NIỀM TIN VÀ LỜI ĐÁP

NIỀM TIN VÀ LỜI ĐÁP

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R

2 Mcb 7, 1.20-27.29; Rm 8, 31b-39; Lc 19, 23-26

Chẳng ai can đảm để chết cho người mình yêu cả. Nói lý thuyết thì rất hay nhưng trong thực tế lại khác, đó là điều giằng co nhất trong đời của con người, bởi lẽ con người ai cũng mong muốn giữ gìn, bảo tồn cái thân xác của mình. Nói như thế nhưng vẫn có những người can đảm bước ra pháp trường để đón nhận cái chết một cách vui vẻ. Tại sao ? Bởi vì những người đó đã tin vào Đấng đã sinh ra mình, làm chủ cuộc đời mình.

Trang sách Macabê khá quen thuộc mà chúng ta nghe, chúng ta thấy kể câu chuyện về một gia đình của bà mẹ và bảy đứa con khá quen thuộc. Chỉ vì cưỡng lại luật của vua Antiôkhô là phải ăn thịt heo mà trong luật Môsê cấm nên họ đã phải bị xử. Lần lượt từng người con của bà mẹ này đã phải chịu án tử. Con bà chịu án tử quả là điều ta đáng khâm phục nhưng cũng không quên được lòng quả cảm của người mẹ.

Bà là người ta đáng phải khâm phục. Nhìn bảy đứa con chết trong một ngày nhưng bà vẫn tin tưởng, chịu đựng vì bà trông cậy và tin tưởng nơi Thiên Chúa. Bà còn nhắn nhủ các con như thế này : “Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con.23 Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình.”

Bà còn khuyên các con của mình rất chân thành, tha thiết : “Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy.29 Con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ.”

Đỉnh điểm niềm tin của gia đình này là bà đã chết theo cùng các con của mình để tuyên xưng niềm tin, niềm hy vọng và niềm trông cậy vào Thiên Chúa.

Niềm tin vào Thiên Chúa khởi đi từ Cựu Ước điển hình như mẹ con nhà Macabê mà hôm nay chúng ta nghe lại, mường tượng lại. Niềm tin vào Thiên Chúa đó không dừng lại ở Cựu Ước hay gia đình nhà Macabê mà qua Tân Ước và trải dài cho đến ngày hôm nay.

Các môn đệ là những người đầu tiên nghe và tin theo Chúa. Các ngài đã đổ máu đào mình ra để minh chứng niềm tin của mình vào Thầy Chí Thánh Giêsu. Đặc biệt, chúng ta còn nhớ hình ảnh của Stêphanô – vị tử đạo tiên khởi – đã đổ máu mình ra để tuyên xưng đức tin. Dòng máu tử đạo đổ ra và đã lan tràn không chỉ gói gọi ở Giê rusalem mà đến tận cùng trái đất.

Hạt giống đức tin cũng đã được gieo trên quê hương đất nước hình chữ S thân thương này. Dĩ nhiên cũng đi theo con đường của Tin Mừng là khi Tin Mừng được loan báo thì có người này người kia không đón nhận. Không chỉ không đón nhận mà còn chống đối, mà còn cấm cách, mà còn ngăn cản những ai đi gieo hạt giống ấy.

Khi hạt giống Đức Tin đã chọn cánh đồng Truyền Giáo Việt Nam “làm quê hương thứ hai rồi”, thì dĩ nhiên không còn gì có thể cản ngăn đồng lúa Việt Nam trổ bông thơm ngát. Tuy nhiên lịch sử Giáo Hội bao giờ cũng được viết bằng những dòng mực đẫm máu của các Anh Hùng Tử Ðạo. Các ngài đã sống cao thượng và biết hy sinh tính mạng vì Ðức Tin, thật xứng đáng để Thánh Vịnh (125,6-7) ngợi ca:

“Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau sẽ khấp khởi mừng.

Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo

Lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng”.

Theo sử liệu, hạt giống đức tin đã được gieo rắc trên quê hương đất nước chúng ta với sự hiện diện của một thừa sai là giáo sĩ Inikhu vào năm 1533. Công cuộc truyền giáo mới ở trong giai đoạn khởi đầu mà đã bị thử thách nặng nề với cái chết vì đạo của chân phước Anrê Phú yên vào năm 1644. Từ đây Giáo hội Việt nam phải trải qua nhiều thời kỳ chịu bách hại, có lúc đẫm máu, qua các thời đại các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, đặc biệt với nhóm Văn Thân.

Nhà cầm quyền thời đó đã dùng mọi hình phạt dã man để khủng bố tinh thần các thánh Tử đạo Việt nam, nhưng các Ngài đã anh dũng chịu đựng vì Chúa. Không có hình phạt nào có thể tách rời các Ngài ra khỏi tình yêu của Chúa.

Những hình phạt mà các Thánh Tử Đạo phải chịu là :

– Bá đao : bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho dù 100 miếng. Cách chết này có một vị.

– Lăng trì : chặt chân chặt tay trước khi bị chém đầu. Cách chết này có 4 vị.

– Thiêu sinh : bị thiêu sống. Chết cách này có 6 vị.

– Xử trảm : bị chém đầu. Chết cách này có 75 vị.

– Xử giảo : bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai đầu dây cho đến chết. Cách chết này có 22 vị.

– Chết rũ tù : bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù. Chết cách này có 9 vị.

Giai đoạn lịch sử thời 117 thánh Tử Đạo Việt Nam kéo dài đúng 117 năm, tính từ hai vị tử đạo tiên khởi 1745 (thánh Phanxicô Federich Tế và Matthêu Liciniana Đậu) đến vị cuối cùng 1862 (thánh Phêrô Đa), qua các triều đại vua Lê – chúa Trịnh, Tây Sơn và triều Nguyễn (Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức).

Gương anh hùng của các Thánh Tử đạo Việt nam thôi thúc chúng ta hãy theo gương các Ngài để biết tử đạo trong đời sống hằng ngày. Nếu ngày nay chúng ta không phải trải qua tử đạo như các bậc tiền nhân thì chúng ta có thể chấp nhận tử đạo trong đời sống thường nhật của chúng ta bằng cách sống lời mời gọi của Chúa qua trang Tin mừng hôm nay : “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23).

Theo Chúa là phải từ bỏ mình, chấp nhận mọi gian nan khốn khó, vâng theo thánh ý Chúa, sống trọn cuộc sống Kitô hữu để làm chứng cho Chúa. Đó là chúng ta đang trải qua cuộc tử đạo tuy âm thầm nhưng đòi hỏi nhiều hy sinh, nhiều cố gắng trường kỳ. Nếu không phải đổ máu ra mà làm chứng cho Chúa thì chúng ta có thể làm chứng theo lời nói của thánh nữ Têrêsa Hài đồng: “Ơn gọi tôi ở trong Giáo hội là yêu mến”.

Máu Tử Đạo của các thánh tại Việt Nam mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại niềm tin của mình. Lời đáp trả niềm tin này không phải chỉ một lần là xong nhưng là lời mời và lời đáp trong từng giây từng phút của cuộc đời. Tôi đang chọn Chúa hay tôi chọn tôi? Và nếu tôi chọn Chúa, tôi đã làm gì để chứng minh cho lựa chọn của mình? Chọn lựa của chúng ta hôm nay, có thể không đòi chúng ta phải đổ máu để làm chứng cho Chúa không kém phần gian khó. Đứng trước những bất công, ta có can đảm dám bênh vực, hay ta sợ phiền hà rồi im lặng? Trước một trận bóng đá, một bộ phim hay, một giấc ngủ ngon, một lời rủ đi chơi của bạn bè và tiếng mời gọi của Chúa để đến phụng thờ Chúa qua các bí tích ta chọn điều gì?

Ước gì, nhờ lời cầu bầu của các thánh Tử Đạo tại Việt Nam và nhất là sức mạnh của Thánh Thần Chúa, chúng ta đủ sức thực hiện những chọn lựa của mình. Nhờ đó, vào ngày sau hết, tất cả chúng ta sẽ cùng được đoàn tụ với cha ông chúng ta như lời hứa của Chúa Giêsu: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”.

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Khoan Dung

Khoan Dung


Truyện xưa kể lại rằng, một buổi tối một vị thiền sư già đi dạo trong thiền viện, chợt trông thấy một chiếc ghế dựng sát chân tường nơi góc khuất. Đoán ngay ra đã có chú tiểu nghịch ngợm nào đó làm trái quy định vượt tường trốn ra ngoài chơi, nhưng vị thiền sư không nói với ai, mà lặng lẽ đi đến, bỏ chiếc ghế ra rồi quỳ xuống đúng chỗ đó.

Một lúc sau, quả đúng có một chú tiểu trèo tường vào. Khi đặt chân xuống, chú tiểu mới kinh ngạc khi phát hiện ra dưới đó không phải là chiếc ghế mà là vai thầy mình, vì quá hoảng sợ nên không nói được gì, đứng im chờ nhận được những lời trách cứ và cả hình phạt nặng nề. Không ngờ vị thiền sư lại chỉ ôn tồn nói :“Đêm khuya sương lạnh, con mau vào thay áo đi”. Sự khoan dung của vị thiền sư già đã khiến chú tiểu suốt đời không quên được bài học đó.

Người xưa dạy: Rộng lớn nhất thế giới là đại dương, rộng lớn hơn cả đại dương là bầu trời, rộng lớn hơn cả bầu trời chính là lòng người.

Sự khoan dung, nếu được dùng đúng chỗ và đúng lúc thì còn có tác dụng mạnh mẽ hơn sự trừng phạt, bởi nó tác động rất mạnh đến nhận thức mỗi con người. .

Thậm chí, khoan dung với người cũng chính là khoan dung với mình, giải thoát mình khỏi những sự giận dữ, căm tức, hận thù, tranh chấp… nhờ đó mà cân bằng được cuộc sống của mình.

From: thunhannct & Thụ Mai

 

LÀM SAO TIN CHÚA MÀ VẪN KHÔNG MẤT LÒNG MẾN ĐỨC PHẬT?

LÀM SAO TIN CHÚA MÀ VẪN KHÔNG MẤT LÒNG MẾN ĐỨC PHẬT? (TRUYỀN GIÁO NGÀY NAY):

Nguyễn Ngọc Phú Đa

Reeng… reeng… reeng…!!!“Alô! Tôi là… xin nghe!” “Ồ, chào cậu, mình là Bản đây. Chiều mai rảnh không, mời ông bạn đi ăn cơm với gia đình mình nhé. Có chuyện rất cần bạn chia sẻ tâm tình”. Tôi coi lịch và thấy không có gì cản trở, nên nhận lời. “Mai mình sẽ đến vào lúc 18h nha”.

Đó là một cú điện thoại của một người bạn thân gọi đến từ Đồng Nai. Vợ chồng anh chị ở ngoài bắc, nhưng vào trong nam lập nghiệp làm ăn.

Đúng hẹn, tôi đến nhà anh bạn lúc 18h ngày hôm sau. Gặp tôi, vợ chồng anh bạn đon đả, tay bắt mặt mừng, mời tôi vào nhà uống nước. Sự thân thiện của anh chị vốn là bản chất đã có từ lâu. Tôi thấy quý anh chị và các cháu vì tính hồn nhiên, chân thành của họ. Ngồi một chút, anh nói với tôi:

“Bản có vợ chồng thằng bạn cũng thân lắm, nhưng chỉ tội hơi buồn vì vợ nó là đạo Công Giáo, còn chồng lại theo đạo Phật. Ngày chúng nó lấy nhau làm phép chuẩn thôi[1]. Khi ấy, hai bên ai cũng đồng ý, nhưng khi có con rồi, các cháu cũng chuẩn bị đến tuổi đi học, nên 2 vợ chồng thấy lo. Lo là vì sau này không biết giáo dục các cháu theo tôn giáo nào! dựa vào giáo lý Đức Phật hay Chúa Giêsu để định hướng cho chúng nó, nên mỗi khi đụng đến vấn đề này, là vợ chồng cãi nhau. Mình là bạn thân với chúng nó, Bản thấy thế, nên cũng buồn. Lát nữa mình có mời vợ chồng nó đi ăn cùng, thấy thuận tiện,  muốn thầy chia sẻ với vợ chồng nó một chút để làm sao cho chúng nó dung hòa, nếu không Bản nghi đổ vỡ lắm!”.

Nhìn đồng hồ, tôi thấy 19h rồi, và thế là tôi cùng vợ chồng anh Bản chạy đến nơi chúng tôi sẽ ăn tối cùng nhau.

Vừa mới dựng xe xong, quay sang thì thấy vợ chồng anh đó cũng tới. Chúng tôi vào bàn ăn, và công việc đầu tiên là phần làm quen. Anh Bản lần lượt giới thiệu tôi với mọi người và ngược lại. Qua giới thiệu, chúng tôi tỏ vẻ thân thiện với nhau ngay từ giây phút ban đầu.

Sau đó, chúng tôi cùng nhau ăn cơm, và đến khoảng giữa bữa, vợ của anh bạn, chị Tuyết, chị là người Công Giáo, lấy anh Bình là người Phật Giáo. Vì biết tôi là thầy tu, nên chị chủ động gợi chuyện: “Thưa thầy, con rất muốn chồng con phải theo đạo Công Giáo! Nhưng anh không chịu và ngược lại, anh cũng bắt con theo Phật Giáo! Thầy nghĩ sao và cho chúng con lời khuyên”. Tôi hỏi lại chị: “Tại sao chị yêu cầu anh phải theo đạo Chúa?”. Chị trả lời: “Tại vì gia đình con theo Chúa từ nhiều đời nay rồi, với lại con thấy Chúa tốt lành quá, bỏ Ngài, con thấy có tội… và nhất là con sợ mất linh hồn lắm thầy ạ!”. Tôi quay sang hỏi anh: “Anh Bình! Anh có muốn theo Chúa không?”. Anh trả lời: “Con làm sao theo được! Nhà con sùng Phật nhất làng đó! Bác bên bố và cậu bên mẹ là Hòa Thượng trụ trì những chùa lớn ở ngoài bắc. Còn em trai của con là sư thầy, đang trụ trì một chùa bên quận 8, gia đình con như thế, làm sao con có thể bỏ Đức Phật để đi theo Chúa được”. Nghe đến đây, tôi đáp lời: “Anh ạ, tôi không bảo anh bỏ Đức Phật và đi theo Chúa đâu, chị đây cũng vậy thôi, nhưng có khi chị diễn tả hơi chân thành và đơn sơ, nên anh hiểu chưa đúng đấy thôi”. Lúc đó, anh hỏi lại tôi: “Vậy theo thầy, con phải hiểu và làm thế nào?”. Tôi nói: “Trước tiên, tôi thấy Đức Phật là một đấng rất đáng kính. Ngài đã dám chấp nhận từ bỏ con đường giàu sang nhung lụa chốn triều đình, và đã nhất quyết bỏ lại tất cả khi đã giác ngộ ra chân lý ‘đời là bể khổ’ và ngài đã tìm ra con đường để giải thoát. Con đường ấy được thể hiện trong triết lý ‘Tứ diệu đế’, ‘Thập nhị nhân duyên’ và ‘Bát chính đạo’. Qua đó, ngài cũng mời gọi mọi người đi theo con đường mà ngài đã tìm ra để đạt được hạnh phúc. Đức Phật thật tốt. Tuy nhiên, khi được học trò hỏi: ‘Thưa thầy, Chân Lý ở đâu?’ Ngài đã không tự nhận mình là Chân Lý, nhưng âm thầm chỉ tay lên Trời. Như vậy, ta hiểu, Đức Phật không tự coi mình là Chân Lý, mà Ngài đã chỉ lên Trời, Chân Lý ở trên đó! Ngài đóng vai trò là người dẫn đường để đưa người ta đến gần Ông Trời, gặp được Ông Trời và được ở với Ông Trời là Chân Lý tuyệt đối. Vì thế, với người Công Giáo, chúng tôi rất mến Đức Phật, bởi vì ngài cũng như chúng tôi là tin Ông Trời, Thượng Đế, Đấng Tạo Hóa. Tuy có nhiều cách gọi khác nhau, nhưng  những tước hiệu đó, bên chúng tôi gọi Ngài qua một tên chung là Thiên Chúa”. Nghe đến đây anh tỏ vẻ đắc trí. Nhưng anh hỏi tiếp: “Bây giờ làm thế nào để con theo Chúa mà không bỏ Đức Phật? Bởi vì con thương và thấy tội Đức Phật quá. Con cũng thấy có một số người khi đã tin theo một tôn giáo khác, thì ngay lập tức, họ quay lưng lại với Đức Phật! Thậm chí, họ coi Đức Phật rất tầm thường, nếu không muốn nói là báng bổ ngài. Nếu mà thầy bắt con cũng như họ là con nhất quyết không theo đạo Chúa đâu!” Tôi bảo anh: “Anh theo Chúa thì đúng rồi, bởi vì Chúa là Đấng dựng nên trời đất, muôn vật, muôn loài, trong đó có loài người và cũng có cả Đức Phật luôn. Anh theo Chúa thì được cả Chúa và cũng có luôn Đức Phật. Nhưng anh phải hiểu là Chúa thì chúng ta tôn thờ Ngài, bởi vì nhờ Ngài, thì mọi sự mới hiện hữu trên trần gian này. Còn Đức Phật thì chúng ta tôn kính ngài như các bậc hiền nhân, như các thánh bên Công Giáo! Được chứ?”. Đến đây, tôi nhận thấy anh Bình tỏ vẻ hài lòng và thuận theo cách giải thích của tôi và có thiện cảm với đạo Công  Giáo. Tôi nói thêm: “Nếu anh theo đạo Chúa, mà anh quay lưng với Đức Phật thì không thể được”.

Đến đây, tôi nhớ lại trong buổi học về môn đối thoại liên tôn, cha giáo nói: “Anh em khi đến chùa, mình vẫn có thể thắp hương vái Đức Phật để tỏ lòng tôn kính ngài, vì điều này không ảnh hưởng gì đến niềm tin của ta, nhưng lại còn thể hiện nét đẹp rất nhân văn. Tuy nhiên, nếu vì hành vi thắp hương của ta cho Đức Phật mà gây hiểu lầm nơi những người chung quanh và ta ngầm hiểu là họ nghĩ đây là hành vi tôn thờ Đức Phật thì không nên, vì chúng ta được phép tôn kính ngài chứ thờ là thờ một Thiên Chúa mà thôi”.

Rồi trong đầu tôi cũng hiện lên câu chuyện của cha Piô Ngô Phúc Hậu, một nhà truyền giáo nổi tiếng và rất thành công tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Khi ấy, ngài cũng gặp phải trường hợp gần giống như vậy, đó là một bà cụ xin theo đạo Công Giáo, bà theo đạo Chúa vì thấy ông cha nói về Chúa hay quá, nhưng khi Rửa Tội xong, bà cứ buồn và thấy thương Đức Phật! Lúc đó bà hỏi cha Piô: “Cha ơi, tôi theo đạo Phật từ nhỏ. Tôi thương Đức Phật quá. Bây giờ tôi theo Chúa, cha cho tôi giữ bàn thờ Đức Phật nha!” Cha Hậu đang trầm ngâm, thấy vậy, bà tiếp lời: “Đức Phật tốt lắm ông cha ạ. Tôi thương ngài lắm”. Sau đó cha Hậu đánh liều bảo bà: “Bà cứ thương Đức Phật đi. Tôi cũng thương ngài nữa, nhưng mà Chúa thì để trong lòng kiếng, chỗ quan trọng, còn Đức Phật là hiền nhân thì để ở kế bên Chúa, thấp hơn Chúa, bà chịu không?”. Bà vui mừng và sẵn sàng đón nhận đề nghị của Cha Hậu. Hôm sau, cha Hậu lên trình Đức Cha về sự việc này, Đức Cha nói: “Được lắm! Cha có sáng kiến hay”[2]. Cứ thế, dần dần người dân Miền Tây theo đạo Công Giáo khá đông, và ngày nay, họ sống hài hòa giữa các tôn giáo với nhau trong lối hiểu, trong cách nói, và trong việc tham gia những công ích chung[3].

Thực vậy, Đức Kitô đã chết cho mọi người. Vì thế, “…ta phải tin chắc rằng Chúa Thánh Thần hằng ban cho mọi người khả năng tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua theo một cách thức mà chỉ duy một mình Thiên Chúa biết” (Gs 22e). Thần Khí sẽ đưa tất cả về với Đức Kitô, vì thế, mọi người đều có khả năng hướng về Đức Kitô[4]. Quả thật, các đạo dẫn đến Đường là Đức Kitô, qua “luật ghi khắc trong lương tâm” (x. Rm 2, 15) cần phải được mọi người tôn trọng.

Mong thay ngày nay, với người Công Giáo, chúng ta cần có cái nhìn đối thoại hơn với Đạo Phật cũng như với các tôn giáo khác, cần  hiểu đạo Phật và giáo lý của ngài, ta sẽ dễ dàng có một cái bắt tay thân thiện để cùng nhau thăng tiến đời sống tâm linh cho con người.

Tinh thần này cũng được Hội Đồng Giám Mục Việt Nam định hướng qua thư chung 2003, trong đó có đoạn viết: “Thăm viếng thân hữu các thành viên tôn giáo bạn. Việc thăm viếng các thành viên tôn giáo bạn và nhất là thăm viếng các gia đình cũng như cá nhân ngoài công giáo là trình bày Phúc Âm một cách cụ thể. Thăm viếng để chúc mừng khi vui, an ủi khi buồn, nâng đỡ khi gặp hoạn nạn là những trang Phúc Âm sống động giúp anh chị em ngoài công giáo nhận rõ chân dung Chúa Giêsu Cứu Thế và hiểu biết đạo Chúa một cách chính xác hơn. Trao đổi với người ngoài công giáo về một đề tài chung. Từ đó, chúng ta nhận ra trong thời đại ngày nay, việc đối thoại có ý nghĩa rất quan trọng, sẽ dẫn đến thông cảm, hiểu biết và tôn trọng nhau hơn” [5].

Có được cái nhìn như thế, thì còn đâu trong tâm tưởng một thái độ kỳ thị, coi thường và quay lưng lại với nhau nữa.

Thật mong thay!

Sài gòn, kỷ niệm lễ các thánh tử đạo Việt Nam, 17-11-2013

Nguyễn Ngọc Phú Đa


[1] “PHÉP CHUẨN” là phép của giáo quyền chuẩn chước để được thành hôn với nhau, giữa một người đã chịu phép Rửa Tội và một người chưa được Rửa Tội. Tháo cởi luật trong một trường hợp riêng biệt.

[2] Xc. Lm. Piô Ngô Phúc hậu, Nhật Ký Truyền Giáo, “Đức Phật Mến Yêu” truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2013, trên: http://nguoisamarinhanhau.com/diendan/cac-bai-viet-cong-giao/nhat-ky-truyen-giao-duc-phat-men-yeu/

[3] Xc. ĐGM Stêphanô Tri Bửu Thiên khai mạc Hội ngộ Liên tôn 2013, truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2013, trên: http://tgpsaigon.net/video/20131105/23754

[4] Một số nhà thần học nói về một yếu tố hiện sinh siêu nhiên (supematural existential), là một “yếu tố thuộc về Đức Kitô” (christic existential).

[5] Thư chung HHGM VN 2003, số 11

ĐỪNG SỢ NGÀY TẬN THẾ !

ĐỪNG SỢ NGÀY TẬN THẾ !

Phan Sinh Trần

Ai trong chúng ta không hãi hùng, khiếp sợ khi nghĩ đến những khó khăn, gian nan chờ đón con người trong những ngày gần đến tân thế. Không sợ sao được khi mà chỉ một cơn động đất kèm theo sóng thần Tsunami ở lòng Ấn độ dương vào năm 2004, nó đã có sức mạnh tương đương 23 ngàn quả bom nguyên tử nổ ở Hiroshima, các đợt sóng thần đổ vào bờ, có khi cao tới 15 mét đánh vào 11 quốc gia trải dài từ Phi Châu tới Á Châu làm 150 ngàn người chết.

Sách Lu ca cho biết khi gần đến Ngày Tận Thế thì sẽ có các điềm sau đây :

Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước nọ. Sẽ có những cuộc động đất lớn mọi nơi; sẽ có ôn dịch đói khát, những hiện tượng kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể. Nhưng trước những điều đó, người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các hội đường và ngục tù, điệu các con đến trước mặt các vua chúa quan quyền vì danh Thầy; các con sẽ có dịp làm chứng (Luca 21, 10-13)

Thú thực với các Bạn, tôi đã rất lo cho con cháu của mình khi nghĩ đến Ngày Tận Thế mà chúng phải chịu đựng, khi tôi nhìn thấy ngay từ thời kỳ này của mình, có biết bao nhiêu là những điên loạn, trong xã hội hôm nay, khi mà mọi thứ đều đang xuống cấp và tan rã ra từng mảnh kể cả những giá trị vĩnh viễn như : tình yêu, gia đình, hiến dâng, và sự thánh thiện bên trong lòng tòa thánh Roma của Giáo Hội nữa. Đó là chưa kể đến những tội lỗi khủng khiếp như thiếu nữ phá thai giết hơn 1.5 triệu thai nhi một năm ở Việt Nam, nếu tính theo tỉ lệ giết trong 1000 dân thì vào loại cao nhất trên thế giới, giết nhiều gấp ba lần Trung Quốc, giết nhiều gấp gần bốn lần Mỹ . ( Nguồn : Alan Guttmacher Institute report). Cả một thế giới rối loạn phải không ?

Nhưng mà… khi tôi đến với Lời Chúa, Được Chúa dây dỗ qua Lời của Ngài, dần dần, ta sẽ có cái nhìn rất khác về ngày Tận Thế, nhưng trước hết xin hãy nói về các an ủi của Chúa dành cho ta trong thời mạt vận trước đã:

  • o Tội lỗi càng nhiều thì ơn tha thứ và thánh hóa càng tra`n ngập hơn nữa, tuy chưa bao giờ con người phạm tội nhiều như bây giờ nhờ các phương tiện văn minh thí dụ như thanh niên xem phim sex dễ như bật máy tính lên, nhưng chúng ta cũng được an ủi khi mà chưa bao giờ việc làm chứng cho Chúa, việc truyền giáo qua Internet lại dễ dàng như bây giờ. Trang mạn Facebook tên là “Mỗi ngày với Chúa Jesus” là địa chỉ mạng có nhiều người đến tìm hiểu và đối thoại nhất trên Internet. Twitter của Đức Thánh Cha cũng rất được ái mộ với 10 triệu người đọc trong một thời gian ngắn và còn tiếp tục gia tang mãnh liệt.
  • o Càng nhiều người bỏ Đạo chẳng hạn như tại Pháp chỉ còn dưới 5% đi nhà thờ thì lại càng có nhiều Tín Hữu sốt sắng và yêu mến Chúa. Chưa bao giờ mà ơn Thánh hóa của Chúa Thánh Linh đầy dẫy và có thể thấy nhan nhản khắp nơi như thời này. Nhìn ra chung quanh, đâu ta cu~ng thấy có những người yêu mến Chúa quá đỗi, họ chầu Thánh Thể và Nghe Lời Chúa qua Kinh Thánh ngày đêm không ngưng nghỉ, có một hứng khởi kỳ lạ trong đời sống của Anh Chị Em này. Niềm vui của Chúa qua nụ cười đơn sơ và rạng rỡ của họ là điều ai cũng thấy. Thứ niềm vui có thể lây lan cho bất kỳ ai gặp họ ! Lời cầu nguyện của họ rất tha thiết và thường được Chúa nhận lời.

Kinh Thánh nói: “Sẽ xảy ra trong những ngày sau hết, Thiên Chúa phán:Ta sẽ đổ Thần khí Ta trên mọi xác phàm. Và con trai, con gái các ngươi sẽ tuyên sấm, thanh niên của các ngươi sẽ thấy thị kiến, kẻ già lão trong các ngươi sẽ chiêm điềm mộng” ( CVTD 2:17).

Không thể kể hết các điển hình, nào là bác trên 70 tuổi đi làm chứng về Chúa ở những vùng Cao Nguyên hẻo lánh nhất, làm cho nhiều người tin yêu Chúa, nào là bà già 90 tuổi lập điểm truyền giáo ở Cà Mau với hàng mấy trăm tín hữu mới, họ đã đến và đi theo Chúa lúc đầu vì được Chúa chữa lành và sau đó vì yêu mến Chúa, nào là một em thiếu niên ngoại đạo, tin Chúa rồi làm cho cả nhà tin yêu Chúa, nào là đại đức Thích Nhật Huệ bỏ các bạn sư tăng, bỏ Chùa mà đi theo Chúa, và trỏ thành một dũng sĩ yêu mến Chúa , nào là chiến dịch một triệu người nhịn ăn 40 ngày để ăn năn và cầu thay cho nước Mỹ và nhân loại… Đã có biết bao nhiêu người trở nên những giọt nước trong giòng thác cứu độ của Chúa.

  • o Chưa bao giờ mà lòng tham tiền và lệ thuộc vật chất lại đến mức tệ hại như thời đại chúng ta, nó xảy ra ngay cả tại các quĩ đầu tư lớn nhất, uy tín nhất và làm cả thế giới rơi vào suy thoái năm 2008. Nhưng cũng chưa bao giờ có tiền lệ trong lich sử nhân loại, người khôn ngoan nhất về chứng khoán và giầu nhất nhì thế gian lại dùng toàn bộ tài sản của mình để mua nước Trời qua cách bố thí cho người nghèo. Đó là ông Warren Buffet, ông còn nói thêm “giá mua nước Thiên đàng là rẻ”. Ông tỷ phú Bill Gate cũng thuộc loại dành gần hết tài sản của mình cho quĩ người nghèo này.

* Thử thách càng nhiều thì ơn Chúa càng nhiều, Cha trời không để chúng ta đơn độc, vô vọng trong cuộc chiến thử thách với Ma quỉ. Sách Tông Đồ Công Vụ 2:20-21, đã trích lời tiên tri Ê dê ki en là: “Mặt trời biến thành tối tăm,và mặt trăng sẽ thành máu, trước khi đến Ngày vĩ đại huy hoàng của Chúa. Và sẽ xảy ra là mọi kẻ kêu Danh Chúa sẽ được cứu”. Bạn biết đó, Chúa yêu chúng ta biết bao! Người chết cho chúng ta được sống, không có lý gì Ngài sẽ bỏ mặc chúng ta. Không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa. “Vì chưng các sự thống khổ của Ðức Kitô tràn đến trên chúng tôi thế nào, thì nhờ Ðức Kitô, sự an ủi chúng tôi cũng được đầy tràn thể ấy” ( IICor1:5)

* Đừng sợ thử thách vì bản thân thử thách tạo nên thực đức, tạo nên lòng cậy trông cao độ, thánh Phaolo, các Tín hữu tiên khởi đều trải qua thử thách sống còn và có kinh nghiệm này :

* Quả vậy, hỡi anh em, chúng tôi không muốn để anh em không hay biết về nỗi gian truân đã xảy đến cho chúng tôi ở Tiểu Á. Thật chúng tôi đã phải khốn khó ê chề đến cực độ, quá sức mình, bí đến đỗi không trông sống nổi. 9 Nhưng trong thâm tâm, chúng tôi đã đành phận với án tử rồi, để chúng đừng còn nương cậy vào mình, nhưng là vào Thiên Chúa, Ðấng làm cho kẻ chết sống lại. (IICorinto 1:3-7)

* Thời sau hết là dịp tốt để ta tuyên xưng đức tin và giặt áo mình trong máu tử đạo. Tình yêu cao hơn hết là tình yêu có thể vượt thắng sự sợ hãi vì cái chết. Chúa đã nói “Đừng sợ” , Chính Đức Chúa Thánh Linh sẽ giúp ta thực hiện trọn vẹn hy tế này.

Trong thử thách ta hãy hướng về ánh sáng Thiên Đàng, biết rằng ta đang trên đường về nhà Cha nơi an bình vĩnh hằng, nơi ta sẽ được chiêm ngắm đấng vô cùng đẹp đẽ mà mình trông mong bấy lâu trong niềm vui thiên thần của sự Ca Ngợi.

Mời Bạn cùng chiêm ngắm niềm vui được tử đạo của một vị tiền nhân.

Ngày 12-9-1845, Cha Giuse Maria Diaz Sanjurjo, người Tây Ban Nha, từ Macao đặt chân tới Yên Trì và đến địa sở của Cha Rivas rồi tới nơi trú ẩn của Ðức Cha Hermosilla. Sau cùng ngày 17-12 Cha đến nhiệm sở Lục Thủy là chủng viện hiện có Cha Marti và Alcazar. Tại đây cha học tiếng Việt và được đặt tên là An, vì cha đến vào lúc đạo Công Giáo không bị bắt bớ. Nhiệm vụ của Cha là đào tạo các chủng sinh lên chức linh mục…

Tuy nhiên từ khi có tầu Pháp đến gây hấn năm 1856 thì thái độ của quan thượng đổi hẳn, ông triệt để thi hành lệnh cấm Đạo và giết tín hữu của triều đình. Tỉnh Nam Ðịnh lại là nơi có nhiều cơ sở đạo của các cha dòng Ðaminh cũng như hội thừa sai Paris.

Ngày lễ Thăng Thiên, 21-5-1857 quân lính trên tỉnh về bao vây Bùi Chu bắt được Ðức Cha An và mấy vị quí chức, đóng gông giải về tỉnh.

Ðức Cha bị tra khảo ghê gớm lắm nhưng cương quyết chỉ tuyên xưng đức tin Công Giáo nên bị các quan giam vào trong ngục không ai được đến thăm. Trong hai tháng, một linh mục đã trá hình đến ban bí tích cho đức cha ba lần. Ban ngày đức Cha phải đeo gông và xích, ban đêm phải cùm chân, nhưng trong thư gửi cho các bạn, đức Cha viết: “Tâm thần tôi vui sướng và hy vọng được đổ máu mình hòa lẫn với máu châu báu của Chúa Cứu Thế đã đổ ra trên Calvario tẩy sạch các tội khiên. Tôi trông cậy vào lời cầu nguyện của anh em để được ơn can đảm và bền chí đến cùng. Tôi biết không còn sống được bao lâu, nhưng với những thương tích đẫm máu tôi thấy thời gian thật lâu dài. Tôi trông mong Thiên Chúa dùng những đau đớn này để tẩy sạch mọi tội lỗi của tôi“.

Trong khi có tin đồn đức Cha sẽ phải giải về Huế và bị trục xuất về Âu Châu, ngài viết cho cha bề trên dòng: “Xin Thiên Chúa thương xót đến tôi và đến địa phận mà cho tôi được đổ máu ra vì lòng yêu mến Ðức Chúa Giêsu rất nhân ái mà người ngoại đạo khinh rẻ một cách mù quáng. Tôi rất vui mừng và bình an chờ đợi giây phút lưỡi gươm đưa ngang cổ tôi và linh hồn tôi sẽ thoát bỏ xích xiềng và thân xác hay hư nát mà bay thẳng vào lòng lân tuất của Ðấng tạo dựng nên tôi. Thế nhưng tôi rất thất vọng và sợ hãi phải đem về Huế và bị trả về Âu Châu. Tôi phó thác tuân theo ý định quan phòng của Chúa, tôi thương cho anh em còn phải gặp nhiều gian lao. Chớ gì Thiên Chúa dùng máu của tôi để làm bảo chứng hòa bình. Hãy can đảm và tín thác vì bàn tay Chúa không bị thu ngắn mãi“.

Các quan lớn tỉnh Nam Ðịnh đã hội nhau và định án “ … Sau khi đã cẩn thận xem xét chúng tôi quyết định rằng tù nhân phải chém đầu ở nơi cao để mọi người xem thấy, sau đó xác phải ném xuống sông, như thế khắp nơi biết được lệnh Vua thẳng nhặt“.Vua Tự Ðức đã phê vào bản án .

Lính đeo gông vào cổ rồi dẫn Ngài ra nơi xử. Ðức cha giữ vẻ mặt tuơi cười, một tay đỡ gông một tay nâng xích, tới pháp trường, lính đứng thành hình vuông chung quanh đức Cha, quan lãnh binh đứng ở ngoài, quan phó đứng bên cạnh. Người ta trải chiếu xuống đất và đặt một tấm vải to, ba bộ áo Ngài vẫn mặc ở trong tù, một cái gối để đức Cha ngồi lên trên rồi họ trói tay lại ở đàng sau lưng. Ðức Cha chìm đắm trong cầu nguyện. Lính dựng cọc sau lưng, lấy giây thừng quàng chung quanh ngực rồi bụng và cột vào cọc. Quan chỉ huy hỏi xem mọi sự đã sẵn sàng chưa và khi biết mọi sự đã xong, quan lãnh binh cho lệnh chém sau tiếng trống. Nhưng mới sau tiếng trống thứ hai, tên lý hình đã chém một nhát đầu rơi khỏi cổ, rớt xuống tấm vải. Quan lãnh binh truyền tung đầu lên không, tức thì tên đao phủ nắm râu mà tung lên cao cho rơi xuống đất rồi lượm lên bỏ vào thúng, cắt giây thừng cho xác ngả xuống chiếu. Sau cùng lý hình lấy xác và cả đất nhuộm máu đỏ đem buông xuống sông. (nguồn: http://nguoitinhuu.com/martyrs/tudao43.html)

Tình yêu Thiên Chúa đã giúp Đức Giám Mục An, Maria Diaz Sanjurjo, vượt qua thử thách lớn nhất đời mình , đó là cuộc hành hình và cái chết chém đầu . Tình yêu của Ngài lớn hơn sự chết nhờ noi gương Đức Chúa Giê Su.

Xin cho chúng con luôn có niềm vui và tình yêu nơi Chúa Giê Su kính yêu!

Phan Sinh Trần

CHỨNG TÁ

CHỨNG TÁ

Ông kể với tôi:

<Tôi đau rất nặng, người ta đưa tôi vào bệnh viện, không ai chăm sóc tôi cả ngoài một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và tận tình giúp đỡ tôi.  Chị là mẫu người làm việc hết lòng, không vụ lợi.

Tôi thấy chị rất kiên nhẫn và dịu dàng với bệnh nhân, ngay cả bệnh nhân khó tính nhất vẫn nhận được nụ cười của chị.  Chị không biết pha trò làm cho bệnh nhân vui nhưng chị lại rất ngọt ngào khiến bệnh nhân được an ủi và cảm thấy cái đau được thoa dịu…

Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng trong phòng tôi và nhìn ra cửa sổ.

Tôi hỏi: “Chị quỳ làm gì thế?”.

Chị trả lời: “Tôi cầu nguyện cho ông, xin Chúa chữa lành thể xác cũng như tinh thần cho ông.”

Chỉ một câu ngắn đó thôi đủ làm cho tôi, là người bấy lâu không biết Chúa, bây giờ được biết Chúa.  Tôi thấy Chúa nơi người chị y tá ấy.  Giữa những đau khổ thể xác và cô đơn tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa.

Và đó là lý do và động lực thúc đẩy tôi theo đạo Công-giáo.>

Gương sáng và tình yêu thương là bằng chứng cho người ta nhận ra Thiên Chúa.

Có nhiều người không bao giờ thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ, vì họ có đạo đâu mà đến nhà thờ, nhưng họ thấy cách chúng ta biểu lộ tình thương với họ hay với những người chung quanh mà họ nhận ra Thiên Chúa của tình yêu.  Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo Chúa, khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những người bạn tốt của nhau và là con cái Thiên Chúa.

Mẹ Têrêxa Calcutta đã định nghĩa về một nhà truyền giáo như sau: “Đó là một tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài”. Mẹ Têrêxa không chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ.  Do đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêxa là dùng cả cuộc sống của mình để làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu, truyền giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu thương.

Giáo dân đóng một vai trò rất quan trọng trong việc truyền giáo.

Vai trò làm men, làm muối, làm ánh sáng, làm chứng nhân giữa đời.  Bởi vì giáo sĩ không sống chân bùn tay lấm nơi đồng ruộng với những nông dân; giáo sĩ không gồng gánh theo những người buôn bán đi vào đầu đường xó chợ; giáo sĩ không đầu tắt mặt tối làm việc trong những cơ xưởng, nhà máy, công trường…  Nhưng chính những giáo dân nhà nông, những giáo dân buôn bán, những giáo dân công nhân… có nhiệm vụ đem Chúa đến cho anh em mình nơi đồng ruộng, chợ búa, xí nghiệp, nhà máy… nghĩa là những nơi mà giáo sĩ không có mặt và không thể đi đến, thì giáo dân sẽ đóng vai trò chủ chốt và chủ động.  Bởi đó, không những giáo dân đóng vai trò yểm trợ cho giáo sĩ mà còn đóng vai trò chính yếu, thay thế cho giáo sĩ trong những nơi hay những hoàn cảnh đó.

Như vậy cách truyền giáo tốt nhất và có hiệu quả nhất vẫn là đời sống gương mẫu, đời sống Công giáo đích thực, đời sống thể hiện tình yêu thương của chúng ta.   Vì vậy, chúng ta hãy nắm lấy những cơ hội đi lại đây đó, khi thi hành công tác, khi làm ăn sản xuất, khi xê dịch thăm viếng… để nói hay làm chứng về Chúa qua lời nói, thái độ và cách đối xử đầy tình yêu thương của chúng ta.

From: Thiên Kim & Nguyễn Kim Bằng

NẾU CHÚA GỌI CON VỀ …

NẾU CHÚA GỌI CON VỀ …

Nếu bạn tin rằng bạn phải chết, rằng có một cõi đời đời, rằng bạn chỉ có thể chết một lần, và nếu [lúc bạn được Chúa gọi về] bạn có sai lầm lỗi, lầm lỗi ấy sẽ là mãi mãi, không thể sửa chữa lại được, tại sao bạn lại không biết lựa chọn để bắt đầu ngay bây giờ là làm tất cả với sức lực của mình để bảo đảm một cái chết tốt? – Thánh Alphonsus di Liguori.

Cái chết là một điểm dừng mà tất cả chúng ta ai cũng sẽ đến, và ai ai cũng biết điều đó, thế nhưng chúng ta lại làm tất cả để gạt nó sang một bên.  Chúng ta sợ nó đến nỗi chúng ta tìm mọi cách, thậm chí ngay cả mê tín dị đoan để thay đổi định mệnh của mình, tất cả để trốn tránh cái chết.  Thậm chí có nhiều nơi người ta mê tín đến nỗi đành lòng hạ danh giá của người con dâu đã có thai khi rước dâu về nhà bằng cách rước dâu vào ngõ sau để ngăn ngừa cái chết trong gia đình.  Đúng là một lối suy nghĩ ngớ ngẩn.  Sự chết là gì đối với mỗi người chúng ta mà tại sao chúng ta lại sợ nó đến như vậy?  Còn tệ hại hơn nữa là khi biết mình sợ cái chết mà còn dùng nó để lấn át và lấy quyền hành trên người khác. Thật sự chúng ta có bao giờ nhìn lại cái chết và tự hỏi nó có ý nghĩa gì đối với mỗi người chúng ta?  Có bao giờ chúng ta mang nỗi sợ hãi ấy vào cầu nguyện xin Chúa dạy cho chúng ta biết sự thánh thiêng của cái chết, để rồi chúng ta không lạm dụng nó cũng như không để nó làm chủ đời mình một cách ngớ ngẩn không?

Chúng ta thường nói “Sống gửi thác về”, nhưng trên thực tế con người chúng ta không thật sự đón nhận hành trình đi về đó.  Chúng ta chưa nhìn cái chết như là một cái gì đó thánh thiêng để rồi chúng ta biết đón nhận nó như là một ân huệ quý báu Chúa ban.  Nếu chúng ta biết đón nhận, chúng ta mới biết nhìn sự chết như là một người bạn thân luôn đồng hành với mình trên mọi ngóc nghách của cuộc sống. Thật sự nó là như vậy.  Cái chết chẳng bao giờ rời ta và luôn theo ta như hình với bóng cho đến khi chúng ta được Chúa gọi về.  Cái “Chết” như là một người bạn đồng hành thiêng liêng luôn thúc đẩy chúng ta hướng đến sự hoàn hảo và tinh tuyền của tạo dựng và cái giá cứu chuộc của Con Một Thiên Chúa.  Qua đó sự “Chết” sẽ giúp chúng ta chọn cách sống cho mỗi một hơi thở trong cuộc đời.

Chúng ta nhìn lại cuộc đời của Chúa Giêsu khi xưa Ngài sống mọi giây phút trong cuộc đời làm người với Thiên Chúa Cha.  Nhưng khi phải đối diện cái chết, Ngài cũng tỏ ra sợ hãi trong cái yếu đuối của một con người, và Ngài đã xin các môn đệ ở với Ngài.  Nhưng sau khi vật lộn với sự yếu đuối đó, Ngài đã chọn đối diện cái chết của Ngài với Thiên Chúa Cha và Ngài đã xin uống chén đắng đó theo ý Cha Ngài (cf. Lc 22:42).  Khi Chúa Giêsu đón nhận cái chết theo ý Cha Ngài, Ngài đối diện với những gì sẽ tới (bắt bớ, sỉ nhục, đánh đòn, vác thập giá, và đóng đinh) trong bình an.  Hơn nữa, trên thập giá Ngài đã chọn để được chết ở trong tay Cha Ngài, “Lạy Cha Con xin phó hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46). Nếu Chúa Giêsu là người cho chúng ta thấy chúng ta có thể đối diện với sự chết trong tâm tình tin yêu và phó thác, mỗi ngươi chúng ta cũng được mời gọi để xin ơn để bắt chước Ngài.

Như vậy thì mỗi buổi sáng thức dậy, chúng ta hãy xin ơn để được đồng hành với người bạn đời “Chết”, và xin Chúa dùng bạn “Chết” để nhắc nhở chúng ta phải sống với Chúa hôm nay như thế nào hầu chúng ta biết sẵn sàng đáp lại khi Ngài hỏi ta, “Con ơi, con đang ở đâu và đang làm gì?”, và chúng ta có thể trả lời với Ngài rằng, “Con đang ở trong sự hiện diện của Cha”.  Lắm lúc chúng ta nghĩ là chúng ta chỉ có thể ý thức được rằng chúng ta đang sống trong sự hiện diện của Chúa khi chúng ta đọc kinh, cầu nguyện, hoặc tham dự thánh lễ, nhưng đó chỉ là một phần cuộc sống của chúng ta.  Chúng ta có thể chọn để ở trong sự hiện diện của Chúa trong mọi nơi mọi lúc.  Chẳng hạn như chúng ta chọn để lo lắng và chú ý đến con cái và người thân, hơn là để mình bị thu hút vào TV, ngay cả khi mọi người đang cùng ngồi coi TV chung với nhau.  Hãy để ý đến những tâm tình khó chịu, không muốn rời TV khi ai đó đang cần sự giúp đỡ của ta, và xin ơn để được đáp trả nhu cầu của người thân trong yêu thương hơn là bị bắt buộc.

Vì nếu chính lúc này, Chúa gọi chúng ta về và hỏi, “Tâm tình con đang ở đâu với Cha?” thì câu trả lời sẽ tùy thuộc vào lựa chọn của mình trong lúc ấy.  Câu trả lời đó có thể là “Con đang kiềm chế sự khó chịu của con để con được nhìn thấy và phục vụ Chúa trong người thân”, hay là “Con đang thật sự cảm nhận ra tình thương của Chúa dành cho con qua người bạn” hay là “Con đang mệt mỏi bực bội vì đứa con của con không cho con ngồi yên để coi TV” hay là “Con đang ngồi coi bộ phim không tốt cho lứa tuổi của các con của con, nhưng vì con chưa có biết hy sinh và nhà chỉ có một cái TV nên con cứ để cho các con của con cùng coi” hay là “Con đang giận đội banh kia tại vì chúng chơi dở mà con đang bị thua độ.”  Câu trả lời nào là câu trả lời của mỗi người trong giờ phút linh thiêng ấy?

Trong phong tục Á Đông của chúng ta cũng thường hay dùng cái chết để đoạt lấy quyền hành trên người khác, hay làm khuất đi những gì chúng ta không muốn nhìn thấy.  Những người trẻ đang yêu thì dùng cái chết để đe dọa, để đòi hỏi được chiều chuộng hay muốn được lấy người kia làm sở hữu.  Còn những bậc cha mẹ lớn tuổi thì dùng cái chết để bắt con cái làm theo những gì mình muốn để xoa dịu nỗi âu lo hay xấu hổ của mình khi mình không còn một cách khuyên bảo nào khác.  Có những bậc cha mẹ muốn thấy con cái mình lập gia đình trước khi mình chết để cho mình cảm thấy được yên thân và an tâm, và dùng sự gần đất xa trời để cố tình đẩy con mình vào một tình cảm mà mình cảm thấy không có ổn.  Và cũng có những cha mẹ dùng tuổi tác già nua của mình để bắt con cái phục tùng và làm như ý mình muốn.  Ở đây chúng ta không nói là mình không nên lo lắng cho con cái, nhưng chúng ta cũng nên dâng sự lo lắng và xấu hổ của mình cho Chúa.  Chúng ta xin ơn để nhận ra rằng trước khi con mình là con của mình, con mình đã là con của Chúa, và khi mình muốn cho con mình được tốt đẹp hoàn hảo thì Chúa là Đấng Sinh Thành còn muốn cho đứa con của Ngài được tốt đẹp và hoàn hảo gấp bội.

Ước gì mỗi người chúng ta biết ngồi lại và suy tư về cái chết với Chúa, và xin Ngài dạy cho chúng ta ý nghĩa và sự thánh thiêng của sự chết, để qua sự hiểu biết đó chúng ta biết chọn sống mỗi giây phút với Ngài hầu chúng ta cũng được ngồi trong lòng Tổ Phụ Abraham như anh Larazô nghèo khó trong câu chuyện “Người phú hộ và anh Larazô” ở Luca chương mười sáu.

Củ Khoai

From: ngocnga_12

50 năm thờ cúng tổ tiên

50 năm th cúng t tiên


Lm. Trăng Thập Tự Võ Tá Khánh

Với bầu khí hiệp thông với các đẳng linh hồn trong tháng 11, loạt bài bất ngờ được mang một tên mới: “50 năm thờ cúng Ông Bà” để nhấn mạnh hơn tới cuộc kỷ niệm “Plane compertum est” đang đến. Tuy nhiên, các bài chia sẻ vẫn tiếp tục được đánh số thứ tự nối theo loạt bài trước để việc loan báo Tin mừng cho Dòng họ và việc hội nhập Đạo Hiếu vào Tin mừng là một.

50 NĂM THỜ CÚNG ÔNG BÀ – Chia sẻ 27

CHUNG MỐI ĐỒNG CẢM

Sau khi đưa lên mạng bài chia sẻ số 16, tôi nhận được bài viết của tác giả Mạc Tường tựa đề “Như gấm thêm hoa”, trùng khít với những điều tôi đang viết. Do đó, đề tài chia sẻ này xin được dành để giới thiệu cùng quí độc giả suy tư của anh Mạc Tường.

NHƯ GẤM THÊM HOA

Thấm thoát đã gần nửa thế kỷ từ ngày Tòa Thánh chấp thuận cho giáo dân Việt Nam được thờ cúng ông bà, tổ tiên theo cung cách cổ truyền, miễn là đừng thực hiện những hành vi mang tính dị đoan. Giáo Hội Công giáo Việt Nam cũng đã cổ võ khuyến khích thực hiện việc thờ cúng ông bà tổ tiên theo tinh thần trên. Riêng Giáo Phận Quy Nhơn, gần đây các bài giáo huấn số 32 và 34 của lịch phụng vụ năm C được rao đọc trước các thánh lễ Chúa Nhật đã nhấn mạnh tính quan trọng và cấp thiết trong việc thiết lập bàn thờ gia tiên, thực hiện các nghi thức lễ bái, nhất là những dịp giỗ, chạp, lễ tết, để nhờ đó có thể sớm xóa tan được thành kiến “theo đạo bỏ ông bà”.

Sau gần nửa thế kỷ, được khuyến khích hòa nhập với cộng đồng dân tộc, hầu xóa sạch những hiểu lầm và hàn gắn những khoảng cách không đáng có giữa người Công giáo và anh chị em lương dân, thử hỏi chúng ta đã hòa nhập đến đâu?

Thật đau lòng và đáng lo ngại! Hiện nay, trong các gia đình Công giáo, một số đã có bàn thờ gia tiên, nhưng thử hỏi có bao nhiêu bàn thờ được bài trí một cách đàng hoàng, nghiêm cẩn như ở các gia đình lương dân?

Bước vào nhà người Công giáo, trên bàn thờ Chúa cũng như trên bàn thờ gia tiên, thật khó mà tìm thấy một cặp nến màu đỏ như ở các gia đình lương dân. Tại sao chúng ta cứ nhất thiết phải dùng nến trắng trong khi nến đỏ đã được dùng rất lâu ở Việt Nam trước khi có những cây nến màu trắng lạ mắt có nguồn gốc từ Châu Âu?

Trong những dịp lễ lớn chúng ta dâng lên bàn thờ Thiên Chúa, bàn thờ gia tiên những thức ăn, thức uống, bánh mứt, rượu bia, nước ngọt… Nhưng liệu chúng ta có quen với việc dâng lên một mâm cơm cúng như anh chị em lương dân quen làm không?

Khi trong gia đình Công giáo có tang sự, chúng ta thường rước đoàn kèn Tây (“rất tốn kém và thổi những bản nhạc đời vô tội vạ”, như một Cha sở đã nói). Chúng ta có đủ can đảm rước một đoàn nhạc bát âm, với những nhạc cụ dân tộc (chỉ diễn những bản nhạc thuộc về tang lễ) như anh chị em lương dân thường làm không? Còn bao nhiêu điều tưởng chừng như nhỏ nhặt, thực ra lại là hố sâu ngăn cách, khó bề gần gũi giữa người Công giáo và anh chị em lương dân.

Nếu chúng ta không quyết liệt về nguồn, không triệt để canh tân, loại bỏ những cách biệt, thiết nghĩ việc xóa định kiến “theo đạo bỏ ông bà” chắc chắn còn xa, xa vời lắm!

Mong rằng tất cả nọi người Công giáo Việt Nam ý thức được tầm quan trọng và cơ hội mà Hội Thánh đã trao cho chúng ta. Không lý gì chỉ vì màu của cây nến; không lý gì chỉ vì chút ngại ngần trước mâm cơm cúng; không lý gì chỉ vì không quen với dàn nhạc bát âm, và chỉ vì những tiểu tiết tương tự mà công việc truyền giáo cứ phải mãi mãi bị ngáng trở!

Những hố sâu, rào cản cần được dỡ bỏ, san bằng để mọi người Việt Nam dễ cảm nhận Đạo Công giáo phù hợp với tấm lòng, tín ngưỡng, phong tục, tập quán của dân tộc Việt Nam. Được như thế, trong một viễn cảnh không xa ta có thể thấy hình ảnh các thợ gặt rộn rã với những bó lúa vàng trĩu nặng trên tay trên khắp cánh đồng truyền giáo Việt Nam bao la bát ngát. Và ngày ấy Giáo Hội Công giáo Việt Nam sẽ “như gấm thêm hoa”.

MẠC TƯỜNG

50 NĂM THỜ CÚNG ÔNG BÀ – Chia sẻ 28

QUYỂN GIA LỄ Công Giáo HAY KINH NGUYỆN GIA ĐÌNH

Thông cáo 1965 kết thúc: “Yêu cầu quý cha phổ biến rộng rãi và giải thích tường tận thông cáo này không những trong các nhà thờ mỗi khi có dịp, không những cho anh em giáo hữu mà cho cả người ngoài Công Giáo. Các vị phụ trách Công Giáo Tiến hành cũng phải lấy thông cáo này làm đề tài học tập cho các hội đoàn trong các buổi họp và các khóa huấn luyện”.

Nói chung, các cha đều có trình bày trên tòa giảng, cả trong những dịp tang lễ và hôn lễ, trong các lớp dự bị hôn nhân. Cũng có những người muốn thúc đẩy cho việc tái hội nhập vào văn hóa dân tộc tiến nhanh nhưng hình như không mấy ai hưởng ứng. Bài viết của anh Mạc Tường tiêu biểu cho nỗi âu lo thao thức của những người quan tâm tới việc khai mở con đường loan Tin mừng qua việc thờ cúng Tổ Tiên. Phải nói rằng, sau 50 năm, nếu để khai báo thành quả, hầu như chúng ta chưa làm được gì mấy. Lắm người bảo việc áp dụng huấn thị “Plane compertum est” cách nửa vời càng dễ gây phản tác dụng vì dễ khiến người lương nghĩ rằng người Công Giáo không thật lòng trong việc này.

Sau những năm tích cực nhập cuộc tôi nghĩ sự trì trệ có hai lý do. Ngoài lý do tự nhiên là thiếu tài liệu hướng dẫn cụ thể, hẳn còn có một lý do siêu nhiên khá bất ngờ là linh tính đức tin của người tín hữu chưa cho phép họ mạnh dạn tiến xa. Ở chia sẻ sau, tôi sẽ nói tới lý do siêu nhiên, còn ở đây xin trình bày lý do tự nhiên.

Thật ra, cho tới nay chưa có tài liệu hướng dẫn thực hành chính thức nào đi xa hơn những nguyên tắc trong hai bản thông cáo 1965 và 1974. Nhiều giáo dân muốn áp dụng nhưng có lẽ chỉ biết cách mơ hồ, không rõ phải làm gì trong thực tế.

Đi tìm hiểu cách thực hành của anh chị em lương dân, tôi sớm nhận ra rằng các truyền thống đạo hiếu được duy trì và phổ cập đồng bộ trong dân chúng có lẽ là do sự góp phần rất lớn của một quyển sách mỏng tên là “Thọ Mai gia lễ”. Cũng có một vài quyển gia lễ khác nhưng có lẽ quyển Thọ Mai thịnh hành nhất và có ảnh hưởng rộng nhất. Nay nếu muốn cho việc áp dụng thông cáo của Hội Đồng Giám Mục đi sâu vào tận các gia đình, cũng cần có một quyển “Gia lễ Công Giáo” với những chỉ dẫn cặn kẽ.

QUYỂN GIA LỄ Công Giáo HAY KINH NGUYỆN GIA ĐÌNH

Đang khi tôi suy nghĩ tìm cách thực hiện thì Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, giám mục Nha Trang, sau khi dự Thượng hội đồng Giám mục về gia đình, đã giao cho tôi dịch tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục. Tôi dịch xong và trình cho ngài thì ngài bảo làm một sưu tập những kinh theo tinh thần mới để dùng cho các gia đình. Yêu cầu ấy của ngài cho tôi hiểu ra rằng quyển “Gia lễ Công Giáo” không gì khác hơn là một quyển “Kinh nguyện Gia đình”, với những đầy đủ các chỉ dẫn cần thiết cho các gia đình, trong đó có những chỉ dẫn về tang lễ, kỵ giỗ và việc thờ cúng Ông Bà. Tôi đúc kết một bản thảo, đem in lụa dùng thử rồi sửa đi sửa lại. Khoảng năm 1986 thì có được ấn bản mới. Đức Cha Phaolô duyệt qua và cho phép dùng. Sau đó cuối năm 1997 ngài cho imprimatur và Tòa Giám mục Nha Trang đã chính thức xin phép xuất bản và in lại nhiều lần.

Quyển sách gồm hai phần. Phần đầu là sưu tập một số các kinh cũ, kinh mới, bài hát, thánh vịnh, lời nguyện. Phần hai là những chương trình giờ kinh khác nhau trong gia đình. Trong đó, mục thứ năm là “Những dịp đặc biệt trong gia đình”, với những hướng dẫn về cúng lễ gia tiên, dọn tất niên, tưởng nhớ gia tiên dịp tết nguyên đán, lễ giao thừa, lễ minh niên, lễ bổn mạng một người trong gia đình, giáp năm ngày rửa tội, thôi nôi hoặc sinh nhật, nghi thức lễ cưới ở gia đình, giáp năm ngày cưới, lễ giỗ và làm phép nhà. Mục thứ sáu là chăm sóc bệnh nhân và cầu nguyện cho người hấp hối. Mục thứ bảy là “Cầu nguyện cho tín hữu đã qua đời”, với những hướng dẫn về viếng thi hài, canh thức cầu nguyện tại tang gia, nhập quan, động quan và di quan, trước khi hạ huyệt, nghi thức hoả táng và nghi thức tiếp nhận di cốt về gia đình. Mỗi mục nhỏ ấy đều gồm những chỉ dẫn thực hành (giống như các “lời bảo” ngày xưa) và những kinh hoặc bài hát thích hợp (lấy ở phần đầu của quyển sách). Xin nêu mục nhỏ thứ nhất làm minh họa.

18. CÚNG LỄ GIA TIÊN (phiên bản 1986)

Thiên Chúa đã tự xưng là Thiên Chúa của các tổ phụ. Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của người sống (Mt 22,32). Bên kia cái chết các bậc tiền nhân nào đã thực sự “sống khôn thác thiêng” đều đang sống trong Thiên Chúa. Các tín hữu ở trần gian kết hợp với họ trong mầu nhiệm các thánh thông công. Do đó, khi nhớ đến gia tiên tổ phụ, người Công Giáo không làm một sự thờ phượng ở ngoài sự thờ phượng Thiên Chúa, nhưng thật ra là để nhờ đó mà thêm lòng biết ơn và kính mến Thiên Chúa là nguồn mọi tình phụ tử trên trời dưới đất (Ep 3,14). Đàng khác, khi nhớ đến các tổ tiên theo huyết thống, người Công Giáo cũng nhớ đến các tổ phụ trong đức tin.

Người Việt Nam có thói quen rất tốt: mỗi khi gia đình có việc buồn vui đều luôn tưởng nhớ gia tiên và biểu lộ tâm tình ấy bằng việc cúng lễ. Người tín hữu Công Giáo Việt Nam tiếp nhận truyền thống tốt đẹp ấy với một cái nhìn chính xác, phù hợp với đức tin Kitô giáo.

Mỗi gia đình nên có một bàn thờ gia tiên đơn sơ. Mà đã có bàn thờ thì nhớ thắp hương, đừng để hương tàn khói lạnh.

Hình thức sơ đẳng nhất của lễ gia tiên là mỗi sớm, mỗi tối, mỗi lần ra khỏi nhà và mỗi lần đi đâu về, ta thắp một cây nhang cắm lên bàn thờ và thinh lặng cầu nguyện một phút.

Ngày tết ngày giỗ nên giữ một cây hương cháy suốt ngày. Tránh những chi tiết trái đức tin và tránh tốn kém không hợp tình hợp lý. Về hình thức, chỉ cốt sao biểu lộ được tấm lòng và giúp các cháu nhỏ học được lòng biết ơn tổ tiên và biết ơn Thiên Chúa Tạo Hoá.

Khi cúng lễ, cần nhắc cho các cháu nhỏ nhớ: Đức tin Công Giáo dạy ta biết rằng người quá cố không cần đến thức ăn vật chất, các lễ vật chỉ nhằm bày tỏ lòng biết ơn kính nhớ mà thôi.

Lễ gia tiên thường do vị trưởng tộc hoặc người cha trong gia đình chủ lễ. Nếu vị này vắng mặt thì vợ hoặc con trai hoặc con dâu trưởng chủ lễ.

Chương trình đơn giản như sau:

1. Thắp hương đèn trên bàn thờ

2. Dấu thánh giá

3. Kinh Lạy Cha

4. Tạ ơn Chúa:

Xướng: Ta hãy tạ ơn Thiên Chúa đã đưa các bậc tổ tiên ta về với Ngài.

Đáp:

A. Chúa trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên

Và nhớ mãi lời xưa giao ước

B. Chúa đã thề với tổ phụ Ab-ra-ham

Rằng sẽ giải phóng ta khỏi địch thù

5. Cầu cho các tín hữu đã qua đời:

X. Ta hãy cầu nguyện cho các linh hồn ở luyện ngục

Đ.

A. Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ

Cho các đẳng linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi

B. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen.

6. Lời nguyện với tổ tiên (do vị chủ lễ đọc):

Kính lạy anh linh các bậc tổ tiên ông bà nội ngoại hai bên, cùng các bác, các chú, thím, cô dì, cậu mợ và mọi anh chị em đã qua đời.

Hôm nay nhân ngày. .. (nhân ngày đầu năm, cuối năm, hoặc nhân một ngày một dịp nào khác), chúng con xin thắp nén hương bày tỏ lòng tưởng nhớ và biết ơn. Kính xin thương cầu nguyện cho chúng con được bình an mạnh khoẻ, được hoà thuận êm ấm và được mọi điều tốt đẹp như ý Thiên Chúa muốn. ..

(Vị chủ lễ vái 4 vái. Những người hiện diện tuần tự tiến lên vái mỗi người 4 vái và cầu nguyện riêng. Ai không lên vái cũng không sao. Đến đây kết thúc trong thinh lặng hoặc cũng có thể hát một bài tạ ơn để kết thúc).

XIN GÓP Ý

Đó là mục thứ 18 trong phần II của quyển “Kinh Nguyện Gia Đình” và cũng là mở đầu cho phần “Gia lễ Công Giáo”. Có thể một số độc giả đã từng sử dụng quyển sách và biết phần hướng dẫn ở các mục khác tương tự. Quý độc giả nào chưa biết quyển sách, xin tải xuống từ địa chỉ:

http://gpquinhon.org/qn/download/tu-duc/Kinh-nguyen-gia-dinh/

Đóng góp của tôi trong quyển sách chỉ mới là một cố gắng cá nhân. Tôi đã cố gắng bám sát những trường hợp có thật và đa dạng để xây dựng các lời chỉ dẫn cho đúng thực tế. Dù vậy, còn rất nhiều thiếu sót.

Đã hơn 25 năm. Cả những bài hát trong đó đã nhiều bài bị đào thải. Nay chuẩn bị mừng 50 năm áp dụng huấn thị Plane compertum est, Ban Mục vụ Văn hóa Giáo phận Qui Nhơn đang duyệt lại toàn bộ để phát hành với tựa đề mới là SÁCH GIA LỄ Công Giáo.

Trong viễn tượng loan Tin mừng rộng lớn và lâu dài, các chỉ dẫn thực hành này cần được chỉnh sửa thật chu đáo. Do đó, tôi tha thiết ước mong quý độc giả chịu khó tải quyển sách xuống, xem kỹ mục thứ năm và thứ bảy của phần II và đóng góp ý kiến. Quý vị nào muốn góp ý trên bản thảo mới, chúng tôi sẽ gửi file vi tính của bản thảo. Chúng tôi mong nhận được các góp ý trước ngày 15-12 để có thể sớm hoàn tất việc biên tập.

Xin liên lạc về: tinmunggiesu@gmail.com

Xin chân thành cám ơn.

50 NĂM THỜ CÚNG ÔNG BÀ – Chia sẻ 29

50 NĂM LINH TÍNH ĐỨC TIN – NGHI THỨC CÚNG GIỖ

Xin được trình bày lý do thứ hai, lý do siêu nhiên, khiến việc áp dụng huấn thị Plane compertum est trong 50 năm qua tiến rất chậm. Suy cho kỹ, chúng ta sẽ phải cảm tạ Thiên Chúa vô cùng vì sự an bài kỳ diệu Ngài đã làm cho Giáo Hội tại Việt Nam trong lãnh vực này, nơi cuộc tranh luận 1610-1742 xưa kia cũng như nơi sự trì trệ 50 năm qua. Mãi đến hôm nay, cả những linh mục đã đọc kỹ hai thông cáo 1965 và 1974 vẫn thấy ngập ngừng liệu có nên khuyến khích giáo dân bày đồ cúng lên bàn thờ với các thức ăn như xôi, chè, thịt, cá. Sự ngập ngừng ấy không phải không có lý do. Vậy đâu là trở ngại và đâu là cách giải quyết?

Sau hơn 20 năm tích cực nhập cuộc, nghe ngóng, xem xét, suy tư và sáng tạo thể nghiệm, tôi nhận ra rằng nơi sự dè dặt ấy có ơn của Chúa Thánh Thần rất rõ. Sự dè dặt ấy có thể nói là một minh họa sống động hiếm hoi cho trường hợp thứ ba của ơn vô ngộ là cảm thức đức tin của Dân Chúa mà cha Phi Khanh Vương Đình Khởi gọi dịch rất chính xác là “linh tính đức tin” của các tín hữu (x. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 889). Mặc dù hai thông cáo 1965 và 1974 mở rộng cửa, cả các linh mục lẫn giáo dân đều cảm thấy có cái gì đó chưa ổn. Người ta linh cảm rằng ở đây, giữa ý nghĩa dấu chỉ tượng trưng và những ngộ nhận dẫn đến mê tín, ranh giới thật mong manh. Đang khi có những tác giả mới như Khải Chính Phạm Kim Thư (Nguyên tắc cúng, khấn, vái và lạy – dactrung.net) diễn giải các chi tiết một cách trong sáng, gần gũi với cách nhìn của Giáo Hội Công Giáo thì các sách nghi lễ hiện hành kết thúc các văn tế với lời mời tiền nhân về “phối hưởng” các lễ phẩm (ví dụ trong quyển “Tập Văn tế mẫu Cúng Gia Tiên”, Thái Vy biên soạn, Nxb Thanh Hóa,2007). Các bài văn tế hiện dùng thường dịch lại sát các bản văn xưa và cũng mang ý nghĩa mời người xưa về hưởng các lễ phẩm. Nói tắt, vẫn còn một tỉ lệ lớn bà con lương dân nghĩ rằng Ông Bà Tổ Tiên về hưởng của cúng.

Có nhìn vào thực tế ấy, ta mới hiểu được tính nghiêm túc của cuộc tranh luận kéo dài cả 130 năm từ sau cái chết của cha Matthieu Ricci (1610) và của huấn thị Ex quo singulari. Thực tế ấy cũng giúp chúng ta thông cảm với lập trường dứt khoát và cứng rắn của anh em Tin lành trong vấn đề “ăn của cúng”.

Những chi tiết văn hóa khi hội nhập vào cuộc sống người Kitô hữu phải được mặc lấy một ý nghĩa mới, nhưng đó là ý nghĩa nào? Ở đây, không thể xuề xòa hay nhập nhằng thỏa hiệp.

Thông cáo 1965 nói: “nếu cần, thì phải giải thích chủ ý của mình một cách khéo léo, hợp cảnh, hợp thời”, và thông cáo 1974 nói nếu “sợ có sự hiểu lầm nên khéo léo giải thích qua những lời phân ưu khích lệ, thông cảm…”. Thật ra đó là việc vượt quá khả năng người giáo dân bình thường. Ngay cả khi họ vẫn nắm vững và biết cách giải thích, khung cảnh thực tế của sự việc thường rất tế nhị, những giải thích như thế sẽ thiếu tự nhiên, lắm khi còn vô tình gây những căng thẳng không đáng có.

Để giúp vượt khỏi những ngập ngừng dè dặt kia cũng như những trường hợp khó xử này, cần có một quyển gia lễ hướng dẫn cặn kẽ cho việc áp dụng huấn thị Plane compertum est, để qua đó cả người giáo lẫn người lương đều có thể hiểu cách dễ dàng là Giáo Hội muốn dạy gì. Phiên bản “Kinh nguyện gia đình” 1986 của chúng tôi cũng chỉ mới nêu một số đề xuất mang tính dò dẫm. Sau hơn 25 năm thể nghiệm, chúng tôi thấy vấn đề khá rõ. Với phiên bản “Sách Gia lễ Công Giáo” sắp ấn hành, chúng tôi xin được mạnh dạn đề xuất một bản văn “nghi thức cúng giỗ” như sau. Rất mong được độc giả bốn phương, Công Giáo cũng như ngoài Công Giáo, góp ý hoàn chỉnh. Xin gửi về: tinmunggiesu@gmail.com

NGHI THỨC CÚNG GIỖ

Việc cầu nguyện trong ngày giỗ vừa là để dâng lời cảm tạ Chúa đã giải thoát các bậc tổ tiên, đưa về hưởng nhan Chúa, vừa là để cầu xin ơn giải thoát cho những người đang cần được thanh luyện, quen gọi là cầu hồn. Đối với những người mới qua đời, ta nên nhấn mạnh tới việc cầu hồn, còn đối với những người đã qua đời rất lâu năm, ta có thể chú trọng hơn tới việc dâng lời cảm tạ Chúa nhân từ đã thứ tha và giải thoát. Cần nhớ rằng chúng ta đang sống trong một thế giới lệ thuộc không gian và thời gian, còn tiền nhân đã khuất đang thuộc về một thế giới vượt ngoài không gian và thời gian, do đó lấy ý niệm “rồi” và “chưa” theo cách ta quen suy nghĩ ở đời này đem áp dụng cho thế giới đời sau không khỏi có phần khập khiễng. Nói đến đời sau là ta đang chạm đến những mầu nhiệm vượt khỏi mọi ý niệm cân đo đong đếm. Cũng nên nhớ rằng ngay cả những vị đã chết mà không chịu phép thánh tẩy, ta vẫn có thể tin rằng Thiên Chúa nhân từ và đầy quyền năng đã có cách cứu vớt họ trong Chúa Kitô và nhờ Chúa Kitô.

Cũng đừng quên rằng ta có thể cầu nguyện với những bậc tổ tiên đang được hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Nói đúng hơn, ta có thể xin họ cầu nguyện với Chúa cho ta. Khi còn sống, họ đã yêu thương cầu nguyện cho ta, thì khi đã về với Chúa, họ còn yêu thương ta hơn và lời cầu nguyện của họ còn hữu hiệu hơn.

Bữa ăn giỗ là để phát huy tình cảm gia đình và gia tộc, lắm khi là để giúp vượt qua những bất hòa bất thuận trong cuộc sống, để ai nấy lại thấy ấm tình hiệp thông và hiệp nhất. Do đó, từ chương trình đến cách sắp xếp chỗ ngồi, cần làm sao để cả người lớn và trẻ con đều tham dự tích cực, chan hoà trong tình hiệp nhất thân mật. Nên chú trọng hơn tới nội bộ gia tộc. Nếu mời vài người khách thì nên liệu sao để sự hiện diện của họ không ngăn cản sự thân mật giữa mọi người trong gia tộc.

Trên bàn thờ, có thể dùng nến hồng (ngụ ý xin Chúa ban phúc lành cho mọi người có mặt và vắng mặt) hoặc nến trắng (ngụ ý nói lên lòng tin, cậy và yêu mến Chúa). Cũng có thể dọn mâm cơm trước bàn thờ theo truyền thống dân tộc. Về nghi thức cầu nguyện, có thể theo một trong ba hình thức sau đây.

A. Hình thức thứ nhất:

– Gia chủ nói đôi lời tuyên bố lý do: giỗ ai, mấy năm, vài nét về người đã khuất (nếu là giỗ chung thì nói chung về những tiền bối liên hệ) và mời mọi người cầu nguyện

– Gia chủ ghi dấu thánh giá, xướng kinh Lạy Cha,

– Có thể đọc vài câu Lời Chúa

– Hát một bài

– Lời nguyện trên của cúng:

“Lạy Cha, xin chúc lành cho những của ăn Cha đã rộng lòng ban cho chúng con mà chúng con dùng để bày tỏ niềm hiệp thông thân thương và quý mến đối với người thân yêu đã khuất. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.”

– Lời nguyện lễ giỗ:

Lạy Chúa, chúng con xin ngợi khen cảm tạ Chúa nhân từ đã thương đưa các bậc tổ tiên chúng con về hưởng hạnh phúc với Chúa. Chúng con cũng xin Chúa đoái thương đến những linh hồn đã qua đời đang cần tới lòng từ bi vĩnh cửu của Chúa, xin đoái thương cho họ sớm được hợp đoàn cùng các thánh Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

(Có thể thêm: Lạy Chúa là Cha rất nhân từ. Chúa dạy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo. Hôm nay chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên. Xin Chúa trả công bội hậu cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.)

X. Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho các linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi.

Đ. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen.

B. Hình thức thứ hai

Chủ sự tuyên bố lý do rồi nguyện kinh trước bữa ăn hoặc hát một bài xin Chúa chúc lành rồi mời mọi người dùng bữa.

C. Hình thức thứ ba

Nếu cử hành nghi thức cúng giỗ theo truyền thống dân tộc thì thực hiện theo thứ tự sau đây

1. CHUẨN BỊ ĐỒ CÚNG

Sau khi dọn thức ăn, mọi người tề tựu nghiêm trang, chủ lễ cầu nguyện trên của cúng.

2. LỜI NGUYỆN TRÊN CỦA CÚNG

Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần

Lạy Cha là Chúa Trời Đất, là Cội Nguồn duy nhất và là Hạnh Phúc đích thật của muôn loài. Chúng con cảm tạ Cha đã ban những lương thực này để nuôi sống chúng con như đã nuôi sống những người đi trước chúng con. Giờ đây những người đã khuất không còn cần đến những lương thực này nữa nhưng trước khi chúng con cùng nhau dùng bữa tưởng nhớ (người thân của chúng con/họ/các ngài), chúng con muốn bày tỏ niềm kính trọng, mến thương và hiệp thông qua dấu hiệu thân thương của bữa ăn. Nhờ đó, chúng con cảm thấy người đã khuất vẫn hết sức gần gũi với chúng con. Nếu (người thân của chúng con/họ/các ngài) còn vướng mắc những lỗi lầm thiếu sót, cúi xin Cha thương sớm hoàn tất cuộc thanh tẩy để (người thân của chúng con/họ/các ngài) sớm được hưởng Tiệc vui đời đời. Cúi xin Cha cũng thương cho tất cả chúng con đây một ngày kia được chung hưởng niềm vui Nước Trời với Cha và với những người thân yêu đã đi trước chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Con Cha, là Thiên Chúa và là Chúa chúng con, là Đấng hằng sống hằng trị cùng Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn thở muôn đời. Amen.

(Nếu có sẵn nước thánh, chủ lễ nói những lời sau đây trước khi rảy:

– Thưa anh chị em, chúng ta cảm ta Chúa đã ban bí tích Thánh Tẩy để tái sinh chúng ta làm con cái Chúa. Nước thánh chúng ta dùng đây là nước tự nhiên nhưng chúng ta đã xin Chúa chúc lành để thành dấu hiệu nhắc chúng ta nhớ đến ơn làm con cái Chúa qua bí tích Thánh Tẩy. Có những người chưa được lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy bằng nước, nhưng lòng đã hướng về Chúa và đã cố gắng sống ngay chính theo lương tâm, thì cũng được Thiên Chúa thanh tẩy trong máu Chúa Kitô. Với nước thánh này rảy trên của cúng, chúng ta cảm tạ Chúa đã cho tiền nhân được làm người và hơn nữa, còn được làm con cái Thiên Chúa và được chung phần hạnh phúc đời đời với Chúa.

(chủ sự rảy nước thánh trên của cúng)

Mọi người cùng đọc chung Kinh Lạy Cha.

3. VĂN KHẤN

(Văn khấn đọc trước bàn thờ, nên viết ra giấy thật rõ ràng, bỏ những chữ thừa, để khi đọc không lẫn lộn, mất nghiêm túc)

VĂN KHẤN VỚI MỘT NGƯỜI ĐÃ KHUẤT TRONG NGÀY GIỖ RIÊNG

Ông (Bà/Cha/Mẹ/Bác/Chú/Thím/Cô/Dì/Cậu/Mợ/ Anh/Chị/Em) kính mến (hay thân mến),

Hôm nay là ngày giỗ (đầy năm) của Ông (Bà/Cha/ Mẹ/Bác/Chú/Thím/Cô/Dì/Cậu/ Mợ/Anh/Chị/Em). Tất cả chúng con (chúng tôi) quy tụ về đây để tưởng nhớ.

Chúng con (chúng tôi) không quên được hình ảnh của (Ông/Bà/Cha/Mẹ/Bác/Chú/Thím/ Cô/Dì/Cậu/Mợ/Anh/Chị hoặc Em). Dù nay còn phải buồn sầu xa cách vì sự chết, nhưng mai kia chúng ta sẽ lại sum vầy bên nhau trong cõi lòng của Thiên Chúa Tình Yêu. Là con cái Chúa, chúng ta biết rằng sự sống thay đổi chứ không mất đi và thời lưu ngụ dưới trần chấm dứt là để nhường chỗ cho hạnh phúc vĩnh cửu trên trời. Chúng con (chúng tôi) họp nhau cầu xin Thiên Chúa là Cha, nhờ công ơn cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô, Con Ngài, sớm hoàn tất những thanh luyện cần thiết cho (Ông/Bà/Cha/Mẹ/Bác/Chú/Thím/Cô/Dì/Cậu/Mợ/ Anh/Chị/Em) và đưa về hưởng phúc muôn đời. Chúng con (chúng tôi) cũng xin (Ông/Bà/Cha/Mẹ/Bác/Chú/Thím/Cô/Dì/Cậu/Mợ/Anh/Chị/Em) nhớ đến chúng con (chúng tôi), chuyển cầu cho chúng con (chúng tôi) trước nhan Chúa để chúng con (chúng tôi) được mọi ơn lành phần hồn và phần xác, sống xứng đáng là con cái Chúa, bây giờ và mãi mãi. Amen.

VĂN KHẤN VỚI TỔ TIÊN TRONG NGÀY GIỖ CHUNG (GIỖ TẾ HIỆP)

Hôm nay là ngày … tháng… năm… Tất cả chúng con cùng quy tụ nơi đây để tưởng nhớ toàn thể tiên nhân trong Gia tộc, Tổ tiên, Ông Bà, Cha Mẹ, các Bác, các Chú, Thím, Cô, Dì, Cậu, Mợ và các Anh Chị Em đã hoàn tất hành trình dương thế trước chúng con.

Thiên Chúa Toàn Năng là Cha Trên Trời, là Cội Nguồn duy nhất, là Đấng Tạo Hóa đã thương tạo dựng nên tất cả, cho sống trên cõi đời này rồi lại thương gọi về cho hưởng phúc đời đời với Ngài.

Chúng ta yếu hèn tội lỗi, nhưng Chúa Cha giàu lòng thương xót đã cho Con Ngài là Chúa Kitô đến hy sinh, chịu nạn chịu chết trên cây thánh giá mà cứu chuộc và ban ơn tha thứ; nhờ đó, chúng ta được thoát ách sự chết và được sống luôn mãi cho Thiên Chúa là Cha.

Hôm nay chúng con họp nhau cùng cảm tạ, chúc tụng và ngợi khen Thiên Chúa về những hồng ân ấy. Chúng con cầu xin cho tất cả những ai đang cần ơn giải thoát, sớm được Thiên Chúa hoàn tất những thanh luyện cần thiết và đưa về hưởng phúc muôn đời.

Chúng con cũng xin các bậc tiền nhân nhớ đến chúng con, chuyển cầu cho chúng con trước nhan Chúa để chúng con được mọi ơn lành phần hồn và phần xác, sống xứng đáng là con cái Chúa, bây giờ và mãi mãi. Amen.

Sau phần văn khấn, chủ sự đọc lời nguyện lễ giỗ và lời nguyện báo hiếu:

Chúng ta dâng lời cầu nguyện.

Lạy Chúa, chúng con xin ngợi khen cảm tạ Chúa nhân từ đã thương đưa các bậc tổ tiên chúng con về hưởng hạnh phúc với Chúa. Chúng con cũng xin Chúa đoái thương đến những linh hồn đã qua đời đang cần tới lòng từ bi vĩnh cửu của Chúa, xin đoái thương cho họ sớm được hợp đoàn cùng các thánh Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

Lạy Chúa là Cha rất nhân từ. Chúa dạy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo. Hôm nay chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên. Xin Chúa trả công bội hậu cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

Để kết thúc phần nghi thức, chủ sự xướng cho mọi người đáp như sau:

– X: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho các đẳng linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi

– Đ: Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen.

4. NIỆM HƯƠNG

Từng người đến khấn và vái trước bàn thờ gia tiên và bàn thờ của vị được tưởng nhớ trong ngày giỗ.

Cầm hương trong tay và khấn thầm hoặc nói lớn rồi thinh lặng, lâu hay mau tùy ý tùy lòng, rồi cắm hương lên các bàn thờ.

Sau đó có thể vái, lạy hoặc phủ phục, rồi lui xuống, nhường chỗ cho người khác

GIÔNG BÃO CUỘC ĐỜI

GIÔNG BÃO CUỘC ĐỜI

Đứa cháu họ của tôi qua đời chỉ ba tuần truớc ngày đám cưới.  Hai mươi bốn tuổi, trai tráng, khôi ngô, đời tràn ngập sức sống.  Bỗng một chiều, cháu mệt.  Vào bệnh viện, rồi ra đi.  Để người con gái sắp cưới ở lại, ôm nỗi đau khó diễn tả.  Mong một ngày làm vợ và làm dâu chưa thành.  Cô khóc không còn nước mắt.  Có ngàn giọt nước mắt người thân đến chia sẻ, nhưng không thể giúp vơi niềm đau.  Cô dựa vào lòng chị tôi, người mẹ chồng tương lai, để tìm sức mạnh.  Nhưng chị tôi cũng yếu đuối như người con gái ấy.  Cả hai ôm nhau đứng trước cơn giông bão cuộc đời quá lớn, có sức phá vỡ tất cả nghị lực và cuốn trôi tất cả niềm tin. “Chúa ở đâu trong cơn giông bão ấy?”

Những người đạo đức trong xứ đến an ủi chị, “Có lẽ là thánh ý Chúa, anh chị cố gắng chấp nhận.”  Chị tôi ngậm ngùi, không dám phản ứng trước lời an ủi.  Trong đáy sâu tâm hồn, chị thầm hỏi “Tại sao lại là Thánh Ý Chúa?”  Rồi chị thinh lặng trong nỗi đau.  Ngày tháng qua đi, chị vẫn chưa hiểu nổi tại sao bão tố đến với gia đình chị.  Đau khổ vẫn mãi mãi là một nhiệm mầu sâu thăm thẳm chưa có câu trả lời thỏa đáng.  Bước đi trong niềm tin xen lẫn nước mắt vẫn là hành trình của người Kitô Hữu.

Đôi khi, người ta tìm được chút ánh sáng trong những trang sách xưa cũ.  Kinh thánh kể về một gia đình đơn côi trong một làng nghèo ở Bethania.  Làng này nghèo hơn tất cả các làng nghèo chung quanh vùng phụ cận Giêrusalem.  Một trong những lý do Chúa Giêsu hay lui tới làng này, là vì họ nghèo.  Chúa muốn đem ơn cứu độ đến cho dân nghèo.  Làm bạn, kết thân, rồi gắn bó với họ.

Có một gia đình đơn côi, không cha không mẹ.  Gia đình của ba chị em Matha, Maria và Lazarô.  Rồi một ngày, Lazarô lâm bịnh rồi ra đi khi Chúa Giêsu chưa kịp đến.  Hai người chị Matha và Maria, tuổi còn xuân xanh, đối diện với sóng gió cuộc đời.  Người em trai duy nhất ngã xuống, mảnh nương tựa của cảnh đời đơn côi rạn vỡ.  Hụt hẫng, hoang mang, giông bão cuộc đời kéo đến.  Thách đố số phận; thách đố niềm tin.  Những ngày đưa tang về thấy căn nhà trống vắng, thiếu tiếng nói cười của người yêu thương.  Lời nguyện trong đêm từ nay xen lẫn nhiều nước mắt.

Phúc âm ghi rõ, người mà Thầy thương mến đang ốm nặng.  Biết người mình yêu mến đang lâm nguy tại sao Chúa không đến ngay?  Tôi cứ mãi băn khoăn, sao người thầy thương mến lại phải đối diện với những nỗi đau mênh mông đến thế.  Sao người thầy thương mến phải nằm trong mồ?  Những lần khác Chúa đến đúng giờ, nhưng khi người thân yêu đau khổ, Chúa lại đến trễ.  Tại sao Chúa lại để người theo Chúa phải nằm trong nhiều nấm mồ của cuộc đời?  Mồ bệnh tật, mồ thất bại, mồ bị phản bội, mồ cô đơn, và nhiều nấm mồ khác.

Tôi không có câu trả lời thỏa đáng, chỉ mong tìm một chút ánh sáng từ câu chuyện Tin mừng: đó là Thiên Chúa không làm ngơ trước đau khổ.  Phải tin tưởng điều này mới mong có ngày bước ra khỏi những nấm mồ cuộc đời.  Nếu không, bệnh viện tâm thần sẽ không còn chỗ chứa.  Ngài hiện diện qua sự nâng đỡ của tình người và nhất là qua ân sủng.  Thánh Phaolô cũng cảm nhận, “Ơn ta đủ cho con.

Đứng Bên Thập Giá

Ngành tâm lý ngày nay giúp hiểu rằng, đau khổ được biến đổi nhờ sự nâng đỡ của người khác.  Có nghĩa là, không phải đau khổ nào cũng đưa con người đi đến một kết quả xấu.  Nếu đau khổ được nâng đỡ bởi tình yêu và nhờ ân sủng, một cuộc biến đổi sẽ diễn ra.  Do đó, đau khổ lớn nhất không phải là chính biến cố đau khổ, nhưng phải đi qua đau khổ trong cô đơn mới là kinh nghiệm đớn đau nhất.  Hai ngàn năm trước, phúc âm đã dọi vào cuộc đời ánh sáng này, khi trình bày cảnh thập giá có bóng dáng của người thân yêu. “Ðứng gần thập giá Ðức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của bà thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala.” (Ga 19, 25)  Sự hiện diện yêu thương này đã giúp Đức Giêsu đi trọn con đường đau khổ ở một giây phút hệ trọng nhất của sứ mạng.

Vậy đau khổ có khi không còn là vì do Chúa trừng phạt như người ta hay nghĩ, nhưng có khi lại là lời mời gọi để đi đến tận cùng của thân phận làm người.  Lắm khi trong đau khổ, người ta lại cảm nghiệm được giá trị thật của cuộc sống.  Như Gandi có lần diễn tả, một con người muốn đạt đến chiều cao của tâm linh, người ấy có khi phải đụng chạm đến cái vực sâu khốn khổ của thân phận làm người.  Chúa để người thân của mình đối diện đau khổ, học những bài học từ đau khổ, và để can đảm sống niềm tin giữa những dằng co trong đó xen lẫn cả đắng cay và ngọt ngào.  Cuộc đời này chưa phải là vĩnh cửu của Thiên Đàng.

Có khi Thiên Chúa để tôi bước vào mầu nhiệp đau khổ để cảm nghiệm sự bất hạnh của một nhân loại đang thật quá đau khổ.  Nếu như thế, giông bão của cuộc đời có khi là một sứ mạng để bắt đầu biết yêu thương.  Tôi sợ sứ mạng này, đó là những “chén đắng” cho đời tôi, nhưng có khi lại là niềm nâng đỡ cho anh chị em mình đang đau khổ.

Chén đắng này Chúa uống cạn, để giúp tôi hiểu về đau khổ.  Hôm nay, Chúa mời gọi tôi nếm  từ từ. Tôi hiểu như thế, nhưng chưa bao giờ nói với chị mình tại sao chị phải uống chén đắng của đời mình. Hy vọng một ngày nào đó khi nắng bình minh của tâm hồn rọi chiếu, chị sẽ khám phá cho chính mình ý nghĩa của từng nỗi đau của một người mẹ mất đi đứa con yêu thương, nhưng trong sâu thẳm vẫn tin rằng Chúa vẫn không bỏ rơi mình.

Nguyễn Thảo Nam

http://tinvahyvong.blogspot.com/

From: ThiênKim

Sống như ngày sau đang sống

Sống như ngày sau đang sống

M. Hoàng Thị Thùy Trang

VRNs (10.11.2013) – Nói về sự sống đời sau, có lẽ không một người nào hiện diện trên thế giới này mà không đặt dấu hỏi. Từ khi có ý thức, biết suy tư về con người và cuộc đời, người ta đã bắt đầu suy tư về sự tồn tại của bản thân và thế giới. Câu hỏi sự sống đời sau là một trong những câu hỏi được nhân loại quan tâm hàng đầu. Sống đây nhưng con người vẫn ngay ngáy lo cho ngày mai. Mặc dầu không tin lắm vào sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa nhưng người ta cũng vẫn cứ muốn biết cái gì tiếp diễn ở đằng sau cuộc sống này, khi mà sự chết đến, biến đổi toàn bộ đời sống thế giới, nhân loại vẫn muốn biết còn gì nữa đằng sau cái chết.

Niềm tin công giáo dạy rằng, chết chính là cửa ngõ để bước sang một sự sống mới, sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa. Lúc này con người không còn chết nữa, nhưng là sống đời đời. Và sự sống mai hậu trên thiên quốc ấy, nơi chỉ còn tình yêu và hoan lạc, không có nước mắt, chẳng còn khổ đau. Và tất cả mọi người, sống như thiên thần, chẳng còn dựng vợ, cũng không có gả chồng: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật họ không thể chết được nữa.” (Lc 20, 34-36)

Nói về cuộc sống trần gian, ai cũng cảm thấy sợ, thấy ngán ngẩm, người ta mơ về một lối sống chẳng còn đau khổ, chẳng có chia lìa. Thế nhưng, để mà đánh đổi cho có được cuộc sống ấy thì ai ai cũng muốn thối lui, bỏ cuộc. Nhân loại không muốn đánh mất những giá trị trần thế, cái mà họ cho là cùng đích, là cứu cánh. Mặc dầu biết rất rõ rằng, tất cả mọi thứ tồn tại trên trần gian này đều là phù vân, là hư vô, là giả trá, không có giá trị trường tồn, vĩnh cửu.

Người tin đã vậy, người không tin lại càng tệ hại. Tin có sự sống đời sau, nhưng khổ nỗi lòng còn mang nặng tham vọng trần thế, nên không dám đánh đổi để có được sự sống vĩnh cửu thuộc về Thiên Chúa. Kẻ không tin thì mặc kệ, buông thả bản thân, thỏa mãn mọi dục vọng thế trần. Làm thế nào đây, để thế giới hiểu được rằng có một sự sống khác đàng sau cuộc sống đầy khổ đau và nước mắt này. Tất cả những gì chúng ta đang gầy dựng cho cuộc sống hiện tại chỉ là tạm bợ, phù du. Chính sự sống đằng sau sự bôn ba, lo toan vất vả ấy mới là cuộc sống thật, nơi được đong đo bằng tình yêu và lòng mến.

Cuộc sống thật ấy là gì? Là hoàn toàn khác biệt với lối sống mà nhân loại đang thủ đắc. Nơi đó người lành được hưởng phúc thiên đàng, kẻ có tội phải chịu hình phạt thích đáng với hậu quả mình gây ra. Cuộc sống ấy chỉ còn niềm vui, không còn nước mắt vì thuộc về Thiên Chúa, là con cái của Ngài. Chỉ những ai biết chu toàn thánh ý Thiên Chúa, người đó mới xứng đáng nhận phần phúc mà thôi. Lúc này đau khổ hay ngay cả sự chết cũng không làm gì được họ, họ đã được ngang hàng với các thiên thần, là con cái Thiên Chúa, con cái sự sống lại. (x. Lc 20, 36)

Lạy Chúa, con tin có một sự sống đằng sau cuộc sống này. Và cuộc sống ấy mới đích thực là sự sống mà con cần phải thủ đắc. Có được sự sống đời này, con thấy cũng quá đủ đau khổ lắm rồi. Bao phen trầy trụa, vào cay ra đắng, lăn lộn với những vòng xoáy cuộc đời con mới có thể tồn tại đến ngày hôm nay. Khó khăn chật vật vậy đấy, nhưng đó cũng chỉ là một lối sống tạm bợ, nay còn mai mất mà thôi, phù vân biết chừng nào. Vậy thì, có được sự sống vĩnh cửu hạnh phúc bất diệt, không bao giờ phải chết nữa, ắt hẳn con còn phải khổ công lao nhọc hơn biết là ngần nào. Đang sống đây, nhưng luôn ý thức rằng mình sẽ chết mai khiến tâm trí con nhiều khi chao đảo, rã rời. Cái hạnh phúc bất diệt ngày sau mà Thiên Chúa hứa ban ấy dường như với sức lực bản thân, con chẳng sao vươn tới. Thôi thì, hãy giúp con, sống sao thì sống, chỉ cần con sống một ngày hạnh phúc trong tình yêu Thiên Chúa, đời này hay đời sau cũng vậy. Cuộc đời đã vắn vủi vậy, nỗi đau khổ của đời sau lại kéo dài, thì còn bất hạnh nào hơn. Xin giúp con hãy sống hôm nay như ngày sau đang sống, để không phải nối tiếc nếu có phải đổi thay.

M. Hoàng Thị Thùy Trang

Chết không phải là hết

Chết không phải là hết

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

VRNs (10.11.2013) – Đồng Nai – Cuộc sống luôn đặt ra cho chúng ta một câu hỏi: Tôi sinh ra làm gì? Chết rồi đi đâu? Đây là câu hỏi đưa đến một hướng đi cho cuộc đời. Tin vào sự sống đời sau chắc chắn con người sẽ có cách hành xử khác với những người vô thần từ chối sự sống thần linh.

Thử hỏi, nếu không có sự sống đời sau cuộc đời này sẽ ra sao? Có lẽ người ta sẽ thấy cuộc đời là một phi lý. Sinh ra trong cuộc đời. Vật lộn với cuộc sống. Tranh đấu để tồn tại. Sống ăn ngay ở lành. Làm việc lương thiện. Chết rồi hết! Quả là bất công, vì đang khi đó có biết bao người sống chìm đắm trong lạc thú, sống vô luân họ chết cũng là chấm hết, hóa ra cuộc đời họ quá sướng, trong khi kẻ ăn ngay ở lành lại thiệt thòi vì hy sinh vô ích. Thế nên, phải có đời sau để trả lại công bằng cho cuộc sống làm người hôm nay. Người Phật Giáo thì tin vào kiếp luân hồi. Người Công Giáo thì có Cánh Chung. Chung quy đều là câu trả lời cho lý do phải sống ăn ngay ở lành trong cuộc sống làm người hôm nay.

Quả thực, nếu cuộc đời  là bể khổ và chết là hết thì thật là một tai họa cho kiếp người chúng ta, đúng như một ai đó đã ngao ngán bảo rằng:

“Cây xanh thiếu lá nó xanh xanh

Biết mình thế này thà đừng sinh ra”

Vâng, nếu cuộc đời này thiếu hạnh phúc như cây xanh thiếu lá thì niềm tin cho chúng ta sự hy vọng vào một thế giới ngày mai sẽ không còn đau khổ, và không còn sự chết. Con người sinh ra không phải để chết mà là để sống. Cái chết chỉ là sự chuyển đổi một cách sống khác hoàn hảo hơn cuộc sống hôm nay.

Mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã nghiên cứu đến hiện tượng gọi là “kinh nghiệm cận tử” (near death experience) : nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau :

– Cuộc sống ở  “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.

– Sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai ham muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú gì nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người (Tóm bài của Willie Hoffsuemmer).

Cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giê-su chính là câu trả lời cho cuộc sống chúng ta. Ngài đã chết và sống lại. Sự sống Phục sinh của Ngài hoàn toàn khác lạ với cuộc sống nhân trần. Mặc dù Ngài vẫn mang thân xác con người nhưng các môn đệ đã không nhận ra Người. Sự sống Phục sinh luôn thanh thoát nhẹ nhàng. Ngài đến và đi. Ngài hiện diện chỗ này. Ngài hiện diện chỗ khác. Không gian và thời gian như dừng lại với cuộc sống Phục sinh. Ngài nói rằng Ngài về Nhà Cha. Về nơi hạnh phúc trường sinh. Nơi đó Ngài cũng dọn chỗ cho tất cả những ai tin vào Người.

Lời Chúa hôm nay cũng khẳng định cho chúng ta thấy có sự sống đời sau. Sự sống đời sau thì tròn đầy, viên mãn. Con người không còn phải lo dựng vợ gả chồng để lưu truyền nòi giống. Con người sống bất tử như các thiên thần. Vì Đấng Tạo dựng con người đã mạc khải chính mình là Thiên Chúa kẻ sống chứ không phải kẻ chết. Ngài tạo dựng chúng ta để được sống trường sinh như Ngài.

Nhưng để có một sự sống đời sau cũng đòi hỏi con người hôm nay biết sống tròn trách nhiệm làm người của mình. Chúa Giê-su luôn hoàn thành bổn phận Chúa Cha. Ngài đã tìm ý Chúa Cha để thực hiện. Ngài luôn xin vâng theo thánh ý Chúa Cha. Đây cũng là con đường tiến vào sự phục sinh vinh quang với Chúa nếu chúng ta biết đi theo con đường của Chúa. Con đường của hy sinh, từ bỏ những đam mê tội lỗi. Con đường của vâng phục theo thánh ý Chúa Cha, cho dẫu đường đời có lắm gian nguy. Con đường hẹp nhưng mang lại cho chúng ta sự sống đời đời.

Ước gì niềm tin vào sự phục sinh mai sau sẽ giúp chúng ta biết sống một cuộc đời đầy ý nghĩa hơn. Một cuộc đời sống tôn thờ Thiên Chúa và phục vụ đồng loại. Một cuộc đời lương thiện và vi tha. Xin đừng vì những quyến luyến của danh lợi thú khiến chúng ta đánh mất sự sống trường sinh. Amen

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

CHA ĐẺ CỦA DỐI TRÁ

CHA ĐẺ CỦA DỐI TRÁ

Tác giả: Xuân Thái

Ngay từ thời Cựu ước, ma quỷ được mô tả là rất quỷ quyệt và luôn là kẻ lừa dối. Chúa Giêsu đã gọi nó là kẻ nói dối và là cha của kẻ nói dối. Nó dẫn dụ và mê hoặc người ta tin vào những điều dối trá và chống lại Thượng Đế.

Một trong những điều dối trá mà ma quỷ đưa đến cho con người là dối trá về Thượng Đế. Nó tạo ra sự nghi ngờ về các ý định tốt lành của Thượng Đế dành cho con người.

Điều dối trá thứ hai là về ý chỉ thánh thiện của Thượng Đế. Thiên Chúa đã ban luật lệ vì lợi ích và bảo vệ con người, nhưng ma quỷ dối trá xuyên tạc rằng các lệ luật ấy chỉ làm hại và biến con người thành nô lệ.

Điều dối trá thứ ba là dối trá về hậu quả của tội và bất tuân lệnh Chúa. Ma quỷ dối trá bảo rằng vi phạm luật Chúa sẽ không chết đâu, nhưng mắt sẽ mở ra, sẽ khôn ngoan như Thượng Đế vậy.

Cho đến nay, Satan vẫn luôn dùng sự dối trá của nó để chi phối và thao túng con người hiện đại, nhưng với các thủ đoạn và bằng nhiều hình thức khác nhau. Vì thế, sau nhà trường và xã hội, gia đình vẫn mãi mãi phải là nơi đầu tiên giúp định hình nhân cách, một nhân cách không thể thiếu sự ngay thẳng và lòng chính trực của một con người. Sự giáo dục phải được đặc biệt quan tâm và từng bước thực hiện ngay từ khi còn thơ bé.

Từ một lần Đức Phật dạy con khi còn niên thiếu…

Theo lịch sử, Thái tử Tất Đạt Đa – sau này chính là đức Phật, trước khi xuất gia đã có một người con trai duy nhất là Lahula (La Hầu La).  Song, ít ai biết rằng sau khi đạt giác ngộ, đức Phật đã trở thành người thầy rất quan trọng dạy dỗ cho con trai mình trong hầu hết quãng đời niên thiếu.

Kể từ khi La Hầu La lên bảy tuổi, Ngài đã là một người cha rất mực mô phạm, nhờ vậy, La Hầu La đã đạt được giác ngộ viên mãn khi mới tròn 20 tuổi.

Kinh điển không đề cập nhiều đến mối quan hệ cha-con giữa đức Phật và La Hầu La, nhưng đó đây đã để lại những dấu chỉ thú vị đáng lưu ý về việc đức Phật đã dẫn dắt con mình như thế nào trên con đường trưởng thành.

Đó là một tiến trình liên tục của con đường dẫn tới giác ngộ: lúc La Hầu La bảy tuổi, đức Phật dạy cho con về đạo đức; lúc La Hầu La 10 tuổi, đức Phật dạy cho con Thiền; và lúc 20 tuổi, Ngài dạy về tuệ giác giải thoát. Quá trình trưởng thành của La Hầu La, vì vậy, đi đôi và song hành với tiến trình giác ngộ của Đức Phật.

ĐẠO ĐỨC

Câu chuyện đầu tiên kể về La Hầu La được Đức Phật dạy về lòng chính trực (integrity) như thế nào. Lúc lên tám tuổi, có lần La Hầu La đã nói dối. Bài Kinh Trung Bộ Kinh, 61,  kể chi tiết rằng một lần sau khi tọa thiền xong, Đức Phật đến tìm con. La Hầu La lấy ghế mời cha ngồi, rồi mang đến một thau nước cho cha rửa chân theo như phong tục thời ấy. Sau khi rửa chân xong, Đức Phật hỏi:

“Này, La Hầu La, con có thấy chút nước còn lại trong cái thau này không?”

“Dạ, con có thấy” – La Hầu La thưa.

“Đời của một người tu cũng chỉ đáng bằng một chút nước này thôi, nếu như người đó cố tình nói dối.”

Sau đó, Đức Phật đổ hết nước trong thau ra và nói:

“Đời của một người tu cũng chỉ đáng vất bỏ đi như vầy, nếu như người đó cố tình nói dối.”

Xong, Đức Phật lật cái thau úp xuống và nói:

“Đời của một người tu sẽ trở nên đảo lộn như vầy, nếu như người đó cố tình nói dối.”

Và, để nhấn mạnh thêm nữa, Đức Phật lật ngửa cái thau trở lại và nói:

“Đời của một người tu cũng trở nên trống rỗng như cái thau này, nếu như người đó cố tình nói dối.”

Sau đó Ngài dạy con:

“Đối với một người cố tình nói dối, không có một tội lỗi xấu xa nào mà người đó không thể làm. Vì vậy, La Hầu La, con hãy tập đừng bao giờ nói dối, cho dù đó là một lời nói đùa.”

Câu chuyện trên đã nhắc nhở rằng những lời la mắng giận dữ với con cái thực ra chỉ có sức mạnh mà không có nội lực. Đức Phật đã rất bình tĩnh, chọn đúng thời điểm để dạy con mà không trừng phạt hay nổi giận với con.

…đến trình thuật về hậu quả của lời nói dối trong Thánh Kinh…

Thánh Kinh đã ghi lại những dòng thật đẹp về đời sống của cộng đoàn tín hữu đầu tiên, họ chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, hiệp thông với nhau, không ai coi tài sản mình là của riêng, nhưng để mọi sự làm của chung trong tinh thần hiệp nhất. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Tuy nhiên, Sách Công vụ Tông đồ ( 5, 1-11) đã thuật lại một trường hợp cá biệt về việc bán đất đai hết sức ấn tượng như sau:

“…Có một người tên Khanania cùng với vợ là Xaphira bán một thửa đất. Ông đồng ý giữ lại một phần tiền, rồi đem phần còn lại đặt dưới chân các Tông đồ. Ông Phêrô mới nói: Anh Khanania, sao anh lại để Satan xâm chiếm lòng anh, khiến anh lừa dối Thánh thần, mà giữ lại một phần giá thửa đất? Khi đất còn đó thì nó chẳng là của anh sao? Bán đi rồi thì anh chẳng có quyền sử dụng tiền bán đó hay sao? Sao anh lại rắp tâm làm chuyện ấy? Anh đã chẳng lừa dối người phàm, mà là lừa dối Thiên Chúa. Nghe những lời ấy, Khanania ngã xuống đất, tắt thở. Các thanh niên đến liệm xác và đem đi chôn.

Khoảng 3 giờ sau, vợ ông đi vào mà không hay biết chuyện đã xảy ra. Ông Phê rô lên tiếng hỏi: “Chị cho tôi hay, anh chị bán thửa đất được bấy nhiêu, phải không? Chị ta đáp, vâng, được bấy nhiêu thôi. Ông Phêrô liền nói, Sao anh chị lại đồng lòng với nhau để thử thách Thần Khí Chúa, kìa, những người đã chôn cất chồng chị còn đứng ở ngoài cửa, họ sắp khiêng cả chị đi nữa đấy. Lập tức, bà ta ngã xuống dưới chân ông Phêrô và tắt thở”

Nếu chỉ đọc thoáng qua trình thuật trên, dễ có cảm tưởng, sao ông Phêrô lại ác độc quá vậy?. Chỉ vì bớt lại một phần tiền (của chính mình) mà cả hai vợ chồng bị chết tươi bởi quyền năng từ ông Phêrô, có thể vị này đã lạm dụng quyền lực để hại chết người chăng, sao mạng người có thể bị xem nhẹ đến thế?

Thực ra, bản chất tội của họ không phải vì cất dấu một phần tiền bạc, nhưng chính vì vợ chồng họ đã nói dối cộng đoàn và lừa dối Thánh Thần. Hành vi của họ làm cho đời sống cộng đoàn xấu đi. Họ xứng đáng bị trừng phạt để nêu gương cho người khác khi nói dối.

Thiên Chúa rất dứt khoát quyết liệt và luôn không khoan nhượng với ma quỷ, vì thế, những hình phạt là bệnh tật, khổ đau và chết chóc trên trái đất phát khởi từ một lời nói dối chỉ là những hậu quả tất yếu.

Điều này làm chúng ta nhớ Ma quỷ đã nói dối với người nữ đầu tiên là Ê-va. Hắn bảo rằng bà sẽ không chết nếu cãi lời Ðức Chúa Trời và ăn trái cây mà Ngài bảo bà không được ăn. Ê-va đã tin Ma-quỉ và ăn trái cây. Bà cũng đưa cho A-đam ăn nữa. Bởi vậy con người đã trở thành những kẻ phạm tội, cùng với tất cả con cháu đều mang tội tổ tông. Vì có tội, nên tất cả con cháu của A-đam đều đau khổ đủ đường và cuối cùng, phải chết. Những vấn đề này bắt đầu từ đâu ? Thưa, bắt đầu từ một lời nói dối.

Im lặng cũng là một cách nói

Cùng với tâm thức nhị nguyên trong nhận thức và khái niệm về các mặt đời sống của thiện/ác, sai/đúng, phải/trái…sẽ không sợ sai lầm khi cho rằng, ngay từ khi có tiếng nói con người đã biết nói dối. Và, khi bắt đầu có chữ viết, văn tự, thì sự nói dối ngày càng có những bước tiến vượt bậc cùng với sức mạnh kinh hoàng ghê gớm khó thể hình dung, đến mức con người đã hoặc đang bị tẩy não mà không tự nhận ra.

Thật vậy, tẩy não là sự tái giáo dục cưỡng bức các niềm tin và giá trị truyền thống. Hàng ngày, qua báo, đài, tờ rơi và rất nhiều phương tiện truyền thông khác, từng phút rồi từng giờ, ta phải nhận biết bao thông tin không chính xác (nói dối) trong mọi mặt đời sống, từ đó, nhận thức của ta thay đổi lúc nào chính ta cũng không nhận ra qua tràn lan quảng cáo, cùng vô vàn những thông tin vốn đã được định hướng chỉ với mục đích tuyên truyền.

Tẩy não thì ở đâu cũng có, nơi nào cởi mở thì chuyện tẩy não sẽ kín đáo, tế nhị và nhẹ nhàng, thể hiện giới hạn qua những quảng cáo thương mại và các sản phẩm tiêu dùng, khác hơn với những nơi khép kín luôn tàn bạo, trắng trợn kèm theo bạo hành dưới đủ dạng bạo lực và tràn lan mọi mặt đời sống.

Tiến sỹ Paul Joseph Göbbels (1897–1945) Bộ trưởng Bộ Thông tin Quần chúng và Tuyên truyền của Đức Quốc xã, đã truyền lại một công thức để đời : SỰ THẬT là những DỐI TRÁ ĐƯỢC LẬP LẠI NHIỀU LẦN. Kinh nghiệm xương máu ấy đã được vận dụng với rất nhiều sáng tạo, nên không gây nhiều ngạc nhiên khi thế giới được chứng kiến, cảnh đông đảo dân chúng Bắc Triều tiên đã khóc lóc thảm thiết khi lãnh tụ của họ từ trần, trong xứ sở đói nghèo và khép kín nhất thế giới ấy. Họ đã lên đồng, bao nhiêu người khác ở nhiều nơi thế giới đã lên đồng tập thể từ những dối trá.

Chẳng ai muốn nói dối, nhưng người ta vẫn thường nói dối vì nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân lớn nhất vẫn là SỢ HÃI. Sợ mất quyền lợi, sợ trách nhiệm, sợ phải đương đầu… cùng vô vàn nỗi sợ có tên và không tên khác.

Mấy ngày nay dư luận cả nước đang ồn ào dậy sóng vì vụ Bác sỹ Cát Tường làm chết người rồi quăng xác xuống sông, vụ xương động vật thay vì hài cốt liệt sỹ cùng với oan án 10 năm Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang. Những thảm kịch ấy mỗi vụ đều khác nhau về tính chất, mức độ, thời điểm v.v…nhưng tựu trung, xét cho cùng, tất cả đều khởi từ những lời nói dối. Sự dối trá đang bao phủ và trùm lên tất cả trong thảm cảnh « Đêm giữa ban ngày ». Giữa ban ngày mà bóng đen đêm tối đang ngự trị khi cha đẻ của dối trá vẫn còn phủ trùm luôn mãi.

Chẳng ai muốn nói dối, nhưng ngay cả khi thinh lặng thì sự thinh lặng ấy vẫn luôn mang nhiều ý nghĩa khi đối chiếu với lời hằng sống : « Ta là Đường và là Sự Thật » để tự trả lời cho lòng mình rằng, ĐƯỜNG ấy sẽ đưa ta đến đâu ? SỰ THẬT ẤY đang là sự thật nào, bên này hay bên kia dãy Phyrené ?.

Tự nguyện

Xem như thế, ai cũng biết hậu quả kinh hoàng của nói dối, nhưng oái oăm và đáng sợ biết bao nhiêu, nói dối lại là điều rất dễ vướng, đôi khi rất khó nhận ra.

Nói dối là nói không thật, nói thiếu chính xác, là chém gió,  là nổ văng miểng.

Theo công trình nghiên cứu Feldman, 60% các đối tượng được nghiên cứu đã nói dối ít nhất 1 lần trong một cuộc trò chuyện ngắn, và cũng trong khoảng thời gian đó, họ đã nói khoảng 2,92 điều sai. Đối tượng được nghiên cứu gồm đủ loại tuổi và nhiều thành phần và đều cho kết quả, lời nói dối dễ xuất hiện trong lần gặp gỡ đầu tiên.

Lạy Chúa !

Nếu kết quả nghiên cứu trên là khả tín và nếu ma quỷ là cha đẻ của dối trá, thì chưa cần cám dỗ, khi này, nơi khác, đôi lần con đã tự nguyện đứng chung hàng ngũ với nó rồi Chúa ơi.

Xin giúp con tỉnh thức và điều chỉnh mình, để luôn nhớ Kim chỉ Nam trong ứng xử mà Chúa đã ban cho con lâu nay :

« Có thì phải nói có, không thì phải nói không.

Thêm thắt điều gì là do ác quỷ (Mt 5, 37) ».

Amen.

Xuân Thái.

‘Người Việt không xếp hàng vì đã mất niềm tin vào sự công bằng’

Người Việt không xếp hàng vì đã mất niềm tin vào sự công bằng’

VnExpress.net – Thứ bảy, ngày 02 tháng mười một năm 2013

Ra nước ngoài, người Việt vẫn xếp hàng rất lịch sự, nhưng về nước họ sợ những người ‘đi đêm’, tham nhũng, ‘con ông cháu cha’, các loại ‘cò’ quen biết… giành mất phần của mình.

Người Nhật xếp hàng trong các điểm dịch vụ công cộng là điều cả thế giới nhìn nhận là một nét văn hóa đặc biệt không phải đâu cũng có. Nhất là sau vụ thảm họa kép năm ngoái, toàn thế giới không chỉ được nghe đồn đại, hay đọc đâu đó mà được chứng kiến thực tế và mọi dân tộc khác đều phải ghen tị với việc xếp hàng này.

Trong cuộc sống hàng ngày, tại các bến xe lửa, trước cửa toa tàu là hai hàng người đứng hai bên cho người trên tàu xuống và lần lượt lên. Nếu không hết, người còn lại kiên nhẫn chờ chuyến tới và họ không chen lấn hay phàn nàn điều gì.

So với người Nhật, tại sao chúng ta ít xếp hàng? Hay nói cách khác, người Việt chúng ta có xếp hàng không? Và có được như người Nhật không?

Tôi sinh ra khi chiến tranh gần kết thúc và lớn lên trong giai đoạn bao cấp, giao thời mở cửa rồi đến kinh tế thị trường hiện nay. Tôi còn nhớ câu chuyện vui về xếp hàng phát chẩn (cho tiền, gạo những người bị tai nạn) thời xưa: “Số tôi thật không may, hôm trước đi nhận phát chẩn đứng cuối hàng nên khi đến lượt thì hết. Hôm qua đi sớm, họ lại phát từ cuối hàng lên và đến nơi cũng hết. Hôm nay, tôi cố gắng đứng giữa hàng, khổ nổi, họ phát từ hai đầu lại và… cũng hết khi đến lượt tôi”.

Trong thời bao cấp, dù muốn hay không mọi người đều phải xếp hàng, tuy nhiên việc xếp hàng dần dần có tiêu cực trong đó, có sự xí chỗ, có sự bán chỗ đã “xếp gạch” và điển hình hơn những người nhà, thân quen sếp sẽ có được các cách lấy hàng mà không phải xếp hàng.

Thời gian đó, ở các bến tàu, bến xe, việc có được một vé đi xe khách trước đây rất vất vả, phải xếp hàng từ rất sớm trước khi xe chạy cả ngày. Nhưng người có mối quan hệ, quen biết sếp… sẽ bỗng nhiên chen ngang và lấy hết suất vé, đành quay về chờ chuyến khác và mọi người đều phải sống chung với chuyện đó.

Việc này tồn tại đến tận bây giờ. Các loại vé xe, vé tàu, vé thể thao, vé sự kiện nghệ thuật… đều có sự chen ngang. Hay gần đây, chúng ta biết nhiều việc xếp hàng xin cho con đi học từ mẫu giáo, cấp một mà báo chí nhiều lần thông tin. Trong làm ăn kinh tế, nếu xếp hàng chờ đến lượt để có dự án, chắc mọi người sẽ phì cười vì phi thực tế hiện nay.

Tôi không ví dụ thêm nữa, chắc các bạn cũng hiểu trước nay, xưa kia và hiện tại thì người Việt Nam đều xếp hàng, chen ngang và mất chỗ diễn ra khắp nơi, mọi lĩnh vực, mọi hình thái, trong cả giáo dục, nghiên cứu khoa học đến nông dân bán hàng hóa…

Hàng nghìn người chen lấn, xô đẩy để giành ăn sushi miễn phí tại Hà Nội. Ảnh: Jenny

Vậy nó nói lên điều gì? Đó là lòng tin của việc xếp hàng. Tôi dẫn chứng không đi quá xa về quá khứ, nhưng có thể nói: trong mỗi con người Việt Nam, lòng tin đạt được từ xếp hàng quá thấp, không ít thì nhiều, nhiều người có kinh nghiệm trả giá từ xếp hàng, bị chen ngang. Chính điều này khiến họ phải chủ động tranh chỗ, chen lấn nhau trong xếp hàng?

Trong cơ quan, thay vì xếp hàng chờ đến lượt, nhiều người đã chủ động “chạy” trước để xen ngang, tác động quan hệ để đạt được cái mình mong muốn, từ tâm lý này, tạo niềm tin vào xếp hàng đi xuống.

Với người Nhật, họ tin tưởng, biết chắc chuyến tàu tiếp theo sẽ đến và họ sẽ lên được tàu. Tin tưởng chắc chắn phần họ mong đợi trong xếp hàng sẽ đến và họ yên tâm xếp hàng, mọi người đều đồng thuận trong văn hóa này.

Người Việt Nam khi ra nước ngoài, hầu hết cũng xếp hàng và theo trật tự của nước sở tại, nghĩa là họ cũng tin cậy và kiên nhẫn với hàng mình đợi. Người nước ngoài đến Việt Nam, cũng có nhiều người lái xe máy phóng vèo vèo, vượt đèn đỏ, xếp hàng cũng chen lấn, tại họ ư? Chắc chắn khó mà lý giải được!

Như vậy, không phải ý thức của người dân Việt Nam chúng ta kém, không phải chúng ta không muốn xếp hàng, hay người Việt Nam chúng ta không kiên nhẫn. Chúng ta có thể thấy từ các hệ quả của xen ngang trong hàng đợi trong cuộc sống, từ các nhà quản lý “con ông cháu cha”… đã dẫn đến mất lòng tin để phải xếp hàng.