NGƯỜI QUẢN LÝ KHÔN NGOAN VÀ TRUNG THÀNH

NGƯỜI QUẢN LÝ KHÔN NGOAN VÀ TRUNG THÀNH

Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi đi, Phùng Nguyên hỏi: “Ngài có muốn mua gì không?”. Mạnh Thường Quân trả lời: “Ngươi xem thứ gì nhà chưa có thì mua”. Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”. Rồi chẳng tính vốn lời, đem văn tự ra đốt sạch. Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân: “Nhà ngài không thiếu gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài”. Về sau Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đấy nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên: “Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước”.

Nghe chuyện này, có lẽ mọi người đều đồng ý với Mạnh Thường Quân rằng Phùng Nguyên thực là người quản lý trung thành và khôn ngoan. Trung thành vì ông đã biết cách làm lợi cho chủ. Khôn ngoan vì ông biết nhìn xa trông rộng, đầu tư vào những chương trình có ích lợi lâu dài. Nhờ sự khôn ngoan của Phùng Nguyên, Mạnh Thường Quân đã vượt qua được những khó khăn gian khổ.

Người quản lý trong bài Phúc Âm hôm nay khôn ngoan nhưng không trung thành. Khôn ngoan nhanh nhẹn, trong một thời gian ngắn đã tìm ra phương thế chuẩn bị cho tương lai. Nhưng ông ta đã không trung thành vì ông đã phung phí, làm hại tài sản của chủ.

Khi khen người quản lý này khôn khéo, Chúa Giêsu không khen ngợi tính gian giảo, thiếu trung thực của ông. Người chỉ khen ngợi sự thông minh nhạy bén của ông. Người ước mong con cái sự sáng cũng biết thông minh nhạy bén trong việc tìm kiếm Nước Trời. Quả thực chúng ta là những người quản lý của Chúa. Tất cả những gì ta có đều là của Chúa. Sự sống, sức khỏe, tài năng, tiền bạc… đều không phải của ta. Ta chỉ quản lý chúng.

Hai đức tính quý ở người quản lý là trung thành và khôn ngoan.

Người quản lý trung thành gìn giữ nguyên vẹn tài sản của chủ. Không phung phí, không làm mất mát hao hụt. Người quản lý khôn ngoan sẽ tìm cách sinh lợi cho chủ, làm cho tài sản ngày càng gia tăng. Tiền bạc có thể sinh lợi ở ba góc độ khác nhau.

·        Mức độ bình thường nhất là: tiền đẻ ra tiền. Dùng tiền gởi ngân hàng để lấy tiền lời. Dùng tiền đầu tư vào công việc thương mại, kinh doanh để kiếm được nhiều tiền hơn nữa.

·        Mức độ thứ hai cao hơn là: dùng tiền đầu tư vào chất xám, vào giáo dục, vào nghiên cứu khoa học kỹ thuật. Nhật Bản và Hàn Quốc là hai nước đầu tư rất nhiều vào giáo dục. Vì thế họ đã đào tạo được một đội ngũ trí thức đông đảo có kiến thức, có khoa học kỹ thuật. Nhờ thế, không những họ làm cho đất nước giàu mạnh mau chóng, mà còn nâng cuộc sống nhân dân lên cao hơn, giàu có sung túc về của cải vật chất và nhất là cao đẹp vì có văn hóa, đạo đức.

· Mức độ thứ ba, cũng là mức độ cao nhất là: dùng tiền mua hạnh phúc vĩnh cửu. Biến tiền của hay hư nát ở đời này thành gia sản vĩnh viễn ở trên trời. Để làm được việc này, ta phải vượt qua sự khôn ngoan, nhạy bén đầy tính toán của người đời để đạt tới sự khôn ngoan nhạy bén đầy quảng đại theo tinh thần Phúc Âm.

Tạo lập gia sản trên trời khác với tạo lập gia sản nơi trần gian.

–      Gia sản nơi trần gian được tạo lập bằng tích lũy.

–      Gia sản trên trời được tạo lập bằng cho đi.

Để tích lũy tài sản nơi trần gian, ta phải tiện tặt, chắt bóp, nghĩ đến lợi nhuận của bản thân hơn đến người khác. Để tích lũy gia sản trên trời, ta phải rộng rãi, hào phóng nghĩ đến người khác hơn bản thân mình. Càng cho đi ở đời này, ta càng giàu có ở trên trời. Người nghèo là Chúa Giêsu hóa trang. Khi ta giúp đỡ người nghèo là ta chuyển tiền về thiên quốc. Qua trung gian người nghèo, đồng tiền trần gian hay hư nát sẽ biến thành tài sản vĩnh cửu trên trời.

Chúng ta là con cái sự sáng. Hãy biết sống theo con đường sự sáng của Phúc Âm. Hãy xin Chúa ban cho ta sự khôn ngoan của Phúc Âm. Hãy rèn luyện cho ta có sự nhạy bén đối với những thực tại vĩnh cửu trên trời. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1.    Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. Bạn nghĩ gì về câu này?

2.    Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được. Bạn đã coi thường chủ nào và đã yêu mến chủ nào hơn?

3.    Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. Bạn hiểu câu này thế nào? Bạn đã thực hành chưa?

4.    Làm sao để trở thành người quản lý trung thành và khôn ngoan của Chúa?

Tác giả: ĐGM Ngô Quang Kiệt

LÀM TÔI CHO CHÚA

LÀM TÔI CHO CHÚA

AM Trần Bình An

Mạnh Thường Quân nuôi hơn 3000 thực khách nên chi phí rất nhiều, bổng lộc không đủ chi dụng, phải dựa vào tiền thuê đất đai ở Bích Thành do vua phong, nhưng có một năm không thu được tiền về, mới cử Phùng Hoan đi đòi.  Trước khi đi Phùng Hoan hỏi rằng: “Khi tôi trở về, ông có muốn tôi đem quà gì về không?”  Mạnh Thường Quân ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói: “Thì ông cứ xem ở đây thiếu thứ gì thì đem về,” Phùng Hoan đến Bích Thành mới biết năm đó bị thiên tai mất mùa, nông dân thiếu lương thực ăn khổ cực hết chỗ nói.  Phùng Hoan bèn tập họp họ lại, rồi đốt hết mọi giấy tờ vay nợ, khiến mọi người vô cùng cảm động.  Phùng Hoan trở về nói lại đúng sự thực.  Mạnh Thường Quân nổi giận: “Trước khi đi ông nói sẽ đem quà về, nay ở đâu?”  Phùng Hoan đáp: “Ông đã nói ở đây thiếu gì thì mua về, nhưng tôi thấy ở đây chẳng thiếu gì cả, chỉ thiếu có tình nghĩa mà thôi, nay tôi đã đem tình nghĩa về đây.”  Mạnh Thường Quân nghe vậy khóc cười không được, liền phất tay áo đi ra.

Hai năm sau, Tề Dẫn Vương tin nghe lời bịa đặt của hai nước Tần, Sở, rất lo lắng Mạnh Thường Quân công cao lấn chúa, gây uy hiếp tới vương vị của mình, bèn thu ấn tể tướng của Mạnh Thường Quân. Các môn khách thấy vậy, đều theo nhau bỏ đi, duy chỉ có Phùng Hoan là còn ở lại.  Mạnh Thường Quân đành trở về cố cư ở Bích Thành.  Dân trong thành nghe tin ông trở về, liền dắt già cõng trẻ ra ngoài 100 dặm để đón.  Mạnh Thường Quân nhìn thấy cảnh tượng này, rơm rớm nước mắt nói với Phùng Hoan: “Tình nghĩa mà ông đã đem cho tôi, nay tôi đã thực sự cảm nhận được rồi”.

************************************

Trong Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay, Đức Giêsu kể dụ ngôn người quản gia bất lương khôn khéo, biết dùng tiền của gian lận để mưu cầu chốn nương thân.  Sau cùng Người cảnh báo, không ai có thể làm tôi hai chủ được, vừa làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền của.

Làm tôi cho bản ngã

Trong cuộc mưu sinh, nhiều khi tiền của bỗng dưng trở thành ông chủ cai quản cuộc đời.  Cho nên thi sĩ Horace từ xa xưa đã cảnh báo không thừa: “Tiền bạc là đầy tớ tốt và là ông chủ xấu.” Nếu lệ thuộc vào nó, coi nó là ông chủ, là cứu cánh cuộc đời, kể như đánh mất nhân tính tốt lành, mà trở nên biển lận và tham lam.

Tuy nhiên, xã hội bao đời vẫn không hề phủ nhận sức mạnh, lẫn tầm ảnh hưởng vô song của nó. “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền.” Hay là “Nén bạc đâm toạc tờ giấy.” Nếu không có sẵn quyền cao chức trọng, mà lắm tiền nhiều của, thì người ta cũng vẫn được nể nang, trọng vọng, cũng có thể ngoi dần lên vị thế cao, lên hàng khanh tướng. “Có tiền mua tiên cũng được” kia mà!

Thực ra, người ta mê tiền bạc, vì nó không chỉ giúp nuôi sống bản thân và gia đình, mà còn có thể củng cố, biến đổi cơ cực, gian lao, vất vả, thành nhàn hạ, sung túc, biến đổi thân phận tầm thường thành người danh giá, biến sự rủi ro, yếu đuối thành may mắn và quyền lực.

Chung quy, người ta làm nô lệ cho tiền của, vật chất, vì chúng phục vụ lại cho chính bản thân.  Có nghĩa là con người làm tôi mọi cho chính bản ngã, cho ngay chính mình.  Con người tự tôn thờ mình, chứ chẳng cần đoái hoài, tôn thờ thần thánh nào khác.

Vì thế, Đức Giêsu muốn giải thoát con người khỏi ách nô lệ tiền của, thoát ra khỏi cái tôi vị kỷ, khi khuyên nhủ đem nó phục vụ tha nhân: “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí.” (Lc 12, 33) Chính là của để dành cho đời sau.

Làm tôi cho Chúa

Người quản lý bất lương khôn khéo dùng tiền của bất chính mua cho mình sự bảo hiểm an cư sau này. Còn Phùng Hoan đổi tiền bạc, của cải lấy tình nghĩa cho Mạnh Thường Quân.  Cả hai người đều có thể giúp cho người Kitô hữu, cảnh tỉnh và nhận thức hơn về sự chọn lựa giữa cái bấp bênh, hư nát với cái ổn định, bền bỉ, giữa phù vân và vững chãi, giữa nhất thời và vĩnh cửu.

Thông thường, ai cũng đều mong muốn, ưa chuộng tự do, đều muốn tự mình quyết định mọi việc, mọi tình huống, mọi nơi, mọi lúc.  Nhưng lại cũng rất dễ mù quáng trở nên nô lệ vào vật chất, thói quen, đam mê, nô lệ vào tiện nghi, nô lệ vào quan niệm và dư luận xã hội, nô lệ vào khuynh hướng hưởng lạc, duy vật, hay rõ ràng là nô lệ vào nền văn minh sự chết.

Thoát ra khỏi vòng kiểm tỏa, nô lệ tiền tài, của cải vật chất, cũng là thoát ra khỏi cái vỏ ốc ích kỷ, vô cảm, bất khoan nhượng, bất nhân, bất nghĩa, để có thể yêu thương, tha thứ và phục vụ tha nhân, thì mới có thể làm tôi cho Chúa, theo Chúa và thờ phượng Ngài.

Do vậy, điều kiện tiên quyết theo Chúa, chọn Chúa làm sản nghiệp, là phải từ bỏ mọi sự, vật chất danh lợi, thậm chí bỏ cả chính mình, chấp nhận đau thương, khổ ải, vác thánh giá bổn phận, trách nhiệm, lý tưởng để theo Đức Giêsu.

Làm tôi cho Chúa có nghĩa thoát khỏi xiềng xích nô lệ vật chất, thế gian, từ bỏ con đường bằng phẳng, dễ dãi, trơn tru, từ bỏ những gì thân xác ham muốn, thích thú, hay thỏa mãn, mà đi theo con đường chông gai, thử thách, nhọc nhằn, đau đớn, bầm dập, tả tơi cả thân xác lẫn tinh thần.

Làm tôi cho Chúa cũng còn có nghĩa xả kỷ vị tha, quên mình giúp người, sống cho người, sống vì người, tìm thấy Chúa hiện diện trong người khốn cùng, nghèo nàn, bênh hoạn, bơ vơ bị bỏ rơi.

Làm tôi cho Chúa nhất thiết cần trở nên chứng nhân đích thực của Đức Giêsu Chịu Đóng Đinh, trở nên đồng dạng, đồng hình và cùng đồng hành với Người trong sứ vụ Đi Gieo Tin Mừng.

“Con đừng lấy làm lạ, lúc theo Chúa, con nghe tiếng gọi của khoái lạc, của danh vọng, của cả bản thân, cha mẹ, quyến rũ con bỏ đường theo Chúa.  Cứ tiến lên, Chúa đã nói trước: “Ai cầm cầy còn ngoảnh mặt lui, không đáng làm môn đệ Ta!” (Đường Hy Vọng, số 71)

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thoát khỏi xiềng xích của cải, tiền bạc, danh lợi, chức quyền, từ bỏ tất cả để theo Chúa.  Xin giải thoát khỏi những đòi hỏi, cám dỗ, đam mê của thân xác, khỏi những quan niệm, thành kiến thế gian.  Xin giải phóng con khỏi cái tôi ích kỷ, vị kỷ, để con biết nhìn đến tha nhân, yêu thương và phục vụ những nhu cầu cấp bách của anh chị em.

Lạy Mẹ Maria, xin cải hóa tâm hồn chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa chước cám dỗ, khỏi say mê những thứ phù phiếm, giúp chúng con biết khước từ tất cả những chướng ngại vật, để có thể hiến dâng theo Chúa.  Xin cho chúng con được hiệp thông cùng Mẹ, với Mẹ và trong Mẹ, hầu xứng đáng làm tôi tớ Chúa luôn mãi.  Amen!

AM Trần Bình An

From: langthangchieutim &

Anh chị Thụ & Mai gởi

Kinh hoàng phát ngôn bá đạo của những tờ báo có tên Nhân Dân

Kinh hoàng phát ngôn bá đạo của những tờ báo có tên Nhân Dân

Người Buôn Gió

clip_image002

Dường như cuộc chiến trên mặt trận tư tưởng của các tờ báo này đã vào chỗ bế tắc, khủng hoảng bởi thực tiễn không minh họa được cho lời lẽ của họ.

Tờ báo QĐND đưa ra bài viết có nhan đề Ba lần Bác cười trước lúc đi xa (http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/242/242/242/101538/Default.aspx). Bài viết miêu tả chi tiết và sống động Chủ tịch HCM kính yêu trước lúc từ trần theo lời kể của y tá Trung Quốc Vương Tinh Minh có đoạn:

“Chiều hôm đó sức khỏe của Bác đã có chuyển biến tốt lên một chút, Bác nói muốn nghe một câu hát Trung Quốc. Các đồng chí đề nghị tôi hát. Tôi nói thật là hát cũng không tốt lắm, nhưng để vui lòng Bác, vì tình hữu nghị Trung-Việt, tôi đã hát một bài hát mà nhiều người thuộc và hát được, bài hát có nội dung chính là ra khơi xa phải vững tay chèo. Bác nghe xong rất vui, Bác nở nụ cười hiền từ. Bác nắm nhẹ tay tôi, tặng tôi một bông hoa biểu thị cảm ơn. Đó là lần thứ ba tôi thấy Bác cười. Và đó cũng là nụ cười cuối cùng của Người.”

Nếu đây là sự thật, thì sự thật này khiến nhiều người dân Việt phải ngỡ ngàng, hoang mang. Có lẽ nào nhạc sĩ Trần Hoàn là một tên nói phét, hoặc là một kẻ lợi dụng mong muốn nghe hát của Bác để xuyên tạc sai lệch, nhằm kích động chiến tranh. Bài hát của nhạc sĩ Trần Hoàn có tên Lời bác dặn trước lúc đi xa (http://tainhaccho.vn/loi-bai-hat/tran-hoan/bnl/loi-bac-dan-truoc-luc-di-xa.htm).

Bài hát như một câu chuyện kể rất cảm động, rằng trước lúc đi HCM muốn nghe câu hò Huế, bởi vì nước non chia cắt, Huế ở miền Nam. Rồi bác nhớ làng Sen quê mình, rồi bác nghe quan họ ”người ở người ở đừng về ”… rồi bác nghe câu hát dặm.

Bài hát của Trần Hoàn đã khắc sâu trong tâm trí của bao người Việt về một hình ảnh lãnh tụ HCM thân thương tha thiết với dân tộc, đất nước. Đến lúc cuối đời còn chỉ còn muốn nghe những làn điệu đầy bản sắc quê hương như hò, ví dặm, quan họ.

Thế nhưng báo QĐND dựa vào lời kể của một y tá Trung Quốc đã đưa lên thành một bài viết đi ngược 180 độ với những gì mà Trần Hoàn đã khắc sâu trong tâm trí nhân dân Việt Nam về hình ảnh của Người.

Bài viết của báo QĐND đã nói rằng, bác chỉ muốn nghe câu hát Trung Quốc thôi. Không hề có một dòng nào của bài báo nói về những giây phút cuối đời HCM nhắc nhở gì đến nhân dân Việt Nam, đất nước Việt Nam cả. Chỉ có những hành động tình cảm với phía Trung Quốc như khi nghe giới thiệu y tá TQ, Chủ tịch HCM nhìn y tá TQ với đôi mắt hiền từ, rồi nhắm lại tuôn lệ (như là đang bồi hồi cảm xúc nghĩ lại điều gì rất tha thiết?).

Những lời kể của y tá Trung Quốc Vương Tinh Minh liệu có tin cậy được không.? Tại sao bây giờ mới kể khi các nhân chứng có mặt lúc đó đều đã chết như Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Lê Duẩn và người còn sống duy nhất lại đang ở trạng thái sinh học không còn nói gì được nữa là đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Một chi tiết nữa rất khó hiểu là theo lời kể của Vương Tinh Minh thì sức khỏe HCM đã hôn mê, tình lại chỉ lắc đầu yếu ớt ra hiệu. Nhưng sau khi nghe hát đã nắm tay Vương Tinh Minh và tặng hoa rồi trút hơi thở. Tại sao người duyệt bài báo này không nghĩ rằng trong tình trạng nằm hấp hối chỉ còn giây phút nữa lìa đời, chỉ ra hiệu bắng mắt và lắc đầu thì HCM lấy đâu ra sức để tặng Vương Tinh Minh hoa. Cho dù hoa có để bàn ngay đầu giường thì HCM cũng phải nhỏm dậy rút hoa từ trong lọ ra thì mới có hoa tặng được Vương Tinh Minh. Nếu HCM mà ngồi dậy, ngoái đầu, với tay rút hoa tặng thì hành động đó không hề phù hợp với người chỉ còn vài giây phút nữa lia đời, mới vài giây trước còn ra hiệu bằng ánh mắt hay cái lắc đầu.

Có lẽ từ khi VN hợp tác toàn diện với TQ, báo QĐND Việt Nam đã có những thay đổi khó lường, để học được bài học đấu tranh chống ” diễn biến hòa bình ” của Trung Quốc. Những nhà làm tuyên truyền của báo QĐND đã tiếp thu hổ lốn tất cả những gì Trung Quốc nói, TQ viết. Báo QĐND hăng hái đi đầu như lính xung kích trên mặt trận tư tưởng để phê phán những tư tưởng chủ quan, ấu trĩ, lệch lạc của bọn phần tử phản động núp trong nhân dân. Báo QĐND lên án những thế lực phản động đang âm mưu hạ bệ thần tượng HCM trong lòng nhân dân ta.

Thế nhưng báo QĐND vì quá u mê hay cuồng tín vào ông thầy dạy môn ”đấu tranh chống diễn biến hòa bình” mà đã đưa ra một bài viết cực kỳ tai hại, tác động xấu đến niềm tin nhân dân bấy lâu . Bài viết theo lời kể của y tá Trung Quốc là non kém về nghiệp vụ, không có cơ sở thẩm tra thế nhưng vẫn được tùy tiện đưa lên. Nhất là bài viết lại liên quan đến hình ảnh lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam.

Phải chăng chính báo QĐND đang làm những việc mà họ thường lên án người khác?

Báo Nhân dân

Tờ báo Nhân dân hôm nay 20/9/2013 có bài viết nhan đề Tôn giáo chân chính đồng hành cùng dân tộc (http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/binh-luan-phe-phan/item/21251502.html). Bài báo của tác giả Trần Chung Ngọc lên án những hãng truyền thông quốc tế đưa tin sai lệch về các vụ việc tôn giáo ở Việt Nam.

clip_image004

Không biết Trần Chung Ngọc uy tín cỡ nào mà khẳng định rằng những hãng truyền thông lớn quốc tế đưa tin sai, chỉ có ông ta là nói thật?

Nhưng dẫu thế nào thì một điều nhận thấy được rõ, là các hãng truyền thông đưa tin về tôn giáo Việt Nam không bao giờ có bài xúc phạm, mạt sát tôn giáo hay nhân vật tôn giáo nào. Không hề có sự so sánh giữa hai tôn giáo khác nhau để dè bỉu, gây chia rẽ, kích động thì hằn nhau.

Trong bài báo của Trần Chung Ngọc thì trái lại những giọng điệu hằn học, bạo lực được lộ rõ không hề che đậy. Trình độ kém hay bản chất của tư tưởng Trần Chung Ngọc là vậy?

Bài báo có đoạn:

“Trong cuộc kháng chiến ở Việt Nam gần đây cũng vậy, nhiều tu sĩ bỏ áo cà sa đi theo kháng chiến, vì theo truyền thống yêu nước, xét đúng ưu tiên của thời thế, giặc đến nhà đàn bà phải đánh, nền độc lập của nước nhà trên hết, không như bọn Việt gian vô Tổ quốc, phi dân tộc, chủ trương “thà mất nước chứ chẳng thà mất Chúa”.

Đoạn viết này chắc hẳn những người theo đạo Công Giáo, những linh mục, giám mục và hồng y Thiên Chúa Giáo hiểu ý đồ tác giả nói về “bọn… vô tổ quốc, phi dân tộc” là không chỉ nói riêng về con người, mà cao hơn tác giả Trần Chung Ngọc còn muốn đả phá về học thuyết, ý thức hệ, tư tưởng của đạo Thiên Chúa. Một sự xúc phạm thật nặng nề đến tôn giáo. Sở dĩ gọi là nặng nề vì không phải nó động đến hành động nhất thời của một tổ chức tôn giáo. Mà nó động hẳn đến chủ thuyết, tư tưởng thần học của tôn giáo ấy.

Phát ngôn táo bạo hay phát ngôn bá đạo

Một tờ báo lấy tên Nhân dân, lại cho đăng bài của một kẻ xưng là Việt Kiều Mỹ, xúc phạm niềm tin của gần chục triệu nhân dân (tín đồ Thiên Chúa Giáo ở Việt Nam xấp xỉ 10 triệu người). Cuộc kháng chiến chống Pháp đã xa xôi như vậy rồi, mà sự thù nghịch đến nay vẫn còn hiện rõ. Vẫn được báo Nhân dân lên án… vậy thì mấy triệu người miền Nam di tản hồi 1975 khi đọc được bài viết của Trần Chung Ngọc trên báo Nhân dân hôm nay liệu có tin được vào đoàn kết, tha thứ, hòa giải, yêu thương mà nhà nước Việt Nam đang kêu gọi không?

Trần Chung Ngọc lộ rõ ý đồ gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ tôn giáo khi so sánh hình ảnh người Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo. Sau khi vạch tội Thiên Chúa Giáo là Việt gian, phi dân tộc, tổ quốc, chịu mất nước chẳng thà mất Chúa… đến lượt kể công lao của tu sĩ Phật Giáo. Thậm chí quá đà ca ngợi tinh thần chiến đấu của các tu sĩ Phật Giáo, bài báo có đoạn: “Thậm chí còn vui lòng dấn thân vào cuộc, kể cả xông pha trận mạc chém giết quân thù, giữ gìn cuộc sống thanh bình cho dân tộc’”.

Học thuyết của Phật Giáo có cho chém giết quân thù để bảo vệ mình không? Dường như chưa ai dám khẳng định rằng học thuyết nhà Phật cho phép chủ động xông pha trận mạc chém giết quân thù. Nhưng cứ tạm gác điều đó lại, cứ cho rằng học thuyết nhà Phật cho phép hay ngầm cho phép chém giết quân thù như ý của Việt kiều Trần Trung Ngọc đi chăng nữa thì chả lẽ một tờ báo lớn toàn tiến sĩ, thạc sĩ, giáo sư, phó giáo sư lý luận không biết được cách sửa từ ”chém giết” bằng từ nào khác trong kho tiếng Việt phong phú của Việt Nam? Ví dụ như sửa thành ”xông pha trận mạc chiến đấu với quân thù”, nghe có phải hay hơn từ ”chém giết” rất bá đạo đối với người tu hành.

Một bài viết lủng củng, ý tứ đối nghịch nhau, loạn ngôn, giọng điệu hằn học chia rẽ tôn giáo, kích động hận thù của Trần Trung Ngọc lại được báo Nhân dân đưa lên. Chả lẽ không còn ai viết được hơn nữa sao?

Hay báo Nhân dân cũng như báo Quân đội Nhân dân cũng đang tự làm những điều mà họ hay phê phán các thế lực thù địch là chia rẽ dân tộc, kích động hằn thù, gây mất đoàn kết khối đại dân tộc.

Đến lúc phải dùng loại y tá Trung Quốc để nói về lãnh tụ nước mình, dùng Việt kiều (gian) để nói về nội tình tôn giáo trong nước, có lẽ các tờ báo có tên Nhân dân đã chẳng còn nhân dân nào trong đó nữa rồi.

N. B. G.

Nguồn: FB Người Buôn Gió

THẾ NÀO LÀ KHÔN NGOAN TRONG VIỆC SỬ DỤNG TIỀN CỦA ?

THẾ NÀO LÀ KHÔN NGOAN TRONG VIỆC SỬ DỤNG TIỀN CỦA ?

BÀI SUY NIỆM PHÚC  ÂM CHÚA NHẬT 25 MÙA THƯỜNG NIÊN


Tác giả: Lm. PX. Ngô Tôn Huấn

Tin mừng Chúa Nhật thứ 25 mùa thường niên hôm nay mời gọi  tín hữu chúng ta suy nghĩ thêm một lần nữa về  cách sử  dụng  tiền bạc và của cải vật chất ở đời này trong ánh sáng  của  Phúc Âm,  để  một mặt  thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của  con người  trong cuộc  sống trên trần gian này,  và mặt khác  tích lũy  vào kho tàng  giầu sang, phú quý trên Nước Trời.  là nơi trộm cắp không bén bảng và mối một cũng không thể đục phá như Chúa Giêsu đã khuyên dạy các môn đệ xưa.( Lc 12: 33)

Thật vậy, qua dụ ngôn người quản lý bất trung đã khôn khéo dùng của cải của chủ dể phòng thân  sau khi không còn được làm quản lý nữa,  Chúa muốn dạy chúng  ta  là con cái của  ánh sáng ,  phải  học cái khôn ngoan của anh quản lý kia để mưu cầu hạnh phúc  vĩnh cửu trên Nước Trời mai sau bằng cách dùng tiền của  sao cho phù hợp vơi sự  khôn ngoan của  Tin Mừng  cứu độ .

Nhưng trước khi suy niệm  thêm về lời Chúa qua dụ ngôn trên , thiết tưởng cần nói qua về sự cần thiết và quan trọng của tiền bạc trong đời sống của con người nói chung và cách riêng của người tín hữu chúng ta.

Quả vậy,   là con người sống trên trần thế này thì ai  ai cũng cần được thỏa mãn những nhu cầu tối cần thiết cho thân xác  như  cơm  ăn , áo mặc, thuốc men,  nhà ở và phương tiện di chuyển như xe cộ.  Vì nếu sống ở Mỹ, thì bó buộc phải có xe hơi để đi làm việc , đi nhà thờ ,  đi thăm  thân nhân, bạn bè, hay  đi mua thức ăn và đồ dùng cần thiết  vào cuối tuần.

Do đó, phải có tiền để chi phí cho những nhu cần tối cần thiết  nói trên .Cho  mục đích này, không ai có thể ngây thơ  và thiếu thực tế nói là mình không cần tiền. Ngược lại, phải  nói là rất cần  có tiền để  để  sống xưng đáng với phẩm giá là con người.  Trong giới hạn  này, chắc chắc Chúa không cấm chúng ta đi tìm tiền của cách công bằng , hợp lý để thỏa mãn  những nhu cầu chính đáng của  bản thân , của  gia đình và thương  giúp người khác thiếu thốn hơn mình. .

Không những chúng ta cần tiền bạc mà Giáo Hội cũng phải cần đến phương tiện tài chính dồi dào để thi hành sứ mệnh  truyền bá Phúc Âm , đào tạo linh mục và tu sĩ, đặc biết là trợ  giúp cho việc truyền giáo ở các xứ nghèo bên Á Châu và Phi Châu. Và còn biết bao chương trình  hữu ích khác của Giáo Hội đòi hỏi  phải có tiền  thì mới  thực hiện được ..

Ở cấp giáo hội địa phương, các địa phận và các giáo xứ cũng  rất cần sự đóng góp tài chính của giáo dân để tồn tại và thi hành trách nhiệm  mục vụ, giáo dục và phúc âm hóa môi trường. Nếu không có tiền thì không một giáo xứ nào có thể tồn tại và hoạt động được. Như thế  cho mục đích tốt đẹp  này,  thì cần  phải có phương tiện tốt là tiền bạc để chi phí cho những nhu cầu chính đáng  của giáo xứ, giáo phận.

Nhưng không phải vì tầm quan trọng  và chính đáng đó mà chúng ta được phép làm  mọi cách để có được tiền bạc, bất kể  những tiêu chuẩn ràng buộc về luân lý đạo đức và giáo lý của GH. Cụ thể  là  không thể  mở sòng  cờ bạc, tiếp tay với bọn   buôn bán  trẻ em và phụ nữ cho kỹ nghệ mãi dâm  rất khốn nạn,  hoặc buôn bán cần sa ma túy hay các sản phẩm đồi truy, sách báo phim ảnh  dâm ô …để lấy tiền giúp xây nhà thờ , nhà Dòng, nhà thương , trường học, nhà hưu dưỡng .. .Mục đích tốt ở đây không thể biện mình cho phượng tiện xấu là kiếm tiền cách bất chính , tội lỗi bằng những phương tiện kể trên.

Cũng  vậy,  người tín  hữu  Chúa Kitô  cũng  không được phép tìm tiền của bằng  hành nghề phá thai, cờ bạc,  cá độ, lường gạt, bóc lột sức lao động của người khác, khi  trả lương thấp cho công nhân, hay người giúp việc   dưới mức lương căn bản theo luật lao động, hoặc  tiếp tay sản suất và phổ biến  những sản phẩm  dâm  ô  đồi trụy có hại cho tinh thần người tiêu thụ

Hơn thế nữa  là không được say mê  đi tìm tiền của để  làm giầu đến nỗi  không còn tâm trí và  thì  giờ  để lo cho đời sống  thiêng liêng như  đi tham dự thánh Lễ ngày Chúa Nhật và các ngày Lễ buộc trong năm,  để giờ cầu nguyện, đi  xưng tội., hoặc đi tĩnh tâm .v.v

Say mê tiền của  như vậy  sẽ đưa đến làm nô lệ cho tiền bạc  đến mức coi nhẹ  hay bỏ qua mục đích  chính của người tín hữu  là tìm kiếm Thiên Chúa và Vường quốc giầu sang của Người. trên hết mọi sự  ở đời này,  căn cứ  vào lời   Chúa Giêsu đã  dạy  các môn đệ xưa là  :

Trước hết  hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” ( Mt 6 :33)

Tìm kiêm Nước Thiên Chúa  có nghĩa là  trên hết mọi sự, người tín hữu chúng ta phải tha thiết  đi  tìm  và yêu mến Chúa là cội  nguồn của mọi phú quí giầu sang bất diệt, mà tiền của trần gian này không thể mua được. Tiền của trần gian chỉ giúp thỏa mãn những nhu cầu vật chất  cần thiết như cơm ăn áo mặc nhà cửa , thuôc men khi ốm đau, có tiền cho con cái đi học , có  phương tiện di chuyển v.v  , nên chỉ được phép tìm tiền bạc cách chính đáng cho những nhu cầu  này mà thôi.

Nếu may mắn có được  nhiều  của cải tiền bạc  thì  hãy  nghe lời Chúa khuyên dạy như sau :

“ Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm cho mình những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao mòn ở trên trời nơi trộm cắp không bến bảng , mối một cũng không đục phá ( Lc  12:  33-34)

Nói khác đi, nếu ta không biết dùng tiền của để mưu  ích  thiết thực cho thể xác và đặc biết  cho  linh hồn  thì sẽ rơi vào nguy  cơ  tôn thờ  tiền của thay vì  tôn thờ Thiên Chúa trên hết mọi  lợi  lãi ở đời này.

Đó cũng là lý do tại sao Chúa nói trong bài Tin Mừng hôm nay là “ anh  em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được,” ( Lc 16 : 13)

Làm tôi tiền của thì sẽ trở nên ích kỷ ,  tham lam, bất công  và lãnh cảm trước sự đau khổ, nghèo đói của người khác. Riêng  người Tông Đồ mà mê tiền của thì không thể  sống và làm chứng cho tinh thần nghèo khó của Chúa Kitô “ Đấng vốn giầu sang  phú quí, nhưng đã tự ý trở nên  nghèo khó vì anh  em,  để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giầu có. ( 2 Cor  8: 9).

Dụ ngôn ông nhà  giầu và anh nghèo khó Lazarô   trong Tin Mừng Thánh Luca  đủ mình chứng  nguy cơ  của sự  nô lệ, làm tôi tiền của ở đời này. Ông nhà giầu kia khi còn sống, đã ăn sung mặc sướng  và không hề bó thí cho anh nghèo La-za-rô, nên sau khi chết,  đã bị phải phạt xuống hỏa ngục. Bị phạt không phải vì tội giầu có, ăn uống thỏa thê  mà vì không có lòng bác ái, bố thí  chút gì  cho anh nghèo La-za-rô  hàng ngày  ngồi ăn xin trước của nhà mình .( Lc  16: 19- 26)

Lại nữa, câu truyện người thánh niên giầu có  trong Tin Mừng Thánh Matthêu cũng cho thấy rõ là  nếu ham  mê  và làm nô lệ cho tiền của,  thì khó có thể được vào Nước Trời,  như Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ, sau khi anh thanh niên giầu có kia buồn rầu  bỏ  ra đi,  vì không thể thực hành được lời Chúa khuyên anh ta là hãy về bán hết tài sản, lấy tiền bố thí cho người nghèo  rồi đi theo Chúa. Anh ta không  muốn  đi theo Chúa,   vì anh có quá nhiều tiền của và không thể hy sinh cho người nghèo  được. ( Mt 19  : 16- 23).

Sau hết, qua dụ ngôn người quản lý bất trung  trong bài  tin Mừng Chúa nhật hôm nay , Chúa cũng dạy mọi người chúng ta phải khôn ngoan như  tên quản lý bất trung kia. Nhưng không phải khôn ngoan  bằng cách lấy  của cải của người khác  để phòng thân  sau khi bị mất việc. Ngược lại,  sự khôn ngoan mà Chúa muốn dạy chúng ta là hãy dùng tiền của chóng qua  ở đời này để mua lấy sự giầu sang  hạnh phúc  là được vui hưởng Thánh Nhan Chúa trên Nước Trời, sau khi kết thúc hành trình  đức tin trên trần thế này . Nghĩa là  chỉ dùng tiền của như phương tiện hữu ích để đạt mục đích tối hậu là được sống hạnh phúc và giầu sang trên Thiên Quốc mai sau. Cho mục đích đó,  ta phải giới hạn lòng tham, không mượn cớ  nhu cầu, để tìm mọi cách  cho có tiền bạc. Người Tông Đồ của Chúa càng phải giới hạn  nhu cầu bất tận của mình để  ngưng  chạy đôn đáo đi tìm  tiền ở  bên ngoài nữa, mà hậu quả là có  những  người đã sống mâu thuẫn với Tin Mừng mình rao giảng,  chỉ vì  quá hăng  say đi tìm dollars, Euro hơn là thực  tâm muốn sống  tinh thần khó nghèo  theo gương Chúa Kitô, Người nghèo  khó  đến nỗi không có chỗ tựa đầu, trong khi chim trời có tổ, con chồn có hang. ( Mt  8: 20).

Tóm lại, chỉ không làm tôi cho tiền của thì mới dễ  mở lòng   bác ái, thương giúp, chia sẻ với  anh  chị em nghèo khó những gì mình may mắn có dư thừa. Đó là cách làm giầu trước mặt Chúa là Đấng sẽ trả công bội hậu cho những ai  biết dùng tiền của   để mưu ích cho phần rỗi của mình  bằng cách  thương giúp những người nghèo khó  vì  chính Chúa Giêsu  đang hiện diện nơi những người đói khổ, vô gia cư,  bệnh tật, tù đầy  ở  khắp nơi,  và thách đố chúng ta nói chung, và những người giầu có nói riêng tỏ lòng thương giúp họ. Thương giúp họ cách thiết thực vì  lòng bác ái  là  bố thí cho chính Chúa  Giêsu,  như Người đã nói qua dụ ngôn ngày phán xét chung trong Tin Mừng Thánh Matthêu.,chương  25.

Xin Chúa giúp chúng ta biết dùng tiền của chóng qua ở đời này để mưu tìm hạnh phúc, giầu sang vĩnh cửu trên  Nước Trời. Amen

Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.

MỘT NGƯỜI CÔNG GIÁO TỐT LÀ NGƯỜI BIẾT THAM GIA VÀO CHÍNH TRỊ

MỘT NGƯỜI CÔNG GIÁO TỐT LÀ NGƯỜI BIẾT THAM GIA VÀO CHÍNH TRỊ

ĐTC Phanxicô nói: ”Người Công Giáo tốt là người biết tham gia vào chính trị”.

Tiền Hô  (Vietcatholic.net 9/17/2013)

Vatican, 16 Tháng Chín 2013 – “Một người Công Giáo tốt là người biết tham gia vào chính trị”, tham gia và đóng góp nhiều điều tốt nhất có thể như: “ý tưởng, kiến nghị, nhưng trên hết là lời cầu nguyện” cho những viên chức chính quyền, để họ biết yêu thương người dân, khiêm nhường, lắng nghe những ý kiến khác nhau của người dân để chọn ra phương cách tốt nhất.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã lấy cảm hứng từ thư của Thánh Phaolô gửi Timôthê để nói về trách nhiệm của nhà cầm quyền lãnh đạo và lời mời gọi tín hữu cầu nguyện cho họ.

Đài phát thanh Vatican dẫn lời Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: Những nhà cầm quyền “phải yêu thương người dân của họ” bởi vì “một lãnh đạo mà không yêu thương dân thì chẳng thể nào cầm quyền được. Họ có thể cầm trong tay kỷ luật, họ có thể chi phối an ninh trật tự, nhưng họ không thể quản trị.”

Ví dụ như vua David, “ông rất yêu thương dân của mình”, mặc dù ông lỗi phạm rất nhiều nhưng ông vẫn cầu xin Chúa đừng trừng phạt người dân mà hãy trừng phạt ông. Vì thế, hai nhân đức của một nhà lãnh đạo là biết yêu thương người dân và có sự khiêm nhường.

“Bạn không thể cầm quyền mà không yêu thương người dân và không có sự khiêm nhường. Mỗi người lãnh đạo phải tự hỏi chính mình hai câu hỏi: “Tôi có yêu thương người dân để tôi phục vụ họ tốt hơn không? Tôi có khiêm nhường và lắng nghe tất cả ý những kiến khác nhau của mọi người để chọn ra phương cách tốt nhất không? Nếu bạn không đặt ra được những câu hỏi như vậy, việc lãnh đạo của bạn sẽ không được tốt đẹp hơn là những ai biết yêu thương người dân của họ”.

Từ một góc độ khác, Thánh Phaolô cũng khuyên người dân cần có những lời cầu nguyện dành cho nhà lãnh đạo, để họ có thể có một cuộc sống yên tĩnh và thanh bình. Người dân không thể không quan tâm đến chính trị. Không ai trong chúng ta có thể nói rằng “Tôi không có gì để làm trong lĩnh vực này, họ đã quản lý hết rồi…” Trái lại, “tôi phải có trách nhiệm trong việc quản trị của họ, và tôi phải làm những điều tốt nhất để họ quản trị cho thật tốt nhất. Tôi phải làm hết sức mình bằng cách tham gia vào chính trị bằng khả năng của tôi.” Theo Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo thì chính trị là một trong những hình thức cao nhất của bác ái, vì nó phục vụ lợi ích chung. “Tôi làm sao có thể vô trách nhiệm phải không nào? Tất cả chúng ta phải chung tay đóng góp một cái gì đó!”

Thật sai lầm khi nghĩ rằng: “Người Công Giáo tốt là người không can thiệp vào chính trị”. Đó không phải là một hướng đi tốt. Một người Công Giáo tốt là người biết tham gia vào chính trị, đóng góp những điều tốt nhất của mình cho việc quản trị của nhà lãnh đạo. Nhưng chúng ta cần cầu nguyện thế nào cho nhà lãnh đạo? Hãy làm theo những gì Thánh Phaolô nói: “Hãy cầu nguyện cho tất cả mọi người, và cho vương quyền và cho tất cả những ai cầm quyền”.

“Nhưng thưa cha, những người đó là kẻ xấu xa, đáng phải xuống hỏa ngục…” – “Vậy hãy cầu nguyện cho họ để họ có thể cầm quyền tốt, họ có thể yêu thương người dân, họ có thể phục vụ người dân và họ có thể khiêm tốn hơn. Một Kitô hữu không cầu nguyện cho nhà lãnh đạo thì không phải là một Kitô hữu tốt!”

“Nhưng thưa cha, làm sao con cầu nguyện cho những người đó, những người không tốt được…” – “Hãy cầu nguyện để những người đó có thể hối cải!”

Đức Thánh Cha kết luận, “chúng ta đóng góp ý tưởng, kiến nghị là điều rất tốt, nhưng trên tất cả là lời cầu nguyện. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo của chúng ta để họ có thể quản trị tốt, để họ có thể dẫn đưa quê hương của chúng ta, đất nước của chúng ta và thậm chí là cả thế giới của chúng ta tiến về phía trước, vì lợi ích của hòa bình và công ích”. (Theo AsiaNews)

Tiền Hô

Tác giả: Tiền Hô (Vietcatholic.net 9/17/2013)

Sự tham gia chính trị của dân chúng

Sự tham gia chính trị của dân chúng

Kính Hòa, phóng viên RFA
2013-09-20

RFA

000_Hkg8838402-305.jpg

Một phụ nữ buôn bán hải sản tại một chợ ở Hà Nội đang sử dụng iPad hôm 26/7/2013

AFP photo

Sự phát triển của công nghệ thông tin đã tạo điều kiện cho dân chúng Việt nam tham gia vào đời sống chính trị của quốc gia. Sự tham gia như thế là cần thiết cho một xã hội văn minh mà đảng cộng sản tuyên bố hướng tới.

Việc tranh luận về điều khoản số 258, bộ luật hình sự Việt Nam cho thấy một sự quan tâm đến chính trị của công chúng Việt Nam đã gia tăng đáng kể. Sự quan tâm này được phát triển nhanh chóng nhờ vào công nghệ thông tin với các bloggers, và mạnh mẽ hơn nữa trong vài năm gần đây với mạng xã hội. Nếu không có các điều kiện này thì ắt hẳn những bình luận, những thông tin, những quan tâm tới chính trị quốc gia không nở rộ như trong thời gian qua, vì các định chế chính trị ở Việt Nam không cho phép điều đó.

Một tác giả người Mỹ là ông Harold Lasswell trong một tác phẩm của mình về chính trị viết cách đây rất lâu, năm 1936, đề cập đến chính trị như là một cuộc tranh giành giữa những người thuộc tầng lớp tinh hoa.

Thập niên 30 này cũng chứng kiến trận thanh lọc khổng lồ do Stalin thực hiện, trong một mô hình chính trị Soviet, hoài thai từ các ý tưởng của Marx và Lenin, rằng nền chính trị phải được hai giai cấp đông đảo nhất của xã hội là công nhân và nông dân thực hiện một cách chuyên chính (chuyên chế.)

Sau thế chiến thứ hai, Harold bổ sung những ý tưởng mới trong cách nhìn về chính trị, trong đó ông nghiên cứu rộng hơn đến những tác nhân như văn hóa và con người tác động lên nền chính trị. Cùng thời gian đó, mô hình Soviet được mở rộng sang Đông Âu, Trung quốc,…với sự khẳng định mạnh mẽ nền chuyên chính, mà sau đó đôi khi được gọi tên là nền dân chủ tập trung. Và điều đáng nói là trong mô hình này cuối cùng cũng hình thành một tầng lớp tinh hoa mà Milovan Djilas, nhân vật ly khai từng đứng hàng thứ hai của đảng cộng sản Nam Tư,  gọi là giai cấp mới thống trị bộ phận còn lại của xã hội..

Sự tác động của văn hóa và con người trong các mô hình chính trị phương tây càng phát triển hơn nữa với khái niệm xã hội dân sự mà Joseph Nye cho rằng, làm cho quyền lực tản ra khỏi chính quyền trung ương. Trong khi đó, mô hình thực nghiệm cộng sản đã sụp đổ, vết tích của nó tuy vậy vẫn tồn tại ở vài quốc gia mà Việt Nam là một trong số đó.

Mặc dầu đã chấp nhận kinh tế thị trường, nền chính trị Việt Nam vẫn được đảng cộng sản cầm quyền tuyên bố là một nền dân chủ tập trung, không chấp nhận các nhóm xã hội tự do, và do vậy sự tham gia vào chính trị của công dân vô cùng hạn chế. Hai tổ chức mang màu sắc xã hội là Quốc Hội, và Mặt Trận Tổ quốc thật sự vẫn nằm dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Nhưng công nghệ thông tin đang làm thay đổi nhiều khía cạnh của nền dân chủ tập trung ấy.

Cây ngay không sợ gió

000_Hkg4992973-250.jpg

Kêu gọi tuyên bố chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa qua internet hôm 10/6/2011. AFP photo

Hệ thống blogs và mạng xã hội đã tạo nên hai tiền đề cho sự tham gia chính trị của dân chúng. Thứ nhất là sự tiếp cận thông tin. Thứ hai là sự mất kiểm soát của bộ máy cai trị trên một không gian điện tử mênh mông không biên giới.

Vài năm trước, trang mạng Bauxite Việt Nam với mục đích phản biện dự án Bauxite ở Tây Nguyên của nhiều nhân sĩ trí thức được thành lập. Trang mạng này tồn tại tới ngày nay và là nơi xuất phát của nhiều hành động chính trị của công dân Việt Nam. Chính nơi đây là nơi khởi phát kiến nghị 72 yêu cầu xóa bỏ điều 4 qui định sự độc tôn chính trị của đảng cộng sản trong nền chính trị Việt Nam.

Trang nhật ký điện tử của giáo sự toán học Ngô Bảo Châu thì dấy lên những ý kiến chính trị của công dân trong mục Cùng viết Hiến pháp.

Sự tham gia chính trị của những công dân tiếp cận với công nghệ thông tin càng dấy lên mạnh mẽ hơn khi xuất hiện liên tục các kiến nghị đòi cải tổ chính trị, và gần đây nhất là kiến nghị 258 cùng sự phản đối kiến nghị này như đã đề cập ở phần đầu.

Ý thức tham gia chính trị đã rõ ràng nơi các công dân.

Công dân trẻ tuổi Nguyễn Nữ Phương Dung nói về kiến nghị 258, “Chuyện chúng tôi làm là bình thường để góp phần làm thay đổi xã hội Việt Nam.”

Ý thức về sự tham gia chính trị, làm nhiều công dân vượt qua nỗi sợ hãi trước kia áp đặt bởi nền chuyên chính. Một công dân trẻ tuổi khác là Thảo Chi, sau chuyến đi Bangkok trao kiến nghị 258 cho Ủy ban nhân quyền Liên hiệp quốc đã nói về hoạt động của mình sau chuyến đi, “Chúng tôi làm tất cả đều công khai, chúng tôi không có gì lo ngại, chúng tôi không làm trái pháp luật, có thể là sẽ bị phiền nhiễu đôi chút.”

Chúng tôi làm tất cả đều công khai, chúng tôi không có gì lo ngại, chúng tôi không làm trái pháp luật, có thể là sẽ bị phiền nhiễu đôi chút.
– Blogger Thảo Chi

Nếu sự tham gia chính trị đó là rất rõ ràng nơi các công dân tiếp xúc với công nghệ thông tin, thì nó vẫn còn e ngại, không rõ ràng nơi tầng lớp đông đảo của xã hội Việt Nam là những người nông dân.

Dưới chính sách đất đai sở hữu toàn dân, hàng ngàn nông dân bị mất đất đã và đang biểu tình khắp nơi để đòi lại của cải của mình. Đây chính là những hành động chính trị, dù người nông dân không ý thức rõ ràng về chuyện ấy. Có lẽ một trong những nguyên nhân của sự không ý thức rõ ràng ấy chính là sự không tiếp cận với công nghệ thông tin của tuyệt đại đa số nông dân Việt Nam, cùng với hệ thống kiểm soát của đảng cộng sản ở thôn quê vẫn hữu hiệu hơn, nơi cuộc sống kém năng động hơn, tĩnh tại hơn, dễ kiềm chế hơn. Một nông dân nói với chúng tôi về sự e ngại những vấn đề chính trị:

“Khi đưa những thông mình của mình lên thì nên giấu tên đi nhé vì nó mang tính chính trị. Mình muốn tham gia câu chuyện một cách dân dã thôi vì mình không hiểu chính trị, mình không được học luật. Nhưng mà đôi khi bức xúc lên (cười) thì cũng chiến luôn,  máu lắm (cười).”

Và thực sự là những người nông dân đã …chiến luôn… trong những xung đột xã hội vừa qua. Tiếng súng hoa cải Đoàn văn Vươn, tiếng súng lục Đặng Ngọc Viết, đều xảy ra ở môi trường nông thôn.

Để tạo nên một xã hội văn minh như đảng cộng sản vẫn hằng công bố, có phải chăng là nên dành chổ để đối thoại nhiều hơn ở nghị trường, hơn là những tiếng súng ở chiến trường như Tiên Lãng và Thái Bình? Phải chăng là cần sự tham gia chính trị nhiều hơn nữa của dân chúng?

“Thành đô! Rằng nhớ mãi nhớ nhé,”

“Thành đô! Rằng nhớ mãi nhớ nhé,”

Dù xa xôi sơn khê,

Thời gian quen chia lỵ

Chờ mong người đi trên đường về, đường về…

(Hoàng Thi Thơ – Nhớ Thánh Đô)

(Mc 10: 17-30)

“Nhớ mãi, nhớ nhé…” Đúng thế. Bần đạo đây, không chỉ nhớ nhiều về chốn “xa xôi sơn khê,” mà thôi, nhưng còn nhớ cả các sự kiện xảy đến với mọi người ở ngoài đời, hoặc dân con nhà Đạo mỗi lần hát những lời như thế. Bần đạo còn lạo xạo nhớ rất nhiều về con số 12, tên mình nữa.

Tên cúng cơm của bần đạo là “Mười Hai”, tức một “Tá”. Tá đây, có nghĩa là: người con thứ 12 sinh ra trong giòng họ Trần Ngọc, ở miền Bắc đất Hà Thành, chánh gốc. Vốn, họ Trần tên đệm (rất) Ngọc, lại là người sinh ra đời với ngôi thứ 12, nên bần đạo bầy tôi đây rất thích những gì mang số 12, lại không nhỏ. Tỉ như: 12 Tông đồ, 12 con giáp, 12 chi tộc nhà Israel, chu kỳ 12 năm tìm gặp lại các biến cố/sự kiện cứ trở lại sau 12 năm, vv… đều có số 12 cũng rất hên.

Hôm nay, bần đạo cũng đã hên nên mới tìm và gặp được bài “trần thuật” của vị linh mục họ Nguyễn tên tục là Văn Đông ớ xứ miền thừa-sai lai rai tâm sự 12 điều, tóm gọn bằng bài “san sẻ” bình-dị nhưng chất lượng như sau:

“Quý anh chị em chắc có biết, nói về tỉnh Kontum, phải nói tôi xin tự hào rằng: xứ tôi phụ-trách cái gì cũng nhất, lớn nhất, có người dân-tộc đông nhất, có nhiều đồng bào từ khắp mọi miền về nhiều nhất, có nhiều rừng núi nhất và… nghèo nhất.

Tôi làm linh mục đã hơn ba chục năm (năm nay là 2001). Tôi xin được giới thiệu trước anh chị em: như cha sở vừa có nói, tôi là người trẻ nhất trong số các cha tại Kontum. Năm nay tôi vừa tròn 61 tuổi. Tính đến bây giờ, địa phận tỉnh Kontum có được 4 cha mới, tổng số các cha trong toàn tỉnh là 30, chết hết 7 cha, có thêm 4 cha, mà hầu hết các cha đã rất giá, do vậy mà thưa anh chị em, vậy là chúng tôi thiếu linh mục trầm trọng…(nhà thờ lặng im)

Kontum là tỉnh có đến 180 ngàn người Công giáo, có 70% là người dân tộc, sống rải rác khắp nơi. Đi không từ giáo xứ này qua giáo xứ khác cũng mệt rồi. Huống chi bây giờ đi thăm người bịnh mà cả tỉnh chỉ có mỗi mình tôi. Các anh chị em, đồng bào sinh sống ở đây nghèo lắm, có thể nói là nghèo nhất nước. Tôi nhớ có lần tôi vào thăm một buôn làng, già làng nói: “Ơ, Bab ơii, Bab nói Bab nghèo haa, Khôngô, Bab mới nghèo, Bab khổ, chứ chúng tôi nghèo quá rồi, nghèo quen rồi, nghèo riết nên không thấy nghèo nữa, khổ quen rồi, cho nghèo luôn!!!” (Chú thích: Người dân tộc ở đây gọi các linh mục Công giáo là: Bab)

Có lần, anh chị em có biết là tôi lội bộ 12 cây số để vào thăm một buôn người dân tộc, họ có tục lệ là đối với người bị phong cùi, làng sẽ cất nhà riêng trong rừng cho ở, không cho ở chung. Mà đồng bào nghèo quá, khổ quá, nên cái nhà của họ đã không ra gì, giờ thì họ lại cất nhà cho người cùi ở, thật là không gọi là nhà, phải gọi là ổ mới đúng hơn, mà chỉ một mùa mưa là rách nát. Tôi, mỗi lần đến thăm họ, phải cúi sát đầu, lom khom mới vào “nhà” họ được. Thấy tôi đến, họ mừng lắm anh chị em à, họ cứ nhìn tôi họ cười, họ nói Bab đến thăm con là quý lắm, mừng lắm, họ cười mà tôi khóc anh chị em ơi! (cha Đông khóc, lúc này cả nhà thờ chánh tòa im lặng và khóc theo vị linh mục). Họ nghèo quá, lại cùi, nên tôi tặng họ vật gì của giáo dân góp cho tôi, là họ mừng lắm, cứ giữ khư khư ép vào ngực như sợ bị mất đi. (khóc)

Có một lần vào “nhà” một người cùi, họ nói với tôi: Bab ơi, Bab cho con xin một tấm, ờ miếng nylon đi, Bab có Bab cho con xin đi, một miếng thôi, để con che cái giường con nằm thôi, che chỗ con nằm thôi. Bab ơi, mấy hôm nay mưa quá, cả nhà con, chỗ nào cũng dột, lạnh quá, ướt quá con không ngủ được Bab ơi. (Khóc)

Khổ lắm anh chị em à, họ nghèo mà lại không có học hành gì, nên muốn giàu cũng không được, họ chỉ biết đếm 100 là hết. Các anh chị em có thể tưởng tượng nổi là họ cầm tờ 10 ngàn, họ mua chai nước mắm 3 ngàn 7 trăm, họ không biết nhận lại bao nhiêu, đưa bao nhiêu thì họ nhận bấy nhiêu, vậy đó. Đã nghèo, lại không được học, sống chỉ bám vào đất mà sống, nên giàu sao được. Cứ mỗi lần từ thị xã lên thăm họ, tôi cứ cố tìm chỗ nào có thức ăn rẻ nhất mà mua cho họ. Ví dụ như ở đây, tôi thấy một ký ruốc là 20 ngàn, nhưng ở Phan Thiết chỉ bảy ngàn thôi.

Tôi là người Bình Định, dân miền Trung cũng nghèo đói quá mà tha phương đến tận Kontum, nên tôi rành lắm. Ở Kontum, nhiều đồng bào mình nghèo quá khắp bốn phương về sinh sống. Bắc có, Trung có, Nam có, nhưng đều nghèo như nhau, lại tốt nữa, nên tôi đề nghị họ giúp gì, dù họ nghèo, họ cũng ráng giúp nhiều lắm. Tôi cứ lang thang khắp tỉnh, có cá vụn, cơm kô, muối hạt, tôi cứ xin chỗ nào người ta bán rẻ nhất là tìm đến xin mua cho họ. Có lần, có một số bạn nói với tôi, chúng con có ít tiền. Cha mua ít đồ tặng họ đi Cha. Tôi liền mua nhiều thứ rẻ, gói thành từng gói nhỏ. Như cá khô, thì tôi gói theo ký, cứ một ký là một gói. Tôi đem cho họ, họ mừng lắm. Khi đến một xã, khi tôi đã phát hết quà, còn lại trong giỏ mấy ký cá khô, lại gói trong gói giấy bóng vui mắt, nên trẻ con cứ theo tôi nhìn, ánh mắt của chúng ra vẻ thèm lắm, nhưng chúng không nói. Tôi hỏi, các con thích không, chúng gật đầu, tôi xuống xe ngay và phát hết mấy ký cá khô còn lại, đây, con một ký, con một ký. Chúng nhìn tôi chăm chăm, hai tay ôm bọc cá khô cứ hỏi tôi hoài:

-Bab ơi, Bab cho con thiệt hả Bab?

-Ừ, Bab cho con thiệt mà!

-Bab cho con à, Bab cho con thiệt hả Bab, Bab cho con thiệt hả Bab??

Thưa anh chị em, có đến những vùng này mới thấy hết cái khổ cùng cực của người dân nơi đây. Tôi cứ tự hỏi là: nếu mà tôi đem mấy ký cá khô này tặng các giáo xứ gần đây, chắc các bạn sẽ nói, ông Cha này bị khùng?! Thế đấy, thưa anh chị em. Tôi muốn nói rằng: chúng ta đối với những người nghèo, người bịnh, trong khả năng của chúng ta,không cần nhiều, mỗi người một ít thôi.

Thưa anh chị em, một ít thôi, một tấm nylon nhỏ, một ký cá khô, giúp cho họ bớt khổ, họ mừng lắm thưa anh chị em.

Thưa quý ông bà, anh chị em. Tôi mong rằng tất cả chúng ta sẽ sống đẹp hơn lên trong Mùa Chay năm nay, để xứng đáng với đức hy sinh quên mình của Thiên Chúa. Amen.” (x. Nhật Ký Nguyễn Ngọc Lan, 7.4.2001)

Đọc nhật ký người anh em đồng môn của bần đạo viết, bần đạo lại nhớ câu hát trích dẫn chưa hết nỗi niềm “vẫn nhớ và vẫn thương”, như sau:

“Tôi xa đô thành một đêm trăng mông mênh.

Tuy ra đi rồi mà vẫn nhớ vẫn thương

Hình bóng ấy người em thơ đang từng giờ đợi chờ.

Tiếng hát những chiều thành câu thơ thương yêụ

Bao nhiêu con đường nằm thức giấc giữa đêm khuya

Vì tiếng nói của con tim đi tìm mộng cuộc đời

Thành đô! Còn nhớ mãi nhớ mãi

Nhớ chiều mưa trên công viên,

Giờ chia ly sân ga

Và khi gặp nhau bên lề đường hẹn hò.”

(Hoàng Thi Thơ – bđd)

Là nghệ sĩ, người chỉ nhớ bấy nhiêu thôi ư? Là nhà Đạo, bần đạo là bầy tôi đây lại cũng nhớ khá nhiều điều, nhiều thứ: từ thành đô xa xôi, cho đến những người đã hơn một lần đi qua đời mình, dù phút chốc. Nhưng sao nỗi nhớ ở đây lại kéo dài: khiến ta nhớ hoài và nhớ mãi những người không chỉ là bạn bè/thân thuộc mà thôi, nhưng còn là “khúc ruột ngàn dặm” ở nơi nào, vào thời nào cũng đều có. Có, ở đó/ở đây, phương trời này. Không xa mấy. 

Nhớ nguời nghèo, là còn nhớ bài báo ở trời Tây có đề cập đến trường hợp các trẻ nghèo, như sau:

“Sau đây, là báo cáo của cơ quan World Family Map, lần này nói về tình trạng kinh-tế và xã hội của các gia đình. Nói, là nói thế này:

Nhiều gia đình trên thế giới, nay đang nghèo đến độ đặt con cái mình ở vào tình trạng nguy hiểm với những khó khăn về xã hội, cảm xúc, hạnh kiểm và sức khoẻ thể xác hơn những đứa trẻ thuộc các gia đình không đến nỗi tệ. Cũng từ đó, nay tê nạn nghèo đó lại được nối kết với các khó khăn này khác, như: giáo dục, nghề nghiệp, cơ cấu gia đình và lợi ích xã-hội. Các khiếm khuyết trong bất cứ địa hạt nào giống như thế đều ra như đang gặp phải nạn sa sút, thiếu hụt về thu nhập cũng như cảnh sống của gia đình.

Ngân hàng Thế giới vừa định ra lằn ranh tuyệt đối về tình trạng nghèo ở mức độ kiếm được $1.25 đô Mỹ một ngày; và tính như thế, cơ quan World Family Map  -tuy vẫn chưa có dữ liệu của tất cả mọi nước trên thế-giới- cũng vẫn nhận ra rằng: mức độ cao nhất về tình trạng nghèo đói ở Châu Phi có chỉ số đối với các nước phía Nam sa mạc Sahara thuộc hàng ngũ tính từ 17% cho đến 64% như ở Nigeria.

Với các khu vực khác, thì chỉ số có thay đổi một cách đáng kể, chẳng hạn như: ở Nam Mỹ chỉ số thay đổi từ 1% đến 15% (trong đó thấy có 3 nước nằm trong trạng huống này là: Bôlivia, Côlômbia và Nicaragua . Tại Châu Á, con số này thay đổi từ không như ở Malaysia cho đến 42% như Ấn Độ.

Tại các nước khá hơn, thì: tỷ lệ các gia đình được đánh giá là còn nghèo, xem ra có vẻ tương đối cho các gia đình nói chung. Thực tế, theo kinh nghiệm của các nhà phân tích về tình trạng nghèo đói tại các nước này, thì đúng ra phải nói đến tình trạng “trẻ em nghèo khó” thay vì gia đình khó nghèo, lý do một phần là vì: hầu hết các nước nghèo này được liên kết với các gia đình có đổ vỡ hoặc không đầy đặn. Theo Bản Tường Trình Innocenti của Quỹ Nhi Đồng Liên Hiệp Quốc UNICEF, gia đình nào được gọi là nghèo khi thu nhập của họ ở dưới phân nửa mức thu nhập bình quân trong nước. Cơ quan World Family Map nhận ra rằng có đến 6 cho đến 33% số trẻ em sống trong các gia đình được gọi là nghèo như thế.

Chỉ số trẻ em nghèo tại các nước Bắc Mỹ nằm trong khuôn khổ từ 13% đến 23%. Canada có mức độ thấp nhất về tình trạng nghèo đói tương đối, có mức độ là 13% số trẻ sống trong các gia đình có nguồn thu nhập nằm dưới mức thu nhập bình quân trong nước. Ngược lại, Hoa Kỳ và Mexicô có mức độ cao hơn về tình trạng trẻ em nghèo tương đối có mức độ 23% và 22%, tính như thế. Thật ra, Hoa Kỳ có chỉ số trẻ em tương đối nghèo cao nhất so với các nước có thu-nhập cao được chọn.

Châu Đại Dương, thì Úc có chỉ số trẻ em tương đối nghèo cỡ 11% và New Zealand là 12%. Với Châu Âu, số trẻ em tương đối nghèo trong khu vực có Hoà Lan là nước dẫn đầu với 6%, Thụy Điển, Ái Nhĩ Lan, Đức quốc và Pháp đều có chỉ số thấp hơn 10%. Anh quốc, Ý và Tây Ban Nha lại có tỷ lệ cao hơn một chút, ở mức độ từ 12% đến 17%.

Đến đây, ta cũng nên nhìn vào báo cáo của cơ quan World Family Map trong đoạn nói về cơ cấu gia đình, sẽ thấy rằng: hầu hết các trẻ em ngày nay ra như đang sống với một bên hoặc cả hai bậc cha mẹ ở Châu Mỹ, Châu Âu và Châu Đại Dương. Cũng theo cơ quan World Family Map thì khoảng 20% trẻ em tại các khu vực này đang sống chung với cha mẹ đơn chiếc chỉ một bên, thôi. Tại nước Anh và New Zealand thì con số này là 24%, Hoa Kỳ là 27%, tức con số đích thực có lẽ cũng cao hơn.

Nay nếu so sánh các chỉ số này với ngân sách do chính phủ tại các nước giàu có hơn (tức các nước thuộc tổ chức Kinh tế thế giới gọi tắt là OECD) từng tiêu pha cho lợi ích của các gia đình, thì chỉ thấy có độ 0.7%  đến 3.7% đối với Lợi tức Bình quân Quốc gia theo thống kê năm 2007, trong đó cơ quan World Family Map có nhấn mạnh:

Tại Bắc Mỹ, ngân sách tiêu pha cho lợi ích của các gia đình cũng chỉ xê xích vào khoảng 1%, trong đó thấy có: Mexicô là 1%, Canađa là 1.4%. Các nước Nam Mỹ, có Chilê còn thấp hơn, ở mức độ chỉ mỗi 0.8% thôi.

Các nước thuộc Châu Đại Dương lại đã bỏ nhiều tiền hơn cho lợi ích của gia đình hơn, trong đó có New Zealand đã bỏ ra 3.1% so với bình quân thu nhập toàn quốc và Úc có mức độ tiêu pha cho việc này là 2.8%….

Từ đó, ta có thể kết luận rằng: chỉ số các trẻ em nghèo được nối kết với các gia đình có cha hoặc mẹ đơn chiếc ở Anh và New Zealand, Pháp và Thụy Điển đã suy giảm là nhờ chính phủ ở các nước này đã gia tăng mức chi tiêu dành cho các trường hợp có vấn đề như thế. Hoa kỳ thì khác, ít có lòng đại độ về vấn đề này, thế nên mới có chỉ số trẻ em nghèo ở mức độ cao…” (xem Family Edge, Poverty, family structure and state spending, 01/3/2013)

Đọc báo cáo ở trên, có lẽ điều mà bạn và tôi nhớ đến nhiều nhất chắc không còn là câu hát trong bài “Nhớ Thành Đô” của Hoàng Thi Thơ, cho bằng nhớ Lời Thày Chí Ái khuyên nhủ người thanh niên giàu có nọ, hôm đó, từng đến hỏi Ngài làm sao để trở nên người hoàn thiện, như:

“Người thanh niên ấy nói:

“Tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ,

tôi còn thiếu điều gì nữa không?”

Đức Giê-su đáp:

“Nếu anh muốn nên hoàn thiện,

thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo,

anh sẽ được một kho tàng trên trời.

Rồi hãy đến theo tôi.”

Nghe lời đó, người thanh niên buồn rầu bỏ đi,

vì anh ta có nhiều của cải.”

(Mt 19: 21-22)

Rõ ràng là: muốn trở nên hoàn thiện như Lời Chúa dạy ở Tin Mừng, thì: phải bán hết của cải đi, mà theo Ngài. Nhưng, nếu không làm được thế, cũng nên nghĩ cách mà để lòng mình hướng về tình trạng của “trẻ em nghè” trên thế giới, là nạn nhân của những bất công trong xã hội, rất nhiều nhất.

Nói như thế, có lẽ cũng không quá đáng hoặc “nói trạng” lắm đâu. Nhưng, có nói hay không, cũng chỉ muốn chính mình và/hoặc bạn bè ngươi thân, ta nghĩ nhiều về tình cảnh nghèo/đói thực sự, chứ không chỉ nghèo và đói về tinh-thần, mà thôi.

Nghèo và đói thực sự, là: tình trạng nghèo, hèn, tật bệnh về thể xác cũng như tình trạng còn thấp kém về kiến thức, hiểu biết cũng như sinh hoạt đủ kiểu. Ngõ hầu tạo thành một thế giới ít cảnh bất công hoặc chênh lệch về kinh tế, nếp sống hoặc thực tại để ít xảy ra bất công hoặc chênh lệch cả trong lối sống thực tế giữa những người có khác biệt về sắc tộc, tôn giáo hoặc nghề nghiệp, kiến thức cũng như ý-thức-hệ, vv.

Còn nhớ, có lần thánh-sử Mátthêu có ghi lại Lời của Chúa vẫn khẳng định: “Nếu anh em không như trẻ bé mọn, sẽ chẳng vào Nước Trời được.” (Mt 18: 3). Có thể coi đây như một lời cảnh-tỉnh gửi đến các vị đang có nếp sống đề-huề, còn khá vững. Nói nôm na, là nói rằng: tình trạng sống như “trẻ bé mọn” là nếp sống của những kẻ sa cơ, lỡ vận. Những người không có quyền bính hay quyền lợi, dù rất ít. Trẻ bé mọn, còn là những người bị bỏ rơi, quên lãng hoặc bị đẩy lùi ra bờ rìa của xã hội toàn những tiêu-thụ và tiêu-thụ.

Thành ra, “Nhớ Thành Đô” ở đây, hôm nay, còn là nhớ đến các “trẻ bé mọn”. Nhớ, tức là: không còn khinh chê, miệt thị những người thua kém mình về nhiều mặt, nhiều thứ. Nhớ thành đô, còn là nhớ rằng: ở Nước Trời Hội thánh rất hôm nay, người tín hữu của Chúa sẽ còn phải đón tiếp và đón mừng những “Trẻ bé mọn” trong/ngoài cộng đoàn mà mình đang sống cùng, sống với nhau. Đón tiếp và đón mừng các trẻ bé mọn, nghèo hèn như thế phải giống như cung cách ta đón mừng Đức Chúa Hài Đồng, ngày Giáng Hạ.

Nhận chân ra được đòi hỏi rất gắt của Lời Chúa nơi Tin Mừng như thế, thiết tưởng bạn và tôi, ta cứ hiên ngang mà ngẩng đầu cao, mắt sáng hát những lời những lẽ trong bài “Nhớ Thành Đô”, với những câu:

“Thành đô! Rằng nhớ mãi nhớ nhé,

Dù xa xôi sơn khê,

Thời gian quen chia lỵ

Chờ mong người đi trên đường về, đường về…”

(Hoàng Thi Thơ – Nhớ Thánh Đô)

Hát thế rồi, ta lại sẽ bảo nhau cứ thế mà đi vào cuộc đời, rất ở ngoài, trong tư thế rất hiên ngang và quyết tâm nhớ mãi, hết mọi người, chí ít là các “trẻ bé mọn” ở Nước Trời, là nơi có những truyện kể rất dễ nể, như một kết đoạn của chuyện phiếm hôm nay:

“Truyện rằng,

Vừa xong bữa nhậu với bạn bè, anh chồng ngất ngư đi về nhà.
Để vợ không đoán được là mình uống rượu quá mức, anh ta quyết định đi thẳng vào phòng và ngồi mở Laptop xem thông tin như thường lệ. Vài phút sau, cô vợ vào và hỏi:
– Anh đang làm gì vậy?
– Đọc báo…
– Đồ điên! Đóng vali lại và ngủ ngay đi! Cái đó không phải là “laptop” đâu mà tin với chả thông!!!

Thế đấy, ở đời vẫn có những người tuy không là “đồ điên” như cô vợ nọ vẫn gọi chồng mình như thế. Nhưng, những người giống thế lại cứ như đang sống ở thế giới nào đó, có thông tin đủ mọi thứ/mọi điều, cả trong “vali” thế mới sợ. Sợ rằng, thông tin về “Trẻ bé mọn”, người lép vế và/hoặc cả đến những người sống ngoài rìa xã hội, chẳng muốn thông cũng chẳng tin, chỉ mỗi điều nhỏ, rất quyết tâm.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn tự nhủ

và cũng tự quyết,

rất như thế.

TÂN NHẠC VIỆT NAM dưới thời Xã Hội Chủ Nghĩa

TÂN NHẠC VIỆT NAM dưới thời Xã Hội Chủ Nghĩa

 

LÊ DINH

 

Về âm nhạc, từ 38 năm nay, thành thật và công bình mà nói, chúng ta có thấy sự tiến triển nào trong bộ môn này không, hay là một sự tụt lùi tệ hại từ năm 1975 đến nay, hay nói một cách khác, CSVN đã giết chết âm nhạc Việt Nam.

Nhìn lại ngày khởi đầu của nền âm nhạc Việt Nam, từ những ca khúc đầu tiên mà những bậc tiên liệt của nền âm nhạc để lại – được gọi là nhạc cải cách – như Một kiếp hoa (Nguyễn văn Tuyên & Nguyễn văn Cổn), Khúc yêu đương (Thẩm Oánh) Bình minh (Nguyễn Xuân Khoát), Bản đàn xuân (Lê Thương), Tâm hồn anh tìm em (Dương Thiệu Tước), Bóng ai qua thềm (Văn Chung), Cùng nhau đi Hồng Binh (Đinh Nhu), Thu trên đảo Kinh Châu (Lê Thương)…, chúng ta thấy, dù đã ra đời hơn 80 năm nay, còn phôi thai, nhưng âm nhạc VN thuở đó nghe rất có hồn nhạc, lời lẽ tuy không trau chuốt văn chương, nhưng không khó nghe và lai căn như bây giờ. Chẳng hạn như bài “Thu trên đảo Kinh Châu” của Lê Thương, một bài âm hưởng nhạc Nhật thời đó, tuy được sọan sau, nhưng cũng được coi như là một trong những ca khúc đầu tiên của gia tài âm nhạc Việt Nam.

Nhắc lại để chúng ta thấy rằng tuy là những ca khúc đầu tiên, khởi thủy của nền âm nhạc Việt Nam, nhưng dù đã 83 năm qua, vẫn còn nghe được, hơn nhạc bây giờ ở trong một nước có tên là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Chứng minh điều đó là gần một thế kỷ qua mà người ta còn nhớ ca khúc “Thu trên đảo Kinh Châu” của Lê Thương.

Tiếp theo thời kỳ âm nhạc phôi thai, hay âm nhạc cải cách, đó là giai đọan nhạc được gọi là nhạc tiền chiến mà tôi nghĩ rằng vài trăm năm sau đi nữa, vẫn còn được nhắc nhở tới. Những tác giả như Văn Cao, Đặng Thế Phong, Hoàng Giác, Dzoãn Mẫn, Hoàng Quý, Nguyễn văn Thương, Phan Huỳnh Điểu, Nguyễn văn Tý, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Lê Thương… đã để lại cho chúng ta một gia sản âm nhạc đồ sộ, chỉ trong vòng có 20 năm ngắn ngủi. Nhắc lại những bài như:

“Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng

Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc lối đào nguyên…”

Hoặc:

Suối mơ, bên rừng thu vắng

Giòng sông trôi lững lờ ngoài nắng…”

Hay:

Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thoát rơi

Trời lắng u buồn, mây hắt hiu ngừng trôi…”

Hoặc như:

“Biệt ly, nhớ nhung từ đây

Chiếc lá rơi theo heo may…”

Chúng ta nghe âm điệu sao mà du dương, uyển chuyển, tha thiết, thấm vào lòng người. Còn lởi ca sao mà lãng mạn, yêu đương, tình tứ ngọt ngào đến như thế.

Rồi bước qua giai đọan nhạc kháng chiến (nhạc cách mạng), một lọai nhạc hừng hực lửa của thời toàn dân đứng lên đánh đuổi thực dân. Những tác giả tiêu biểu cho lại nhạc hùng tráng như đánh thẳng vào lòng người này có Phạm Duy, Văn Cao,  Lưu Hữu Phước, Hoàng Quý, Lê Yên, Phạm Duy Nhượng, Phạm Đình Chương, Văn Giảng… Nhưng phải công nhận rằng Phạm Duy là người có tác phẩm âm nhạc cổ súy tinh thần tranh đấu bài thực nhiều nhất, hay nhất. Làm sao mà chúng ta quên được, dù 1000 năm sau, những âm điệu và lời ca như:

Ngày bao hùng binh tiến lên

Bờ cõi  vang lừng câu quyết chiến…”

Hoặc man mác căm hờn, như:

“Chiều qua, tôi đi qua vùng chiếm đóng

Không bóng trâu cày bên đồng

Vắng tiếng heo gà trên sân

Chiều qua, gánh nước cho Vệ Quốc Quân

Nghe tiếng o nghèo kể rằng:

Quân thù về đây đốt làng…”

Rồi 1954 ập đến, chia hai nền âm nhạc, một nửa phát triển mạnh mẻ ở xứ tự do, phóng khoáng và một nửa chôn vùi trong chốn ngục tù, sau bức màn tre. Một số đông nhạc sĩ sáng tác ở miền Bắc ngày trước đã tìm tự do nơi miền Nam – đất lành chim đậu – cùng chung với những nhạc sĩ sáng tác đã sống trước đây dưới chính thể Đệ nhất Cộng Hòa, kết hợp thành một lực lượng sáng tác mạnh nhất, vững chải nhất, nhân bản nhất và lãng mạn nhất. Thôi thì trăm hoa đua nở.

Ngay từ ngày đầu di cư, chúng ta có những Văn Phụng, Nguyễn Hiền, Y Vân, Nhật Bằng, Hoàng Trọng, Đoàn Chuẩn, Huyền Linh, Phạm Đình Chương, Ngọc Bích, Đan Thọ, Xuân Tiên, Xuân Lôi, Trọng Khương, Tuấn Khanh, Hoài Linh, Phó Quốc Thăng, Phó Quốc Lân, Canh Thân, Vũ Thành, Vũ Huyến, Hoài An, Thanh Bình, Lê Hoàng Long, Nhật Bằng…, cùng với những nhạc sĩ miền Nam nổi bật lúc đó, như Phạm Duy (đã có mặt ở Saigon từ 1951),  Lam Phương, Trúc Phương, Châu Kỳ, Nhật Ngân, Trần Trịnh, Anh Việt Thu, Châu Kỳ, Mạnh Phát, Hoàng Thi Thơ, Nguyễn văn Đông, Hoàng Nguyên, Anh Việt, Phạm Mạnh Cương, Lê Mộng Bảo, Huỳnh Anh, Trần Thiện Thanh, Duy Khánh, Khánh Băng, Minh Kỳ, Anh Bằng, Lê Dinh… và một số nhạc sĩ trẻ của thời đó như Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Trầm Tử Thiêng, Trường Sa, Trường Hải, Đỗ Lễ, Nguyễn Ánh 9, Thanh Sơn, Bảo Tố, Song Ngọc, Dzũng Chinh, Hàn Châu, Mặc Thế Nhân, Hoàng Trang, Đinh Trầm Ca, Giao Tiên, Thăng Long, Đài Phương Trang… hợp thành một đội ngũ sáng tác dưới chính thể tự do của hai nền Cộng Hòa ờ miền Nam từ năm 1954 cho đến năm 1975. ( Hình trên: Nhạc sĩ Văn Phụng )

Dù dưới hình thức nào, với bất cứ đề tài nào, nhạc sĩ của miền Nam tự do cũng viết nên những tác phẩm giá trị, nhất là những tình khúc và những bài ca ngợi người chiến sĩ VNCH, còn tồn tại, vang dội cho đến ngày nay.

Nhạc sĩ Nguyễn Hiền

Trong khi đó, miền Bắc với chính sách bịt miệng và láo khoét, cho nên nhạc sĩ miền Bắc viết toàn những bài ca tụng bác Hồ (của họ) gàn dỡ, vô duyên, không thể nào lọt vào tai thính giả được. Chỉ một mình nhạc sĩ Thuận Yến thôi mà cũng có đến 26 bài ca ngợi bác Hồ. Ngoài ra còn có những Đỗ Nhuận, Phạm Tuyên, Vân An, Trần Hoàn, Lưu Cầu,Trọng Loan, Phong Nhã, Huy Thục, Lê Lôi, Chu Minh v.v…viêt những bài nhạc tuyên truyền, đề cao CS một cách lố bịch. Cả Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Phan Huỳnh Điểu, Đỗ Nhuận… cũng bị lôi cuốn trong việc sáng tác lọai nhạc bưng bô này, như Văn Cao với “Ca ngợi Hồ Chủ tịch’, Lưu Hữu Phước với “Tình bác sáng đời ta”, Phan Huỳnh Điểu với “Nhớ ơn bác”, Đỗ Nhuận với “Bé yêu bác Hồ”… vì không viết để ca tụng, tung hô bác thì không có gạo mà ăn. Nội cái áo của bác và đôi dép của bác thôi mà cũng có đến 5 bài hát nói về áo và dép  này. Chỉ còn thiếu cái áo lót của bác thì chưa có nhạc mà thôi. (Dưới thời đệ Nhất Cộng Hòa – và luôn cả thời Đệ Nhị Cộng Hòa – miền Nam VN chỉ võn vẹn có một bài hát duy nhất ca tụng cá nhân vị nguyên thủ quốc gia mà thôi. Đó là bài Suy tôn Ngô Tổng Thống của Ngọc Bích và Thanh Nam. Đây không phải là chú trương của chính phủ đề ra để bắt buộc văn nghệ sĩ sáng tác ca tụng lãnh tụ, mà đó là ý nghĩ riêng của hai tác giả, vì muốn mang ơn người đã khó khăn lắm mới đem đến sự an cư lạc nghiệp cho gần một triệu đồng bào di cư miền Bắc, trong đó có hai tác giả. Đây chỉ là một hành động để nói lên lòng biết ơn thôi)

Từ 1975 là một sự tuột dốc thê thảm, nhìn thấy và nghe thấy, không cần phải đắn đo suy nghĩ khi nói về nền âm nhạc ở nước CHXHCN Việt Nam bây giờ. Không phải nhìn từ bên ngoài rồi chúng ta nói thánh nói tướng, muốn nói gì thì nói, hay nói để… chống Cộng, nhưng phải nói rằng sự thật là như vậy. Thử hỏi có ai nghe được hết một câu lời ca trong một bài nhạc nào đó không? Có ai hiểu ca sĩ hát gì, nói gì trong bài hát đó không? Còn nhạc thì nghe qua rồi – dù cho nghe 5 lần 7 lượt đi nữa – hỏi có ai nhớ âm điệu ra sao không, do-ré-mi-fa-sol-la-si thế nào không? Chúng tôi không nói quá lời đâu. Mở YouTube ra, bấm đại một bài nào đó ở VN ngày nay, quý vị sẽ thấy ngay lời nói của chúng tôi không mảy may quá đáng. Bấm đại bài của Cẩm Ly hát đi, thí dụ bài “Chồng xa”, chúng ta sẽ nghe lời lẻ, văn chương quá buồn cười, trong một bài hát, nghe sao giống như lời đối thọai trong một vở tuồng cải lương hạng bét:

“Dậy đi mua đồ nấu canh chua

Về cho ba mầy bữa cơm trưa…”

Về âm điệu, chúng tôi đố người Việt tự do ở hải ngoại nhớ một câu nhạc nào đó, trong một bài hát A, B, C nào đó ở VN bây giờ. Tại sao không nhớ được? Xin thưa vì đó không phải là âm điệu mà là những nốt nhạc khác nhau, bỏ chung vào một cái túi và rút ra 5, 6, 7 hoặc 8 nốt, rồi ráp lại cho thành một câu nhạc thôi. Trong khi đó, thử tình cờ lấy một bài nào đó của miền Nam, trước 1975, như:

”Xuyên lá cành trăng lên lều vải

Lòng đất ấm thương tình đôi mươi…”

Hay như:

“Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn…”

Hoặc:

“Thượng đế hỡi có thấu cho VN này,

Nhiều sóng gió trôi dạt lâu dài…”

Chúng ta nghe sao mà tha thiết quá, du dương quá và dễ nhớ, dễ thuộc, dễ thương quá, dù cho cả đời mình hay một trăm năm sau cũng khó quên được.

Và xin quý vị thử bấm vào tựa một bài hát nào đó của CHXHCNVN ngày nay xem. Thí dụ như bài: “Xin anh đừng” (đừng cái gì mới được chứ?) Và vô số bài nữa, như Giấc mơ không phải của anh – Anh sẽ không níu kéo – Anh ba Khía – Ông xã bà xã – Khi cô đơn em nhớ ai – Anh sai rồi – Quen một ngày cho vui – Em có thể làm bạn gái anh không – Đừng buông tay anh…, nếu kể thêm, chắc chắn quý độc giả sẽ bị nhức đầu. Tựa đề của một tác phẩm âm nhạc là như vậy đó sao? Chúng tôi nghĩ tác giả là những trẻ con, chưa biết nói tiếng Việt hoặc là người đã trưởng thành nhưng chưa biết viết tiếng Việt. Tựa đề của một bài hát cũng phải nghe cho được chứ? “Xin anh đừng” rồi thôi, hết.

Về lời ca, mời quý vị nghe ca khúc “Giá như chưa từng quen”. Mới nghe qua tên ca khúc, chúng ta liên tưởng ngay đến một bài hát khác của miền Nam trước 1975, bài “Nếu ta đừng quen nhau”. Cùng một ý, một nội dung, nhưng người nhạc sĩ miền Nam viết tựa là: “Nếu ta đừng quen nhau”. Bây giờ, chúng ta hãy xem qua lời ca: Bài “Giá như chưa từng quen”:

“Giá như chưa từng quen, chưa quan tâm nhiều về nhau

Người yêu ơi, anh không thể nhớ mỗi lần cách xa…”

Còn bài “Nếu ta đừng quen nhau” có lời ca:

“Nếu ta đừng quen nhau, thì đời chưa vướng u sầu

Ngày xanh chưa nhuốm thương đau, màu hoa chưa úa phai màu…”

Chúng tôi để quý vị kết luận. Chúng tôi chỉ thấy “tội nghiệp” cho tác giả bài “Giá như chưa từng quen” mà thôi.

Nếu quý vị muốn nghe thêm nữa, thì đây:

“Vì ngày hôm qua anh đã thấy em ôm hôn một người…

Như muốn cào xé nát tan trái tim anh…”

Đây là lời ca của bài “Đừng làm anh đau” và xin nói thêm , chỉ có việc “anh đau” này thôi mà có tới ba bài nhạc khác nhau, của 3 tác giả khác nhau: “Đừng làm anh đau”, “Em khóc làm anh đau” và “Mưa làm anh đau”. Đó, âm nhạc XHCNVN là như thế đó.

Về phần ca sĩ trình bày, mà người bên đó gọi là “thể hiện”, phải nói một cách công bằng, vì là nơi đông dân số, gần 90 triệu người, thì làm sao không có ca sĩ hát hay. Nhưng tiếc thay, có một số đông chỉ biết la, biết hét, hét toáng lên, khiến người nghe không biết họ hát cái gì. Và còn nữa, họ hay uốn éo ở chữ cuối câu (fioritures), có người còn ẹo ở giữa câu, nghe rất khó chịu. Việc điểm fioritures này – tức là láy – người viết nhạc chỉ dùng khi nào thật cần thiết thôi. Nếu tác giả không có để thêm nốt fioritures thì ca sĩ đừng có tự động láy, tự động uốn éo, tự động ỏng ẹo cho nó lả lướt, như vậy là lả lướt không đúng chỗ, nghe không thể nào chịu được. Người mình có tài hay bắt chước và bắt chước giỏi. Cái uốn éo này xuất xứ từ nhạc Âu Mỹ, nhưng mà với lời ca tiếng ngọai quốc, và cũng tùy thuộc chữ nào, ý nghĩa ra sao, thì nghe được, chứ cứ uốn éo tự do, uốn éo lung tung, bất kể quân thần thì không hợp với lời Việt chút nào.

Một phần việc ca sĩ VN trong nước bây giờ hát khó nghe, lý do cũng tại cách viết lời ca của đa số những nhạc sĩ “lớp ba trường làng”, “trẻ tuổi tài cao” của thời XHCN này: chỗ nốt cao thỉ để chữ dấu huyền hay dấu hỏi, còn chỗ nốt thấp thì để chữ dấu sắc, hay dấu ngã. Viết lời ca như thế thì chỉ có giết ca sĩ mà thôi, bởi ca sĩ không thể nào truyền đạt cho thính giả hiểu được mình hát cái gì. Hát mà người nghe không hiểu gì thì hát làm chi?

38 năm, một thời gian đủ để những “đỉnh cao trí tuệ” giết chết tất cả, từ chữ nghĩa văn chương cho đến âm nhạc. Riêng về âm nhạc, họ đã vùi dập bao nhiêu công lao của những người đi trước, trải qua bao thế hệ, từ thời kỳ âm nhạc cải cách, đến nhạc mới hay tân nhạc, rồi nhạc vàng (chữ của họ gọi để ám chỉ nhạc miền Nam từ 1954 đến 1975 mà họ đã cố tiêu diệt nhưng không được) và nay là nhạc của thời XHCN, của thời:

“Dậy đi mua đồ nấu canh chua

Về cho ba mầy bữa cơm trưa”.

LÊ DINH

Bryan Do gởi

“Người ta xa lánh cả tôi rồi,”

Suy niệm Lời Ngài đọc trong tuần thứ 25 Thường niên năm C 24.9..2013

“Người ta xa lánh cả tôi rồi,”

“Trở gối, nghe hồn động biển khơi.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Lc 16: 1-13

Nhà thơ, nay thấy như mọi người cứ xa lánh mình mãi. Nhà Đạo, xưa tìm đến với mọi người để nghe và thấy “hồn động biển khơi”. Trình thuật thánh Luca, cũng mang nhiều ý/lời về những người tìm đến Chúa để nghe Ngài giảng. Trình thuật, kể về ngôn-ngữ sử-dụng trong Đạo, tiếng Hy Lạp có cụm từ “parrhesia” bên tiếng Anh nghĩa là: phát-ngôn thẳng thừng về nhiều việc và nhiều sự.

Parrhesia lúc đầu mang nghĩa tiêu cực để chỉ người nói nhiều không ngừng nghỉ. Theo nghĩa này, Parrhesia không xứng với người nói chuyện đứng đắn. Tính tích-cực ở Parrhesia là: phẩm-chất của ngưuời nói năng thẳng-thắn, không úp mở, cũng chẳng thêu thùa/thêm thắt, chỉ diễn-tả thông-điệp của người nói muốn đưa ra, không che đậy. Xem thế, thì đây là sự-việc đáng ta ca ngợi.

Parrhesia thực sự liên quan việc người nói có dính-dự, dám chấp nhận phản-ứng bất lợi từ người nghe. Người nói kiểu này, đã mê say cảm xúc nhắm vào sự thật, không cần biết điều mình nói có tốt lành hay không. Nói thế, là quyết thuyết phục cả những người kình-chống lại mình nữa. Nói năng kiểu huỵch toẹt ra ngoài, là nói với đám đông thường không nghĩ khác với điều mình muốn nói, hoặc chẳng nghĩ gì. Nói như thế, là giáp mặt/đối đầu và nghĩ rằng sự thật thắng thế, rất chắc chắn.

Nói theo kiểu thẳng thắn, là quyết phấn đấu trong lời mình nói ra. Là, đầu tư vào những gì mang tính đích thực, tức: thể loại này nói với nhiều người không theo sự thực; tức: nói theo kiểu ai oán là cốt tạo năng-lượng để nói cho tốt, cho nhiều và hữu hiệu hơn. Kiểu này, có thị-kiến ngoài tầm-mức địa-phương/cục-bộ hoặc riêng tư, mang tính hoàn-vũ ở trong đó. Đây là cách nói mãnh liệt, quyết chuyển tải tính chân phương, thật-thà mà có người, khi xưa, gọi là lối nói hiệu năng như có bia/rượu, ngấm trong người.         

Khi người nghe bị ảnh hưởng từ người nói hăng say/thẳng-thắn, thì họ chịu lắng tai nghe và chịu để cho người nói thuyết phục mình và lôi cuốn đi xa hơn điều mình tưởng tượng. Parrhesia tạo niềm tin nơi người nghe. Và, niềm tin đến từ sự việc nghe/biết lời ấy. Đây là trạng-thái gắn kết giữa người nói cũng như văn bản được nói ra và người nghe.

Người nói kiểu “parrhesia” hứng khởi với thông-điệp mình chuyển-tải đến độ không ‘thần-linh’ nào có thể dừng trên người nói. Quả là, có lúc Kitô-hữu sử dụng lối nói thẳng-thừng này, hứng thú đến độ họ dám chối bỏ sự hiện hữu hoặc tính hiệu năng của các ‘thần-linh’ như thế. Họ cười nhạo vào phụng vụ ngoài đạo và có khi vào cả nghi thức của Kitô-giáo nữa. Đôi lúc họ có vẻ tự cao tự đại, nữa.

Điều này là do lối nói thẳng nối kết họ với Thiên Chúa đích-thực, Đấng mở rộng lòng ra và thương xót không hạn chế, mà thánh Luca chuyển cho ta trong Tin Mừng và sách Công Vụ. Các vị thuyết-giảng lại nói thẳng theo kiểu perrhesia đã trở nên trong sáng với Chúa đích-thực và mở lòng ra với Đấng Cao Cả được nâng cao vượt quá chân trời tưởng tượng.

Nói thẳng thừng kiểu parrhesia còn đối chọi lại lối hùng biện, xã giao gột tỉa lối nói không rào đón khác hẳn ý nghĩa mà cụm từ Hy Lạp gọi là ‘eulabeia’, tức: lối hùng biện diễn-tả theo cách ‘hoa hoè hoa sói’, khó kềm chế.

Thế nên, không lạ gì khi ta tưởng tượng cảnh những người nói thẳng/nói thật kiểu parrhesia lúc đầu đã quảng bá Tin Mừng Chúa-Sống-lại đến tận thành đô của Đế Quốc. Nhưng, khi đã hoàn tất, người người ít cần lối nói thẳng thừng kiểu parrhesia, vì rất cứng. Đời sống thường con người đòi họ phải có lối nói thường tình như dân gian mọi người thường nói. Vậy, với thế hệ người nghe là con cháu về sau, hỏi rằng lối nói thẳng thừng như parrhesia có làm mất đi tính riêng tư của nó chứ?

Vương Quốc Nước Trời của Chúa là chế độ quà tặng mở rộng gồm các giá trị tự tại, trong đó con người quan trọng hơn sự vật. Và nhất là, tình thương-yêu còn quí hơn thành-đạt. Nhưng đây có nghĩa là tình thương-yêu thông minh/trí-tuệ và tình thương có suy-tư được ban phát, tức có nghĩa trong bối cảnh của nó.

Sự việc ta hiện diện ở Tiệc Thánh, nay tự nó có nghĩa: ta tin vào các giá-trị đang hiện diện quanh ta và ta muốn sống đích thực giá trị ấy và lối nói thẳng dẫn ta về sống xứng đáng con Chúa hơn. Sự việc ta ra đi hoạt động vào những ngày sắp tới trong tuần đang trờ tới, có nghĩa: ta là người thực tế/thực dụng sống thông minh/bén nhạy theo cách ta được dạy để sống cùng và sống với nhau. Nói thế, là: ta sống đứng đắn, dù không là thế hệ đầu nghe biết Tin Mừng, nhưng vẫn muốn thành người lý-tưởng và thực tế, cùng một lúc.

Dụ-ngôn ta nghe hôm nay, là thánh Luca muốn dùng để nói theo kiểu parrhesia, vào thời của thánh-nhân nhưng sắc thái có phần nhẹ nhàng hơn. Điều đó có nghĩa: phải biết khôn khéo, bén nhạy, ‘cẩn trọng’ và có khả năng tạo tầm kích cách biệt giữa lý-tưởng và thực tế; kỹ-năng giúp ta đọc được mức độ hiểu biết của người nghe ngõ hầu ứng-đáp với kiểu nói parrhesia, của thời trước. Đây là cách lối rất khôn khéo biết tạo tầm-kích về khả năng có được phẩm chất cuộc sống trong một nhóm.

Dụ-ngôn, nay thánh Luca sử dụng như để làm bớt đi tính căng thẳng nơi sắc thái nói năng của các nhà giảng thuyết, thời của ngài. Bằng không, ta sẽ nhận được một bó phẩm bình theo kiểu của Billy Grahams cứ hùng hồn biện-luận với nhóm giáo phái tách riêng, ngay vào lễ sáng.

Nối kết những đường lối nói năng này với tình cảnh của Giáo hội ngày nay, ta thấy được gì? Vài thập niên nữa, Giáo hội mình sẽ đi về đâu? Phải chăng sẽ có thời buổi trong đó sẽ có đổi thay trên thế giới? Và trong cả Giáo hội mình? Cũng có thể, sẽ có thời kỳ bất ổn về cơ cấu sẽ xảy đến với thế giới và Giáo hội!

Giáo hội theo ta hy vọng sẽ không rơi lại vào thời cũ xưa ở đó có nhiều thành-tựu. Hy vọng rằng: ta cũng sẽ vượt qua giai đoạn có những cãi tranh, giành giựt uy thế với ai đó. Cả đến xã hội phóng khoáng hay phóng túng, thời hiện đại, cũng sẽ tìm cách sống mà không cần biểu tỏ bằng mặt ngoài là đã qui chiếu vào với Giáo hội. Lâu nay, thế giới ngoại tại vẫn có khuynh hướng hoặc thái-đô chống đối Giáo hội. Tất cả những lối/những kiểu thẳng-thắn/thẳng thừng ấy sẽ đi vào dĩ vãng.

Bởi Giáo hội không là cơ cấu chống đối xã hội; Giáo hội cũng không ở bên trên lịch sử của người đời, cũng không vô nhiễm khỏi giòng lịch sử của thế-giới. Giáo hội vẫn cùng sống chung cởi mở và đối thoại với thế giới. Giáo hội chỉ sống sót nếu biết đối thoại với thế giới. Bởi Giáo hội ban bố cho thế giới cung cách diễn tả cách công khai về mọi xác tín của Giáo hội. Giáo hội cũng công khai cho thấy cuộc sống người đi Đạo theo cách tập thể, dễ thấy sự trong sáng, cách công khai.

Cần nói ra đôi điều về đạo đức chức năng của hai khối, cần nói về ý-nghĩa và giao ước về xác tín với cộng đồng, về niềm tin-yêu, rất đoàn kết. Cần nói thẳng và nói thật về kinh nghiệm riêng tư bên trong lịch sử của tập thể. Tất cả đều nên đề nghị không gian ban tặng để tạo giao ước sống cùng và sống với nhau, trong thuận hoà.

Vấn đề là: làm sao nói lên được điều đó? Nói thẳng và nói thật theo kiểu parrhesia được bao nhiêu và bao lâu? Nói công khai khôn khéo ư? Mỗi thứ mỗi kiểu được bao lâu và bao nhiêu ngõ hầu đạt thuận hoà, đoàn kết và vui sống, đó mới là mục tiêu đặt ra trước mắt cho cả xã hội ngoài đời và Giáo hội trong Đạo. Đó mới là vấn đề đặt ra cho ta hôm nay.

Trong tinh thần hiểu và biết được như thế, cũng nên ngâm lại lời thơ ở trên, mà hát rằng:

“Người ta xa lánh cả tôi rồi,

“Trở gối, nghe hồn động biển khơi.”

Xa bạn, xa lòng, xa mắt đẹp,

Gió mưa giòng tóc đắng vành môi”

(Đinh Hùng – Chớp Bể Mưa Nguồn)

Mưa nguồn chớp bể với nhà thơ, vẫn là giòng tóc, là “hồn động” xa lánh mãi. Xa lánh rồi, nhà thơ cũng nên về với nhà Đạo mình để thấy được rằng: người ta nay đã gần lại với bạn và với tôi, với tất cả những người không còn thấy đắng nơi vành môi nữa, nhưng đã ấm lòng về với dân gian nhà Đạo, rất thuận tình thuận thảo. Ở mọi nơi.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh

Mai Tá luợc dịch

Chuyện Phiếm Đạo Đời đọc trong tuần thứ 25 thường niên năm C 22-9-2013

“Hãy nhìn vào đôi mắt em đây,”


Hãy nhìn vào tận trái tim này
Hãy nhìn vào đôi mắt thơ ngây
Anh sẽ hiểu được trái tim em.”

(Hạ Vy – Con Gái)

(Mt 5: 43-45 )

Câu hát trên, là tiểu khúc của bài hát “Con gái nói có là Không, Con gái nói không là có”. Bài hát này, thuộc loại ca khúc vui vui, cũng rất ngắn. Ngắn, không chỉ ở chiều dài của trường canh/câu nhạc hoặc âm thanh. Mà ngắn, vì chỉ nói mỗi thế chứ đâu dám nói nhiều. Bởi, nói về đàn bà/con gái vẫn có điều để nói nhiều hơn nữa.

Thế đó, là nhận định về nữ-giới còn trẻ ở đời, rất tình đời. Trẻ, thì mới hát thế chứ ai dám nói và hát điều này với các cụ, chí ít là các lão bà, ở nhà Đạo! Nữ giới nhà Đạo nói không nhiều, chỉ âm thầm nguyện cầu chứ không nói. Nhưng, mỗi lần các bà/các cô xuất-khẩu-thành-thơ, là có chuyện. Những chuyện có vấn đề hẳn hòi chứ chẳng chơi. Đây, không là tuyên ngôn hay tuyên bố gì của ai hết; mà là và chỉ là bí mật được bật mí giữa chốn bạn bè cà phê/cà pháo cũng rất “phê” khi nghe ca sĩ nhà hát bài “Con Gái” của người viết nhạc là Hạ Vy.

Nói gần nói xa, chỉ là dẫn nhập mỗi điều này, là: ngày nay, bà con ta bật mí với nhau nhiều bí mật, về đủ chuyện. Từ, chuyện vai trò người nữ phụ, xem ra có hơi sai về cung cách. Sai, cả đại ý với hình thức. Không tin ư? Mời bạn và mời tôi, ta để thêm ít phút tạt qua vườn hoa thông tin/truyện kể rất đáng nể, để rồi sẽ thấy những điều thiên hạ cứ bật mí các bí mật.

Trước nhất, để cho dễ thở, ta thử nghe đọc vài truyện…rất kể lể như sau:

“Truyện rằng,

Có lần nọ, một người nông dân bị mất chiếc đồng hồ trong kho thóc. Đó không là đồng hồ thông thường bởi nó có giá trị về mặt tình cảm đối với ông.

Sau một thời gian dài tìm kiếm rất vô vọng, người nông dân phải nhờ sự trợ giúp của mấy đứa trẻ đang chơi bên ngoài. Ông hứa, nếu ai tìm được chiếc đồng hồ của ông bị mất, sẽ có thưởng.

Nghe vậy, đám trẻ nhanh chân chạy quanh kho thóc tìm kiếm chiếc đồng hồ. Chúng đi khắp nơi, lục tìm mọi chỗ, từ nơi chứa thóc đến tận chỗ cho gia súc ăn, vẫn không thấy. Chỉ đến khi ông đề nghị bọn trẻ ngưng tìm kiếm, thì có bé trai chạy tới và yêu cầu ông cho nó một cơ hội nữa.

Người nông dân nhìn đứa bé rồi ngẫm nghĩ: “Tại sao lại không chứ? Cuối cùng thì, công nhận: cậu bé này khá chân thành!” Ông dẫn cậu bé trở lại kho. Một lúc sau, cậu chạy ra và trên tay là chiếc đồng hồ của ông. Người nông dân rất đỗi ngạc nhiên, ông hỏi cậu bé: “Làm cách nào mà cháu có được nó, sau khi tất cả các bạn đã từ bỏ?”.

Cậu bé đáp: “Cháu không làm gì cả và chỉ ngồi im một chỗ để lắng nghe. Trong im lặng, cháu thấy tiếng kim đồng hồ chạy và theo đó cháu tìm ra nó”.

Kể xong câu chuyện, nguời kể lại đã nghĩ:  Sự tĩnh lặng trong tâm hồn sẽ tốt hơn với trí não luôn hoạt động. Hãy để tâm trí bạn có nhiều phút nghỉ ngơi, thư giãn mỗi ngày. Hãy xem, hiệu quả nó đem lại để giúp bạn xây dựng cuộc sống mình mong đợi.” (trích dẫn truyện kể trên mạng, nhưng không rõ tên tuổi người kể.)

Thôi thì, kể gì thì kể, nói gì cũng chỉ đến thế. Nói hay kể, cũng chỉ như ý/lời mà người nghệ sĩ, lại cứ vời người nghe nhạc hãy lắng tai nghe câu hát, rất như sau:

“Con gái nói có là không,

Con gái nói không là có
Con gái nói 1 là 2,

Con gái nói 2 là 1
Con gái nói ghét là thương,

Con gái nói thương là ghét
Con gái nói giận là giận yêu,

Con gái còn yêu là còn giận
Đừng nghe những gì con gái nói!

Đừng nghe những gì con gái nói
(Hạ Vy – bđd)

Không hẳn thế đâu. Có thể, người viết nhạc có hát thế, cũng để người nghe cứ chú tâm vào những chuyện “kỳ khú” cho vui cửa vui nhà, mà thôi. Bởi, câu nói của người viết nhạc cũng chỉ muốn lặp đi lặp lại những lời này:

Con gái nói nhớ là quên,

Con gái nói quên là nhớ
Con gái nói buồn là vui,

Con gái nói vui là buồn
Con gái nói không biết ghen, là ghen như điên đấy nhé
Con gái nói không biết yêu, là yêu tới quên đường về
Đừng nghe những gì con gái nói

Đừng nghe những gì con gái nói.”

(Hạ Vy – bđd)

Đúng như tác giả viết: “Con gái có lúc hiền như nai”, nhưng lắm khi “như bà chằng”. Chứ đâu có ngạc nhiên vì: trời còn có lúc nắng lúc mưa, nữa là! Tóm lại, nếu chỉ nghe qua đôi lời ở bài hát, chắc có vị lại sẽ cho rằng: tác giả/tác “thiệt” đôi lúc cũng hơi “nặng lời” hoặc kỳ thị gái/trai. Kỳ thực, nói về con gái hay nữ phụ sao đó, cũng chỉ nên nói như người kể truyện khác, vẫn cứ kể và cứ nói những truyện như bên dưới:

Nhiều năm về trước, có một cậu bé mồ côi tên Jim, 12 tuổi, gầy gò. Jim sống lang thang, là đầu mối của mọi trò cười và trêu chọc của mọi người sống trong thị trấn. Không ai đối xử tử tế với Jim. Những nghi ngờ của mọi vụ ăn cắp hay rắc rối đều có tên Jim đầu tiên. Cậu chỉ nhận được những lời nói cay độc, nghi ngờ. Kết quả là Jim luôn lẩn tránh những người xung quanh. Cậu càng lẫn tránh, người ta càng nghi ngờ cậu.

Tài sản duy nhất của Jim là chú chó Tige, cũng luôn khép nép và lẫn tránh mọi người như chủ nó. Jim không đối xử thô lỗ với Tige nhưng cậu cũng luôn dùng thứ ngôn ngữ cay độc mà mọi người dùng với cậu. Phần vì cậu đã quen với những ngôn ngữ đó, phần vì để trút đi mọi nỗi uất ức.


Một hôm, Jim thấy cô gái phía trước làm rơi một gói nhỏ. Cô cúi xuống nhặt thì một gói khác lại rơi khỏi tay. Jim chạy đến, nhặt hai cái gói lên đưa trả cô gái.

– Cảm ơn cậu bé, cậu thật tốt

Cô gái cười và xoa đầu Jim.  Jim hoàn toàn sốc. Đó là những lời nói tử tế đầu tiên cậu nghe thấy trong suốt 12 năm. Jim nhìn theo cô gái cho đến khi cô đi khuất.
… Jim huýt sáo gọi Tige, con chó ve vẩy đuôi chạy tới bên. Cả chủ và chó đi vào rừng… Jim ngồi xuống cạnh bờ suối và trong đầu cứ vang lên: “Cảm ơn cậu bé, cậu thật tốt!” Jim cười một mình. Rồi cậu gọi: “

-Đến đây Tige!”

Tige chạy lại ngay, Jim xoa đầu nó và nói:

-Cảm ơn mày! Mày thật là tốt!”


Tige rất phấn kích và ngạc nhiên. Tai nó vểnh lên, mắt hướng về phía Jim chăm chú, đuôi vẫy lia lịa. “Đến con chó cũng thích nghe lời nói dịu dàng!” – Jim nghĩ và lôi trong túi ra một mảnh gương vỡ. Cậu bé thấy một khuôn mặt lấm lem. Jim rửa mặt thật cẩn thận. Sau đó, Jim lại nhìn vào gương. Cậu bé ngạc nhiên. Lần đầu tiên, cậu nhìn lên cao thay vì chỉ cúi mặt như mọi khi. Một cảm giác, cũng là lần đầu tiên cậu cảm thấy: cảm giác tự trọng.

Từ khoảng khắc đó, cuộc đời Jim hoàn toàn thay đổi bởi quyết tâm để xứng đáng với những lời nói dịu dàng.

Ngưng một lát, nhà tỷ phú tiếp tục nói: “Thưa các bạn, tôi chính là cậu bé đó. Thị trấn nhỏ mà tôi vừa kể đến chính là thành phố này 40 năm về trước. Cái cây ở đằng kia mà quý vị có thể thấy chính là nơi một người phụ nữ đã gieo hạt giống đầu tiên của lòng nhân hậu xuống cuộc đời tôi. Mong sao ai cũng có thể làm được như thế” (Lại một truyện kể lôi từ mạng lưới toàn cầu, rất không tên)

Lan man với truyện kể, hôm nay bần đạo chỉ muốn bảo rằng: thật ra cũng chẳng nên lưu tâm nhiều về người kể truyện rồi hỏi tại sao lại cứ kể những chuyện vẩn vơ, lơ tơ mơ như thế? Mà, chỉ cần xem bạn và tôi, ta có thích loại hình kể lể như thế không, thôi. Hỏi thế rồi, ta đi vào chi tiết bàn bạc xoay quanh truyện kể về lời con gái hoặc con người từng nói. Nói cho dữ, hoặc chỉ chút thôi, cũng là nói những điều người khác hát và nói. Mà, chỉ cần hỏi xem người nghe hát hoặc nghe kể, có tin hay không mà thôi.

Ở nhà Đạo, có nhiều trường hợp tương tự như thế. Tương tự, khi người nhà Đạo nghe nhiều về dụ ngôn/Lời Chúa nói, nhưng có khi vẫn bán tín bán nghi, chẳng hề tin. Tin làm sao, khi Chúa vẫn nói và vẫn kể nhiều truyện dụ-ngôn rất có lý, mà sao người nghe ở người nhà Đạo vẫn như chẳng bao giờ nghe và thực hiện như người rất tin và hay tin.

Có những sự và việc ở nhà Đạo nghe cứ như “lạo xạo”, tưởng chừng như đó chỉ là truyện kể không hơn không kém, nhưng lại là chuyện rất dễ nể, để ta suy nghĩ cho lung, hầu suy xong sẽ đi đến quyết định chứng tỏ mình tin rất vững và cũng xác thực.

Có nhiều lần, đấng bậc trong Đạo vẫn cứ nói và viết rất nhiều về chuyện rất thực trong tin tưởng. Như, người kể khác có tên là Michael McVeigh trênb tờ the Australian Catholics số mùa Đông 2013 ở Úc, như sau:

“Thế giới hôm nay giống như thể tiệm “chạp phô” đầy những tiếng ồn và ánh sáng; có cả những con người chỉ muốn lôi ta ra khỏi chốn miền lặng thinh bằng cách này hay cách khác chỉ để mọi người chú tâm lắng nghe biết thông điệp họ nhắn gửi ở bên trên và bên ngoài, hết mọi sự. Chạp phô này, là nơi là chốn ta dựng xây nên con người là chính ta. Là, tất cả những gì nói lên con người mình qua cung cách ăn mặc, chọn lựa kiểu tóc, bông tai hoặc hình-hài bên ngoài cho hấp dẫn. Có khi còn chọn đội ngũ thể thao, phe phái chính-trị theo ý mình nữa.

Đạo giáo vẫn còn là thành phần trong tiệm “chạp phô” như thế, mặc dù đôi lúc ta vẫn có cảm giác như thể nói đưa đẩy ta ra khỏi lằn ranh chính yếu, quan trọng. Hơn lúc nào hết, con người ngày nay hay tìm đến bản đồ đường đất hướng dẫn ta ngang qua mọi chọn lựa mà thế giới này gửi đến cho ta, và đó còn là nơi chốn khiến đạo giáo có thể đưa ra lời đề nghị về những thứ và những sự có giá trị bền vững. Loại hướng dẫn mà đạo giáo đưa ra cho chúng ta cũng như câu nói của cố linh mục tổng quyền Dòng Tên là Pedro Arrupe từng dặn dò người thân, rằng: “Hãy phải lòng nhau và tiếp tục yêu nhau rồi thì việc ấy cũng sẽ quyết định mọi sự.” …

Nói cho cùng, là tín-hữu Đức Kitô ta đều biết nguồn yêu thương là chính Chúa. Bất cứ con tim nào biết yêu đương cũng đều biết đôi chút về Chúa. Đạo giáo có thể bị thúc và đẩy ra khỏi các con lộ chính của xã hội qua vì các ngân-hàng, nhiều siêu-thị hoặc quán ăn nơi uống, nhưng khi chúng dân tiếp tục kiếm tìm tình yêu cho riêng họ, thì họ cũng sẽ tiếp tục được lôi kéo đến với Chúa, mà thôi.” (Michael McVeigh, Faith in the public square, Australian Catholics, số Winter 2013, tr. 6)

Nói về niềm tin qua yêu thương mà nói như thế, cũng có thể gọi được là “trên mức tuyệt vời”. Chỉ ngắn gọn một vài câu thôi, cũng đầy ý nghĩa, một nhận định. Nhận định, là nhận ra được sự thể ở đời rồi quyết định đường lối cho riêng mình, để sống cho phải phép, rất lẽ đạo. Nhận định, còn là hỏi xem niềm tin của ta “hung hăng xâm lấn” đến thế nào để có thể đi vào lề đường bên phải, của lòng đời? Hỏi và nhận định, còn xem người đi Đạo là ta đã đi vào với xã hội để đem Tin Vui về Tình Thương-yêu của Chúa đến với mọi người, như thế nào?

Hỏi và nhận định ở đây, không có nghĩa “tức, đã trả lời phần nào rồi”, mà là: cơ hội đề người người và mình cùng nhau tiến tới một quyết tâm thực hiện niềm tin trong nhau và có nhau.

Hỏi và nhận định với nhau trong cuộc diện đi vào lòng đời, còn để xem Đạo giáo của ta cống hiến cho đời được những gì? Tìm kiếm những gì nơi đời? Và, người đời? Nhận định và hỏi người hỏi mình, tức còn hỏi rất nhiều mà chưa tìm ra câu giải đáp cho thoả đáng. Bởi thế nên, người viết nhạc ở đời, hôm nay, lại cứ cho hát những lời bay bướm, ít thiết thực, và không hẳn thế, như:

Trời có lúc nắng lúc mưa, Trời có lúc mưa lúc nắng
Con gái có lúc hiền như nai, Con gái có khi như bà chằng
Trời vẫn cứ nắng cứ mưa,

Con gái lúc mưa lúc nắng
Con gái thế đấy bạn ơi,

mà sao con trai nhớ thương từng ngày
Đừng nghe những gì con gái nói

Đừng nghe những gì con gái nói

Hãy nhìn vào đôi mắt…….Đừng nghe…..con gái nói.”

(Hạ Vy – bđd)

Trái lại, hẳn bạn và tôi, có lẽ ta nên tìm về Lời Hằng Sống có những dặn dò thiết thực và rất đúng của Thày Chí Ái vẫn từng bảo:

“Anh em đã nghe Luật dạy rằng:

Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù.

Còn Thầy, Thầy bảo anh em:

hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.

Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em,

Đấng ngự trên trời,

vì Người cho mặt trời của Người mọc lên

soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt,

và cho mưa xuống trên người công chính

cũng như kẻ bất chính.”

(Mt 5: 43-45)

Trên đường đời và trong cuộc đời, người xấu/tốt, công chính hay bất chính đều có đủ. Cũng nói và cũng làm không chỉ mỗi con gái hay con trai. Xấu tốt hoặc nói lời nghịch ngạo không phải là sở trường/sở đoản của riêng ai. Nên, vấn đề là dù có nghe những người ấy nói hoặc xử xấu với mình, vẫn còn thương hay không, đó mới là vấn đề.

Vấn đề còn là: dù biết nhiều người không muốn nghe hoặc đọc những lời người nhà Đạo nói, vẫn cứ làm. Vẫn cứ thực hiện điều Chúa truyền dạy, vì đó là điểm son tô đậm đặc trưng của “Con cái Chúa”, ta thường quên. Quên hay cố ý không thực hiện những điều Thày Chí Ái từng dạy, nhưng lại cứ thực hiện những hành xử rất trái khuấy/nghịch ngạo như truyện kể ở bên dưới làm đoạn kết, rất như sau:

“Một thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh bị phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh bèn ra bờ sông định tự tử.

Vào canh ba đêm nọ, anh đến trước bờ sông, bỗng nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến gần hỏi cô:

– Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?

Cô gái buồn bã nói:

– Tôi bị người yêu ruồng bỏ, tôi không muốn sống nữa, bởi vì không có anh ấy tôi không sống nổi. Vị thương gia vừa nghe xong lập tức nói:

– Ồ! Lạ nhỉ, sao lúc chưa có bạn trai, cô có thể tự sống được.

Cô gái vừa nghe xong liền bừng tỉnh và bỏ ngay ý định tự tử. Ngay lúc đó thương gia nọ cũng chợt nhận ra rằng: Khi chưa giàu, ta vẫn sống bình thường, cũng tay trắng làm nên! Lúc đó cô gái quay sang hỏi thương gia:

– Đêm hôm lạnh lẽo như vậy, anh ra đây để làm gì?

Thương gia ậm ừ trả lời:

– Ừ… đâu có làm gì, chỉ là tản bộ chút vậy thôi”.

Và, lời bàn của người kể rất “huệ-lộc” mà bảo rằng: “Thì ra, dù mất tất cả nhưng thực sự cũng chỉ bằng lúc ta chưa có mà thôi.” Thật ra thì, có hay không, vẫn là sự thể cuộc đời nhiều khi không có mà lại cũng có. Có-không/không-có, là cuộc đời cứ diễn tiến đến mất mát. Còn lại sẽ là và chỉ là tình yêu-thương chính mình và mọi người. Chính đó là triết-lý của “hư không/trống rỗng” Chúa dạy dỗ hết mọi người.

Trần Ngọc Mười Hai

Lại nhận ra được chân lý

Của cuộc đời.

Với người đời.

Bức Tranh Ðời Người

Bức Tranh Ðời Người

Một họa sĩ vô danh nọ vào thời Trung Cổ đã tóm tắt đời người thành 4 bức tranh xếp bên cạnh nhau. Bức tranh thứ nhất họa lại tuổi thơ. Không gì đẹp và thanh thản cho bằng tuổi thơ. Một em bé hồn nhiên, vô tư ngồi trên một chiếc ghe buồm vừa nhổ neo ra khỏi bờ… Em bé nhìn theo sóng nước không sợ hãi bởi vì người đang cầm bánh lái là một thiên thần. Bóng đen đang ngủ một cách dịu hiền đằng sau bánh lái.

Sang đến bức tranh thứ hai, người ta bỗng thấy cậu bé trở thành một trang thiếu niên đang đứng nhìn chân trời xa tắp với những háo hức trước những điều mới lạ… Vị thiên thần vẫn còn cầm tay lái, nhưng sóng đã bạt đầu và bóng đen đã thức giấc.

Bức tranh thứ ba là cảnh tuổi trưởng thành. Bầu trời đã trở nên ảm đạm. Sóng gió ập phủ tứ bề. Bánh lái đã nằm trong tay của bóng đen. Vị thiên thần đã bị trói chặt trong một góc. Người đàn ông đã phải dùng tất cả sức lực của mình để chiến đấu, để chiếc ghe không bị lật úp…

Cuối cùng, trong bức tranh thứ tư, người ta thấy một cụ già đang ngồi ung dung giữa ghe. Sóng yên, gió lặng, mặt trời xuất hiện trở lại. Vị thiên thần đã dành lại được bánh lái, còn bóng đen thì bị trói chặt đằng sau.

Ðời là một cuộc hải trình gay go… Ðích điểm có thể là bến yên hàn mà cũng có thể là vực thẳm của chết chóc. Ðến nơi yên hàn hay đứt gánh giữa đường: số mệnh ấy không ai có thể định đoạt cho ta, mà chỉ có mỗi người phải biết làm chủ, lèo lái con thuyền của mình…

Có lẽ nhiều người trong chúng ta đã quá quen thuộc với trò chơi “Thiên Ðàng Hỏa Ngục” mà các em bé thường tụ tập trước sân thánh đường để cùng biểu diễn… Thiên đàng hỏa ngục hai bên, ai khéo thì nhờ ai vụng thì sa… Trả lời được một số câu hỏi thì được vào Thiên Ðàng, trả lời không được thì bị chận lại ngoài cửa.

Trò chơi đơn sơ nhưng cũng có tác dụng gieo vào đầu chúng ta một hình ảnh về cuộc đời. Ðời là một cuộc ra đi. Hướng đi của cuộc đời tùy thuộc ở sự định đoạt của mỗi người. Con đường dẫn đến hư đốn luôn rộng thênh thang. Con đường dẫn đến sự sống là một con đường chật hẹp, đòi hỏi nhiều chiến đấu…

Sự thánh thiện là một ơn Chúa ban, nhưng phải mất nhiều lao nhọc, vất vả chiến đấu, con người mới đạt được. Nói đến chiến đấu là nói đến kẻ thù. Con sư tử lượn quanh tìm mồi cắn xé trong cuộc sống của chúng ta là không biết bao nhiêu cạm bẫy giăng mắc trên lối đi của chúng ta. Những cạm bẫy đó từ bên ngoài cũng có, nhưng hầu hết đều xuất phát từ trong tâm hồn chúng ta… Ðó là những dục vọng, đam mê đang cào xé tâm hồn chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta đánh bại được kẻ nội thù ấy và biến chúng thành đạo binh trung thành thì lúc đó chúng ta mới chiến thắng được kẻ thù đến từ bên ngoài…

Khí giới tiên quyết và chủ yếu giúp chúng ta chiến thắng được nội thù đó là sự cầu nguyện. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ của Ngài: chỉ có ăn chay và cầu nguyện các con mới chiến thắng được loài quỷ này…

Trích sách Lẽ Sống

Jessica

Sống Thọ vui vẻ

Sống Thọ vui vẻ

Người ta có thể sống khoẻ ở lứa tuổi 90 và vẫn hạnh phúc?


Tháng 2 vừa qua ở Riverside, bang Connecticut của Hoa Kỳ, Đức ông Alan Detscher, Cha sở Nhà thờ Thánh Catherine thành Siena, giáo xứ của tôi, bước đến micro vào cuối Thánh lễ để rao vài thông báo. Thông báo cuối cùng của ngài là mời bà cụ Caroline Dulcibella, đang ngồi hàng ghế khoảng giữa nhà thờ, đứng lên để nhận tràng pháo tay của cộng đoàn: Cụ Dulcibella được 97 tuổi ngày hôm đó. Cụ tươi cười và chờ đợi. Chúng tôi vỗ tay và rất ngạc nhiên. Ngạc nhiên vì nhìn thấy bà cụ với dáng người nhỏ nhắn nhưng mạnh mẽ, thực tế là chúng ta đang sống thọ hơn, một số ở lứa tuổi 100.

Năm 1900, tuổi thọ trung bình chỉ là 46-48 năm. Từ năm 1980 đến 2010, tuổi thọ trung bình ở Hoa Kỳ tăng từ 70 tới 76 năm đối với nam và từ 77 tới 81 năm đối với nữ, theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC).

Được chứ, Dan Buettner, tác giả có số sách bán chạy nhất của New York Times và là người sáng lập và giám đốc điều hành của Khu vực Xanh (Blue Zones) cho biết.

Trong suốt 10 năm, Buettner đã nghiên cứu và viết về những người đã sống cuộc sống lâu dài trong hạnh phúc đo được ở “Khu vực Xanh”.

Buettner phối hợp với Nguyệt san National Geographic để tìm kiếm và nghiên cứu những người sống thọ nhất thế giới. Với sự hỗ trợ của các nhà nhân khẩu học, ông đã tìm thấy những nhóm người trên toàn thế giới với tuổi thọ cao nhất hoặc hầu hết những người sống đến 100 tuổi. 5 địa điểm phù hợp với tiêu chí: Barbagia thuộc vùng Sardinia; Ikaria của Hy Lạp; bán đảo Nicoya của Costa Rica; tín hữu Tin Lành Seventh Day Adventist quanh vùng Loma Linda của California; và Okinawa của Nhật Bản.

Với sự hỗ trợ của một nhóm chuyên gia, Buettner xác định 9 đặc điểm thường được tìm thấy ở những người có tuổi thọ cao nhất . Buettner khám phá ra rằng những người sống thọ như thế có một ý thức mạnh mẽ về mục đích, hoạt động, ăn uống lành mạnh và thực hành một truyền thống đức tin, trong số những đặc điểm quan trọng khác. Nó chỉ ra rằng cụ Dulcibella kết hợp nhiều thuộc tính vào cuộc sống hằng ngày của mình phù hợp với những khám phá của Buettner.

Sinh năm 1916 ở Danbury, bang Connecticut, Cụ Dulcibella, một y tá sức khoẻ công cộng đã về hưu, luôn cho rằng tuổi thọ của cụ là nhờ gen tốt từ bố mẹ. Trong số 7 anh chị em, chỉ có em gái Lucy, 88 tuổi, ở Georgetown, Texas, và em trai Peter 92 tuổi của cụ ở Silver Spring, Maryland, là còn sống.

Cụ theo học Trường Điều dưỡng Thánh Phanxicô ở Hartford, bang Connecticut. Ngay sau đó, cụ trở thành một y tá quân đội và đi đến châu Âu trong Thế chiến II. Sau chiến tranh, cụ nhận được văn bằng y tế công cộng tại Đại học New York do chương trình GI tài trợ.

Dù chưa từng kết hôn, cụ Dulcibella đã luôn luôn kết nối với mọi người trong vai trò một y tá công cộng và y tá ở Norwalk và Greenwich, bang Connecticut. Cụ nghỉ hưu vào năm 1978.

“Toàn bộ nhân viên điều dưỡng rất mến Carrie (tên thân mật của cụ Caroline Dulcibella) và học chuyên môn của cụ trong nhiều vấn đề”, ông Barbara Ward Bilek, nguyên là y tá và giám đốc điều dưỡng y tế công cộng của Phòng Y tế Gia đình ở Greenwich của bang Connecticut, cho biết. “Là một y tá thâm niên, Carrie là công cụ định hướng cho các nhân viên mới, trong đó có tôi. Cụ là cố vấn cho nhiều y tá”, ông nói.

“Ơn gọi làm y tá vẫn mạnh mẽ trong Caroline cũng như đức tin Công giáo của cụ”, Detscher nói. “Trong thực tế, người này nuôi dưỡng người khác. Vào lứa tuổi trung tuần 90, cụ vẫn quan tâm đến các cư dân của Hill House (cộng đồng hưu trí nơi cụ sống) và thậm chí còn đưa Mình Thánh Chúa cho những ai không thể tham dự Thánh lễ. Đối với Caroline, thể chất và tinh thần được liên kết mật thiết với nhau.”

Hiện nay, Cụ Dulcibella sống trong một nhà dưỡng lão chỉ cách nhà thờ 50 mét và cụ thường dùng khung đi bộ đến nhà thờ tham dự Thánh lễ. Là một người chịu lễ hằng ngày, Cụ Dulcibella tham gia ca đoàn giáo xứ và là một giáo lý viên.

“Tôi không thích uống thuốc, vì vậy tôi cố gắng chữa lành cho mình. Tôi dùng 6 viên vitamin mỗi ngày và một viên vitamin tổng hợp”, cụ nói. Vận động cơ thể rất quan trọng đối với cụ. “Tôi thường chơi bowling và có mặt trong một đội bowling. Tôi cũng cố gắng làm nhân viên cấp cứu càng nhiều càng tốt khi tôi có thể”, cụ chia sẻ.

Một chìa khoá khác cho cuộc sống hạnh phúc lâu dài là tăng trưởng đời sống tâm linh của mình.

“Thiên Chúa có tiếng nói cuối cùng”, cụ nói, “tôi tin tưởng mạnh mẽ trong lời cầu nguyện riêng, đặc biệt là Kinh Mân Côi. Tôi cố gắng lần chuỗi hằng ngày. Tôi nghĩ nó đã giúp cho tôi rất nhiều sức mạnh để đi tham dự Thánh lễ”.

“Tôi cầu nguyện cho những người trong gia đình tôi để họ được ra đi trong hạnh phúc. Tôi cầu nguyện cho hoà bình trên thế giới, trong các ngôi nhà và trong gia đình chúng tôi. Ở tuổi 97, mỗi ngày là một ân huệ”, Cụ Dulcibella nói.

“9 lời khuyên tuyệt vời” để sống lâu hơn

Với sự trợ giúp của các nhà nghiên cứu y tế, nhân chủng học, nhân khẩu học và dịch tễ học, Dan Buettner xác định 9 đặc điểm thường thấy trong số những người sống lâu nhất thế giới. Điều ông gọi là “9 lời khuyên tuyệt vời” bao gồm:

1. Vận động một cách tự nhiên: Sống lâu nhất thế giới là sống trong môi trường liên tục vận động mà không cần suy nghĩ về nó. Chẳng hạn, người ta làm vườn và không có phương tiện cơ khí cho công việc.

2. Có mục đích: Biết “lý do tại sao tôi thức dậy vào buổi sáng” và điều này giúp tăng thêm 7 năm tuổi thọ.

3. Trút bỏ: Những người sống trong “Khu vực Xanh” trải qua căng thẳng như chúng ta, nhưng có thói quen trút bỏ căng thẳng đó. Dân chúng Okinawa dùng vài phút mỗi ngày để nhớ đến tổ tiên của họ, tín hữu cầu nguyện, người Ikarians chợp mắt một chút và người Sardinia làm giờ hạnh phúc.

4. Quy tắc 80: Họ ngừng ăn khi dạ dày no đủ 80%.

5. Thiên về thực vật: Người sống lâu có chế độ ăn tập trung vào các loại đậu và ăn thịt chỉ 5 lần mỗi tháng.

6. Uống rượu vừa phải: Dân cư Khu xanh uống rượu vừa phải và thường xuyên. Người uống quân bình sống lâu hơn người không uống.

7. Thuộc về: Tất cả ngoại trừ 5 trong số 263 người sống trăm tuổi do Buettner phỏng vấn đều thuộc về một cộng đồng tôn giáo. Thuộc tôn giáo nào dường như không thành vấn đề. Nghiên cứu cho thấy việc tham dự các buổi phụng vụ đức tin 4 lần mỗi tháng sẽ tăng thêm từ 4 đến 14 năm tuổi thọ.

8. Ưu tiên những người thân: Những người sống trăm tuổi thành công tại Khu đất xanh đặt gia đình làm ưu tiên. Điều này có nghĩa là giữ cha mẹ già và ông bà cận kề hoặc trong nhà (nó làm giảm bệnh tật và tỷ lệ tử vong của trẻ em ở nhà). Họ cam kết với một người bạn đời (có thể tăng thêm 3 năm tuổi thọ) và đầu tư cho con cái bằng thời gian và tình yêu thương.

9. Môi trường tốt: Người sống lâu nhất thế giới đã chọn – hoặc được sinh ra – trong môi trường xã hội hỗ trợ những hành vi lành mạnh. Những thói quen tốt hoặc xấu thường dễ lây nhiễm. Vì vậy, các phúc lợi xã hội đã hình thành những hành vi lành mạnh khiến người dân được sống lâu.

Những tương đồng khác về văn hoá ở Khu vực Xanh bao gồm việc giữ mình năng đông, giao tiếp xã hội thường xuyên và có một “thói quen thiêng liêng hằng ngày”, dành thời gian để cầu nguyện, thiền định hoặc ngủ trưa – Buettner nói trong một cuộc phỏng vấn gần đây trong chương trình Sức khoẻ hằng ngày.

Hùng Nguyễn

Giọt nước mắt… vì niềm kiêu hãnh

Giọt nước mắt… vì niềm kiêu hãnh

 

 

 

 

Khoa Học Gia Dương Nguyệt Ánh

Tôi là người thù dai. Thù dai có cái xấu và có cái tốt. Tôi nghĩ thù dai cũng có điểm tốt.

Thù dai để không quên những chuyện xấu người khác làm cho mình. Không thù dai thì làm sao Nguyễn Trãi nằm gai nếm mật suốt mười năm để trả thù nhà, để đền nợ xã tắc, giang sơn?

Thù từ năm 1975 đến nay thì có dai thật.
Năm 1975, với đợt tị nạn đầu tiên đến Mỹ, tờ Newsweek đăng một bài viết của Shana Alexander về những người Việt được đưa sang Mỹ tị nạn. Người đàn bà này lo ngại là những người Việt Nam tị nạn chưa biết sử dụng cái máy giặt, cái máy sấy, không biết Michael Angelo là ai, thì làm sao sống được ở Mỹ.

Ðó là những câu nhục mạ những người Việt quá nặng.

 

 

 

Nhưng chuyện không biết dùng cái máy giặt thì cũng dễ hiểu. Kìa, như thái tử Naruhito của hoàng gia Nhật, mãi đến khi sang học tại Merton College ở Oxford, ông hoàng tử này mới biết dùng cái máy giặt để khoe nhắng lên. Vậy thì dùng cái máy giặt không phải là chuyện đáng kiêu hãnh. Không biết dùng cái máy giặt thì cũng không phải là điều xấu xa gì như bài báo ngu xuẩn của Shana Alexander đã úp mở.

 

 

 

 

Từ đó, năm nào, cứ đến tháng Tư là tôi lại nhớ đến bài báo của Shana Alexander, và cứ nghĩ đến những câu nhục mạ ấy là lại run người lên vì giận.


Nhưng người Pháp vẫn nói là trả thù cũng như thức ăn nguội, ăn lạnh mới ngon. Shana Alexander nghỉ viết từ lâu, không biết đang ở đâu để rảnh rang kiếm nàng, mời nàng đi đến thăm vài ba đại học Mỹ, ghé lại Little Saigon chơi cho bõ những ngày cơ cực và để cho nàng thấy tận mắt những người nàng khinh bỉ ấy đã sống như thế nào.

Ðó là cách trả thù vậy. Nhưng chưa bao giờ tôi thấy hả dạ được như cuối tuần qua, khi nhận được tờ Newsweek, tờ báo 32 năm trước từng đăng bài báo của Shana Alexander, tôi đọc được bài viết của George Will trong mục The Last Word ở trang 84 số báo NewsWeek đề ngày 17 tháng 12 năm 2007.

 

 

George Will dùng nguyên một trang để nói về đóng góp của một người Việt Nam, một phụ nữ Việt, một trong những người Việt lếch thếch kéo nhau sang Mỹ và bị Shana Alexander đem ra nhục mạ trong bài báo.

Tôi có thể nói là chưa bao giờ tôi đọc được một bài báo viết về một người khác như George Will đã viết.

Nếu bài báo ấy do một cây bút Việt Nam viết thì người đọc cũng dễ dàng coi đó là chuyện hai con mèo khen nhau có những cái đuôi dài.

Nhưng bài viết này là của George Will một trong những cây bút bình luận chính trị bảo thủ, lỗi lạc nhất của báo chí Mỹ, thì nó là một bài báo giá trị. Mười lần Shana Alexander cũng không thể bác được điều đó.

 

 

 

 

Bài báo của George Will viết về Dương Nguyệt Ánh, mẹ đẻ ra một loại bom mói tên là Thermobaric. Chương trình nghiên cứu được hạn cho ba năm để hoàn thành, nhưng chỉ sau 67 ngày, bà Ánh đã thành công, chế ra được loại bom mới để dùng cho mặt trận Afghanistan. Loại bom mới này công hiệu hơn tất cả các loại bom khác của thế giới. Bom ném vào hang đá ở Afghanistan không công phá ngay như các loại bom cũ, mà sức nóng và sức nổ của bom ở lại lâu, tiến sâu vào các hang hốc khiến khả năng công phá và hủy diệt của bom hơn hẳn mọi loại võ khí khác.

Nước Mỹ đã phải cám ơn bà Dương Nguyệt Ánh về loại võ khi mới này. Tờ Washington Post mới đây có viết một bài khá dài về bà Ánh nhân dịp bà được trao tặng một huy chương về những thành quả và đóng góp của bà cho nước Mỹ.

 

 

 

 

George Will kể lại cảnh bà tiến ra trước máy vi âm, không đọc một bài viết sẵn, mà ứng khẩu trước một cử tọa rất đông đảo smoking, nơ đen trang trọng. Bà Dương Nguyệt Ánh nói rằng 32 năm trước, bà tới nước Mỹ với tư cách một người tị nạn, hai bàn tay trắng và một túi hành trang đầy những ước mơ tan nát.


Nhưng nước Mỹ, với bà, là một thiên đàng, không phải vì vẻ đẹp và tài nguyên phong phú, mà vì người dân Mỹ vị tha, rộng lượng đã giúp gia đình của bà khi mới tới Nước Mỹ và giúp hàn gắn những thương tích trong tâm hồn, đem lại lòng tin vào con người và cảm hứng cho công việc của bà. Bà muốn tặng lại danh dự của tấm huân chương bà nhận được cho 58 ngàn người Mỹ đã tử trận tại Việt Nam và hơn 260 ngàn chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh để cho những người như bà có được cơ hội sống trong tự do. Bà xin Thượng đế ban phúc cho những người sẵn sàng chết cho tự do, và nhất là những người sẵn sàng chết cho tự do của những người khác. Bà cám ơn nước Mỹ.

 

 

 

 

George Will kết bài viết của ông bằng mấy câu này: Cám ơn Dương Nguyệt Ánh. Xin cô hiểu là cô đã trả món nợ mà cô nói cô nợ của nước Mỹ, cô đã hoàn trả đầy đủ, không thiếu một chút nào. Cô đã trả hết món nợ đó, và luôn cả tiền lời nữa. Tiền lời, là đóng góp rất lớn của Dương Nguyệt Ánh cho tự do và an ninh của nước Mỹ, quốc gia đã mở cửa đón gia đình của bà.
Shana Alexander ở đâu, có đọc bài báo này chưa ?

Bùi Bảo Trúc