Đáp án Nước Trời

Đáp án Nước Trời

TRẦM THIÊN THU

VRNs (25.3.2014) – Sài Gòn – Phàm điều gì hoặc cái gì được biết rõ thì người ta mới mơ ước, khao khát. Thế nhưng không ai biết gì về Nước Trời, vậy mà ai cũng mơ ước cháy lòng. Lạ thật!

Chỉ có ba môn đệ được “nếm thử” hạnh phúc Nước Trời khi Chúa Giêsu cho họ thấy Ngài biến hình, rồi đàm đạo với ông Mô-sê và ông Ê-li-a (Mt 17: 1-8; Mc 9:2-8; Lc 9:28-36), và một vài vị thánh cũng được thị kiến về Thiên Đàng. Còn chúng ta hoàn toàn mù tịt.

Kinh thánh giúp chúng ta nhận biết Nước Trời.

Trên Nước Trời, chúng ta có kết hôn?

Minh họa. Ảnh goole

Minh họa. Ảnh goole

Chúa Giêsu nói: “Trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời” (Mt 22:30). Mối liên kết hôn nhân là “hình bóng” của Chúa Giêsu và Giáo hội lữ hành. Trên trời không còn hôn nhân như phàm nhân nữa.

Trên Nước Trời, chúng ta có thân xác?

Thánh Phaolô nói: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3:20-21).

Trên Nước Trời, có âm nhạc?

Có loại âm nhạc khác, không giống như nhạc thế gian. Kinh thánh có những chỗ nói tới âm nhạc. Khi Chúa Giêsu giáng sinh, các thiên thần đồng ca: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14). Sách Khải Huyền cũng cho biết rằng người ta đồng ca “Bài Ca Mới” (x. Kh 5:9-13).

Trên Nước Trời, chúng ta có nhận biết thân nhân và bạn bè?

Khi lập Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu nói: “Từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy” (Mt 26:29). Những người đã chết từ lâu mà các môn đệ vẫn có thể “nhận diện” là Mô-sê và Ê-li-a cùng đàm đạo với Chúa Giêsu (Mt 17:3).

Trên Nước Trời, điều gì sẽ xảy ra?

Kinh thánh nói: “Họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn. Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa” (Kh 7:15-16).

Trên Nước Trời, chúng ta có giới tính?

Chúa Giêsu đã quả quyết rằng mọi người “như thiên thần” (Mt 22:30; Mc 12:25). Chắc chắn có sự biến đổi tâm linh để nên giống hình ảnh Thiên Chúa hoàn toàn, không còn ngoại hình như phàm nhân, tức là không còn giới tính.

Trên Nước Trời, chúng ta có nhìn thấy Thiên Chúa?

Chắc chắn là CÓ! Nhưng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê: “Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống” (Xh 33:20). Thánh Phaolô khao khát: “Chúng tôi luôn mạnh dạn, và điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” (2 Cr 5:8). Trong Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giêsu đã nói: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5:8).

Trên Nước Trời, chúng ta sống thế nào?

Thánh Phaolô nói: “Công việc của mỗi người sẽ được phơi bày ra ánh sáng” (1 Cr 3:13).

Trên Nước Trời, có các động vật?

Từ tạo thiên lập địa, Thiên Chúa đã có mục đích cho mọi loài. Kinh thánh không trực tiếp đề cập sự sống đời sau, nhưng ngôn sứ I-sai-a mô tả: “Sói với chiên con sẽ cùng nhau ăn cỏ, sư tử cũng ăn rơm như bò, còn rắn sẽ lấy bụi đất làm lương thực. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá” (Is 65:25). Rõ ràng không còn nguy hiểm. Điều đó ngụ ý nói sự bình an trong Nước Trời và mọi loài vui mừng.

Nước Trời như thế nào?

Thánh Phaolô nói: “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người” (1 Cr 2:9). Sách Khải Huyền cho chúng ta một cái nhìn: “Đấng ngự đó trông giống như ngọc thạch và xích não. Chung quanh ngai có cầu vồng trông giống như bích ngọc. Chung quanh ngai có hai mươi bốn ngai khác, và trên những ngai đó có hai mươi bốn vị Kỳ Mục; các vị đang ngồi, mình mặc áo trắng, đầu đội triều thiên vàng. Từ ngai phát ra ánh chớp, tiếng sấm tiếng sét. Bảy ngọn đuốc, tức là bảy thần khí của Thiên Chúa cháy sáng trước ngai. Trước ngai có cái gì như biển trong vắt tựa pha lê. Ở giữa ngai và chung quanh ngai có bốn Con Vật, đằng trước và đằng sau đầy những mắt. Con Vật thứ nhất giống như sư tử, Con Vật thứ hai giống như bò tơ, Con Vật thứ ba có mặt như mặt người, Con Vật thứ bốn giống như đại bàng đang bay. Bốn Con Vật ấy, mỗi con có sáu cánh, chung quanh và bên trong đầy những mắt. Ngày đêm chúng không ngừng hô lên rằng: Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa, Thiên Chúa toàn năng, Đấng đã có, hiện có và đang đến!” (Kh 4:3-8). Khắp nơi là sự hiện diện và vẻ đẹp chói ngời của Thiên Chúa (x. Kh 21:23). Nước Trời được ví như Thành Giêrusalem Mới (Kh 3:12; Kh 21:2). Kinh Lạy Cha cho chúng ta biết rằng “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, đó là “thiết kế” của Nước Trời.

Trên Nước Trời, chúng ta sẽ làm gì?

Thánh Gioan nghe từ phía ngai có tiếng hô to: “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21:3-4).

Trên Nước Trời, chúng ta có trở thành thiên thần?

Chúa Giêsu nói rằng chúng ta sẽ “như các thiên thần” (Mt 22:30; Mc 12:25). Còn Thánh Gioan cho biết: “Thiên thần bảo tôi: ‘Hãy viết: Hạnh phúc thay kẻ được mời đến dự tiệc cưới Con Chiên!’. Người lại bảo tôi: ‘Đó là những lời chân thật của chính Thiên Chúa’. Tôi phủ phục xuống dưới chân người mà thờ lạy, nhưng người nói: ‘Đừng, đừng! Tôi cũng là một tôi tớ như ông và như các anh em của ông, những người giữ lời chứng của Đức Giêsu. Hãy thờ lạy Thiên Chúa’. Lời chứng của Đức Giêsu, là thần khí linh hứng cho ngôn sứ” (Kh 19:9-10).

Nước Trời có cổng hoặc cửa?

Thị kiến của Thánh Gioan: “Thành hình vuông: chiều dài cũng bằng chiều rộng. Rồi người lấy cây sậy đo thành, được mười hai ngàn dặm: chiều dài, chiều rộng và chiều cao đều bằng nhau. Người đo tường thành được một trăm bốn mươi bốn thước, theo thước đo của loài người cũng là của vị thiên thần. Tường xây bằng ngọc thạch, thành thì bằng vàng y, giống như thủy tinh trong sáng. Nền móng tường thành được trang trí bằng mọi thứ đá quý. Nền móng thứ nhất bằng ngọc thạch, nền móng thứ hai bằng lam ngọc, nền móng thứ ba bằng lục ngọc, nền móng thứ tư bằng bích ngọc, nền móng thứ năm bằng mã não, nền móng thứ sáu bằng xích não, nền móng thứ bảy bằng kim châu, nền móng thứ tám bằng lục châu, nền móng thứ chín bằng hoàng ngọc, nền móng thứ mười bằng kim lục, nền móng thứ mười một bằng huỳnh ngọc, nền móng thứ mười hai bằng tử ngọc. Mười hai cửa là mười hai khối ngọc trai; mỗi cửa là một khối ngọc duy nhất. Quảng trường của thành bằng vàng y như thủy tinh trong suốt. Trong thành, tôi không thấy có Đền Thờ, vì Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành. Thành chẳng cần mặt trời mặt trăng chiếu sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa toả rạng, và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi. Các dân ngoại sẽ tiến bước theo ánh sáng của thành, và vua chúa trần gian đem kho tàng vinh quang tới đó. Ngày nọ qua ngày kia, cửa thành không bao giờ đóng, vì ở đấy sẽ chẳng có đêm. Thiên hạ sẽ đem tới đó kho tàng vinh quang và sự giàu sang của các dân ngoại. Tất cả những gì ô uế cũng như bất cứ ai làm điều ghê tởm và ăn gian nói dối, đều không được vào thành, mà chỉ có những người có tên ghi trong Sổ trường sinh của Con Chiên mới được vào” (Kh 21:16-27).

Nước Trời có đủ chỗ cho chúng ta?

Chúa Giêsu nói: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi” (Ga 14:1-4).

Trên Nước Trời, chúng ta có làm việc?

Sách Khải Huyền nói: “Sẽ không còn lời nguyền rủa nào nữa. Ngai của Thiên Chúa và của Con Chiên sẽ đặt trong thành, và các tôi tớ Người sẽ thờ phượng Người” (Kh 22:3). Những người tôi trung sẽ được “hưởng niềm vui của chủ” (Mt 25:23). Không còn cực nhọc, chỉ có vui hưởng phần thưởng.

Trên Nước Trời, có sự cai trị?

Ông Phi-la-tô muốn tha Chúa Giêsu nhưng sợ hơn đám dân nổi loạn.9 Ông trở vào dinh và nói với Chúa Giêsu: “Ông từ đâu mà đến?”. Nhưng Đức Giêsu không trả lời. Ông Phi-la-tô nói: “Ông không trả lời tôi ư? Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?”. Đức Giêsu đáp lại: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn” (Ga 19:11).

Trên Nước Trời, chúng ta cảm thấy thế nào?

Kinh thánh cho biết: “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14:17). Vương quốc của Thiên Chúa là sự công chính, hòa bình và vui mừng trong Chúa Thánh Thần. Các phẩm chất tốt lành đó đầy ắp trong “không khí” của Nước Trời.

Nước Trời có là nơi thật?

Thánh Phaolô nói: “Nhờ đức tin, ông Áp-ra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như tại một nơi đất khách, ông sống trong lều cũng như ông I-xa-ác và ông Gia-cóp là những người đồng thừa kế cũng một lời hứa, vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng. Nhờ đức tin, cả bà Xa-ra vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín. Vì thế, do một người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được” (Dt 11:8-12). Nước Trời là một nơi vô cùng tốt đẹp, một “vương quốc” và một “thành phố” do chính Thiên Chúa thiết kế. Nước Trời vượt ngoài sức chúng ta có thể tưởng tượng được những gì tuyệt vời nhất.

Nước Trời ở đâu?

Sau khi Chúa Giêsu sống lại, các môn đệ hỏi có phải lúc đó là lúc Chúa Giêsu khôi phục vương quốc Ít-ra-en không. Hoàn toàn không như các ông nghĩ. Chúa Giêsu đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7-8).

Nói xong, Ngài được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Ngài, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Ngài đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1:11-12). Kinh thánh nói về việc “được đưa lên”, vậy Nước Trời ở ngoài không gian và thời gian.

Chúng ta lên trời bằng cách nào?

Ông Tôma vốn “đa nghi” nên hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”. Chúa Giêsu đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người” (Ga 14:6-7).

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Beliefnet.com)

TRUYỀN TIN CHO ĐỨC MẸ!

TRUYỀN TIN CHO ĐỨC MẸ!

Đúng 9 tháng trước lễ Sinh nhật là lễ Truyền tin cho Đức Mẹ (25-3/25-12).

Truyền tin là biến cố hết sức quan trọng.  Nếu không có biến cố Truyền tin, thì cũng sẽ không có biến cố Sinh nhật, Phục sinh.

Hội Thánh mừng biến cố truyền tin bằng thánh lễ trọng thể, với phụng vụ phong phú.  Nhiều lời cầu nguyện.  Nhiều đoạn Thánh Kinh.  Nhiều bài giảng dạy.  Nhiều cuộc tĩnh tâm, hội thảo và thánh ca.
Những người con bé nhỏ của Đức Mẹ sẽ không bỏ qua lễ trọng này.  Họ mừng lễ với tất cả tấm lòng bé nhỏ.  Chia sẻ tấm lòng bé nhỏ của mình về Mẹ của mình cũng là một cách mừng lễ.  Dưới đây là một thứ chia sẻ.

Trong biến cố truyền tin, Đức Mẹ bỗng chốc trở nên khác thường.

1/ Mẹ là một tình yêu dâng hiến

Đức Tổng lãnh thiên thần Gabriel chào kính Đức Mẹ bằng một lời hết sức mới lạ: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà” (Lc 1, 28).

Thế nào là đầy ân sủng?  Và thế nào là Thiên Chúa ở cùng bà?  Thiết tưởng sẽ không sai, nếu có ai hiểu đầy ân sủng là đầy tình yêu của Chúa.  Nhất là khi lại thêm: Thiên Chúa ở cùng bà, mà “Thiên Chúa chính là tình yêu” (1 Ga 4, 8).

Tin vui đầu tiên, mà Đức Mẹ nhận được từ Đức Tổng Lãnh thiên thần là: Đức Mẹ được Chúa chia sẻ chính sự sống của Người là tình yêu của Người cho Đức Mẹ.

Tin đó không phải là lời chào chúc, mà chính là một chứng thực.  Thực Thiên Chúa tình yêu đang ở trong Đức Mẹ.  Thực Đức Mẹ đang được đón nhận một nguồn tình yêu lạ từ Thiên Chúa.

Đức Mẹ không những tin, mà còn cảm được mình đã thuộc về Chúa.  Tình yêu Chúa bao phủ Mẹ.  Tình yêu Chúa biến đổi Mẹ.  Mẹ trở nên một tình yêu từ Thiên Chúa tình yêu.

Tin ấy được cảm nhận như một cái nhìn mới, đem lại hạnh phúc ngập tràn.  Bên cạnh hạnh phúc sâu xa, cái nhìn mới ấy cũng cho Đức Mẹ hiểu những đặc tính của tình yêu Thiên Chúa.

Những gì mà thánh Phaolô sau này mô tả trong “Bài ca đức mến” chắc cũng đã được Chúa cho Đức Mẹ thấy một cách nào đó, ngay lúc Mẹ được trở nên một tình yêu tuyệt vời của Chúa.

“Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu… hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13, 4-7).

Đặc biệt, những dâng hiến đến cùng, mà sau này Chúa Giêsu sẽ thực hiện, chắc cũng được Chúa cho Đức Mẹ thấy trước.

Như vậy, tình yêu nơi Đức Mẹ trong biến cố truyền tin là một tình yêu dâng hiến.  Dâng hiến như Chúa Giêsu dâng hiến.  Vì mến Chúa Cha và vì thương nhân loại.

Nhận thức đó không làm cho Đức Mẹ tự hào chút nào.  Trái lại, nó đã làm cho Đức Mẹ nên khiêm nhường tự hạ.

2/ Đức Mẹ là một tình yêu khiêm hạ

Sự khiêm nhường của Đức Mẹ được diễn tả vắn tắt bằng câu trả lời: “Xin vâng, này tôi là nữ tỳ của Chúa” (Lc 1,38).

Lời “xin vâng” lúc đó của Đức Mẹ mở đường cho cả một cuộc đời đầy những từ bỏ.  Một phần nào đó, Đức Mẹ biết trước những đau đớn về các từ bỏ của Chúa Giêsu trên đường cứu độ.

Thánh Phaolô viết về Chúa Cứu Thế: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa.  Nhưng đã hoàn toàn từ bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế.  Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá” (Pl 2,6-8).

Tinh thần khiêm hạ đã luôn đi kèm tình yêu dâng hiến.  Nơi Chúa Giêsu là thế.  Nơi Đức Mẹ cũng vậy.

Sự khiêm nhường tự hạ làm đẹp cho việc dâng hiến.  Hơn thế nữa, nó còn có giá trị cứu chuộc các linh hồn.

Dâng hiến mà không khiêm nhường tự hạ có thể được người đời cho là việc anh hùng, nhưng không có thể được Chúa cho là việc đạo đức có giá trị cứu rỗi.

Nhìn ngắm tình yêu dâng hiến đầy khiêm nhường tự hạ nơi Đức Mẹ, những người con bé nhỏ của Đức Mẹ sẽ rất hân hoan vì những bé nhỏ thấp hèn của mình.

3/ Một tình yêu phục vụ

Ngay sau biến cố truyền tin, Đức Mẹ “đã vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa” (Lc 1,39).  Mục đích là để viếng thăm bà Êlisabét.  Cuộc viếng thăm này đã được Chúa dùng để thánh hoá thai nhi trong lòng bà Êlisabét.  Thai nhi đó chính là thánh Gioan Baotixita (x. Lc 1, 41-45).

Tình yêu Chúa trong Đức Mẹ đã thúc đẩy Đức Mẹ lên đường phục vụ.  Phục vụ kín đáo.  Phục vụ cá nhân.  Nhưng phục vụ đó đã được thực hiện trong tinh thần vâng theo thánh ý Chúa.  Đức Mẹ đã làm một việc bác ái với đúng những điều kiện của phục vụ.  Đó là làm đúng việc, cho đúng đối tượng, đúng lúc, đúng cách mà Chúa muốn.

Phục vụ như thế của Đức Mẹ sẽ được Đức Mẹ thực hiện suốt cuộc đời mình.

Qua việc phục vụ ấy, người ta nhìn thấy một tấm lòng bao la cao cả, và cảm nhận được một tình yêu nhưng không vô bờ.

*******************************************

Chúng ta hết lòng cảm tạ Chúa đã chọn Đức Mẹ để mạc khải tình yêu cứu độ.

Đức Mẹ là một bản tin ngọt ngào của Chúa.

Chúng ta vui mừng vì được là con Đức Mẹ.  Cho dù chúng ta rất thấp hèn, rất yếu đuối, nhưng chúng ta tin:  Đức Mẹ sẽ thương giúp chúng ta luôn biết đón nhận Thiên Chúa tình yêu.

Chúng ta hy vọng Đức Mẹ sẽ đồng hành với chúng ta mọi bước trên đường làm chứng cho Chúa giàu lòng thương xót.

Chúng ta sẽ ca ngợi Chúa đã thực hiện nơi Đức Mẹ lời Chúa phán xưa: “Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18, 14).

ĐGM JB Bùi Tuần

From: ThiênKim & Nguyễn Kim Bằng gởi

 

Đức Giáo Hoàng Francis đầu bảng 50 lãnh tụ vĩ đại thế giới

Đức Giáo Hoàng Francis đầu bảng 50 lãnh tụ vĩ đại thế giới
March 20, 2014

nguoi-viet.com


VATICAN CITY (NV)
Tạp chí Fortune hôm Thứ Năm liệt kê Ðức Giáo Hoàng Francis đứng đầu danh sách 50 lãnh tụ vĩ đại nhất thế giới, tuy nhiên theo TODAY.com, Tổng Thống Barack Obama nằm ngoài danh sách này.

Cựu Tổng Thống Bill Clinton đứng hạng năm trong danh sách qua hoạt động “hăng say và không ngừng nghỉ” cho nhiều mục tiêu.

Ðức Giáo Hoàng Francis, vừa được tạp chí Fortune xếp đầu bảng 50 lãnh tụ vĩ đại thế giới. (Hình: Franco Origlia/Getty Images)

Fortune cho biết qua một văn bản: “Tổng Thống Obama không bị loại khỏi danh sách 50 lãnh tụ vĩ đại trên thế giới.”

Tạp chí này thêm rằng, năm nay, ông Obama không đạt được địa vị của 50 cá nhân xuất chúng, chỉ vì ông không đủ tiêu chuẩn lọt vào danh sách này, dành cho những người từng chứng tỏ khả năng lãnh đạo hiếm hoi trong nhiều lãnh vực, hoặc từng chứng tỏ một quá trình lãnh đạo lâu dài.

Ðức Giáo Hoàng Francis được xếp hạng cao nhất qua phong cách vốn gây được sự chú ý và khâm phục chỉ mới trong một năm, hơn hẳn bất kỳ vị tiền nhiệm nào trong suốt nhiều thập niên.

Vừa đánh dấu một năm lên ngôi vị Giáo Hoàng, ngài đã góp tay giúp làm sạch vụ tai tiếng tiền bạc của ngân hàng Vatican, và quan tâm đến vụ lạm dụng tình dục trẻ em của giáo hội.

Ngài cũng tạo một phong thái nổi bật mới qua mẫu mực khiêm cung, theo Fortune, điều chỉ có nơi các lãnh tụ vĩ đại.

Vài tháng trước đây, tạp chí Time cũng xếp hạng Ðức Giáo Hoàng Francis là nhân vật nổi bật nhất trong năm. (TP)

Xin xem thêm:

Tạp chí Fortune: Đức Phanxicô là “Lãnh Tụ Vĩ Đại Nhất Thế Giới” (Vietcatholic.net)

 

Tuổi Rồng

Tuổi Rồng

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Tôi đề xuất: Hay các ông lập ra một trang mạng tạo cơ chế cho một diện hẹp nào đó được đọc, các ông quản lý để chúng tôi viết trình bày chính kiến của mình: Điều nào sai các ông phản bác, điều nào đúng để những người có trách nhiệm tiếp thu; chúng tôi cũng chỉ mong có thế, vì không có nơi vui vẻ tiếp nhận nên chúng tôi phải tung lên mạng, lên trời…

Phạm Viết Đào

Tết năm kia, năm con rồng, Marianne Brown (Guardian Weekly) có bài “Vietnam’s parents want a dragon son.” Thì cả Tầu lẫn ta ai mà không muốn có con trai tuổi thìn. Nhâm Thìn, tất nhiên, lại càng bảnh dữ nữa. Nam nhâm nữ qúi thì sang mà lị.

Theo tuviso.com: “Tuổi Nhâm Thìn có nhiều hy vọng tốt đẹp về vấn đề tình duyên và tương lai về cuộc sống, có phần tốt đẹp về tình cảm và tài lộc, vào trung vận và hậu vận thì được nhiều tốt đẹp về hạnh phúc, công danh có phần lên cao.”

Nói vậy nhưng chưa chắc đã đúng vậy đâu. Nhà văn Phạm Viết Đào, một người tuổi nhâm thìn nhưng  hậu vận (rõ ràng) có phần hơi lận đận chứ không được may mắn hay “tốt đẹp” gì cho lắm.

Thụy My (RFI) vào hôm 14 tháng 3 năm 2014 cho hay: “Ngày 19/03/2014 sắp tới, tòa án Hà Nội sẽ xét xử sơ thẩm ông Phạm Viết Đào, một blogger có nhiều bài viết chỉ trích chính quyền Việt Nam, bị bắt từ tháng Sáu năm ngoái vì tội danh ‘lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân’ theo điều 258 Luật Hình sự Việt Nam.”

Uả, bộ thiệt vậy sao? Mà cái ông nhà văn này đã “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của tổ chức Nhà Nước” hay “công dân” nào vậy cà?

Phạm Viết Đào trong phiêm sơ thẩm – TTXVN

Tôi nhào vô trang http://phamvietdaonv.blogspot.com/ nhưng cửa đóng then cài (rồi) nên chạy qua bên Dân Luận thì quả nhiên thấy rằng đương sự đã nhiều lần “xâm phạm lợi ích của tổ chức doanh nghiệp Vinashin” và “tổ chức khai thác bauxite” ở  Tây Nguyên.”

Xin trích dẫn vài đoạn ngắn, làm bằng, về Vinashin:

Những người trực tiếp cầm lái con tàu Vinashin không phải là những nhà doanh nghiệp thực sự, nhà doanh nghiệp có căn cốt làm ăn; họ chỉ đám người biết lợi dụng sự trao quyền tự quyết quá to của Luật Doanh nghiệp, sự lơ ngơ hoặc cố tình ngậm miệng ăn tiền của khâu quản lý nhà nước để vận hành guồng máy sản kinh doanh theo kiểu cách làm ăn của dân con phe đầu cơ, chạy mánh dự án để bán kiếm lời…

Một chính phủ với những bộ được giao quản lý về đầu tư kinh doanh nhưng không biết kinh doanh như thế nào để ra hiệu quả, không biết đầu tư như thế nào là an toàn, không biết việc mình đang đem trứng gửi cho quạ nhưng lại tưởng mình là người đang đầu tư phát triển đất nước… Khi vụ việc đổ bể lại tìm cách đổ cho Luật, cho thời vận; khủng hoảng kinh tế thế giới ?

….

Đối với vụ Vinashin chỉ một cơn lốc của thị trường đã làm cho toàn bộ cơ đồ của tập đoàn này trở thành đống sắt vụn… Hiện nay, không chỉ một mình Vinashin mà rất nhiều doanh nghiệp trong khu vực doanh nghiệp nhà nước đang rơi vào tình cảnh này. Họ đang nắm một phần vốn nhà vay của nhà nước lớn gấp nhiều lấn vốn điều lệ mà họ có. Do chính sách đầu tư phiêu lưu này nên chỉ một cú hích nhẹ là lăn kềnh ra. Tức là họ tồn tại trên mồ hôi, xương máu của người khác?

Ơ, cái ông Phạm Viết Đào này hay nhỉ?  “Xương máu của người khác” thì việc gì đến mình mà lo lắng (cuống cuồng) lên như thế? Như thế là (rành rành) “đã xâm phạm đến quyền và lợi ích công dân” của những người chủ trương và điều hành Vinashin rồi, chớ còn gì nữa?

Tương tự, Đảng và Nhà Nước đã có chủ trương (lớn) về chuyện khai thác bauxite rồi mà Phạm Viết Đào vẫn cũng cứ nằng nặc bàn ra và bàn lùi cho bằng được –  chỉ vì e ngại sự mơ hồ của hiệu quả kinh tế, và tác động tai hại đến môi sinh:

Chỉ xin nói một điều hết sức đơn giản: về hiệu quả kinh tế, nhiều nhà kinh tế chứng minh Dự án khai thác bauxite Tây Nguyên không mang lại hiệu quả kinh tế; điều này đã được chứng minh cộng trừ về con số chứ không bằng các lập luận chung chung?

Xin lấy số liệu của Tập đoàn Than Khoáng sản do ông Đoàn Văn Kiển đã phát biểu: mỗi năm lãi 250 triệu USD; ông Kiếm cho biết 13 năm đầu đủ thu hồi vốn, sau đó bắt đầu có lãi với đời dự án là 40-50 năm. Cứ cho ông Đoàn Văn Kiển đúng đi thì dự án này sau 50 năm thu được bao nhiêu tiền: 10 đến 15 tỷ USD là cùng? Và như ông Đoàn Văn Kiển bộc bạch thì kết quả dự án này là 50/50, có nghĩa lợi nhuận trong năm mươi năm cũng chỉ được dăm, bảy tỷ là cùng theo cách tính của Ông Kiến, còn các nhà khoa học khác thì tính là âm?! Nếu theo tính toán của ông Kiên số tiền này có quá lớn không so với toàn bộ nền kinh tế Việt Nam để đem đi đánh đổi tất cả mọi thứ để làm cho bằng được? Còn nếu âm, xảy ra thảm hoạ môi trường, an ninh quốc gia thì ai chịu?

Và điều đáng trách (cũng như đáng tội) hơn hết là Phạm Viết Đào cũng đã (rất) nhiều lần lợi dụng các quyền tự do dân chủ để làm phương hại đến mối giao hảo giữa nước bạn láng giềng. Trên trang Dân Luận, đọc được vào hôm 7 tháng 1 năm 2010, đương sự công khai bầy tỏ mối nghi ngại trước thông điệp ngoại giao “tạm gác lại những tranh chấp” của Đại sứ Trung Quốc (Tôn Quốc Cường) tại Việt Nam:

Vấn đề ngoại giao mà Đại sứ quán Trung Quốc đề xuất hai bên cần gác lại đó là vấn đề Trung Quốc đang lấn chiếm nhiều vùng lãnh hải của Việt Nam trên biển Đông trong đó có Trường Sa và Hoàng Sa ? Gác lại khác gì thừa nhận và để yên cho Trung Quốc lấn chiếm biên giới lành hải của quốc gia mình?

Nếu cứ tin vào lời ông Đại sứ: Liệu ngư dân Quảng Ngãi thôi cất thuyền đi, khi nào hai bên đàm phán phân vùng biển xong rồi hãy ra khơi đánh cá. Trong khi đó thì tàu đánh cá Trung Quốc lại cứ ngang nhiên xâm phạm lãnh hải Việt Nam, hải quân Trung Quốc ra sức hiện đại hóa và thường xuyên tập trận, đe dọa…Ngư dân Việt Nam ra khơi chỗ nào cũng bị coi là xâm phạm lãnh hải Trung Quốc cá…

Thành ra Ngài Đại sứ đề nghị cứ gác lại, trong khi Trung Quốc lại không gác, cứ lấn lướt hết việc này đến việc khác, nói thế mà nghe lọt tai được ư? Có mà lừa trẻ con!

Phạm Viết Đào, rõ ràng, đi quá xa trong thân phận của một người dân ở một đất nước mà giới lãnh đạo (đã) cam phận chư hầu nên dù ông ấy tuổi con gì thì cũng phải vào tù thôi, kể cả con rồng! Nói như thế không nhất thiết là tôi hoàn toàn phủ nhận những điều may mắn và tốt đẹp dành của tuổi Nhâm Thìn. Vì ngoài năm sinh, tính tình của mỗi người cũng góp phần không nhỏ trong trung vận hay hậu vận của họ.

Xin đơn cử một thí dụ (để làm rõ câu chuyện) về một nhân vật khác, cũng tuổi Nhâm Thìn: ông Nguyễn Thế Thảo.

Theo Wikipedia:

Nguyễn Thế Thảo (1952-) là đương kim Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội, ủy viên Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIXII, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa khóa IX, XXI.

Dù là đại biểu quốc hội (hết khoá này qua khóa khác) ông Thảo vẫn chưa bao giờ có ý kiến ý cò gì ráo trọi về tổ chức kinh doanh Vinashin,  hay khai thác bauxite ở Tây Nguyên. Ông chỉ lên tiếng “phê phán hoạt động biểu tình chống Trung Quốc” và cho rằng “các thế lực thù địch và số cơ hội chính trị đã kích động người dân, nhất là số người đi khiếu kiện ở các địa phương biểu tình để gây áp lực với chính quyền phải giải quyết những khiếu nại, yêu sách” – theo như tin loan của BBC, nghe được vào hôm 13 tháng  năm 2012.

Ảnh: Dân Làm Báo

Về chuyện này, tôi có nghe ông Thái Bá Tân phàn nàn:

Khi nhà ông bị cướp.
Vợ con ông kêu lên,
Mà ông ngồi im lặng
Thì ông là thằng hèn.

Tôi không nghĩ Nguyễn Thế Thảo là một “thằng hèn.” Ông ta, chả qua, chỉ  là một người  “kín tiếng” thôi. Tuy “kín” như thế nhưng ông vẫn được mọi người nhắc đến sau vụ “cắt đá” và “múa đôi” (hôm 19 tháng 1 và 17 tháng 2) vừa qua, trước tượng đài Lý Thái Tổ ở Hà Nội – nơi mà ông đang giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố.

Khi mà dân Việt hễ cứ ra biển là gặo ngay “tầu lạ,” và cứ “ra ngõ là thấy người Trung Quốc” thì ông Nguyễn Thế Thảo (trong tương lai gần) còn có triển vọng giữ những chức vụ cao hơn nữa – nếu vẫn tiếp tục thái độ phù thịnh như hiện tại.

Và đó chỉ là chuyện của  “tương lai gần” thôi, chứ tình trạng Việt Nam (cũng như nước bạn Trung Hoa) đã muốn suy (và nguy) đến nơi rồi. Hậu vận của ông Nguyễn Thế Thảo, rồi ra, chắc cũng chả đã tốt lành gì.

Tuổi rồng, xem chừng, và nghĩ cho cùng, không khá – bất kẻ rồng ta hay rồng (chạy theo) Tầu.  Đó cũng là kinh nghiệm của riêng  tôi, một thằng cũng tuổi Thìn và đã sống (gần) hết đời như một kẻ tha phương cầu thực!

 

Quản lý theo kiểu “mất bò mới lo làm chuồng”

Quản lý theo kiểu “mất bò mới lo làm chuồng”

Vũ Hoàng, phóng viên RFA
2014-03-19

boi-song-305.jpg

Hình ảnh chụp từ video clip: cô giáo chui túi nilon vượt suối lũ đến trường.

Screen capture

Thiếu cơ sở vật chất căn bản

Video clip “cô giáo chui túi nilon vượt suối lũ đến trường” trên tờ Tuổi Trẻ và được các trang mạng phổ biến lại từ hôm 17/3 khiến nhiều người xem đều bày tỏ sự bức xúc, bàng hoàng… Nhưng đó chỉ là phần nổi của tảng băng trôi về tình trạng thiếu cơ sở vật chất căn bản tại nhiều vùng sâu, vùng xa của Việt Nam.

Hình ảnh trong video clip hơn 4 phút quay cảnh các cô giáo đứng bên bờ suối, nước xiết cuồn cuộn, sau đó, cả học sinh và cô giáo đều chui vào những bao nilon, lọt thỏm với miệng bao trùm kín đầu, được các thanh niên trai bản vừa bơi, vừa kéo qua con sông nước đục ngầu chảy mạnh.

Đó là những gì mà cô giáo Tòng Thị Minh, giáo viên mẫu giáo ghi lại bằng điện thoại di động tại đoạn suối giáp ranh giữa hai bản Lai Khoang và Sam Lang ở huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên, mới được đăng tải trên báo Tuổi Trẻ online.

Có lẽ hình ảnh những người cõng chữ lên non như cô Minh là chuyện “thường ở huyện” của những người vẫn ngày ngày đối mặt với tử thần, để mang kiến thức đến cho con trẻ và ngược lại, những đứa trẻ ngây thơ cũng vẫn xem đó là chuyện thật bình thường vì chúng không còn lựa chọn nào khác.

” Đây là một chuyện rất kỳ dị, có thể nói là chưa từng có ở đâu kể cả ở Việt Nam cũng như trên thế giới, người ta qua sông với một phương tiện chết người ngay tức khắc.
-PGS Văn Như Cương”

Song chuyện bình thường với những con người bình thường ấy lại là chuyện “không bình thường” đối với những nhà quản lý xã hội, ngành giáo dục và là chuyện thật kỳ dị “ở trên trời” đối với nhiều người. Bản thân bà Nguyễn Thị Khá, Ủy viên thường trực Ủy ban các Vấn đề xã hội của QH thốt lên rằng bà không hiểu vì sao ngành giáo dục đến bây giờ vẫn có cảnh như vậy, bởi các cô giáo ngồi trong túi nilon để qua suối là rất nguy hiểm đến tính mạng và độ rủi ro thì rất cao.

Chia sẻ với chúng tôi những suy nghĩ sau khi xem xong clip trên, PGS Văn Như Cương, hiệu trưởng Trường THPT Dân lập Lương Thế Vinh, Hà Nội không giấu diếm sự bất ngờ pha lẫn lòng khâm phục với những người dám liều mình vì sự nghiệp trồng người:

“Tôi cũng được xem video clip cô giáo và học sinh qua sông, đây là một chuyện rất kỳ dị, có thể nói là chưa từng có ở đâu kể cả ở Việt Nam cũng như trên thế giới, người ta qua sông với một phương tiện chết người ngay tức khắc hoặc là ngạt thở hay vướng vào cái que hoặc vật gì đó chọc thủng túi nilon ấy nước tràn vào. Bây giờ clip đưa lên mọi người mới biết! Rất đáng thương, rất đáng ngại, rất đáng khâm phục cả các cô giáo và học sinh đã liều chết để đi đến trường như thế.”

Những hình ảnh tương phản

Trong khi đó, GS TS Nguyễn Thế Hùng của trường Đại học Bách Khoa Đà Nẵng cũng với vai trò người thầy, ông đánh giá về sự việc “cô giáo chui túi nilon qua suối”:

“Tôi thấy đây là một tình trạng đáng buồn, xã hội đã sang thế kỷ 21 mà vẫn còn em học sinh và cô giáo chui vào bao nilon để mà có người đàn ông khỏe mạnh đưa qua sông thì đó là điều rất đáng buồn.”

boi-song-250.jpg

Cô giáo chui ra khỏi túi nilon sau khi vượt suối lũ.Screen capture.

GS TS Nguyễn Thế Hùng cho rằng hiện tượng trên không chỉ đáng buồn mà đó còn là lời cảnh báo về một sự lãng phí tràn lan trong xã hội, hình ảnh tương phản của những kẻ quan tham ăn trên ngồi chốc hưởng lợi hàng ngàn tỉ đồng với hình ảnh thiếu thốn dù chỉ một cây cầu tạm bợ, mà những đứa trẻ dám đánh đổi cả mạng sống của mình để được đến lớp học con chữ hàng ngày:

“Ở Việt Nam có biết bao công trình rất lãng phí từ sân bay bến cảng…Tôi chỉ nói nếu bây giờ bán đứt một cái sân bay hay một bến cảng thì có thể xây biết bao cái cầu như thế, hàng ngàn cái cầu khỉ cho các em đi học có phải tốt hơn không! Xây những công trình sân bay, bến cảng rồi tham nhũng khác như Vinashin, Vinalines những cái tầm bậy tầm bạ… thì có thể xây được hàng vạn cái cầu để con em đi học. Điều đó thể hiện một xã hội thối nát tham nhũng.

Lời chia sẻ đầy xót xa của GS TS Nguyễn Thế Hùng không phải là không có cơ sở khi lật giở từng trang báo, người ta không khỏi ngỡ ngàng khi những con số biết nói đang báo động một thực trạng bòn rút, bớt xén, đục khoét đang diễn ra như cơm bữa tại Việt Nam. “Dự án đường cao tốc Cầu Giẽ – Ninh Bình: Bớt xén đủ kiểu, đội kinh phí hơn 5.000 tỉ đồng”; “thanh tra Bộ Xây dựng xử lý trên 1.000 tỷ đồng sai phạm”; “Quan chức đốt 20.000 tỷ đồng ở cảng Kê Gà” hay “Hà Nội “ném” tiền tỷ vì những cây cầu: Quy hoạch bị “hỏng”…

” Bây giờ xã hội này tùy thuộc vào tầng lớp chóp bu, người dân thấp cổ bé họng làm sao có thể mà thay đổi những việc này được.
-GSTS Nguyễn Thế Hùng”

Chỉ lấy một thí dụ thật đơn giản, 1 tỉ đồng cho một cây cầu qua sông cho dân nghèo thì với những gì bị bòn rút, chia chác, tham nhũng có thể xây đến hàng ngàn, hàng vạn cây cầu… và từ đó, có thể cứu sinh mạng của biết bao những người vẫn ngày đêm giằng co giữa cái sống và cái chết chỉ vì mỗi tội… nghèo khó.

Phần nổi của tảng băng chìm “chui túi nilon qua suối” “đu dây qua sông” hay “ngồi thau nhựa đến trường” dường như mới chỉ là một nửa của câu chuyện, bởi theo PGS Văn Như Cương thì trách nhiệm của nhà quản lý mới là điều đáng phải bàn, ông cho rằng đừng để chuyện “mất bò mới lo làm chuồng”.

“Nó nói lên những điều hết sức quan liêu của những người làm việc cho Nhà nước, bởi vì dân ở đấy nói chuyện này rất bình thường, nhưng đối với những người làm việc thì phải thấy đó là những điều hết sức không bình thường. Ngay khi clip này đưa ra, bộ trưởng Đinh La Thăng quyết định xây ngay một cái cầu như thế, một cái cầu treo để vượt sông. Đó là điều hoan nghênh, nhưng cách quản lý như thế là “mất bò mới lo làm chuồng.”

Đứng về phía quản lý nhà nước thì không thể chấp nhận được bởi một cái cầu hay một phương tiện nào qua sông không phải là tốn kém gì nhiều so với tất cả những thứ mà Việt Nam đang làm là xây chùa chiền, làm lễ hội hàng năm có đến 8,000 lễ hội, tốn tiền bao nhiêu như thế, nhưng chỉ có mỗi việc như thế này lại không chú ý đến, thì đấy là điều khó chấp nhận.”

Vâng, điều mà PGS Văn Như Cương gọi là “khó chấp nhận” ấy vẫn đang là những gì được xã hội Việt Nam “chấp nhận,” người dân chấp nhận bởi họ biết những gì mình lên tiếng khó được lắng nghe, bởi họ chỉ là những thành phần “thấp cổ bé họng” và mọi việc đang tùy thuộc vào những thế lực đầy quyền uy đứng đằng sau nhiều quyết định ảnh hưởng đến vận mệnh đất nước, GSTS Nguyễn Thế Hùng tiếp lời:

“Bây giờ xã hội này tùy thuộc vào tầng lớp chóp bu, người dân thấp cổ bé họng làm sao có thể mà thay đổi những việc này được. Nhiều người cảm thấy xót xa như thế nhưng cuối cùng công việc cứ vẫn năm này qua năm khác, người dân không có quyền quyết định vận mệnh đất nước.”

Hẳn đến lúc những quyết định “ném tiền qua cửa sổ” hay tham ô, tham nhũng phải được triệt tiêu từ trong trứng nước, trước khi những đồng tiền mồ hôi nước mắt của người dân bị tiêu xài hoang phí, trở những bãi rác ngàn tỷ bên những ụ nổi, cầu cảng, sân bay… bỏ hoang, hay đơn giản là những tài sản đang chạy thẳng vào túi của những ông quan lớn với những bê bối liên tiếp chấn động trong suốt một thời gian dài.

Bill Gates đang rón rén bước vào Đạo Công Giáo

Bill Gates đang rón rén bước vào Đạo Công Giáo

Vũ Văn An

3/18/2014

Hemant Mehta vừa lần rở lại hành trình rón rén bước vào Đạo Công Giáo của người giầu thứ hai trên thế giới, chủ tịch Microsoft Bill Gates.

Trong cuộc phỏng vấn của PBS năm 1995, Bill Gates phát biểu rằng: “Tôi không phải là người đi nhà thờ thường xuyên. Các yếu tố chuyên biệt của Kitô Giáo không phải là những điểu khiến tôi tin nhiều. Trong các khía cạnh luân lý của tôn giáo, có rất nhiều giá trị. Tôi nghĩ giá trị này có thể có tác dụng hết sức, hết sức tích cực… Về phương diện hành sự, tôi chấp nhận cách tiếp cận có tính khoa học nhiều hơn đối với lý do tại sao sự việc đã xẩy ra và chúng xẩy ra cách nào. Tôi không biết liệu có thần minh hay không, nhưng tôi nghĩ các nguyên tắc tôn giáo đều rất có giá trị”.

Năm 1997, trong cuộc phỏng vấn của Time, Bill Gates tâm sự rằng: Melinda (vợ ông) là người Công Giáo, đi nhà thờ thường xuyên và muốn dưỡng dục Jennifer cách đó. “Nhưng nàng đề nghị với tôi một điều: nếu tôi chịu đi nhà thờ, gia đình tôi vốn theo giáo phái Congregationalist (Công Lý Hội), thì Jennifer có thể được dưỡng dục trong bất cứ tôn giáo nào tôi chọn”. Gates công nhận rằng ông bị lôi cuốn bởi đề nghị này vì ông thích con gái ông có một tôn giáo “ít thần học và mọi chuyện” hơn Đạo Công Giáo, nhưng ông đã không theo đề nghị ấy. Ông giải thích “Về phương diện dành tài nguyên thì giờ mà thôi, tôn giáo không hiệu năng bao nhiêu. Có nhiều điều tôi có thể thực hiện được hơn vào sáng Chúa Nhật”.

Năm 2010, bích chương của Liên Minh Sinh Viên Duy Tục Illini có đăng hình Bill Gates với những dòng chữ sau: Người giầu thứ hai trên thế giới đã hiến tặng hơn 26 tỷ cho bác ái. Bill Gates là người tốt mà không cần có Thiên Chúa (good without God). Bạn thì sao?

Năm 2014, trên tập san Rolling Stone, tức tập san gần đây có hình và bài về Đức Phanxicô trên trang bìa, Bill gates cho rằng “Tôi nghĩ: các hệ thống luân lý của tôn giáo đều siêu quan trọng. Chúng tôi từng dưỡng dục con cái mình theo cung cách tôn giáo; chúng vốn đi nhà thờ Công Giáo, nơi Melinda thường đi và tôi cũng tham gia. Tôi vốn may mắn và do đó đã hết sức cố gắng giảm thiểu các bất công trên thế giới. Và đó là một thứ tín ngưỡng tôn giáo. Tôi muốn nói, ít nhất đó cũng là niềm tin luân lý…

Tôi đồng ý với những người như Richard Dawkins (nhà vô thần nổi tiếng) rằng nhân loại cảm thấy nhu cầu phải có những huyền thoại về tạo dựng. Trước khi thực sự hiểu bệnh tật và thời tiết và những điều tương tự như thế, ta đi tìm các lối giải thích lầm lẫn về chúng. Bây giờ, khoa học đã giải thích đầy đủ một số lãnh vực này, không phải tất cả, những lãnh vực mà trước đây tôn giáo vẫn giải thích. Nhưng mầu nhiệm và vẻ đẹp của thế giới là điều cực kỳ lạ lùng, và hiện chưa có giải thích khoa học nào đối với việc chúng xẩy ra cách nào. Nói rằng chúng tình cờ phát sinh ra hình như, ông thấy đó, là một điều thiếu bác ái (cười). Tôi nghĩ rằng tin Thiên Chúa là điều có nghĩa, nhưng quyết định nào khác trong đời bạn cần đưa ra vì thế thì tôi không biết chính xác”.

Như thế… ở một thời điểm nào đó trong thập niên qua, xem ra Bill Gates đã tìm thấy tôn giáo. Có lẽ thế. Ông không thẳng thừng nhìn nhận mình tin Thiên Chúa hơn là điều ông vẫn cho là mình không tin Thiên Chúa.

Tuy nhiên, xem ra ta không thể bao gồm ông vào hàng ngũ vô tôn giáo được nữa.

Frank Weathers cũng cùng một nhận định như trên, căn cứ vào hai câu hỏi cuối cùng trong cuộc phỏng vấn của Rolling Stone, mà câu trả lời đã được Mehta thuật lại trên đây. Weathers tin rằng nơi Bill Gates đang có sự thay đổi về quan điểm tôn giáo, một cách huyền nhiệm nhờ công trình của Chúa Thánh Thần. Nghĩa là không do thời khóa biểu của bất cứ ai mà là của Thiên Chúa.

Dĩ nhiên ta không quên sự kiện này ông bà Gates đang có những ý kiến và có những hành động đi ngược lại giáo huấn Công Giáo. Nhưng xét cho cùng có ai trong chúng ta thực sự xứng đáng được kể vào hàng con cái Giáo Hội? Trước khi có Giáo Hội, Thánh Vịnh Gia từng chỉ rõ:

“Từ vực thẳm con kêu lên Chúa, lạy Chúa; Xin nghe tiếng con, hỡi Chúa! Xin tai Chúa chăm chú lắng nghe lời con kêu van thương xót. Lạy Chúa, nếu Chúa chấp tội, nào ai đứng vững? Nhưng Chúa có sự tha thứ và vì thế Chúa được kính tôn”.

“NƯỚC HẰNG SỐNG” CHÍNH LÀ ĐỨC GIÊSU

“NƯỚC HẰNG SỐNG” CHÍNH LÀ ĐỨC GIÊSU

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Trong kiếp nhân sinh của con người, phát sinh từ sự thiếu thốn, thèm muốn, mong mỏi và hy vọng được thỏa mãn, nên người ta thường khao khát một điều gì đó tốt hơn những gì đang sở hữu. Có những khát khao làm cho cuộc sống của con người tốt hơn sau khi đạt được. Nhưng cũng không thiếu gì những thỏa mãn làm cho tình trạng của con người trở nên tồi tệ hơn.

Trình thuật của thánh Gioan mà chúng ta vừa nghe cho thấy có một thứ khát khao mà theo lẽ thường thì ít ai nghĩ tới, đó là khát khao “Nước Hằng Sống”. Một khi đã được thỏa mãn niềm khát khao quan trọng nhất này, thì mọi khát khao khác cũng được trở nên dư đầy.

1. Cuộc gặp gỡ kỳ diệu

Bài Tin Mừng hôm nay gợi lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari. Một cuộc gặp gỡ hiếm có và xem ra rất bất thường, hy hữu và đặc biệt giữa một bên là người Dothái, bên kia là người Samari.

Hy hữu, bất thường, bởi vì từ trước đến nay giữa người Samari và người Dothái không hề có sự liên lạc, giao thương và luôn trong trạng thái nghi kỵ, khinh khi. Ấy vậy mà hôm nay, Đức Giêsu là người Dothái, người phụ nữ là người Samari lại có buổi gặp nhau thân tình. Câu chuyện được khởi đi từ việc Đức Giêsu rời Giuđê để đi Galilê. Trên hành trình đó Ngài đã chọn con đường tắt, nhanh nhất để đi. Con đường đó phải băng qua làng Samari. Chính khi băng qua đây, mà Ngài gặp gỡ người phụ nữ Samari. Đây là cuộc gặp hy hữu và bất thường.

Cuộc gặp gỡ này cũng là một cuộc gặp gỡ đặc biệt vì: ban đầu, Đức Giêsu là người chủ động xin nước nơi chị phụ nữ Samari từ giếng Giacóp, Ngài lên tiếng: “Chị cho tôi xin chút nước uống!” (Ga 4,7). Người phụ nữ quá ngỡ ngàng bởi lẽ giữa người Dothái và Samari đã từ lâu, họ không đội trời chung, và người Samari luôn bị người Dothái khinh miệt, không thèm tiếp xúc… Nhưng Đức Giêsu đã đi bước trước để phá vỡ rào cản mà lâu nay vẫn trói buộc giữa hai bên, bằng việc Ngài bắt chuyện và chủ động xin nước uống. Hành động này của Đức Giêsu làm cho người phụ nữ không khỏi ngạc nhiên, vì thế, chị ta thốt lên: “Ông là người Dothái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?” (Ga 4,9).  Nhưng Đức Giêsu đã trả lời: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4, 10); và như một sự tiệm tiến, Đức Giêsu đã nói trực tiếp chính Ngài là nguồn mạch nước hằng sống, thứ nước ấy uống vào sẽ không còn khát nữa. Khi nghe thấy thế, Người đàn bà đã tha thiết xin Đức Giêsu: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (Ga 4, 15).

Thật vậy, qua cuộc gặp gỡ này, Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng. Cách mạng về khoảng cách địa lý, về vai vế để đi đến một cuộc cách mạng vĩ đại, đó là cách mạng tâm hồn. Nhờ cuộc cách mạng tâm hồn này, mà từ nay, giữa người Dothái và người Samari được sống và sống dồi dào khi thờ phượng Chúa không chỉ ở trên núi này hay núi nọ, mà ngay tại trong tâm của mình qua Thần Khí và sự thật.

2. Đức Giêsu là Nước Hằng Sống

Khi nói về cuộc cách mạng tâm hồn nơi chị phụ nữ trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, tưởng cũng nên nhắc lại: trước kia giữa người Dothái và người Samari, họ có chung một nguồn gốc. Nhưng do cuộc sống thay đổi và vì thời cuộc…, nên người Samari có những giao thương với ngoại bang, từ đó người Do thái cho là lai căng, thậm chí là bội giáo, và thường khinh thị, không muốn giao tiếp.

Nhưng hôm nay, Đức Giêsu đã vượt qua ranh giới của cái gọi là “ta và địch”, trong truyền thống để đến với anh chị em của mình.

Khi Ngài chủ động đến với chị ta như thế, Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng nhằm cải hóa tâm hồn chị. Tâm trạng và thái độ của người đàn bà này có thể nói là một cuộc diễn biễn tiệm tiến trong ân sủng và đức tin.

Thật vậy, thoạt tiên, sự xuất hiện của Đức Giêsu trước mặt chị chẳng hơn gì một “tên Dothái”. Đây là lối nghĩ miệt thị nhau, vì đã có mâu thuẫn từ nhiều thế hệ. Nhưng sau đó, chị ta đã “thưa ông”. Tiếp theo, khi được Đức Giêsu mặc khải cho biết chị ta đã 5 đời chồng rồi, lúc đó, chị đã gọi Ngài là một vị “ngôn sứ” là Đấng “Mêsia”. Cuối cùng, chị đã tôn vinh Ngài là Đấng Cứu Độ trần gian.

Qua câu chuyện giữa Đức Giêsu và người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp, Đức Giêsu đã mặc khải hai điều:

Trước tiên, Đức Giêsu mặc khải cho người phụ nữ biết rằng: Ngài chính là Đấng Kitô, là Mêsia mà muôn dân mong đợi từ lâu. Ngài chính là nguồn mạch phát sinh sự sống, nên gặp được Ngài là gặp được chính nguồn sự sống bất diệt: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa.Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4, 13-14). Như vậy, Đức Giêsu chính là “Nước Hằng Sống”.

Thứ đến, Đức Giêsu mặc khải thêm: đã đến lúc không còn chuyện phân biệt rằng Thiên Chúa của tôi và Thiên Chúa của chị nữa. Không còn chuyện cùng một Thiên Chúa chúng ta thờ, nhưng lại chỉ thờ ở đây mà không thờ chỗ khác. Vì thế, Đức Giêsu cất tiếng nói: “Nhưng giờ đã đến – và chính lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4, 23).

Như vậy, điều mà Đức Giêsu đã mặc khải cho người phụ nữ khi xưa, cũng chính là điều mà Ngài muốn mặc khải cho chúng ta ngày hôm nay.

3. Sứ điệp Lời Chúa

Chúng ta đang sống trong một xã hội đề cao nhu cầu hưởng thụ. Thượng tôn vật chất… Tuy nhiên, vẫn còn đó những thiếu thốn khi trong nhà có nhiều tiền. Vẫn còn đó sự bất an, khi quyền lực có trong tay. Và, vẫn còn đó, một khoảng cách giữa người với người ngay trong cùng một căn nhà…

Vì thế, trong cuộc sống hiện thời, con người luôn khắc khoải và có những khát vọng như:

Khát vọng chân lý, công bằng khi phải đối diện với sự gian dối, bất công. Hoặc sống trong cảnh thù hận, ích kỷ…người ta khao khát tình thương, lòng bao dung, sự tha thứ. Còn sống trong chiến tranh, loạn lạc, đau khổ và bất an, thì người ta mong muốn có hòa bình, hạnh phúc và an vui…

Như vậy, con người vẫn luôn mong được hạnh phúc. Nhưng có biết bao người càng tìm càng mất. Tại sao vậy? Thưa, vì họ tìm và gắn bó vào những thực tại trần thế như: quyền, tiền, danh vọng, nhục dục… nên không bao giờ họ được khỏa lấp nỗi khát vọng trong sâu thẳm tâm hồn của mình. Tình trạng của người Phụ nữ bên bờ giếng là một minh họa. Chị ta ngồi ngay bên miệng giếng, nhưng tâm hồn vẫn khát. Chị ta cứ ngỡ rằng khi lao mình vào những thú vui nhục dục… thì sẽ được hạnh phúc. Không phải thế! Chị ta đã lầm khi đặt lý tưởng, mục đích của cuộc đời chị sai chỗ, nhầm đối tượng. Chỉ khi gặp được Đức Giêsu, chị ta mới hết khát và thỏa mãn. Thật vậy: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Hay như thánh Augustinô cũng phải thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, linh hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”.

Thật vậy, theo bản năng của con người, ai trong đời mà lại không mong muốn đạt được chân, thiện, mỹ. Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta cũng không khác gì Dân Itrael khi xưa. Luôn đi tìm những thứ nhất thời, mau qua. Họ được Chúa cứu và giải thoát ra khỏi cảnh nô lệ bên Aicập, nhưng không bao lâu, người ta lên tiếng trách mọc Chúa và nhớ những củ hành củ tỏi bên Aicập. Họ đã lầm! Đang có Chúa ở bên, nhưng vẫn không nhận ra.

Cũng vậy, khi chưa cảm nhận được Chúa thực sự, con người luôn sống hình thức và phụ thuộc vào những chuyện bên ngoài. Vì thế, vẫn còn đó những anh chị em sốt sắng đi lễ nhà thờ, nhưng sẵn sàng cãi vã to tiếng với những người sống chung quanh chỉ vì con chó, con mèo, hay mấy đứa trẻ chơi với nhau… Cũng vẫn còn đó khi làng này và làng bên kia có những khúc mắc từ lâu, nên hôm nay có lễ ở làng bên thì bên này làng tỏ vẻ ngần ngại không muốn đi, chỉ vì sự nghi kỵ trước kia lại nổi lên.

Mong sao, với sứ điệp Lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta sẽ khao khát đi tìm chân lý, sự sống. Đi tìm chính Chúa và sống với Ngài. Đồng thời, chúng ta cũng bỏ qua khoảng cách kỳ thị để đến được với nhau. Bởi vì Chúa là Chúa của mọi người chứ không chỉ riêng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết vượt lên trên những rào cản của kỳ thị, ghét ghen, để xây dựng sự hiệp nhất. Luôn biết mở lòng ra để đón nhận chính Chúa vào trong cuộc đời, hầu chúng con đáng được hưởng hạnh phúc viên mãn. Amen.

Tác giả: Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

BẢO VỆ CÔNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA

BẢO VỆ CÔNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA

Bài giảng Lễ thánh Giuse tại Đan Viện Châu Sơn 19.03.2014

Tác giả: TGM. Jos Ngô Quang Kiệt

Từ tạo thiên lập địa Thiên Chúa có chương trình tốt đẹp cho thế giới và đặc biệt cho con người. Thiên Chúa sáng tạo mọi sự và thấy hài lòng vì mọi sự tốt đẹp. Nhưng chẳng bao lâu ma quỉ gieo sự xấu vào thế giới. Con người hư hỏng vì nghe lời ma quỉ chống lại Thiên Chúa. Vì thế lâm vào cảnh khốn cùng. Nhưng Thiên Chúa không từ bỏ ý định yêu thương nên quyết định sai Con Một xuống cứu độ trần gian. Và Thiên Chúa chọn thánh Giuse làm người bảo vệ Đấng Cứu Thế và bảo vệ công trình của Thiên Chúa. Thánh Giuse đã hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ, đưa công trình cứu chuộc của Thiên Chúa đến thành công.

Ngài bảo vệ chính mình khi sống công chính. Công chính là công bình và chính trực. Chính trực là thẳng ngay. Công bình là của ai trả cho người ấy. Chỉ nhận những gì thuộc về mình. Tin mừng hôm nay xưng tụng thánh Giuse là công chính vì đã không dám nhận Đức Mẹ làm bạn và nhận Chúa Giêsu làm con. Vì thánh nhân biết đây là công trình của Thiên Chúa. Chỉ khi Thiên Chúa truyền ban ngài mới dám lãnh nhận. Từ đó ngài quan tâm bảo vệ Đức Mẹ và Chúa Giêsu.

Ngài bảo vệ sự sống của Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Nếu không có thánh Giuse, Đức Mẹ có thể bị kết án tử hình, bị ném đá theo luật Do thái. Và Chúa Giêsu khó thoát khỏi bàn tay khát máu của Hêrôđê bạo chúa.

Ngài bảo vệ công trình cứu chuộc khi phát triển sự sống của Chúa Giêsu. Dưới mái nhà đơn sơ Nagiarét, Chúa Giêsu càng khôn lớn càng khỏe mạnh, càng thông minh và càng giầu ân nghĩa trước mặt Thiên Chúa. Để có thể trưởng thành, hoàn thành công cuộc cứu chuộc nhân loại.

Ngài tiếp tục bảo vệ công trình của Thiên Chúa. Nhiệm vụ của thánh nhân chưa kết thúc. Vì công trình của Thiên Chúa vẫn đang tạo dựng một thế giới tốt đẹp. Nhưng ma quỉ vẫn luôn gieo rắc sự xấu, tàn phá công trình của Thiên Chúa. Vũ trụ bị tàn phá. Thiên nhiên bị tàn phá. Sinh vật bị tàn phá. Nhưng trầm trọng nhất là con người bị tàn phá. Tàn phá từ thể chất đến tinh thần. Nguy hiểm nhất là tàn phá về đạo đức. Con người được Thiên Chúa yêu thương tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Nhưng con người đang bị tàn phá đến độ biến dạng không còn phản ánh vinh quang của Thiên Chúa nữa. Đáng sợ nhất khi con người không còn lương tâm, không còn phân biệt được phải-trái, thiện-ác, tốt-xấu. Vì thế hôm nay  chúng ta cần đến sự bảo vệ của thánh Giuse.

Và chúng ta cần phải noi gương Thánh Cả, tiếp tay với ngài trong công cuộc bảo vệ công trình của Thiên Chúa.

Trước hết là bảo vệ chính mình khỏi ô nhiễm thói đời để sống công chính. Ngày nay người ta dễ dàng nhận những gì không phải của mình. Vì nhận những gì không phải của mình nên người ta sẵn sàng chiếm đoạt của người khác. Từ của cải đến chức quyền. Từ danh dự đến uy tín. Thậm chí chiếm đoạt cả quyền tự do và quyền sống nữa. Trong một bầu khí như thế, cần rất nhiều đời sống công chính. Chỉ nhận những gì của mình. Và trả lại cho tha nhân những gì của họ.

Không những bảo vệ chính mình, ta còn phải bảo vệ công trình của Thiên Chúa. Thế giới hôm nay bắt đầu ý thức bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường. Nhưng ít có ai bảo vệ con người là trọng tâm của công trình của Thiên Chúa. Trong sứ điệp mùa chay năm 2014 này, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, tự trở nên nghèo để anh em được trở nên giầu có.

Đức Thánh Cha nói thế giới hôm nay còn rất nhiều người nghèo. Tuy nhiên nghèo chưa đáng sợ bằng lầm than khốn khổ. Lầm than khốn khổ là nghèo mà bị bỏ rơi, không được ai quan tâm đoái hoài. Ngài phân biệt ba loại lầm than khốn khổ. Lầm than khốn khổ về vật chất là nghèo mà không được ai quan tâm giúp đỡ, bị bỏ rơi, bị gạt ra ngoài lề xã hội. Lầm than khốn khổ về tinh thần. Là những người bị áp bức, bất công, bị bóc lột, bị chà đạp. Mà cũng bị bỏ rơi, không có ai bênh vực, không có ai khích lệ, an ủi. Lầm than khốn khổ về luân lý. Là những người rơi vào tội lỗi, tệ nạn. Nhưng cũng không được ai quan tâm giúp đỡ.

Ngài kêu gọi chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, trở nên nghèo khi đến với những anh chị em lầm than khốn khổ. Có lẽ ta đã nghĩ đến giúp người nghèo khổ vật chất. Nhưng ta ít nghĩ đến giúp những người đang bị áp bức bất công, bị bóc lột, bị tước mất những quyền cơ bản của con người như quyền được sống, quyền được tự do, tự do tôn giáo, tự do tư tưởng, tự do phát biểu. Và cả những người vì bênh vực quyền lợi chính đáng mà bị tù tội, bị ám hại, và bị mọi người sợ hãi xa tránh.

Công trình của Thiên Chúa mọi sự đều tốt đẹp. Tất cả nhằm mục đích đem sự sống và hạnh phúc cho con người. Nhưng công trình của Thiên Chúa cần được bảo vệ. Mừng lễ thánh Giuse, ta hãy cầu xin ngài tiếp tục bảo vệ công trình của Thiên Chúa. Và chúng ta hãy tiếp tay với ngài bảo vệ công trình của Thiên Chúa. Bảo vệ vũ trụ. Bảo vệ thiên nhiên. Bảo vệ súc vật. Bảo vệ môi trường sống. Và quan trọng nhất bảo vệ chính sự sống. Bảo vệ con người. Bảo vệ hạnh phúc của con người. Chính khi bảo vệ công trình của Thiên Chúa ta xây dựng một xã hội tốt đẹp. Và đem hạnh phúc cho mọi người.

Lạy thánh Giuse xin bảo vệ con người, bảo vệ Giáo hội và bảo vệ thế giới. Amen.

Tác giả: TGM. Jos Ngô Quang Kiệt

Yêu kẻ thù

Yêu kẻ thù

dongten.net

Lời Chúa: Mt 5, 43-48

John Paul II visits his would-be assassin in a prison in Rome on Dec. 27, 1983

43 “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù.44 Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.45 Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính.46 Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao?47 Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?48 Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.

Suy nim:

“Tại sao anh lại bắn tôi khi cả hai chúng ta đều tin
vào sự hiện hữu của một Thiên Chúa duy nhất.”
Đó là một câu trong lá thư Đức Thánh Cha Gioan Phaolô định gửi
cho anh Ali Agca, người đã ám sát ngài vào ngày 13-5-1981 tại Rôma.
Nhưng ngài đã đích thân thăm anh trong tù năm 1983, và đã tha thứ cho anh.
Vào Đại Năm Thánh 2000, ngài đã xin Tổng Thống Ý cho anh được ân xá.
Điều đáng nói là anh đã chẳng bao giờ công khai xin ngài tha lỗi.

“Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (c.43).
Thật ra Luật Môsê không dạy ghét kẻ thù,
nhưng ghét kẻ thù của Thiên Chúa là chuyện có trong các thánh vịnh.
“Lạy Chúa kẻ ghét Ngài làm sao con không ghét?…
Con ghét chúng, ghét cay ghét đắng,
chúng trở thành thù địch của chính con” (Tv 139, 21-22).

Đức Giêsu dạy các môn đệ yêu kẻ thù (c. 44),
Nhưng vào sau năm 70, kẻ thù của các môn đệ là ai?
Là quân xâm lược Rôma, là thế giới dân ngoại đang bắt đạo (Mt 10, 22).
Là những người đồng bào thuộc hội đường đang ngược đãi các Kitô hữu.
Là những ai không phải là anh em, nghĩa là những ai không tin Đức Giêsu.
Đức Giêsu mời ta vượt qua khuynh hướng tự nhiên là chỉ yêu kẻ yêu mình.
Tình yêu Kitô vươn đến cả những kẻ ghét và làm hại mình nữa.
Hãy yêu kẻ thù, nhưng yêu lại không phải là một tình cảm tự nhiên.
Yêu là một thái độ của lòng nhân được diễn tả bằng những hành động cụ thể.
Yêu là cầu nguyện cho kẻ bách hại, là chào hỏi và chúc bình an cho họ.
“Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi”,
Đức Gioan Phaolô II đã tuyên bố như thế sau khi hồi phục.

Yêu kẻ thù làm chúng ta được ơn trở nên con cái Cha trên trời (c. 45),
trở nên giống Cha là Đấng ban mặt trời và mưa cho kẻ bất chính.
Trở nên con cái Cha là tiến trình dài một đời,
xuyên qua những hành vi yêu thương vượt trên tự nhiên.
Cha yêu mọi người chẳng trừ ai bằng một tình yêu vô điều kiện.
Chúng ta được mời gọi trở nên hoàn thiện như Cha
nhờ yêu kẻ thù như Cha đã yêu họ (c. 48).
Kẻ thù cũng là anh em tôi, vì họ cũng là con được Cha yêu như tôi.

Chúng ta nên nghĩ đến những kẻ thù của mình, ở rất gần mình,
những người mình không muốn chào hỏi hay nhìn mặt, chỉ muốn nguyền rủa.
Tôi sẽ làm gì để bày tỏ tình yêu tha thứ đối với họ trong Mùa Chay này?

Cầu nguyện:

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
đón nhận những người khác
là điều vượt quá sức con,
vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
con không thể nào kính trọng kẻ khác được,
vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
có những ngày
mà yêu mến người khác
làm cho tim con đau nhói,
vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau
và những giới hạn của bản thân con.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
trong những ngày khó khăn đó,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
tất cả chúng con đều là con cái Chúa
và đừng để con quên lời Chúa nói :
“Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất
là làm cho chính Ta.”

(Trích trong PRIER)

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Người nào biết mở lòng để yêu thương và cầu nguyện cho những ai xúc phạm, xỉ nhục và làm hại mình, người ấy sẽ đạt được những thành tựu rất to lớn chỉ trong một thời gian ngắn ngủi.

(Thánh Simeon thần học gia mới)

Giáo hội của người nghèo và ưu tiên chọn người nghèo

Giáo hội của người nghèo và ưu tiên chọn người nghèo

Chuacuuthe.com

VRNs (12.03.2014) – Torronto, Canada – Trong cuộc họp báo sau khi đắc cử Giáo Hoàng, Đức Phanxicô giải thích lý do ngài chọn tước hiệu Phanxicô là vì đối với ngài thánh Phanxicô Assisi là con người nghèo khó, con người của hoà bình, là  người đem lại cho chúng ta tinh thần hoà bình và khó nghèo. Cũng trong cuộc họp báo này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh thêm rằng ngài mong muốn Giáo hội phải là Giáo hội của người nghèo và vì người nghèo.

14031200

Một hình ảnh tương tự về Giáo hội nghèo khó mà Đức Phanxicô thường nhắc đến gần một năm qua, đó là hình ảnh một Giáo hội lấm lem, bầm dập trên đường vì đi với người nghèo. Đặc biệt, trong Tông huấn Niềm vui Phúc Âm, Đức Giáo Hoàng  nhấn đến một Giáo hội “ưu tiên chọn” người nghèo vì “Trái tim Thiên Chúa có một chỗ đặc biệt dành cho người nghèo.” Nhấn đến hình ảnh về một Giáo hội của người nghèo như thế, Đức Giáo Hoàng nhắn nhủ rằng: “Không ai trong chúng ta có thể nghĩ rằng mình được miễn chước việc quan tâm tới người nghèo và tới công bằng xã hội”.

Thực ra, Đức Giáo Hoàng Phanxicô không phải là người đầu tiên sử dụng hình ảnh  “Giáo hội của người nghèo và vì người nghèo” để diễn tả viễn tượng của mình về Giáo hội trong thế giới hôm nay. Người đầu tiên nhắc đến ý niệm “Giáo hội của người nghèo” là Đức cố chân phước Giáo hoàng Gioan XXIII.  Ngày 11 tháng 9 năm 1962, tức là một tháng trước khi khai mạc Công đồng Vaticanô II, Đức Gioan XXIII đã phát biểu trên đài phát thanh rằng: “Trước những thách đố mà các nước kém phát triển đặt ra, Giáo hội tự giới thiệu mình như là một Giáo hội của mọi người, đặc biệt là Giáo hội của người nghèo.”

Ba tháng sau (ngày 6 tháng 12 năm 1962), khi lược đồ đầu tiên Về Giáo hội được đệ trình mà không nhắc gì đến “Giáo hội của người nghèo,” Đức Hồng Y Giacomo Lercaro đã dùng quyền can thiệp của mình (intervention) để nhắc lại viễn tượng của Đức Gioan XXIII về một Giáo hội của người nghèo. Ngài phát biểu rằng “Giáo hội luôn mang nơi mình Mầu nhiệm Chúa Kitô, mà mầu nhiệm Chúa Kitô cụ thể trong thế giới hôm nay là Chúa Kitô ở nơi người nghèo; vì thế như Đức thánh cha Gioan XIII đã nói, Giáo hội hôm nay phải thực sự là Giáo hội của người nghèo.”[i]

Công Đồng Vaticanô II dùng nhiều hình ảnh đa dạng khác nhau để trình bày mầu nhiệm Giáo hội, trong đó Công đồng cũng không quên hình ảnh về một Giáo hội của người nghèo theo viễn tượng của Đức Gioan XXIII. Cụ thể, hàng loạt các văn kiện của Công đồng nhấn mạnh đến khuôn mặt người nghèo trong mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo hội: Hiến chế Tín lý về Giáo hội số 8 và số 23; Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Hiện Đại số 1, 15, 63, 69, 71, 81, 86, 88, 90; Sắc lệnh về Tông đồ Giáo dân số 8; Sắc Lệnh về Mục Vụ trong Giáo Hội số 13 và 30; Sắc Lệnh về Thánh Chức và Đời Sống Linh Mục số 6; Sắc Lệnh về Hoạt Động Tông Đồ của Giáo Hội số 12; Sắc lệnh về Cải Tổ Thích Nghi Đời Sống Tu Trì số 13; và Tuyên Ngôn của Giáo Hội đối với những Tôn Giáo Ngoài Kitô Giáo số 9. Đặc biệt, trong Hiến chế Tín lý về Giáo hội, khi mô tả hình ảnh Giáo hội của người nghèo, Công đồng xác tín: “Như Chúa Kitô đã hoàn tất công trình cứu chuộc trong khó nghèo và bách hại, Giáo Hội cũng được mời gọi đi cùng đường lối ấy hầu thông ban ơn cứu rỗi cho loài người.…Chúa Kitô được Chúa Cha phái đến rao truyền Phúc Âm cho kẻ bần cùng… cứu chữa các tâm hồn đau khổ (Lc 4,18), tìm kiếm và cứu vớt những gì đã hư mất (Lc 19,10). Cũng thế, Giáo Hội trìu mến và ấp ủ tất cả những ai đau khổ vì sự yếu hèn của con người, nhất là nhận biết nơi những kẻ nghèo khó và đau khổ hình ảnh Ðấng Sáng Lập khó nghèo và khổ đau, ra sức giảm bớt nỗi cơ cực của họ và nhằm phụng sự Chúa Kitô trong họ”(LG 8).

Sau Công đồngVaticanô II, chủ đề Giáo hội của người nghèo được Hội đồng Giám mục Châu Mỹ La tinh nhấn mạnh hơn nữa khi xác tín rằng Giáo hội không chỉ là Giáo hội của người nghèo và vì người nghèo, mà hơn thế nữa Giáo hội là Giáo hội nghèo khó (Iglesia Pobre) (Đức Phanxicô cũng đã nhắc đến Giáo hội nghèo khó trong buổi họp báo sau khi ngài đắc cử giáo hoàng). Trong bối cảnh Châu Mỹ La tinh đói nghèo, Hội đồng Giám mục Châu Mỹ La tinh xác tín rằng Giáo hội liên đới với người nghèo và trở nên như người tôi tớ phục vụ mọi người.

Liên Hội đồng Giám mục Á châu nhóm họp tại Philippine ngày 29 tháng 11 năm 1970 cũng bàn đến Giáo hội của người nghèo theo tinh thần của Công đồng Vaticanô II. Liên Hội đồng nhắc đến tình trạng của số đông người nghèo ở Á châu và xác định rằng Giáo hội của người nghèo phải tách mình khỏi những kẻ quyền lực, giàu có và phải có sứ mạng thúc đẩy, bảo vệ quyền sống của những người nghèo khổ, thấp cổ bé miệng.

Bẳng đi một thời gian dài sau đó, dường như hình ảnh “Giáo hội của người nghèo” không được mấy ai ưa thích nhắc đến nữa.Nhưng bây giờ Đức Giáo Hoàng Phanxicô khơi gợi lại.

Thực ra, Đức Giáo Hoàng không nói điều gì mới mẻ hoặc không nói điều gì đi ngược lại dòng suy tư chính thống hay truyền thống của Giáo hội. Viễn tượng về một Giáo hội của người nghèo và vì người nghèo, như nói trên, đã được xác định bởi giáo huấn của Công Đồng Vaticanô II. Tuy nhiên, sự mới mẻ mà Đức đương kim Giáo Hoàng mang lại ấy là cách đặt vấn đề và cách nhấn mạnh của ngài về một Giáo hội như thế.

Nói đúng hơn, trong bối cảnh của thế giới hôm nay, ở đó có những ý thức hệ, những cơ cấu kinh tế – chính trị vùi dập người nghèo, làm cho biết bao người bị vong thân, tha hoá, thì ao ước của Đức Giáo hoàng Phanxicô về một Giáo hội ưu tiên chọn người nghèo, một Giáo hội luôn đi trên đường với người nghèo và chịu lấm lem, bầm dập vì người nghèo, cũng là ao ước, khát vọng của bao tâm hồn bơ vơ, tất bạt.

Nói cách khác, Đức Giáo Hoàng nói thay cho bao tâm hồn đang khát khao một luồng sinh khí mới trong Giáo hội giữa thế giới hôm nay: Giáo hội của người nghèo, ưu tiên chọn lựa người nghèo vì “trái tim Thiên Chúa có một chỗ đặc biệt dành cho người nghèo”.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Dũng, CSsR.

 

DẤU CHÂN XƯA

DẤU CHÂN XƯA

Tìm dấu chân xưa là tìm dấu chân không còn.  Trở về biển nhớ, nghìn dấu chân đã đi qua.  Sóng xô bờ đã bao lần xoá thật kĩ.  Trở về làng cũ, tàu cau đã chết thủa nào.  Năm tháng cũ nhạt hương không còn ấn tích.  Mưa nắng quanh năm giặt bạc màu ký ức.  Đổi thay trong đời như những lớp phù sa đã bao lần cày sâu xuống, lấp kín lên.  Tìm dấu chân xưa là tìm dấu chân đã mất.

Không còn dấu chân cũ mà vẫn cứ tìm vì dấu chân ấy có nhiều thương nhớ.  Bến ga chiều nay mưa phùn bay, nhưng người ta trở về tìm dấu chân cũ vì ảnh xưa thì đẹp và hình xưa là hạnh phúc.  Tìm vết chân cũ, vì ở tình yêu ấy, đã bao lần ngọt ngào cùng nhau quấn quýt bước chân đi.  Không gian thay đổi nhưng hồn quá khứ không muốn đổi thay.  Thế giới ấy đi bằng những bước chân đẹp nên nó trong ngắt.  Bụi chỉ xoá dấu chân trên đường còn thế giới trong ngắt của linh hồn nó đẹp mãi.  Và, vì thế, nhiều người cứ muốn đi tìm.

Đi tìm dấu chân xưa, vì về ngõ hồn quá khứ có khi dễ hơn lách lối tương lai đi tới.  Đời người có khi tương lai khép kín mà quá khứ mở rộng ngõ.  Lắm lúc càng đi về phía trước mà lại chỉ thấy đẹp ở phía sau.  Vì thế, hôm qua, hôm nay và mãi về sau vẫn sẽ có nhiều kẻ muốn đi tìm kỷ niệm của dấu chân xưa.

Dấu chân không gian đã mờ nhạt, bụi cát bôi rồi.  Đi tìm dấu chân xưa là dấu chân trong hồn mà thôi. Có nhiều bước chân.  Có bước chân lên đồi.  Có bước chân vào hoàng hôn.  Có bước chân ra bình minh.  Đi tìm dấu chân xưa là tìm riêng kỷ niệm đẹp.  Nhưng khi quá khứ mở ngõ là mở rộng cả đôi cánh.  Vì thế, có những dấu chân không đẹp, chẳng muốn tìm mà vẫn gặp.  Có dấu chân muốn quên mà cứ nhớ.

Lạy Chúa, trong hành trình đời sống, Chúa đã nói với con về những bước chân:

Đừng dõi theo đường phường gian ác

Đừng tiến tới trong đường lũ ác nhân

Hãy tránh đi, đừng đi qua đó

Hãy quay lại và đi đi. (Cách Ngôn 4:14-15)

 

Ta dạy con trong đường khôn ngoan

Và Ta đã hướng dẫn con đi đường ngay chính

Khi con đi bước chân con sẽ thênh thang

Và nếu con chạy, con sẽ chẳng vấp ngã. (Cách Ngôn 1:11-12)

Dấu chân của một mình ta thôi mà đã là những dấu chân xưa muốn đi tìm rồi.  Huống chi, những dấu chân của hai người đi bên nhau chắc hẳn sẽ còn lưu luyến, bởi, vết chân của người này mở ý cho vết chân của người kia đi về.  Con tim mình thổn thức vì nó dâng hai nhịp đập của một chiều sóng.  Vết chân hôn nhân và vết chân của Đức Kitô với các môn đệ là những vết chân này.

Dấu Chân Thiêng Liêng

Trong dấu chân xưa của những chuyện tình, chuyện thuỷ chung, còn một thứ dấu chân của thập giá. Đó là dấu chân theo Chúa ở biển hồ Galilêa khi nghe tiếng gọi: Hãy theo Ta (Mt 4:19).  Theo Chúa trong hành trình truyền giáo: Ngài sai từng hai người một (Mc 6:7).  Theo Chúa lên cuộc tử nạn: Hãy vác thập giá hằng ngày (Lc 9:23).  Những dấu chân thiêng liêng này không sao xóa nhoà được.  Những bước chân này đã một lần in dấu là kỷ niệm thiên thu.  Bởi, Thiên Chúa quý kỷ niệm.  Ngài không bao giờ quên những bước chân ân tình.  Một lần gọi là một lần muốn có trang thiên tình sử.  Một bước chân đi bên nhau là hy vọng có kẻ mang Tin Mừng.

Khi chết rồi Đức Kitô vẫn về Galilêa, vẫn muốn đến biển hồ.  Gặp gỡ Thây trò ở khúc đường Emmaus không phải là đi tìm dấu chân xưa hay sao.  Nhưng dấu chân xác thân không còn.  Chỉ còn là dấu chân xưa trong hồn mà thôi.  Đó là dấu chân thiêng liêng.

Cửa tương lai sẽ đóng lại.  Thí dụ, ngày Đức Kitô chết.  Vết chân trên cát của Ngài chấm dứt.  Mỗi bước chân nhân thế cũng vậy.  Ngày xuôi tay là bước chân sau cùng chào vĩnh biệt đường trần.  Sự chết đến như con đường cụt.  Tôi không còn bước nữa.  Bây giờ tôi chỉ còn quay lại tìm dấu chân xưa. Và bây giờ dấu chân xưa trở thành vô cùng huyền nhiệm linh thiêng.  Tất cả định mệnh hạnh phúc hay đau khổ của tôi trong cõi sống vĩnh hằng hệ tại những dấu chân xưa này.  Tôi đã bước đi trong quá khứ thế nào, thì bây giờ bước chân ấy cũng dẫn tôi vào tương lai như vây.  Bước chân ngang trái sẽ dẫn tôi tới ngang trái.  Bước chân chính trực, chính trực sẽ đem tôi tới đại lộ.  Cái huyền nhiệm của dấu chân xưa thiêng liêng là không tìm, tôi cũng sẽ gặp, cũng phải gặp, như lời Kinh Thánh sau đây:

“Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự trên ngai vinh hiển của Người.  Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê.  Người cho chiên đứng bên phải Người còn dê đứng bên trái…Bấy giờ đức Vua phán cùng những người ở bên phải rằng: Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi từ thủa tạo thiên lập địa… Rồi Đức Vua phán cùng những người ở bên trái rằng: Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành cho tên Ác Quỷ và các thần của nó.” (Mt 25:31-46)

Giờ này, dấu chân xưa thiêng liêng có sức mạnh thần thánh đưa tôi về trời cao hay xuống vực sâu.

Ai cũng có kinh nghiệm dấu chân xưa trong đời sống trần thế.  Ngày thơ tuổi nhỏ.  Tấm hình năm cũ.  Nó đưa ta về những vùng ký ức xa mờ.  Dấu chân xưa oan trái sẽ làm ngày tháng hôm nay của ta ảm đạm.  Dấu chân xưa đẹp thì hôm nay cho ta hạnh phúc ngọt ngào.

Trở lại một bến ga bụi sương, dù năm tháng mù mịt rồi, người xưa đã khuất mà lòng ta cứ gần.  Ghé lại bến đò cũ, dòng sông gợi cho ta bao nhớ nhung.  Dấu chân xưa trong chuyện mình lúc còn sống là thế. Nhưng không ai biết thao thức của người chết đi tìm dấu chân xưa như thế nào.  Đơn giản, là không có ai từ cõi chết về kể chuyện cho ta nghe cả.  Phúc Âm có kể chuyện một người chết đi tìm dấu chân xưa như sau:

Xưa có một nguời giàu, ăn mặc những gấm tía, và hàng mịn; ngày ngày yến tiệc linh đình.  Lại có người ăn mày tên là Lazarô, người ta vứt bỏ bên cổng nhà ông, mình đầy lở lói, ước ao có được miếng thừa dưới bàn ông nhà giàu mà ngốn cho no, lại còn bầy chó hoang liếm các ung nhọt người ấy.  Nhưng xẩy ra là người ăn mày chết, và được các thiên thần đem lên dự tiệc ngay lòng Abraham.  Còn ông nhà giàu cũng chết và được tống táng.

Trong âm phủ giữa những cực hình, ông nhà giàu ấy ngẩng mặt lên, thấy đằng xa Abraham cùng Lazarô nơi lòng ông.  Người ấy mới kêu lên và nói: “Lạy cha Abraham, xin thương xót tôi, và sai Lazarô nhúng đầu ngón tay một chút nước mà thấm dịu lưỡi tôi, vì tôi quằn quại đây trong ngọn lửa này.” Nhưng Abraham nói: “Hỡi con, hãy nhớ lại: suốt đời con đã lãnh cả sự lành phần con, còn Lazarô cũng lãnh, nhưng chỉ là tai với họa.  Bây giờ Lazarô được an ủi nơi đây, và con phải quằn quại đau đớn.  Vả chăng giữa chúng ta và các ngươi, đã cắt ngang định sẵn một vực thẳm, khiến cho tự bên này, ai muốn cũng không thể qua bên các ngươi, và tự bên ấy, người ta không thể quá giang đến được với chúng ta. “ Ông nhà giàu lại nói: “Vậy thì, lạy tổ phụ, xin tổ phụ sai Lazarô đến nhà con, vì con có năm anh em, ngõ hầu Lazarô làm chứng răn dạy chúng, kẻo chúng cũng phải sa vào chốn cực hình này.” Abraham nói: “Chúng đã có Maisen và các tiên tri, chúng hãy nghe lời các ngài.” Người ấy đáp: “Thưa tổ phụ Abraham, không đâu!  Song có ai từ cõi chết mà nói với chúng, tất chúng sẽ hối cải.” Nhưng Abraham bảo người ấy: “Nếu chúng không nghe Maisen và các tiên tri, thì cho dẫu có ai sống lại từ cõi chết, chúng cũng chẳng nghe đâu.” (Lc 16:19-31).

Hai người trong câu chuyện, Lazarô và nhà phú hộ đều bước những dấu chân trong đời.  Bây giờ dấu chân ấy đưa họ đi mỗi người mỗi ngã.  Dấu chân xưa của người nghèo Lazarô đưa ông về Nước Trời với Abraham.  Dấu chân xưa của người giàu đưa ông về cõi vắng mênh mông.

Trong cuộc sống này, ta tìm kỷ niệm dấu chân xưa mà nhiều khi không gặp.  Khi chết rồi vào giờ phán xét, những dấu chân xưa thiêng liêng ấy sẽ tự ý đi tìm ta.  Và, dấu chân này sẽ đưa ta về cõi hệ trọng vô biên.  Hạnh phúc hay gian nan.  Bởi đó, mỗi dấu chân linh hồn đi hôm nay trong cõi đời sẽ là dấu chân thiêng liêng cho ngày mai.

Khi nhớ về kỷ niệm là ta đi tìm dấu chân xưa.  Dấu chân đó có thể là những bước chân trên bến đò, trên con đường nhỏ.  Những dấu chân này là dấu chân trong tình cảm, nó sẽ chấm dứt khi ta chết.  Còn dấu chân xưa thiêng liêng là đời sống thánh thiện hay tội lỗi, công bình hay gian tham, độ lượng hay hẹp hòi, thì khi cuộc đời chấm dứt, những bước chân này mới khởi đầu.

Lạy Chúa, khi con đi tìm kỷ niệm cũ, tìm dấu chân xưa trong tình cảm, thì xin Chúa nhắc nhở con đến dấu chân thiêng liêng, để hôm nay con biết đi những bước chân thật đẹp, hầu bước chân này chuẩn bị cho con bước vào hạnh phúc trong Nước Chúa mai sau.

LM Nguyễn Tầm Thường, S.J.

From: langthangchieutim & Anh chị Thụ Mai gởi

THA THỨ.

THA THỨ.

Một thiền sinh hỏi: “Thưa sư phụ, con đau khổ vì cha mẹ tàn nhẫn, người yêu con ruồng bỏ, anh em phản bội, bạn bè phá hoại… Con phải làm sao để hết oán hờn và thù ghét đây?”
Vị sư phụ đáp: “Con ngồi xuống tịnh tâm, tha thứ hết cho họ.”
Vài hôm sau, người đệ tử trở lại: “Con đã học được tha thứ cho họ sư phụ ạ. Thật nhẹ cả người! Coi như xong!”
Sư phụ đáp: “Chưa xong, con về tịnh tâm, mở hết lòng ra thương yêu họ.”
Người đệ tử gải đầu: “Tha thứ thôi cũng đã quá khó, lại phải thương yêu họ thì… Thôi được, con sẽ làm”
Một tuần sau, người đệ tử trở lại, mặt vui vẻ hẳn, khoe với sư phụ là đã làm được việc thương những người mà trước đây đã từng đối xử tệ bạc với mình.
Sư phụ gật gù bảo: “Tốt! Bây giờ con về tịnh tâm, ghi ơn họ. Nếu không có họ đóng những vai trò đó thì con đâu có cơ hội tiến hóa tâm linh như vậy.”
Người đệ tử trở lại, lần nầy tin tưởng rằng mình đã học xong bài vở. Anh tuyên bố: “Con đã học được và ghi ơn hết mọi người đã cho con cơ hội học được sự tha thứ!”
Sư phụ cười: “Vậy thì con về tịnh tâm lại đi nhé. Họ đã đóng đúng vai trò của họ chứ họ có lầm lỗi gì mà con tha thứ hay không tha thứ.”

SUY NGHĨ :

Câu chuyện thật ý nghĩa, chúng ta có thể nhận ra rằng tha thứ giúp cho chúng ta đóng lại những đau thương, bất công trong quá khứ và nhìn nhận các sự việc rõ ràng để buông xuống. Tha thứ giúp cho chúng ta mở rộng lòng yêu thương, giúp cho ta nhìn lại chính mình đã làm hao phí năng lượng khi đánh mất lòng khoan dung.
Tha thứ chính là một tiến trình tiến hóa tích cực của nội tâm, khi chúng ta thật sự đối diện và buông xuống những đau thương, mất mát, bất công… chúng ta sẽ không còn mang lòng oán hận, giận dữ… từ đó giúp cho chúng ta không nuôi dưỡng những niềm cay đắng, phẫn uất, trả thù… để rồi tạo thêm những điều bất thiện ở hiện tại và tương lai lại phải nhận sự khổ đau.
Qua đó, chúng ta nhận rõ tha thứ giúp cho chúng ta sống an ổn hiện tại và tương lai. Vì vậy, có thể nói rằng “tha thứ cho người khác chính là tha thứ cho chính mình”, vì khi chúng ta buông bỏ lòng thù hận, sẽ giúp cho tâm mình luôn bình an. Tâm bình an sẽ là chất liệu để tạo dựng nên lòng yêu thương từ bi cho mình và cho tất cả.
Đọc và suy ngẫm câu chuyện một lần nữa, chúng ta thấy rõ như một trình tự khi bạn biết tha thứ , bạn sẽ có lại tình thương với những đối tượng đã gây cho mình đau khổ mà bấy lâu mình đánh mất vì thiếu lòng khoan dung , hiện khởi Tâm Từ Bi rộng lớn, nhớ ơn tất cả đã cho chúng ta sự thành tựu này và chợt nhận ra rằng “vạn pháp vốn bình đẳng”.
Trên bước đường tu tập của người con Phật, chúng ta phải cảm ơn những bậc thiện hữu tri thức đã đưa đến cho mình nghịch duyên để chúng ta có cơ hội nâng cao đời sống tâm linh của chính mình. Nghịch tăng thượng duyên là vậy! Thật vậy, nếu lúc nào cũng thuận duyên, cũng đều được quí mến thì ta dễ dàng bị ru ngủ trong niềm tự hào, hãnh diện , ta đang biến mình thành nô lệ cho sự cống cao ngã mạn… tự đánh mất chính mình lúc nào không hay. Vì vậy, vị Sư đã dạy người học trò của mình phải biết ghi ơn những người đã đem đến cho mình những phiền não, oan uổng….để chúng ta có cơ hội nhìn lại chính mình, thực hành và chuyển hóa nội tâm, để nhận chân sự thật “chẳng có ai là người tha thứ và được tha thứ cả!”
Với tôi, việc học cách tha thứ và hành theo những lời dạy của Chư Phật, Chư Tổ không phải đơn giản và dễ dàng nhưng cũng không phải là quá khó nếu mình muốn và tôi đã bắt đầu cho những sự việc nhỏ nhất từ trong cuộc sống của chính mình với mọi người xung quanh…để có được sự bình an hạnh phúc chân thật!

Cổ Đức có câu này: “ Càng buông bỏ dưới chân này.
Ấy là chỗ đứng càng ngày càng cao ”

Từ Nguyễn Kim Bằng gởi