KIẾP NÀO YÊU CHÚA

KIẾP NÀO YÊU CHÚA

Tôma Đỗ Lộc Sơn

Cách đây 20 năm, gần nhà tôi có anh bạn trẻ, hễ đi làm về là cả xóm đều biết. Bởi vì: “Kiếp nào có yêu nhau, thì xin tìm đến mai sau….”. Bài hát của nhạc sĩ Phạm Duy lại vang lên từ chiếc máy cassette của anh, làm cả xóm phải “thưởng thức”.

Một hôm tôi đến làm quen, vờ thích bài hát này, mượn về nghe và để xem anh chàng này có “Bị” gì không. Rất may, vì anh ta chỉ có một băng nhạc nên nghe đi nghe lại chứ không có vấn đề gì. Tiện thể, tôi cho anh ta “Mượn” cuốn băng Thánh ca do ca sĩ Hoàng Oanh thể hiện (Đã thủ sẵn) đang thịnh hành lúc bấy giờ, ngay hôm đó, cả xóm được nghe nhạc Thánh .

Vài ngày sau, gặp lai anh và anh cho biết:

– Trước đây em chỉ có một cuốn băng nhạc vàng, nên em để nghe cho đỡ buồn, chứ thật ra em không tin những lời bài hát đó, không có kiếp này kiếp kia. Đời người Chúa chỉ cho sống có một lần. Từ hôm có cuốn Thánh ca anh cho mượn, em lại thích nghe nhạc Thánh, em lấy làm tiếc vì phải để hàng xóm nghe những bài hát ủy mị, không có thật .

Quả vậy. Thiên Chúa tạo dựng “Cỗ máy” con người cho mỗi người chỉ một lần trong đời ( Như động cơ máy). Cỗ máy con người này có linh hồn, biết đúng sai, phải trái để tự hoàn thiện bản thân mình. Trong thời gian vận hành, cỗ máy nào hỏng hóc sẽ được đưa về Gara luyện ngục, đại tu cũng chỉ một lần, sau cùng tất cả các cỗ máy được đưa về diện kiến Người Chủ sáng tạo ra mình.

Con người vì lầm lỗi, vì nuối tiếc những gì mình đã làm, những gì mình chưa làm, nên đã bấu víu vào những chuyện vô thường, tưởng tượng ra con đường đi có đoạn nối tiếp, để làm lại những gì mình làm sai, những gì mình chưa làm được.

“ Thầy là đường, là sự thật và là sự sống….”(Ga 14,6). Đó là lời khẳng định của Chúa Giêsu, Đấng đã được Chúa Cha “Người Chủ Sáng Tạo” sai đến để nói cho nhân loại biết được điều này, Ngài còn cho biết thêm “Ta và Cha Ta là một” có nghĩa là lời giáo huấn của Chúa Giêsu là lời của Đấng Sáng Tạo.

Rất tiếc, ngày nay có nhiều người công giáo giơ cao tay lên tuyên xưng là con của Chúa, nhưng không nghe hoặc hoài nghi Lời Chúa truyền dạy, bằng cách là xem bói toán, tin vào vận may số đề, vé số… vv.. Anh bạn trẻ kia khi đã biết và hiểu Lời Chúa, chắc chắn anh ta đã không nghe những bản nhạc vàng này, dù nghe cho đỡ buồn.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm ơn đức tin cho chúng con, để chúng con biết nghe và giữ Lời Chúa truyền dạy, không hoang mang những chuyện vô thường, kiếp này kiếp kia, để chúng con vững bước trên con đường tiến về Nhà Chúa. Amen.

Tôma Đỗ Lộc Sơn

ĐỐI THOẠI NĂM ĐỨC TIN – VỀ GIÁO LÝ VÀ NHÂN ĐỨC CỦA TÔN GIÁO

ĐỐI THOẠI NĂM ĐỨC TIN – VỀ GIÁO LÝ VÀ NHÂN ĐỨC CỦA TÔN GIÁO

Tác giả: Lm. Đan Vinh, HHTM

VẤN ĐỀ 17: Tôn giáo chủ trương những giáo thuyết phản tiến bộ, đi ngược  lại quyền lợi của lớp người nghèo khổ. Tôn giáo giảng dạy sự hèn nhát, sự tự khinh, sự ti tiện, sụ sỉ nhục, sự phục tòng… là những tính nết của loài vật (Mega I,6 trang 278).

TRẢ LỜI:

Đây chẳng qua chỉ là những bài bác mang tính chủ quan, thiên kiến và sai lầm như sau:

1. Ki-tô giáo không phản tiến bộ, mà trái lại đã chiếu ánh sáng văn minh cho nhân loại:

Thực vậy, lịch sử các nước văn minh giàu mạnh ngày nay đã cho thấy: hầu như bất cứ ở đâu, khi người ta mở lòng đón nhận đức tin Ki-tô giáo, thì ở đó ánh sáng văn minh cũng ngự trị thay thế cho tình trạng tối tăm lạc hậu kém văn minh. Nhờ Thánh Kinh và giáo lý mới đem lại sự tiến bộ cho nhân loại về các lãnh vực như khoa học, văn hóa, luân lý như sau:

– Tiến bộ về khoa học: những phát minh khoa học, kỹ thuật tân tiến hiện đại hầu hết đều do các nhà bác học là tín đồ Ki-tô giáo cống hiến cho nhân loại. Trong số các khoa học gia thế kỷ 19, có tới 92% có đức tin vào Thiên Chúa là Đấng tạo thành vũ trụ vạn vật. Cũng nhờ ánh sáng đức tin soi dẫn, các vị này đã say mê tìm hiểu những kỳ công của Tạo Hóa và đã khám phá ra những định luật chi phối vũ trụ thiên nhiên, những máy móc phục vụ hạnh phúc con người theo lệnh truyền của Thiên Chúa sáng tạo như sách Sáng Thế đã ghi lại như sau: “Thiên Chúa ban phúc lành cho họ và Thiên Chúa phán với họ: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời và mọi giống vật bò trên mặt đất” (St 1,28).

– Tiến bộ về văn hóa: Mỗi khi Tin Mừng loan truyền đến đâu, thì cũng tác động về phong hóa đến đó. Những hủ tục lạc hậu của các dân tộc bán khai như: Tảo hôn, giết người tế thần… đã dần dần bị đào thải khi họ được tiếp xúc với các nhà thừa sai truyền giáo và được học hỏi giáo lý đức tin. Nền văn minh Ki-tô giáo cũng đã cống hiến cho kho tàng nghệ thuật của nhân loại những tác phẩm sáng giá nhất về mọi phương diện: hội họa, điêu khắc, kiến trúc, văn chương, thi phú, âm nhạc… và rất nhiều tác phẩm nghệ thuật thánh của tôn giáo hiện nay vẫn đang được lưu giữ trưng bày tại hầu hết các viện bảo tàng nổi tiêng nhất thế giới như: Vatican, Louvre, Metropolitan, Prado, Smithsonitan…

– Tiến bộ về luân lý: Giáo lý tình thương của Ki-tô giáo đề cao công bằng vị tha bác ái đã ảnh hưởng rất nhiều đến cách ứng xử giữa người với người, đến các chủ nghĩa tốt đẹp trên thế giới, đến các luật pháp quốc gia và các hiến chương tuyên ngôn quốc tế…

Như vậy, có thể nói: hầu như mọi lãnh vực của nền văn minh nhân loại đều bắt nguồn từ người tín hữu hoặc đều chịu ảnh hưởng sâu đậm của giáo thuyết Ki-tô giáo.

2. Giáo lý Ki-tô giáo không những không đi ngược lại quyền lợi của người nghèo, mà trái lại: chính giáo lý này đã mạnh mẽ bênh vực những người xấu số cách hữu hiệu nhất.

Thực vậy, Thánh Kinh Ki-tô giáo là một thông điệp của tình thương. Trong bản Hiến Chương Nước Trời do Đức Giê-su công bố, các người nghèo khổ được Chúa ưu tiên quan tâm và ban ơn cứu độ:

1)Thái độ của Đức Giê-su về vấn đề của cải và sự giàu nghèo:

-Trong Tám Mối Phúc, Đức Giê-su đề cao người nghèo: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Tin Mừng Lu-ca đã ghi lại lời Đức Giê-su quyết liệt hơn: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20), và “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi” (Lc 6,24).

-Đức Giê-su đã dạy môn đệ về thái độ phải có đối với của cải tiền bạc như sau: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!  Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao ! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”. Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu ?” Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được” (Mc 10,23-27).

-Đức Ma-ri-a trong kinh Ngợi Khen cũng đã ca tụng tình thương cứu độ của Thiên Chúa dành cho người nghèo như sau: “Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,58).

-Thánh Gia-cô-bê cũng cho biết Chúa sẽ bù đắp những thiệt thòi mà người nghèo phảỉ chịu bằng việc ưu tiên ban đức tin và ơn cứu độ như sau: “Nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao ?” (Gc 2,5).

2) Đức Giê-su cổ võ sự công chính và dạy các môn đệ phải tha thứ:

Cần ăn ở công bình ở đời này, để tránh khỏi phải đền trả ở đời sau: “Thầy bảo thật cho anh biết: Anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng” (Mt 5,26).

Cần chu toàn cả hai bổn phận với Thiên Chúa và tha nhân: “Thế thì của Xê-da trả về Xê-da; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21).

-Cần biết quảng đại tha thứ: Trong kinh Lạy Cha, Đức Giê-su dạy môn đệ cầu xin Thiên Chúa tha tội với điều kiện họ phải sẵn sàng tha lỗi cho anh em: “Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Người cũng giải thích thêm: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,12).

3) Đức Giê-su bênh vực quyền lợi của người phụ nữ trong xã hội:

-Phụ nữ được Thiên Chúa dựng nên ngang hàng với nam giới khác với lập trường cho rằng phụ nữ ở bậc thấp hơn nam giới và phải hoàn toàn lệ thuộc vào nam giới: Đức Giê-su nói: “Các ông không đọc thấy điều này sao?: Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ, và người đã phán: “Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt”. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,4-6).

-Người cũng rút lại luật cho phép ly hôn trong thời Cựu Ước: Khi ấy, những người biệt phái đến gần vá hỏi thử Chúa Giê-su rằng: Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?” Người đáp: Mô-se đã truyền cho các ông thế nào? Họ thưa: “Mô-sê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị”. Bấy giờ Chúa Giê-su đáp lai: “Chính vì sự cứng lòng của các ông, mà Mô-sê đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,2-9).

4) Đức Giê-su chống lại những bất công xã hội và đề cao sự khiêm nhường phục vụ cùng sự quảng đại chía sẻ cơm áo cho người nghèo:

-Người nói với các người Pha-ri-sêu tranh giành chỗ ngồi phải biết khiêm tốn khi được mời tham dự liên hoan: “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11).

-Người cũng yêu thương chàng thanh niên giàu có muốn nên trọn lành và dạy anh ta sự quảng đại chia sẻ: “Anh chỉ thiếu có một điều là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10,21).

5) Đức Giê-su khuyên dạy môn đệ phải có lòng bác ái, thương yêu những người nghèo khổ, khuyết tật, bất hạnh và bị bỏ rơi, vì ý thức rằng phục vụ họ là phục vụ chính Chúa. Sau đây là một số lời Đức Giê-su dạy đức yêu người:

Yêu người như yêu mình: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22,39).

Yêu thương lẫn nhau là dấu hiệu môn đệ thực sự của Chúa: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).

-Yêu người nghèo khổ vị họ là hiện thân của Chúa: Đến ngày tận thế, Chúa Giê-su sẽ tái lâm trong vai trò Vua Thẩm Phán đến phán xét chung mọi người về như sau: Bấy giờ Đức Vua sẽ bảo họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).

3. Những điều tôn giáo đề cao như: Khiêm tốn phục vụ tha nhân; Làm chủ các dục vọng xấu và các thói hư; Lấy đức báo oán: đối xử khoan dung nhân hậu với những kẻ thù ghét làm hại mình, để biến thù thành bạn; Can đảm chịu đựng những đau khổ gặp phải trong cuộc sông; Vâng phục quyền bính hợp pháp trong đạo ngoài đời… Tất cả những điều này đêu không phải là những điều tiêu cực, là những tính nết của loài vật… như có người đả kích. Trái lại, đây còn là những nhân đức anh hùng mà những kẻ tầm thường không thể thực hiện được, nhưng chỉ những ai có đức tin mạnh mẽ can đảm, vững tâm bền chí, thánh thiện nhân ái… mới có thể làm được mà thôi.

Còn những người tự cao tự đại, thiếu sự kiên nhẫn chịu đựng, dễ bất mãn nổi loạn do lòng tham lam bất chính thôi thúc… Đó mới thực là những lý thuyết phản tiến bộ, đi ngược  lại quyền lợi của lớp người nghèo khổ, và mới cần được kiềm chế loại trừ.

TÓM LẠI: Ki-tô giáo không những không phản tiến bộ, trái lại đã đem ánh sáng văn minh đến cho nhân loại về mọi phương diện: khoa học,văn hóa, luân lý… Giáo lý Ki-tô giáo dạy không những không đi ngược lại quyền lợi của người nghèo, mà trái lại còn bênh vực lớp người xấu số bất hạnh một cách mạnh mẽ và hữu hiệu nhất. Những điều tôn giáo đề cao như: sự khiêm tốn phục vụ, hãm dẹp các dục vọng thói hư, lấy thiện báo ác, nhẫn nhịn chịu đựng các khó khăn gặp phải, vâng phục quyền bính đạo đời… Tất cả đều đươc mọi người công nhận là tốt và cần được thực hiện. Như vậy, những lời chỉ trích tôn giáo nói trên đều sai lầm, chủ quan và đầy thiên kiến… nên các tín hữu chúng ta không cần phải quan tâm.

PHÚT HỒI TÂM:

LỜI CHÚA:

“Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: Là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,34-35).

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa Giê-su. Xin cho mỗi tín hữu chúng con biết giới thiệu khuôn mặt khiêm tốn hiền hòa của Chúa cho tha nhân chua nhận biết Chúa. Xin cho chúng con biết sông yêu thương phục vụ Chúa trong mọi người như lời Chúa dạy, được thánh Phan-xi-cô tóm lại trong kinh Hòa Bình, để chúng con tích cực làm chứng cho Chúa và xứng đáng trở thành môn đệ thức sự của Chúa như lời Chúa dạy hôm nay: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: Là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).

LM ĐAN VINH – HHTM

Tác giả: Lm. Đan Vinh, HHTM

Căn tính truyền giáo của Hội Thánh trong kinh nghiệm của sứ vụ Jarai

Căn tính truyền giáo của Hội Thánh trong kinh nghiệm của sứ vụ Jarai

Đăng bởi lúc 2:27 Sáng 11/10/13

VRNs (11.10.2013) – Gia Lai – 1- Trong những ngày tháng cuối cùng của Năm Đức Tin này, chúng ta hãy đọc lại một vài đoạn liên quan đến Truyền Giáo của Công Đồng Vatican II (bản dịch của Giáo Hoàng Học Viện Piô X) như ý nguyện của Hội Thánh qua Tự Sắc “Cánh Cửa Đức Tin” của Đức Bênêđiktô XVI.

Ad Gentes (Sắc Lệnh về hoạt động Truyền Giáo của Hội Thánh),

Chương I, 6:

“Ðược gọi chung là “việc truyền giáo” tất cả những công cuộc đặc biệt giúp đỡ các nhà rao giảng Phúc Âm của Giáo Hội 14* đang đi khắp thế gian để thực hiện chức vụ rao giảng Phúc Âm, và “trồng” Giáo Hội vào các dân tộc, cũng như những nhóm người chưa tin Chúa Kitô; những công cuộc này được hoàn thành nhờ hoạt động truyền giáo, và phần nhiều được thực hiện trong những địa hạt nhất định mà Tòa Thánh đã công nhận. Mục đích riêng của hoạt động truyền giáo này là rao giảng Phúc Âm (evangelizatio) và trồng Giáo Hội vào các dân tộc hay những nhóm người mà Giáo Hội còn chưa bén rễ 34. Như thế, do hạt giống lời Chúa (bản dịch chính thức bằng tiếng Pháp: nées de la Parole de Dieu), các Giáo Ðoàn địa phương một khi đã được thiết lập đầy đủ khắp nơi trên thế giới, phải lớn lên, và, một khi thực sự tự mình có đủ sức sống và trưởng thành, nghĩa là đã được thiết lập Hàng Giáo Phẩm riêng, phải hiệp nhất với dân trung thành; đồng thời có những phương tiện hầu như tương ứng để sống đầy đủ đời sống Kitô giáo, các Giáo Ðoàn đó phải góp phần vào lợi ích của toàn thể Giáo Hội. Phương tiện chính để gieo trồng các Giáo Ðoàn này là việc rao giảng Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô; chính vì vậy mà Chúa đã sai các môn đệ đi khắp thế gian rao giảng Phúc Âm, để sau khi con người đã được tái sinh do lời Thiên Chúa (coi 1Phêrô 1,23) sẽ nhờ phép Rửa mà gia nhập Giáo Hội, một Giáo Hội, với tư cách là thân xác của Ngôi Lời nhập thể, được nuôi dưỡng và sống động bằng lời Chúa và bánh thánh thể (coi Cv 2,42).”

Lumen Gentium – Hiến Chế về Hội Thánh – chương 2 số 17:

17. Tính cách truyền giáo của Giáo Hội. Như Chúa Cha sai Người thế nào, Chúa Con cũng sai các Tông Ðồ như vậy (x. Gio 20,21) khi Người phán: “Vậy các con hãy đi dạy dỗ muôn dân, thanh tẩy họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, hãy dạy dỗ họ vâng giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20). Lệnh ấy, lệnh mà Chúa Kitô long trọng truyền rao giảng chân lý cứu rỗi, Giáo Hội đã nhận lãnh từ các Tông Ðồ để chu toàn khắp cõi đất (x. CvTđ 1,8). Vì thế, Giáo Hội xem lời sau đây của Thánh Tông Ðồ như lời của mình: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm” (1Cor 9,16), và vì thế Giáo Hội không ngừng gửi sứ giả Phúc Âm cho đến khi các Giáo Hội trẻ được trưởng thành hoàn toàn và tự mình tiếp tục việc rao giảng Phúc Âm (opus evangelizandi). Chúa Thánh Thần thúc đẩy Giáo Hội cộng tác với Ngài để hoàn tất trọn vẹn kế hoạch của Thiên Chúa là Ðấng đã đặt Chúa Kitô làm nguyên lý cứu độ cho cả thế giới. Bằng việc rao giảng Phúc Âm, Giáo Hội sửa soạn cho người nghe đón nhận và tuyên xưng đức tin, và chuẩn bị cho họ lãnh phép Thánh Tẩy, đưa họ ra khỏi cảnh nô lệ của sự lầm lạc, tháp nhập họ vào thân thể Chúa Kitô, hầu nhờ đức ái, họ tăng triển mãi trong Người cho đến khi đạt tới viên mãn. Thực ra, những gì (bản tiếng Pháp: germes de bien) thiện hảo trong tâm hồn và tư tưởng của loài người, hoặc trong nghi lễ và văn hóa riêng của các dân tộc, hoạt động của Giáo Hội không nhằm tiêu diệt chúng, nhưng lành mạnh hóa, nâng cao và hoàn thành chúng, hầu làm vinh danh Thiên Chúa, đánh bại ma quỉ và mưu cầu hạnh phúc cho con người. Mỗi môn đệ Chúa Kitô đều có bổn phận góp phần truyền bá đức tin 21. Tuy bất cứ ai cũng có thể ban phép Thánh Tẩy cho những kẻ tin, nhưng chỉ có linh mục mới hoàn tất, xây dựng Nhiệm Thể bằng hy lễ tạ ơn, làm trọn lời Thiên Chúa đã phán qua miệng tiên tri: “Từ đông sang tây, Danh Ta sẽ được lừng lẫy khắp muôn dân; khắp nơi đều sát tế và dâng lễ vật thanh sạch kính Danh Ta” (Mal 1,11) 22. Như thế Giáo Hội vừa cầu nguyện vừa hoạt động để toàn thể vũ trụ biến thành Dân Thiên Chúa, Thân Thể Chúa Kitô và Ðền Thờ Chúa Thánh Thần, và trong Chúa Kitô là thủ lãnh muôn loài, mọi danh dự và vinh quang được dâng lên Chúa Cha Ðấng Tạo Thành vũ trụ. (Bản dịch của Giáo Hoàng Học Viện Pio X).

2- Làm rõ một vài từ

VIỆC TRUYỀN GIÁO: Từ chính thức của HT là MISSIO do bởi động từ MITTERE có nghĩa là gửi đi, sai đi. Ý nghĩa này được nói rõ trong chính bản văn Công Đồng: “Như Chúa Cha sai Người thế nào, Chúa Con cũng sai các Tông Ðồ như vậy (x. Gio 20,21)… vì thế Giáo Hội không ngừng gửi sứ giả Phúc Âm.” Việt Nam quen dùng từ TRUYỀN GIÁO (thiếu ý “được sai”, “được gửi đi” rất căn bản trong căn tính thừa sai của HT). Có người nói là SỨ MẠNG và SỨ VỤ. Từ sau Công đồng Vatican II, Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin (Congregatio pro Propaganda Fidei) được đổi là Thánh Bộ Phúc Âm Hóa (Congregatio Evangelisationis): Không còn “truyền bá” như trong ý “truyền giáo” của Việt Nam, mà là “phúc âm hóa”.

PHÚC ÂM HÓA – dịch từ EVANGELIZATIO. EVANGELIUM trước đây chúng ta gọi là PHÚC ÂM, nay chúng ta quen gọi là TIN MỪNG. Muốn có một động từ Việt cho EVANGELIUM, chúng ta bắt buộc phải dùng từ PHÚC ÂM HÓA (hán việt), không dùng được từ TIN MỪNG HÓA (vì lẫn cả hán cả việt). Trong bản văn trên, khi gặp từ EVANGELIZATIO, dịch giả đã dịch là rao giảng Phúc Âm. Rõ ràng dịch như thế là chưa lột hết ý của EVANGELIZATIO. Vậy ta có thể đồng ý chăng EVANGELIZATIO là làm cho tất cả thành PHÚC ÂM, thành TIN MỪNG? Và chúng ta cũng hãy khẳng định ngay với nhau: TIN MỪNG hay PHÚC ÂM là CHÍNH CHÚA YÊSU KITÔ.

3- Những yếu tố làm thành căn tính truyền giáo (thừa sai – nature missionnaire – missionary nature) của Hội Thánh qua hai bản văn trên đây: HẠT GIỐNG LỜI CHÚA – KẾ HOẠCH CỦA THIÊN CHÚA – PHÚC ÂM và PHÚC ÂM HÓA – CẦU NGUYỆN – CHÚA THÁNH THẦN – GIÁO ĐOÀN – GIÁO HỘI – TRỒNG GIÁO ĐOÀN, TRỒNG GIÁO HỘI SỐNG BẰNG LỜI CHÚA và THÁNH THỂ, TRƯỞNG THÀNH VÀ TIẾP TỤC PHÚC ÂM HÓA VỚI HỘI NHẬP VĂN HÓA.

4- SỨ VỤ JRAI

Từ 1969 đến 1988: Chia sẻ cuộc sống làm Jrai với Jrai. Học sống, học làm, học nói… với Jrai. Giai đoạn Nazareth. Theo Yêsu Nazareth.

Từ 1988 đến 2005: Khi người Jrai xin nhập Đạo, chúng tôi chỉ có cuốn Tân Ước Jrai. Chúng tôi cùng người Jrai đọc và cầu nguyện theo Lời Chúa (Xin thể hiện cho tôi theo như Lời của Ngài). Lời Chúa được coi như Bí Tích – Lc 11, 9-13. Tiêu chuẩn để nhận ra lòng tin của người dự tòng là khi họ bắt đầu biết cầu nguyện (như Ông Kpă Hui-Ama Bloach, Bà Yă Nay H’Pip, Con Ama Tit…). Đánh máy một câu Lời Chúa cho mỗi ngày: trong gia đình ai biết đọc thì đọc cho mọi người cầu nguyện theo. Dần dần lập những nhóm cấu nguyện trong các làng. Nên di chuyển từ nhà này qua nhà khác. Đặc biệt chú ý tới những gia đình có người đau yếu, già cả, gặp khó khăn… Lời Chúa – Cầu Nguyện – Làm Chứng (về ơn ban). Mỗi tuần có một ngày cho nam giới, một ngày cho nữ giới, một ngày cho giới trẻ, một ngày cho những người phục vụ Lời, qui tụ về Nhà Trung Tâm, đọc Lời Chúa – Cầu Nguyện – Làm Chứng (về ơn ban). Lời Chúa lan tràn. Lời cầu nguyện lan tràn. Ơn Chúa lan tràn. Nhiều người trở lại. Người ta kêu anh chị em dự tòng Như Plei Tao Klah), tân tòng (như Plei Buch Sor) đi loan báo Lời Chúa và cầu nguyện. Một sứ vụ cầu nguyện (ĐTC Phanxicô: Đi vào sứ vụ bằng hai đầu gối). Một sứ vụ như thế phù hợp với những người hèn mọn. – Và đối với dự tòng là đọc theo Kêrygma – Lời Khởi Giảng – KẾ HOẠCH CỦA THIÊN CHÚA. Vị giảng thuyết của Nhà Giáo Hoàng, Cha Raniero Cantalamessa, trong bài giảng thứ nhất Mùa Vọng, thứ sáu 07.12.12, tại Vatican trước sự hiện diện của Đức Bênêđictô XVI và giáo triều Rôma:

“Thời đầu HT, có sự phân biệt giữa kêrygma (khởi giảng) và điđakhê (huấn giáo). Trong kêrygma, mà Phaolô cũng gọi là « Tin Mừng »,  có liên quan đến hoạt động của TCh trong Đức Kitô Yêsu, đến mầu nhiệm vượt qua chết sống lại, diễn đạt bằng những mệnh đề ngắn về đức tin, như mệnh đề trong lời lẽ của Phêrô vào ngày Ngũ Tuần : «Các ông đã thủ tiêu Ngài bằng cách đóng đinh Ngài vào thập giá, Thiên Chúa đã cho Ngài chỗi dậy và tôn Ngài làm Chúa» (coi Cv 2, 23-36), hay câu : «Nếu bạn tuyên xưng nơi miệng bạn : Đức Yêsu là Chúa và nếu bạn tin trong lòng bạn : Thiên Chúa đã cho Ngài chỗi dậy từ cõi chết, bạn  được cứu » (Rm 10,9).”

“Điđakhê, trái lại, chỉ giáo huấn ban cho những người đã đón nhận đức tin, sự triển khai, đào tạo toàn diện của tín hữu. Người ta xác tín (nhất là Thánh Phaolô) rằng đức tin đích thật, chỉ xuất hiện với kêrygma. Kêrygma không phải chỉ là tóm kết của đức tin hay là một phần của đức tin, nhưng là mầm giống từ đó xuất hiện mọi thứ còn lại. Bốn tin mừng cũng được viết ra sau, chính là để quảng diễn kêrygma…. Và ngày hôm nay, chính chúng ta – trước tiên là các giám mục, các nhà giảng thuyết, các giáo lý viên – phải làm nổi bật cái tính cách « đặc biệt » của kêrygma như là thời điểm nẩy mầm của đức tin.” Tất cả Tân Ước được viết theo khuôn mẫu Kêrygma. Tất cả Phụng Vụ và các Bí Tích của Hội Thánh được xây dựng theo khuôn mẫu Kêrygma. Đỉnh điểm mà đón nhận và tuyên xưng Đức Kitô là Chúa để Ngài đổ tràn Thần Khí cho (Cv 2, 32-36), để Chúa Thánh Thần thánh hóa (thần hóa, linh hóa) để làm con của Cha (Gal 4, 6), “sống bởi Thần Khí, thì cũng theo Thần Khí mà tiến bước” (Gal 5,25). Thần Khí luôn luôn làm chứng và lôi kéo chúng ta làm chứng với Ngài (Ga 15, 26-27). Ngài luôn xuất phát như trong ngày Hiện Xuống. Ngài là linh hồn của Hội Thánh Thừa Sai.

“Đừng sợ hãi để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn và rộng mở con tim cho các sự mới mẻ của Thiên Chúa”. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 250.000 thành viên các phong trào, và hội đoàn giáo dân trong thánh lễ cử hành lúc 10 giờ rưỡi sáng 19 tháng 5, là lễ Chúa Nhật lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.

Đức Thánh Cha nêu bật ba yếu tố gắn liền với hoạt động của Chúa Thánh Thần: đó là sự mới mẻ, hòa hợp và sứ mệnh rao truyền Tin Mừng. Ngài nói:

Sự mới mẻ ở đây không phải là vấn đề phải có cái mới, không phải là việc tìm kiếm cái mới để vượt thắng sự nhàm chán, như thường xảy ra trong thời đại chúng ta. Sự mới mẻ mà Thiên Chúa mang đến trong đời ta là điều gì đó thật sự mang lại sự viên mãn, niềm vui đích thực, sự thanh thản đúng nghĩa, bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta và chỉ muốn thiện ích cho chúng ta.

Đề cập tới sự hòa hợp là hoa trái hoạt động của Chúa Thánh Thần Đức Thánh Cha nói:

Bề ngoài xem ra Chúa Thánh Thần tạo ra sự mất trật tự trong Giáo Hội, bởi vì Người đem tới sự khác biệt các đặc sủng, các ơn; nhưng dưới hoạt động của Người tất cả điều này, trái lại, là nguồn mạch to lớn cho sự phong phú, vì Chúa Thánh Thần là Thần Khí của hiệp nhất; sự hiệp nhất không có nghĩa là sự đồng nhất, nhưng dẫn đưa tất cả tới sự hài hòa. Trong Giáo Hội Chúa Thánh Thần tạo ra sự hài hòa.

Điểm sau cùng là sứ mệnh rao truyền Tin Mừng. Đức Thánh Cha nói:

“Chúa Thánh Thần thúc đẩy chúng ta mở cửa để ra ngoài, để loan báo và làm chứng cho cuộc sống mới của Tin Mừng, để thông truyền niềm vui của đức tin, của cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô. Chúa Thánh Thần là linh hồn của sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Điều đã xảy ra tại Giêrusalem cách đây 2000 năm không phải là một sự kiện xa xăm với chúng ta, nhưng là một sự kiện ảnh hưởng tới chúng ta, và là một kinh nghiệm sống động trong chúng ta”.

Đức Thánh Cha đã cảm ơn các tất cả các phong trào, cộng đoàn, đoàn thể, hiệp hội. Ngài nói: “Anh chị em là một ân sủng, và là sự phong phú cho Giáo Hội. Chính anh chị em là sự giầu có của Giáo Hội.”

Cũng trong những ngày ấy, có người hỏi Đức Thánh Cha:

HT mời gọi chúng con vào «tân phúc âm hóa». Con nghĩ rằng tất cả chúng ta ở đây đều nghiệm thấy mạnh mẽ thách đố ở ngay trung tâm những trải nghiệm của chúng ta. Vì thế, thưa Đức Thánh Cha, con xin ĐTC giúp con và giúp tất cả chúng con hiểu và sống thách đố này của thời đại chúng ta. Theo ĐTC, điều gì là quan trọng nhất mà chúng con phải nhìn vào để tiến hành phần vụ mà chúng con được kêu gọi thực thi? Câu trả lời của ĐTC Phanxicô:

Cha sẽ chỉ nói ba từ.

Từ thứ nhất là Yêsu. Điều gì quan trọng nhất ? Đó là Yêsu. Nếu chúng ta dựa vào tổ chức, vào những điều khác, những điều tốt lành, mà không có Yêsu, chúng ta chẳng tiến lên được, chẳng đi tới đâu. Yêsu là quan trọng nhất. Bây giờ, Cha muốn trách chúng con một tí, nhưng một cách huynh đệ, giữa chúng ta với nhau. Anh chị em đã hô lên trong quảng trường : « Phanxicô, Phanxicô, ĐGH Phanxicô ». Nhưng Yêsu, Ngài đâu rồi ? Cha muốn chúng con kêu lên : « Yêsu, Yêsu là Chúa, và Ngài thực sự ở giữa chúng ta ». Từ giờ, không « Phanxicô » nữa, nhưng là « Yêsu » !

Từ thứ hai là: Cầu nguyện. Nhìn vào khuôn mặt của ĐCT, nhưng nhất là, và điều này liên hệ với điều Cha đã nói trước, nghiệm thấy được Chúa nhìn mình. Chúa nhìn chúng ta, Ngài nhìn chúng ta trước. Đó là điều mà Cha nghiệm thấy khi ở trước sagrario (Nhà Tạm) khi Cha đi cầu nguyện, buổi tối, trước Chúa. Vài lần Cha có thiếp ngủ chút ít ; thật sự, vì mệt nhọc suốt ngày, bạn cũng thiếp ngủ chút chút. Nhưng Ngài thì Ngài hiểu Cha. Cha cảm thấy cả một niềm an ủi khi Cha nghĩ là Ngài nhìn Cha. Chúng ta nghĩ là chúng ta phải cầu nguyện, nói, nói, nói… Không ! Bạn hãy để cho Chúa nhìn bạn. Khi Ngài nhìn bạn, Ngài ban cho bạn sức mạnh và giúp bạn làm chứng về Ngài – bởi vì vấn đề là chứng từ đức tin, phải không ? Trước là « Yêsu », rồi « cầu nguyện » – chúng ta cảm thấy ĐCT nắm lấy tay chúng ta. Cha nhấn mạnh tầm quan trọng của việc này là : để cho Ngài dẫn đưa ta. Đây là điều quan trong hơn bất cứ tính toán nào. Chúng ta là những người loan báo Tin Mừng đích thực khi chúng ta để cho Ngài dẫn ta. Chúng ta hãy nghĩ tới Phêrô ; có lẽ ngài đã ngủ trưa, sau bữa ăn, và ngài có một thị kiến, thị kiến về tấm khăn với mọi thứ sinh vật, và ngài đã nghe Chúa Yêsu nói điều gì đó mà ngài không hiểu. Lúc đó, có nhiều người không phải là do thái đến tìm ngài để đến một căn nhà, và ngài đã thấy CTT ở đó. Phêrô đã để cho Chúa Yêsu dẫn để đi tới việc phúc âm hóa đầu tiên cho Muôn Dân, không phải là người Do Thái : đó là một điều không thể tưởng được vào thời đó (coi Cv 10, 9-33). Và tất cả lịch sử là như thế, tất cả lịch sử ! Để cho Yêsu dẫn. Ngài đích thật là lãnh đạo, vị lãnh đạo của chúng ta, là Yêsu.

Và từ thứ ba, làm chứng. Yêsu, cầu nguyện – cầu nguyện: để cho Chúa dẫn dắt – và tiếp đến là làm chứng. Nhưng Cha muôn thêm. Để cho Chúa Yêsu dẫn dắt đưa ta tới những bất ngờ của Chúa Yêsu. Người ta có thể nghĩ rằng phúc âm hóa, là chúng ta phải lên chương trình xung quanh một cái bàn, nghĩ rằng phải có những chiến lược, phải có những dự án. Điều quan trọng là Yêsu và để cho Ngài dẫn dắt. Sau đó chúng ta có thể soạn những chiến lược, nhưng đó là thứ yếu.

Cuối cùng là, làm chứng. Thông truyền đức tin chỉ có thể thực hiện bằng làm chứng và đó là yêu mến. Chứ không phải bằng những ý tưởng của chúng ta, nhưng là bằng tin mừng được sống trong hiện sinh của chúng ta và mà CTT làm cho sống trong chúng ta. Đó như là hiệp lực giữa chúng ta và CTT, và điều đó dẫn tới việc làm chứng. Như Đức GP II và Bênêđictô XVI đã nói, thế giới ngày nay rất cần tới những chứng nhân. Chứ không nhất thiết là những vị thầy, nhưng là những chứng nhân. ACE đừng có nói nhiều quá, nhưng hãy nói bằng tất cả cuộc sống của ACE : sống gắn kết, đúng rồi, một đời đời sống gắn kết! Một đời sống gắn kết ở chỗ sống đạo Kitô như là một sự gặp gỡ với Chúa Yêsu dẫn ta đến với tha nhân, chứ không phải sống như một hiện tượng xã hội. Về mặt xã hội, chúng ta là như thế, chúng ta là những kitô hữu, khép lại trên chính mình. Không, không phải như thế ! Mà là làm chứng !

Giuse Trần Sĩ Tín, CSsR

Cầu Nguyện Là Hơi Thở Của Linh Hồn

Cầu Nguyện Là Hơi Thở Của Linh Hồn

Posted on 09/10/2013 by danchuahiepthong

Thời Cách Mạng Pháp 1789, những người xây dựng chế độ mới muốn đánh đổ tất cả những gì mà họ gọi là tàng tích của mê tín dị đoan. Họ hỏi những người nông dân có muốn từ bỏ tôn giáo của họ không. Một người dân quê mùa chất phác đã trả lời như sau: “Bao giờ các ông làm cho sao trời rơi xuống thì chúng tôi sẽ thôi cầu nguyện”.

Tự đáy tâm hồn mình, con người luôn luôn khát khao và đi tìm Thiên Chúa. Cầu nguyện, dưới hình thức này hay hình thức khác, là hơi thở của tâm hồn. Người ta có thể trói buộc tay chân con người, người ta có thể khóa chặt miệng lưỡi con người, nhưng không ai có thể ngăn cản con người cầu nguyện.

Cầu nguyện là nhựa sống của tâm hồn. Con người có thể chết dần trong thân xác vì bệnh tật, đau đớn hay bị hành hung, nhưng chính sự cầu nguyện nối kết tâm hồn con người với Thiên Chúa và đem lại cho con người sức sống vượt lên trên mọi thử thách và chết chóc.

Trích: Lẽ Sống

Bí quyết giúp con cháu sống Đức Tin Công Giáo

Bí quyết giúp con cháu sống Đức Tin Công Giáo

Posted on 09/10/2013

Bài nói chuyện của cha Nguyễn Uy Sĩ trong “Đêm Gia Đình” hằng tháng do Gia Đình Nazareth tổ chức tại Trung Tâm Công Giáo Giáo phận Orange County.

Mở đầu bài nói chuyện cha cho biết cha sẽ “nói thẳng, nói thật” dựa vào thực tế đời sống…Con cháu chúng ta sống giữa sự pha trộn của hai nền văn hóa khác biệt nhau: Cha mẹ sống theo văn hóa Việt, con cháu lớn lên, đi học sống theo văn hóa Mỹ. Sự tác động qua lại của hai nền văn hóa này rất phức tạp gây nhiều khó khăn trong đời sống gia đình, đặc biệt là đời sống đức tin. Cha đề nghị 7 cách thức đễ giúp con cháu chúng ta sống đức tin Công Giáo tốt hơn.

1. Hãy tạo những kỷ niệm đẹp, đáng nhớ về Đức Tin Công Giáo

Kỷ niệm đẹp về ngày rước lễ lần đầu chẳng hạn, hay những lúc gia đình quây quần ấm cúng đọc kinh tối, những lần đưa đón con đi học giáo lý về lúc trời mưa gió…mẹ con rủ nhau đi ăn phở cho ấm hoặc cả nhà cùng cầu nguyện chung với nhau trước những biến cố quan trọng của gia đình…Khi nhớ lại những kỷ niệm đẹp này sẽ giúp con cháu giữ đức tin sống động hơn.

Nếu không tạo được những kỷ niệm đẹp thì ít ra đừng tạo ra những ấn tượng xấu trong đời sống đức tin như la rầy quát mắng ép con đọc kinh tối dài lê thê “vừa đọc, vừa ngủ” khiến mỗi lần nhớ tới là chúng thấy “ớn”!

Đôi khi đối với giới trẻ tham dự thánh lễ là tham dự một hình thức “lập đi lập lại” đến nhàm chán, rất “boring”! (có lần tôi nghe một cha giảng tỉnh tâm tiết lộ ngay cả các cha, có cha cũng không thích dâng lễ mỗi ngày!?). Trong khi cha mẹ lại cho đó là một cách sống đạo sốt sắng, nhiều khi “nghiện” đi lễ, không đi không được Nhưng chúng ta không có quyền áp đặt bắt chúng phải giống ta, chỉ còn có cách là dùng tình cảm để thuyết phục chúng. Hãy ân cần giải thích cho trẻ hiểu: “Chúa thương và ban ơn cho con rất nhiều.( bao nhiêu người khác không có).

Bây giờ mỗi tuần Chúa chỉ xin con một giờ dự lễ để thờ phượng, cám ơn Chúa, chẳng lẽ con hẹp hòi mà lại nở từ chối không cho Chúa 1 giờ sao”? Nói chuyện tình cảm thì trẻ dễ “thông” hơn là ép buộc.

Thỉnh thoảng cha mẹ cũng nên khéo léo “thưởng” con khi trẻ dự lể sốt sắng, giỏi trong nhà thờ…làm trẻ vui khi được khuyến khích sẽ dễ tiến bộ hơn!

2. Hãy Cho phép con lý luận về mọi vấn đề kể cả về Đức Tin

Văn hóa Việt Nam không cho phép đặt vấn đề hay thắc mắc đối với cha mẹ, thầy cô. Đó là hỗn láo, là vô lễ! Mọi việc “bảo sao, nghe vậy” hoặc “Đặt đâu, ngồi đó” vì “con cãi cha mẹ trăm đường con hư” (Có ông bố “lăng nhăng” bị con bắt gặp, bèn đặt vấn đề thì bố cho là hỗn láo, mất dạy “chuyện của người lớn, chúng bây là con cái không được phép xía vào”!?).

Văn hóa Mỹ cho phép đặt vấn đề đối với mọi việc, có thắc mắc nhiều, trẻ mới có cơ hội mở mang kiến thức và hiểu rõ vấn đề. Nếu trẻ có thắc mắc chính đáng cần phải được trả lời đàng hoàng chứ không dùng lối “cả vú lấp miệng em”! Nếu trẻ thắc mắc về đức tin, đừng “bịt miệng” trẻ mà cứ ôn tồn giải thích cho chúng hiểu, nếu có “bí” thì tìm hỏi cha hay các soeur. Do đó đề nghị ông bà cha mẹ tham dự học các lớp thánh kinh để thông suốt và khỏi bị “bí”.

3. “Ngọt như đường cát, mát như đường phèn”

Lời nói của ông bà xưa vẫn rất đúng: “Nói ngọt, lọt tới xương” dù với văn hóa Việt Nam hay Mỹ, nhưng rất tiếc là ông bà cha mẹ Việt Nam lại thích lối “rầy la đe nẹt” con cháu để ép chúng vào khuôn khổ đạo đức như ý mình muốn, làm chúng có ấn tượng xấu với đời sống đức tin. Chúng ta đã quên mất câu “Nhập gia tùy tục”!

Muốn đạt kết quả tốt chúng ta nên dùng lời ngon ngọt, khuyến khích, khen thưởng sẽ hiệu quả hơn. Thánh Don Bosco cho biết “Một muổng mật ong bắt được nhiều ruồi, hơn một thùng phuy dấm”. Chúng ta phải rành “tâm lý”, ở đời ai chả thích khen, người lớn cũng thích mà trẻ thì lại thích hơn. Cha mẹ thầy cô giáo Mỹ hở ra một tí là khen tíu tít : “Good job” “Excellent”…(Tôi nhớ lúc còn đi dạy nhà trường in ra sẳn cho các cô giáo một trang giấy với cả vài chục cách khen, để cô giáo linh động áp dụng hằng ngày mà khen đủ cách cho học trò vui ).

Trong khi cha mẹ Việt Nam thì ngược lại, hở ra một tí là la rầy, bắt bẽ… “kẻo nó hư”! thành ra trẻ không cảm thấy thích thú khi thi hành những yêu cầu của cha mẹ, nhất là những việc thuộc đời sống đức tin. Nếu muốn sửa dạy, chúng ta cũng nhớ khen trước rồi mới sửa sau thì trẻ sẽ dễ tiếp thu hơn!

4. Cùng phục vụ xã hội, đi làm từ thiện với con cháu…

Khi chúng ta làm những việc từ thiện, bác ái, giúp đỡ người nghèo là chúng ta đang sống đức tin, thực hiện điều răn quan trọng chúa đã truyền dạy là “Chúng con hãy yêu thương nhau”. Chúng ta hãy rủ con cháu cùng tham gia, cộng tác với chúng ta trong các việc làm bác ái này, đừng âm thầm làm một mình! Đó là cách chúng ta giúp chúng phát triễn lòng thương người vốn là truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam:

Thuơng người như thể thương thân” hoặc “Thấy ai hoạn nạn thì thương

“Thương người và giúp đở người họan nạn” là điều tốt mà cả hai nền văn hóa Mỹ – Việt đều có. Trẻ con Mỹ cũng rất thương người. Rủ con cháu cùng đóng góp tiền giúp nạn nhân bảo lụt (“của ít lòng nhiều”) cùng đi phát thức ăn cho người vô gia cư…Nếu có dịp đưa chúng về Việt Nam thăm các trại nuôi trẻ mồ côi, người già neo đơn…để chúng ý thức hơn hoàn cảnh tốt đẹp mà Chúa đã ban cho chúng hiện nay.

Ngoài ra cùng đi làm việc từ thiện là cách phát triển tốt đẹp sợi dây thân ái gắn bó với nhau trong gia đình theo chiều hướng tốt đẹp nhất mà chắc chắn Chúa sẽ hài lòng và chúc phúc cho gia đình chúng ta!

5. Đừng phản ứng gắt gao khi con cháu bỏ lễ Chúa nhật…

Đức tin là mối tương quan giữa Chúa và con người. Mối tương quan nào cũng có lúc trầm, lúc bỗng, lúc gần gũi, lúc xa cách. Khi thấy con cháu lớn lên đi học xa, đi làm xa rồi bỏ lễ Chúa nhật, chúng ta đừng hốt hoảng phản ứng gắt gao, nhất là các bà mẹ đừng vật vả than khóc, thất vọng ê chề : “Lạy Chúa chúng bỏ nhà thờ, bỏ đạo mất linh hồn..”! Than khóc, u sầu không giải quyết được gì! Càng làm chúng xa cách chúng ta thêm! Chúng ta phải phản ứng trầm tỉnh, nhắc nhỡ nhẹ nhàng. Cầu nguyện cho chúng, nhắc nhỡ chúng cầu nguyện trước những sự việc quan trọng (thi cử, kiếm việc…) để Chúa ban ơn.

Nếu đã làm hết cách rồi mà không có kết quả thì cũng không nên áy náy, buồn phiền, hãy “phó thác cho Chúa” vì chúng đã lớn khôn rồi!. Chúng ta đã làm hết bổn phận của mình, phần còn lại giao cho Chúa lo liệu, rồi an tâm tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa trong mọi sự!

6. Hãy nhớ con cháu luôn quan sát cha mẹ…

Cha mẹ có thói quen hay xem thường con cháu còn nhỏ không biết gì!Thực ra chúng rất khôn và quan sát chúng ta một cách tinh tế! Chúng biết hết nhưng không nói ra, khi có dịp ngồi lại với nhau chúng luôn phê bình cha mẹ là “giả hình” vì cha mẹ đi nhà thờ đọc kinh sốt sắng, giảng dạy cho chúng những điều hay lẻ phải, nhưng khi chúng quan sát trong đời sống hằng ngày, chúng thấy cha mẹ lại làm ngược lại: nói xấu bạn bè, chê bai người này, phê bình người nọ, nói dối tối đa khi cần để có nhiều quyền lợi, đôi khi còn xúi chúng nói dối theo, không tôn trọng lẽ công bằng…mà vẫn sống vô tư như mình chẳng có lỗi gì!

Nhiều cha mẹ nếu thành khẩn nghiêm túc xét lại bản thân chắc sẽ giật mình vì chúng ta đã làm gương xấu cho con cháu! “Trăm nghe không bằng một thấy”, chúng ta hãy giảng dạy bằng đời sống và hành động theo phúc âm, chắc chắn sẽ có tác dụng giáo dục đức tin tốt hơn bằng lời nói suông! Đối với giới trẻ trắng đen phải rõ ràng minh bạch, chúng không thích kiểu “nói một đàng, làm một nẻo” hay mỉa mai hơn khi sửa lại câu nói để đời của Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu mà vẫn thấy chí lý:

“Đừng nghe những gì cha mẹ nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cha mẹ làm”!

Đức Tân Giáo Hoàng Phanxicô cũng vừa đưa ra lời kêu gọi giáo dân đừng sống giả dối, mà hãy sống thành thật với Chúa và với mọi người!

7. Cầu nguyện với Chúa cho con cháu

+ Để thánh ý Chúa được thực thi trên đời sống con cháu

chứ không phải để ý con được thực hiện trên nó. Có cha mẹ, con muốn đi tu nhưng không cho vì tiếc! Có cha mẹ ép con phải học bác sĩ dù nó không thích! Cách đây vài năm ở vùng Graden Grove có một vụ án mạng con trai bóp cổ mẹ chết, chỉ vì bà mẹ cương quyết bắt con phải học bác sĩ dù con không muốn!. Thực ra ngành nghề nào cũng tốt, quan trọng là nhân cách tốt, chứ học ra bác sĩ mà bất nhân, bất lương (lừa gạt bệnh nhân, gian lận Medical…) thì xấu hổ lắm!

+ Ăn chay, hãm mình, hy sinh để cầu nguyện cho con cháu

Trước đây tôi vẫn nghĩ đó là truyền thống bên đạo Phật, họ ăn chay để cầu nguyện và cám ơn khi xin được ơn! Đây là một truyền thống tốt đẹp, chắc các bà mẹ nghe cha nói từ nay sẽ lo ăn chay hãm mình nhiều hơn để cầu nguyện cho con cháu.

+ Luôn nói với con cháu là mình đang cầu nguyện cho nó

Phần này tôi có kinh nghiệm vì tôi vẫn thường nói với con tôi “Mẹ cầu nguyện cho con mỗi ngày”, chúng nghe lơ là như không để vào lổ tai, nhưng khi chúng gặp khó khăn trong đời sống, hay trước những sự việc gì quan trọng là chúng nhớ gọi và dặn dò tôi “Mẹ nhớ cầu nguyện nhiều cho con nghen”! Như vậy là trong tiềm thức chúng vẫn tin vào lời cầu nguyện, vẫn tin vào Chúa…

Buổi nói chuyện được kết thúc bằng bài hát “Bao La tình Chúa” với sự hợp ca của tất cả mọi người để cùng thấm thía:

“Hồng ân chúa như mưa, như mưa
Rơi xuống đời con miên man, miên man
Nâng đỡ tình con trong tay, trong tay vòng tay thương mến

Đời có Chúa êm trôi, êm trôi, Chúa dắt dìu con luôn luôn không thôi
Có Chúa cùng đi con không đơn côi! Ôi tình tuyệt vời”!

Phượng Vũ

Dòng suối ân tình

Dòng suối ân tình

(Lc 17, 15)


Thiên Phúc


Trong một chuyến bay từ Rôma về Nữu ước, Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen chăm chú nhìn cô tiếp viên hàng không đang đi lại phục vụ quí khách. Thấy cử chỉ lạ của Đức Tổng, cô tiếp viên mạnh dạn đến gần và hỏi:

– Thưa Đức cha, có chuyện gì mà Đức Cha lại nhìn con như thế?

Vị Tổng Giám Mục nhoẻn miệng cười đáp:

– Vì đôi mắt của con rất đẹp!

– Vậy con phải làm gì để cám ơn Chúa đây?

– Con ạ! Chúa đã lấy tất cả sắc đẹp của từng người phong trong trại cùi Di Linh mà đem tặng cho con. Vậy con hãy đến đó chăm sóc cho họ mà đền đáp ơn Chúa.

Quả thật, chỉ ít lâu sau người ta đã thấy người phụ nữ xinh đẹp này ngày đêm tận tuỵ băng bó những vết thương lở loét cho các bệnh nhân phong, tại trại cùi Di Linh dưới lớp áo dòng nữ tu.
***
Phong cùi là một bệnh nan y khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ nếu mắc phải bệnh này. Vào thời Chúa Giêsu nó còn khoác vào người bệnh nỗi nhục nhã trong tâm hồn, vì người ta cho rằng họ là những người bị Thiên Chúa phạt. Những người mắc bệnh cùi bị ruồng bỏ, bị coi là nhơ nhớp, phải sống cách ly trong một làng cùi xa mọi người, xa cả người thân. Phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và phải hô lên rằng mình có bệnh truyền nhiễm và nhơ nhớp để cho người lành biết mà tránh xa (x. Lv 13, 1-44).
Thế mà, trong bài Tin Mừng hôm nay kể lại chỉ một lời Chúa Giêsu phán ra thì vết thương của thể xác và nỗi đau trong tâm hồn bao năm đè nặng bỗng tan biến hết. Căn bệnh quái ác mà họ cứ tưởng phải gánh chịu suốt cả cuộc đời, nỗi ô nhục mà họ cứ tưởng sẽ vĩnh viễn theo họ sang bên kia thế giới, thì nay đã được hoàn toàn tẩy xoá. Chỉ nhờ quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa mà họ như đã chết nay được hồi sinh, niềm vui rộn rã như vỡ oà trong tim.

Trớ trêu thay trong mười người được hưởng ơn chữa lành vô cùng lớn lao ấy, chỉ có một người biết dâng lời tạ ơn, mà người ấy lại là người Samari ngoại đạo. Còn những người vẫn tự hào là dân Thiên Chúa, dân riêng Chúa chọn lại sống vô ơn.

Chúa Giêsu phải thốt lên lời quở trách: “Không phải cả mười người được sạch cả sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17, 17-18). Sở dĩ Chúa Giêsu xem trọng lòng biết ơn cũng là vì ích lợi của kẻ được ơn mà thôi. Người Samari trở lại tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho anh ơn phần xác, thì Người lại ban thêm cho anh ơn phần hồn là củng cố niềm tin và xác định tư cách tôn giáo của anh. Người nói: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 17, 19). Như thế, cám ơn lại là cơ hội để nhận được thêm ơn.

Cuộc sống là một chuỗi những ân huệ nối tiếp theo nhau. Những ân huệ này đan xen với những ân huệ khác. Có những ơn do nơi Thiên Chúa, và cũng có những ơn đến từ con người. Vậy nếu cuộc sống là lãnh nhận thì người ta sẽ như thế nào nếu không hề biết nói hai tiếng cám ơn, hoặc chẳng bao giờ bày tỏ tấm lòng tri ân! Thú vật còn biết vẫy đuôi cám ơn khi ném cho nó cục xương, còn người vô ơn khi nhận được ân huệ chỉ biết trố mắt nhìn và câm lặng.

Một đứa trẻ mới bập bẹ tập nói trong một gia đình có giáo dục, thì tiếng “cám ơn” luôn nằm sẵn trên bờ môi. Một người có nhân cách thực sự là một người có lòng biết ơn. Một người luôn thể hiện lòng biết ơn mới đích thực là con người. Lòng biết ơn là nét cao đẹp nhất của con người. Biết ơn là nhận ra thân phận bất toàn của mình. Biết ơn là ý thức về tình liên đới với người khác. Biết ơn là thể hiện niềm tin vào Thiên Chúa yêu thương và quan phòng. Vì thế, lòng biết ơn chính là bông hoa rực rỡ, điểm tô cho cuộc sống con người. Một tiếng nói “cám ơn” với tất cả chân thành, một cử chỉ biết ơn sâu xa sẽ làm cho chúng ta nên người hơn, và thể hiện niềm tin sâu sắc hơn.

Cả cuộc sống của Chúa Giêsu là một “bài ca tạ ơn”. Người tạ ơn Cha trước khi cho Ladarô sống lại, trước khi làm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều, trước khi lập phép Thánh thể. Người không chỉ là mẫu mực về lòng biết ơn mà còn dạy chúng ta thể hiện lòng biết ơn ấy: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Kể từ đó, mỗi thánh lễ mà Giáo Hội cử hành được gọi là Thánh lễ Tạ ơn.

Thánh Phaolô luôn dâng lời tạ ơn lên Chúa: “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô” (1 Cr 1, 4). Ngài cám ơn tất cả những ai giúp ngài trong công việc mục vụ: “Quà anh em tặng cho tôi đó, chúng khác nào hương thơm, lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Người chấp nhận” (Pl 4, 10). Như vậy, câu ngạn ngữ Anh nói rất chí lý: “Cho người có lòng biết ơn chính là cho vay”.

***

Lạy Chúa, suốt cuộc đời chúng con ngụp lặn trong đại dương ân huệ của Chúa, suốt đời chúng con được tắm mát trong dòng suối ân tình của anh em.

Xin cho chúng con luôn biết sống có tình nghĩa. luôn thế kiện lòng biết ơn, luôn quí trọng những hồng ân mà Chúa đã thương ban, và những gì mà anh em đã làm cho đời chúng con thêm tươi đẹp và hạnh phúc hơn. Amen.

Têrêsa  Ngọc Nga

Hạnh phúc trường cửu

Hạnh phúc trường cửu

Tháng Mười 6, 2013 by Trần Đình Hoành

Chào các bạn,


Tìm kiếm thì không yên ổn. Nếu bạn tìm một chiếc chìa khóa bị mất chẳng hạn, bạn chẳng thể ngồi yên một chỗ, hay nằm ngủ, để tìm. Bạn phải tìm kiếm khắp nơi, lục tung tóe khắp chỗ, để tìm.

Cho nên, bạn không thể có được giác ngộ nếu bạn tìm giác ngộ, vì tìm kiếm là tung tóe mà giác ngộ là tĩnh lặng, an lạc, Niết bàn, hạnh phúc trường cửu.

Đừng nhầm lẫn hạnh phúc trường cửu với sướng vui chốc lát. Ví dụ: yêu là sướng vui. Nhưng mất người yêu là đau khổ. Cho nên yêu không phải là hạnh phúc trường cửu.

Nhưng một trái tim giác ngộ thì có bình an và hạnh phúc trường cửu, vì trái tim giác ngộ đã biết cách làm cho mình tĩnh lặng và an lạc vĩnh viễn, không còn những xung động tạo nên những nhồi dập nhức nhối trong lòng.

Hạnh phúc trường cửu là khả năng của trái tim của bạn luôn luôn tĩnh lặng trước mọi sự vật, mọi sự kiện, mọi con người, mọi biến chuyển, mọi thay đổi, mọi hoàn cảnh… An lạc nội tâm không lệ thuộc vào điều gì cả, ngoại trừ khả năng của bạn giữ trái tim luôn tĩnh lặng. Ồ, mà đã đến mức đó rồi thì bạn không cần giữ trái tim tĩnh lặng–trái tim bạn đã biết cách để luôn tĩnh lặng.

An lạc nội tâm là không bám vào “tôi”, không bám vào “tôi là”, không bám vào “cái của tôi, cái tôi thích, cái tôi không thích”—tức là vô ngã.

“Không bám vào” không có nghĩa là “không sờ đến”. “Không bám vào” có nghĩa là “có sờ đến thì cũng không bị dính mắc”: có tiền cũng không dính mắc vào tiền, có danh cũng không dính mắc vào danh, có quyền lực cũng không dính mắc vào quyền lực… Có cũng được, không có cũng được, chẳng màng có với không. Đó là “không bám vào”. Đó là vô chấp.

Vô ngã thì vô chấp.

Vô ngã, vô chấp, thì tĩnh lặng và an lạc. Đó là hạnh phúc vĩnh cửu.

Đó là cái nền bạn đứng bên trên để chinh phục thế giới.

Chúc các bạn luôn hạnh phúc.

Mến,

TÂM LÝ ĐÁM ĐÔNG

TÂM LÝ ĐÁM ĐÔNG

Có một hiện tượng phổ biến trong xã hội hôm nay mà người ta gọi là “tâm lý đám đông”, “sống theo phong trào”.  Do hiện tượng này, việc đánh giá một hành động hay một lời nói không còn dựa trên những chuẩn mực đạo đức của truyền thống hay của các tôn giáo, nhưng dựa theo đám đông.  Một hành động tự nó là xấu, nhưng có nhiều người làm, thì tự nhiên nó bớt xấu đi, thậm chí hành động đó được coi là bình thường.  Và, một khi được coi là bình thường, thì không cần phải áy náy hay bận tâm về “tính luân lý” của hành động đó nữa.  Cách đây vài chục năm, việc một cặp vợ chồng bỏ nhau là điều hổ nhục cho hai dòng họ, vì thế mà cha mẹ đôi bên tìm đủ mọi cách để hàn gắn những rạn nứt, vừa để bảo vệ hạnh phúc gia đình, vừa giữ thể diện với những người xung quanh.  Ngày nay, tình trạng ly hôn ngày càng nhiều, nên nhiều bậc cha mẹ và các bạn trẻ dựa vào “tâm lý đám đông” để lập luận: “Ôi giào, xung quanh ta có đầy người làm thế”.  Và như thế, một việc tự nó là không bình thường đã trở nên bình thường vì có nhiều người làm như vậy.  Có thể kể đến lối suy nghĩ tương tự về nạn phá thai, nghiện ngập, trộm cắp hay nhiều loại hình tệ nạn khác.

Báo chí tuần qua thu hút nhiều quan tâm của độc giả khi đưa những thông tin về một sự kiện có liên quan đến ngành y.  Tại bệnh viện đa khoa Hoài Đức (Hà Nội), có một số dược sĩ vì lòng tham đã “nhân bản” những kết quả xét nghiệm, xào xáo nhằm trục lợi từ quỹ bảo hiểm.  Chị Hoàng Thị Nguyệt, công tác tại Khoa Xét nghiệm Bệnh viện đa khoa Hoài Đức và hai đồng nghiệp đã không chấp nhận việc làm trái lương tâm đó, nên đã can đảm tố cáo hành vi gian lận.  Điều ngạc nhiên là sau khi chị Nguyệt phát đơn tố cáo thì chị bị đuổi việc và bị tố cáo ngược lại.  Cấp trên đã can thiệp, chị Nguyệt và hai người đồng nghiệp được trả lại danh dự, nhưng trong một khung cảnh bất bình thường, theo kiểu “mặt cười miệng mếu”.  “Sáng 16-8-2013, lãnh đạo Sở Y tế Hà Nội đã tổ chức khen thưởng cho chị Hoàng Thị Nguyệt và hai người có đơn tố cáo sai phạm xảy ra tại Bệnh viện Đa khoa Hoài Đức.  Nhiều ý kiến cho rằng buổi lễ chỉ diễn ra trong vòng 30 phút sơ sài, buồn tẻ, hình thức, đặc biệt mức thưởng 320.000 đồng cho một người là quá ít, thậm chí là “xúc phạm người tố cáo tiêu cực” (VnExpress ngày 19-8-2013).

Qua sự kiện này, chúng ta thấy rõ ảnh hưởng của tâm lý đám đông.  Vâng, chị Nguyệt và hai người đồng nghiệp là những người lương thiện, đáng khen, nhưng đối với phần lớn tập thể cán bộ nhân viên của bệnh viện Hoài Đức, thì chị không có chỗ ở đây, vì chị không nghĩ như họ, không đồng quan điểm với họ.  Trong khi một số đông toa rập với nhau để làm những điều khuất tất nhằm trục lợi, thì chị suy nghĩ và hành động ngược lại.  Chị không hành động giống như đám đông, như tập thể.  Chị giống như một cung đàn rất hay nhưng lạc điệu giữa một mớ âm thanh hỗn tạp nhằm phục vụ lợi ích một số cá nhân đang muốn vơ vét cho đầy túi tham.  Vì thế, trong cơ quan này, không có chỗ cho chị.  Tố cáo người làm sai là việc tốt, nhưng trong bối cảnh xã hội mà xem ra ở đâu cũng sai như thế, thì việc tố cáo lại coi là không bình thường và khó chấp nhận.  Vì thế mà những người phụ nữ này đã buồn bã kết luận: “đấu tranh” thì “tránh đâu”.

Trong thông điệp đầu tiên của mình, Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết: “Ngày nay, chân lý thường bị giảm xuống thành sự xác thực chủ quan của mỗi người, chỉ có giá trị cho cuộc sống cá nhân” (Lumen Fidei, số 34). Tâm lý đám đông cũng đang ảnh hưởng tai hại đến đời sống đức tin và luân lý.  Đức tin bị coi là một hành vi cá nhân, tùy chủ quan nhận định của mỗi người.  Khá nhiều bạn trẻ lơ là với việc sống đạo vì họ lập luận xung quanh mình có nhiều người cũng thế.  Nhiều bạn trẻ đua theo phong trào sống thử, phá thai, vì nghĩ rằng đó là một lối sống của xã hội mới, xã hội hiện đại và nhất là vì có rất nhiều người cùng quan điểm với họ.  Họ đã đánh mất cảm thức về tội, không còn áy náy lương tâm khi phạm tội.  Họ lợi dụng danh nghĩa tự do để làm bất cứ điều gì họ muốn.  Họ giống như người đã trót vấy bùn đen, tiếp tục nhấn chìm vì nghĩ đàng nào cũng đã nhiễm bùn rồi.  Kết quả là những cuộc đời không có tương lai, trở thành gánh nặng đè lên vai người thân.  Cũng cần nhắc đến trách nhiệm của những bậc phụ huynh trước tâm lý đám đông.  Có những người cha người mẹ không quan tâm đến đời sống đức tin cũng như đạo đức xã hội của con cái mình.  Không ít người đã chép miệng thanh minh “thời thế bây giờ nó như vậy”.

Chúng ta không để dòng nước “thời thế” lôi cuốn.  Con người thụ động để cho dòng đời lôi cuốn sẽ tự biến mình thành một khúc gỗ trôi sông.  Chỉ có con người có bản lĩnh mới dám can đảm lội ngược dòng, “tâm bất biến giữa cuộc đời vạn biến”.

“Hãy chiến đấu qua cửa hẹp mà vào (Nước Trời)” (Lc 13,24).  Chúa Giêsu đề nghị với chúng ta một giải pháp, một con đường để đạt tới hạnh phúc.  Tâm lý đám đông bao giờ cũng tạo ra những con đường dễ dãi, hấp dẫn đối với mọi người.  Thời nào cũng thế, người ta có khuynh hướng lảng tránh những hy sinh, khước từ những cố gắng.  Và khi tìm những điều dễ dãi để đáp ứng những nhu cầu của bản năng, người ta tìm ra đủ mọi thứ lập luận bảo vệ cho hành động và lối sống của mình.  “Bước qua cửa hẹp” còn có nghĩa là đi qua cửa có tên là Giêsu, vì chính Người tuyên bố: “Tôi là cửa, ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu” (Ga 10,9).  Đi qua cửa Giêsu tức là nhận làm môn sinh và nỗ lực thụ giáo với Người.

Hạnh phúc Nước Trời là kết quả của những cố gắng của cá nhân mỗi người chứ không phải là dựa vào đám đông.  Thánh Phaolô khuyên giáo dân Philipphê “Anh em hãy biết kính giới và run sợ mà gia công lo việc cứu rỗi chính mình” (Pl 2,12).  Giữa cuộc đời đầy biến động chao đảo này, người Kitô hữu được mời gọi can đảm sống theo sự thật, noi gương Đức Giêsu, Đấng đã đến để chiếu rọi ánh sáng vào cuộc đời tối tăm, là vị Chứng Nhân trung thành, Đấng yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta (x. Kh 1,5-8). Sự chọn lựa ý muốn của Chúa Cha đã khiến Người phải trả giá là khổ hình thập tự, nhưng Người đã đón nhận trong sự vâng phục và trung thành để qua đó, vinh quang Chúa Cha được thể hiện qua biến cố đau thương này.

Đại uý James Mulligan là một tù binh Hoa Kỳ bị bắt và cầm tù năm 1966 tại trại giam Hỏa Lò (Hà Nội).  Trong tối tăm của ngục tù, anh vẫn vững vàng cậy trông.  Mỗi ngày, anh đều lần hạt Mân côi và cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, xin cho con sức mạnh và lòng kiên quyết vững vàng.  Chẳng có ai hay biết ngoài một mình con với Chúa, nhưng chỉ cần như vậy mà thôi.  Chúa đã chịu khổ hình vì niềm tin của Chúa, còn con đây cũng đang chịu khổ hình vì niềm tin của con.  Đúng vẫn là đúng cho dù không ai đúng cả; còn sai vẫn là sai cho dù mọi người đều sai hết” (trích trong bài thuyết trình của tiến sĩ Charles Rice, nhân ngày lễ ra trường của sinh viên đại học Notre-Dame, Hoa Kỳ, tháng 5-2010.  Bài thuyết trình có tựa đề: Thiên Chúa không hề chết, Ngài cũng chẳng mỏi mệt).

“Có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt điều gì là do ác quỷ (Mt 5,37), một điều tưởng chừng như rất đơn giản mà trong thực tế không dễ dàng thực hiện, bởi lẽ chúng ta có khuynh hướng sống theo đám đông, “gió chiều nào che chiều đó”.  Vì thế mà nhiều khi ta đánh mất chính mình, và cũng vì thế mà cái ác, cái xấu vẫn đang tồn tại trong cuộc sống chúng ta.

GM Giuse Vũ Văn Thiên

From: langthangchieutim

MARIA, NGƯỜI NỮ THÁNH THỂ

MARIA, NGƯỜI NỮ THÁNH THỂ

Bài Tin Mừng tường thuật cuộc truyền tin kết thúc bằng hai tiếng “Xin Vâng” của Đức Mẹ. Với hai tiếng “Xin Vâng”, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn thay đổi.  Từ nay Mẹ không còn sống cho mình nhưng hoàn toàn sống cho Thiên Chúa.  Mẹ kết hiệp chặt chẽ với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu.  Và vì thế, Mẹ trở thành gương mẫu của lòng tôn sùng và thực hành bí tích Thánh Thể.

Thật vậy, với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ là gương mẫu trong việc đón nhận Thánh Thể.  Khi đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa vào lòng, Mẹ hoàn toàn tin tưởng thịt máu của bào thai Mẹ được diễm phúc cưu mang trong lòng chính là Thiên Chúa.  Như thế, Mẹ khuyên dạy ta khi đón nhận Mình Thánh Chúa, hãy tin vững vàng ta đã đón nhận Thịt Máu của Chúa Giêsu.

Với hai tiếng “Xin Vâng”, tâm hồn Mẹ trở nên ngôi nhà chầu đầu tiên được đón tiếp, cất giữ Chúa Giêsu Thánh Thể.  Đây chính là ngôi nhà chầu xinh đẹp nhất vì cung lòng thanh khiết của Mẹ là một đền thờ nguy nga lộng lẫy.  Hơn nữa việc luôn ghi nhớ và suy niệm những điều thiên thần nói, giúp Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu trong lòng, biến Mẹ thành một người chầu Mình Thánh liên tục.  Như thế Mẹ khuyên dạy ta hãy năng chầu Mình Thánh Chúa.

Sau khi thưa “Xin Vâng”, Mẹ vội vã lên đường đi viếng bà thánh Elizabeth.  Đây chính là cuộc rước kiệu Thánh Thể đầu tiên.  Cuộc rước kiệu thật đơn sơ, không kèn trống, không đông đảo, nhưng đầy sốt sắng, đầy cung kính nên đã đem lại lợi ích phi thường: đem ơn cứu độ đến cho ông thánh Gioan Baotixita còn trong lòng mẹ, làm cho mọi người tràn đầy niềm vui.  Như thế Mẹ nhắn nhủ ta kiệu Thánh Thể sốt sắng sẽ đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng.

Nhưng cũng với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu.  Từ khi còn trong bào thai cho đến khi sinh ra trong hang đá Bêlem.  Từ khi ấu thơ cho đến khi hoạt động công khai.  Việc Mẹ tất tả đi tìm Chúa Giêsu trong đền thờ Giêrusalem nói lên sự gắn bó mật thiết.  Mẹ coi Chúa Giêsu là lẽ sống.  Mẹ không thể sống nếu thiếu vắng Chúa.  Với lòng tha thiết tìm kiếm Chúa, Mẹ khuyên dạy ta hãy yêu mến đến khao khát Chúa.  Vì Thánh Thể Chúa chính là nguồn sự sống của ta.

Với hai tiếng “Xin Vâng”, không những Mẹ vâng lời Thiên Chúa hoàn toàn, mà còn dạy mọi người biết vâng lời Chúa.  Nên tại tiệc cưới Cana, Mẹ khuyên nhủ gia nhân: “Người bảo gì các con hãy cứ làm theo” (Ga 2,5).  Thái độ hoàn toàn vâng phục đã được Chúa thưởng công bằng phép lạ “nước lã hóa thành rượu ngon”.  Hôm nay Mẹ cũng nhắc nhủ ta: Nếu Chúa đã dặn dò: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (Lc 22-19), thì hãy vâng lời Chúa, siêng năng tham dự thánh lễ, chầu Mình Thánh Chúa, chịu lễ, chắc chắn Chúa sẽ làm phép lạ đổi mới đời các con như biến nước lã thành rượu ngon.

Với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ hoàn toàn kết hiệp với Chúa Giêsu, theo Chúa trên đường lên Núi Sọ và đứng dưới chân thánh giá để nên một với Chúa Giêsu trong việc dâng hiến chính bản thân mình, dâng những đau đớn khổ cực làm của lễ đền tội cho nhân loại.  Ở đây Mẹ đã sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm tự hiến mình cho nhân loại.  Như Chúa Giêsu, tấm lòng tan nát của Mẹ đã trở thành tấm bánh bẻ ra ban cho nhân loại sự sống mới.  Như thế Mẹ dạy ta phải biết hiến thân chịu mọi đau đớn, vất vả trong đời sống để nên một với Chúa Giêsu Thánh Thể.  Việc kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể để hiến dâng thân mình sẽ đem lại hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.

Và với hai tiếng “Xin Vâng”, một lần cuối cùng Mẹ vâng lời Chúa, nhận thánh Gioan làm con. Nhận thánh Gioan là nhận cả nhân loại làm con.  Vì thế Mẹ đã sống mầu nhiệm Thánh Thể khi hiệp nhất với tất cả mọi người, nhận tất cả nhân loại vào gia đình mình, đón tiếp mọi người vào đồng bàn trong bữa tiệc Thánh Thể, và trong bữa tiệc Nước Trời.  Hôm nay, Mẹ nhắn nhủ ta khi chịu lễ rồi hãy biết yêu thương đoàn kết vì tất cả chúng ta được đồng bàn với Chúa, cùng ăn một bánh, cùng uống một chén với nhau.  Và tất cả chúng ta đều là các chi thể trong thân thể của Chúa.  Tuy năm Thánh Thể đã kết thúc, nhưng việc yêu mến sùng kính và nhất là việc sống bí tích Thánh Thể vẫn tiếp diễn.  Đặc biệt trong tháng Mân Côi, nếu ta yêu mến Đức Mẹ, ta càng phải yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì Mẹ chính là mẫu gương yêu mến Thánh Thể, đến nỗi Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị đã gọi Mẹ là “Người Nữ Thánh Thể”.  Nếu chúng ta siêng năng lần hạt Mân Côi, chắc chắn Đức Mẹ sẽ hướng dẫn ta đến yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì tất cả các mầu nhiệm trong kinh Mân Côi đều hướng về Chúa Giêsu.  Và mầu nhiệm Năm Sự Sáng đưa ta trực tiếp tới bí tích Thánh Thể.  Thật là đẹp khi ta lần hạt trước Thánh Thể.  Vì như Đức Mẹ đã khấn cầu cho tiệc cưới Cana được ơn phúc thế nào, hôm nay, trước Thánh Thể, Đức Mẹ cũng khẩn cầu ơn phúc cho chúng ta như vậy.

Lạy Mẹ Mân Côi, xin dạy con biết yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa.

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

From: langthangchieutim & Anh chị Thụ Mai gởi

Đau khổ có giá trị cứu độ

Đau khổ có giá trị cứu độ

TRẦM THIÊN THU

Tại sao Thiên Chúa cho phép những điều đó xảy ra?

Đó là câu hỏi người ta vẫn đặt ra, hầu như là “vấn đề muôn thuở”. Đau khổ xảy ra mọi thời và mọi nơi: Giết người tập thể, giết người hàng loạt, đánh bom khủng bố, động đất, sóng thần,… Rồi những thảm họa cá nhân: Em bé chết đuối trong cơn giông bão, người trẻ chết trong vụ tai nạn, người già chết đơn độc, đám cưới bỗng trở thành đám ma,…

Hãy bắt đầu với sự thật là bất kỳ ai cũng không thể có câu trả lời rõ ràng về vấn đề đau khổ!

Trong Cựu ước, Thiên Chúa thẳng thắn “đặt vấn đề” với Thánh Gióp: “Ngươi ở đâu khi Ta đặt nền móng cho đất? Nếu ngươi thông hiểu thì cứ nói đi!” (G 38:4). Và cả chương 38 trong sách Gióp là một loạt câu hỏi, chúng ta không dễ trả lời.

Trong Tân ước, khi nói về người mù từ khi mới sinh (Ga 9:1-3) và những người bị chết khi tháp sụp đổ (Lc 13:2-5), Chúa Giêsu nói rằng các trường hợp bi đát đó là cách của Thiên Chúa trừng phạt tội lỗi của ai đó chứ không hẳn là tội lỗi của chính người đó.

Cũng vậy, có gợi ý để chúng ta nhận biết những vấn đề tương tự – tại sao Thiên Chúa để cho điều đó xảy ra? Có thể áp dụng cho cả điều tốt và điều xấu. Tại sao Thiên Chúa cho phép hôn nhân hạnh phúc? Được thăng cấp trong công việc? Thỏa mãn trong nghề nghiệp? Những điều vui này có thật như những điều bất hạnh, và vẫn có bàn tay của Thiên Chúa trong cả điều tốt lẫn điều xấu. Tại sao Ngài cho phép chúng xảy ra?

Về điều tốt, dĩ nhiên chúng ta dễ trả lời: Thiên Chúa cho phép chúng xảy ra vì Ngài muốn chúng ta hạnh phúc. Nhưng cách trả lời như vậy còn quá thiển cận. Thiên Chúa muốn con người chịu đau khổ để cảm nhận hạnh phúc. Vậy tại sao Ngài lại để họ chịu đau khổ?

Để hiểu rõ lý do Thiên Chúa cho phép mọi thứ xảy ra, cả tốt và xấu, chúng ta cần biết toàn bộ kế hoạch tiền định của Ngài. Nhưng đó là điều chúng ta không thể biết cho tới khi chúng ta đối diện Thiên Chúa trên Thiên Đàng. Điều đó sẽ rõ ràng về mọi thứ phù hợp với nhau trong sự viên mãn của Ý Chúa. Hiện nay, chúng ta chỉ có thể phỏng đoán mà thôi.

Nhưng chúng ta có một số gợi ý để cố gắng xử lý. Trong tông thư Salvifici Doloris (11-2-1984, nói về “sự đau khổ mang tính cứu độ”), ĐGH Gioan Phaolô II đã noi gương Thánh Phaolô tìm kiếm “ý nghĩa sự đau khổ” theo Kitô giáo để thông phần đau khổ cứu độ của Đức Kitô. Đau khổ cho người ta cách trở nên người đồng công cứu độ với Đức Kitô, chia sẻ hoạt động cứu độ của Ngài, đền tội mình, và góp phần vào công cuộc cứu độ của Ngài mở ra cho mọi người.

Như vậy có sự khuyến khích đối với việc chịu đau khổ chăng? Không hề có. Cách giải thích này không không có ý nói về lý do Thiên Chúa cho phép đau khổ xảy ra, cũng không có ý nói chịu đau khổ là niềm vui. Về việc chịu đau khổ, ĐGH Gioan Phaolô II nói: “Giá trị của sự khám phá cuối cùng là niềm vui tiếp theo”.

Giá trị cứu độ của cuộc đời Chúa Giêsu không chỉ nằm trong sự đau khổ. Hiện tại trong cuộc đời Ngài là một tổng thể. Từ viễn cảnh đó, đau khổ tạo ý nghĩa để nghĩ về những điều hạnh phúc trong cuộc đời chúng ta để tham dự vào những khoảnh khắc vui mừng trong cuộc đời cứu độ của Đức Kitô: Ảnh hưởng gia đình tại căn nhà ở Nadaret, sự lao động trong xưởng thợ của Đức Thánh Giuse, cùng họp mặt với các tông đồ khi mọi sự êm xuôi. Mọi thứ đều có giá trị cứu độ cùng với Thập giá. Cũng như mọi thứ xảy ra trong cuộc đời chúng ta, cả đau khổ và hạnh phúc, đều có thể có giá trị cứu độ.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)

Lễ các Thiên thần Bản mệnh, 2-10-2013

Ăn Mặc & Ăn Nói

Ăn Mặc & Ăn Nói

Tưởng Năng Tiến

Có lần, bên bàn nhậu, tôi nghe một cha nói (y như thiệt) rằng hồi năm 1941 Nhà Nước Thuộc Địa đã trao tặng giải thưởng và cấp bằng tưởng lục cho một người dân Việt vì đã chế ra cái đèn dầu Hoa Kỳ – hiện vẫn còn được lưu dụng, ở nhiều nơi.

Cùng thời điểm này, chính xác là vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, xẩy ra trận Trân  Châu Cảng. Theo Wikipedia:

“Cuộc tấn công bao gồm hai đợt không kích với tổng cộng 353 máy bay xuất phát từ 6 tàu sân bay Nhật Bản. Trận tấn công đã đánh chìm 4 thiết giáp hạm Hoa Kỳ (2 chiếc trong số đó sau này được vớt lên và đưa trở lại hoạt động), và gây hư hỏng cho 4 chiếc khác. Quân Nhật còn đánh chìm hoặc phá hoại 3 tàu tuần dương, 3 tàu khu trục và 1 tàu thả mìn, phá hủy 188 máy bay ….”

So như thế (nghĩ) đã buồn nhưng sự thật còn buồn hơn thế nữa. Cha đẻ cái đèn dầu Hoa Kỳ – thực ra – là một người Ba Lan, Ignacy Łukasiewicz. Ông làm ra nó vào năm 1853.

Một trăm năm mươi hai năm sau, báo Tiền Phong – số ra ngày 7 tháng 10 năm 2005 – còn (chua chát) thêm rằng: “Chúng ta chưa tự làm được cái đinh vít!”

Dân Việt, rõ ràng, không có “năng khiếu” cao về khoa học và kỹ thuật. Ít nhất thì cũng không “cao” bằng dân Nhật. Nói cách khác (và nói một cách hơi hoa mỹ) Việt Nam là một xứ sở trọng nông hoặc thuần nông, chỉ chuyên về việc sản xuất lúa gạo thôi.

Đã có một thời mà mọi thứ ở đất nước này đều có thể có thể qui ra gạo, và gạo còn được dùng như một loại hoá tệ cho sinh hoạt mua bán thường ngày, kể cả việc … mua dâm – theo như lời kể của một nhà văn:

“Ga Vinh một buổi tối trời mưa. Một túp nhà lá nằm nép bên vệ đường, phía sau là khoảng nước dở ao dở rãnh, muỗi và cỏ nhiều. Một ngọn đèn dầu run rẩy vì gió, cháy leo lét được treo trước cửa sổ. Một con chó già còm cõi bê bết bùn đất và lạnh, nằm in bóng đèn dầu dưới cửa sổ, tru ư ử trong họng mà không dám vào nhà vì sợ đòn. Gió hú rít xoáy quanh cửa tranh nhau luồn vào nhà. Có tiếng mái tranh cọ nhau xào xạc như van xin. Tiếng chẫu chuộc gọi cái làm nhịp cho mưa rơi…

Có tiếng chân rẽ nước đi tới, rồi một cái đầu đàn ông thò vào cửa sổ, nhễu nước lã chã xuống con chó.

“Bao nhiêu?”

Bên này:

“Năm chục.”

“Ðắt thế, gái Sài Gòn còn chả tới nữa là…”

“Thế muốn bao nhiêu?”

“Hai chục…?”

“Thanh toán trước đi!”

“Gì mà vội thế, chả ‘tình’ tí nào cả.”

“Sao? Có tiền không?”

“Lấy gạo nhé?”

“Gạo gì? Mậu dịch hay gạo mới?”

“Mới chia tiêu chuẩn tháng ở cơ quan về, chưa xem.”

“Gạo mậu dịch rồi, tính bao nhiêu?”

“Hai chục.”

“Ðắt quá, mà cũng không có cân nữa.”

“Mười tám đồng vậy, đong đại bằng ống sữa bò đi…”

“Ừ, thế cho tiện, cân mất công, gạo đi mua nặng ký… mà này, có trộn đá dăm vào không đấy?”

“Mang đèn ra mà soi.”

“Gạo này chỉ mười lăm đồng.”

”Ðong vun tay thế kia thành hai cân của người ta chứ còn gì…”

Một thằng nhóc chừng chín tuổi thình lình hiện ra như chui từ dưới đất lên, đứng mút tay nhìn cảnh đong gạo. Người đàn ông còn đang loay hoay cột lại cái bao của mình thì nó giật túi gạo nơi tay người đàn bà, chạy vụt ra cửa.

“Nấu cơm nhé, đừng nấu cháo… Nhớ để phần cho chị đấy.”

(Thế Giang. “Chỗ Nước Đọng”. Thằng Người Có Đuôi. Costa Mesa: Người Việt, 1987. 99-104)

Câu chuyện trên, tất nhiên, đã cũ. Thời sổ gạo và tem phiếu đã qua. Ngày 27 tháng 9 năm nay, tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, Thủ Tướng Việt Nam – ông Nguyễn Tấn Dũng – đã long trọng thông báo cho toàn thể nhân loại biết rằng:

“Từ một nước thiếu đói, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Chúng tôi không chỉ bảo đảm an ninh lương thực cho riêng mình mà còn góp phần tích cực bảo đảm an ninh lương thực thế giới.”

Hai năm trước, báo Công an nhân dân (số ra ngày 20 tháng 7 năm 2011) cũng đã khẳng định tương tự: “Cái đói bị đẩy lùi xa tít tắp.”

Nói như vậy chắc là xa dữ lắm. Theo như tường trình của phóng viên Uyên Nguyên, RFA, hôm 22 tháng 5 năm 2013, cái đói đã bị đẩy tuốt luốt lên tới … những huyện miền núi ở tỉnh Thanh Hoá:

“Nhìn bữa ăn của gia đình người Thái Trắng này, nó cũng giồng như nhiều bữa ăn khác của những gia đình Thái Trắng khác mà chúng tôi gặp ở Mường Lát, Quan Hóa, Ngọc Lặc, Lang Chánh… Một nồi cơm độn sắn lát, một bát cà rừng và một chén mắm chuột để chấm cà, chúng tôi chỉ biết ứa nước mắt nhìn đồng loại nuốt cơm!”

Hoặc còn xa hơn nữa, “tít tắp” mãi đến tỉnh Hà Giang, như tâm sự (nghe được vào ngày 25 tháng 9 năm 2012) của cô phó hiệu trưởng Trần Thị Phúc:

“Học sinh ở đây nghèo lắm, nếu không xuống tận địa bàn chắc khó có thể hình dung hoàn cảnh của từng cháu. Có những em quanh năm chỉ mặc duy nhất một bộ quần áo, chưa từng biết đến đôi tất và thường xuyên phải ăn mèn mén thay cơm.”

Cái đói và chuyện ăn độn, bây giờ, chỉ còn quanh quẩn (quanh năm suốt tháng) ở những vùng xa, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng thôi. Chứ còn ở miền xuôi, nói chung, ngay tại nông thôn người dân vẫn được ăn cơm, và ăn no.

Riêng tại Hà Nội hôm nay còn có những tách cà phê hay những tô phở trị giá (cỡ) … nửa triệu đồng! Câu thơ ngày xưa (Đảng còn kia bát phở hoá thành mơ) của Nguyễn Chí Thiện đã bị thời thế bỏ lại phía sau xa lơ, xa lắc. Uớc mơ của người dân Việt hôm nay, rõ ràng, đã vượt mức ăn/ mặc. Đã đến thời người dân đòi ăn/nói – như họ vừa dõng dạc Tuyên Bố Về Thực Thi Quyền Dân Sự và Chính Trị:

Chúng tôi yêu cầu nhà cầm quyền tôn trọng quyền bày tỏ quan điểm của công dân, thẳng thắn tranh luận và đối thoại, từ bỏ cách đối xử không công bằng, không minh bạch và không đường hoàng như đã và đang áp dụng đối với những kiến nghị sửa đổi Hiến pháp và những tiếng nói đòi dân chủ khác với quan điểm của nhà cầm quyền.

Ý kiến khác nhau cần được tranh luận thẳng thắn để tìm chân lý; còn dựa vào quyền lực để cản trở việc công bố, không đối thoại mà chỉ đơn phương phê phán, quy kết, thậm chí dùng nhiều cách ngăn cấm và trấn áp thì không những vi hiến và trái với Công ước quốc tế mà còn không đúng với tư cách chính đáng của một nhà cầm quyền.

………..

Thực tế ở nước ta cho thấy rõ: thể chế này đã tạo nên một bộ máy cầm quyền có nhiều quyết sách sai trái và quan liêu, tham nhũng nặng; một “bộ phận không nhỏ” trong bộ máy lợi dụng quyền lực (cả quyền cai trị và quyền sử dụng, định đoạt đất đai, tài nguyên, tài sản công) cấu kết với một số nhà kinh doanh làm giàu bằng nhiều thủ đoạn bất minh (cả trong khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân), hình thành các nhóm lợi ích bất chính, xâm phạm quyền lợi của nhân dân, dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo quá bất công ở nước ta. Không ít người trong giới cầm quyền các cấp cùng với các nhóm lợi ích và sự hậu thuẫn của thế lực bên ngoài đang dựa vào bạo lực cùng nhiều thủ đoạn không chính đáng để duy trì quyền thống trị đất nước theo thể chế toàn trị, có phần do tư duy giáo điều, bảo thủ, nhưng phần quan trọng hơn, phổ biến hơn là do muốn bảo vệ và giành thêm lợi ích riêng bất chấp lợi ích chung của đất nước, của dân tộc…

Để vượt qua những thách thức hiểm nghèo đối với đất nước và dân tộc, giải pháp cơ bản là phải cải cách thể chế chính trị, chuyển từ toàn trị sang dân chủ …”

Điều đáng tiếc là những đòi hỏi thượng dẫn, xem ra, đều quá sức “chịu đựng” của chế độ hiện hành. Mâu thuẫn này khiến cho tình trạng xã hội Việt Nam xem ra có vẻ lôi thôi lắm, và e là sẽ còn lôi thôi lâu, cũng như (chắc chắn) sẽ lôi thôi lớn – trong tương lai gần.

Ông Trần Huỳnh Duy Thức, trước khi trở thành một tù nhân lương tâm, đã bàn luận về tình huống lưỡng nan hiện tại như sau:

“Trung quốc và Việt Nam … không thể tiêu hóa nổi kết quả đương nhiên của sự tiến hóa do vận động của nền kinh tế thị trường vốn bắt buộc đòi hỏi một thể chế chính trị ngày càng dân chủ … Mặc dù hai nước này đã chấp nhận kinh tế thị trường và nhận hưởng công trạng của nó, nhưng họ dường như không thấy được quy luật này diễn biến không thể đảo ngược như thế nào và nó sẽ đẩy tất cả các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị đến đâu. Nên họ kịch liệt chống lại sự tiến hóa tất yếu này…”

Ông Trần Duy Thức bị bắt vào ngày 24 tháng 5 năm 2009. Hơn ba năm đã trôi qua. Từ đó đến nay, cả đống nước sông (cùng nước suối, nước mưa, và nước mắt) đã ào ạt chẩy qua cầu và qua cống. Nhiều sự kiện đã xẩy ra khiến cho thái độ “kịch liệt chống lại sự tiến hóa tất yếu này” của Hà Nội – chắc chắn – sẽ không thể kéo dài lâu nữa, ít nhất thì nó cũng không thể lâu bằng bản án 16 năm tù mà chế độ này đã dành cho ông.

Câu hỏi đặt ra người Việt sẽ làm gì sau đó, sau khi những kẻ cầm quyền hiện tại buộc phải buông tay hay thay đổi? Tương lai thường không tốt đẹp, hay sáng sủa gì cho lắm, đối với những ai không sẵn sàng để chờ đón nó.

Tưởng Năng Tiến

LỜI KINH TUYỆT VỜI

LỜI KINH TUYỆT VỜI

Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN

Trích EPHATA 582

Phụng Vụ bước vào Tháng Mai Khôi. Suốt tháng này, lòng sùng kính của Dân Chúa đối với Đức Mẹ mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng Chuỗi Mai Khôi. Mọi tín hữu được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ và suy niệm trong lòng” qua từng lời kinh chuỗi hạt Mai Khôi.

Tràng hạt Mai Khôi là một hành trang và là phương tiện “bỏ túi”, “đeo tay”, “đeo cổ” gọn nhẹ. Lời kinh kỳ diệu này giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Kinh Mai Khôi không khác gì điện thoại di động hòa đời người vào mạng lưới Sự Sống thiêng liêng.

Chuỗi Mai Khôi trong tiếng Latinh là “rosarium” nghĩa là “vườn hoa hồng”. Tháng 10, lần hạt Mai Khôi, đoàn con cái hiếu thảo dâng biết bao hoa hồng lên Mẹ Maria. Bằng chuỗi Mai Khôi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp tiến dâng Mẹ hiền.

1. Kinh Mai Khôi đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng

Chuỗi Mai Khôi thật cao quý, ai biết siêng năng lần hạt sẽ nhận được hiệu quả phi thường.

Vào thế kỷ 13, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp. Với Chuỗi Mai Khôi do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời gian ngắn, Thánh Đa Minh đã cảm hóa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Hội Thánh.

Năm 1511, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của Kinh Mai Khôi mang lại. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mai Khôi. Khi ấy quân Hồi xâm lăng Âu Châu, tàn phá những nơi họ đi qua, tiêu diệt dân Công Giáo. Cùng với việc triệu tập Đạo Quân Thánh Giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha, Đức Giáo hoàng Piô V ( 1504 – 1572 ) kêu gọi mọi người siêng năng lần Chuỗi Mai Khôi.

Cuộc chiến quá chênh lệch đã diễn ra tại vịnh Lepante, nhưng với quân số ít ỏi và khí giới thô sơ, người Công Giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi Giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Từ Roma, Đức Giáo Hoàng nghe tin chiến thắng và nói với các vị trong Giáo Triều hãy tạ ơn Chúa. Hôm đó là ngày 7 tháng 10. Đức Giáo Hoàng đã thiết lập Lễ Mai Khôi để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này.

Trước năm 1917, Bồ Đào Nha ở vào một tình trạng suy thoái một cách trầm trọng về phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên những chia rẽ và những cuộc nội chiến. Hội Thánh bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm Tam Điểm. Nhà Thờ bị phá hủy, các Linh Mục và Tu Sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta tổ chức những đoàn hội chống lại Hội Thánh. Thế nhưng kể từ năm 1917, năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha đã đi vào một khúc quanh mới của lịch sử. Người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mai Khôi để xin Mẹ chấm dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước. Bồ Đào Nha đã xứng đáng với tước hiệu quê hương của Kinh Mai Khôi.

Lịch sử còn ghi lại nhiều thành quả kỳ diệu khác nữa của Kinh Mai Khôi. Chẳng hạn Kinh Mai Khôi đã mang lại chiến thắng tại Vienna ngày 12.9.1683, hay đã chấm dứt bệnh dịch tại Milan… Chuỗi Mai Khôi vẫn còn là một phương thế cứu rỗi hữu hiệu của mỗi tín hữu. Khi hiện ra tại Lộ Đức ( Lourdes ) hay tại Fatima, Đức Mẹ đều kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mai Khôi.

Tạp chí Reader’s Digest số ra tháng 4 năm 1991 có kể lại cuộc gặp gỡ kỳ thú giữa Mẹ Têrêsa thành Calcutta ( 1910 – 1997 ) và một thương gia người Mỹ như sau:

Trên chuyến máy bay từ Chritiamy về Thanasity, thương gia trẻ tên là Jim Caiso ngồi kề bên Mẹ Têrêsa và một Nữ Tu khác. Jim Caiso nhận ra ngay khuôn mặt của người Nữ Tu thường được báo chí nhắc đến. Khi những người khách cuối cùng đã yên vị trên máy bay thì Jim thấy hai người Nữ Tu từ từ rút xâu chuỗi ra khỏi túi áo Dòng và lâm râm cầu kinh. Tuy không phải là một người Công Giáo sùng đạo nhưng Jim cũng cảm thấy bị lôi cuốn bởi sự cầu kinh của hai người Nữ Tu.

Khi máy bay đã lên cao, Mẹ Têrêsa quay nhìn người thanh niên và hỏi: “Anh có thường lần chuỗi không ?” Anh trả lời: “Thưa không !” Anh vừa trả lời thì Mẹ cầm tay anh, trao cho anh tràng chuỗi rồi mỉm cười nói: “Vậy thì anh hãy bắt đầu lần chuỗi đi nhé !”

Ra khỏi phi trường, Jim vẫn còn cầm trên tay tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta. Anh kể lại cho vợ nghe cuộc gặp gỡ với Mẹ Têrêsa và kết luận như sau: “Anh có cảm tưởng như mình đã gặp một Nữ Tu đích thực của Chúa”.

Chín tháng sau, Jim và vợ anh đến thăm một người đàn bà đã từng là bạn của hai người từ nhiều năm qua. Người đàn bà này bác sĩ cho biết đã bị ung thư tử cung. Theo các bác sĩ, đây là trường hợp đáng lo ngại. Nghe thế, Jim đưa tay vào túi quần, rút ra tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta và trao cho người bạn. Anh nói như sau: “Chị cầm lấy cái này, nó sẽ giúp chị…” Mặc dù không phải là người Công Giáo, người bạn này vẫn mở rộng bàn tay ra và trân trọng đón nhận món quà quý giá ấy.

Một năm sau gặp lại vợ chồng Jim, người đàn bà vui vẻ cho biết bà đã mang trong mình tràng chuỗi trong suốt năm qua và giờ đây trao lại cho Jim để may ra có thể còn giúp đỡ và chữa lành người khác.

Trong thời gian đó, người chị vợ của Jim đang bị khủng hoảng sau cuộc ly dị, bà cũng muốn được mượn tràng chuỗi của Jim. Sau này bà kể lại rằng: “Hằng đêm, tôi đeo chuỗi vào người. Tôi rất cô đơn và sợ hãi, nhưng khi mang chuỗi vào người, tôi cảm thấy như đang cầm lấy một bàn tay thân yêu…”

Tràng chuỗi mầu nhiệm ấy không mấy chốc đã được trao từ tay người này đến người khác. Mỗi khi gặp khủng hoảng hay bệnh tật, người ta thường gọi điện thoại đến Jim để mượn cho bằng được tràng chuỗi quý giá ấy. Jim suy nghĩ: phải chăng tràng chuỗi có một sức mạnh lạ lùng, hay đúng hơn, sức mạnh tinh thần được canh tân nơi tất cả những ai mượn tràng chuỗi ấy. Jim chỉ biết rằng, hễ có ai ngỏ ý mượn tràng chuỗi, anh luôn đáp trả một cách vui vẻ, và lần nào anh cũng căn dặn: “Khi nào không cần nữa thì cho tôi xin lại. Có thể sẽ có người khác cần đến”.

Cuộc sống của Jim cũng thay đổi kể từ cuộc gặp gỡ đó với Mẹ Têrêsa Calcutta. Khi Jim nhớ lại rằng: Mẹ Têrêsa mang tất cả hành lý của Mẹ trong cái xách tay nhỏ, anh cũng cảm thấy được thôi thúc để làm cho cuộc sống của anh được đơn giản hơn. Anh nói như sau: “Tôi luôn cố gắng nhớ rằng: điều quan trọng trong cuộc sống không phải là tiền bạc, danh vọng mà chính là tình yêu chúng ta dành cho người khác…”

2. Kinh Mai Khôi, một kho tàng quý giá của Hội Thánh

Chuỗi hạt Mai Khôi 200 hạt, 150 hạt, 50 hạt hay 10 hạt được dùng để đếm số Kinh Kính Mừng là “…lời ca tụng Đức kitô không ngừng. Đức Kitô được nhắc đến trong mỗi Kinh Kính Mừng cũng là Đấng được trình bày trong chuỗi các mầu nhiệm: Người là Con Thiên Chúa và là Con Đức Trinh Nữ…” ( Đức Giáo Hoàng Phaolô 6, Rosamrum Virginis Mariae, số 18 ).

Chuỗi Mai Khôi lần lượt diễn tả:

– Mầu nhiệm Vui: đồng hành với mầu nhiệm Nhập Thể và đời sống âm thầm của Chúa Giêsu.

– Mầu nhiệm Sáng: đồng hành với những mốc thời gian hoạt động đặc biệt có ý nghĩa trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu.

– Mầu nhiệm Thương: đồng hành với những đau khổ của cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu.

– Mầu nhiệm Mừng: đồng hành với vinh quang Phục Sinh của Đức Kitô.

Vì thế, Chuỗi Mai Khôi là kho tàng thiêng liêng quý giá của Hội Thánh.

Đức Chân Phước Gioan Phaolô 2 nói: “Chuỗi Mai Khôi là lời kinh tuyệt diệu, tuyệt diệu trong đơn sơ và trong sâu thẳm của nó…”

Đức Thánh Cha Lêô 13 ( 1810 – 1903 ) là vị Giáo Hoàng của Kinh Mai Khôi. Ngài đã ban hành 12 thông điệp nói về Kinh Mai Khôi. Ngài đã thiết lập Tháng Mai Khôi và thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: “Nữ Vương rất thánh Mai Khôi, cầu cho chúng con.”

Đức Thánh Cha Piô 10 ( 1835 – 1914 ) đã nhắn nhủ các gia đình Công Giáo: “Nếu các con muốn cho gia đình được bình an, thì hãy lần hạt mỗi buổi tối… Khi gia đình được an vui hoà thuận, hãy lần Chuỗi Mai Khôi để xin Mẹ ban cho sự an vui hoà thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng Chuỗi Mai Khôi, để xin Mẹ cảm hoá. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần Chuỗi Mai Khôi, xin Mẹ tạo sự cảm thông”.

Thánh Piô Năm Dấu Thánh ( 1887 – 1968 ) chia sẻ: “Vũ khí của tôi là tràng hạt Mai Khôi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua Chuỗi Mai Khôi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu, hãy lần Chuỗi Mai Khôi”.

Cha Stefano Gobbi ( 1930 – 2011 ) viết: “Chuỗi Mai Khôi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mai Khôi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân”. Và “Chuỗi Mai Khôi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để khóa lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và của các tín hữu”.

Đức Thánh Cha Piô 9 ( 1792 – 1878 ) đã khuyên nhủ: hãy lần chuỗi mỗi buổi tối trong gia đình.

Đức Thánh Cha Piô 11 ( 1837 – 1959 ) viết: “Chúng tôi khuyên các bậc làm cha làm mẹ hãy tập cho con cái mình thói quen lần chuỗi. Mỗi lần tiếp kiến các đôi vợ chồng trẻ, chúng tôi đều khuyên nhủ họ hãy siêng năng lần chuỗi. Ngay cả chúng tôi nữa, không ngày nào mà chúng tôi không lần chuỗi…”

Đức Thánh Cha Piô 12 ( 1876 – 1958 ) khuyên nhủ các bạn trẻ: Hãy yêu mến Mẹ qua việc lần chuỗi Mai Khôi. Năm 1951 ngài đã ra thông điệp về Kinh Mai Khôi, và xin các tín hữu hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng Mai Khôi. Trong một lần tiếp kiến, ngài nói với một vị Giám Mục: “Hãy yêu cầu các Linh Mục của ngài cầu nguyện và hãy nói cho họ biết: Đức Thánh Cha vẫn lần chuỗi mỗi ngày”. Khi về già, trước lúc đi ngủ, dù là nửa đêm, ngài cũng vẫn lần chuỗi.

Đức Thánh Cha Gioan 23 ( 1881 – 1963 ), ngay trong năm đầu của triều đại cũng đã ra một thông điệp về Kinh Mai Khôi.

Đức Chân Phước Gioan Phaolô 2 ( 1920 – 2005 ), ngay trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô khi đọc kinh Truyền Tin: “Chuỗi Mai Khôi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lập lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Elisabeth nói với Mẹ. Toàn thể Hội Thánh cùng liên kết với những lời kinh ấy”.

Các Đức Thánh Cha đều khẳng định về sự tuyệt diệu của Kinh Mai Khôi và mong muốn mọi tín hữu hãy siêng năng lần chuỗi. Các tín hữu đã đáp trả lời mời gọi tha thiết ấy.

Đức Mẹ rất yêu mến những ai siêng năng đọc Kinh Kính Mừng. Qua Kinh Mai Khôi, chúng ta lặp đi lặp lại không những một hai lần Kinh Kính Mừng, nhưng là đọc đi đọc lại cả một trăm năm mươi lần, như một trăm năm mươi đóa hoa hồng dâng kính Mẹ, như lời Đức Giáo Hoàng Piô 5 đã nói: “Đây là việc tôn kính Đức Trinh Nữ Maria bằng cách đọc một trăm năm mươi Kinh Kính Mừng, theo con số các Thánh Vịnh của Đavít, chia thành từng chục kinh một với một Kinh Lạy Cha, đồng thơi suy ngắm các mầu nhiệm về toàn thể cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô.”

3. Kinh Mai Khôi, lời kinh gần gũi cuộc sống

Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân Khánh Giáo Hoàng, trong Tông Thư “Kinh Mai Khôi”, một lần nữa, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mai Khôi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Công Đồng Vatican 2 ( 1962 – 1965 ) khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.

Kinh Mai Khôi là kinh hạt phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Ngày nay nhiều người phàn nàn không có giờ đọc kinh vì phải lo học hành, lo làm ăn xuôi ngược. Chuỗi hạt Mai Khôi sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm phong phú. Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã. Chuỗi Mai Khôi làm lòng người lắng dịu, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.

Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 ( 1897 – 1978 ) khích lệ: “Bản chất việc đọc Kinh Mai Khôi đòi hỏi nhịp điệu phải chậm rãi và có thời gian thư thả, để người ta có thời gian suy gẫm sâu xa về các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu được nhìn qua Trái Tim của Đấng gần gũi nhất với Chúa.”

Điều thuận lợi của Chuỗi Mai Khôi là lần hạt ở đâu cũng được. Ta không buộc phải đọc 50 Kinh Mai Khôi một lần mà có thể đọc bao nhiêu tuỳ vào thời gian ta có. Ta cũng có thể vừa làm việc vừa đọc Kinh Mai Khôi, không nhất thiết phải có tràng hạt trên tay. Ta cũng có thể thì thầm bất cứ lúc nào: khi chờ xe bên đường, lúc đi học, khi giải trí, khi đau bệnh… thay vì đưa mắt nhìn chung quanh, thay vì nghe những chuyện không đâu, ta cũng có thể lần hạt. Dù bận bịu đến đâu ta cũng có thể lần hạt. Đó là cách cầu nguyện mà triết gia Jacques Maritain ( 1882 – 1973 ) gọi là “chiêm niệm bên vệ đường”.