con của nhà Buffett quả là con nhà tông. Trong cuốn hồi ký mới của mình Life Is What You Make It, Peter giải thích rằng ông may mắn vì cha mình đã không để lại tài sản cho con cái một cách dễ dàng. Để trở thành một nhạc sĩ nổi tiếng với giải thưởng Emmy, điều Peter cần là những hỗ trợ tinh thần chứ không phải tiền bạc.

Sau đó Peter đã bán cổ phiếu lại cho cha mình để lấy tiền mặt chi xài trong thời gian học tại Đại học Stanford và bắt đầu sự nghiệp sáng tác nhạc.

Để thành danh trong lĩnh vực nghệ thuật không phải chuyện một sớm một chiều và đòi hỏi sự đầu tư tiền bạc khá lớn. Vậy mà ngoài số tiền thừa kế, tỷ phú Warren đã nói thì như đinh đóng cột, nhất quyết không cho con thêm bất cứ thứ gì nữa, kể cả cổ phiếu trong công ty của ông.

Một lần khi 20 tuổi, Peter hỏi vay cha tiền nhưng bị từ chối. Điều này khiến anh thấy tổn thương và cha con họ không liên lạc với nhau một thời gian dài. Chỉ tới khi gặt hái được thành công, Peter mới hiểu rằng quyết định của cha lúc ấy là hoàn toàn đúng đắn. “Nếu tôi có một đống tiền từ cha tôi thì có lẽ cuộc sống của tôi đã không có ý nghĩa như ngày hôm nay. Tôi tin rằng những gì cha tôi làm xuất phát từ tình yêu thương. Ông đã từng nói với tôi rằng: Cha tin con vì con là con trai của cha. Con sẽ vẫn thành công mà không cần sự giúp đỡ của bất kỳ ai”.

Cách dạy con của ông tỷ phú càng đáng nể hơn nếu biết $90.000 là tài sản thừa kế duy nhất mà Peter Buffett cũng như anh chị em của ông nhận được, nhưng bù lại, họ được cha trao cho khoảng 1 tỷ đô để làm từ thiện. Peter và vợ ông đã dành nhiều năm để nghĩ cách làm từ thiện sao cho hiệu quả nhất.

Cuối cùng, họ đã thành lập Novo Foundation – một tổ chức phi lợi nhuận dành cho phụ nữ và trẻ em trên toàn thế giới. Hai người con còn lại của tỷ phú Warren cũng có những đóng góp đáng kể trong hoạt động từ thiện. Howard Buffett thành lập tổ chức giúp đỡ những nông dân nghèo khó tại các quốc gia kém phát triển với mục tiêu tăng cường sản xuất lương thực ngăn ngừa nạn đói. Susie Buffett thì thành lập quỹ hỗ trợ hoạt động giáo dục cho trẻ em và thúc đẩy việc tuyên truyền phòng chống mang thai ở trẻ vị thành niên.

Warren Buffett là cổ đông lớn nhất, kiêm Chủ tịch Tập đoàn Berkshire Hathaway và đứng trong top 3 những người giàu nhất thế giới do tạp chí Forbes bình chọn. Những gì các con ông đạt được cho thấy, điều ông dạy họ không phải là tiền bạc và cách kiếm tiền mà đơn giản chỉ là cách sống. Peter tin rằng mình đã được cha “đầu tư” đúng mực với cách giáo dục tốt nhất mà nhiều người ước ao. Ông hóm hỉnh: “Điều mà tôi ngưỡng mộ nhất ở cha tôi là sự tin cậy. Sự tin cậy là điều quan trọng nhất”.

Warren rất ít khi nói chuyện với các con về chuyện làm ăn. Ông quan tâm tới những triết lý của cuộc sống, chẳng hạn như: “Các con không cần phải thử sức trên tất cả các lĩnh vực. Khi con đã sẵn sàng để đầu tư (ví dụ như nhà đầu tư cổ phiếu), con chỉ cần tưởng tượng nó giống một quả bóng tròn đang di chuyển từ từ”.

Đối với Warren, việc tìm cho các con một công việc ở Wall Street hay công ty Berkshire Hathaway của ông để duy trì đế chế của gia đình Buffett hoàn toàn đơn giản. Vậy mà ông lại chứng tỏ mình là một người cha tuyệt vời khi để các con trưởng thành theo cách riêng.

Peter Buffett nói rằng món quà lớn nhất có thể tặng cho cha là đi theo bước chân của ông, bằng cách tin tưởng vào chính mình. Năm 1977, khi Peter còn nhỏ, Berkshire Hathaway của Warren Buffett đã mua lại tờ The Buffalo Evening News bất chấp thực trạng ngành báo in đang điêu đứng, lượng phát hành và quảng cáo đã giảm nghiêm trọng. Giờ thì tờ báo này đã là The Buffalo News bề thế.

Đối với Warren Buffett thì những thứ cũ, lỗi thời cũng không làm ông lay chuyển lối sống. Peter vẫn đến thăm cha tại Omaha, Nebraska. Cha ông vẫn sống trong ngôi nhà mà Peter từng lớn lên, bất chấp sự giàu có vô biên của ông.

Cũng chính nhờ bài học lớn của người cha về niềm tin mà Peter đã có những quyết định sáng suốt cho cuộc sống của mình. Sau khi soạn nhạc cho Dances with Wolves (Khiêu vũ với bầy sói), phim đoạt giải Oscar, ông nhận được khá nhiều lời mời từ các hãng phim của Hollywood. Họ sẵn lòng mời gia đình ông chuyển từ Milwaukee đến Los Angeles nếu ông muốn trở thành một nhà soạn nhạc phim lừng danh.

Peter từ chối, vì “Tôi đã nghĩ về cha mình. Tại sao cha tôi không chuyển đến New York, để gần Wall Street hơn? Khi xem lại cách thức cha tôi làm việc trong những năm qua, tôi nhận ra rằng không nên chọn một công việc nào đó chỉ bởi vì việc đó nhìn hấp dẫn hơn”.

Giờ đây, các con của tỷ phú Warren Buffett hiểu rằng “nếu tin cha sẽ ra tay cứu giúp mỗi khi mình gặp rắc rối về tài chính thì bất cứ thành công nào đạt được không còn giá trị nữa”. Và đến bây giờ, mọi người đều biết rằng, những gì con cái nhà Warren có được chẳng hề liên quan đến sự giàu có của cha họ.

Phạm Hoàng (Theo Yes Magazine, DNSG)

THINH LẶNG

THINH LẶNG

“Những đan sĩ phải siêng năng trau dồi thinh lặng trong mọi lúc.”

Thinh lặng là mẹ của Thần Khí.  Nó nảy nở trong chúng ta một đan viện của tâm hồn.  Nó mang chúng ta ra khỏi tiếng ồn ào từ sự hỗn độn, huyên náo, và mơ hồ của một thế giới quay cuồng và đưa chúng ta đến một trọng tâm trầm tĩnh, lắng đọng của một bản chất thiêng liêng.

Tại trọng tâm này thinh lặng cho chúng ta nghỉ ngơi.  Ở đó Chúa làm việc trong ta, giũ sạch trong con tim chúng ta những ý nghĩ, nỗi đau, ao ước, đòi hỏi, tiếng la hét tựa như một đứa trẻ đòi được để ý và những điều ấy tách rời chúng ta khỏi con người tốt đẹp của chúng ta.

Trong thinh lặng, chúng ta học lắng nghe những người khác cũng đang tìm kiếm Thiên Chúa trong một đan viện của tâm hồn, để nghe những nỗi đau và sự khôn ngoan của họ, những kinh nghiệm của họ và sự thật trong con người họ, để từ đó đưa sự khôn ngoan của chúng ta ra ánh sáng, đặt vấn đề và phát triển nó.

Chính thinh lặng kiềm chế chúng ta khỏi ước muốn luôn sẵn sàng xuất phát những ý tưởng trống rỗng và những bình luận ác nghiệt từ con người ích kỷ của chúng ta.

Luật [Thánh Biển Đức] dạy rằng, “Có câu chép rằng, trong lúc thao thao bất tuyệt anh sẽ không tránh được sự tội.”

Chúng ta được đòi hỏi, mời gọi, để từ bỏ những thoả mãn quá thường tình nơi những chuyện thế tục khi mà chúng ta có những bắt bẻ sắc bén, những phê bình chanh chua, những cám dỗ không thành thật, và những điều này thường đi kèm với những lời nói ba hoa trống rỗng thiếu suy tư, những lời nói lãng phí đi chiều sâu của cuộc sống.

Trong Đan Viện của Tâm Hồn, chúng ta được thách thức để thay thế tất cả những tư tưởng trống rỗng bằng chiều sâu của sự suy niệm, sự thanh thản của ý nghĩ, và sự sáng tỏ của hiểu biết sâu sắc mà qua đó chính sự thinh lặng lại mang đến sự thức tỉnh cho một linh hồn đang mong mỏi sự thinh lặng đó đến – trong thinh lặng.

Thinh lặng che chở chúng ta khỏi sự ồn ào của chính mình và chuẩn bị chúng ta cho công việc của Chúa nơi chúng ta.

Trong thinh lặng, chúng ta hiểu được chính mình.

Trong thinh lặng chúng ta có thể nghe được tiếng Chúa mời gọi chúng ta vượt lên chính chúng ta, để luôn hướng tới cái gì tốt hơn và hơn thế nữa.

Điều cốt yếu là trong Đan Viện của Tâm Hồn, không gian dành cho sự thinh lặng được trân quý và giữ gìn, được tìm kiếm và làm cho linh thiêng, khiến cho đời sống thiêng liêng có thể phát triển và hưng thịnh nơi chúng ta, nếu không trong chúng ta chỉ có cỏ lùng bén rễ bằng những lời nói trống rỗng mà thôi.

Trong cuộc sống của chúng ta, khi chúng ta dành chỗ cho sự thinh lặng, chúng ta có thời gian  để chữa lành những gì hãy còn âm ỉ nung nấu và đang ẩn nấp ở một chỗ nào đó trong ta mà đôi khi ngay cả chính chúng ta cũng không biết, nhưng sức mãnh liệt của những nung nấu âm ỉ này có khả năng thiêu rụi linh hồn chúng ta với nọc độc của nó theo thời gian.

Như Luật nhắc nhở chúng ta, “Có câu chép rằng, “Cái lưỡi nắm giữ chìa khoá cho sự sống và sự chết.”

Thinh lặng là một lá chắn giúp chúng ta thoát khỏi những thúc đẩy bồng bột khiến chúng ta ngăn cản những thay đổi, hay loại bỏ những thách đố mới, hay bác bỏ những tư tưởng mới, hay lên án những ý kiến của người khác.

Thinh lặng là điều khước từ sử dụng hài hước gây tổn thương, lời mỉa mai nhằm làm giảm giá trị, lời phê phán để hạ phẩm giá của người khác.

Luật dạy, “Chúng ta tuyệt đối lên án bất kỳ hành động thô bỉ, chuyện tầm phào, và cuộc trò chuyện nào dẫn tới sự cười đùa.”

Như vậy, sự thinh lặng mở mang cho chúng ta nhiều triển vọng, đón nhận người khác, tới nhiều dòng tư tưởng, mà nếu như không có thinh lặng mang tới thì chúng ta mãi mãi không cảm nhận được.

Chuyển ngữ từ sách “Đan Viện của Tâm Hồn: Lời Mời Gọi cho Cuộc Sống Đầy Ý Nghĩa (Monastery of the Heart: An Invitation to a Meaningful Life, Bluebridge, 2011), của Sơ Joan Chittister, OSB.

From: Ngọc Nga

Có Phải Người Già Sợ Chết Nên Siêng Đi Lễ Đọc Kinh?

Có Phải Người Già Sợ Chết Nên Siêng Đi Lễ Đọc Kinh?

Đó là câu hỏi khá thú vị, nếu không nói ra, ai cũng cho là đúng. Xin ghi lại một cuộc trao đổi ngắn với một vị được gọi là già.

Trước hết xin rõ ràng, bao nhiêu tuổi thì được gọi là già?

Một chị quê ở miền bắc đến xin hội đoàn chúng tôi cầu nguyện cho linh hồn ông cụ (Bố) em mới qua đời. Xin hỏi: Ông cụ tên thánh là gì? Năm nay cụ được bao nhiêu tuổi?. Thưa: Ông tên thánh là Giuse, năm nay cụ được 52 tuổi.

Trong mỗi xứ đạo đều có các giới sinh hoạt như: Giới trẻ, giới hiền mẫu, giới gia trưởng, giới phụ lão. Các giới này được phân chia theo độ tuổi. Giáo xứ chúng tôi trước kia giới phụ lão quy định là 55 tuổi trở lên, nay nâng lên 60. Như vậy có nghĩa là 60 tuổi được coi là già.

Chúng tôi quan sát các thánh lễ ngày thường lúc 4 giờ 30 sáng, quả là có nhiều người già đi lễ, nhưng cũng chỉ khoảng phân nửa số người già trong xứ. Hỏi thăm một ông tuổi đã ngoài 60.

* Chào ông. Sáng nào ông cũng đi lễ?
* Vâng. Sáng nào tôi cũng đi.
* Theo ông, đi lễ mỗi ngày có phải là một thói quen?
* Cũng có thể, riêng tôi, tôi không cho là thói quen. Qua một ngày đêm Chúa cho an lành, con cháu vui khỏe, không lẽ nào tôi làm ngơ, hơn nữa, Vinh Danh Chúa, Tạ Ơn Chúa là bổn phận của tôi, thể hiện niềm tin của mình cho con cháu và mọi người chung quanh. Ngày nào vì mệt mỏi hay ngủ quên không đi lễ, ngày đó tôi cảm thấy bổn phận của mình thiếu xót.
* Ông có cho rằng, người già đi lễ, đọc kinh cầu nguyện nhiều là vì họ sợ chết không?
* Người già như tôi thì có nhiều, nhưng đâu phải ai cũng đi lễ thường xuyên. Có ông nói rằng, mình không làm điều gì sai trái, không gian tham trộm cắp, ở nhà đọc kinh cũng đủ. Theo tôi, như vậy là chưa đủ, trải qua 60 năm cuộc đời đâu phải dễ, nhiều người đã không bước tới được ngưỡng cửa này. Sự ra đi đột ngột của anh bạn tôi 10 năm trước đã làm tôi tỉnh thức. Sự chết đâu phải chỉ đến với người già. Sự chết không phải là nỗi sợ hãi với người có niềm tin, nhưng sự chết là nỗi sợ hãi của những ai chưa sẵn sàng. Giá trị cuộc đời không đo bằng thời gian, nhưng đo bằng nhân đức yêu thương. Quan trọng hơn cả, mỗi ngày tôi được sống kết hợp với Chúa qua Bí Tích Thánh Thể là tôi đã sẵn sàng.

Như anh thấy, hôm nay thứ hai đầu tuần, ngày khá bận rộn, nhưng thấy cũng có nhiều người lao động đi lễ, họ hy sinh giấc ngủ, đến đây để nói lên niềm tin, sống kết hợp với Chúa và để sẵn sãng.

* Bà nhà có đi lễ sáng với ông?
* Có. Ngoài việc đến nhà thờ cầu nguyện, bà ấy còn có điều thú vị nữa là vừa đi vừa lần hạt vừa tập thể dục, sự kết hợp này đem lại sức khỏe cả phần hồn phần xác.
* Cám ơn ông. Xin Chúa chúc lành cho ông bà.

Như vậy, kiểu lý luận: “chỉ tin là đủ, đạo tại tâm! Không cần đi thờ, đi lễ”, là không ổn, không hợp với đạo Chúa. Không gắn kết với Chúa qua những lời kinh, những thánh lễ cũng như các việc lành, chúng ta sẽ như cành lìa khỏi thân cây. Lúc ấy người ta chỉ biết mang cành cây ấy đốt đi thôi!

Do đó, việc đi thờ, đi lễ rất cần thiết cho mọi người. Ước mong sao các bạn già, các bạn trẻ cũng như tất cả những ai xưng mình là Kitô hữu, luôn biết siêng năng cầu nguyện, chuyên cần đi lễ, nhờ vậy mà được sống dồi dào và sinh nhiều hoa thơm trái ngọt cho đời.

Tôma Đỗ Lộc Sơn

chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Con Yêu Chúa Quá Muộn Màng!

Con Yêu Chúa Quá Muộn Màng!

Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

“Lạy Chúa, con yêu mến Chúa quá trễ: Ôi vẻ đẹp của ngàn xưa nhưng muôn thuở vẫn còn tươi mát, trẻ trung.

Con yêu mến Chúa quá trễ: Chúa ở bên trong tâm hồn, còn con, con sống hời hợt bên ngoài và chỉ chú tâm tìm kiếm Chúa ở đó.

Chúa hiện diện ở trong con nhưng con không sống ở trong Chúa.  Nhiều tạo vật đã kềm hãm khiến con sống xa Chúa.

Chúa đã gọi tên con, Chúa đã lớn tiếng kêu gọi con, Chúa đã đâm thủng đôi tai giả điếc làm ngơ của con.

Chúa đã tỏa ánh sáng chiếu soi và đã phá tan màn đêm tối dày đặc nơi con.

Chúa thở ra hơi thơm ngào ngạt, con hít vào và con khao khát Chúa.

Chúa đã chạm đến con và con luôn cảm thấy nung nấu được hưởng sự bình an của Chúa”.

Trên đây là một đoạn trong quyển “Tự Thú” (Confessions) của thánh Augustinô, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay.

Sau khi ăn năn trở lại, ngài đã nhận lãnh Phép Rửa vào năm 33 tuổi, chỉ sau đó 3 năm ngài được phong chức linh mục, 5 năm sau đó được đề cử làm giám mục thành Hippo, Phi Châu.

Duyệt qua cuộc sống của thánh Augustinô, chúng ta có thể nói:  ngài là một tội nhân đã trở thành thánh nhân nhờ được Thiên Chúa đến gõ cửa lòng bằng câu nói mạnh mẽ của thánh Phaolô:  “Ðừng sống theo dục tình và lạc thú dâm ô, nhưng hãy mặc lấy Ðức Giêsu Kitô”.

Và kể từ đó, có thể nói được là Tình Yêu Thiên Chúa không bao giờ buông tha ngài, trái lại tạo trong tâm hồn ngài một sự khắc khoải và khao khát để đáp trả lại lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa.

Ngoài lời mời gọi và thôi thúc của Tình Yêu Thiên Chúa, quãng đầu cuộc đời của Augustinô, một tội nhân trở thành thánh nhân, có lẽ được vẽ lại bằng những nét chấm phá và những bàn tay cộng tác với ơn Chúa trong việc hoán cải như sau:

¨    Trước tiên, cường độ của sức sống nơi ngài trên con đường thụt lùi xa lìa Thiên Chúa cũng như cường độ mãnh liệt hơn của sức sống ấy trên con đường tiến về Thiên Chúa.

¨    Tiếp đến, những dòng nước mắt sầu đau và những kinh nguyện thành tâm của  mẹ ngài, bà thánh Mônica (mà Giáo Hội mừng kính hôm qua) dâng lên Thiên Chúa trong kiên tâm, bền chí ròng rã bao năm trời.

¨    Và sau cùng là sự hướng dẫn tận tình của thánh Giám Mục Ambrôsiô.

Tất cả những yếu tố trên cộng lại, đã giúp chuyển tình yêu cuộc sống thành một cuộc sống cho đi và sống vì Tình Yêu, như thánh nhân đã tự thú trong đoạn sách được trích dẫn ở trên:

“Lạy Chúa,

con yêu mến Chúa quá trễ, ôi vẻ đẹp của ngàn xưa,  nhưng muôn thuở vẫn còn tươi mát, trẻ trung”.

 

Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

From: Thiên Kim &

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

CHÍNH TÔI ĐÃ ĐƯỢC ĐỨC CHÚA GIÊSU KITÔ CHIẾM ĐOẠT

CHÍNH TÔI ĐÃ ĐƯỢC ĐỨC CHÚA GIÊSU KITÔ CHIẾM ĐOẠT!

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt



… Thứ bảy 29-6-2013 Tổng Giáo Phận Paris bên Pháp có thêm 6 tân Linh Mục. 5 Vị tuổi từ 28 đến 33. Một Vị 43 tuổi. 5 Vị sinh ra và lớn lên tại thủ đô Paris. 1 Vị ở vùng phụ cận Paris. Xin giới thiệu chứng từ của tân Linh Mục Augustin Bourgue 33 tuổi nhấn mạnh đến thừa tác vụ linh mục được chu toàn trong việc mở rộng cho thế giới và tình huynh đệ.

Cha Augustin Bourgue là con thứ hai trong một gia đình Công Giáo có 7 người con. Con cái được giáo dục và thức tỉnh Đức Tin nhờ các buổi đọc kinh chung trong gia đình và nhờ gương sáng lành thánh của bậc Cha Mẹ hiền đức, sống rất gần với linh đạo của Cộng Đoàn Emmanuel. Cuộc sống đạo đức còn được phong phú thêm nhờ việc tham dự thường xuyên vào các sinh hoạt của giáo xứ.

Thời niên thiếu vì tham gia các hoạt động thuộc lãnh vực Đức Tin nơi giáo xứ Sainte-Jeanne de Chantal mà cậu Augustin được cảm nghiệm niềm vui suy niệm Lời Chúa. Rồi cậu trở thành Chú Giúp Lễ và gia nhập phong trào Hướng Đạo. Augustin hồn nhiên lớn lên trong khung cảnh gia đình, giáo xứ và học đường lành mạnh nhưng không bao giờ chú ý đến Ơn Gọi Linh Mục. Mãi cho đến năm cuối bậc trung học đệ nhất cấp, vào một bữa ăn tối trong gia đình, Augustin nhận việc bảo trợ ơn gọi cho chủng sinh Frédéric bằng lời cầu nguyện. Từ đó nẩy sinh mối tình huynh đệ thiêng liêng mang lại thành quả phong phú. Xin nhường lời cho tân Linh Mục Augustin Bourgue kể lại con đường đưa đến thiên chức Linh Mục.

Qua anh Frédéric tôi khám phá Lý Trí có thể phục vụ Đức Tin. Một ngày, thể theo lời khuyên của một vị Linh Mục và được anh Frédéric tháp tùng, tôi đến sống một tuần tĩnh tâm nơi một đan viện ở Bretagne. Tại đây tôi khám phá sự hiện diện gần gũi thân tình của THIÊN CHÚA. Vô cùng ngỡ ngàng tôi liền quyết định sẽ sẵn sàng đáp lại bất cứ tiếng gọi nào đến từ THIÊN CHÚA.

Thời gian 7 năm trôi qua từ sinh viên đến kỹ sư, ơn gọi như mỗi lúc một sáng tỏ trong tôi. Tôi ngạc nhiên ý thức rằng tôi rất yêu thích nói về Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Tôi cũng hiểu rằng chính Người cho tôi niềm vui hưởng nếm cuộc đời và với Người, tôi có thể chọn nếp sống độc thân. Chính Đức Chúa GIÊSU KITÔ ban tặng tất cả!

Với tâm tình trên đây mà tôi hân hoan gia nhập Chủng Viện. Trước đó vì từng tham gia các sinh hoạt thể thao nên trong thời gian thụ huấn ở Bruxelles, thủ đô vương quốc Bỉ, tôi cũng gia nhập một Hội thể thao. Thể thao là phương tiện nối kết mối giây giao hảo với con người thời đại ngày nay. Đầu tháng 7 năm 2013 tôi chủ sự lễ hôn phối cho một thành viên Hội thể thao này. Tôi là linh mục bạn thân của chú rể.

Ngoài ra tôi cũng đặt nặng vấn đề đối thoại liên tôn và mở rộng với thế giới. Chính vì thế mà ngay trong năm thứ hai ở Chủng Viện tôi đã bắt đầu học tiếng Ả-Rập. Chúng ta được may mắn là thành phần của Giáo Hội Công Giáo. Giáo Hội Công Giáo thúc đẩy và khuyến khích chúng ta sống tình huynh đệ đại đồng. Ngày thụ phong linh mục tôi chọn câu Phúc Âm trích từ thánh Gioan chương 10 câu 10: ”Thầy đến để cho loài người được sống và sống dồi dào”.

Thời thụ huấn bên Bỉ tôi học một bài học quý giá từ một Cha Sở. Cha Sở đặc trách hai giáo dân trong giáo xứ nhiệm vụ cổ động và canh chừng làm sao để tất cả mọi con chiên bổn đạo trong giáo xứ đều quen biết lẫn nhau. Thật là ý tưởng tuyệt vời.

Sứ mệnh của Linh Mục là xây dựng nhiệm thể Đức Chúa GIÊSU KITÔ bằng cách hoạt động cho tình hiệp nhất và mối hiệp thông. Hiệp nhất và hiệp thông cũng là đích điểm chung kết của bí tích Thánh Thể.

… ”Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Chúa KITÔ, tôi cho là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức KITÔ GIÊSU, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Chúa KITÔ và được kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức KITÔ, tức là sự công chính do THIÊN CHÚA ban, dựa trên lòng tin. Vấn đề là được biết chính Đức KITÔ, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết. Nói thế, không phải là tôi đã đoạt giải, hay đã nên hoàn thiện đâu; nhưng tôi đang cố gắng chạy tới, mong chiếm đoạt, bởi lẽ chính tôi đã được Đức Chúa GIÊSU KITÔ chiếm đoạt” (Philipphê 3,7-12).

(”PARIS NOTRE-DAME, L’Église en mission à Paris”, Journal du Diocèse de Paris, Hebdomadaire, No 1483, 20 Juin 2013, trang 18)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

SÁNG NÀO THIÊN CHÚA CŨNG BAN ÂN HUỆ MỚI!

SÁNG NÀO THIÊN CHÚA CŨNG BAN ÂN HUỆ MỚI!

vietvatican.net

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
Bà Anne-Dauphine Julliand là ký giả kiêm văn sĩ và là bà mẹ Công Giáo năm nay 40 tuổi. Bà sinh ra và sống tại Paris, thủ đô nước Pháp. Ngày 10-3-2011 bà phát hành tác phẩm: ”Deux Petits Pas Sur Le Sable Mouillé – Hai Bước Chân Nhỏ Trên Cát Ướt” vỏn vẹn hai năm sau khi bé gái Thaiis 3 tuổi rưỡi qua đời. Tác phẩm là một bản tình ca: yêu sống, yêu con và yêu THIÊN CHÚA. Hai năm sau, ngày 23-5-2013, bà lại viết cuốn ”Une journée particulière – Một ngày đặc biệt” nhắc lại những yêu thương dành cho con gái Thaiis. Một ngày đặc biệt là ngày 29-2 ngày sinh nhật của bé Thaiis – mà nếu còn sống năm nay sẽ tròn 8 tuổi – và người ta chỉ có thể cử hành ngày này cứ bốn năm một lần!

Ông bà Loic và Anne-Dauphine Julliand cho ra chào đời bốn đứa con, 2 trai 2 gái: Gaspard, Thaiis, Azylis và Arthur. Đứa con gái lớn tên Thaiis bị mắc chứng di truyền loạn-dưỡng-bạch-cầu (leucodystrophie) và được chẩn bệnh vào năm lên hai tuổi. Các bác sĩ cho biết bé chỉ sống sót trong vòng vài tháng. Khi nhận hung tin, bà Anne-Dauphine thì thầm vào tai con gái lời hứa:
– Con sẽ có một cuộc đời đẹp. Cuộc đời không giống các trẻ khác nhưng là một cuộc đời mà con có thể hãnh diện!

Và đúng như lời hứa. Bé Thaiis sống thêm gần hai năm và là hai năm tràn đầy yêu thương. Đúng là một câu chuyện tình yêu.

Nhưng thử thách vẫn chưa chấm dứt. Bé gái thứ hai cũng mắc cùng chứng bệnh y như chị Thaiis của bé. Xin nhường lời cho bà Anne-Dauphine Julliand, người mẹ Công Giáo trẻ thật can đảm, tràn đầy hy vọng và đặt trọn niềm tin nơi THIÊN CHÚA.

Nói rằng mình có một đứa con bị đau ốm thì dễ hơn là thú nhận mình có đứa con khuyết tật. Khuyết tật gây lo âu sợ hãi hơn là đau bệnh. Khuyết tật tạo nên một tình cảm khang-khác khiến người ta lúng túng không thoải mái. Đứa con khuyết tật thay đổi nhiều điều trong cuộc sống gia đình của tôi. Thành thật mà nói cuộc sống thường nhật trở nên rắc-rối nhiêu-khê hơn. Đôi khi thật nặng nề. Thế nhưng đứa con khuyết tật đã thay đổi tâm lòng của chúng tôi. Chúng tôi học cách cảm thức trở lại sự giòn mỏng của đứa con cũng như của chính chúng tôi.

Khi khám phá ra Azylis – đứa con gái thứ hai của chúng tôi – mang cùng chứng bệnh với Thaiis, đã là một trận động đất trong đời sống lứa đôi của chúng tôi. Thế rồi trong khoảng thời gian đầu của cơn thử thách, chúng tôi đã quên mất nếp sống phu thê để dồn mọi chú ý trên đứa con khuyết tật. Chúng tôi không gặp khó khăn trong việc chu toàn nghĩa vụ của bậc làm cha làm mẹ, nhưng chỉ thiếu sót trong tình nghĩa vợ chồng. Từ từ chúng tôi học trở lại cách thức vợ chồng nhìn nhau, chú ý và chăm sóc lẫn nhau. Chúng tôi cũng học cách an ủi lẫn nhau nữa.

Trên đây tôi nói khuyết tật gây sợ hãi hơn là cơn bệnh. Điều làm cho chúng tôi sợ chính là sự khác biệt. Đối diện với người khuyết tật chúng tôi lo sợ không biết phải nói năng truyền thông như thế nào, không biết phải xử sự ra sao. Chúng tôi cố gắng dồn mọi nỗ lực thực thi điều chúng tôi có khả năng làm và không nghĩ đến chuyện nhìn người kia. Tôi chỉ lo sợ không thể hiểu được đứa con gái khuyết tật của mình. Tôi bèn học với con cách thức nói năng thông truyền bằng một kiểu khác.

Đức Tin giúp ích nâng đỡ tôi rất nhiều. Đức Tin không ngăn chặn tôi khỏi khóc lóc và khỏi đau khổ, nhưng Đức Tin giúp tôi nhìn sự việc dưới một nhãn quan khác, theo một cách thức khác. Tôi nghĩ rằng ngày hôm nay Đức Tin của tôi được lớn mạnh. Điều thay đổi trong Đức Tin của tôi chính là chiều sâu và nét nhân bản thực tế. Ngày người ta loan báo cho chúng tôi biết căn bệnh của đứa con gái thứ hai của chúng tôi, tôi nhận ra rằng Trời Cao không đổ ập trên đầu chúng tôi, nhưng Trời Cao đi vào căn nhà của chúng tôi, để cùng khóc với tôi và để đề nghị với tôi sự hiện diện của Trời Cao. Chính sự hiện diện của THIÊN CHÚA trong cuộc đời tôi là điều vô cùng thân thương và thật quý báu đối với tôi. Kể từ ngày tôi cảm nhận được điều này cùng với trọn Tình Yêu vô điều kiện tháp tùng, tôi không còn sợ hãi cuộc sống nữa. Tôi không còn sợ đau khổ cũng không sợ ngã quỵ lẫn không sợ yếu ớt giòn mỏng.

… ”Xin nhớ đến nỗi khốn cùng của con, và cuộc đời con vất vưởng nuốt cay ngậm đắng. Nỗi niềm riêng canh cánh bên lòng, khiến hồn con tiêu hao mòn mỏi. Đây là điều con suy đi gẫm lại, nhờ thế mà con vững dạ cậy trông: Lượng từ bi THIÊN CHÚA đâu đã cạn, lòng thương xót của Ngài mãi không vơi. Sáng nào Ngài cũng ban ân huệ mới. Lòng trung tín của Ngài cao cả biết bao! Con tự nhủ: ”THIÊN CHÚA là phần sản nghiệp của con, vì thế nơi Ngài, con trông cậy”. THIÊN CHÚA xử tốt với ai tin cậy Ngài, với ai hết lòng tìm kiếm Chúa. Biết thinh lặng đợi chờ, đợi chờ ơn cứu độ của THIÊN CHÚA, đó là một điều hay. Cũng là một điều hay cho người nào phải mang ách từ khi còn trẻ” (Sách Ai Ca 3,19-27).

(”OMBRES & lumière”, Revue Chrétienne Des Personnes Malades Et Handicapées, De Leurs Familles Et Amis, Mai-Juin 2013)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt