KIÊN NHẪN NÀI XIN THÌ SẼ ĐƯỢC

KIÊN NHẪN NÀI XIN THÌ SẼ ĐƯỢC

Suy niệm Tin Mừng Luca (18, 1-8)

Tác giả: Lm. Inhaxio Trần Ngà

Có chí thì nên

Một nhát rìu chặt vào thân cây cổ thụ to lớn chỉ tạo ra một vết chém cạn cợt không hề hấn gì, nhưng nhiều nhát rìu nối tiếp nhau liên tục trong thời gian dài sẽ đốn ngã bất cứ cây cổ thụ cao lớn nào.

Một dòng nước nhỏ rò rỉ từ bên ngoài vào lòng thuyền xem ra không có gì đáng ngại, nhưng nếu cứ để cho dòng nước ấy rò rỉ liên tục suốt ngày thì có thể làm đắm cả một con thuyền lớn.

Những hạt mưa mềm mại rơi xuống suốt một giờ chưa thể làm được gì lớn lao, nhưng nếu mưa cứ kiên trì rơi xuống những rặng núi đá vôi suốt hàng triệu năm thì có thể làm nên những kỳ tích vĩ đại. Đó là trường hợp đã xảy ra tại Phong Nha – Kẻ Bàng, khi nước mưa xói mòn những rặng núi đá vôi và đã tạo nên hơn 300 hang động tuyệt vời, đẹp như chốn bồng lai tiên cảnh.

Những minh họa trên đây chứng tỏ rằng những cố gắng của chúng ta, dù rất nhỏ bé, nhưng nếu được kiên trì thực hiện, chắc chắn sẽ đem lại thành quả như lòng ước mong.

Như thế, kiên trì là bí quyết chắc chắn để đạt tới thành công trong mọi lĩnh vực. Vì thế nên người ta thường nói: “có chí thì nên” hoặc: “cố công mài sắt, có ngày nên kim.”

Kiên trì cầu nguyện, chắc sẽ được nhận lời

Trong lĩnh vực tâm linh cũng thế, nếu chúng ta biết kiên trì cầu nguyện, chúng ta sẽ nhận được điều chúng ta nhẫn nại cầu xin.

Để dạy chúng ta kiên trì cầu nguyện không sờn lòng nản chí, Chúa Giê-su kể dụ ngôn sau đây:

Một ông quan toà ngang ngược, chẳng kính sợ Thiên Chúa, coi thường mọi người. Gần nơi ông ở có một bà góa tứ cố vô thân đang gặp nỗi oan khiên nên chạy đến nhờ ông ta xét xử, mà lần nào cũng bị khước từ. Tuy nhiên, vì bà góa cứ kêu nài mãi, nên cuối cùng ông quan tòa nghĩ lại: “Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, nhưng mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc.”

Rồi Chúa nói: “Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó! Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Ngài đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Ngài sao? Lẽ nào Ngài bắt họ chờ đợi mãi sao?” (Lc 18, 2-7)

Thiên Chúa ban điều tốt lành hơn ta mong đợi

Thế thì tại sao có những khi chúng ta kêu xin nhiều lần mà chẳng được Chúa nhận lời?

Trường hợp nầy cũng như khi đứa bé gào khóc đòi mẹ cho tiền mua kem, mua bánh nhưng mẹ kiên quyết không cho vì những món nầy không tốt cho sức khỏe của con. Thay vì bánh kẹo, mẹ cho con những lọ thuốc bổ, những hộp sữa không đường, tuy chẳng làm cho con khoái khẩu, nhưng rất cần thiết cho sức khỏe của con.

Cũng thế, đôi khi Thiên Chúa không ban cho ta những điều ta xin, nhưng Ngài lại ban những ơn cần thiết hơn là điều ta mong đợi.

Không cho cá nhưng lại cho chiếc cần câu

Có những người cha khôn ngoan, không muốn con mình trở thành kẻ ăn xin lười biếng, “nằm há miệng chờ sung rụng vào mồm,” mà muốn tạo cơ hội cho con cái trưởng thành, nên khi đứa con xin con cá, ông không cho cá mà lại cho chiếc cần câu. Thế là nhờ sở hữu chiếc cần câu, đứa con có được hàng trăm con cá mà chẳng phải ngửa tay xin ăn từng bữa, từng ngày.

Ý tưởng nầy đã được một tác giả diễn tả cách chí lý như sau:

“Tôi xin sức mạnh…

Và Ngài đã cho tôi gặp khó khăn để được mạnh mẽ.

Tôi xin khôn ngoan…

Và Ngài đã cho tôi những vấn đề để giải quyết (nhờ đó tôi trở thành người khôn ngoan).

Tôi xin tiền của…

Và Ngài đã cho tôi khối óc và bắp thịt để làm việc (nhờ đó tôi trở nên giàu có).

Tôi xin được “bay”…

Và Ngài đã cho tôi những trở ngại phải vượt qua (nhờ đó tôi được “bay cao”).

Tôi xin tình yêu…

Và Ngài đã gởi đến những người gặp khó khăn cần được cứu giúp (nhờ đó tim tôi đầy ắp lòng thương xót)…

Tuy không nhận được những gì tôi xin…

Nhưng tôi nhận được tất cả những thứ tôi cần.” (Khuyết danh)

Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho chúng con vững tin vào Chúa mà liên lỉ nài xin những điều chính đáng. Một khi đã kiên trì khấn nguyện, cho dù chúng con không đạt được điều mình xin thì ít ra cũng đạt được những thứ chúng con cần.

Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà

Chúa Nhật 29 thường niên

Luca 18, 1-8

1 Đức Giê-su kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí.2 Người nói: “Trong thành kia, có một ông quan toà. Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì.3 Trong thành đó, cũng có một bà goá. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông: “Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho.4 Một thời gian khá lâu, ông không chịu. Nhưng cuối cùng, ông ta nghĩ bụng: “Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì,5 nhưng mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc.”
6 Rồi Chúa nói: “Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó!7 Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? 8Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ. Nhưng khi Con Người ngự

Tác giả: Lm. Inhaxio Trần Ngà

CẦU NGUYỆN LÀ SỰ SỐNG CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU

CẦU NGUYỆN LÀ SỰ SỐNG CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU

(Chúa Nhật 29 Thường Niên, C)

Jos. Vicn. Ngọc Biển

Bất kể một tôn giáo nào, cầu nguyện là yếu tố sống còn của mình. Cầu nguyện được ví như hơi thở, là hoạt động căn bản của đời sống tâm linh. Cầu nguyện đối với người Công Giáo, chính là thể hiện niềm tin, phó thác cho sự an bài quan phòng của Thiên Chúa.

Bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu một lần nữa nhắc lại cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc cầu nguyện, đồng thời Ngài dạy mỗi chúng ta hãy kiên trì, trung thành khi cầu nguyện qua dụ ngôn vị thẩm phán bất lương và bà góa nghèo.

1. Sự cần thiết của lời cầu nguyện

Nếu cá cần nước để sống; cây cối cần ánh sáng mặt trời để quang hợp và sinh trưởng, thì cầu nguyện cũng cần cho đời sống của người kitô hữu như vậy. Cầu nguyện chính là nâng tâm hồn lên với Thiên Chúa để xin Ngài ban ơn, nâng đỡ. Cầu nguyện còn nói lên một sự thật là ta thuộc về Chúa; Chúa thuộc về ta. Tuy nhiên, vẫn là khởi đi từ Thiên Chúa, Ngài luôn thúc đẩy tâm hồn chúng ta khao khát Ngài: “như nai rừng mong mỏi, hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa”. Hay nói như thánh Âu Tinh: “Lạy Chúa, tâm hồn con vẫn bồn chồn xao xuyến mãi cho tới khi được nghỉ ngơi trong Chúa”.

Khi nói đến sự cần thiết của cầu nguyện, Đức Giêsu cũng đã nhiều lần khuyên các môn đệ của mình hãy cầu nguyện và, chính Ngài cũng luôn luôn cầu nguyện trước, trong và sau khi làm bất cứ việc gì. Thật vậy, Ngài cầu nguyện trong sa mạc; nơi hội đường; trên triền núi; ngoài bãi biển. Đặc biệt, nơi các giáo huấn của Ngài, chúng ta thấy toát lên tâm tình cầu nguyện. Khi dạy các tông đồ cầu nguyện, Ngài nói: “Phải cầu nguyện luôn mãi không ngừng nghỉ” (Lc 18,1). “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (Mc 14,38). Rồi khi dạy các ông về sự tín thác, Ngài nói: “Không có Thầy, chúng con không thể làm được gì” (Ga 15,5). Qua câu nói này, Đức Giêsu cho chúng ta thấy sức mạnh vô song của lời cầu nguyện, cũng như quyền năng của Thiên Chúa trên mọi sự.

Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã nói về sức mạnh của lời cầu nguyện như sau: “Hãy cho tôi một đòn bẩy, một điểm tựa, thì tôi sẽ nâng thế giới lên”.

Như vậy, cầu nguyện là điều quan trọng. Không cầu nguyện, ta đánh mất điều căn bản để làm nên đời sống tinh thần. Tuy nhiên, khi cầu nguyện, Đức Giêsu dạy phải có sự kiên trì và trung thành.

2. Kiên trì trong cầu nguyện

Nói về sự kiên trì trong cầu nguyện, Đức Giêsu đã kể dụ ngôn bà góa và vị thẩm phán:

Bà góa mà Đức Giêsu nói đến hôm nay chính là một trong những thành phần bị xã hội khinh khi, bỏ rơi; là thành phần thấp cổ bé họng trong xã hội, không có tiếng nói và ít được ai quan tâm. Sở dĩ có sự kỳ thị này là do thói quen, văn hóa và truyền thống của một số nước niềm Cận Đông thời bấy giờ. Thành phần bà góa là một trong ba thành phần không cần quan tâm (quả phụ, cô nhi và di dân). Họ cũng không có quyền đòi xã hội phải công bằng với mình. Chính vì thế, việc ông thẩm phán dửng dưng và không thèm quan tâm tới bà là lẽ đương nhiên, không có gì lạ. Ý thức được điều đó, nên bà đã trai lỳ và hoàn toàn phó thác trong tay vị thẩm phán bất công.

Nói lên tính kiên trì của bà góa này, tưởng cũng nên nhắc lại khuôn mặt của vị thẩm phán trong dụ ngôn hôm nay để thấy được lòng kiên định, trung thành của người đàn bà này.

Vị thẩm phán chính là một người bất lương, tham nhũng, bóc lột. Cuộc đời của ông là tiền và tiền chứ không có ân nghĩa gì hết. Vì thế, ông ta “không có kiêng nể ai” và, cũng “chẳng coi Thiên Chúa ra gì”. Cán cân công lý của ông chính là tiền. Tuy nhiên, ông đã chịu thua bà góa nghèo. Bà này có một thứ vũ khí thần kỳ, khiến vị thẩm phán cứng lòng, vô cảm đến đâu cũng phải khuất phục, đó là: kiên trì để ngồi lỳ, kỳ nèo, năn nỉ. Quả thật, ông thẩm phán này không thể chịu nổi sự phiền hà của bà góa. Cuối cùng, ông ta đã phải mở phiên tòa để minh oan cho bà. Điều mà Đức Giêsu muốn nói ở đây chính là sự kiên trì của bà góa. Và, đi xa hơn một bước nữa, Đức Giêsu muốn nói về lòng nhân từ của Thiên Chúa qua hình ảnh vị quan tòa.

3. Lòng nhân từ của Thiên Chúa

Nếu người thẩm phán trong bài Tin Mừng hôm nay rất bất lương và bất nhân như thế, mà ông ta còn phải chịu khuất phục trước nỗi thống khổ của bà góa, thì Thiên Chúa là Đấng nhân lành, từ bi, chậm giận và hay thương xót… lại không thương con cái khi chúng chạy đến với mình hay sao? Chính Đức Giêsu đã mạc khải cho thấy tình thương của Thiên Chúa khi nói: “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ thì sẽ mở cửa cho” (Mt 11,9). Tuy nhiên, lời cầu nguyện của chúng ta có khi đẹp lòng Chúa và ích lợi cho phần hồn thì Chúa sẽ ban cho ngay, nhưng đôi khi chúng ta chỉ biết xin mà không biết điều đó có lợi hay có hại, những lúc như thế, Chúa sẽ trì hoãn hoặc ban những ơn khác tốt đẹp hơn cho chúng ta. Vì vậy, hãy tin tưởng, kiên trì và phó thác nơi Thiên Chúa. Hãy trở thành tác phẩm trong bàn tay tuyệt diệu của Thiên Chúa. Vậy, nếu chúng ta đã được Chúa yêu thương, thì chúng ta cũng phải loan truyền về một vị Thiên Chúa giàu tình thương và muốn cho con người được hạnh phúc đến với hết mọi người, mọi nơi…

4. Truyền giáo bằng cầu nguyện

Hôm nay là ngày khánh nhật truyền giáo, ngày cả Giáo Hội cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo, đồng thời cũng là dịp để mỗi chúng ta ý thức vai trò loan báo Tin Mừng của mình.

Truyền giáo là bản chất của Giáo Hội. Nếu Giáo Hội không truyền giáo thì Giáo Hội đánh mất bản chất của mình, và như thế đặc tính của chúng ta mất. Tuy nhiên, truyền giáo có nhiều cách. Một trong những cách truyền giáo hữu hiệu nhất chính là cầu nguyện.

Đức Giêsu khi xưa cũng vậy, Ngài khởi đầu sứ vụ của mình bằng việc vào hoang địa ăn chay, cầu nguyện. Ngài cầu nguyện để:  nhằm tìm kiếm, đón nhận và thi hành thánh ý của Chúa Cha (x. Mt 4,1-11). Sau khi loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu cũng cầu nguyện: “Giải tán họ xong, Ngài lên núi một mình mà cầu nguyện” (Mt 14, 23); “Anh em ngồi lại đây, Thầy đến đàng kia cầu nguyện” (Mt 26,36); “ sau khi từ biệt các ông, Ngài lên núi cầu nguyện” (Mc 6,46); “Ngài lui vào nơi hoang vắng để cầu nguyện” (Lc 5,16)…

Tại sao khi truyền giáo phải cầu nguyện? Thưa vì chúng ta xác định rất rõ: công trình cứu độ là của Thiên Chúa. Chúng ta chỉ là người cộng tác vào công trình ấy mà thôi. Thật vậy: “Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thờ nề vất vả cũng là uổng công…”. Chính Thiên Chúa mới làm cho công cuộc truyền giáo sinh hoa kết quả (x. 1 Cr 3, 6-7). Thánh Phaolô cũng nói: “ Trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin, và tạ ơn mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh  em thỉnh nguyện” (Pl 4,6).

Khi cầu nguyện, chúng ta biết được tính cấp thiết của sứ vụ. Biết mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Sẵn sàng hy sinh, trung thành vì Nước Trời và phần rỗi của các linh hồn.

Nếu không có đời sống cầu nguyện, chúng ta sẽ là những người thợ dại khờ trong cánh đồng của sự chết. Cầu nguyện để xin Chúa biến đổi chính chúng ta, làm cho chúng ta trở nên xứng đáng để trở thành sứ giả của Chúa, những người thợ gặt lành nghề như Chúa muốn trong cánh đồng truyền giáo của Ngài, trở nên những người gieo vãi hạt giống Tin Mừng yêu thương giữa một thế giới đang dần dần muốn xa rời Thiên Chúa, đến với những con người chưa có cơ hội biết Ngài, những con người lầm lạc trong thế giới hôm nay.

Lạy Chúa, xin cho chúng con yêu mến đời sống cầu nguyện, bởi vì có cầu nguyện, chúng con mới biết Chúa là Đấng yêu thương. Xin cũng cho chúng con biết kiên trì, trung thành trong khi cầu nguyện. Xin Chúa ban cho cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội có được nhiều thợ gặt lành nghề, để ra đi thu lúa về cho Chúa. Amen.

Tác giả: Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

ĐỐI THOẠI NĂM ĐỨC TIN – TÔN GIÁO VÀ CÁC CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ

ĐỐI THOẠI NĂM ĐỨC TIN – TÔN GIÁO VÀ CÁC CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ


Lm. Đan Vinh

10/14/2013


VẤN ĐỀ 18: Tôn giáo chính là công cụ của bọn phong kiến tư bản dùng để củng cố chế độ và yên tâm bóc lột dân nghèo. Muốn tiêu diệt chế độ, trước hết phải tiêu diệt tôn giáo

TRẢ LỜI

1.Quan hệ giữa tôn giáo và các chế độ chính tri:

Trong các xã hôi phong kiến và tư bản, tôn giáo thường được tôn trọng và tự do phát triển. Đây cũng là điều hợp lý: Các tôn giáo nói chung và Ki-tô giáo nói riêng đều nhằm mục đích giúp con người hướng thiện. Tôn giáo nào cũng dạy tín đồ phải noi gương Đấng giáo chủ để ăn ngay ở lành, cũng dạy tín đồ làm điều tốt và tránh điều xấu, dạy mọi người thực thi công bình bác ái, sông hòa hợp với tha nhân, vâng phục quyền bính hợp pháp, cùng hợp tác xây dựng một xã hội ấm no hạnh phúc ngay từ trần gian để sẽ được hưởng hạnh phúc thiên đàng mai sau… Đó là những điều thiện hảo mà tôn giáo mang lại cho nhân loại, nên thường bất cứ chế độ chính trị nào nếu muốn tồn tại và bền vững, cũng đều công nhận tôn giáo và tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của công dân ghi trong hiến pháp và luật pháp. Vì đây là quyền căn bản của con người hay nhân quyền: Mọi người đều có quyền tin hoặc không tin theo một tôn giáo.

2.Về sứ vụ Thiên Sai của Đức Giê-su:

Ít-ra-en là một dân tộc nhược tiểu nên thường bị các nước lớn xâm lược đô hộ hoặc bị bắt đi lưu đày, nên họ luôn ước mong về một Đấng Thiên Sai sẽ đến để giải thoát họ khỏi ách thống trị của ngoại bang và biến dân Do thái thành một dân tộc hùng cường giống như trong triều đại của Vua Đa-vít và Sa-lô-mon.

Qua các ngôn sứ, Thiên Chúa hứa ban một Đấng Cứu Thế dòng dõi Đavít, được sinh ra tại Bê-lem do một trinh nữ (x. Mt 1,20-23). Người được trao sứ vụ cứu nhân loại bằng sự hi sinh mạng sống, tình nguyện chết trên cây thập giá để đền tội thay và sống lại để phục hồi sự sống cho loài người (x. Mt 1,21).

Khi ra giảng đạo, Đức Giê-su đã được xức dầu thiêng liêng để tấn phong làm Đấng Thiên Sai (x. Mt 3,16). Rồi Người đã công bố tại hội đường Na-da-rét chương trình cứu thế của Người theo lời tuyên sấm của ngôn sứ I-sai-a về sứ vụ của Đấng Thiên Sai như sau: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan Tin Mừng cho người nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho những người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19).

Tuy nhiên các đầu mục là các tư tế Đền Thờ, Kinh sư và Biệt phái đã không công nhận Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai. Lý do vì nội dung lời dạy của Người mang tính hiếu hòa như: Hãy lấy ơn báo oán, tha thứ luôn luôn (x. Mt 18,22), nhẫn nhịn chịu đựng tha nhân, yêu thương cả kẻ thù của mình …(x. Mt 5,38-48) là những điều họ không thể chấp nhận. Đức Giê-su cũng nhiều lần vi phạm luật nghỉ việc ngày hưu lễ Sa-bát của Mô-sê (x. Mt 12,1-8), Người đả kích lối sống đạo đức giả dối bề ngoài của các luật sĩ biệt phái (x. Mt 23,13-36). Nhất là Người tự cho mình là Đấng Cứu Thế và là Con Thiên Chúa, ngang hàng với Thiên Chúa, điều mà các đầu mục Do Thái cho là phạm thượng ! (x. Mt 26,63-66). Nên cuối cùng các đầu mục Do thái đã liên kết với chính quyền Do thái bắt bớ, kết án tử hình cho Người, và còn áp lực đòi Tổng Trấn Phi-la-tô của đế quốc Rô-ma xử tử Người trên cây thập tự (x. Mt 27,20-26). Nhưng sau khi bị giết chết, đến ngày thứ ba Người đã từ cõi chết sống lại (x. Mt 28,5-8) và đã đổ ơn Thánh Thần xuống trên các Tông đồ và Hội Thánh (x. Cv 2,1-13), làm cho đạo Công Giáo lan truyền đi khắp nơi bắt đầu từ thủ đô Giê-ru-sa-lem, khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất theo lệnh truyền của Chúa Giê-su trước khi lên trời (x. Cv 1,8).

Đức Giê-su thực sự là Vua Thiên Sai, nhưng không như dân Do thái trông mong. Người là Vua hòa bình ngồi trên lừa khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem (x Lc 19,35-40). Người thiết lập một Nước Trời, nhưng Nươc Người không thuộc về thế gian này. Những ai thuộc về chân lý thì nghe tieng của Người (x. Ga 18,33-36). Người chính là Vua Mục Tử yêu thương đoàn chiên và sẵn sàng thí mạng mình vì đoàn chiên (Ga 10,11). Người mời gọi những ai muôn theo Người phải khiêm hạ rửa chân cho nhau, bỏ mình vác thập giá mình mà theo Người (x. Lc 9,23-24).

3. Về việc lợi dụng tôn giáo:

Đọc lịch sử thế giới, dường như trong quá khứ, tại một số nước Âu châu như Nga, Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… tôn giáo đặc biệt đạo Công Giáo xem ra đã từng được đề cao và có lúc đã trở thành chỗ dựa vững chắc của chính quyên phong kiến: Các nhà lãnh đạo cao cấp trong tôn giáo như Hồng Y, giám mục… rất được trọng vọng và có một vị trí cao trong triều đình… Do đó khi chế độ phong kiến suy đồi do tham nhũng thối nát, dân chúng dù có bất mãn, vẫn không dám mạnh dạn đứng lên làm cách mạng lật đổ. Vì thế trong cuộc cách mạng vô sản, K. Marx cho rằng tôn giáo chính là công cụ của bọn phong kiến tư bản dùng để củng cố chế độ và yên tâm bóc lột dân nghèo. Muốn tiêu diệt chế độ, trước hết phải tiêu diệt tôn giáo.

Tuy nhiên, cho dù thực sự có bị vua quan lợi dụng đi nữa, tôn giáo cũng không vì thế mà trở nên xấu và cần phải loại trừ. Cũng giống như người ta không thể nại vào lý do: vì lưỡi dao sắc bén đã từng làm đứt tay người sử dụng, nên phải loại bỏ dao sắc; Hay do xe hơi tốc độ quá nhanh đã gây nhiều tai nạn nghiêm trọng làm chết nhiều người, nên cần phải cấm dùng xe hơi… Cũng vậy, tôn giáo có giá trị giúp con người nên tốt trong mọi thời đại và dưới bất kỳ chế độ chính trị nào. Sở dĩ trong quá khứ, đôi khi tôn giáo đã bị lợi dụng, là do đã có sự lẫn lộn giữa thế quyền và giáo quyền.

Ngày nay, để khỏi đi vào vết xe cũ và để khỏi trở thành công cụ phục vụ thế quyền, tôn giáo cần phải được tách biệt khỏi các chế độ chính trị. Vì thế, Giáo Hội Công Giáo tuy luôn khuyến khích giáo dân chu toàn nghĩa vụ công dân và tích cực tham gia các hoạt động đảng phái chính trị để phục vụ đất nước, nhưng lại cấm các giáo sĩ nắm giữ các chức vụ trong bộ máy chính quyên. Nhờ tách biệt khỏi các chế độ chính trị mà Giáo Hội luôn trong sạch để có thể mạnh dạn lên tiếng bênh vực quyền lợi chính đáng của dân chúng theo Lời Chúa dạy.

TÓM LẠI: Cho dù trong quá khứ, tại một số nước phong kiến, tôn giáo có thể đã bị lợi dụng để bảo vệ chế độ. Nhưng tôn giáo chân chính không bao giờ đồng hóa với cường quyền bạo lực, với nếp sống xa hoa ích kỷ, với chính sách bóc lột bất công của bất cứ chế độ chính trị nào. Ngày nay, ai cũng nhìn nhận: muốn thi hành đúng vai trò của mình, tôn giáo cần phải tách biệt khỏi thế quyền, để không bị đồng hóa với thế quyền, dễ dàng nói lên tiếng nói trung thực của lẽ phải, bênh vực quyền lợi của đại đa số người nghèo theo thánh ý Thiên Chúa.

PHÚT HỒI TÂM :

LỜI CHÚA:

Khi ấy Đức Giê-su mở sách ngôn sứ I-sai-a, gặp đoạn chép rằng: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”. (Lc 4,18-22).

LỜI CẦU:

Lạy Chúa Giê-su. Hôm nay mỗi tín hữu chúng con quyết tâm tiếp nối công việc cứu thế của Chúa bằng sự chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ những người đau khổ cả về thể xác cũng như tinh thần, loại trừ các nỗi sợ hãi, giải thoát những người đang bị áp bức, xoa dịu các đau khổ, an ủi những kẻ cô đơn, biểu lộ Chúa qua những công việc bác ái của mình. Xin cho chúng con biết thực thi sứ vụ người môn đệ của Chúa, tích cực góp phần để làm cho lời tuyên sấm của ngôn sứ I-sai-a về triều đại Thiên Sai sớm được ứng nghiệm, để công bố một năm hồng ân và làm cho Nước Chúa hiện diện giữa lòng xã hội hôm nay.- AMEN.

LM ĐAN VINH – HHTM

TƯỚNG GIÁP TIẾT LỘ 4 BÍ MẬT VỀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM.

TƯỚNG GIÁP TIẾT LỘ 4 BÍ MẬT VỀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM.

 TƯỚNG GIÁP TIẾT LỘ 4 BÍ MẬT VỀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM.

Bố tôi có mối quan hệ cũ với tướng Giáp nên ngay cả khi ông đã mất, hai mẹ con tôi vẫn nhiều lần được theo những người bạn của bố đến thăm tướng Giáp tại nhà ông (số 25 Hoàng Diệu) cũng như dự các cuộc họp truyền thống của trường Lục Quân vào ngày 15 tháng 4 hàng năm.

Khi tôi chuyển sang làm phóng viên báo đảng, cũng là phóng viên nữ duy nhất của tòa soạn báo Cựu Chiến Binh, tôi có điều kiện tiếp xúc với tướng Giáp nhiều hơn (sinh nhật, lễ, tết, dịp thượng thọ,…) Một trong những lần đó là ngày sinh nhật lần thứ 84 của ông.

Giữa các đoàn khách nườm nượp ra vào, đa phần là lính tráng, ông vui vẻ bắt tay từng người, nhận của học trò Nguyễn Thụy Ứng (dịch giả 4 tập “Sông Ðông êm đềm”), một bức tranh khổ rộng, chỉ có duy nhất chữ thọ với 1,000 kiểu viết khác nhau. Cuối cùng, dường như không nén nổi xúc động trước sự quan tâm đặc biệt của mọi người, ông cất giọng trầm, đục kể lại:

– Tôi đã tưởng sẽ đem những bí mật của mình xuống mồ nhưng không ngờ trời cho tôi thọ đến vậy. Vì thế, trong lần sinh nhật thứ 84 này, tôi xin tiết lộ bốn bí mật trong cuộc đời của tôi để anh em biết.
Lập tức cả căn phòng lặng phắc, nghe rõ cả tiếng gió lao xao trên các tàu lá dừa ngoài vườn.

Ðiều thứ nhất – ông kể: Năm 1972, còn gọi là chiến dịch đỏ lửa tại thành cổ Quảng Trị. Khi đó, tôi vẫn lấy phương châm tiến công như mọi khi: ‘Lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh, lấy yếu tố bất ngờ để tạo thế chủ động, khiến địch trở tay không kịp’. Cứ dùng chiến tranh du kích tiêu diệt hàng ngày, hàng giờ, hết đêm này sang đêm khác để địch suy tổn lực lượng rồi đánh cấp tập một trận giải phóng dứt điểm thành cổ như mọi trận khác vẫn diễn ra từ trước đến nay. Không ngờ quan điểm của tôi bị Ba Duẩn (Lê Duẩn) bác bỏ không thương tiếc. Giữa hội nghị, anh Ba đập tay xuống bàn, quát: ‘Thế là giảm sút ý chí chiến đấu. Phải cho địch biết thế nào là quả đấm chủ lực của quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Vì vậy tôi yêu cầu, cứ đánh vỗ mặt thành cổ Quảng Trị cho tôi. Sống chết, đúng sai tôi chịu trách nhiệm’.

Kết quả trong suốt 60 ngày đêm của chiến dịch thành cổ, cứ 5 giờ 30 phút chiều, khi trời bắt đầu chập choạng tối, một đại đội ta ở bên này bờ sông Thạch Hãn, lặng lẽ bơi sang để đánh vỗ mặt thành, 8 giờ 30 phút bơi trở về chỉ còn được mươi, mười lăm người. Lần nhiều nhất là 35 đồng chí (cả lành lặn, cả bị thương). Lần ít chỉ còn 5, 7 đồng chí thương tích đầy người, thậm chí có lần cả một khúc sông, không một bóng người, chỉ có tiếng gió hú ghê rợn như những âm hồn vọng vang khắp đáy sông. Như vậy, trung bình mỗi ngày ta tiêu hao một đại đội chủ lực (khoảng 135 người) và 60 ngày đêm tấn công thành cổ ta mất gần một vạn người, biến thành cổ Quảng Trị thành nấm mồ chôn thanh niên, sinh viên, trí thức Việt Nam.

Ðiều thứ hai – ông vươn cao cái cổ gầy, giọng nói nửa như kiêu hãnh, nửa như nuối tiếc, khuôn mặt đẫm vẻ u hoài, bí ẩn: Lẽ ra ta không có được chiến thắng lẫy lừng là giải phóng miền Nam, chỉ vì sau hội nghị Paris, anh Ba Duẩn ra chỉ thị ngừng tất cả các cuộc tấn công lại, chỉ tập trung củng cố lực lượng, tăng gia sản xuất, nuôi quân cho tốt rồi sau vài năm phát triển vượt bậc sẽ đánh một trận dứt điểm, không để địch có cơ ngóc đầu phản công như hồi tổng tiến công xuân Mậu Thân 1968 nữa.

Khi kế hoạch đưa ra, rất nhiều anh em, tướng tá cũng như lãnh đạo đơn vị không hài lòng nhưng là lệnh của cấp trên nên buộc phải chấp hành. Không ngờ, phía dưới, cũng như vùng sâu, vùng xa, lực lượng dân quân, du kích, bộ đội địa phương đang phát triển mạnh nên không chịu ngừng kế hoạch luyện tập, tấn công lại. Phần vì không nhận được lệnh trên nên cứ âm thầm chuẩn bị. Thế là như đứa bé đang tuổi ăn, tuổi lớn, không có cách gì ngừng sự phát triển lại được nên đành để vậy. Nhờ đó có chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975.

Ngừng lời, đưa mắt nhìn những người một thời đầy tin cẩn, ông cất giọng khàn, đục, nghiêm trang:

– Ðiều thứ ba, khi biết sớm muộn gì ta cũng tấn công vào Dinh Ðộc Lập, chấm dứt cuộc kháng chiến chống Mỹ dằng dặc 21 năm, tôi đưa ra đề nghị: Ta đánh để thống nhất hai miền. Riêng các phái đoàn ngoại giao của Mỹ cũng như đại sứ quán Mỹ đóng tại Việt Nam, ta nên tôn trọng vì họ là những người chứng kiến cuộc chiến tranh này và họ sẽ ghi nhận thành tích của chúng ta, không nên đối xử thô bạo với họ như kẻ thù. Không ngờ Ba Duẩn trợn mắt quát: ‘Không được, phải đánh chết những con chó, kể cả khi nó đã rơi xuống nước. Tất cả bọn Mỹ, dù là cán bộ ngoại giao hay Lầu Năm Góc đều là kẻ thù của nhân dân Việt Nam. Vì thế, phải chiến đấu quét sạch chúng đi, không để một tên xâm lược nào trên mảnh đất chúng ta’.

Quá khứ đè nặng trên đôi chân của một người đã 84 tuổi, đang nói, ông ngồi phịch xuống ghế, cạnh bà Hà (vợ ông) gương mặt bần thần, tướng Giáp kể tiếp: Cũng vì quen với tiền lệ ở các quốc gia khác, quân đội cứ đánh, còn cán bộ ngoại giao đóng vai trò quan sát, không hề bị chi phối bởi cục diện giữa hai trận tuyến, kẻ thắng, người thua, nên đại sứ quán Mỹ, các phóng viên mặt trận, vẫn ung dung tự tại trước cuộc tấn công ngày một ồ ạt của ta… Không ngờ, khi lệnh Ba Duẩn ban ra, tất cả đang từ thế chủ động thành bị động, phải lập tức thu xếp đồ đoàn ra về trước khi Sài Gòn giải phóng. Chính vì thế cảnh vô cùng hỗn loạn trong các ngày 28, 29, 30 tháng 4 năm 1975 xảy ra. Hàng chục máy bay lên thẳng bị hàng trăm người đeo bám, để lại một dấu ấn nhục nhã trong lịch sử nước Mỹ. Ngay sau đó ta phải trả một giá đắt cho chính sách cực đoan của mình. Hiếu thắng một giây, kiêu ngạo một giờ mà đổi bằng cái giá của 20 năm cấm vận. Cả nước vật lộn trong mưu sinh, khốn khó của thời hậu chiến.

Giọng ông cao lên một nấc, nhìn thẳng trở lại, ông đưa bàn tay khô héo, chi chít các vết đồi mồi, lên cổ, lên ngực, cố giữ một cơn ho:

Thứ 4, ngay từ cuối năm 1979, khi biết PolPot gây ra hoạ diệt chủng ở Cam pu
Chia, tôi đã phát biểu trong cuộc họp: ‘Trong hai thằng Lào và Campuchia, chỉ
có thằng Lào là anh em với mình thôi. Còn thằng Campuchia sẽ phản lại mình,
không nên đưa quân sang giúp nó, khi chưa có sự lên tiếng của quốc tế’ – nhưng
Ba Duẩn nhận định: Việt, Lào, Campuchia là ba nước láng giềng, như ba chân
kiềng kê trên mảnh đất Ðông Dương nên phải giúp nó, sau đó sẽ có kế hoạch thôn
tính nó sau… Kết quả, sau hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ, dân tộc ta đã
mất cả triệu người con ưu tú, nay thanh niên trai tráng, rường cột quốc gia lại
bị điều động bắt lính vô tội vạ để sang chiến đấu tại chiến trường K. Bởi cùng
học thầy Trung Quốc nên lối đánh của chúng rất khó chơi, cũng thiên về quấy rối
du kích, đánh không theo bài bản nào, chỉ nghi binh, đánh cấp tập rồi rút lui,
đồng thời rải mìn vô tội vạ, khiến cho lực lượng ta thương vong nhiều không kể
xiết. Tôi nhớ lần tới một trạm phẫu trung đoàn. Trung bình một ngày, anh em bác
sĩ ta phải cưa chân 40 chiến sĩ do bị mìn cài, mìn đặt… Trong điều kiện thuốc
men thiếu thốn, thuốc giảm đau cũng như gây mê đều hạn chế, anh em kêu khóc như
ri. Chỉ sau một tuần là số chân bị cưa xếp cao như núi, hơn hẳn đầu người một
tầm tay với. Mùi thịt cháy, mùi máu tanh, mùi thối rữa toả ra khắp vùng, đi
cách xa trạm cả 7, 8 km mà mùi hôi thối vẫn xông lên nồng nặc…”

Ngay sau đó, bà Ðặng Thị Hà – con gái ông Ðặng Thai Mai (một nhà nghiên cứu văn học có tên tuổi của Việt Nam) đứng dậy, kéo ông ra khỏi khu vực đặt bàn tiếp khách và yêu cầu chúng tôi về để ông nghỉ vì mỗi ngày ông phải tiếp mấy chục đoàn. Bà Hà với tư cách một người vợ phải kéo ông ra kịp thời trước cả rừng câu hỏi của khách, cũng vì thế giọng bà, không còn là giọng một vị chủ nhà mà thành “tư lệnh” đuổi khéo tất cả những ai còn muốn ở lại làm phiền ông…

Cuối năm 1995, tôi chuyển sang báo khác, làm một “cựu chén binh” thay vì “cựu chán binh” với mấy ông già lẩm cẩm, công thần, độc đoán, nên không còn được gặp Tướng Giáp thường xuyên như trước.
Sống đến tuổi 84, ông không ngờ trời cho tuổi thọ cao như thế, nên quyết định thốt ra bốn bí mật của đời mình. Ðến nay – khi trở thành một “hoá thạch sống” – vắt ngang từ đầu thế kỷ 20 (ông sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911) đến đầu thế kỷ 21 (2009) ở độ tuổi 98, ông còn tiết lộ thêm những bí mật nào khác? Tôi không được biết. Chỉ có điều, mỗi lần nghĩ về tướng Giáp, tôi lại thấy lòng mình xao động lạ lùng. Một chút thương (hại), một chút cảm phục, một chút trách móc, một chút trào lộng (*).

Ở Việt Nam, ai cũng biết ông là một vị đại tướng trong thời chiến và một bại tướng trong thời bình, bị Ba Duẩn, Lê Ðức Thọ tam tứ phen làm cho thất điên bát đảo. Ngay cả ông Hồ cũng không chịu nổi uy tín và sự nổi tiếng của ông sau chiến dịch Ðiện Biên Phủ (khi đó, dưới ngọn cờ cách mạng bay lồng lộng là hình ảnh tướng Giáp) nên thay vì đề cử người kế cận mình là tướng Giáp, đã đề cử Lê Duẩn, hy vọng con ngựa Lê Duẩn sẽ chịu để ông cầm cương, thuần dưỡng… Không ngờ, năm 1963, chính ông lại là người bị hai học trò “xuất sắc” là Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ vô hiệu hoá.

Còn Tướng Giáp, trước sự lấn lướt của Duẩn, Thọ thì tự cài số lùi, mỗi ngày một lùi dần, lùi dần, lùi đến tận cửa nhà hộ sinh của chị em mới thôi. Cho nên khẩu ngữ quen thuộc của mỗi người dân, người lính Hà Nội khi nhắc đến tướng Giáp là: “Từ cây đa Tân Trào (căn cứ địa cách mạng, nơi 34 cán bộ vũ trang tuyên truyền giải phóng quân đầu tiên của Việt Nam) tới cây đa Nhà Bò (phường Hàng Bông, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, nơi hàng chục chị em ngất nghểu vác bụng đến trạm hộ sinh sinh nở mỗi ngày).

Kể từ ngày Tướng Giáp vinh dự trở thành trưởng ban sinh đẻ có kế hoạch, khắp Hà Nội đồn thổi câu ca nghịch ngợm của nhà thơ Nguyễn Duy:

Bác Hồ nằm ở trong lăng,
Nhiều hôm bác bỗng nghiến răng, giật mình
Rằng giờ chúng nó linh tinh
Tuổi tên của mình (**) chúng ném xuống ao
Ao nào thì có ra ao
Cái tròn cái méo, cái nào cũng sâu
Hỏi rằng Tướng Giáp đi đâu
Dạ thưa Tướng Giáp… lo khâu: đặt vòng
Và những câu truyền khẩu của Bút Tre thời đại:
Ngày xưa đại tướng cầm quân
Ngày nay đại tướng cầm quần chị em
Ngày xưa đại tướng công đồn
Ngày nay đại tướng công… l. chị em

Ngày 25 tháng 8 năm 2008, khi tròn 97 tuổi, tướng Giáp ốm nặng, rất nhiều phái đoàn đến thăm ông, song lúc này ông bị vừa ho, sốt, vừa đau phổi, khó thở. Ông không ở nhà trên đường Hoàng Diệu mà nằm dưỡng bệnh ở nhà nghỉ bên Hồ Tây. Sau đó được đưa vào Quân Y Viện 108, Khoa A1, dành riêng cho Bộ Chính Trị và các nhân vật lãnh đạo đặc biệt. Hiện ông vẫn phải thở oxy. Với tuổi 97, ngược hẳn với tuổi Hồ Chí Minh khi về với các bậc tiền bối Mác Lê (79), người ta cho rằng ông sẽ khó lòng vượt qua… song một lần nữa trước cái ác, cái xấu ông vẫn tiếp tục “cài số lùi” và vẫn cách xa tử thần cả một tầm với.

Hiện tại, Hà Nội đang trong đợt rét đậm, rét hại, nhiệt độ ngoài trời thường xuyên là 8 độ C, nhiều nơi dưới 3 độ C. Không biết “hoá thạch sống” như ông còn tồn tại được bao lâu trong thời tiết khắc nghiệt này? Khi “hoá thạch sống” mất đi sẽ đồng nghĩa với việc Việt Nam mất một kho bí mật về tầng lớp lãnh đạo cũ mà ông không kịp tiết lộ hoặc vì bạc nhược ông không muốn, hay không dám tiết lộ.

Hà Nội, Mùng 1 Tết Kỷ Sửu
Khai bút đầu Xuân

image

Từ trái, ông Trần Đông (giám đốc Văn Khố Thuyền Nhân), cựu luật sư Đoàn Thanh
Liêm, ông Đỗ Bá Tân (chồng bà Thuỷ), phóng viên Ngọc Lan, và nhà văn Trần Khải
Thanh Thủy

Chú thích:
(*) Ðáng trách trong thời chiến, ông thí quân quá nhiều và vô trách nhiệm đối với vấn đề tù nhân bị bắt, liệt sĩ mất tích. Trong thời bình ông không dám can thiệp, bảo vệ những sĩ quan thuộc quyền bị đàn áp, bắt bớ hay bỏ tù (từ Thượng Tướng Chu Văn Tấn, Trung Tướng Ðặng Kim Giang, Tướng Lê Liêm…) hay những thuộc cấp bị vu cáo trong vụ án Xét Lại Chống Ðảng. Ðặc biệt là những vụ bắt bớ đầy đọa những viên chức và quân nhân miền Nam trong các “trại cải tạo”,’ hay thảm cảnh thuyền nhân của Việt Nam mà thế giới phải lên tiếng.
(**) Kể từ 1969, tại miền Bắc Việt Nam có phong trào làm “Ao cá bác Hồ”, tất cả các thôn xã đều phải đào ao thả cá và cắm một tấm biển đề rõ 4 chữ “Ao cá bác Hồ” ở giữa lòng ao để báo công, lấy thành tích.
(***) Tác giả ghi lại trung thực lời của Tướng Giáp nên chúng tôi giữ nguyên những từ thuộc loại nhạy cảm như “giải phóng”, “quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng”, “Tổng tiến công”…

TRẦN KHẢI THANH THỦY

Cảm thương nhưng không tôn kính!

Cảm thương nhưng không tôn kính!

Vài suy nghĩ về ông Giáp

Tác Giả Huỳnh Thục Vy

Hu%E1%BB%B3nh%20Th%E1%BB%A5c%20Vy.jpg

Vị tướng được những người cộng sản xem là “khai quốc công thần” cuối cùng đã trở thành người thiên cổ vào ngày 4 tháng 10 vừa qua. Vậy là, biểu tượng sống về công lao “giành độc lập” và lý tưởng “cách mạng”, tượng đài hữu danh vô thực về một thời “hào hùng” của những người cộng sản đã trở về với cát bụi.

Ông ta đã thực sự rời bỏ cuộc chơi, đã từ giã cõi nhân sinh điên đảo này. Không ai biết ông sẽ đi về đâu nhưng ông đã để lại di sản đầy đau đớn và nhiễu nhương, để lại cho tất cả chúng ta một Việt Nam với tiếng ai oán khắp nơi. Thôi thì cũng cầu chúc ông ra đi trong thanh thản, dù ông đã lặng thinh một cách vô cảm trước biết bao người đã ra đi một cách bi thương khác.

Là người đã có công khai sinh ra một Việt Nam cộng sản, thiết nghĩ không cần bàn đến chuyện ông có lý tưởng hay không lý tưởng và sự cần thiết hay không của những cuộc chiến tranh vô nghĩa mà ông đã đóng vai trò lãnh đạo quân sự tối cao, ông phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về sự im lặng của mình trước những trang lịch sử bất công, gian trá và đau thương mà người Việt Nam đã trải qua.

Không ít người ca ngợi ông là một trí thức lớn, là nhà văn hoá. Tôi không muốn bàn những chuyện ấy nữa vì đã có nhiều tài liệu lịch sử có sẵn cho việc tìm hiểu, nghiên cứu về ông Giáp. Chỉ xin hỏi: Ông đã làm gì khi luật sư Nguyễn Mạnh Tường kêu gọi dân chủ pháp trị để rồi sau đó bị thất sủng? Nếu là một trí thức lớn thực sự, lẽ ra ông phải biết dân chủ pháp trị cần cho một quốc gia như thế nào trước cả cụ Tường bởi thực tế cho thấy chủ nghĩa cộng sản đã tàn phá quốc gia như thế nào? Nếu không nhận ra khiếm khuyết của một chế độ độc tài cộng sản, ông có xứng đáng với danh xưng một đại trí thức? Và cứ cho là ông không biết gì về độc tài- dân chủ nhưng khi luật sư Tường lên tiếng về xã hội dân chủ, ông không có động tĩnh gì, đó có phải là biểu hiện của một nhân cách lớn?

Lại nữa, ông đã ở đâu, đã làm gì khi những Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Hữu Loan bị đấu tố, bị đọa đày? Ông có chút tủi nhục, cảm thương hay phẫn nộ nào không khi hàng triệu người miền Nam bỏ nước ra đi trong tức tưởi khi Việt Nam Cộng Hoà bị cưỡng chiếm để rồi hàng trăm nghìn người trong số họ đã vùi thân ngoài biển cả? Ông nghĩ gì khi tướng Trần Độ đã dũng cảm lên tiếng rồi bị đàn áp? Ông đã làm gì khi cụ Hoàng Minh Chính đã tỏ thái độ đối kháng để rồi bị bỏ tù? Ông đã đứng bên lề bao biến cố đau thương của đất nước. Đó có phải là vị trí xứng đáng của một trí thức hay không?

Dù họ là ai, một người vừa mới qua đời nên được cầu nguyện cho sự ra đi bình an. Tôi đã rất phân vân khi viết những dòng này. Có nên viết những lời cay đắng cho một người chết không? Có nên kể tội họ khi họ đã mãi mãi không còn khả năng biện bạch? Nhưng quả tình, tôi không viết những dòng này nhắm vào tướng Giáp, tôi viết cho những người còn sống, cho những người còn bị ám thị bởi cái ảo ảnh hào quang mà những người cộng sản đã tạo ra. Đa số thanh niên Việt Nam hiện nay sống trong sự lừa gạt đó mà không biết, và cũng không có ý chí vượt thoát ra.

Ông Giáp, vị “đại tướng quân” trong mắt nhiều thanh niên Việt Nam, là người góp công to lớn để tạo dựng và bảo vệ chế độ độc tài tàn bạo này. Ông đã sống quá xa cái tuổi “cổ lai hy” và ra đi trong tình thương yêu của gia tộc, trong sự ngưỡng vọng của nhiều người. Nhưng ông có biết đâu, một người có công gây dựng nên một tập đoàn tội ác như ông lại ra đi thanh thản và vinh quang, trong khi chính những nạn nhân vô tội của chế độ thì lại hứng chịu thảm trạng bi đát của gia đình để rồi phải ra đi trong uất ức, tủi nhục.

Đó chính là một Đặng Ngọc Viết hiền lành, siêng năng bị chính quyền cướp đất, phẫn uất cùng cực đến mức phải ra tay giết chết một quan chức tỉnh Thái Bình rồi tự sát bằng một viên đạn vào tim. Đó là một Thomas Nguyễn Tự Thành-một thuyền nhân bị cưỡng bách hồi hương về Việt Nam từ Thái Lan, bị sách nhiễu và phong toả kinh tế liên tục bởi chính quyền cộng sản đến nỗi uất ức quá phải tự vẫn bằng cách thắt cổ vào ngày 3 tháng 10, trước ngày ông Giáp chết một ngày. Tại sao ông lại được vinh danh khi chính ông là một phần nguyên nhân của những cái chết đau đớn ấy?

Tất nhiên, ông Giáp không còn là lãnh đạo đất nước từ lâu, các chính sách, hành động của chính quyền này ông không tham gia. Nhưng chính cái quá khứ “oai hùng” và cái hiện tại vô trách nhiệm của ông tạo nên tính chính đáng cho chế độ tàn ác này. Chế độ này vẫn lấy ông ra làm cái bệ đỡ để biện minh cho những hành động bán nước hại dân của họ. Ông là cái phao cứu sinh khi những người lãnh đạo cộng sản đối diện với sự căm phẫn của người dân vì sự tham quyền cố vị của họ. Vậy mà, không hiểu vì tuổi già làm tiêu hao ý chí, vì sự sợ hãi làm xói mòn lương tâm, hay vì danh lợi của con cháu làm tiêu tan tinh thần trách nhiệm mà cho đến những năm cuối đời ông Giáp vẫn lặng thinh trước hiện tình đất nước vật vã dưới chế độ độc tài, vẫn để cho nhà cầm quyền tiếp tục lợi dụng ông cho chế độ bất nhân của họ. (Chỉ có một lần ông lên tiếng yếu ớt cho vấn đề Boxite Tây nguyên)

Giá như ông lên tiếng cổ vũ cho Nhân quyền Tự do thì tiếng nói của ông đã tác động mạnh mẽ đến lương tâm tuổi trẻ và có thể xoay chuyển ý thức của biết bao người dân đang bị ám thị. Một ông Giáp đại tướng quân chắc chắn có khả năng thức tỉnh quần chúng, làm rúng động đảng cộng sản hơn hẳn một Lê Công Định, Phạm Hồng Sơn, Huỳnh Ngọc Tuấn, Phạm Thanh Nghiên hay Phương Uyên chứ? Thế nhưng, ông đã chọn cách sống trong sự co rút và chết trong cờ xí, kèn trống của chế độ cộng sản, hơn là cách sống trong sự phản tỉnh và chết như một chiến sĩ dân chủ. Đáng lẽ tuổi già phải là giới hạn cuối cùng của sự sợ hãi nhưng ông đã để nó đi cùng ông sang tận thế giới bên kia.

Có người nói: chúng ta không ở vị trí của ông nên không thể hiểu hết những gì ông phải đối mặt. Đúng. Chúng ta không hiểu hoàn cảnh và vị trí của ông. Nhưng chúng ta có thể hiểu được hoàn cảnh của những bạn sinh viên vì biểu tình yêu nước mà bị nhà trường đuổi học và mất cả tương lai không? Chúng ta có từng đặt mình vào vị trí Phương Uyên, cô bé sinh viên phải chịu biết bao nhiêu sợ hãi, tổn thương tinh thần khi bị bắt và giam giữ chỉ vì cô bé biểu thị lòng yêu nước? Hay như hoàn cảnh gia đình tôi, ba tôi ở tù khi chị em chúng tôi còn thơ dại và mồ côi mẹ; mười mấy năm trời gia đình tôi sống trong cảnh bần hàn, thất học và sự khủng bố của chính quyền. Hoàn cảnh của ông Giáp có ngặt nghèo hơn hoàn cảnh của những người kể trên hay không? Hay để dễ hình dung hơn, tình huống của ông có khó khăn hơn tình huống của tướng Trần Độ, của cụ Hoàng Minh Chính hay không? Tôi cho rằng, vấn đề là ở lương tâm và bản lĩnh!

Ông đã ra đi để lại tất cả, một chế độ độc tài dai dẳng, những mảnh đời oan khuất, những cuộc đàn áp tiếp diễn, những cái chết oan khiên… Nhưng những dòng này không phải để kể tội ông. Quả thật, thế giới này tồn tại trong trạng thái tương đối của mọi giá trị. Nhưng vẫn có cách để phân biệt những trí tuệ và nhân cách lớn CHÂN THẬT với sự tô vẽ KHÔNG THẬT. Cầu cho ông ra đi được bình an và xin gởi tới ông sự cảm thương cho một kiếp người đa đoan trong thế giới vô minh này nhưng sự tôn kính thì tôi xin giữ lại cho những con người sống với lương tâm, trách nhiệm và ý chí và chết với nỗ lực lên tiếng cho sự thật. Việt Nam còn rất nhiều người để chúng ta thành tâm ca ngợi và kính ngưỡng, nhưng đó không phải là ông.

HTV

Sài Gòn ngày 6 tháng 10 năm 2013

Tháng Mân Côi: Kinh Mân Côi cứu nguy thế giới!

Tháng Mân Côi: Kinh Mân Côi cứu nguy thế giới!


Lm FX. Trần Kim Ngọc, OP.

9/29/2013

TRUYỀN THỐNG

“Có một thói quen cao đẹp của người tín hữu trong suốt Tháng 10 là tháng dành để kết những tràng Chuỗi Mân Côi thành những vòng hoa thiêng liêng dâng lên Mẹ Chúa Kitô.” (Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Thông điệp Christi Matri, 15/09/1966, số 1).

HOÀN CẢNH HIỆN TẠI

Các phương tiện truyền thông gần đây cho chúng ta biết sự dữ và tội ác ngày cang gia tăng, làm cho Giáo Hội cũng như thế giới đang trong tình trạng hiểm nguy. Trong lúc này, “không có gì thích hợp và có giá trị cho chúng ta hơn là có những lời cầu nguyện của tất cả gia đình Kitô giáo dâng lên Mẹ Thiên Chúa, là Đấng được kêu cầu như là Nữ Vương Hoà Bình, kêu xin Mẹ đổ xuống thật nhiều phúc lành từ lòng từ mẫu của Mẹ giữa lúc đầy gian khổ và thử thách này” (Sđd, số 8).

GIÁ TRỊ CỦA KINH MÂN CÔI

Trong Thông điệp Christi Matri, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI cho chúng ta biết về giá trị của Kinh Mân Côi như sau:

* “Nếu sự dữ gia tăng, thì việc sùng kính của Dân Chúa cũng phải tăng lên. Và vì thế, thưa anh em đáng kính, Tôi tha thiết muốn anh em hướng dẫn bằng cách khuyến khích và thôi thúc Dân Chúa cầu nguyện sốt sắng với Mẹ Maria rất mực từ bi của chúng ta bằng việc lần hạt Mân Côi trong suốt Tháng 10, như Tôi đã từng giải thích. Lời cầu nguyện này rất thích hợp cho việc sùng kính của Dân Chúa, làm vui lòng Mẹ Thiên Chúa nhất và mang lại hiệu quả nhất trong việc gặt hái những phúc lành từ trời cao. Công đồng Vatican II khuyên dạy tất cả con cái trong Giáo Hội dùng Kinh Mân Côi, không chỉ trong việc bày tỏ ngôn từ nhưng bằng hình thức không thể sai lầm theo câu này: “Hãy để Dân Chúa say mê với những việc thực hành đạo đức hướng tới Đức Trinh Nữ và được Giáo quyền chấp nhận trải qua nhiều thế kỷ” (số 9).

* “Như lịch sử Giáo Hội chứng minh cho thấy rõ, cách cầu nguyện mang lại rất kết quả này không chỉ có hiệu quả trong việc tránh được sự dữ và ngăn ngừa tai ương, mà còn có sức cứu giúp rất mạnh mẽ trong việc củng cố đời sống Kitô. Nó nuôi dưỡng đức tin Công Giáo là thứ đức tin sẵn sàng đảm nhận đời sống mới khởi đi từ lời dẫn giải hợp thời đúng lúc về các mầu nhiệm thánh, và nó hướng tâm hồn tới những chân lý mà Thiên Chúa dạy chúng ta” (số 10).

* “Và vì thế trong suốt Tháng 10, tháng dành kính Đức Mẹ Mân Côi, những lời cầu nguyện và khẩn xin phải được nhân lên, để qua sự chuyển cầu của Mẹ, bình minh của nền hoà bình đích thực sẽ chiếu sáng trên con người. Điều này cũng bao gồm cả nền hoà bình về khía cạnh tôn giáo {…}. Thật là thích hợp với anh em, trong ánh sáng của việc sùng kính rất đáng khen ngợi của anh em và dựa vào tầm quan trọng rõ ràng của vấn đề này, anh em hãy cho tổ chức những nghi lễ thánh thiêng trong đó, linh mục, tu sĩ và tín hữu giáo dân -đặc biệt là các em thiếu nhi trai gái với những bó hoa của sự đơn sơ thánh thiện, người bệnh và những người khác đang chịu đau khổ- tất cả cùng cầu xin Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Giáo Hội thương cứu giúp” (số 11).

CHƯƠNG TRÌNH LẦN HẠT

Chương trình “KINH MÂN CÔI CỨU NGUY THẾ GIỚI VÀ Giáo Hội” được mở ra nhằm tạo một nhịp cầu cho tất cả mọi người tín hữu ở khắp nơi hiệp ý dâng những hy sinh, việc lành bác ái và nhất là cùng đọc và suy gẫm Kinh Mân Côi. Chương trình diễn ra từ ngày 01/10/2013 đến hết ngày 31/10/2013 trên kinhmancoi.net và các websites Công Giáo.

MỤC ĐÍCH CHƯƠNG TRÌNH


1/ Cùng với Mẹ Maria mà chúc tụng, ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa Ba Ngôi;
2/ Hợp muôn lòng tôn vinh Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa;
3/ Hiệp ý cùng cầu nguyện cho:

1. Thế giới và nền hòa bình thế giới;
2. Giáo Hội và những nhu cầu của Giáo Hội;
3. Những người đau khổ, người tội lỗi;
4. Các linh hồn nơi luyện ngục, các thai nhi;
5. Các gia đình…

HÌNH THỨC THỰC HIỆN

1/ Mỗi ngày trong Tháng 10, mỗi người có thể tự chọn lần hạt 1 chục Kinh Mân Côi (suy niệm hay ngắm 1 mầu nhiệm, đọc 1 Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng và 1 Kinh Sáng Danh), hay đọc 5 chục (suy niệm hay ngắm 1 mùa: 5 mầu nhiệm) tuỳ hoàn cảnh mỗi người.

Lưu ý: Để được hưởng ơn đại xá cho mỗi ngày: mỗi người nên đọc Kinh Mân Côi trong nhà thờ, nhà nguyện hoặc trong gia đình, trong cộng đoàn tu trì, trong hiệp hội đạo đức hoặc khi nhiều người họp nhau nhằm mục đích tốt thì được hưởng một ơn đại xá (Enchiridion Indulgentiarum, Ấn bản 1999, concessio 17), với những điều kiện thường lệ như xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng.

2/ Mỗi người có thể lần hạt chung với cộng đoàn, với gia đình; khi điều kiện không cho phép thì lần hạt riêng sao cho phù hợp với hoàn cảnh của mình.

HÃY LẦN HẠT MÂN CÔI

Chính Mẹ Maria Rất Thánh Mân Côi, -Mẹ của Chúa Kitô, Mẹ của nhân loại, Mẹ của Giáo Hội và là Mẹ của chúng ta- đã tha thiết mời gọi con cái “hãy siêng năng lần hạt Mân Côi” (Sứ điệp Fatima năm 1917). Và cuối cùng, để kết thúc, xin mượn lời của Đức chân phước giáo hoàng Gioan Phaolô II: “Tôi nhìn đến toàn thể anh chị em, những anh em, chị em thuộc mọi bậc sống, đến anh chị em, các gia đình Kitô giáo, đến anh chị em, những người bệnh và cao tuổi, đến các con, những người trẻ: Hãy cầm lấy lại Chuỗi Mân Côi với lòng tin tưởng. Hãy tái khám phá Kinh Mân Côi dưới ánh sáng của Kinh Thánh, trong sự hài hoà với Phụng vụ và trong bối cảnh của đời sống hằng ngày của anh chị em.” (Tông thư Rosarium Virginis Mariae, 16/10/2002, số 43).

THẾ HỆ CUỘI

THẾ HỆ CUỘI

Trích EPHATA 583

Theo báo cáo hội thảo “Thực trạng văn hóa học đường và nhu cầu giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học” do Sở Giáo Dục – Đào Tạo tỉnh Lâm Đồng tổ chức tại Đà Lạt, sáng ngày 24.9.2013, Giáo Sư TSKH Trần Ngọc Thêm, giám đốc Trung Tâm Văn Hóa Học Lý Luận và ứng Dụng, Đại Học Quốc Gia Sàigòn ), cho biết những nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi tâm lý của học sinh trung học hiện nay là do sự thay đổi nhanh chóng của môi trường, điều kiện sống của các em ngày càng đầy đủ hơn.

Bên cạnh đó, những tác động tích cực cũng đã dẫn tới những tác động tiêu cực, như giá trị trong xã hội bị đảo lộn và thâm nhập vào giới trẻ. Cũng theo Gs. Thêm, kết quả của một cuộc điều tra xã hội học cho thấy, tỉ lệ nối dối cha mẹ ở học sinh cấp 1 là 22%, cấp 2 là 50%, cấp 3 là 64% và sinh viên là 80% ( Phan Thành, Tuổi Trẻ, 24.9.2013 ).

Như thế, cứ tính theo lũy tiến thì khi tốt nghiệp Đại Học, thanh niên bước chân vào đời với hành trang nói dối 100% chăng ? Điều này ai cũng có thể kiểm chứng chính xác trên chính con cái mình. Vậy xin dành cho các bậc cha mẹ đáng kính tự tìm kiếm kết quả và tự hành xử.

Tác giả Nguyễn Quang Thân đi tìm nguyên do và ảnh hưởng hiện tượng “Cuội hóa”, phát hiện thực trạng không thể vui nổi. Xin lược trích như sau:

Các bậc cha mẹ, từ người ít học đến học vấn cao siêu, từ dân thường đến người có chức phận xã hội, dù thuộc tôn giáo, tín ngưỡng nào, không ai dạy trẻ con hoặc người lớn nói dối. Nhà trường lại càng không. Các đoàn thể thì luôn “nâng cao phẩm chất thành viên”, tổ chức học tập, trau dồi đợt này qua đợt khác, năm này qua năm khác. Chúng ta không dạy con nói dối, dạy con sống lương thiện bằng sức lao động của mình, đối xử tử tế với đồng loại, thương yêu người nghèo khổ. Bằng khen, huân chương ta khuân về treo chật tường. Nhưng con cái biết ta xài bằng giả vì chúng chưa bao giờ thấy ta đi học.

Ta nói với con ta là người lương thiện với lương tháng mươi triệu đồng. Vậy mà ta có ba bốn ngôi nhà, sắm ôtô siêu hạng, mỗi năm bỏ hàng trăm triệu chơi gôn và khi nổi nóng có thể đánh ngất một người giúp việc trên sân “để trêu đùa”.

Nhà trường không dạy học sinh nói dối nhưng dùng mọi cách để có tỉ lệ tốt nghiệp cao ngất đến mức chính học sinh của trường cũng biết là chuyện khôi hài. Đài báo luôn đề cao lòng trung thực, nhưng chỉ các bà nội trợ mới biết đích xác cái thứ giá cả đang được coi là hạ giá đang lên phi mã như thế nào ngoài chợ.

Con cái và ngay cả chúng ta vẫn được nghe những lời hứa hẹn chung chung, hoa mỹ nhưng ngay người nói ra cũng biết chắc là sẽ không được thực hiện. Hệ lụy là cuộc sống thiếu minh bạch, thật và giả lẫn lộn không biết đâu mà lần. Trẻ con được lớn lên trong cái ma hồn trận hư hư thực thực, đến lượt chúng nó học được cách nói dối cha mẹ để yên thân hoặc tự do quậy phá từ hành vi của chính chúng ta ! Thay đổi tình trạng đáng lo ngại này không thể trong một đêm. Không ai có thể giết chết sự thật. Nhưng để có sự thật không phải dễ.

Trước đây khá lâu, cảnh báo thói nói dối bị coi là cấm kỵ vì “trên nguyên tắc” xã hội chúng ta không thể có chuyện nói dối. Nhưng bàn tay không che nổi mặt trời, dù muốn hay không sự thật phũ phàng đang được công nhận một cách chính thức trên các diễn đàn quan trọng nhất.

Đó là một tiến bộ về mặt đạo đức và đáng mừng bởi vì, dù chưa triệt tiêu được thói nói dối nhưng thấy được nguy cơ nó đang tiếp tục làm băng hoại mọi thứ cũng là điều tích cực. ( Nguyễn Quang Thân, Tuổi Trẻ, 27.9.2013 ).

BOMBO

LỜI THỀ HIPPOCRATES DANH DỰ ĐÃ TAN THEO DANH LỢI

LỜI THỀ HIPPOCRATES
DANH DỰ ĐÃ TAN THEO DANH LỢI

Trích EPHATA 583

Những đóng góp của ngành y tế đối với cộng đồng, những tấm gương hết lòng vì bệnh nhân của ngành y tế có lẽ không cần phải nói đến thì mọi người dân đều biết. Nhiều năm qua, “Nhân tài Đất Việt”, một giải thưởng uy tín về khoa học đều có chương trình tôn vinh những thầy thuốc có nhiều đóng góp cho nền y học nước nhà.

Thế nhưng công bằng mà nói, việc làm của một số cá nhân và cả nhóm người trong ngành y tế vừa qua đã khiến dư luận rất bất bình, làm hoen ố hình ảnh “lương y” mà bao thế hệ thầy thuốc Việt Nam đã dày công vun đắp….

Kết quả thanh tra của Thanh Tra Sở Y Tế về tiêu cực tại 3 bệnh viện lớn của thành phố, đó là Bệnh Viện Bình Dân, Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương và Bệnh Viện Chấn Thương Chỉnh Hình – đã gây “chấn thương” không chỉ trong ngành y tế mà đối với toàn xã hội. Hai chữ “Y ĐỨC” đã bị đồng tiền hủy diệt. Lời thề Hippocrates đầy danh dự đã tan theo mối lợi thị trường.

Bác sĩ Bệnh Viện Bình Dân liên kết bên ngoài ( thực ra là sân sau ) đưa máy móc thiết bị vào kinh doanh. Bệnh nhân trở thành miếng mồi khai thác béo bở, bác sĩ cứ mặc sức chỉ định chụp, chiếu cho dù họ biết có những ca không cần phải thực hiện như vậy. Họ chia nhau tiền tỉ, bất cần biết bệnh nhân là những người nghèo khổ phải chạy ăn từng bữa, vay mượn từng đồng đi khám chữa bệnh.

Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương và Bệnh Viện Chấn Thương Chỉnh Hình đều móc túi bệnh nhân theo cách gian lận phim. Với kỹ thuật cắt tráo, xén phim, các nhóm bác sĩ ở đây đút túi hàng tỉ đồng. Vụ việc còn rất phức tạp, có thể chuyển sang điều tra hình sự.

Nhìn ngược lại một vài vụ gần đây như bớt vaccine ở Phú Yên, tiêu cực tại Bệnh Viện Hoài Đức, Hà Nội, có thể thấy còn quá nhiều tồn tại trong ngành y tế. Xã hội ngày càng thiếu lòng tin và sự tôn trọng đối với y bác sĩ, bởi vì còn có không ít trường hợp gây mất lòng tin như nêu trên.

Nhìn chung theo mặt bằng xã hội, y bác sĩ ở các bệnh viện lớn của hai thành phố lớn nhất nước này có nghèo không, thu nhập có thấp không ? Có thể nói là không. Chưa kể, những người tổ chức được các trò gian lận, tiêu cực, đưa máy móc vào khai thác ở bệnh viện đều là lãnh đạo của các phòng, ban hoặc lãnh đạo bệnh viện. Với các vị trí này, họ là những người có thu nhập cao, chưa kể còn có nguồn thu nhập từ hoạt động phòng mạch cá nhân. Thế nhưng, họ vẫn sẵn sàng làm những việc phi đạo đức, thậm chí coi thường mạng sống bệnh nhân để trục lợi. Nói đúng hơn, bằng những cách như vậy, họ làm giàu, rất giàu.

Còn bao nhiêu chuyện tương tự ở các bệnh viện nhưng chưa bị phát hiện, chưa có điều kiện để thanh tra ? Đây là câu hỏi cần phải được giải đáp, không thể để người bệnh trở thành con mồi cho một số y bác sĩ thất đức khai thác.

Người ta nói, đến một quốc gia, nhìn gương mặt trẻ em thì biết phẩm chất cuộc sống của quốc gia đó. Rất đúng.

Người ta nói, đến một quốc gia, nhìn vào hệ thống giao thông và tổ chức giao thông thì biết trình độ văn minh của quốc gia đó. Chính xác.

Người ta nói, đến một quốc gia, nhìn bệnh nhân được điều trị, chăm sóc trong bệnh viện thì biết quốc gia đó lo cho dân chúng như thế nào. Tuyệt đối đúng.

Vậy thì với những “con sâu” như vậy, chúng ta sẽ đứng ở đâu trong quan sát của thế giới ?

LÊ CHÂN NHÂN, báo Dân Trí, 10.10.2013

Tiếng Cú Bis

Tiếng Cú Bis

Tưởng Năng Tiến

Xã hội chúng ta không cần thêm bất kỳ một “bên thắng cuộc” nào nữa, mà đang khát khao sự hòa giải và yêu thương.
Trịnh Hữu Long

Ngày 25 tháng 6 năm 2013, sinh viên Từ Anh Tú bị “mời đi làm việc” vì sở hữu một cuốn sách (Bên Thắng Cuộc) của nhà báo Huy Đức. Qua hôm sau, RFA đã trực tiếp truyền thanh lời cô Từ Thị Minh Thu – em gái của T.A.T – về chi tiết của vụ mời mọc (rầm rộ) này:

Lúc 9:30 sáng công an ở Hưng Yên đến… gồm 15 người, có cả đại tá, thượng tá, và trung tá…”

Công an ở đâu ra mà lắm thế, và rảnh rỗi thế, hả Trời? Đã thế, ở đâu cũng thế, chứ chả riêng gì thành phố Hưng Yên. Trước đó, có bữa, báo Dân Việt đã buồn bã đi tin:

Trung tá Nguyễn Hoàng Tương – Phó Công an phường An Hoà, Rạch Giá, Kiên Giang bị tạm đình chỉ công tác để làm rõ nguyên nhân dẫn đến vụ xô xát với ông Cao Trọng Lợi.”


Mới đây, báo Pháp Luật cũng vừa cho hay:

“Ngày 8/7, Công an tỉnh Khánh Hòa đã kết luận bước đầu về vụ Trung tá Hồ Lưu Luyến – nguyên Đội phó Đội Tuần tra kiểm soát giao thông Cam Ranh bị tố ép doanh nghiệp (DN) trả tiền nhậu, dùng số điện thoại cá nhân in trên danh thiếp giới thiệu quán cơm, cây xăng để “tiếp thị”.

Trung Tá Hồ Lưu Luyến đang “tác nghiệp” – ảnh Phương Nam

Nếu cấp bậc của những nhân vật kể trên nhỏ hơn, và tương xứng với những chức vụ (khiêm tốn) của họ hơn thì sự việc, xem ra, chắc đỡ … xấu hơn – thí dụ như:

–         Trung sĩ  Nguyễn Hoàng Tương , phó công an phường An Hoà, xô xát với dân …

–         Trung sĩ Hồ Lưu Luyến, đội phó đội tuần tra kiểm soát giao thông Cam Ranh, dùng số điện thoại cá nhân in trên danh thiếp giới thiệu quán cơm, cây xăng để tiếp thị …

Chớ đeo lon đại tá, thượng tá, trung tá mà đi … “bắt” một cuốn sách, hay lê la đầu làng cuối xóm đánh nhau với dân, hoặc đứng đường “tiếp thị” (một hai chầu nhậu) thì rõ ràng là không được đẹp, và cũng hơi bị … hẹp.

Sự hẹp hòi này có nguyên do rất giản dị, theo như ghi nhận của ông Trần Ngân –  trên trang viet-studies:

“…từ khi thủ tướng Dũng, một nhà chính trị kỳ tài trong việc xây dựng phe cánh và đấu đá nội bộ lên làm thủ tướng thì ông này đã phong hàm tướng cho hàng loạt cán bộ CA:

–        2007: 29 thiếu tướng; 12 trung tướng (CAND, 28/4/2007)

–        2008: 33 thiếu tướng, 4 trung tướng (http://CAND, 5/6/2008)

–        2009: 10 thiếu tướng, 5 trung tướng (CA TP.HCM, 20/10/2009)

–        2010: 44 thiếu tướng, 8 trung tướng (Langmotrach, 2010)

–        2011: 51 thiếu tướng, 7 trung tướng (VOV, 16/12/2011)

–        2012: 34 thiếu tướng, 14 trung tướng (CA Đà Nẵng, 2012)

Như vậy, chỉ trong 6 năm, thủ tướng Dũng đã ký phong hàm cho tổng cộng là 201 thiếu tướng và 50 trung tướng ngành CA, đây là một con số rất lớn so với thời kỳ trước đó cũng như so với lực lượng cảnh sát của hầu hết các quốc gia trên thế giới…”

Tướng mà nhiều (tới) cỡ đó thì tá ra … đứng đường là phải rồi, chớ còn phàn nàn chi nữa – đúng không?

Thì đâu có ai dám phàn nàn, thắc mắc, hay khiếu nại gì nhưng nghĩ tới hậu vận cũng phải thấy lo chớ bộ. Bây giờ thì Đảng còn mình, nếu không có rượu cũng có bia bốc lai rai nhưng rồi biết ra sao – ngày sau – khi Đảng không còn tồn tại nữa?

Mà cái ngày đó, ngó bộ, cũng không xa xôi gì lắm – theo như tường trình của Thanh Trúc (RFA) nghe được vào hôm 6 tháng 9 năm 2013:

“Báo động của ILO Tổ Chức Lao Động Quốc Tế, rằng nguồn quĩ hưu trí của Việt Nam sẽ bị thâm hụt và cạn kiệt trong thời gian tới … Giám đốc  Bảo Hiểm Xã Hội thành phố Hồ Chí Minh, ông Cao Văn Sang, cho rằng cảnh báo này có cơ sở vì theo dự kiến đến năm 2023, số thu Bảo Hiểm Xã Hội dành cho hưu trí sẽ ngang bằng số chi, và những năm sau đó muốn trả lương hưu thì phải sử dụng số dư từ nguồn thu Bảo Hiểm Xã Hội của những năm trước. Hậu quả là, ông Cao Văn Sang nói tiếp, một thập niên nữa tức vào năm 2034 thì nguồn quĩ hưu trí bị cạn kiệt và không còn tiền để thanh toán.”

Ngân qũi cạn kiệt là kể như “hết phim,” theo như cách nói (gở) của blogger tranhung09. Hết phim là hết chuyện nhưng nhà nước mà hết tiền thì sẽ nẩy sinh ra cả tỉ chuyện lôi thôi. Viễn ảnh không chỉ sẽ ảm đạm mà còn hứa hẹn rất nhiều rối loạn, cùng bạo loạn.

Hình ảnh của những ông đại tá vá xe hay trung tá bán chè, chắc chắn, sẽ lại tái diễn trong tương lai gần.  Nhưng sau một cuộc đời tác nghiệp, và tác yêu tác quái, liệu đám sĩ quan công an sẽ được để cho yên thân kiếm ăn ở đầu đường hay cuối phố  như qúi vị sĩ quan quân đội – ngày trước – hay không?

Ảnh: Phan Hữu Lập

Đây không phải là câu hỏi chỉ dành riêng của những ông trung tá vá xe, hay đại tá công an bán chè (mai hậu) mà cho tất cả của mọi người dân Việt. Không ít người vẫn thường  cầu mong cho cái chế độ hiện hành sụp đổ nhưng hầu như không mấy ai bận tâm về những hệ quả ngay sau đó.

Trong một bài viết trước (Tiếng Cú) chúng tôi đã mạo muội đề cập đến vấn đề này. Nay xin phép được nhắc lại – đôi điều – với hy vọng là mong được dư luận quan tâm:

Lực lượng công an hiện nay, dù đông đảo và có vẻ áp đảo – theo như cách đánh giá của nhà báo Ngô Nhân Dụng – chỉ là một thứ “xi măng cốt tre” thôi. Và cái  giàn “xi măng cốt tre” này được một nhà báo khác, ông Bùi Tín, ghi nhận như sau:

“Dưới danh hiệu Công an Nhân dân, dưới khẩu hiệu Công an là bạn dân, trong con mắt của đông đảo người dân lương thiện, công an bị đánh giá là bọn kiêu binh tệ hại nhất, dùng quyền lực để hà hiếp, bóc lột, làm tiền, cướp đất, cướp nhà cửa, của cải của nhân dân một cách ngang ngược, bị nhân dân xa lánh, khinh bỉ nhất.”

Sau hơn nửa thế kỷ “dùng quyền lực để hà hiếp, bóc lột, làm tiền, cướp đất, cướp nhà cửa, của cải của nhân dân một cách ngang ngược,” chuyện gì sẽ xẩy ra cho “bọn kiêu binh tệ hại nhất” này – khi cái “giàn xi măng cốt tre” gẫy đổ?

Câu hỏi được đặt ra (xem chừng) đã muộn nhưng muộn còn hơn không. Bên cạnh những vấn đề cấp thiết khác trước mắt (đạo đức xã hội suy vi, tình trạng sắc tộc căng thẳng, an ninh lãnh thổ bị đe dọa, tài nguyên cùng ngân sách quốc gia bị thao túng và cạn kiệt, môi trường bị hủy hoại…) tưởng chúng ta cũng cần phải quan tâm và chuẩn bị để giảm thiểu (tối đa) cảnh tàn bạo – sau này – khi mà những cô chú công an (bỗng chốc) biến thành đích nhắm cho mọi người trút sự thù hằn, oán hận, và phẫn uất đã chất chứa hơn nửa thế kỷ qua!

Chỉ cần nhìn thái độ hiếu sát của dân làng ở những nơi có kẻ trộm chó bị đánh chết (tại chỗ) hay nghe nghóng sự đồng tình của dư luận trước vụ nổ súng của ông Đặng Ngọc Viết – bây giờ – cũng có thể đoán biết được “độ nóng” của người dân đã lên cao đến mức nào rồi?

Trước những sự kiện vừa kể, bất cứ ai còn quan tâm đến vận mệnh đất nước cũng đều thấy bất an:

Blogger Cánh Cò: “Không thể nói là lạ, mà phải nói là man rợ. Chỉ có kẻ man rợ chưa hưởng ánh sáng văn minh mới có thể hành động một cách xuẩn động như vậy. Cái lạ là họ không ở trong hang động, họ đang sống, đang sinh hoạt bình thường tại nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đất nước luôn tự hào có truyền thống này truyền thống nọ nhưng hình như đã lâu không ai nhắc tới truyền thống thương yêu đồng loại. Bằng chứng là tại cái làng ấy, cái thôn ấy người ta thương chó hơn còn ‘đồng loại người’. Họ đồng loạt vung tất cả phương tiện giết người lên. Giết tập thể. Giết hội đồng.

–         Ông Nguyễn Nguyễn Gia Kiểng: “Trong một quốc gia bình thường một hành động như vậy chắc chắn đã phải bị đồng thanh lên án. Chúng ta đang ở trong một tình trạng tâm thần rất không bình thường. Xã hội ta có nguy cơ bùng nổ.”

–         Ông Nguyễn Quang A: ”… tôi thực sự bị sốc khi xem một đoạn video mang tên ‘Lê Quốc Quân’ trên mạng. Tại đó một người phụ nữ hô to ‘Học tập gương anh hùng Đặng Ngọc Viết ở Thái Bình,’… ‘Nhìn thẳng đầu bọn quan tham mà nổ súng,’ ‘Nhìn thẳng đầu bọn tham nhũng mà bóp cò’.

Với ít nhiều chủ quan, tôi thành thật tin rằng đã đến lúc mà lòng bao dung, đức nhân ái, và tính độ lượng (vốn) tiềm tàng trong tâm hồn dân tộc Việt cần phải được khơi dậy và đề cao – chứ không phải là những việc làm ngược lại. Trong tinh thần này, cách đây chưa lâu, blogger Mai Xuân Dũng đã gửi đi những lời lẽ cảnh cáo tuy nhẹ nhàng, và ôn tồn nhưng rất đáng trân trọng:

Cũng là một lũ bần cùng khố dây khố rợ cả, nên thương nhau thì hơn. Bức tranh tôi có post lên đấy, các chú xem nhé: bão cát thì ngập đến đầu gối các chú rồi, bão đang to lên lắm, liệu mà nương nhờ nhau cho khỏi cát vùi bão dập thì hơn chứ đừng làm cái chuyện bẩn thỉu như vậy. Nếu các chú là con người, cũng có vợ và con cái như những người khác thì hối đi kẻo không kịp.”

Tranh Goya. Nguồn: blog Mai Xuân Dũng

Trước viễn cảnh “cát vùi bão dập” này, nhà văn Dương Thu Hương cũng đã ân cần nhắc nhở mọi người đừng quên rằng giữa “bầy chó berger của chế độ” không thiếu những người trung thực và tử tế:

Tuy nhiên, tôi không có ý nói rằng toàn thể các sĩ quan công an đều là bọn mafia, đều là quân cướp. Bởi, nói như vậy là vu khống, là hàm hồ… Trong đám công an, không thiếu những người trung thực, theo ngôn ngữ bình dân, người tử tế. Chỉ có điều họ đã trở thành thiểu số và họ gần như vô năng.

Những kẻ “thiểu số vô năng” này, tất nhiên, đều vô tội. Còn cái đám đa số còn lại (cũng) chỉ là nạn nhân của một thể chế bạo ngược, và bất nhân thôi – như cách nhìn bao dung của nhà văn Uyên Thao: ”Mọi con dân Việt Nam, vì thế, đều trở thành nạn nhân bi thảm vì bị tước đoạt mọi quyền sống, bao gồm trong đó không ít nạn nhân đã và đang còn đóng vai thủ phạm gieo rắc tội ác không chỉ cho đồng loại mà cho ngay cả bản thân.”

Nghĩ cho cùng họ vẫn đáng tha thứ hơn là trừng phạt. Hơn nữa, hơn nửa thế kỷ qua, có người dân Việt nào dám tự hào nói rằng mình hoàn toàn (và tuyệt đối) không bị ảnh hưởng, hay lây nhiễm tính vô cảm và thói bạc ác của chế độ hiện hành?

Nói thế (e) độ lượng quá chăng? Biết thế nhưng với hiện cảnh, với lịch sử của một dân tộc đã triền miên sống giữa cảnh bom đạn máu lửa, giữa oán hận chất chồng, và nghi kỵ và phân hoá – kéo dài hết từ đời này sang đời khác – liệu có lựa chọn nào khác (thế) không?

Tưởng Năng Tiến

Khoảng Cách Giữa Giàu Và Nghèo

Khong Cách Gia Giàu Và Nghèo

Rev.John Nguyen

Người mẹ bảo đứa con trai: ăn thêm cái nữa đi con. Đứa bé trả lời: ngán quá, con không ăn đâu. Con ráng ăn thêm một cái, má thương, má cưng. Con nói là không ăn mà. Vứt đi! Vứt nó đi! Thằng bé lắc đầu quầy quậy, gạt mạnh tay mẹ làm chiếc bánh kem văng qua cửa xe, nó rơi xuống vệ đường, sát mép cống. Chiếc xe hơi láng bóng rồ máy chạy đi.

Hai đứa trẻ đang bới móc đống rác gần đó, thấy chiếc bánh nằm chỏng chơ, chạy đến nhặt. Mắt hai đứa sáng rực lên, dán chặt vào chiếc bánh thơm ngon. Thấy bánh lấm láp, đứa con gái nuốt nước miếng. Anh trai bảo: Anh thổi sạch rồi mình ăn. Thằng anh phùng má thổi. Bụi đường đã dính vào bánh, chẳng chịu đi. Đứa em sốt ruột cũng ghé miệng thổi tiếp. Chính cái miệng háu đói của nó làm chiếc bánh rơi tõm xuống cống hôi thúi, chìm mất. Con bé khóc và nói: tại anh hai thổi mạnh – Ừa. Tại anh! Nhưng kem còn dính trên tay anh nè. Cho em liếm ba ngón, anh chỉ liếm hai ngón thôi!.

Đọc câu chuyện này, chúng ta cảm thấy xúc động và chạnh lòng cho những trẻ em nghèo bất hạnh. Đồng thời, nó nói lên khoảng cách giữa kẻ giàu và người nghèo. Kẻ thì dư thừa, phung phí của ăn, bên cạnh đó thì có người đang đói khát. Cũng như câu chuyện trong dụ ngôn hôm nay, Chúa Giê-su đưa ra cho ta thấy sự khác biệt giữa ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó. Nó nói lên về cái hố sâu ngăn cách kẻ giàu người nghèo trên thế giới này.

Theo quy luật tiền định của tiền bạc, thì người giàu sinh sống riêng biệt: nhà cửa, xe cộ, giải trí, y tế, sinh hoạt… Ông nhà giàu này ăn mặc toàn là gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Bên cạnh đó, anh nhà nghèo La-da-rô nằm trước cổng ông ta, thèm được những thứ trên bàn rơi xuống để ăn cho no bụng cũng không có để ăn. Anh ta thì cũng giống như những con chó đang chờ những khúc xương rơi xuống từ bàn của ông chủ.

Nhưng rồi, cả hai đều chết. Mọi thứ đều đảo ngược trật tự. Anh La-da-rô đã được đứng trong hàng ngũ của các thiên thần, bên cạnh Áp-ra-ham và những người có đức tin. Ngược lại, ông nhà giàu kia lại xuống hỏa ngục, bị lửa thiêu đốt và bị cực hình. Bấy giờ, ông ta kêu lên: ” Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con”.

Có người muốn biết ông giàu ấy đã phạm tội gì để bị sa vào hỏa ngục. Phải chăng ông ta đã từ chối không cho anh La-da-rô những mẩu bánh thừa của ông! Tin Mừng không nói thế. Tội của ông ta là thái độ dửng dưng vô cảm trước những con người bất hạnh. Ông không nhìn thấy La-da-rô nằm trước cửa nhà ông.

Ngày nay cũng có hàng ngàn anh La-da-rô cũng đang nằm chờ miếng ăn, chờ sự bố thí và giúp đỡ của chúng ta. Với quy mô toàn cầu hóa hiện nay, các nước tiên tiến và thành phần tiểu số giàu có đã chiếm hết chỗ trên bàn ăn cho người nghèo ở các nước nghèo. Các công nghiệp quốc gia và các nguồn lao động đã bị hủy diệt do hệ thống mậu dịch tự do đã xô đẩy hàng triệu La-da-rô ra bên lề xã hội dẫn đến chết vì nghèo đói, vì chiến tranh và bạo lực gây ra. Người nghèo sống chung với những bãi rác bẩn thiểu, hôi thối để mưu sinh vì miếng ăn hàng ngày. Trẻ em không được học hành, bị lạm dụng và bóc lột sức lao động. Cụ thể, hình ảnh ông nhà giàu Tin Mừng cho thấy, ông ta không chỉ hưởng thụ, ăn chơi xa hoa phung phí mà còn thể hiện đẳng cấp sự giàu có của mình. Ông ta chỉ nghĩ đến quyền lợi của mình. Sự ích kỷ của ông ta đã làm cho trái tim trở nên vô cảm, và cánh cửa tâm hồn của ông ta đã khép lại.

Thật vậy, với cuộc sống bon chen giữa đời thường, tôi chỉ biết tìm kiếm cho riêng mình mà quên đi những người xung quanh họ đang đói khổ. Tôi chỉ biết xin Chúa thật nhiều mà không biết cho đi những người đang cần sự giúp đỡ. Tôi chỉ muốn người khác yêu thương mình mà chẳng bao giờ nghĩ đến những khác người, những người già nua, cô đơn bệnh tật không có ai để nương tựa. Tôi chỉ muốn bước vào cửa thiên đàng nhưng cửa tâm hồn thì luôn khép lại, chẳng biết chạnh lòng thương.

Ước gì, Lời Chúa hôm nay đánh thức trái tim chai lỳ khô cứng của con, để con biết rung cảm, biết mở rộng bàn tay và con tim với tha nhân và xóa đi khoảng cách phân biệt đối xử giữa người giàu và người nghèo vì tất cả mọi người đều là hình ảnh và con cái của Chúa. Amen.

Rev.John Nguyen

“Nhắc làm chi? Ôi! nhắc làm chi nữa?”

“Nhắc làm chi? Ôi! nhắc làm chi nữa?”

“Em đi rồi, mưa gió suốt trang thơ.”
(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Lc 18: 1-8

Cũng có thể, nhà thơ từng bảo thế. Cũng rất đúng, lời dụ ngôn kể vị chánh-án nói như vậy.

Dụ ngôn hôm nay, thánh-sử Luca ghi lại lời của chánh án từng phán-quyết cũng rất thật. Sự thật ở dụ ngôn vẫn rất thực, ở mọi thời. Thời buổi ấy, lại thấy vị chánh án từng chán ngán cảnh tội nhân cứ đeo bám quấy rầy như dịch tễ, để đòi cho được một phán quyết rất công minh. Ngôn ngữ đời thường đều diễn-tả chuyện đeo bám như dịch-tễ là những quấy rầy/phiền hà, thường khó tránh.

Tiếng Do thái, mô-tả cảnh-tình này lại mang ý-nghĩa của một phiền-hà khiến người trong cuộc thành vô dụng. Phiền hà, là chuyện mà người trong cuộc cứ quấy rầy đòi mãi một chuyện mà chẳng ai muốn dính líu, giải quyết. Sách Isaya ở đoạn 7 câu 13 cũng có lời tương-tự: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít! Các ngươi làm phiền thiên-hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa?”

Vấn đề ở đây, là hỏi rằng: đối nghịch động-thái quấy rầy/phiền hà và đeo bám là có ý gì?

Cũng có thể, đối chọi chuyện phiền hà đeo bám, là: chuyện trò thân mật với ai đó, cho đời vui. Và, điều đối chọi giữa “lải nhải” với “quấy rầy” là “chuyện trò thân mật”, rất thật tâm. Đúng thế, hình-thức đổi-trao giữa hai người bằng lời nói, vẫn là chuyện vui/buồn thường ngày ở khắp chốn. Bởi, một khi đã nói năng, nếu không là chuyện trò thân mật, thì chắc phải là động-thái lải nhải, quấy rầy như dịch tễ thôi.

Về chuyện trò thân mật, thánh Bênêđíchtô từng qui-định với anh em Dòng mình, là: bất cứ anh em nào một khi đã tuyên hứa trước mặt Chúa và Bề trên rằng: mình quyết sống ổn định, chuyện trò/trao đổi suốt đời với anh em và tuyệt đối tuân phục đấng lãnh đạo nhà Dòng, cả ba điều này trở thành lời khấn hứa mang cùng ý nghĩa. Là thày dòng sống khắc khổ, là chấp-nhận sống trọn vẹn cuộc sống cộng-đoàn có đổi-trao. Nói như thế, thì: đây không là lời tuyên-khấn giữ thinh lặng suốt đời; và, cũng không là chọn lựa tồi đối với những ai sống đời tu trì bởi cộng-đoàn nhà Dòng đã đồng ý như thế.

Luật dòng Biển Đức viết bằng tiếng La-tinh lại đã thấy có cụm từ “hồi hướng trở về” thay cho chủ trương “chuyện trò trao đổi”, như vừa nói. Thông thường thì, tiếng La-tinh “cổ” rày diễn-tả việc “hồi hướng trở về” như sinh-hoạt quay vòng tròn có đổi thay, theo nghĩa luân-lý hoặc tu-đức. Thế nhưng, bản gốc luật này do chính thánh Bênêđíchtô lập ra, đã nhấn mạnh đến việc cần thiết phải chuyện trò/trao đổi chứ không phải chỉ mỗi “hồi hướng trở về”, với Đạo Chúa.

Với tiếng La-tinh “cổ”, thì: chuyện trò/trao đổi có nghĩa: năng lui tới nơi nào đó, cứ quẩn quanh đến trò chuyện với những người hay đến nơi đó. Tự-vựng này, đi vào tiếng La-tinh của Kitô-hữu trước thời thánh Bênêđíchtô còn sống. Từ-vựng đây, diễn tả lối sống thông thường có quan-hệ mật-thiết với mọi người, và còn hiệp-thông giao dịch với mọi người khác nữa.

Điều này, còn có nghĩa: chung sống với người khác hoặc có liên-hệ mật-thiết với mọi người theo cung-cách không giống với kiểu của mình. Đây, còn là lối sống ít giống với cách sống của mình nhưng giống kiểu của người khác, nhiều hơn. Đây còn là: sự hiện-diện ở nơi nào đó để hoà trộn với người khác theo cung-cách nói năng/chuyện trò rập theo kiểu người khác, chứ không theo ý mình. Nói cho cùng, đây là yếu-tố chính của đồng hành, có tương-tác.

Theo nghĩa này, tốt hơn ta nên chuyện trò/đồng hành với nhau hơn là chỉ “hồi hướng trở về’ với thánh-hội, mà thôi. Bởi, cộng-đoàn Hội thánh ở đâu cũng thế, vẫn luôn đòi hỏi ta chuyện trò/đồng hành hơn chỉ quay trở về, mà thôi. Người tu trì, đồng hành chuyện trò với nhau, vẫn có thể không là nhóm “hồi hướng” quay về chốn cũ mà sinh sống. Họ là người biết chuyện vãn, giao du rất tế-nhị. Xem như thế, thì đồng hành trong chuyện trò mới là chuyện cần thiết cho đời tu.

Kinh thánh viết bằng tiếng Do thái, cũng có cụm-từ chỉ việc “hồi hướng trở về” như tự-vựng “shub” có nghĩa đen, để chỉ sự việc quay đầu trở lại, thôi. Thông thường, từ này là chỉ về cuộc sống quay vòng tròn nhưng lại có nghĩa gốc-gác nói về chuyến trở về sau bao ngày lưu vong/lưu đày chốn đất khách quê người. Việc này, còn có nghĩa: trở về với đất miền được Chúa phú ban cho riêng mình và mình quyết sẽ ở nơi đó mãi, chứ tuyệt nhiên không phải nơi nào khác. Nói theo tính cách linh thiêng có tương-quan, ta đã đi vào chốn “lưu vong/lưu đày” rồi, vẫn cần khám phá chốn miền thực thụ để mình sẽ về lại đó mà sinh sống.

Tân Ước cũng có cụm từ “hồi hướng trở về” tương tự như tự-vựng “epistrophe” ta có thói quen dịch là “hồi hướng”, cũng rất đúng. Thế nhưng, mỗi khi mô tả Chúa, sách Tân Ước của ta thích sử-dụng cụm từ “metanoia”. Lại nữa, ngôn-ngữ của ta cũng lại dịch cụm-từ này thành một “hồi hướng trở về”, giống như thế. Tuy nhiên, “metanoia” thực ra không có nghĩa “trở về” hay “trở lại” theo cung cách mà lâu nay ta vẫn tưởng.

Metanoia là điều được Chúa đòi-hỏi những ai dấn bước theo chân Ngài, phải làm thế. Cụm từ này, thường dịch thành động-thái “đổi mới tâm can”, nhưng không chỉ mỗi thế, mà còn hơn thế nữa. Tiếp-vĩ-ngữ “noia” ở chữ “meta-noia” xuất tự tiếng “nous” của Hy Lạp, mang ý-nghĩa: một hiểu biết thực-chất của những gì xảy đến và diễn biến theo chiều-hướng sâu-sắc. Suy cho kỹ, nếu ta đặt tiếp-đầu-ngữ “meta” ở trước chữ “nous” bên tiếng Hy Lạp, ta sẽ tạo ý-nghĩa: tư-thế của một người không biết được những gì đang diễn-tiến và cũng không tìm ra được ý-nghĩa của nó cho đến khi có ai đó đến giúp cho mình và mời mình học hỏi, lắng nghe cũng như đi vào một chuyện trò, còn tiếp-diễn.

Muốn hiểu “Metanoia” cho đúng, thì không thể gọi đó là cuộc “hồi hướng trở về”, được. Trao đổi với ai, như thế, phải hiểu như động-thái biết lắng-nghe, chuyện trò và cứ thế để hiệp-thông tiến-triển, rồi ra mơi thông-hiểu nhau hai chiều. Trong trao-đổi, luôn có đối-thoại tương-tác hầu tạo dựng bầu khí mới, tức: một giòng chảy xuyên suốt đượm nhiều nghĩa. Tức: bất cứ ai chủ-trương cho đi chính mình mình, trong trao-đổi/đối-thoại là mình tự cho chính mình cho người khác, dù không biết gì về “người khác” ấy, để rồi tìm cách hiểu biết người khác, có khác mình nhiều không, đó mới là đối thoại, đổi-trao.

Đối-thoại đổi trao, là cung-cách nhận thức không biết trước sự việc sẽ diễn-tiến ra sao. Tuy nhiên, lại giáp mặt tạo tình thưong-yêu thoải-mái và an toàn cho ta. Nó đòi cho được một thoải mái thích thú liên tục, không ràng buộc. Bởi, có thoải mái trong đối thoại/đổi trao, con người mới không tìm về những quấy rầy/phiền hà bất cứ ai.

Truyện dụ-ngôn hôm nay, tác giả Tin Mừng nói đến động-thái quấy rầy/phiền hà của bà goá nọ đối với vị thẩm-phán chẳng biết kính sợ Chúa cũng chẳng thiết tha gì chuyện lắng nghe người phàm. Chính đó là xu-hướng quấy rầy/phiền hà không thích-hợp cho một đối-thoại/đổi trao rất thực. Quấy rầy/phiền hà không có chân đứng trong đối thoại/đổi trao. Bởi, nó luôn là rào cản là nói một chiều, chẳng cần nghe ai nói. Là, đòi hỏi mãi không dứt từ một người không biết đến đổi trao, đối thoại. Trong sống đời thực tế, động-thái đối thoại lành mạnh, linh đạo vẫn cần thiết hơn một hồi hướng trở về, mà vẫn thế.

Điều này cũng có thể áp-dụng cho tương-quan ta có với Chúa. Đối đầu quan hệ với Chúa không thể có chuyện quấy rầy phiền hà được, bởi Chúa đã cho tất cả mọi sự từ trước, thế nên ta không cần đòi thêm gì nữa hết. Cũng không cần có cố gắng để “hồi hướng trở về” mà chẳng đổi thay động thái rất đòi và hỏi đủ thứ. Tương quan đối-thoại với Chúa, cũng phải biết là Chúa đã tặng ban cho ta hết mọi thứ ta cần đến.

Giờ đây, ta không cần làm hết sức mình, bằng một “hồi hướng trở về” để khám phá ra Chúa, bởi chính Ngài đã khám phá ra ta từ hồi nào, rồi. Nay, chỉ cần ta đi vào với đối thoại/đổi trao thật mật-thiết với Đấng từng thương yêu ta trước. Chỉ cần ta biết nói lời “cảm tạ” Chúa, tự khắc Ngài sẽ đón chào ta trong vui mừng, thôi.

Bởi, Chúa từng nói với ta là: Ngài rất chán ngán với những người suốt ngày cứ nguyện cầu bằng đường lối quấy rầy/phiền, những là: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” để “hồi hướng trở về” mà lại không có được cuộc chuyện trò thân mật, thoải mái như bạn Đồng Hành, trong yêu thương. Chúa vẫn từng dạy ta hãy có lời khấn-nguyền đi vào chuyện trò mật thiết với Ngài và Ngài đã hứa chẳng khi nào làm phiền ta hết.

Giả như Chúa cũng đầu hàng chúng ta và/hoặc bà goá nọ –như hành xử của vị thẩm phán trong truyện dụ ngôn vừa kể- ta có nghĩ rằng Chúa sẽ làm ít đi chỉ để cho con người “hồi hướng trở về” với Ngài mà thôi, không? Hay, Ngài những muốn ta luôn có cuộc chuyện trò thoải-mái, mật thiết với Ngài? Câu trả lời dành cho mỗi người trong ta, là như thế.

Trong cảm-nhận tính bức thiết của một chuyện trò thoải mái với Chúa, với mọi người, cũng nên ngâm tiếp lời thơ trên, rằng:

“Nhắc làm chi? Ôi! Nhắc làm chi nữa?

Em đi rồi, mưa gió suốt trang thơ.

Mây lìa ngàn, e lệ cánh chim thu.

Con bướm ép thoát hồn mơ giấc ngủ.”

Nhà thơ nay không nhắc làm chi nữa, vì nàng thơ nay đã đi rồi, “mưa gió suốt trang thơ.” Nhưng nhà Đạo, lại cứ nhắc lại những chuyện tương tự truyện dụ ngôn hôm nay ở trình thuật, để còn nhớ. Nhớ, mà chuyện trò thân mật với Chúa, hơn là chỉ đòi và hỏi nơi Chúa đủ mọi điều, chẳng thiết thực.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh

Mai Tá lược dịch

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 31 mùa thuờng niên năm C 03-11-2013

Hãy cứ vui chơi cuộc đời”
Ðừng cuồng điên mơ trăm năm sau
còn đây em ngọt ngào
Ðứng bên ngày yêu dấu
Nhìn mây trôi đang tìm về núi cao
(Trịnh Công Sơn – Hãy Cứ Vui Như Mọi Ngày)

(Mt 5: 12/Rm 12: 15-18)

Nếu bạn và tôi ta lại tưởng rằng: người viết nhạc bản ở đây từng lấy ý/từ thi-ca của nữ sĩ họ Hồ nổi tiếng nọ, e không ổn. Nhưng, nếu lại bảo ý/lời đó cũng tương tự như lời khuyên của sách Diễm Ca ở Cựu Ước, thì xin bạn và xin tôi, ta tiếp tục bàn và luận mang đôi chút “phiếm lọan”, rồi dẫn người đọc vào với Lời vàng của thánh nhân hiền lành, thật cũng nên.

Nên hay không, vẫn cứ xin tôi và xin bạn, ta cứ mạnh dạn mà bàn/mà luận, kệ những lời ca nghe rất quen chỉ để khích lệ những người thấy cuộc đời mình khá buồn chán, chẳng thiết gì kể cả chuyện sống Đạo, hoặc chăm nom cuộc sống cho hạnh đạo, nhiều thú vị.

Với những vị thấy đời mình không còn hứng thú, chí ít là khi cận kề tuổi 7, 8 bó như bầy tôi đây thì có hát trăm ngàn câu như sau, cũng chẳng lay động được nỗi lòng “con quốc quốc” hoặc “cái gia gia”, làm gì cho cam:

“Hãy cứ vui chơi cuộc đời.
Dù ngày mai em như chim bay
Bỏ quên đây một người
Hát bên trời gian dối
dù ta như con đường dài vắng người
Hãy cứ vui chơi cuộc đời
Hãy cứ vui như mọi ngày
Bên trời còn nắng lá trời còn xanh
Phố còn người đông rồi quên rồi quên.”
(Trịnh Công Sơn – bđd)

Giả như người viết nhạc, nay còn sống, hẳn nhiều bạn bè quẩn quanh với cuộc sống như tôi hoặc ai đó, có lẽ cũng sẽ hỏi rằng: có nên hát theo anh, theo em những lời cuối, rất khích lệ một lập trường, như sau:

“Hãy cứ vui như mọi ngày
Dù chiều nay không ai qua đây
hỏi thăm tôi một lời
vẫn yên chờ đêm tới
Lòng ta trăm con hạc gầy vút bay
(Trịnh Công Sơn – bđd)

Dẫn nhập một lời có hơi “bốc” thế rồi, nay bần đạo lại sẽ xin bạn và xin tôi, ta đi vào vấn đề của nhà Đạo, mà cùng với một số các đấng bậc trong Đạo, cứ hỏi rằng: Đạo mình nay có Đấng Chủ Quản ở trên cao tít ấy cũng rất mới mẻ và năng nổ đã tạo được sức sống vui tươi, hấp dẫn cho thánh Hội không? Đã phóng khoáng hơn hay vẫn bảo thủ? Thì, đây là một trong những câu trả lời rất “tương đối”, như sau:

“Chắc chắn với thời gian chúng ta sẽ còn thấy những ưu tiên mới mà Giáo Hội sẽ đưa lên hàng đầu, nhưng về câu hỏi liệu Giáo Hội có thể ‘phóng khoáng’ hay ‘bảo thủ’ hơn thì câu trả lời chắc chắn là Không!

‘Phóng Khoáng’ (Liberal) và ‘Bảo Thủ’ (Conservative) là những ý niệm chính trị mà từ lâu đã không bao giờ phù hợp với quan điểm cuả Giáo Hội.

Tại Mỹ và Châu Âu thì khuynh hướng phóng khoáng có nghiã là ‘phá thai tự do’, ‘hôn nhân đồng tính’, là những hành động mà Giáo Hội chống. Tuy nhiên những chủ trương như ‘giúp đỡ lao động’ để tạo ra ‘công bằng xã hội’, giúp người di cư, ‘cải thiện y tế’ là những việc mà Giáo Hội cổ võ.

Trái lại khuynh hướng bảo thủ cũng có những điều thuận và nghịch với Giáo Hội. ‘Bảo vệ gia đình’, ‘phò sự sống’, ‘bảo vệ luân lý’ là những điều phù hợp với đạo lý cuả Giáo Hội, trái lại những chủ trương như ‘phò thương mại’, ‘chống nghiệp đoàn’, ‘chống di cư’, ‘khai thác thiên nhiên tự do’ là những điều ngược với Giáo Hội.

Vì thế mà chúng ta thấy Giáo Hội hầu như lúc nào cũng có một sự gì để than phiền về một chính quyền, dù là bảo thủ hay phóng khoáng. Thí dụ khi còn là Hồng Y, Đức Thánh Cha đã ‘đụng chạm’ khá nhiều với chính quyền bảo thủ Cristina Fernandez de Kirchner hiện tại cuả Argentina. Bên Brazil, Giáo Hội đang lên tiếng phản đối chính quyền phóng khoáng Dilma Rousseff vì những chính sách phá thai. Còn ở Mỹ thì Giáo Hội đang kiện ra toà chính quyền cuả Obama vì tội ‘hạn chế tự do tôn giáo’.

Cho nên, tuy Giáo Hội dạy phải tuân phục quyền bính dân sự, nhưng với tư cách là ‘thầy dạy luân lý’, Giáo Hội sẽ lên tiếng chống lại mọi sự ác khi nó xảy ra.

Vì không hiểu như vậy cho nên gần đây cả hai phe bảo thủ và phóng khoáng đã đồng thanh lên tiếng ca ngợi những lời tuyên bố cuả Đức Thánh Cha và tự cho là mình đã chiến thắng.” (x. Trần Mạnh Trác, Nguyên nhân những tranh cãi chung quanh các bài phỏng vấn của Đức Giáo Hoàng, www.Vietcatholic.org/News/Html/116521.htm  10/10/2013)

Hỏi chuyện về nhà Đạo, hôm nay, thì cũng chỉ dám hỏi như thế, chứ người hỏi có lẽ cũng đã biết trước câu trả lời sẽ như thế nào, rồi. Hỏi về chuyện Đạo hoặc chuyện đi Đạo và sống đích-thực đời đi Đạo, còn là hỏi giống như cha/cố nhà xứ hỏi “con chiên” như sau:

“Úi chà! Còn gì quý bằng thấy ông đây quay trở về với giáo xứ đi lễ nhà thờ rất đều đặn. Cho cha hỏi một câu hỏi nhỏ, để rút kinh nghiệm mục vụ, có được không?

-Cha cứ tự nhiên như con cái Chúa. Con đây, nay sẵn sà trả lời Cha thôi!

-Thế ông đi nhà thờ trở lại như thế này, có phải là do Cha giảng hay hơn trước rất nhiều, phải thế không?

-Dạ thú thật với cha, là: mỗi lần nghe cha giảng, con cứ phải ra bên ngoài nhà thờ phì phà điếu thuốc cho đỡ thèm, chứ có biết cha giảng hay dở thế nào đâu! Sở dĩ con đi nhà thờ trở lại là do mụ vợ nhà con nó cứ càm ràm hoài, chịu không nổi!” (x. The Catholic Weekly, Parish Pump, 25/8/2013 tr. )

Hỏi về chuyện Đạo, còn là hỏi cha/hỏi cố xem đời đi Đạo: sao dạo này ra như hơi nản, cũng chán ngán, như người giáo dân ở huyện nhà Sydney cũng đã có câu hỏi vào tháng ngày mà Giáo hội quen gọi là “Tháng Mân Côi” về việc lần chuỗi hạt Mân Côi, đâu có gì vui, như sau:

“Thưa cha. Mới đây bọn con cố tạo lại thói quen tốt lành do cha mẹ để lại, là: tập cho con cháu quen đọc kinh tối có lần chuỗi Mân Côi, ngõ hầu hưởng ơn lành Chúa Mẹ ban từ việc này, thì hai đưa con của con, một lên 13 còn đứa kia mới 11, lại cứ bảo: “Đọc kinh lần chuỗi hoài ngán quá mẹ ạ!” Con cố tìm đủ mọi cách mà chẳng sao thuyết phục được bọn con nhỏ ngồi im mà đọc kinh, cho tốt. Thế nên, con viết thư này hỏi xem Cha có cách nào giúp con giải thích cho con của con chhúng hiểu về chuỗi Mân Côi, tốt lành là dường nào? Con kính biết ơn Cha rất nhiều.” (Câu hỏi từ một giáo dân nữ ở Sydney bối rối quá quên đề tên)

Ở đây nữa, khi đã hỏi cha/hỏi cố về chuyện Đạo rồi, thì cha/cố nào mà chẳng tìm cách trả lời/trả vốn để người hỏi được yên tâm. Và hôm nay, câu trả lời (mà không trả vốn) của vị cha/cố ở Sydney, vẫn như sau:

“Kinh nghiệm ở đời cho ta biết: trẻ con, đứa nào cũng nói như nhau khi chúng không muốn làm điều gì do người người lớn áp đặt, chỉ bảo. Thế nên, câu cửa miệng chúng vẫn bảo, là: “chán lắm cơ, mẹ ạ!” Biết bao lần dân con Đạo mình vẫn thường nghe câu cửa miệng của nhiều giáo hữu ở mọi nơi/mọi thời, rằng: Thánh lễ Misa, Đàng Thánh Giá và cả đến chuyện đi thăm ông/bà nội/ngoại hoặc bà con thân thuộc cao tuổi, đều là những việc cũng rất chán!

Rất nhiều chuyện, ta đều nói được như thế. Nhưng trước tiên, không nên và không thể coi Chuỗi Mân Côi, thánh lễ Misa hoặc thăm viếng người già.. là hình thái mang nặng tính cách giải trí, giải khuây được. Bởi các sinh hoạt hoặc sự việc này, chẳng bao giờ mang ý-nghĩa như thế cả. Giả như, ta có đi đến nơi này/chốn nọ để giải khuây đi nữa, thì cũng không thể nói ngay ra rằng: mình thấy nơi ấy, chốn nọ rất ngán ngẫm. Thế nhưng, nếu ta làm việc gì cốt giúp vui người nào hoặc làm việc gì rất có nghĩa hoặc ý tốt, thì cũng chẳng có gì khác biệt nếu đó là chuyện rất chán, nhưng ta lại vẫn làm.

Thế nên, đi thăm người thân thuộc nào mà cho dù mình thấy chán ngán, tức: chỉ muốn chứng tỏ cho họ thấy tình mình thương yêu; và khi ta chọn chủ đề nào đó ở trường học mà không thấy có gì thích thú, nhưng rất cần thiết cho toàn bộ công cuộc giáo dục khiến để ta nên người. Hoặc, công việc rửa chén/bát sau khi ăn và/hoặc ra sân sau làm vườn để vui lòng mẹ/cha là những đấng/những vị từng làm cho mình quá nhiều thứ dù mình không vui thú gì cho cam, nhưng vẫn làm. Cũng thế, trong tương quan mật-thiết với Chúa, ta vẫn làm những việc như đi nhà thờ dự lễ và lần chuỗi Mân Côi đọc kinh dài giờ, không phải để làm cho mình được vui, mà để chứng tỏ rằng: ta cảm kích những điều lành thánh Chúa ban cho ngõ hầu lớn lên trong tình thương yêu của Ngài.

Với chuỗi Mân Côi, chính Đức Mẹ đã yêu cầu/cổ võ ta thường xuyên lẫn chuỗi hạt. Vào lần hiện ra ở Lộ Đức năm 1858, chính Mẹ đã hiện ra với thánh nữ Bernadette trong tay Mẹ có tràng chuỗi và Mẹ đã cùng đọc kinh với thánh-nữ Bernadette ngay khi đó. Ở Fatima năm 1918, vào lần hiện ra đầu tiên ngày 13/5, tay Mẹ cũng cầm tràng hạt và bảo ba vị thánh trẻ hãy năng lần hạt Mân Côi, mỗi ngày. Lần sau, vào tháng 7 năm ấy, Mẹ cũng yêu cầu ba thánh trẻ hãy siêng năng lần chuỗi hạt Mân Côi để cầu nguyện cho hoà bình thế-giới và cho chiến tranh mau chấm dứt. Lần cuối cùng vào ngày 13 tháng Mười năm đó, Mẹ đã làm phép lạ cả thể về mặt trời quay, và cũng chính Mẹ cho biết Mẹ là “Mẹ Mân Côi” và Mẹ còn cho các thánh trẻ thấy ba tấm bảng/thị kiến diễn bày 3 mầu nhiệm “năm sự vui”, “năm sự thương” và “năm sự mừng” ở tràng hạt Mân Côi. Giả như ta chỉ thực thi điều Mẹ dạy để làm vui lòng Người Mẹ trên trời, là Đấng yêu thương ta hết mình và dạy ta làm thế, hẳn là ta vẫn làm thế dù cho việc ấy có chán ngán hay không.

Thế nhưng, lần chuỗi Mân Côi không chỉ làm Mẹ vui lòng mà thôi, nhưng ta còn hưởng được nhiều điều tốt lành do việc ấy đem đến. Trong lúc lẫn chuỗi, nếu ta suy gẫm các mầu nhiệm gợi ý trong đó, ta sẽ hiểu biết Đức Mẹ và Chúa của ta nhiều hơn. Nói cho cùng, thì các mầu nhiệm trong chuỗi Mân Côi để xét đến các sự kiện chính xảy ra trong đời của Chúa, từ lúc Mẹ cưu mang Chúa nơi cung lòng thánh thiện của Mẹ, rồi ngang qua thuở thiếu thời và cuộc đời công khai của Chúa ngang qua việc chịu khổ nhục, hành hạ cho đến chết và rồi Ngài lại đã phục sinh rất quang vinh vui hưởng vinh quang của Ngài cùng với Mẹ Ngài, và là Mẹ của ta.

Chính vì lý do như thế, mà toà thánh La Mã đã có Chỉ dẫn cho các Đức Giám Mục thực thi công cuộc mục vụ qua tông thư “Ecclesiae imago”, trong đó có nói: các Đức Giáo Hoàng đều khuyến khích con dân trong đạo hãy đọc kinh lần Chuỗi Mân Côi không ngừng nghỉ, là vì đó là bản tóm lược trọn vẹn Kinh thánh và đó còn là khuôn mẫu của việc sùng kính vẫn được Hội thánh khuyến khích mà các thánh của ta vẫn thực hiện.

Và, khi đã suy gẫm các mầu nhiệm mà chuỗi Mân Côi chuyển tại, ta sẽ không còn thấy đó là chuyện đáng chán. Trái lại, ta còn thấy việc này khá ngắn ngủi vì chỉ mất độ dăm ba phút để nghiệm suy một mầu nhiệm súc tích là thế. Nhằm biến cho việc suy gẫm này dễ thực hiện hơn, cũng nên tập trung suy-tư về khía cạnh nào đó của mầu nhiệm, coi đó như một nhân đức, bí tích, như chân lý hoặc lòng sùng kính từ đó ta có được.

Khi cùng đọc với con cái trong nhà, cũng nên yêu cầu các cháu xướng kinh và bắt đầu mầu nhiệm trước rồi đề nghị cả nhà sẽ quyết tâm thực thi mầu nhiệm nào đó thành hiện thực. Chẳng hạn như các cháu đề nghị: cả nhà đọc chục kinh này là để cầu nguyện cho hoà bình diễn ra ở Syria chẳng hạn, hoặc cho các trẻ em bị thất lạc vì chiến tranh, các trẻ mồ côi, đau yếu hoặc cho bà con thân thuộc vừa mới qua đời chẳng hạn có như thế các cháu mới thấy có chất xúc tác trong nguyện cầu, đọc kinh vì hiểu nhiều hơn, rõ hơn.

Cuối cùng, ai cũng thế, khi đã yêu thương người nào rồi, sẽ chẳng bao giờ thấy chán/ngán nói đi nói lại mãi chỉ một câu Anh yêu em/ Em yêu anh nhiều lắm. Nói nhiều như thế, cũng đâu bao giờ thấy chán, đâu nhỉ. Cũng thế, khi ta đã suy gẫm về cuộc đời rất đỗi yêu thương của Chúa và Đức Mẹ rồi, chắc chắn sẽ chẳng bao giờ thấy chán ngán hoặc buồn rầu hết. Cuối cùng, vấn đề chỉ là quyết tâm của mỗi người, mà thôi.” (x. Lm John Flader, The Catholic Weekly 13/10/2013, tr. 10)

Trích dẫn ở đây, người người những dẫn và trích cốt để nói lên rằng: Đấng quyền thế ở trên cao từng mang lại nhiều hứng khởi nơi cuộc sống cho cả triệu triệu người trên thế giới như Đức Giáo Hoàng của ta là thế, mà khi đã chấp nhận tham gia cuộc phỏng vấn của báo chí, cũng bị mang tiếng là người tạo “tranh cãi” về cuộc sống của thánh hội, ở trần thế. Nói như thế, có ý bảo rằng: có đặt vấn đề, vấn nạn hay sao đó, vẫn cứ mời bạn và mời tôi, ta cứ hát mãi câu ca rất “đời”, rằng:

Hãy cứ vui như mọi ngày
Nhìn người đi như mây vô danh
Dù chân xưa dặm nghìn
Vẫn như còn thấp thoáng
Dù trong ta đêm thì thầm tiếng buồn.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Hát rồi hoặc nghe rồi, hãy nhớ lời Đấng Thánh Hiền từng khuyên dân con mọi người ở mọi nơi, rằng:

“Anh em hãy vui mừng hớn hở,

vì phần thưởng dành cho anh em

ở trên trời thật lớn lao.”

(Mt 5: 12)

Và thêm một câu khác, cũng từ “vị thánh của mọi thời” rất muốn vui, rằng:

“Hãy vui với người vui, khóc với người khóc.

Hãy đồng tâm nhất trí với nhau,

đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn.

Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được,

để sống hoà thuận với mọi người.”

(Rm 12: 15-18)

Xem thế thì, hỡi bạn và hỡi tôi, ta chỉ có thể sống mà hát thêm, rằng: Hãy cứ vui như mọi ngày, nhìn người đi như mây vô danh.” Vô danh, hoặc có tên và có tuổi, vẫn là người anh, người chị của tôi/của bạn trong thánh Hội và xã hội, vẫn rất vui.

Xem thế thì, chân lý cuộc đời rõ ràng còn đó lời nhủ: “Hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.” Lớn lao, to tát hơn nhiều niềm vui của người đời chỉ lo ăn chơi. Niềm vui đây, còn được diễn tả bằng văn/thơ truyện kể không theo kiểu của nữ sĩ họ Hồ rất mang tiếng, mà là lối kể cũng rất vui rất tâm tình khi kể về “cái chết” mà người người rất chán/ngán:

“Ông Tư bị ung thư và biết chắc không thể sống lâu hơn sáu tháng. Ông bình tĩnh chờ cái chết, và vui vẻ sống những ngày ngắn ngủi còn lại, mà không bi ai, không sợ hãi. Ông muốn sau khi chết, gia đình làm đám tang theo ý riêng của ông.

Nếu có ai biết ông Tư đang cận kề cái chết mà ái ngại cho ông, thì ông cười vui mà an ủi họ – chứ không phải là họ an ủi ông – rằng, nếu tin theo đạo Chúa, thì khi chết được về thiên đàng, ngồi dưới chân Chúa, sung sướng thế sao mà ai cũng sợ chết?

Nếu theo đạo Phật, thì khi chết cũng sẽ về Tây Phương Cực Lạc, vĩnh cửu an bình, thì mừng vui chứ sao lại bi ai? Và nếu nói theo đức Đạt Lai Lạt Ma, thì cái xác thân ở trần gian, có thể ví như bộ áo quần ta mang, khi nó đã sờn cũ, xấu xí, rách rưới mục nát rồi, thì nên bỏ đi, mà mang bộ áo quần khác, đại ý nói đi đầu thai kiếp khác, mang thân xác mới hơn.

Ông Tư nói với bạn rằng, thân xác ông bây giờ như cái quần đã mục mông, rách đáy, không còn che được cái muốn che, thì phải bỏ đi, không xài nữa là hơn.

Bởi vậy, ông bình tĩnh đón chờ cái chết cận kề. Khi biết ông bị ung thư sắp chết, thì phút đầu tiên, ông lặng người đi. Nhưng rất mau sau đó, ông nghĩ ra rằng bây giờ chỉ còn hai con đường để lựa chọn.

Một là rầu rĩ bi ai, than thân trách phận, oán thán trời đất, làm cho những ngày ngắn ngủi còn lại trở thành u ám, khổ sở, muộn phiền. Hai là bình tĩnh chấp nhận điều không thể tránh được với thái độ tích cực, lạc quan, vui vẻ. Làm cho những ngày còn lại thành tươi vui, tốt đẹp và ý nghĩa hơn. Khi ra đi sẽ không có chút tiếc thương vướng bận.

Ông chọn con đường sau, nên không buồn bã, không hoang mang, không bi ai. Ông thấy cuộc đời bỗng đáng yêu hơn, đẹp hơn. Ông mở lòng vui vẻ đón nhận từng thời khắc, từng ngày còn lại.

Mỗi sáng dậy, ông ca hát nhạc vui, và nói chuyện khôi hài cùng vợ con. Ông cố làm đẹp lòng mọi người, vì ông nghĩ rằng, sau khi nhắm mắt nằm xuống, thì dù có muốn tử tế với những người thân thương, cũng không còn làm được nữa.

Ông Tư dặn thêm vợ rằng đừng đăng báo, không đăng cáo phó gì cả. Đừng làm rộn, bận trí bà con gần xa, buộc họ phải thăm viếng. Không nên để phiền ai phúng điếu chia buồn. Ông đưa tờ báo cho bà, và nói:


Em nhìn vào mấy cái cáo phó nầy đây, đọc thấy buồn cười : Chúng tôi đau đớn báo tin cho thân bằng quyến thuộc: Ông Nguyễn Văn Mỗ đã được Chúa gọi về vào ngày , tháng, năm, hưởng thọ 82 tuổi… Được Chúa gọi thì phải vui mừng, sung sướng, chứ sao lại đau đớn báo tin ? Về với Chúa là khổ lắm sao? Có đi tù cải tạo đâu mà đau buồn?…”

Và, ông Tư dặn vợ con khi ông chết chỉ nên đưa bài thơ “Khi tôi chết” thay cho cáo phó. Thơ rằng:

Nếu làm biếng, cứ nằm nhà thoải mái
Viếng thăm chi, vài phút có thêm gì ?
Mắt đã nhắm. Lạnh thân. Da bầm tái .
Dẫu bôi son, trát phấn cũng thâm chì.

Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó,
Ai thay da mãi mãi sống trăm đời .
Kẻ trước người sau, xếp hàng xuống mộ
Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi.

Nếu có khóc, khóc cho người còn lại,
Bởi từ nay thiếu vắng nỗi đầy vơi .
Cũng mất mát, dáng hình, lời thân ái
Tựa nương nhau, hụt hẫng giữa đất trời.

Đừng đăng báo, phân ưu lời cáo phó
Chuyện thường tình, phí giấy có ích chi ?
Gởi mua gạo, giúp người nghèo đói khó
Dịu đau buồn những kiếp sống hàn vi,

Trỗi nhạc vui cho người người ý thức,
Cuộc nhân sinh sống chết cũng tương đồng,
Khi nằm xuống, xuôi tay và nhắm mắt
Thì đau buồn hạnh phúc cũng hư không.

Đừng xây mộ, khắc bia ghi tên tuổi
Vài trăm năm hoang vắng, chẳng ai hoài .
Vũ trụ vô cùng, thời gian tiếp nối,
Tỉ tỉ người đã chết tự sơ khai.

Khi tôi chết đừng ma chay đình đám,
Hỏa thiêu tàn, tro xác gởi về quê
Dẫu bốn biển, cũng là nhà, bầu bạn
Trong tôi còn tha thiết chút tình mê.

Thì cũng C, H, O, N kết lại,
Nắm tro xương hài cốt khác nhau gì,
Nhưng đất mẹ chan hòa niềm thân ái,
Cho tôi về, dù cát bụi vô tri.

Đọc xong bài thơ, có người thì mỉm cười, có người vui hản, và nói chuyện oang oang. Họ cho rằng bài thơ đã nói hết ý nguyện của người chết. Người chết không muốn bạn bè buồn rầu, thương tiếc, thì việc chi mà lại làm bộ, gượng gạo tạo ra nét buồn khổ trên mặt.

Vợ con người chết cũng không tỏ vẻ buồn rầu, mà cũng không hớn hở. Không một tiếng khóc lóc, thở than. Nhạc vui vẫn dồn dập phát ra từ máy vang dội. Khi khách đã đến chật nhà, và đúng giờ cử hành tang lễ, bà vợ ông Tư và đứa con trai mang áo quần trắng đứng chắp tay bên bàn thờ, cô con gái đứng bên tấm ảnh ông, cầm máy vi âm nhoẻn miệng cười và nói :

-Thưa các cụ, cô bác chú dì, bà con bạn bè thân thiết xa gần, chúng tôi xin cám ơn quý vị đã có lòng đến viếng tang Ba chúng tôi. Tang lễ nầy làm theo ý nguyện của người quá cố. Không làm tang lễ theo tục lệ bình thường, vì sợ trái với ước vọng cuối cùng của Ba chúng tôi. Chúng tôi xin nhận lấy mọi lời trách móc nếu có từ bà con bạn bè.

Ba chúng tôi đã bình tĩnh và vui vẻ đón cái chết như một sự trở về không tránh được. Trong những ngày cuối của cuộc đời, Ba chúng tôi rất vui, chuẩn bị kỹ cho gia đình và cho chính ông. Ông đã dặn dò chúng tôi, không nên khóc lóc, không nên buồn rầu, vì sự thực không có chi đáng buồn cả. Ông dặn chúng tôi vặn cuốn băng sau đây cho bà con cô bác nghe.

Đọc thơ văn/cáo phó của “Ông Tư” ở trên, hẳn người đọc cũng thấm thía cuộc đời chỉ là thế, có mỗi thế. Mỗi thế thôi, nhưng hãy cứ vui lên nếu ta nhận ra rằng: mọi chuyện ở đời, cần nhất là vui!”. Bởi có vui, ta mới có thể sống và thực hiện mọi nguyện ước, kể cả ước nguyện làm dân con Đức Chúa Trời. ở mọi thời.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn muốn vui chơi cuộc đời

nay hết thời.

NỢ LÀ MỘT QUÀ TẶNG

 

NỢ LÀ MỘT QUÀ TẶNG

Khi nói tới từ ‘Nợ’, có lẽ, ta vẫn nghĩ tới những món nợ: nợ ngân hàng bao nhiêu tiền, nợ gia đình này gia đình kia bao nhiêu ký thóc-ký gạo, nợ mấy ngày công mấy tháng lương, nợ người này người kia mấy cây vàng… Và có nợ thì phải lo để trả; trả không xong thì đâm lo lắng, buồn phiền, có khi mất ăn mất ngủ, thậm chí còn chạy để “trốn nợ”.  Như vậy, nợ ở đây như là một “gánh nặng” đè trên vai con người.

Đã gánh thì nặng là điều chắc chắn rồi!  Và khi trả được nợ ta như trút được một gánh nặng trên vai! Nhưng cái nợ cứ muốn kết bạn với ta; khổ nỗi ta thì chẳng muốn chút nào!  “Chả nhẽ” suốt cuộc đời này ta phải mang trên vai một “người bạn” mà ta chẳng hề quý, chẳng hề thích sao?  Giả như ta có “quẳng gánh nặng đi để vui sống” thì ta có thực sự vui, thực sự hết gánh nặng không?  Và lúc ấy ta là ai?  Ta không phải là một người trốn nợ sao?  Nếu vậy từ “trách nhiệm” trong cuộc đời còn ý nghĩa gì?

Nếu nợ là một gánh nặng, ngày sống của ta sẽ rất nặng nề, với hàng khối công việc, với những mệt mỏi về thể xác, với những người tôi chẳng hề muốn gặp nhưng vẫn cứ phải đối diện hàng ngày, với những “món quà” dù không muốn cũng phải nhận…

Thế nhưng, dù nợ có là gánh nặng nó cũng giúp ta biết sống trách nhiệm với cuộc đời: trách nhiệm với những điều ta đã làm, tức vay thì phải trả!  Ấy vậy, nếu chỉ dừng lại ở mức độ trách nhiệm với cuộc đời tức phải lo mà trả nợ thôi thì cuộc đời vẫn luôn là một gánh buồn phiền đung đưa trĩu nặng trên vai.

Cuộc đời sẽ bớt nặng, tươi vui và rực nắng hơn khi ta sống tâm tình ‘Nợ là một quà tặng’: Nợ một ánh mắt, một nụ cười; nợ một cái bắt tay, một lòng cảm thông,… nợ bạn bè, cha mẹ, người thân trong những lúc nâng đỡ sẻ chia vui buồn… nợ cái hơi ấm tuổi còn trong nôi…  Có khi là nợ một lời nói nhẹ nhàng, dễ thương và ngọt ngào của một ai đó…  Quả thực, cuộc sống luôn cho ta những món nợ như là những quà tặng.  Nếu ngày nào ta cũng sống với tâm tình “nợ” như là một món quà, là một sự trao tặng ta nhận được từ người yêu thương, chắc hẳn cuộc đời của ta thật đẹp, thật đáng quý và thật nhẹ nhàng!

Ấy vậy mà đi qua một con đường hoa đẹp, chiêm ngắm cảnh bình minh hay hoàng hôn, ngửi mùi hương nhè nhẹ của những cánh hoa vừa mới nở buổi sớm, tản mạn với nhau những câu chuyện đầu năm… có khi nào ta nghĩ mình đang nợ một ai đó ngoài tiền bạc không nhỉ?  Hay có khi nào ta nghĩ mình “nợ cuộc đời từng tia nắng mai” như nhạc sĩ Nguyễn Nhất Huy đã đặt tâm tình “nợ” của ông trên giai điệu bài hát “Vẫn nợ cuộc đời” không?

Vì cuộc đời “có những khi ước mơ chưa đầy mà đã vội vơi đi rồi”, nên nợ không chỉ cho ta thấy trách nhiệm nhưng còn là biết ơn cuộc đời! “Cảm ơn đời mỗi sáng mai thức dậy, ta có thêm một ngày nữa để yêu thương”; và “nếu còn một ngày để sống” tôi sẽ chọn một ngày sống với tâm tình biết ơn đời, “đời cho ta” biết bao điều cao đẹp!  Biết đâu chính khi ta biết ơn đời, ta sẽ có được một thái độ ngạc nhiên.  Ngạc nhiên để khám phá quà tặng cuộc đời.  Ngạc nhiên thấy “nợ” cho ta “liên hệ” gắn bó với cuộc đời, gần gũi với tha nhân!

Nắng Sớm