BÀI HỌC CHIA SẺ

BÀI HỌC CHIA SẺ

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Am 6, 1a.4-7; 1Tm 6, 11-16; Lc 16, 19-31

Bài học người quản lý bị cho nghỉ việc, Chúa Giêsu nói nhè nhẹ về cuộc đời của người quản lý. Chúa Giêsu dùng hình ảnh này như là khởi đầu cho nhiều bài học nói về đời sau cõi tạm này, cái chết sau cuộc sống này.

Ở đời, người ta vẫn thường nói : “cái gì nó cũng có cái giá của nó”. Quả không sai, nó như quy luật nhân quả của cuộc đời. Nếu như trong đời sống, mình gieo điều tốt thì ắt hẳn mình sẽ nhận được điều tốt và ngược lại.

Chúa Giêsu ví dụ hết sức cụ thế chứ không có nói bóng nói gió hay dùng dụ ngôn nữa. Đi vào thẳng vấn đề của cuộc sống luôn đó là câu chuyện về hai con người :một là giàu, ngược lại bên kia là nghèo.

Người giàu này được một cái là ngày ngày yến tiệc linh đình. Chuyện hết sức bình thường như những câu chuyện bình thường mà người ta vẫn thường nói : “chuyện thường ngày ở huyện”. Nhưng, trong cái bình thường này có cái không bình thường đó là có anh ăn xin ngồi ngay trước cổng nhà ông ta. Người ăn xin ghẻ chốc đầy và rồi them được ăn những miếng dư thừa từ nhà của ông nhà giàu nhưng không được ăn.

Chuyện gì đến nó phải đến. Ngày qua ngày, tháng qua tháng, năm qua năm, ông nhà giàu kia cũng chết và người ăn xin cũng chết. Có điều là không biết ai chết trước hay chết sau nhưng bảo đảm là phải chết vì dù giàu dù nghèo thì cũng không thoát được cái chết.

Nhưng, đàng sau cái chết, màn hình được mở ra. Dưới âm phủ, người chủ lại van xin với Ápraham : “Lạy tổ phụ Ápraham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!” Nghe sao mà thương dễ sợ.

Chúng ta nghe ông Ápraham đáp: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.

Khi nghe tổ phụ nói như thế, nhớ lại những người thân và đặc biệt là anh em mình còn sống ở dương gian nên bèn thưa : “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Ladarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!

Nghe thế, ông Ápraham đáp: “Chúng đã có Môsê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.

Nài nỉ thêm : “Thưa tổ phụ Ápraham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối.Ông Ápraham đáp: “Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.”

Chuẩn hơn chỉnh luôn ! Không chỉ Môsê, các ngôn sứ mà nhiều và quá nhiều những chứng nhân cho những thực tại của đời này và gia tài vĩnh cửu ở đời sau rồi nhưng mấy ai chịu nghe. Hay, có chăng thì nghe đó nhưng thực hành được bao nhiêu với lời mà các vị tiền nhân đã nói, đã để lại.

Và, cũng chẳng cần phải nghe ai nói nữa, chỉ cần nhìn vào thực tại và thực tế cuộc sống thì thấy ngay vấn đề : Con người, ai cũng phải chết. Và, sau khi chết, có mang theo được cái gì đi theo mộ phần, mang theo bên kia thế giới hay không để rồi cứ phải ky cóp. cứ phải tham lam, cứ phải ích kỷ. Tham lam, ích kỷ để làm gì để rồi sau cái chết phải hưởng, phải đón nhận tất cả những gì mà mình đã hành xử khi còn sống.

Sống trên đời, chẳng ai mong mình nghèo và cũng chẳng ai có thể nghi rằng mình giàu cả. Giàu hay nghèo đến từ nhiều lý do. Có thể khách quan, có thể chủ quan, có thể có sự may mắn như người ta nói là thiên thời – địa lợi – nhân hòa nữa. Nếu như ai nào đó có tài nhưng rồi thời cơ không đến hay sự may mắn không đến thì cuộc sống của họ mãi mãi trong lam lũ nghèo khó. Có những người có tí tài năng cộng thêm với sự may mắn, sự thuận tiện để rồi sống trong cuộc sống dư giả giàu có.

Và, hết sức bình thường trong mọi thời, mọi nơi, mọi xã hội ta đều thấy những người giàu và người nghèo. Giàu không phải là cái tội và nghèo cũng chẳng phải là cái tội. Tội hay chăng đó là ta giàu mà ta không biết cách sống như thế nào cho đúng với lương tâm, đúng với luân thường đạo lý.

Chuyện quan trọng, chuyện căn cốt là ta sống như thế nào khi ta giàu có, ta có nhiều của cải vật chất. Không phải những người giàu là xấu. Có những người giàu nhưng họ khôn ngoan sống theo cái nhìn, theo lối sống của con cái Thiên Chúa chú không theo lối sống của thế gian.

Sống khôn ngoan theo lối sống của Thiên Chúa thì giàu hay nghèo cũng chẳng là cái gì cả. Cách riêng với những người giàu thì phải biết dùng những của cải vật chất mà Chúa ban cho như thế nào có ý nghĩa và đặc biệt có hậu về sau sau khi đã chết.

Những bằng chứng hết sức sống động trong cuộc sống của ta. Có những người ta thấy họ hết sức quảng đại, không phân biệt tôn giáo.

Khi nghe trang Tin Mừng hôm nay, có thể ta bảo rằng ông chủ này thật quá quắt, ngay cái người đầy tớ ở trước của nhà mà ông không đoái hoài đến nhưng hình phạt cho ông như vậy cũng là đúng ! Nếu ta nghĩ như thế, ta xét đoán như thế, ta kết án như thế không chừng ta lại kết án chính bản thân ta.

Có khi nào đó, ngay trong gia đình của ta, người nghèo không ngồi ở ngoài cổng hay ngồi ở vệ đường như ta tưởng nhưng người nghèo đó lại ngồi ngay bên cạnh của ta. Họ thèm ta cho họ một chút gì đó, có khi không chỉ phải là cơm bánh, vật chất nhưng điều họ cần đó chính là tình cảm. Có thể những cái mà ta cho những người xung quanh ta đó chính lại là cái thừa thãi của ta nhưng ta lại nghĩ đó là ân phúc mà ta trao ban. Ta quên đi điều căn cốt là những cái mà ta có, nhất là cái thân xác, cái hơi thở, cái sự sống mà ta đang có chính là quà tặng mà Thiên Chúa trao ban.

Nếu như Chúa lấy hơi thở, lấy sự sống của ta đi thì còn gì là giàu với nghèo, còn gì là sang với hèn. Chẳng còn là gì cả như người giàu có và kẻ ăn xin cùng chết. Chuyện quan trọng là sau cái chết đó, ta sẽ có gì trong tay. Ta sẽ được ơn cứu độ hay đánh mất ơn cứu độ mà cả đời ta ky cóp.

Sống sao đừng để một ngày kia khi sau cõi tạm này thì trên Thiên Đàng toàn là những người nghèo, những người trộm cắp, những người đĩ điếm, những người tội lỗi như Chúa Giêsu vẫn thường nhắc ta.

Luôn luôn ghi khắc trong tâm trí ta rằng cuộc đời ta có ngần có hạn và tất cả những gì ta có như là quà tặng từ nơi Thiên Chúa để ta biết san sẻ cho anh chị em đồng loại. Chúng ta, có kẻ giàu người hèn, kẻ sang người hèn nhưng ai ai cũng có tấm lòng, có trái tim. Tấm lòng và trái tim đó sẽ quý biết mấy khi nó san sẽ tình thương cảm, lòng mến cho những người đang sống ngay bên cạnh ta, trong mái ấm của ta, trong gia đình của ta.

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Hãy Sống Đẹp Với Nhau – tại đây, lúc này.

Hãy  Sống  Đẹp  Với  Nhau – tại  đây,  lúc  này.

Ghi nhận của Đoàn Thanh Liêm

Vào giữa thập niên 1950, lúc còn theo học tại Trường Luật Saigon, thì tôi được nhận vào lưu trú tại một cư xá dành cho sinh viên có tên là Câu lạc bộ Phục Hưng. Cư xá này nằm trên đường Nguyễn Thông gần với Bệnh viện Saint Paul thuộc Quận 3 Saigon. Hồi đó, chừng 60 anh em chúng tôi sống quây quần bên nhau – tất cả đều còn ở vào cái tuổi đôi mươi, hãy còn hồn nhiên, lạc quan yêu đời, chỉ biết say mê chuyên cần với chuyện học tập nơi các phân khoa đại học.

Lớp sau này vào các năm 1960 – 1970, thì số lưu trú sinh tại cơ sở này lại còn đông hơn, trẻ tuổi hơn nữa. Tổng số các bạn đã từng sinh sống tại Câu lạc bộ Phục Hưng này – từ năm 1955 lúc mới thành lập cho đến năm 1975 lúc đóng cửa – thì có thể lên đến con số 4 – 500 người. Ngày nay, anh em Phục Hưng chúng tôi, thì người trẻ tuổi nhất cũng đã ngòai 60 – còn phần đông cũng đã ở vào cái tuổi “thất thập cổ lai hy” họăc còn cao hơn nữa. Mà trong đó cũng nhiều bạn đã ra đi, từ giã gia đình, bỏ lại anh em. Số còn lại, thì phân tán khắp bốn phương trời – ở lại quê hương cũng có, mà lưu lạc qua các xứ Âu Mỹ cũng có nữa. Anh em không thành lập Hội Ái Hữu để quy tụ lại với nhau, như các tổ chức khác. Tuy vậy, lâu lâu chúng tôi cũng gặp gỡ nhau qua dịp này dịp nọ – để hàn huyện tâm sự, ôn lại cái kỷ niệm vui buồn với nhau trong thời gian chung sống dưới mái nhà Phục Hưng thân thương ấy.

Riêng bản thân mình, thì mấy năm trước đây tôi đã viết một bài nhan đề là “Những ngày xưa thân ái ấy” – để ghi lại cái kỷ niệm thân thiết với các bạn cùng sát cánh với nhau tại cư xá Phục Hưng này trong thời gian giữa những năm 1950 thanh bình êm ả tuyệt vời đó.

Nhưng đúng theo với nhan đề ở trên, thì bài này không nhằm viết về chuyện riêng tư của anh em trong Đại Gia đình Phục Hưng chúng tôi – mà chủ yếu là để bàn về chuyện đa số chúng ta phải làm sao mà “Sống Cho Đẹp Với Nhau” – giữa cuộc đời tại thế nơi quê hương đất nước, vào ngay giờ phút hiện tại lúc này đây (như người Âu Mỹ thường dùng từ ngữ trong tiếng La tinh : “hic et nunc” – mà trong tiếng Anh, thì là : “here and now”). Tôi xin lần lượt khai triển chủ đề qua mấy mục sau đây.

1 – “Nếu muốn cúng cho tôi , thì hãy cúng ngay bây giờ – lúc tôi hãy còn sống sờ sờ ra đây này.”

Cách nay không lâu, một số anh em Phục Hưng chúng tôi ở Nam California được một anh bạn mời đến nhà anh chị tại thành phố Westminster để uống cà phê, ăn sáng. Gia chủ đó chính là anh chị Bùi Hòang Ân & Mỵ Nương đã cho chúng tôi thưởng thức món bánh và cà phê rất đặc sắc do chính anh chị đích thân chế biến. Câu chuyện râm ran thật vui vẻ, hồn nhiên sinh động giữa anh chị em chúng tôi – tiếp nối với cuộc Hội ngộ của đông đảo bạn hữu xảy ra vài ba tuần trước đó.

Chúng tôi ngạc nhiên về số thiết bị đồ sộ trong căn bếp và tò mò hỏi gia chủ, thì được anh chị kể lại nguyên do câu chuyện thật là ngộ nghĩnh như thế này. Mấy năm trước anh Ân có triệu chứng bị bệnh ung thư, nên phải nghỉ làm việc để điều trị. Trong thời gian nghỉ ngơi để chữa bệnh, anh Ân mới nói với chị Mỵ Nương đại khái như thế này ; “ Bệnh tình của tôi không biết sống chết như thế nào. Nhưng mà, nếu bà có thương tôi, thì đừng có đợi đến khi tôi lìa đời, rồi mới đem cúng giỗ của ngon vật lạ cho tôi nha. Mà trái lại, bà cứ cúng cho tôi ngay lúc này, khi tôi còn sống sờ sờ ra đây, tôi còn thưởng thức được những thứ ngon ngọt quý báu đó… Có như vậy, thì mới rõ là thật lòng với nhau đấy!”

Chị Mỵ Nương tiếp lời, nói với bọn tôi : “Các anh chị thấy đấy, anh Ân đã nói như vậy, thì tôi làm sao mà còn dám chối từ điều gì với anh ấy nữa. Và tôi đã hết sức chiều theo các ước muốn của anh – đó là lý do tại sao chúng tôi sắm sửa các vật dụng để chế biến cà phê và làm bánh như các bạn thấy bữa nay. May mà rút cục anh Ân đã tai qua nạn khỏi, căn bệnh ban đầu tưởng là hiểm nghèo, thì nay đã tan biến đi rồi để anh có thể đi làm trở lại như trước kia. Vợ chồng chúng tôi thật mừng rỡ và riêng tôi mỗi khi nhớ đến cái câu nói “ Xin cúng tôi ngay lúc này…” của anh Ân, thì tôi không khỏi cười thầm – và quả thật chúng tôi thật tâm đắc với nhau lắm lắm vậy đó…”

Bọn khách mời chúng tôi buổi sáng hôm đó – tất cả đều là các cựu lưu trú sinh ở câu lạc bộ Phục Hưng thời kỳ trước năm 1975 – thì không những được thưởng thức một bữa ăn sáng ngon miệng, mà đặc biệt lại được biết đến một câu chuyện vui vẻ, ngộ nghĩnh lý thú trong gia đình của anh chị bạn Hòang Ân & Mỵ Nương này.

2 – “ Nếu có yêu tôi, thì hãy yêu tôi bây giờ…”

Câu chuyện của anh chị Hòang Ân & Mỵ Nương nói trên làm cho tôi nhớ đến bài hát được nhiều người ưa thích, đó là bài có tựa đề “Nếu có yêu tôi” của nhạc sĩ Duy Đức phổ nhạc từ bài thơ của nữ thi sĩ Ngô Tịnh Yên. Xin ghi lại một vài đọan trong bài nhạc như sau :

“ Nếu có yêu tôi, thì hãy yêu tôi bây giờ

Đừng để ngày mai, đến lúc tôi qua đời

Đừng để ngày mai, có khi tôi thành mây khói

Cát bụi – làm sao mà biết mỉm cười.

Nếu có bao dung, thì hãy bao dung bây giờ

Đừng để ngày mai, đến lúc tôi xa đời.

……”

Rõ ràng bài ca này chứa đựng một nội dung triết lý rất là thực dụng, lạc quan, cụ thể – không hề chấp nhận một sự mơ hồ viển vông nào trong mối quan hệ giữa những con người hiện đang sát cánh với nhau mà sinh sống trên cuộc đất này. Đây cũng là một lời mời gọi để mỗi người nên quan tâm đến những nhu cầu thiết thực của nhau – hầu có những hành động thích đáng nhằm đem lại sự an vui thỏai mái cho người thân thiết gần gũi xung quanh mình.

Trên phạm vi rộng lớn hơn, thì bài thi ca này cũng làm cho ta nhớ lại câu văn bất hủ của văn hào người Nga Boris Pasternak – ông là tác giả cuốn truyện đặc sắc Doctor Zhivago, mà cũng là một nhà văn được cấp phát Giải thưởng Nobel về Văn chương năm 1958. Câu văn đó như sau : “Con người sinh ra để sống, chứ không phải để chuẩn bị sống” (Bản dịch Anh ngữ : “Man is born to live, and not to prepare to live”.

Nếu ta chú ý đến bối cảnh kinh hòang ở Liên Xô dưới chế độ tàn bạo của Stalin thời các năm 1930 – 40, thì lời phát biểu của Pasternak ghi trên thật là sáng suốt và can đảm. Đó cũng là một lời phủ định dứt khóat đối với sự hứa hẹn về cái “thiên đường cộng sản” – mà người theo chủ nghĩa marxist-leninist vẫn rêu rao khắp nơi từ thập niên 1930 (được gọi là thập niên đỏ = décade rouge) rằng sẽ có những “Ngày Mai Ca Hát” (des lendemains qui chantent như người cộng sản ở Pháp thường nói).

Ngày nay ở vào thế kỷ XXI, sau khi chế độ cộng sản hòan tòan bị sụp đổ ở Liên Xô và ở Đông Âu, thì tòan thể nhân lọai chúng ta càng nhận thức được rõ ràng hơn về cái thủ đọan mê hoặc, dối trá và cực kỳ tàn bạo của phe cộng sản – đến độ gây ra biết bao nhiêu thảm họa cho hàng mấy trăm triệu con người trong thế kỷ XX vừa qua.

3 – “Yêu thương nhau, đó là cùng với nhau nhìn chung về một hướng”.

Thế hệ sinh viên chúng tôi ở miền Nam Việt nam vào hồi thập niên 1950, thì hầu hết đều đọc thông thạo được sách báo tiếng Pháp. Ở độ tuổi đôi mươi, chúng tôi say mê đọc những cuốn sách của Raymond Aron, Jean-Paul Sartre, Albert Camus, Antoine de Saint-Exupéry v.v…Chúng tôi thật tâm đắc với cái định nghĩa về Tình Yêu của nhà văn – phi công Saint-Exupéry qua câu văn thật ngắn gọn như sau : “Yêu thương nhau, không phải là hai người nhìn ngắm nhau. Mà là cùng với nhau nhìn chung về một hướng”. (Nguyên văn tiếng Pháp là : “Aimer, ce n’est pas regarder l’un l’autre. Mais c’est regarder ensemble dans une même direction”)

Trong nội bộ của một gia đình, thì tình yêu giữa hai vợ chồng mỗi ngày càng được củng cố bền chặt hơn – chủ yếu bởi cái sự cố gắng bền bỉ mà cả hai người đều chung nhau lo lắng chăm sóc cho đứa con – vốn là kết quả phát sinh từ tình yêu chân thật của đôi lứa.

Còn trong phạm vi rộng lớn như sinh họat cộng đồng của cả một dân tộc, thì tình yêu thương đích thực giữa các thành viên cấu tạo thành cộng đồng này chính là cái ý chí chung, cái khát vọng và sự cam kết của cả tập thể dân tộc đó nhằm xây dựng một xã hội an vui, thịnh vượng và nhân ái – trong đó phẩm giá của mỗi người đều được tôn trọng và quyền con người đều được bảo đảm.

Chuyện cụ thể thiết thực và phấn khởi nhất của sự biểu lộ ý chí và cam kết này, đó là sự đồng lọat của nhiều người – thuộc đủ mọi giới ở trong cũng như ở ngòai nước – cùng bày tỏ gia nhập vào Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự – mà vừa được phát động vào ngày 23 tháng 9 năm 2013 – đúng vào lúc tôi bắt đầu bài viết này.

Bản thân tôi cũng đã vừa ký tên gia nhập Diễn Đàn XHDS này, và trong danh sách những người đã ký tên gia nhập Diễn Đàn tôi nhận ra nhiều người đã từng là bạn hữu thân thiết lâu nay của tôi. Cái hành động “Dấn thân tập thể” đó chính là sự biểu lộ tình Liên đới mỗi ngày thêm mạnh mẽ hơn mãi – và cũng là sự khởi đầu của một Tập hợp Quần chúng nhằm đòi lại cái Quyền Chủ Động và Tự Quyết của Tòan thể Dân tộc – trong công cuộc giải thóat Đất nước khỏi cái vòng nô lệ cay nghiệt của cả hai thứ giặc nội xâm cũng như ngọai xâm hiện đang tung hòanh dày xéo trên giang sơn gấm vóc – mà cha ông chúng ta đã đổ ra biết bao xương máu để xây dựng và bảo vệ từ mấy ngàn năm nay.

Quả thật, chúng tôi yêu thương nhau vì cùng chung sát cánh với nhau trong công việc góp phần kiến tạo một xã hội tiến bộ, thịnh vượng và nhân ái cho thật xứng đáng với phẩm giá cao quý của mỗi thành viên trong cộng đồng dân tộc Việt nam thân yêu này vậy./

Costa Mesa California, ngày 25 tháng Chín 2013

Đoàn Thanh Liêm

CHUYỆN MỘT BÀI CA DAO CỔ – PHANVANCHO

CHUYỆN MỘT BÀI CA DAO CỔ – PHANVANCHO

alt

 

” Đi chợ tính tiền “là một bài ca dao lục bát.Bài đã được in làm bài Học thuộc lòng cho học sinh lớp ” sơ đẳng ” trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư ,năm 1948.Bài thơ kể chuyện một người phụ nữ đi chợ về,phải trình bày minh bạch ,rõ ràng việc chi tiêu với chồng.
Ngày xưa khi học bài này thầy giáo chỉ nêu đại ý như rứa,đồng thời nêu bật tính đảm đang,khéo vén của người phụ nữ xưa….sau đó yêu cầu học sinh học thuộc.Thầy không giảng về bài toán ẩn trong bài thơ,có lẽ vì thời thế đã khác (Khoảng năm 1958,chưa được vào trường công lập,người viết học với Ông giáo…  ở khoảng giữa cầu An Cựu và lăng Vạn Vạn,không biết có phải là thân sinh của nhà văn Hải Triều không?)đồng tiền cũng đã đổi thay,hoặc giải bài toán chắc chi những học trò nhỏ hiểu được.
Đã hơn năm mươi năm,bây giờ người học trò xưa đang ngồi ôm tóc trắng…một ngày mưa ngồi buồn chợt nhớ thầy đồ nơi xóm cũ ngày xưa chừ không còn,nhưng bài thơ vẫn còn đọng mãi trong đầu của bài Học thuộc lòng thửa ấy.Bèn tìm giấy giải thử.
Ngay câu thơ đầu tiên đã gặp ngay vấn nạn.”Một quan tiền tốt mang đi”.Một quan là bao nhiêu ?Quan là đồng tiền cổ,những người muôn năm cũ  giờ không còn,biết hỏi ai đây?Chợt nghe vang vang trong đầu một bài nhạc của nhạc sĩ Văn Phụng:

Một quan là sáu trăm đồng.

Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi.(Thơ của Nguyễn Bính).

Vận dụng cả 4 phép tính cộng trừ nhân chia,đảo xuôi ngược,lên xuống…mãi vẫn không đủ 600 đồng cho một quan tiền!
Lại phải đi tìm  trong lịch sử.Trong một ngàn năm Bắc thuộc,dân Việt không có đồng tiền riêng . Mãi đến sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán ,dân Việt vẫn còn dùng đến đồng tiền của phương Bắc. Đến năm 968,Đinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp loạn 12 sứ quân ,lên ngôi hoàng đế với đế hiệu Đinh Tiên Hoàng,niên hiệu Thái Bình. Năm 970 nhà vua đã cho đúc những đồng tiền Thái Bình Hưng Bảo.Đây chính là những đồng tiền đầu tiên của người Việt.Từ đó tiếp đến những triều đại sau đều theo .
Đơn vị để tính tiền xưa gồm có :quan,tiền ,đồng.Mỗi quan có giá trị là 10 tiền,mỗi tiền bằng bao nhiêu đồng tùy theo quy định của mỗi thời đại.Theo sử sách giá trị đồng tiền các thời đại như sau:
1/ Năm 1225,vua Trần Thái Tông định phép dùng tiền.1 quan bằng 10 tiền.1 tiền bằng 70 đồng.
2/ Năm 1428 vua Lê Thái Tổ cho đúc tiền Thuận Thiên.1 quan bằng 10 tiền.1 tiền bằng 50 đồng.
3/ Năm 1439,vua Lê Thái Tông quy định 1 quan bằng 10 tiền ,1 tiền bằng 60 đồng.
Như vậy 1 quan=10 tiền=600 đồng.
Từ đó các triều đại về sau,mỗi khi đúc một loại tiền mới đều theo tỷ lệ này,cho đến cuối triều Nguyễn năm 1945.Chỉ có tên đồng tiền là thay đổi theo tên hiệu.
Năm 1905 ,chính quyền bảo hộ Bắc kỳ  cho phát hành loại tiền đúc bằng hợp kim kẽm.Loại tiền này mặt trước in chữ Pháp,mặt sau ghi chữ Hán,có giá trị tương đương các loại tiền đồng như Gia Long Thông Bảo,Minh Mệnh Thông Bảo,Thiệu Trị Thông Bảo và Tự Đức Thông Bảo.

Trong những đời vua sau của nhà Nguyễn còn có thêm hai đồng tiền khác là Khải Định Thông Bảo và Bảo Đại Thông Bảo,hai loại tiền này không đúc như những đồng tiền xưa mà được dập bằng máy dập nhập từ nước Pháp.
Đến đây chắc chắn là bài toán ẩn bên trong bài ca dao đã giải được.Ghi lại như sau,bên phải là các phép tính đã giải.


ĐI CHỢ TÍNH TIỀN

Một quan tiền tốt mang đi,                                                     600
Nàng mua những gì mà tính chẳng ra.
Thoạt tiên mua ba tiền gà,                                   3×60       = 180
Tiền rưỡi gạo nếp với ba đồng trầu.                   60+30+3=   93

Trở lại mua sáu đồng cau,                                                    =     6

Tiền rưỡi miếng thịt,giá rau mười đồng.     (1,5×60)+10 = 100
Có gì mà tính chẳng thông?
Tiền rưỡi gạo tẻ,sáu đồng chè tươi.              60+30+6      =   96
Ba mươi, đồng rượu chàng ơi,                                              =   30
Ba mươi đồng mật,hai mươi đồng vàng.        30+20        =   50
Hai chén nước mắm rõ ràng,
Hai bảy mười bốn,kẻo chàng hồ nghi.            2×7             =   14
Hai mươi mốt đồng bột nấu chè,                                        =    21
Mười đồng nải chuối,chẵn thì một quan.                          =    10

CỘNG                                                                                      = 600

Ảnh PVC từ tủ sách GĐ

Trong sách QVGKT bên dưới bài học thuộc lòng này có 3 từ giải nghĩa,ghi nguyên văn như sau :”GIẢI NGHĨA.Tiền tốt=tiền tiêu được.Vàng=đồ làm bằng giấy cúng rồi đốt đi.Hồ nghi=ngờ vực,không biết rõ”.
Những giải nghĩa này chỉ để giải thích cho lớp học trò tóc còn để chỏm,dễ hiểu,dễ nhớ.Đi chợ tất phải đem theo tiền,tiền phải có giá trị trong mua bán… là chuyện đương nhiên. Nhưng sao gọi là tiền tốt?Một bài cao dao được lưu truyền,được in trong sách giáo khoa từ lúc ra đời (Bản in đầu tiên năm 1927) đến lúc cải tiến thay đổi,không lẽ vì bí vần mà viết vụng thế sao! Thế là người viết phải đi tìm tiếp.
Có một giai thoại trong văn học về Bà Chúa thơ Nôm.Chuyện kể rằng Hồ Xuân Hương thiếu tiền bèn hỏi mượn của Chiêu Hổ 5 quan để tiêu tạm. Chiêu Hổ gởi tiền đến,đếm hoài vẫn chỉ thấy có  3 quan.Nữ sĩ bèn làm bài thơ trách người cho mượn tiền:
Sao nói rằng năm chỉ có ba.
Trách người quân tử hẹn sai ra.
Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt.
Nhớ hái cho xin nắm lá đa.


Chiêu Hổ họa lại:
Rằng gián thì năm,quý có ba.
Bởi người thục nữ tính không ra.
Ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt.
Cho cả cành đa lẫn củ đa.
Trong bài họa của Chiêu Hổ có chữ gián và quý.Đây là cơ sở dẫn người viết đi tìm tiếp. Đã có công tất …chồng không phụ,kết quả đã tìm được:
Khoảng thế kỷ 18,dưới triều vua Minh Mạng có hai loại tiền lưu hành.Đó là tiền quý và tiền gián,tỷ lệ như sau: 1quan quý = 600đồng.         1 quan gián chỉ bằng 360 đồng.
Khi hỏi mượn tiền ,Hồ Xuân Hương chỉ nói mượn 5 quan,không nói là quan gì.Gặp lúc Chiêu Hổ chắc cũng đang thiếu nên chỉ cho mượn số tiền thấp xuống,nhưng vẫn đủ 5 quan:
Quan quý :   3×600      =1800 đồng
1800:360 =   5 quan gián

Giá trị của các loại tiền xưa như thế nào?Đây là những số liệu về lương tiền dưới triều vua Minh Mạng.
-Quan Nhất Phẩm lãnh mỗi năm 400 quan,300 phương gạo,70 quan tiền Xuân Phục,tức tiền áo quần.
-Quan Chánh ngũ phẩm,hàng tri phủ mỗi năm lương 40 quan,43 phương gạo,9 quan tiền Xuân Phục.
-Lính,thơ lại,phục dịch  …lương mỗi tháng 1quan,tiền,1 phương gạo.
Đồng quan ngày xưa nó to thế.Chẳng trách người ta bỏ …quan ra để mua phẩm hàm ,chức tước…để được làm quan!Chẳng trách người phụ nữ ” thời xưa”(tên khác của bài thơ Trăng sáng vườn chè) quên cả thanh xuân,gác tạm những ẩn ức ,dồn nén để một ngày chồng vinh qui về làng…cùng nhau trãi trọn trong một đêm trăng!
Qua những số liệu vừa tìm được,ta có thể thấy rõ bài ca dao “Đi chợ tính tiền” xuất hiện sớm nhất phải từ thời Minh Mạng.Bởi từ lúc này mới có “Một quan tiền  TỐT”mang đi.Tiền tốt chính là tiền quý,phân biệt với tiền gián có giá trị thấp hơn. Cũng thấy được,người phụ nữ trong một buổi chợ quê đã tiêu số tiền bằng lương tháng một người lính.Nhà nàng chắc phải có chuyện quan hôn,kỵ giỗ chi đây!

Thật thú vị,để giải bài toán ẩn bên trong bài ca dao,đã phải đi loanh quanh,lòng vòng.Gặp những bài thơ hay,giai thoại đẹp,biết thêm vài điều về lịch sử…Nếu không có Internet chắc gì người viết đã giải được bài toán ẩn bên trong bài ca dao cổ?Chỉ nghĩ đến kho sách phải lục tìm,những thư viện phải đi đến …đã thấy chồn chân chẳng muốn leo !


PVC (Pleiku 22-8-2011)

Để giết một người Mỹ!

Để giết một người Mỹ!

Bạn có thể bỏ qua mẩu tin này trong hàng đống tin tức hàng ngày, nhưng hiện nay có báo cáo cho biết một người nào đó ở Pakistan đã đăng quảng cáo trên báo chí là sẽ trao một giải thưởng cho bất cứ người nào giết được một người Mỹ, bất kỳ người Mỹ nào cũng được.

Vì thế nha sĩ người Úc này ngay ngày hôm sau đã viết một bản thông báo cho mọi người hiểu tường tận người Mỹ là ai, người Mỹ là thế nào, để mọi người có thể nhận diện khi gặp một người Mỹ!

Một người Mỹ có thể là một người Anh, hoặc người Pháp, người Ý, người Ái Nhĩ Lan, người Đức, người Tây Ban Nha, người Ba Lan, người Nga hoặc người Hy Lạp.

Một người Mỹ cũng có thể là một người Canada, người Mễ Tây Cơ, người từ Châu Phi, người Ấn Độ, người Trung Quốc, người Nhật, người Việt Nam, người Hàn Quốc, người H’ Mông, người Khmer, người Thái Lan, người Úc, người Mã Lai, người Iran, người Trung Đông, người Ả Rập, người Pakistan hoặc người Afghanistan.

Một người Mỹ còn có thể là người Comanche, người Cherokee, người Osage, người Blackfoot, người Navaho, người Apache, người Seminole hoặc là con dân của một trong những bộ tộc thổ dân da đỏ bản địa Mỹ trước kia.

Người Mỹ có thể theo đạo Thiên Chúa giáo, đạo Tin Lành, Do Thái giáo, đạo Phật, đạo Hồi.

Sự thật là số người theo đạo Hồi ở Mỹ đông hơn là ở  Afghanistan .

Sự khác biệt duy nhất là ở Mỹ, người ta có thể tự do sùng bái một tín ngưỡng nào đó mà họ đã lựa chọn.

Người Mỹ cũng có thể là một người được quyền tự do không tin vào bất kỳ tín ngưỡng nào.

Chính vì thế mà họ sẽ chỉ phải trả lời trước Thượng Đế, chứ không phải là trước nhà cầm quyền hoặc trước một nhóm vũ trang nào đó tự phong cho mình cái quyền phát ngôn thay cho nhà cầm quyền hay Thượng Đế.

Người Mỹ sống trong một đất nước trù phú nhất thế giới.

Cội nguồn của sự trù phú này là ở Tuyên ngôn Độc Lập của họ, thừa nhận rằng Thượng Đế đã ban cho mỗi người cái quyền được tự do mưu cầu hạnh phúc.

Người Mỹ rất độ lượng.

image

Người Mỹ đã chìa tay ra để giúp đỡ tất cả những dân tộc nào cần đến mình trên thế giới, mà chưa bao giờ đòi hỏi được trả ơn.

Khi đất nước Afghanistan bị xâm chiếm bởi quân đội Soviet  20  năm trước đây, người Mỹ đã đến cùng với vũ khí và tiếp liệu giúp cho người dân xứ này đứng lên giành lại đất nước!

Trước ngày 11 tháng 9 định mệnh ấy, Người Mỹ đã viện trợ cho dân nghèo  Afghanistan với số lượng nhiều hơn bất cứ quốc gia nào khác trên thế giới.

Biểu tượng quốc gia của Mỹ.

image

Tượng Nữ Thần Tự Do chào mừng những người đói nghèo và kiệt sức, những người đã bị chính quê hương mình từ chối, những kẻ vô gia cư, những người bị dập vùi sau cơn bão tố!

Thế rồi, sau đó chính họ là những người đã xây dựng nên nước Mỹ của ngày hôm nay!

Một số người trong số họ đang làm việc tại Tòa Tháp đôi vào buổi sáng 11  tháng 9 năm 2001, phấn đấu làm sao có được một mức sống tốt hơn cho gia đình của mình!

Thống kê cho thấy các nạn nhân ở tòa Tháp Đôi hôm ấy đã đến từ ít nhất 30 quốc gia, nền văn hóa, và ngôn ngữ ban đầu khác nhau, kể cả những kẻ trước kia đã từng giúp đỡ và ủng hộ các tên khủng bố. 

Vậy bạn hãy cố gắng giết một người Mỹ nếu bạn thực sự phải làm như thế!

Hitler đã giết!

Tướng Tojo của phát xít Nhật cũng đã giết!

Stalin, Mao Tse-Tung, cùng các tên bạo chúa khát máu khác trên thế giới cũng đã giết !…

Nhưng khi giết hại người Mỹ như vậy tức là bạn đã tự giết hại chính mình!

Vì người Mỹ không phải là một người đặc biệt ở một nơi đặc biệt nào đó trên trái đất này.

Họ là hiện thân cho tinh thần tự do của loài người!

Tất cả những người cùng đề cao tinh thần tự do ấy, cho dù họ ở bất cứ nơi đâu trên thế giới này thì cũng được xem như là một người Mỹ!

Hãy để thông điệp này bay đi!

Xin hãy để nó bay đi khắp thế giới!

Hãy giúp nó luân chuyển giữa tất cả các bạn bè của chúng ta.

Nó sẽ nói lên tất cả, nói tiếng nói tự do chung cho tất cả chúng ta!

Xin đừng xóa mà hãy gửi nó đi!

Xin cảm ơn tất cả các bạn!

(Lá thư này được viết bởi một nha sĩ người Úc. Biên dịch theo bản gốc tiếng Anh)

Đức Biển Đức 16 trả lời một nhà toán học vô thần

Đức Biển Đức 16 trả lời một nhà toán học vô thần


Lm. Trần Đức Anh OP

9/24/2013

VATICAN. Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 đã trả lời cho những tấn công của một nhà toán học vô thần người Italia, ông Piergiorgio Odifreddi.

Ông thường xuất hiện trên truyền hình ở Italia và mạnh mẽ phê bình tôn giáo, đặc biệt là Công Giáo. Ông đã viết cuốn ”Giáo Hoàng thân mến, tôi viết cho ngài” (Caro Papa ti scrivo), để trả lời cho cuốn ”Dẫn vào Kitô giáo” (Introduzione al Cristianesimo) của ĐGH Ratzinger.

Lá thư dài 11 trang được Đức nguyên Giáo Hoàng viết trong tháng 8 gửi đến ông Odifreddi hồi đầu tháng 9-2013. Ông đã cho báo phe tả ”Repubblica” (Cộng Hòa), đăng tải trong số ra ngày 24-9-2013.

Trong thư ĐGH Biển Đức cho biết đã đọc sách của ông Odifreddi và ngạc nhiên vì giọng văn gây hấn và sự nhẹ dạ của tác giả trong các biện luận. Ngài bác bỏ lập luận cho rằng thần học là một khoa học giả tưởng, đồng thời xác quyết ngài không bao giờ tìm cách che đậy những điều xấu trong Giáo Hội, những vụ giáo sĩ lạm dụng tính dục. Thư của Đức Biển Đức 16 có đoạn viết: ”Tôi không bao giờ tìm cách che đậy những điều ấy. Sự kiện quyền lực sự ác thấu nhập đến mức độ đó vào trong lòng thế giới đức tin, đối với chúng tôi, đó thực là một điều đau khổ mà một đàng chúng tôi phải chấp nhận, và đàng khác chúng tôi phải làm tất cả những gì có thể để những vụ như thế không tái diễn. Cũng không phải là một điều an ủi khi biết rằng theo nghiên cứu của các nhà xã hội học, tỷ lệ các linh mục phạm những tội ác lạm dụng như thế không cao hơn tỷ lệ trong các giới chuyên nghiệp tương tự. Dầu sao đi nữa, không được ngoan cố trình bày sự lệch lạc ấy như thế đó là một sự nhơ bẩn riêng của Công Giáo mà thôi. Và cũng không được im lặng trước vết tích lớn lao về thiện hảo sáng ngời và tinh tuyền mà đức tin Kitô đã vạch ra qua dòng lịch sử. Và một điều thực sự là ngày nay đức tin đang thúc đẩy nhiều người yêu thương vô vị lợi, phục vụ tha nhân, sống chân thành và công chính”.

Sự trách cứ nghiêm khắc nhất Đức nguyên Giáo Hoàng dành cho ông Odifreddi là về đề tài lịch sử. Ngài viết: ”Điều mà ông nói về Đức Giêsu không đáng với trình độ khoa học của ông. Nếu Ông đặt vấn đề như thế, xét cho cùng, người ta không biết gì về Đức Giêsu, và không gì có thể chấp nhận được chứng tỏ Ngài là một nhân vật lịch sử, như thế thì tôi chỉ có thể quyết liệt mời gọi ông hãy tỏ ra có thẩm quyền hơn một chút về phương diện sử học. Về vấn đề này, tôi đặc biệt khuyên ông đọc 4 cuốn mà Martin Hengel, một nhà chú giải Kinh Thánh thuộc phân khoa thần học tin lành ở Tuebingen, đã xuất bản cùng với Maria Schwmer: đây là một thí dụ tuyệt hảo về sự chính xác lịch sử và cung cấp rất nhiều thông tin lịch s. Đứng trước sự kiện ấy, điều mà ông nói về Đức Giêsu thực là một kiểu nói nhẹ dạ không nên lập lại”.

ĐGH Biển Đức 16 cũng đặt câu hỏi với ông Odifreddi: ”Nếu ông muốn thay thế Thiên Chúa bằng ”Thiên Nhiên”, thì vẫn còn có câu hỏi: thiên nhiên này là ai hoặc là gì. Không có chỗ nào trong sách ông định nghĩa thiên nhiên và vì thế nó thiên nhiên xuất hiện như thần minh vô lý, chẳng giải thích gì cả.. Nhưng nhất là tôi muốn nhận xét rằng trong Tôn giáo của ông về toán học, có 3 đề tài cơ bản của cuọc sống con người không được xét tới: tự do, tình yêu và sự ác. Tôi ngạc nhiên vì ông chỉ nhắc lướt qua tới tự do, mặc dù đây đã và đang còn là giá trị chủ yếu của thời đại ngày nay”. Tình yêu cũng không được nói đến trong sách của Odifreddi và cả sự ác cũng chẳng được đề cập đến.. Tôn giáo toán học của ông không biết thông tin nào về sự ác. Một tôn giáo bỏ qua những câu hỏi cơ bản như thế thì là một tôn giáo trống rỗng”

Từ khi từ nhiệm và sống ẩn dật tại Vatican, đây là lần thứ hai ĐGH Biển Đức 16 ”xuất hiện” công khai, nhưng ngài vẫn giữ nguyên lời hứa ẩn mình đối với thế giới (Vat. Ins. 24-9-2013)

Việt Nam: Cái chết biết trước của tự do thông tin

Việt Nam: Cái chết biết trước của tự do thông tin

23.09.2013

Một hôm trước ngày Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng thăm Pháp, Tổ chức Phóng viên Không Biên giới RSF có trụ sở ở Pháp đã công bố phúc trình “Cái chết biết trước của tự do thông tin” tại Việt Nam.

Phúc trình xét đến những phương pháp mà chính phủ của ông Dũng đã sử dụng để kiểm duyệt truyền thông, gây rối các blogger và các người bất đồng chính kiến trên mạng.

RSF đã trình bày những kết luận của mình trong buổi họp báo hôm thứ Hai tại trụ sở của hội của Paris.

Thay vì đưa ra chi tiết nhiều vụ truy bức các blogger, phúc trình xét đến cơ chế đàn áp một cách tổng thể, ảnh hưởng đến tất cả người dân Việt Nam, không riêng gì con số độ 40 blogger.

RSF nói họ định lợi dụng chuyến đi Pháp của Thủ tướng Dũng để nói lên tình trang kinh khiếp về tự do thông tin tại Việt Nam, và để ông lưu ý về tình trạng của 35 blogger còn đang bị tù.

RSF cũng định trao cho Thủ tướng Dũng kiến nghị có 25.000 chữ ký kêu gọi trả tự do cho các blogger này, nhưng đáng tiếc sau nhiều lần tiếp xúc vẫn chưa có câu trả lời.

RSF kêu gọi chính phủ Pháp đừng làm ngơ về quyền tự do báo chí và thông tin tại Việt Nam, đừng quên những vụ hành hung nhà báo và blogger vào lúc Pháp và Việt Nam đang củng cố quan hệ.

Nguồn: Reporters Without Borders

TẤT CẢ LÀ HỒNG ÂN

TẤT CẢ LÀ HỒNG ÂN

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Thường, sau giờ cơm, anh em chúng tôi có chút thời gian thư giãn, tếu táo với nhau một lát rồi đi nghỉ.

Trưa hôm nay, cảm hứng dậy lên trong lòng và người anh em kia ngêu ngao : “Hồng ân Chúa như mưa như mưa, rơi xuống đời con miên man miên man nâng đỡ tình con trong tay trong tay vòng tay thương mến …”. Nghe hát như thế, một người trêu lại : “… rơi xuống đời con te tua te tua …”.

Chắc có lẽ, dưới góc nhìn của người anh em về những kẻ thân phận phiêu bạt, trôi dạt vào một góc nào đó của cuộc đời nên trêu nhau tí cho đỡ buồn. Anh nói như thế như chia sẻ, cảm thông về phận của những kẻ bị gạt ra bên lề.

Hiểu lòng chạnh thương của anh và tôi nói với anh rằng biết là anh đùa nhưng mình không nên nghĩ như thế bởi lẽ trong cuộc sống, tất cả đều là hồng ân. Không phải sống trong cảnh khó khăn, bị bỏ rơi, bị gạt là hồng ân nhưng trong cảnh sống đó, ta có cơ may nắt gặp lòng “chạnh thương” thật sự của Thiên Chúa qua một số anh em.

Tôi nói, anh có nhớ hôm thứ Ba vừa rồi, trong bài chia sẻ của mình, cha giảng mời gọi anh em nhìn lại lòng chạnh thương của Chúa Giêsu khi Ngài thương cảnh mẹ góa phải chôn con côi. Cha nói rằng không phải lòng chạnh thương đó mình đặt ở đâu đó cách đây vài ba ngàn cây số hay ở đâu đâu. Lòng chạnh thương đó cần lắm ở những anh em đang nằm bệnh hay những anh em ở trên cao kia kìa, những anh em đang đang gặp khó khăn thử thách kìa …

Hóa ra rằng trong những giây phút khó khăn của cuộc đời, cũng có người chạnh thương đến anh em đang gặp khó khăn. Phải chăng đó là hồng ân mà Thiên Chúa đang trao gửi.

Và, tôi cũng nhắc với người anh em là mới hôm qua thôi. chẳng hiểu duyên cơ nào đến, cha giảng lại gợi lại hình ảnh của Phêrô và Giuđa. Cha giảng chia sẻ rằng có thể hôm nay con thấy mình thánh thiện nhưng biết đâu được đến một lúc nào đó con phản bội Chúa như Phêrô và Giuđa. Thế nhưng, chuyện quan trọng là trong lúc tăm tối của cuộc đời, ta có chạm đến ánh mắt chạnh thương của Chúa Giêsu hay không ? Ánh mắt của Chúa Giêsu đang bị trói ở góc sân Dinh Thượng Tế chứ không phải là ánh mắt khi làm phép lạ, khi hóa bánh ra nhiều, khi làm cho sóng gió yên lặng … Và, trong cuộc sống, ánh mắt của ta có chạm, có chạnh thương đến với những con người nghèo khổ đang ở ngay bên cạnh ta không ? …

Thế đó ! Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh như Thánh Phaolô mời gọi. Trong hoàn cảnh bi đát nhất của cuộc đời khi bị loại trừ, khi bị lên án, khi bị sỉ nhục đi chăng nữa thì ta vẫn còn một nơi để ta bám víu đó là chính ánh mắt, đó chính là lòng chạnh thương của Chúa Giêsu.

Trong cái thân phận bi đát tủi nhục của cuộc đời, ông Giob vẫn tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Cuối đời, Thiên Chúa đã phục hồi cho ông những gì ông bị mất mát, đau khổ.

Trong cái nhìn khinh khi của cuộc đời, Đavit đã cúi đầu nhận tội với Thiên Chúa và ông được Thiên Chúa tha thứ. Trong cảm thức đau khổ, Đavít luôn xin Chúa chạnh thương con người yếu hèn của mình. Hồng ân thương xót tha thứ của Thiên Chúa đã đổ tràn trên đời của vua Thánh Đavít.

Với cảm nhận thực tại của cuộc sống ta sẽ cảm nhận đời ta quả là hồng ân Chúa cứ miên man miên man. Không phải chỉ nhắm đến cái ăn cái mặc cho cái thân xác tạm bợ bảy tám chục ký này nhưng khi nhìn vào thực tại cuộc sống, ta hạnh phúc hơn rất nhiều người.

Nghĩ xa hơn một tí, ta có thể bị thế này thế kia trong cuộc đời nhưng ta chưa phải lâm vào cảnh thiếu trước hụt sau hay phải chạy ăn từng bữa.

Những ngày này, thời tiết không như ta nghĩ và cũng không như ta mong muốn bởi ảnh hưởng của giông bão. Có thể sáng nắng đó nhưng chiều đến thì những cơn mưa giông thật lớn trào xuống. Và, cũng có thể trước khi ta đi ngủ, bỗng dưng cơn mưa nặng hạt như trút nước xuống. Và, dù mưa to gió lớn như thế nào đi chăng nữa, ta vẫn ấm êm trong căn nhà kiên cố để rồi gió và bão cũng chẳng làm gì được ta.

Và, ta đang vẫn còn hạnh phúc vơi thân thể chưa phải lâm vào cảnh trọng bệnh. Khi nào ta rơi vào cảnh đó ta mới cảm được thấu nỗi đau của phận người. Phận người vẫn mong manh và thật nhỏ bé trong bàn tay của Đấng Tạo Thành.

Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh, hãy chúc tụng Danh Chúa bởi vì muôn ơn lành Chúa vẫn ngày đêm tuôn đổ xuống trên đời ta và nhất là ánh mắt chạnh thương của một Giêsu giàu lòng thương xót luôn dõi nhìn ta dù cho ta có lỗi tội, dù ta phản bội Ngài.

Hãy xin cho có ơn như Phêrô và Giuđa để luôn dõi mắt nhìn ánh mắt chạnh thương của Chúa để được ơn cứu độ sau cõi tạm này.

Anmai, CSsR

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

KHI VỢ KHÁC NIỀM TIN TÔN GIÁO – Phần 1

KHI VỢ KHÁC NIỀM TIN TÔN GIÁO – Phần 1

Trích EPHATA 580

Người anh em mến,

Không khí tiết trời đang chuyển sang se se lạnh với gió nhẹ hiu hiu mỗi sớm mai thức dậy khiến nhiều người chúng ta đang trải nghiệm một cảm giác gì đó vừa thân quen lại vừa lạ lạ, bởi đất trời đổi thay và thời tiết thì cũng không nằm ngoài quy luật bất biến ấy. Cá nhân anh, cảm thấy lòng nhẹ nhàng và thanh thản đến lạ kỳ, khi mỗi sáng được ngồi bên khung cửa sổ của một quán cafe để chiêm ngắm cuộc sống.

Và ngay lúc này khi đang nghe đĩa nhạc thời danh Cantate Domino – một album nhạc cổ điển cho mùa Giáng Sinh đang về với chúng ta, đĩa nhạc được thực hiện bởi dàn nhạc Oscar’s Motet Choir dưới sự chỉ huy của Torsten Nilsson, với rất nhiều nhạc khúc tuyệt vời khác nhau của các nhà soạn nhạc tài ba qua mọi thời đại, anh chợt nhớ đến câu hỏi mà em đặt ra cho anh khi chúng ta trò chuyện cách đây ít lâu về chủ đề niềm tin tôn giáo trong cuộc sống lứa đôi.

Em cho anh biết, em đang quen bạn gái và người này lại khác niềm tin tôn giáo với em ( Một bên là Kitô Hữu Công Giáo và một bên là Phật Tử Phật Giáo ), em trăn trở vì không phải hai bạn khác nhau về niềm tin, nhưng là suy nghĩ đến thế hệ tiếp theo là những đứa con của hai em trong mối tương quan với tất cả những người xung quanh. Liệu con của các em nó có phát triển cách đúng đắn theo Đức Tin Công Giáo mà em đã được thụ hưởng không, hay nó sẽ bị rơi vào tình trạng rối loạn niềm tin như nhiều người khác mà em có dịp quen và làm việc chung với họ khi những người này là con của những gia đình khác niềm tin tôn giáo.

Trước vấn đề em suy nghĩ và trăn trở, anh xin được gửi đến em một vài chia sẻ khi đặt chính bản thân anh vào hoàn cảnh và tình huống của em. Những suy nghĩ này không có mối liên hệ gì đến Giáo Luật ( Vì Giáo Luật hoàn toàn cho phép hai bạn kết hôn khác niềm tin tôn giáo ), cũng không liên quan gì đến Pháp Luật ( Vì pháp luật không ngăn cấm ), và cũng không liên quan gì đến Đạo ( vì đạo nào thì cũng tốt theo nghĩa hướng người ta đến chỗ sống tốt ). Ở đây, anh chỉ đề cập đến yếu tố tập chú vào cháu bé khi còn nhỏ cho đến khi lớn lên trong mối tương quan cháu bé được hai em cho dự phần vào Đức Tin Công Giáo.

Vùng đất nhiễm phèn và ngập mặn

Ai cũng biết ở vùng đất thế này thì chẳng có cây gì có thể trồng trọt, canh tác, hay phát triển bình thường được. Đây là một sự thật từ thiên nhiên mời gọi chúng ta suy nghĩ về mối tương quan giữa hai bạn và các con của hai bạn sau hôn nhân trong mối liên hệ đến sự pha trộn quá nhiều cái mà chúng ta không gọi là sự khác biệt cho bằng sự bất đồng về quan điểm giáo dục và niềm tin. Nếu vùng đất nước ngập mặn và nhiễm phèn đã khó và gần như không thể canh tác và trồng trọt, thì hẳn một môi trường gia đình pha trộn sự bất đồng của nhiều yếu tố cũng khó có thể mang lại cho xã hội một nhân tố tốt lành và hữu ích. Cây đó nếu trồng được thì hẳn sẽ không bình thường nếu không muốn nói là èo uột, còn giả như bình thường thì hẳn trái của nó sẽ không ngon ngọt như những cây được trồng ở đúng vùng đất tốt và hoàn hảo.

Trước hết, chúng ta nói với nhau về sự bất đồng về quan điểm giáo dục. Ở đây, ai cũng nhân danh cái gọi là “muốn con mình là người tài đức và hữu ích cho gia đình và xã hội” trên môi miệng để tạo nên thế đối kháng khi giáo dục con cái về nhân cách. Có quá nhiều gia đình mà các bậc cha mẹ không thống nhất với nhau về quan điểm nuôi dạy con cái, đã tạo nên cho những người con mình một sự phát triển không đúng đắn về tâm lý và nhân cách sau này.

Vì sự không thống nhất này mà hễ cháu ngồi với cha thì cha nói một đằng, cháu nghe và áp dụng; khi ngồi bên mẹ, mẹ lại thủ thỉ một đằng khác trên cùng một vấn đề, và cháu thắc mắc vì sao có sự khác khác này giữa cha và mẹ thì cả hai đều thay vì giải thích để cháu thêm phong phú ( nếu có ) lại quay ra chê bai quan điểm của nhau, vì ai cũng muốn con mình tung hô và khen là tài giỏi ( Lớn rồi mà vẫn cứ như con nít ).

Thế nên, bối rối giữa cha và mẹ mà lại không được giải thích cặn kẽ, nên để khỏi mất lòng cha mẹ, cháu tự nghĩ ra một quan điểm mới mang tên là “Quan Điểm Của Tôi”. Từ nay, ông nói kệ ông, bà nói kệ bà, tôi sống theo cách của tôi. Về mặt này, người anh em cần suy nghĩ cho thật đúng đắn trước khi kết hôn, cần có những trao đổi thẳng thắn trong thời kì tìm hiểu chứ đừng vì sợ mất cảm hứng, hay mất vui, hay mất lòng mà ngần ngại không dám đề cập và trao đổi với nhau. Đây cũng là lầm lạc rất lớn của nhiều đôi bạn khi hoặc vì nhát đảm hoặc vì thiếu hiểu biết sâu sắc thật sự mà không dám đề cập khi đang “yêu nhau”, để rồi khi lấy nhau về họ cũng chưa dám nói ra, và khi có con thì mâu thuẫn từ đây nảy sinh. Và thế là thay vì khiêm tốn nhận ra thiếu sót và chân thành cùng bàn bạc ra một đường lối và quyết sách chung, họ lại áp dụng phương thức mạnh ai nấy dạy con cho nó thành quái nhân.

Thứ đến, chúng ta cùng nói về sự bất đồng trong quan điểm giáo dục niềm tin ( nói theo cách chung nhất, vì theo quan điểm Công Giáo thì gọi là Giáo Dục Đức Tin ). Người anh em vốn đã được giáo dục Đức Tin Công Giáo tinh tuyền từ tấm bé, thế nên theo Giáo Luật thì cha mẹ phải có trách nhiệm sinh sản và giáo dục theo Đức Tin Công Giáo. Đó là luật buộc, không thể tranh luận gì thêm.

Tuy nhiên, khi người vợ anh em hoặc giữ đạo mình theo Phép Chuẩn Công Giáo (chồng giữ đạo chồng, vợ giữ đạo vợ) hoặc gia nhập Giáo Hội ( Tức là có cùng một Đức Tin vì mới theo đạo ) nên hệ quan điểm có phần nào hoặc bất đồng hoặc vì chưa chắc chắn vì bản thân cô ấy còn quá mới so với mấy chục năm sống. Vì đứa bé sẽ được giáo dục theo bố, tức là học tất cả mọi điều theo truyền thống giáo dục Đức Tin của Giáo Hội, nên bố lúc này sẽ giữ vai trò quyết định. Tuy nhiên, bản thân bố vì nhiều lý do mà đôi khi bản thân đã không thông tường hết mọi điều về Tín Lý và Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo dạy đã thấy mình tự thân rối, nhưng vẫn ráng sức dạy dỗ cho con những điều căn bản.

Rồi người con ấy lại chạy đến hỏi mẹ, và mẹ vì không muốn con mình chê là thiếu hiểu biết nên đành giải thích theo cách mẹ nó hiểu ( Hiểu kiểu nào thì cũng sẽ gặp vấn đề, vì đức tin không thuộc phạm trù giải thích theo lý luận của triết học ), và từ đây đứa bé do thấy mâu thuẫn và thiếu thoả đáng, nó sẽ tự ý tạo ra một cách hiểu và thực hành Đức Tin mới có tên là “Kiểu Sống Đạo Của Tôi”. Từ nay, ông nói gì kệ ông, ông giải thích gì kệ ông, bà dạy gì thì tuỳ, tôi sống theo cách của tôi miễn sao lương tâm không cắn rứt và không hổ thẹn là được.

Về điểm này, anh em cần thẳng thắn hỏi lại bản thân mình cách nghiêm túc trước khi mời gọi người yêu của mình theo đạo hoặc đạo ai nấy giữ khi còn đang yêu nhau. Câu hỏi anh em cần đặt ra cho bản thân mình là “Tôi đã thực sự dùng thời gian để tìm hiểu kỹ càng Tín Lý và Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo dạy chưa ?”, “Tôi đã thực hành Đức Tin của mình thế nào để có thể trở thành mẫu gương cho người bạn đời này qua đó mà nhận ra Đấng mà tôi tuyên tín ?”

Nếu hai câu hỏi này mà anh em can đảm quả quyết “CHƯA !” thì anh em hãy khoan lập gia đình, không phải vì hèn nhát, nhưng vì phần ích và phần rỗi của cả vợ và con người anh em tương lai, nếu không muốn nói đến cả một cộng đồng to lớn phía trước đang chờ đón anh em phía trước.

Nếu phần anh em đã có chữ “RỒI” cách quả quyết thì cần hỏi về phía người anh em sẽ kết hôn. Câu hỏi là “Liệu nàng có thật sự tin theo một Đức Tin tinh tuyền mà Thiên Chúa đã đặt sẵn nơi trái tim không, hay theo như một thủ tục để có chồng cho xong ?”, “Liệu nàng có thiện chí để sống hoà hợp trong cùng một Đức Tin với mình để tạo nên thế đồng nhất trong việc giáo dục con cái không ?” “Liệu nàng có hoàn toàn tôn trọng Đức Tin và truyền thống giáo dục Đức Tin của Giáo Hội và để tôi giáo dục con cái, cũng như để con cái được tự do theo Đức Tin ấy trong trường hợp nàng giữ đạo nàng không ?” Nếu sau khi trao đổi, tìm hiểu, và phán đoán, anh em thấy “KHÔNG” nhiều quá, thì tốt nhất can đảm ngừng lại mối quan hệ này còn hơn là cứ ráng nhân danh tình yêu để rồi phải chuốc khổ và tội vào thân.

Người anh em thân mến, anh xin dừng lại câu hỏi của em tại đây và sẽ chia sẻ tiếp với em vào các lá thư khác cùng chủ đề. Trong thư này, anh mời gọi em suy nghĩ về hai khía cạnh anh vừa nêu ra trước khi tiến đến hôn nhân thực sự. Vì như anh em biết đấy, hai đặc tính quan trọng của Hôn Nhân Công Giáo là Đơn Hôn và Bất Khả Phân Ly. Theo đó, đơn hôn nghĩa là chỉ một vợ một chồng và chung thuỷ với nhau cả trong tư tưởng lẫn trong các mối quan hệ; bất khả phân ly nghĩa là mối dây hôn phối ấy khi được xem là hợp Pháp và hợp Giáo Luật thì tồn tại cho đến khi chết ( hoặc vợ hoặc chồng ) còn ngoài ra thì không còn sự gì có thể chia rẽ đôi bạn, điều này loại trừ luôn sự ly dị ( Nghĩa là không có sự ly dị ).

Chính vì lẽ này, mà chúng ta không có quyền chọn lựa theo kiểu sống thử hay lấy thử, hợp thì tiếp tục không hợp thì chia tay theo như nhiều anh em ngoài Công Giáo vẫn sống được. Anh em hãy kết hôn cách có ý thức và trách nhiệm tròn đầy không phải chỉ trước mặt người mình yêu hay con cái, mà là trước mặt Thiên Chúa và Giáo Hội.

Xin được hẹn anh em trong lá thư tới chúng ta sẽ trao đổi các vấn đề khác trong cùng một chủ đề. Có điều gì anh em chưa rõ thì đừng ngần ngại thư cho anh nhé. Mến chúc anh em tìm cho mình câu trả lời xác thực nhất để sống vui và hạnh phúc nhé.

JOSEPH C. PHAM

LÀM TÔI AI ?

LÀM TÔI AI ?

Trích EPHATA 580

Được biết vào tháng 9 năm 2013 ( từ ngày 9 đến 16 tháng 9 ) tại Hà Nội có hội diễn 10 vở kịch của Lưu Quang Vũ, để tưởng niệm 25 năm ngày mất của nhà thơ, nhà biên kịch tài danh.

25 năm trước, xã hội Việt nam sôi động vì những kịch bản của Lưu Quang Vũ xuất hiện ồ ạt trên sân khấu nghệ thuật, nội dung kịch bản chạm vào những vấn đề nhức nhối của xã hội, mà khi ấy không mấy ai dám nói, dám bình phẩm. Lưu Quang Vũ đã đem lên sân khấu để nghiềm ngẫm, lý giải, tiên đoán và gợi hướng thoát.

Là một khán giả ở phương Nam, say mê với cải lương Lá sầu riêng trổ bông, Dưới hai màu áo, tha thiết với kịch của Túy Hồng nhạc minh họa Lam Phương, bình tĩnh với kịch Vũ Đức Duy, lãng mạn với nhạc phim Nhật Trường – Thanh Lan, … tôi chưa quen lắm với lối diễn xuất kịch nghệ thuật từ phương Bắc, nhưng tôi đã hoàn toàn bị say đắm bởi kịch bản của ông khi đến rạp xem “Tôi và chúng ta”, “Hồn Trương Ba da hàng thịt”…

Đột nhiên một ngày nghe tin ông mất, chuyến xe định mệnh từ Hải Phòng về Hà Nội, ông ra đi cùng với đứa con yêu, Lưu Quỳnh Thơ, và người vợ tài hoa, thi sĩ Xuân Quỳnh. Thương tiếc và chán nản, vì cái chết xem ra khó hiểu và quá đột ngột. 25 năm sau, tôi không có dịp ra Hà Nội để xem hội diễn, nhưng báo chí bảo rằng: người ta chen nhau vào xem, có khi chỉ để ngồi sau lưng người khác nghe lời thoại.

Tôi tìm vào mạng xem vở kịch “Ông không phải là bố tôi”. Câu chuyện xoay quanh một gia đình ba thế hệ, từ “cuộc kháng chiến” người trai trẻ bỏ lại vợ con lên đường, hết chiến tranh anh ta không về lại quê nhà, khi vợ con tìm đến, anh sợ mất điểm với chế độ, vì bố vợ anh di cư vào Nam năm 1954, anh đã từ chối vợ con.

Kịch bản bắt đầu từ câu “Tôi không phải là bố anh” để rồi xuyên suốt vở kịch, câu “Ông không phải là bố tôi” được lập đi lập lại, từ miệng đứa con trai của anh bộ đội năm xưa, cho đến thế hệ kế tiếp nữa là đứa con trai của anh ta. Sân khấu bày ra sự bế tắc về xã hội mà nền tảng là gia đình bị phá vỡ, chỉ vì danh vọng, chỉ vì bám víu lấy sự tồn tại trên cõi đời, chỉ vì ham mê thế gian, con người lọc lừa gian dối nhau, từ chối nhau, hành xử bất nhân bất nghĩa với nhau…

Giữa những cái lùng nhùng bế tắc đó, anh con trai, thế hệ thứ ba, cháu nội của người cán bộ năm xưa từ chối con mình, đã thiết kế dàn dựng một bài học làm sáng mắt cha mẹ và ông nội mình, mang lại cho người xem chút hy vọng vào thế hệ trẻ, thế hệ ý thức và đảm nhận trách nhiệm đứng lên xây dựng lại nhân phẩm và con người.

Báo chí trong tuần qua tường thuật lại những phát biểu tại phiên họp Thường Vụ Quốc Hội Việt Nam, Từ ông chủ tịch Quốc Hội, đến bà phó chủ tịch Nước, cùng các đại biểu đều đưa ra những nhận định chua xót về xã hội, một xã hội phá sản đến tận cùng, một xã hội rơi xuống đáy của tôn ti trật tự, của lòng tự trọng và của nhân bản.

Lưu Quang Vũ có lời tiên tri trong các kịch bản của ông, lời tiên tri về sự xuống dốc, 25 năm đủ minh chứng lời ấy, và hình như lời tiên tri đó cũng đúng cho cả phần cuối. Một lớp trẻ đang ý thức và sẵn sàng đứng lên dựng lại cơ đồ.

Bài Tin Mừng Chúa nhật 25 Thường Niên C đưa ra một quả quyết “không ai có thể làm tôi hai chủ… Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” ( Lc 16, 13 ), phải có một chọn lựa dứt khoát, thế gian ( hiểu theo nghĩa xấu ) và Thiên Chúa là hai thái cực, hoặc chọn bên này mà bỏ bên kia, hoặc chọn bên kia mà bỏ bên này, đi tìm một thỏa hiệp là tự giết chết mình và phản bội sứ mạng.

Hãy làm chứng rằng Tin Mừng thật sự là tin mang đến nỗi vui mừng cho mọi người, người ta chen lấn đến dù chỉ để nghe lời thoại một vở kịch của một tác giả đã chết, vậy Lời thật của một Đấng hằng sống phải được công bố để làm thỏa cơn đói khát người nghe.

Lm. VĨNH SANG, DCCT, Chúa Nhật 22.9.2013

Độc tài: Mạnh hay yếu?

Độc tài: Mạnh hay yếu?
Ở Đức, dưới thời Hitler, đảng Nazi chỉ có trên năm triệu đảng viên trên tổng số khoảng 80 triệu dân
Ở Đức, dưới thời Hitler, đảng Nazi chỉ có trên năm triệu đảng viên trên tổng số khoảng 80 triệu dân
18.09.2013
Người ta thường dễ có ấn tượng là các chế độ độc tài đều mạnh: Chúng có quân đội, có công an, có mật vụ, có chỉ điểm viên (và gần đây, ở một số nước, có “dư luận viên”) trùng trùng điệp điệp. Song song với các lực lượng ấy, chúng có súng đạn, tòa án, nhà tù và các bãi bắn hoặc phòng chích thuốc độc. Nếu các yếu tố trên chưa đủ để khiến mọi người khiếp sợ, các chế độ độc tài còn có thêm một yếu tố này nữa để “thuyết phục” mọi người nên tiếp tục khiếp sợ: Chúng thường có một lịch sử rất dài hoặc khá dài.

Trước hết, nên lưu ý: trong lịch sử nhân loại, độc tài có “tuổi thọ” cao hơn hẳn dân chủ. Dân chủ chỉ là một hiện tượng mới. Thực sự là dân chủ lại càng mới. Mới và lạ: Không phải ở đâu người ta cũng thấy được mặt mũi của dân chủ. Chính vì sống quá lâu với độc tài, từ độc tài phong kiến đến độc tài thực dân và độc tài Cộng sản như vậy, nhiều người cảm thấy quen thuộc, ngỡ nó là số mệnh, như một cái gì đương nhiên. Không thể thoát được. Sự chấp nhận dễ dàng ấy càng làm cho độc tài có vẻ mạnh mẽ hơn.

Độc tài càng có vẻ mạnh hơn nữa khi người ta so sánh nó với dân chủ. Dân chủ, ngay cả khi được xem là hình thức tổ chức hoàn hảo nhất trong tiến trình phát triển của nhân loại, như một điểm “tận cùng của lịch sử” không bao giờ gợi lên ấn tượng về sự mạnh mẽ. Một xã hội càng dân chủ bao nhiêu càng làm cho người ta quên cảm giác về quyền lực bấy nhiêu. Không bị ám ảnh về quyền lực, người ta cũng không có ý niệm về sức mạnh của nó.

Thật ra, tất cả các ấn tượng trên đều giả. Từ góc độ thực tế, các nước dân chủ bao giờ cũng giàu, mạnh và ổn định hơn hẳn các nước độc tài. Từ góc độ lịch sử, xu hướng phát triển chung của nhân loại là chiến thắng của dân chủ trên độc tài chứ không phải ngược lại. Từ góc độ lý thuyết, chính phủ dân chủ bao giờ cũng là chính phủ của đa số, hơn nữa, vì được xây dựng trên nền tảng hiến pháp và luật pháp vững chắc và công minh, luôn luôn bị áp lực của các lực lượng đối lập và của xã hội dân sự mạnh mẽ, chính phủ dân chủ nào cũng cố gắng trở thành chính phủ của toàn dân, của mọi người chứ không phải chỉ giới hạn trong những người đã ủng hộ và bỏ phiếu cho mình.

Chính phủ độc tài, ngược lại, bao giờ cũng là chính phủ của thiểu số. Không bao giờ có thiểu số tuyệt đối: Ngay ngày xưa, dưới chế độ phong kiến, mọi quyền lực hầu như tập trung hết vào tay nhà vua, kẻ được xem là con Trời. Nhưng vua bao giờ cũng tìm cách liên minh với tầng lớp quý tộc và quan lại để tạo thế lực. Do đó, chính nhà vua cũng phải tự động san sẻ quyền lực với những người khác. Thời hiện đại, các nhà độc tài cũng tìm cách san sẻ quyền lực và quyền lợi với người khác, chủ yếu qua hệ thống đảng mà họ lãnh đạo. Nhưng dù mở rộng đến mấy thì đó cũng vẫn là thiểu số. Ở Đức, dưới thời Hitler, đảng Nazi chỉ có trên năm triệu đảng viên trên tổng số khoảng 80 triệu dân. Ở Việt Nam hiện nay, trên tổng số gần 90 triệu dân, số đảng viên Cộng sản chỉ có khoảng bốn triệu. Vẫn là thiểu số.

Chỉ cần làm một bài tính nhẩm cũng có thể thấy ngay thế yếu của các chế độ độc tài: Đó là sự đối đầu của thiểu số đối với đa số, của một nhóm người ít ỏi với một đám quần chúng đông đảo. Các nhà độc tài thừa hiểu điều đó nên bao giờ cũng tìm cách củng cố sức mạnh của họ bằng ít nhất ba biện pháp chính: Thứ nhất, trong khi củng cố tổ chức của họ thật chặt chẽ, họ tìm cách phân hoá cái khối đa số quần chúng đông đảo kia, không cho phép quần chúng tập hợp lại và thống nhất với nhau. Thứ hai, dùng biện pháp tuyên truyền để, một mặt, khuếch đại sức mạnh của mình, mặt khác, để tạo ảo tưởng là họ đang đại diện cho đa số, thậm chí, đại đa số, hơn nữa, của mọi người. Và thứ ba, sử dụng bạo lực để đàn áp và khủng bố mọi người.

Có thể nói, sức mạnh của các chế độ độc tài chủ yếu được xây dựng trên ba nền tảng chính: Một, phân hoá dân chúng, hai, lừa dối, và ba, khủng bố. Biện pháp đầu làm cho người ta nghi ngờ nhau; hai biện pháp sau làm cho người ta sợ hãi. Cũng có thể nói, sức mạnh các chế độ độc tài không nằm ở bản thân nó mà chủ yếu nằm ở sự chia rẽ và  khiếp nhược của mọi người. Khi, vì lý do nào đó, mọi người đoàn kết và can đảm đòi hỏi quyền lợi và quyền lực cho mình thì các nhà độc tài chỉ có thể làm giống như Muammar Gaddafi ở Libya năm 2012: chui xuống ống cống.

Không có nhà nước pháp quyền thì không có phương tiện để chống tham nhũng, tham ô

Không có nhà nước pháp quyền thì không có phương tiện để chống tham nhũng, tham ô

Hà Huy Sơn

“Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International – TI), tham nhũng là lợi dụng quyền hành để gây phiền hà, khó khăn và lấy của dân. Tham ô là hành vi lợi dụng quyền hành để lấy cắp của công.” (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)

Nhà nước pháp quyền là nhà nước “của dân, do dân, vì dân”. Một nhà nước không phải là nhà nước pháp quyền thì đó là nhà nước độc quyền của một số ít người. Để tham nhũng, tham ô phải có quyền hành; để chống tham nhũng, tham ô cũng phải có quyền hành. Ở nhà nước độc quyền quyền lực, nhà nước không được phân chia mà thống nhất bởi một chủ thể. Kẻ có quyền hành không chống tham nhũng, tham ô thì xã hội không có phương tiện nào để chống tham nhũng, tham ô. Ở nhà nước độc quyền, những kẻ có quyền hành tham nhũng, tham ô mà không sợ bị trừng phạt vì ở đó không có một bộ phận quyền lực nhà nước nào là độc lập để có thể ngăn chặn hiệu quả. Trong xã hội do nhà nước độc quyền quản lý thì kẻ tham nhũng, tham ô và người chống tham nhũng, tham ô là một. Tệ nạn tham nhũng, tham ô cũng chính là một tiêu chí để phân biệt đâu là nhà nước độc quyền và đâu là nhà nước “của dân, do dân, vì dân”.

Tham nhũng, tham ô vừa là mục đích vừa là mâu thuẫn của nhà nước độc quyền. Một mặt nó gắn kết giữa những kẻ có quyền hành với nhau trong một nhà nước độc quyền; nhưng mặt khác nó cũng làm tan rã và dẫn đến hủy hoại chính cái nhà nước ấy. Bởi vậy, trong xã hội do nhà nước độc quyền quản lý cũng có việc chống tham nhũng, tham ô nhưng đây chỉ là cuộc chơi của những kẻ có quyền hành và nằm trong giới hạn và phục vụ cho mục đích của nhà nước đó chứ không vì lợi ích của người dân. Nếu ví xã hội là cỗ xe ngựa thì nhà nước độc quyền là những kẻ ngồi trên cỗ xe đó. Tham nhũng, tham ô cũng giống như những kẻ ngồi trên cỗ xe luôn ăn bớt vào khẩu phần của những con ngựa kéo xe, nếu ăn bớt quá mức sẽ làm cho những con ngựa kiệt quệ, quá sức chịu đựng mà đổ quỵ thì khi đó những kẻ ngồi trên cỗ xe đó cũng tan xác. Việc chống tham nhũng, tham ô của nhà nước độc quyền chỉ là nửa vời, không triệt để. Vì không còn tham nhũng, tham ô thì nhà nước độc quyền không còn động cơ để tồn tại và sẽ dẫn tới sụp đổ. Nếu chống tham nhũng, tham ô triệt để là đồng nghĩa với việc xóa bỏ nhà nước độc quyền.

Không có nhà nước pháp quyền thì không có phương tiện để chống tham nhũng, tham ô; bản chất của việc chống tham nhũng, tham ô của một nhà nước độc quyền không phải “do dân, của dân, vì dân” là như vậy. Tất cả những tai họa của đất nước trong quá khứ, hiện tại và hiểm họa trong tương lai đều có nguyên nhân là do dối trá. Che giấu sự thật, ngăn cấm sự bày tỏ ý chí của nhân dân, chà đạp nhu cầu cấp thiết của xã hội là tội lỗi và ắt sẽ bị quy luật đào thải.

Hà Nội, 21/09/2013

H. H. S.

Năm Ngàn & Năm Cắc

Năm Ngàn & Năm Cắc

Tưởng Năng Tiến


Lão bà nghỉ chợ bần thần
Đem tiền [Cụ Hồ] ra đếm mấy lần chửa xong
Xếp riêng rồi lại xếp chung
Miệng thời lẩm bẩm mà … (không rõ nhời) !

Lão Nông

Vài bữa sau, sau ngày đổi tiền ở miền Nam,  tờ Sài Gòn Giải phóng (số ra hôm 27 tháng 9 năm 1975) đã gửi đến những người dân ở vùng đất này đôi lời an ủi:

Nhiệm vụ của đồng bạc Sài Gòn (là) giữ vai trò trung gian cho Diệm xuất cảng sức lao động của đồng bào ta ở miền Nam cho Mỹ… Làm trung gian để tiêu thụ xương máu nhân dân miền Nam, làm trung gian để tiêu thụ thân xác của vô số thiếu nữ miền Nam, làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ miền Nam, làm lụn bại cả phẩm chất một số người lớn tuổi… Nó sống 30 năm dơ bẩn, tủi nhục như các tên chủ của nó, và nay nó đã chết cũng tủi nhục như thế. Đó là một lẽ tất nhiên, và đó là lịch sử… Cái chết của nó đem lại phấn khởi, hồ hởi cho nhân dân ta.”


Ba mươi tám năm sau, nhà báo Huy Đức lại có lời bàn thêm, và bàn ra, nghe như một tiếng thở dài: “Không biết ‘tủi nhục’ đã mất đi bao nhiêu … nhưng rất nhiều tiền bạc của người dân miền Nam đã trở thành giấy lộn.”  (Bên thắng cuộc, tập I. OsinBook, Westminster, CA: 2013).

Tôi sinh ra đời tại miền Nam, cùng thời với “những tờ bạc Sài Gòn” nhưng hoàn toàn không biết rằng nó đã “làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ” ở nửa phần đất nước. Và vì vậy, tôi cũng không thấy “phấn khởi” hay “hồ hởi” gì (ráo trọi) khi nhìn những đồng tiền quen thuộc với cuộc đời mình đã bị bức tử – qua đêm!

Suốt thời thơ ấu, trừ vài ba ngày Tết, rất ít khi tôi được giữ “nguyên vẹn” một “tờ bạc Sài Gòn” mệnh giá một đồng. Mẹ hay bố tôi lúc nào cũng xé nhẹ nó ra làm đôi, và chỉ cho tôi một nửa. Nửa còn lại để dành cho ngày mai.

VNCH 1

Hình 1: Đồng tiền 50 xu, năm cắc, in hình ông Ngô Đình Diệm, phát hành năm 1960

VNCH 2

Hình 2: Tờ một đồng, phát hành năm 1955


Tôi làm gì được với nửa tờ giấy bạc một đồng, hay năm cắc, ở Sài Gòn – vào năm 1960 – khi mới vừa biết xài tiền?

Năm cắc đủ mua đá nhận. Đá bào nhận cứng trong một cái ly nhựa, rồi thổ ra trông như hình cái oản – hai đầu xịt hai loại xi rô xanh đỏ, lạnh ngắt, ngọt lịm và thơm ngát – để tôi và đứa bạn chuyền nhau mút lấy mút để mãi cho đến khi xi rô bạc hết cả mầu mới ngừng tay, lễ phép xin thêm:

–  Cho con thêm chút xi rô nữa được không?

–  Được chớ sao không. Bữa nào tụi bay cũng vậy mà còn làm bộ hỏi!

Năm cắc đủ cho một chén bò viên, dù chỉ được một viên thôi nhưng khi nắp thùng nước lèo mở ra là không gian (của cả Sài Gòn) bỗng ngạt ngào hương vị. Chút nước thánh đó – sau khi đã nhai thiệt chậm miếng thịt pha gân vừa ròn, vừa ngậy –   hoà nhẹ với chút xíu tương đỏ, tương đen, cùng ớt xa tế ngọt ngọt cay cay có thể  khiến cho đứa bé xuýt xoa mãi cho đến… lúc cuối đời.

Năm cắc cũng đủ làm cho chú Chệt vội vã thắng xe, mở ngay bình móp, lấy  miếng kem – xắn một phần vuông vắn, cắm phập vào que tre – rồi trịnh trọng trao hàng với nụ cười tươi tắn. Cắn một miếng ngập răng, đậu xanh ngọt lạnh thấm dần qua lưỡi, rồi tan từ từ… suốt cả thời thơ ấu.

Năm cắc là giá của nửa ổ bánh mì tai heo, nửa má xoài tượng hay một xâu tầm ruột ướp nước đường, một cuốn bò bía, một trái bắp vườn, một ly đậu xanh đậu đỏ bánh lọt, một dĩa gỏi đu đủ bò khô, một khúc mía hấp, năm cái bánh bò nước dừa xanh đỏ, mười viên cái bi ròn ròn cái bi ngon ngon nho nhỏ…

Một một đồng thì (Trời ơi!) đó là cả một trời, và một thời, hạnh phúc muôn mầu!

Một đồng mua được hai quả bóng bay. Chiều Sài Gòn mà không có bong bóng bay (cầm tay) để tung tăng e sẽ là một buổi chiều… tẻ nhạt. Những chùm bóng đủ mầu sẽ rực rỡ hơn khi phố mới lên đèn và sẽ rực rỡ mãi trong trong ký ức của một kẻ tha hương, dù tóc đã điểm sương.

Còn hai đồng là nguyên một tô cháo huyết có thêm đĩa dà trá quẩy ròn rụm đi kèm. Hai đồng là một tô mì xắt xíu với cái bánh tôm vàng ươm bên trên, và nửa cọng rau xà lách tươi xanh bên dưới. Tờ giấy bạc với mệnh giá quá lớn lao và rất hiếm hoi này, không ít lúc, đã khiến cho tuổi thơ của tôi vô cùng phân vân và bối rối!

VNCH 3

Hình 3: Tờ bạc hai đồng, phát hành năm 1955


Và trong cái lúc mà tôi còn đang suy tính, lưỡng lự, cân nhắc giữa bốn cái kem đậu xanh năm cắc, bốn cuốn bò bía, bốn ly nước mía, hay một tô hủ tíu xắt xíu thịt bằm béo ngậy (cùng) giá hai đồng thì ở bên kia chiến tuyến người ta đã quyết định cho ra đời Mặt trận Giải phóng Miền Nam – vào ngày 20 tháng 12 năm 1960.

Hệ quả thấy được, vào mười lăm năm sau – vẫn theo báo Sài Gòn Giải phóng, số thượng dẫn:

Miền Nam đã có một nền tiền tệ mới, khai sinh từ sự độc lập toàn vẹn của xứ sở, nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã nâng niu từng tờ bạc của Ngân hàng Việt Nam với một niềm hãnh diện chưa từng thấy sau bao nhiêu thế kỷ mất nước phải ép mình sống với đồng bạc của ngoại bang.”

Niềm hãnh diện được nâng niu từng tờ bạc mới (nếu có) cũng nhỏ dần sau từng đợt đổi tiền. Rồi với thời gian những tờ bạc này đã từ từ biến thành… giấy lộn – như tường thuật của nhà báo Bạch Nga, đọc được trên Vietnamnet hôm 21 tháng 5 năm 2012:

Trong khi ngồi đợi xe ở trạm trung chuyển xe bus Long Biên, tôi được dịp chứng kiến cảnh một bà lão ăn xin chê tiền của khách.

‘Cô tính thế nào chứ 2 nghìn bây giờ chả đủ mua mớ rau, lần sau đã mất công cho thì cho ‘tử tế’ nhá !’

Câu nói của bà lão ăn xin khiến nhiều người phải sốc…

Chị Hương (Cầu Giấy – Hà Nội) chia sẻ câu chuyện có thật mà như đùa: ‘Nói thật, có lần gặp hai chị em nhà này đi ăn xin, thương tâm quá tôi liền rút ví ra đưa cho chúng 3 nghìn lẻ. Ngay lập tức, nó gọi tôi lại, giơ tờ 5 nghìn đồng lên trước mặt tôi bảo: cho chị thêm 2 nghìn cho đủ mua mớ rau nhé.”

Và đó là chuyện xẩy ra năm trước. Năm nay – sau khi dự phiên họp ngày 14 tháng 5 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, sau khi nghe các báo cáo của Chính phủ và Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Tài chính về ngân sách những tháng đầu năm 2013 –  Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Doan bỗng (chợt) nhận ra rằng: “Tình hình kinh tế gay go lắm rồi!”

Ủa, “gay go” thiệt sao?

Mà “gay go” tới cỡ nào lận?

Ông Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, người đã từng lạc quan tuyên bố “năm 2015 sẽ có một Vinashin mới” nay đã bắt đầu đổi giọng: “Tình hình doanh nghiệp bi đát, tôi nghĩ có tới 100.000 doanh nghiệp chết chứ không phải chỉ mấy chục nghìn, tỉ lệ doanh nghiệp lỗ có thể còn hơn 65%.” Và đã đến nước này thì ông phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương,Nguyễn Xuân Cường, cũng đành phải (xuôi xị) nói theo thôi: “Tình hình đúng là hết sức đáng lo ngại.

Điều lo ngại nhất là bó rau muống sẽ không ngừng ở giá năm ngàn đồng bạc. Dù với số tiền này – vào năm 1960 – đủ để mua hai ngàn tô phở gánh, hay hai ngàn năm trăm tô mì xe, hoặc mười ngàn chiếc bong bóng đủ mầu.

5000

Bù lại, vẫn theo lời của bà Phó Chủ Tịch Nước Nguyễn Thị Doan, là mọi người được sống với “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân… khác hẳn về bản chất và cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản.”

Cái giá của “dân chủ” (cũng như Độc lập – Tự do – Hạnh phúc) của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, rõ ràng, hơi mắc. Dân Việt, tội thay, không những đã hớ mà còn mua nhầm đồ giả và đồ đểu nữa mới chết (mẹ) chớ !

Tưởng Năng Tiến