Nỗi đau cuối đời của ông Lê Hiếu Đằng

Nỗi đau cuối đời của ông Lê Hiếu Đằng

Phạm Nhật Bình

Gửi cho Diễn đàn BBC từ Hoa Kỳ

Thứ ba, 17 tháng 12, 2013

Ông Lê Hiếu Đằng đã lên tiếng tuyên bố rời bỏ hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam

Tin ông Lê Hiếu Đằng đang trải qua những giờ phút lâm chung đang làm cho nhiều người rất buồn.

Có nhiều lý do để buồn, nhưng có lẽ nỗi buồn lớn nhất là vì cảm được những điều đau lòng nơi một người nhiều tâm huyết như ông Đằng trong những năm tháng cuối đời.

Không đau lòng sao được khi vào những năm tháng cuối đời lại phải thừa nhận một sự thật phũ phàng.

Đó là biết bao hy sinh đóng góp của mình và rất nhiều đồng đội lại chỉ góp phần tạo ra một tầng lớp thống trị mới, còn khắt khe và tàn bạo hơn cả thời kỳ thực dân Pháp đô hộ.

Thêm vào đó, cái gọi là “chế độ ngụy quyền” mà ông và nhiều đồng đội đã từng cố gắng lật xuống cho bằng được để xây dựng chủ nghĩa xã hội, lại là chế độ nhiều nhân bản, yêu nước, và có khả năng xây dựng mọi mặt xã hội hơn thể chế cộng sản chuyên chính hiện nay rất nhiều.

Trong suốt gần 40 năm qua, nhân dân tiếp tục sống trong đói nghèo suốt từ thời toàn trị sang đến thời mở cửa; và sống với các giá trị con người mà nhân loại đã xác định từ lâu.

Chỉ có giai cấp cai trị là thay đổi từ sướng ít trong thời toàn trị lên sướng nhiều và cực giàu trong thời mở cửa.

Không đau lòng sao được khi sau bao công sức đóng góp, đến cuối đời ông chỉ thấy đất nước càng ngày càng bế tắc và thụt lùi.

Thụt lùi so với cả nước Miến Điện nghèo nàn, lạc hậu.

Sau 40 năm bóp chết sức sống của đất nước và vì thế không còn sức chống trả hiểm họa mất chủ quyền vào tay Bắc Kinh, giới độc tài quân phiệt Miến, chưa hề vỗ ngực là “đỉnh cao trí tuệ loài người”, cũng còn biết đặt vận mạng đất nước họ lên trên hết. Họ gấp rút chọn con đường dân chủ để đưa đất nước thoát hiểm.

Đến cả nước Campuchia, một nước từng bị kéo về tận thời cộng sản nguyên thủy dưới tay Pol Pot và thường bị Hà Nội coi như chư hầu, cũng đã qua mặt Việt Nam trên con đường dân chủ hóa.

Miến Điện được chào đón trên trường quốc tế sau thay đổi dân chủ

Nỗi đau của ông Lê Hiếu Đằng cùng những đảng viên còn tâm huyết và tự trọng càng lớn khi họ tự nhận ra chính mình cũng phải lãnh một phần trách nhiệm trước tình trạng từng mảng chủ quyền đất nước đang biến mất dần.

Từ những cánh rừng đầu nguồn ở biên giới phía Bắc đến vùng Tây Nguyên mang tính chiến lược quân sự đến các vùng biển đảo nhiều tài nguyên đều đã bị giới lãnh đạo của ông Đằng xem là những vùng “đã mất rồi” và nay chỉ phản đối lấy lệ trước mắt dân chúng mà thôi.

Đó là chưa kể hàng trăm những khu hoàn toàn biệt lập của “công nhân” Trung Quốc trên khắp nước Việt, đặc biệt tại những vùng hệ trọng chiến lược, cứ tiếp tục mọc lên trước sự làm ngơ hoặc tiếp tay của giới cầm quyền.

Những ước hẹn với Bắc Kinh trong Hội nghị Thành Đô năm 1990 sẽ giao chủ quyền Việt Nam từng bước và hoàn tất vào năm 2020 (đúng thời hạn 30 năm) không chỉ còn là cơn ác mộng nữa nhưng đã trở thành một phần hiện thực rất lớn rồi.

‘Muốn lo cho nước’

Nhưng khó ai hiểu hay tin được những nỗi dằn vặt trên nếu không có những bước chân xuống đường biểu tình chống Trung Quốc của ông Lê Hiếu Đằng năm 2011 và các phát biểu của ông từ đó, đặc biệt là bức thư tính sổ đời mình trên giường bệnh vài tháng trước đây.

Từ sự cảm thông với tấm lòng chân thành của ông, người ta bắt đầu thấy đây là một tấm gương can đảm đáng quí phục.

Và càng đáng quí phục hơn nữa khi có những đảng viên cao cấp hơn ông nhiều, biết rõ hơn ông nhiều về các nguy cơ cho đất nước và vai trò tác hại của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng vẫn không dám lên tiếng hay có một hành động nào xứng đáng, chỉ vì bổng lộc cá nhân và quyền lợi chế độ ban phát cho con cháu họ.

Biết thời giờ của mình không còn nhiều, ông Lê Hiếu Đằng đã nhắn gởi các đảng viên cộng sản Việt Nam khác:

“Lẽ ra bây giờ phải đoàn kết nhau lại để đấu tranh, phải có dũng khí, nếu ai cũng sợ cho bản thân mình, sợ cho bản thân gia đình mình thì đất nước sẽ ra thế nào, đất nước này ai lo?”.

“Nếu ai cũng sợ cho bản thân mình, sợ cho bản thân gia đình mình thì đất nước sẽ ra thế nào?”

Ông Lê Hiếu Đằng

Ông cũng bộc bạch với bạn hữu trong giới trí thức:

“Bao giờ cũng vậy, xã hội nào cũng vậy, thời kỳ nào cũng vậy, nhân sỹ trí thức phải đi đầu, phải giương cao ngọn cờ đấu tranh, phải dũng cảm, đừng có sợ.”

Nhưng liệu những lời kêu gọi tha thiết của ông Lê Hiếu Đằng có rơi vào khoảng không im lặng đáng sợ không? Đặc biệt, thế hệ đảng viên cùng thời với ông Đằng có còn ai chia sẻ những dằn vặt lương tâm này không?

Ngày nay, tại các nước cộng sản Đông Âu và Liên Xô cũ, nhiều đảng viên cộng sản thời đó đang bị chính thế hệ con cháu họ nhìn với ánh mắt khinh bỉ.

Những đảng viên ấy từng bảo vệ và bám lấy các chế độ cộng sản để hưởng lợi lộc cho đến những ngày tháng chót, bất kể sự tàn phá của các chế độ này đối với đất nước và dân tộc họ.

Ngay cả những lời của các cựu đảng viên này ngày nay chỉ trích các chế độ độc tài cũ cũng chẳng ai muốn nghe vì đã quá trễ và vì thế càng trở nên nham nhở.

Liệu cảnh ấy có lại xảy ra tại Việt Nam trong tương lai không?

Nhìn vào xu thế của nhân loại và ngay tại vùng Đông Nam Á, rõ ràng thời giờ không còn nhiều.

Và có lẽ nay là thời điểm thích hợp nhất để những đảng viên cộng sản Việt Nam – những người còn muốn giữ lại thanh danh và liêm sỉ đối với bản thân, đối với thế hệ con cháu, và đối với dân tộc – chọn con đường công khai rời bỏ đảng vì vừa chính mình vừa vì đất nước.

Đừng để đến khi quá muộn.

Những con người đáng kính trọng như Dương Quỳnh Hoa, Nguyễn Hộ, Trần Độ, Trần Xuân Bách…những Huỳnh Nhật Tấn, Huỳnh Nhật Hải, Phạm Quế Dương, Vi Đức Hồi, Phạm Đình Trọng, Nguyễn Chí Đức, Nguyễn Ngọc Diễm Phượng, … và nay Lê Hiếu Đằng, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Đắc Diên đã chọn con đường danh dự đó.

Tuổi hưu và phúc lợi ở Mỹ

Tuổi hưu và phúc lợi ở Mỹ

Bùi Văn Phú

17.12.2013

Sau hơn ba thập niên sinh sống và làm việc ở Mỹ, thỉnh thoảng anh em, bạn bè gặp nhau chúng tôi cũng bàn đến chuyện tương lai về hưu sẽ sống ra sao hay sống ở đâu.

Như ở mọi nơi trên thế giới, sau thời gian làm việc đóng góp cho xã hội, người dân Mỹ đến tuổi già cũng phải nghỉ hưu. Nhìn lại quá khứ rồi hướng về tương lai thì thấy nếu một người ra đời làm việc năm 25 tuổi, là khi mới tốt nghiệp đại học, đến 65 tuổi thì đã có 40 năm làm việc, khi đó là tuổi được hưởng trọn số lương hưu là tiền của chính mình và chủ đã đóng vào quỹ an sinh xã hội trong thời gian lao động.

Thực ra một người lao động Mỹ khi vừa bước vào tuổi 50 đã nhận được thư mời tham gia hội AARP (American Association of Retired Persons) – Hiệp hội người Mỹ Hưu trí – dù thời gian phải tiếp tục làm việc vẫn còn ít nhất 15 năm trước khi chính thức nghỉ hưu.

Thành lập từ năm 1958, AARP hiện có gần 40 triệu hội viên trên toàn quốc. Hội viên đóng lệ phí 16 đô là một năm và sẽ thường xuyên nhận được tạp chí với nhiều thông tin liên quan đến chính sách và sức khoẻ của lớp người ở tuổi 50 hay cao hơn. Hội cũng vận động hành lang cho quyền lợi của người đã nghỉ hưu hay sắp sửa. Là hội viên, khi thuê xe, đặt phòng khách sạn, mua các loại bảo hiểm còn được giảm giá ít nhiều.

Rất ít người Mỹ về hưu ở tuổi 50 và ngay cả tuổi 55 hay 60 cũng còn ít. Trừ người thật giầu hay những ai là công chức thành phố, tiểu bang, liên bang, là thành phần cảnh sát, cứu hỏa hay giáo chức với quỹ hưu bổng riêng và có thể nghỉ hưu sau 25, 30 năm trong những nghề đó.

Theo Sở Thống kê Dân số, tuổi hưu trung bình của người Mỹ là 62 và thời gian sống hưu là 18 năm.

Về tiền hưu trí, quỹ an sinh xã hội chỉ cho lãnh sớm nhất khi 62 tuổi. Một người về hưu ở tuổi đó thì còn phải tự lo bảo hiểm y tế trong ba năm nữa cho đến 65 tuổi là lúc được đăng ký vào chương trình bảo hiểm y tế của chính phủ dành cho người cao tuổi, tức Medicare. Vì vậy, dù 62 tuổi nhưng nhiều người vẫn còn đi làm để có bảo hiểm sức khoẻ từ nơi làm việc, nếu không phải tự bỏ tiền ra mua thì một tháng có thể phải chi cả nghìn đô cho một người, mà nếu chỉ có lương hưu duy nhất là tiền an sinh xã hội thì sẽ không đủ chi tiêu.

Ngân sách quỹ an sinh xã hội và y tế của liên bang là do chính tiền của người lao động đóng vào và do chính phủ quản lí. Hiện nay thuế Medicare ở mức 2.9% số lương, cá nhân đóng một nửa, chủ đóng một nửa. Cũng như thuế cho quỹ an sinh xã hội là 12.4% và người đi làm đóng một nửa, tức 6.2%, chủ chịu một nửa.

Thuế an sinh xã hội có giới hạn, chỉ đóng đến mức lương 113,700 đô cho năm 2013, tăng lên mức 117 nghìn cho năm 2014 và tiếp tục tăng đến 165,600 vào năm 2022. Số lương cao hơn những mức nêu trên không phải chịu thuế này. Còn thuế y tế Medicare không có giới hạn mức lương.

Như thế chính phủ lúc nào cũng thu hai khoản tiền thuế, tổng cộng là 7.65% từ lương công nhân. Những ai làm chủ cơ sở thương mại hay làm việc riêng cho chính mình thì phải đóng gấp đôi, vừa là thợ vừa là chủ, tức 15.3% tổng số thu nhập. Không thể trốn vào đâu được. Các chủ nhân không làm kế toán rõ ràng cho các khoản thuế này sẽ bị phạt nặng.

Dưới thời Tổng thống Bill Clinton, ông bổ nhiệm một phụ nữ vào nội các, trước khi được Thượng viện phê chuẩn thì báo chí phanh phui sự việc bà này đã có mướn người giúp việc trong nhà nhưng không khai và không đóng thuế an sinh xã hội cho người làm, như thế là phạm luật khiến bà phải rút lui khỏi chức vụ được đề cử.

Ngân sách hiện tại của quỹ an sinh xã hội đang cạn dần vì thành phần trẻ vào đời làm việc ít đi, trong khi đó số người già càng nhiều và càng sống lâu, trung bình đến 81 tuổi cho phụ nữ và 76 cho nam giới. Trước đây cứ 4 người đi làm đóng thuế để trả cho một người nghỉ hưu, nay con số này xuống còn 2.5 và theo một ước tính của cơ quan nghiên cứu Quốc hội, đến năm 2033 quỹ chỉ còn đủ để trả 77% tiền hưu của người được hưởng.

Số tuổi để hưởng trọn vẹn phúc lợi tài chánh khi về hưu ngày càng tăng lên. Trước đây là 65 tuổi cho những ai sinh năm 1938 trở về trước. Luật mới qui định người sinh từ năm 1943 đến 1954 thì tuổi hưu là 66, từ 1955 đến 1959 mỗi năm tăng lên hai tháng tuổi hưu. Sinh sau năm 1960 thì đến 67 tuổi mới được hưởng lương hưu trọn vẹn. Nếu nghỉ hưu non vào năm 62 tuổi, tiền an sinh xã hội chỉ được khoảng 70% so với lương về hưu đúng tuổi. Cùng với việc tăng tuổi hưu, thuế an sinh xã hội và thuế y tế Medicare cũng tăng lên.

Theo Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD), số người Mỹ ở tuổi từ 65 đến 69 vẫn còn làm việc là 20%, so với Anh 10%, Đan Mạch 9%, Na Uy và Thụy Sĩ 7% trong khi Đức, Hà Lan 3% còn Pháp, Ý chỉ có 1%.

Hiện nay phúc lợi an sinh xã hội trung bình cho một người Mỹ nghỉ hưu là 1230 đô la một tháng. Dù không còn nợ nhà, nhưng số tiền này cũng khó đủ cho một người sống riêng biệt vì các khoản chi tiêu bao gồm thực phẩm, điện nước, xăng dầu, bảo trì xe, thuế nhà đất. Vì thế chính phủ còn có phụ cấp SSI – Supplemental Security Income, người Việt thường gọi là tiền già hay tiền bệnh – phụ cấp tiền thuê nhà, giảm giá điện ga cho người nghèo.

Trong thực tế ngày nay, với tiền an sinh xã hội không thôi, nhiều người cao niên chỉ đủ sống. Vì thế trong lúc còn làm việc chính phủ khuyến khích tiết kiệm thêm bằng cách bỏ tiền vào các quỹ 401(k) hay IRA. Với quỹ 401(k) có khi chủ nhân cũng đóng góp thêm vào cho công nhân và có giới hạn vài trăm đô một tháng. Số tiền tiết kiệm sinh lời và sẽ không bị đánh thuế, nhưng không được rút ra cho đến năm 60 tuổi hay cao hơn để chi tiêu lúc về hưu.

Hiện nay, một cặp vợ chồng bắt đầu về hưu năm 2013 vào tuổi 65 hay cao hơn thì mỗi tháng một người lãnh khoảng 2500 đô tiền an sinh xã hội. Nếu nợ nhà đã trả hết, với 5 nghìn đô là dư tiêu trong một tháng cho hai người. Ốm đau, thuốc men có chính phủ lo.

Với số tiền đó thì có thể bàn đến việc nghỉ hưu ở một nước ngoài. Nhưng trở ngại duy nhất là Medicare vì dịch vụ y tế này chỉ cung cấp cho cư dân sống tại Mỹ. Sống ở nước khác, phải tự mua bảo hiểm y tế riêng ở nơi đó. Vì thế nhiều người Mỹ nếu quyết định nghỉ hưu ở nước ngoài họ thường chọn nơi có mức sống rẻ, hệ thống y tế tốt hay những nơi gần Hoa Kỳ, như nam Mỹ và các đảo quốc trong vùng biển Caribbean, phòng có gì khẩn cấp cũng chỉ vài giờ bay là đã về lại Mỹ để được chăm sóc y tế.

Một khảo sát mới đây của InternationalLiving.com xếp hạng mười nơi tốt cho người Mỹ và Canada nghỉ hưu là Ecuador, Panama, Malaysia, Mexico, Costa Rica, Uruguay, Colombia, Spain, Thailand và Malta.

Nhiều người Mỹ gốc Việt làm việc đã gần 40 năm, nay nghỉ hưu cũng có khả năng tài chính để ra nước ngoài sống, nhưng về Việt Nam có thể khó vì xa xôi và nhất là điều kiện y tế chưa tốt cho tuổi già.

Với một số người Việt cao tuổi ở Mỹ chuyện về Việt Nam sống còn là điều không thể vì đang nhận phúc lợi xã hội và y tế qua chương trình phụ cấp của chính phủ dành cho người già. Khi nhận phụ cấp thì chỉ có thể ra nước ngoài chơi ít tuần, còn nếu ở lâu các khoản trợ cấp sẽ bị cắt.

Bạn bè chúng tôi trong lứa tuổi sấp xỉ 60 cũng đã bắt đầu nghĩ đến chuyện hưu và cũng có đề nghị nếu vào nhà tập thể cho người cao tuổi thì cũng tìm nơi sống chung để chiều chiều lai rai nhậu, đàn hát bên nhau cho vui những lúc cuối đời.

SỐNG GIỮA THẾ GIAN MÀ KHÔNG THUỘC VỀ THẾ GIAN

SỐNG GIỮA THẾ GIAN MÀ KHÔNG THUỘC VỀ THẾ GIAN

G. Tuấn Anh.

Một linh mục lo việc linh hồn cho các bệnh nhân HIV kể rằng: “Mặc dù rất siêng lần hạt mân côi và tôn kính đặc biệt Đức Maria, tôi chưa một lần diễm phúc được Mẹ hiện ra. Nhưng khi xức dầu cho một bệnh nhân mà căn bệnh ở giai đoạn cuối, thấy thái độ người bệnh thay đổi một cách tích cực so với những ngày trước, vị linh mục hỏi nguyên nhân và người bệnh cho biết, tối qua đã thấy và nói chuyện với Đức Mẹ”.

Theo thời gian, nếu điểm lại những lần Đức Maria hiện ra ở La Vang, Lộ Đức, Fatima,    . . . chúng ta sẽ thấy, tiêu chuẩn chọn lựa được đón ân phúc hiện ra của Mẹ thường là những trẻ em, những kẻ nghèo khổ, khốn cùng và khiêm nhường. Các thuộc tính này là một trong những cơ sơ để chúng ta nhận ra các tiên tri giả, thật.

Cách chọn lựa của Đức Maria không là khó hiểu, vì chính Thiên Chúa cũng tuyển chọn con người với các tiêu chí ấy khi mạc khải hay tỏ lộ các hồng ân. Điển hình trong mầu nhiệm giáng sinh, các con người được chọn để tham dự hay chứng kiến ân phúc này gồm: bác thợ mộc Giuse, cô thiếu nữ vô danh Maria, ba nhà chiêm tinh ở phương đông và các mục đồng ở Belem.

Mầu nhiệm Giáng sinh làm sáng tỏ phần nào quan điểm của Thiên Chúa với danh vọng và tiền tài- hai giá trị mà thế gian cho là báu vật. Và trong khi con người trông chờ một đấng cứu thế theo nghĩa của loài người, thậm chí có thể phục vụ cho cả mục đích của con người, nghĩa là một đấng quyền cao, chức trọng thì Đức Giêsu bảo rằng: “Thế thì anh em xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua” (Mt 11, 8). Cuối cùng, hang đá lạnh lẻo, nghèo hèn được chọn làm nơi Đấng Cứu thế giáng sinh.

Danh vọng và tiền tài là một trong các tiêu chí tìm kiếm của cả đời người. Nhưng bàn về danh vọng, Chúa Giêsu lại dạy rằng: “Vua của các dân thì lấy quyền mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Anh em thì không như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22, 26). Về tiền bạc, Chúa Giêsu phán: “Thầy còn nói cho anh em biết, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” (Mt 19, 24). Lối giảng dạy này thật sự gây náo động, xung đột trong suy nghĩ nhiều người.

Tìm kiếm tiền tài, danh vọng thường gắn liền với cái tôi, và con đường ấy khó dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa, vì Ngài mong đợi chúng ta quên đi cái tôi to lớn của bản thân. Chúa Giêsu bảo: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” (Ga 12, 25)

Suy niệm về mầu nhiệm Giáng sinh, về phương cách Thiên Chúa tuyển chọn con người hợp tác với Ngài, về lời truyền dạy của Đức Giêsu trong 3 năm rao giảng, một lần nữa khẳn định rằng: Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên con người giống hình ảnh Thiên Chúa, luôn mong muốn, con rắn xấu xí hay cám dỗ, phải bị khuất phục bởi hình ảnh của Ngài trong bản thân mỗi chúng ta. (Trong khi đó, con người lại muốn một Thiên Chúa có những tư duy như con người. Thuộc tính kiêu ngạo từ thuở hồng hoang xem chừng quá khó để con người dứt bỏ nó).

Những gì thuộc về thế gian, thuộc về con rắn quỉ quyệt, thì không thuộc về Thiên Chúa. Và những gì thuộc về Thiên Chúa thì xa lạ với thế gian. Chúa Giêsu bảo các môn đệ rằng: Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em.” (Ga 15, 18).

Lạy Chúa, chúng con biết rằng, để sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian, chỉ có thể được nếu chúng con được Ngài yêu thương và chăm sóc, vì không có Ngài, chúng con chẳng làm được điều gì.

CHÚA ĐẾN Ở ĐÂY VÀ NGAY BÂY GIỜ

CHÚA ĐẾN Ở ĐÂY VÀ NGAY BÂY GIỜ

Trần Mỹ Duyệt

Mỗi lần nghe hoặc nói đến hai chữ “Chúa đến”, phản ứng đầu tiên của nhiều người là nghĩ ngay đến biến cố của hơn 2000 năm trước tại cánh đồng Belem, vào một đêm Đông lạnh lẽo. Ngày đó, Ngôi Hai Thiên Chúa mặc xác phàm, giáng trần làm người. Nhưng nếu nhìn biến cố này với cặp mắt và suy tư mang mầu sắc tôn giáo, thì biến cố ấy được tin là qua việc hạ sinh, Ngôi Hai Thiên Chúa đã đến để giải thoát nhân loại khỏi tội, khỏi ách thống trị của Satan. Ngài đến để giao hòa nhân loại với Thiên Chúa.

Nhìn và suy ngắm việc Chúa đến bằng cặp mắt đức tin, thì biến cố này không chỉ dừng lại ở hành động suy diễn, và nhắc lại những gì đã xẩy ra tại cách đồng Belem trước đây. Đúng hơn, đó là lời nhắc nhở ta rằng Chúa không chỉ đã đến, mà Ngài đang đến, và sẽ đến: Ngài đến ở đây và ngay bây giờ.  Tư tưởng này sẽ giúp ta hiểu rõ hơn việc Chúa đến có liên quan gì với ta, và làm cách nào biến cố ấy lại trở thành biến cố giải thoát ta khỏi vòng nô lệ tội lỗi, và đem lại cho ta ánh sáng và ơn cứu độ.

“Chúa đến ở đây và ngay bây giờ”. Ta có thể căn cứ vào ý nghĩa của việc Ngài giáng trần để liên kết với mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Độ. Đồng thời hướng ta về với sự hiện diện của Ngài trong đời sống của chính mỗi người qua những giai đoạn được gọi là những thời khắc Chúa đến:

Chúa đến qua Mầu Nhiệm Nhập Thể.

Chúa đến qua những Bí Tích.

Chúa đến qua giờ chết.

Chúa đến trong ngày Quang Lâm.

Chúa đến qua Mầu Nhiệm Nhập Thể: Đây là những gì mà nhân loại đang nô nức chuẩn bị mừng ngày kỷ niệm. Hơn 2000 năm trôi qua, biến cố Belem vẫn được nhắc đến hằng năm.

Như những tổ phụ của Do Thái xưa, họ đã mỏi mòn trông chờ Chúa đến, nhưng khi Ngài đến thì lại không ai thèm để ý và đón tiếp. Chính vì thế, Ngài đã phải hạ sinh trong một cái chuồng chăn súc vật ngoài thành Belem. Nhân loại ngày nay chuẩn bị đón mừng kỷ niệm Chúa đến cũng bằng một thái độ tương tự. Đối với phần đông, Giáng Sinh chỉ là một lễ hội, mà ý nghĩa tôn giáo đã hầu như bị coi thường, quên lãng.

Chúa đến qua những Bí Tích: Đối với người Kitô hữu, việc Chúa Giêsu hiện diện và ban ơn qua các Bí Tích là hành động “đến” của Ngài với mỗi nguời chúng ta. Do quyền năng, và tình yêu Chúa hằng ngày, hằng giờ, và hằng phút vẫn đến với con người và từng người qua đời sống ân sủng nhờ các Bí Tích.

Qua Bí Tích Thánh Tẩy, Ngài đến với ta,  rửa sạch tội ta, và đem ta vào với ân sủng của Ngài. Nhờ đó ta được làm em của Ngài, làm con Cha trên trời. Thật ra, nếu không được rửa sạch tội khiên, được tháp nhập vào Thân Thể Mầu Nhiệm của Ngài, ta dù có đón mừng kỷ niệm cuộc giáng trần của Ngài, vẫn không được đón nhận vào đoàn con của Ngài, và được thông phần hạnh phúc nước trời.

Để ban cho ban sức mạnh, sự khôn ngoan, ơn can đảm, và những ơn huệ cần thiết khác giúp ta sống đời Kitô hưu cách trưởng thành, Chúa đã đến với ta quan Bí Tích Thêm sức.

Rồi mỗi lần ta đáp lại ơn gọi của Ngài, là một lần Chúa lại đến và lại mời gọi ta. Ngài gọi ta làm chứng nhân Tin Mừng bằng đời sống tu hành, tận hiến. Hay Ngài gọi ta cộng tác với Ngài trong việc tạo dựng, và làm đẹp cho cuộc sống bằng ơn gọi hôn nhân, gia đình. Hoặc Ngài gọi ta vào những ơn gọi, bậc sống riêng biệt khác.

Nhưng khi ta yếu đuối, sa ngã, lỡ lầm, Ngài lại đến để an ủi, nâng đỡ, và tẩy sạch ta qua Bí Tích Hòa Giải. Ở đó, Ngài giang rộng vòng tay đón ta, và tha thứ, phục hồi ơn gọi làm con Thiên Chúa cho ta.

Nhất là hàng ngày, hàng tuần bạn đến với Ngài trong Thánh Lễ, ở đó, Ngài nuôi ta bằng Lời Ngài, và Mình Máu Thánh Ngài. Trong Thánh Thể, Ngài nhắc lại với ta lời Ngài đã nói khi xưa: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Ngài đến, và đồng bàn với ta như Ngài đã đến và ăn tại nhà Phêrô, Gia Kiêu, và nhà của chị em Maria, Mattha, và Lazarô. Ta có thấy mình trở thành hãnh diện và diễm phúc lắm không? Cái đặc ân mà ở thời Ngài, ít người được hưởng.

Và khi ta dọn mình, chuẩn bị bước vào một cuộc hành trình mới, cuộc hành trình đi về vĩnh cửu thì Ngài lại đến để an ủi, để tăng thêm sức mạnh, và nhất là để giúp ta vững tin rằng Ngài luôn luôn ở đó bên ta. Bí Tích Xức Dầu chính là sự xuất hiện gần gũi, đầy tin tưởng nhất để giúp ta nhận ra tình Ngài, sự có mặt của Ngài trước giờ lâm chung.

Chúa đến qua giờ chết: Dù là người có tín ngưỡng hay không có tin ngưỡng, ta cũng sẽ nhận ra điều này, đó là không ai hết, không phải do thần chết đã gọi ta, đã bắt ta, đã cất mạng sống ta, nhưng là do chính Thiên Chúa đã dùng cách ấy để đem ta ra khỏi thế gian này. Để đem ta lại gần Ngài, và để ta ở với Ngài trong đời sống vĩnh cửu. Đức Tin dậy ta như thế, và ta cần phải tin như thế.

Nếu cuộc đời này là một bể khổ, thì cái chết là cần thiết để đưa ta ra khỏi bể khổ ấy. Thiên Chúa là Thiên Chúa tình thương. Ngài không muốn nhìn ta mãi bơi lội trong bể khổ này.

Nếu cuộc đời là một hành trình đi về viên miễn, thì Chúa đến đưa ta về nơi hạnh phúc ấy. Qua cái chết, ta sẽ nhận rõ hơn gương mặt yêu dấu của Ngài.

Chúa đến ngày Quang Lâm: Đây là những gì Đức Tin dậy: “Tôi tin xác loài người ngày sau sẽ sống lại. Tôi tin hằng sống”. Đây là lần xuất hiện cuối cùng và là lần xuất hiện vinh quang của Ngài trước mặt toàn thể nhân loại từ tạo thiên lập địa cho đến ngày ấy. Bạn và tôi chúng ta đều có mặt trong ngày ấy để đón Ngài. Tuy nhiên, tùy vào niềm tin, tùy vào cuộc sống, và tùy vào cái chết của mỗi cá nhân, mỗi người có một thái độ đón tiếp khác nhau.

Ngày hôm ấy, ta sẽ được nhìn lại một cách rõ ràng, chi tiết hơn tất cả thời gian mà Chúa đến với ta. Mỗi thời điểm ấy mang tín hiệu, lời mời gọi, hay sứ vụ gì? Số phận của ta tuy đã được quyết định trong ngày chết, nhưng hôm nay chỉ là một lần nữa cái số phận ấy được công bố cho toàn thể nhân loại biết, để cho thấy ta là ai, Thiên Chúa là ai trong cuộc đời ta, và thái độ ta đón rước Ngài như thế nào.

“Chúa đến ở đây và ngay bây giờ”. Thiên Chúa là Đấng làm chủ thời gian, Ngài là Nguyên Thủy và Cùng Đích. Việc Ngài đến với nhân loại, với mỗi người chúng ta không bị lệ thuộc vào thời gian. Nó luôn luôn là một hiện diện trước mặt và ngay bây giờ. Chuẩn bị mừng Mầu Nhiệm Giáng Trần, là dịp để ta suy nghĩ về sự hiện diện và có mặt của Ngài trong cuộc đời mỗi người. Ngài là Thiên Chúa giáng trần, nhưng là một Emmanual – Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chúa đã đến. Ngài đang đến. Và Ngài sẽ đến. Hãy sẵn sàng chờ đợi và đón tiếp Ngài.

Chúa đến ở đây và ngay bây giờ. Chuẩn bị mừng Mầu Nhiệm Giáng Trần, là dịp để ta suy nghĩ về sự hiện diện và có mặt của Ngài trong cuộc đời mỗi người. Ngài là Thiên Chúa giáng trần, nhưng là một Emmanual – Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chúa đã đến. Ngài đang đến. Và Ngài sẽ đến. Hãy sẵn sàng chờ đợi và đón tiếp Ngài.

CHỈ SỐ LÀM NHÓI LÒNG NGƯỜI !

CHỈ SỐ LÀM NHÓI LÒNG NGƯỜI !

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Ở trong nhà chăn ấm nệm êm sẽ chẳng bao giờ thấy được cảnh nghèo người khổ quanh ta. Cứ bước chân ra đường, ta sẽ bắt gặp biết bao nhiêu hình ảnh của những người nghèo.

Người nghèo đó chẳng phải là ai xa lạ. Người nghèo đó có thể là chính người thân ruột thịt của ta, người bà con của ta, người hàng xóm của ta và ắt hẳn họ cùng dòng máu đỏ da vàng của ta.

Nơi chốn đô thị ồn ào và sầm uất, ta ít nhận ra những người nghèo bởi lẽ ra đường nơi phố thị ai cũng mặc đẹp, đi xe sang và làm những công việc mang tính đầu óc, trí tuệ. Có chăng ta bắt gặp được số ít người bán vé số, bán hàng rong … Họ là ai ? Họ là những người xa quê, họ là những người phải bỏ nơi chôn nhau cắt rốn để tìm về những đô thị lớn để sống phận “di dân”.

Cũng không khó hiểu lắm khi những thành phố lớn, đặc biệt là Thủ Đô và Sài Thành phải đón nhận số lượng di dân đến mức báo động. Vì sao họ phải bỏ quê để đi lên thành thị sống ? Bởi lẽ họ không còn cách nào khác để tìm kế sinh nhai.

Thời gian không dài nhưng cũng không quá ngắn để sống ở vùng Phú Thọ – Hưng Hóa còn in đậm trong trí của tôi khi dân ở đó không tìm ra đâu công ăn việc làm. Một số người lên rừng để cạo dầu chai. Công việc phải thức thật sớm bởi lẽ khi nắng lên thì không làm được nữa. Nhìn những bàn tay nứt nẻ vì bị dầu chai ăn khi họ lên chịu Lễ mà nhói lòng.

Hỏi ra thì thu nhập của họ đổi ra không đủ mua được một đô la.

Những người có hoàn cảnh thì đành phải ở lại nhà quê để sống với mức sống như thế. Những người khá hơn thì họ tìm cách để thoát khỏi quê nghèo tìm hướng sống. Cái nghèo đã bám víu mảnh đất Phù Lao – Phú Thọ – Hưng Hóa này.

Mới đây, trên quãng đường ngắn từ Huế ra La Vang, tôi lại chứng kiến hình ảnh của những con người nghèo. Những ngày mưa phụn lạnh giá nhưng người làm nông ở vùng này phải tìm cách quấn áo mưa hay những mảnh ni-lông tự chế sao cho ấm người để kịp ra đồng cày cấy. Không còn cách nào khác họ phải dầm sương như thế để kiếm sống qua ngày. Cái nghèo như ôm chầm cuộc đời của họ.

Nhìn thoáng qua với những tòa nhà cao ngất, với những chiếc xế hộp trị giá đến chục tỷ chạy bon bon trên đường và những nhà hàng cửa hiệu lộng lẫy thì thấy vui với một đất nước đang trên đà phát triển. Đúng thật là phát triển nhưng khi nhìn lại những con số thống kê thì thật đau lòng và choáng !

Cuối năm 2013 này, GDP bình quân đầu người tính bằng USD ước đạt 1.900 USD.

Nhìn con số này, thoạt tiên là mừng vì thấy thu nhập đầu người bình quân đến cả ngàn đô la. Thế nhưng, một sự thật phủ phàng và đau đớn là hiện nay ở Việt Nam có tới 17 triệu lao động vẫn nằm ở mức thu nhập dưới cận nghèo và chỉ đạt chưa đến 2 USD/ngày.

Đang khi đó thì Đại hội Đảng lần thứ XI đề ra mục tiêu GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái đến năm 2015 đạt 2.000 USD.

Với những thành quả như thế, dĩ nhiên người ta hết sức lạc quan khi dự đoán rằng mục tiêu này dễ đạt vì lẽ GDP bình quân đầu người tính bằng USD trong năm 2013 đang tiến tới mốc 1.900 USD.

Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) ngày 12/12 cho biết, hiện còn khoảng 17 triệu lao động Việt Nam có thu nhập quá thấp, không vượt lên trên chuẩn nghèo 2 USD/ngày (khoảng hơn 40 ngàn đồng/ngày).

Dân số Việt Nam như hiện nay, có khoảng 23 triệu người khác đang sống mấp mé trên ngưỡng chuẩn nghèo và rất dễ tái nghèo khi xảy ra khủng hoảng kinh tế.

Nhìn thấy con số biết nói 40 ngàn đồng thu nhập của mỗi ngày, chẳng lẽ ta không quặn lòng sao ?

40 ngàn đồng, ở mảnh đất Sài Thành, chắc có lẽ được 1 tô phở Anh ở đường Kỳ Đồng. Ở những tiệm khác có thể giá còn cao hơn nữa chứ không dừng lại ở cái giá 40 ngàn.

40 ngàn đồng hiện nay làm được gì ? Và con số những người thu nhập như thế này không chỉ ở con số một vài hay chục nhưng lên đến 23 triệu người nghèo.

Mỗi ngày, người dân kiếm được thu nhập như thế thì thử hỏi đời sống của họ sẽ như thế nào và đi về đâu. Ăn không đủ ăn nữa chứ đừng nói gì đến mặc, học hành, y tế … Có nằm mơ chắc họ cũng không bao giờ dám nghĩ đến chuyện giải trí.

Nhìn vào cuộc sống, khoảng cách giàu nghèo ngày càng cách biệt rõ nét.

Có những ngôi biệt thự giá từ chục tỷ đến hàng trăm tỷ.

Có những chiếc xe sang từ vài tỷ đến chục tỷ.

Và, có những người chỉ mơ có cuộc sống bình dị với mức thu nhập đủ sống nhưng nào giấc mơ đó có thực.

Không phủ nhận chuyện đất nước phát triển nhưng số người nghèo và quá nghèo sao còn nhiều quá. Làm sao cho họ có lối thoát để họ sống đúng mức là một người bình thường đây ?

Những ngày cận Tết đang đến. Có những gia đình đang, đã và sẽ tìm cho mình những kỳ nghỉ xa và dài, thậm chí ở ngoài nước nhưng ngược lại cũng còn đó nhiều và rất nhiều gia đình đang chạy ăn từng bữa và lo lắng cho cuộc sống.

Và, hình ảnh những người xa quê lại phải lao đao vất vả cho hành trình về thăm quê lại hiện ra. Người xa quê có tiền về thăm quê cũng là diễm phúc bởi lẽ có nhiều người ngậm ngùi ở lại đất khách vì không đủ khả năng về quê.

Hình ảnh của những người nghèo, những người di dân xa quê lại cứ hiện về rõ nét hơn trong những ngày tháng cuối năm.

Làm sao cho họ thoát nghèo, làm sao cho họ được sống với mức sống bình quân với tư cách là người hơn đây ?

Anmai, CSsR

5 điều người ta hối tiếc nhất lúc sắp lìa trần

5 điều người ta hối tiếc nhất lúc sắp lìa trần

Một nữ y tá người Úc tên Bronnie Ware đã có nhiều năm chuyên chăm sóc người bệnh ở thời kỳ 12 tuần cuối của cuộc đời họ. Qua đó cô đã có cơ hội ghi lại những điều mà người bệnh còn hối tiếc trước khi nhắm mắt.

Cô nhận ra rằng khi người sắp qua đời được hỏi có điều gì trong cuộc đời mà họ hối hận vì đã không làm khác đi, đã có một số câu trả lời rất phổ biến trong tâm lý chung của con người ở giai đoạn này mà cô có thể tổng kết lại thành năm điều và viết thành cuốn sách cùng tên: “5 điều hối tiếc nhất lúc sắp lìa trần”. Đã không có câu trả lời nào đề cập đến sự ham muốn về tình dục hay những cú nhảy bungee mạo hiểm.

  5 iÁu hÑi ti¿c nh¥t lúc s¯p lìa tr§n

“5 điều hối tiếc nhất lúc sắp lìa trần”

Dưới đây là năm điều hối tiếc phổ biến nhất của những người sắp chết, mà Ware đã ghi lại:

1. Giá mà tôi có đủ can đảm để sống một cuộc sống đúng với bản thân mình, chứ không phải là cuộc sống mà những người khác mong đợi ở tôi.

“Đây là niềm hối tiếc phổ biến nhất. Khi con người ta nhận ra rằng cuộc đời của họ đang gần đến điểm kết thúc, ngoảnh nhìn lại, thật dễ dàng để nhận ra có bao nhiêu giấc mơ đã trôi đi mà chưa thành hiện thực. Hầu hết mọi người đã không tôn trọng thậm chí chỉ một nửa giấc mơ của mình và giờ đây họ phải ra đi trong suy nghĩ rằng điều này hoàn toàn do những gì họ đã lựa chọn, hoặc không lựa chọn. Sức khỏe mang lại một sự tự do mà rất ít người nhận ra, cho đến khi họ không còn có nó được nữa”.

2. Giá mà tôi đã không làm việc một cách cật lực.

“Điều hối tiếc này này đến từ tất cả các bệnh nhân nam mà tôi chăm sóc. Họ đã bỏ lỡ tuổi trẻ của con cái họ cũng như sự đồng hành của người bạn đời. Phụ nữ cũng có nhắc đến điều hối tiếc này, nhưng vì hầu hết họ đến từ thế hệ cũ, họ đã không cần phải là trụ cột gia đình. Tất cả những người đàn ông mà tôi đã chăm sóc đều hối hận một cách sâu sắc rằng họ đã chi tiêu quá nhiều cuộc sống của họ để chạy đua với công việc”.

3. Giá mà tôi có đủ can đảm để bộc lộ cảm xúc của mình.

“Nhiều người phải ức chế cảm xúc của mình để giữ hòa khí với những người xung quanh. Kết quả là, họ phải tự nén mình xuống sống một cuộc sống tầm thường và không bao giờ trở thành người mà họ đã thực sự có khả năng trở thành. Nhiều căn bệnh phát triển liên quan đến sự cay đắng và oán giận mà họ đã phải ôm trong người”.

4. Giá mà tôi giữ liên lạc với bạn bè của tôi.

“Thường thì họ sẽ không thực sự nhận ra những lợi ích đầy đủ của những người bạn cũ cho đến những tuần cuối cùng của cuộc đời, và không phải lúc nào cũng có thể tìm lại được bạn bè. Nhiều người đã bị kẹt trong cuộc sống riêng của họ đến nỗi đã để những tình bạn vàng trôi đi theo năm tháng. Đến cuối đời họ cảm thấy rất ân hận bởi đã không dành đủ thời gian và nỗ lực để chăm chút cho tình bạn của mình. Tất cả họ đều nhớ đến những người bạn của mình khi họ đang hấp hối”.

5. Giá mà tôi để cho bản thân mình được hạnh phúc hơn.

“Đây là một niềm hối hận phổ biến đến mức ngạc nhiên. Nhiều người cho đến phút cuối cùng mới nhận ra hạnh phúc chính là một sự lựa chọn cho cuộc sống. Họ bị kẹt trong những mô hình và thói quen cũ. Cái gọi là “sự dễ chịu” của sự quen thuộc đã lấn át đời sống tinh thần cũng như thể chất của họ. Sự sợ phải thay đổi đã khiến họ phải giả vờ với mọi người xung quanh và với chính bản thân họ, rằng họ đang rất mãn nguyện, nhưng thực ra, ở sâu bên trong, họ thèm được cười hết mình và có được lại sự khờ dại”.

Hãy sống và cống hiến hết mình để trước khi nhắm mắt ta sẽ nở 1 nụ cười !

Nhận Lãnh Để Trao Ban

Nhận Lãnh Để Trao Ban

http://vmode.vn/uploads/2009/08/phu-nu-va-tien-bac.jpg

Một người kia suốt đời chỉ lo thu gom tiền bạc, cho nên rất giàu. Khi chết, ông còn ôm túi vàng theo mình đi sang cuộc sống bên kia. Đi một hồi ông thấy đói. Bỗng ông thấy một quán ăn bên đường, liền ghé vào. Vì hà tiện, ông hỏi người chủ quán:

-Tô cơm nhỏ này giá bao nhiêu?

-Chỉ một đồng thôi.

-Còn tô lớn kia?

-Cũng chỉ một đồng thôi.

Thấy rẻ, ông gọi luôn hai tô lớn. Nhưng người chủ quán bảo:

– Ở đây chỉ xài loại tiền-cho-đi thôi. Ông có không?

Người hà tiện chỉ vào túi vàng của mình. Nhưng chủ quán nói:

-Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào. Ở đây không xài được.

-Thế tiền-cho-đi là tiền gì?

-Khi còn sống, mỗi lần ông cho ai bao nhiêu đồng thì ông được ban lại bấy nhiêu đồng loại tiền-cho-đi.

Ông nhà giàu lục lọi khắp nơi trong mình nhưng chẳng có đồng nào thuộc loại tiền-cho-đi cả. Thế là ông phải nhịn đói, sống trong thiếu thốn khổ cực đời đời .

***

Bạn thân mến, bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiêu đồng tiền để dành cho đời sau vậy. Những người coi đồng tiền to hơn mạng sống của mình, rốt cuộc cũng chẳng được gì. Thấu hiểu lòng ham mê tiền bạc của con người, Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn người quản gia khôn khéo. Người khen ông quản gia khôn khéo không phải vì hành động bất lương của ông, nhưng vì ông biết lo xa cho tương lai của mình. Ông khôn khéo vì ông biết dùng tiền của tạm bợ để mua lấy bạn hữu.

Nếu “con cái đời này” biết phải làm gì và làm cách nào đối với tiền của để to liệu cho ngày mai, thì tại sao “con cái sự sáng” lại không biết sử dụng ơn Chúa ban trong hiện tại để lo cho không biết sử dụng của cải phù dù, chia sẻ cho người nghèo khó để mua lấy bạn hữu Nước Trời.

Nếu người ta căn cứ vào cách dùng tiền của để biết được lòng người có trung tín hay không, thì tại sao chúng ta lại không “trung tín trong việc nhỏ” là sử dụng tiền của để bảo đảm cho ta của cải chân thật đời sau?

Thật vậy, chúng ta không trở nên giàu có với những điều mình đã nhận lãnh, mà là với những điều mình đã trao ban. “Trong dự tính của Thiên Chúa, người giàu chỉ là viên thủ quĩ của người nghèo”. Chính vì thế, chỉ khi nào biết quảng đại trao ban cho những kẻ thiếu thốn, chúng ta mới thực là những quản gia biết làm theo ý muốn của chủ, những quản gia trung tín và khôn ngoan. Chỉ khi nào biết coi tiền của là phương tiện phục vụ cho cùng đích là Nước Trời chúng ta mới thực sự “làm tôi Thiên Chúa”.

***

Lạy Chúa, Trong cuộc sống trần thế, xin cho chúng biết nhận ra những gì là mau qua, là tạm bợ ở đời này để chúng con biết khôn ngoan tích trữ cho mình những gì là quí giá, là gia tài vĩnh cửu là hạnh phúc Nước Trời trong cuộc sống mai hậu. Amen.

R. Veritas

Vì sao nhiều đảng viên bỏ đảng?

Vì sao nhiều đảng viên bỏ đảng?

Gia Minh, biên tập viên RFA
2013-12-12

000_Hkg4466727-305.jpg

Hình minh họa chụp năm 2011 tại Hà Nội.

AFP

Công luận tại Việt Nam trong tuần đầu tháng 12 xôn xao về việc công khai từ từ bỏ đảng Cộng sản của các ông Lê Hiếu Đằng, Phạm Chí Dũng và bác sĩ Nguyễn Đắc Diên tại Sài Gòn.

Trước đó có một số người từng thực hiện biện pháp tương tự; tuy nhiên số này vẫn còn là thiểu số trong chừng hơn ba triệu đảng viên tại Việt Nam.

Lời nói không đi đôi với việc làm

Danh sách những đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức công khai làm đơn ra khỏi đảng, hồi tháng 7 vừa qua lại có thêm một tên mới là ông Nguyễn Thái Sơn.

Trong đơn ra khỏi đảng, ông này nêu rõ ‘Có thể nào một cán bộ, đảng viên suốt đời gương mẫu, cần cù, chịu khó làm việc, tin tưởng vào pháp luật và hệ thống chính quyền của nhà nước đấu tranh bảo vệ lẽ phải lại trở thành thảm họa’.

Ông Nguyễn Thái Sơn năm nay đã 70 tuổi cho biết lý do khiến ông phải đi đến quyết định ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam:

“Lý do chính là lời nói không đi đôi với việc làm, chính sách, chủ trương, cương lĩnh, nghị quyết của Đảng không được thực hiện.
-Ô. Nguyễn Thái Sơn”

“Lý do chính là lời nói không đi đôi với việc làm, chính sách, chủ trương, cương lĩnh, nghị quyết của Đảng không được thực hiện. Thứ hai nhiều vấn đề bất bình trong xã hội do chủ trương, đường lối không đi đôi với thực hành nên gây cho tôi những thảm họa. Vụ việc của tôi báo chí đã đăng rất nhiều, và nhiều cơ quan pháp luật cũng xác nhận chuyện này là chuyện vi phạm luật pháp, nhưng cuối cùng họ cũng làm tầm bậy, tầm bạ. Chính vì thế tôi cũng báo cáo lên trong chi bộ vụ việc này không làm đến nơi đến chốn thì Đảng cũng chẳng có việc gì nữa nên tôi xin nghỉ sinh hoạt đảng, vì sinh hoạt đảng như thế là hình thức, là vớ vẩn thôi.

Qua chuyện tôi đi khiếu kiện cũng gặp trong xã hội nhiều chuyện cũng rất bức xúc. Nhiều người cũng rất khổ sở. Ngay cả chúng tôi là người có học, có hành, đọc báo, đọc luật và có thể hiểu; còn nhiều người dân quá cực khổ không có điều kiện đọc nên không hiểu nhiều. Nhiều người cũng không có tài liệu bằng chứng, mất thời giờ cho chuyện ấy mà không giải quyết được. Vấn đề của chúng tôi làm rất chính đại, quang minh, đàng hoàng; đấu tranh có tổ chức mà họ còn làm bậy như thế thì những người không có điều kiện như chúng tôi họ khổ như thế nào!

Thực chất vấn đề tôi xin ra đảng là đấu tranh cho một xã hội bình đẳng, công minh. Tôi đã gửi trên 4.000 đơn đến các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan quốc hội, chính phủ mà họ không giải quyết thì trách nhiệm của họ ở đâu, làm gì?

Liên quan đơn (xin ra đảng) vừa rồi tôi cũng muốn dư luận của xã hội, kể cả dư luận quốc tế vì đây là chân lý – lẽ phải mà; trắng đen phải phân minh thì xã hội mới phát triển lành mạnh được. Nếu tình hình thế này kéo dài thì đất nước sẽ trở nên tồi tệ, con người sẽ trở nên rất xấu.”

Khó tìm người cùng chí hướng

Một đảng viên trẻ công khai từ bỏ lý tưởng cộng sản được nhiều người biết đến là anh Nguyễn Chí Đức. Sau một năm ra khỏi đảng, anh có bài viết mang tựa ‘Suy nghĩ cô đọng sau một năm từ bỏ Cộng sản’.

000_Hkg4476059-250.jpg

Các Đại biểu đang biểu quyết tại Đại hội đảng XI hôm 17-01-2011. AFP PHOTO / HOANG DINH Nam.

Trong bài anh có câu ‘Sự thật đã rõ nhưng những người đảng viên ĐCSVN dám dứt ra khỏi chuyện cơm áo, gạo tiền, chuyện quá khứ nặng nghĩa – nặng tình, chấp nhận dấn thân còn rất rất ít hơn tôi kỳ vọng.’

Anh Nguyễn Chí Đức cho biết:

“Khó tìm người mong muốn và người mình mong muốn. Bản thân công an địa phương họ cũng tìm cách ngăn trở chuyện những người như tôi tụ lại thành một điểm nào đấy. Vừa rồi tôi có tìm đến những người đảng viên có suy nghĩ không tin vào đảng, và tôi đánh bài ngửa với họ mời bác, mời anh có uy tín làm hội trưởng (từ rất khiêm tốn, không nói là đảng trưởng) quy tụ những người như tôi, nhưng nhiều người không dám. Thực tế như ông Lê Hiếu Đằng, ông đã dám bỏ đảng đâu. Nếu ông bỏ đảng tôi sẽ đến ngay để bàn, hoặc tôi với góc độ người thế hệ sau để ‘một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao’. Tôi đã bỏ rồi, tôi cần những người dám đoạn tuyệt và ly dị tổ chức cộng sản thì mới tin nhau được. Chỉ tin nhau qua hành động, chứ không thể qua những lời nói trên mạng. Cũng như trong chuyện tình cảm, phải ly dị mới có thể tìm người khác, đối phương mới yên tâm hơn.”

Bản thân ông Nguyễn Thái Sơn vì tố cáo tham nhũng và việc bảo kê, bao che cho hành vi phạm pháp mà theo ông là tội ác, nên bản thân ông bị trù dập, trả thù. Ông cho biết cũng khá đơn độc, khó tìm được người đồng cảm lên tiếng bênh vực ông:

“Ở Việt Nam có những người cũng biết đó là sự thật, nhưng không dám can thiệp vì họ sợ liên lụy đến vấn đề này, vấn đề khác. Ở Việt Nam mà làm được điều đó là có nghị lực phi thường rồi. Bình thường họ sợ nhiều vấn đề phức tạp nên không dám làm. Thứ hai xã hội không có trách nhiệm nên nhiều người cũng bàng quang trong vấn đề này.”

Bất hạnh của dân tộc?

“Khó tìm người mong muốn và người mình mong muốn. Bản thân công an địa phương họ cũng tìm cách ngăn trở chuyện những người như tôi tụ lại thành một điểm nào đấy.
-Anh Nguyễn Chí Đức”

Anh Nguyễn Chí Đức còn viết thêm rằng ‘Một nỗi buồn xâm chiếm trong tôi nhưng từ đây tôi rút ra được một điều đau đớn: ĐCSVN đã tàn phá nặng nề khả năng phản biện, đầu độc tư tưởng các thế hệ thanh niên Việt Nam trong tổ chức này ngay từ khi tâm hồn họ còn rất trong sáng, động lực đầy nhiệt huyết .”

Theo anh Nguyễn Chí Đức thì đó là nỗi bất hạnh cho dân tộc Việt Nam:

“Bản thân người cộng sản đi đầu độc người khác nhưng chính họ cũng bị đầu độc. Bản thân những người mới vào đảng ai cũng đầy nhiệt huyết, thông minh, có chí khí; nhưng vào tổ chức này nó làm cho người ta phải nói dối, rồi phải luồn cúi; nhất là trong xã hội bây giờ muốn lên chức trưởng, phó phòng phải biết nịnh bợ rồi, phải biết ‘thượng đội, hạ đạp’, phải biết dùng tiền để lên chức cao hơn. Đó là cấp thấp nhất, cấp càng cao thì tha hóa càng cao. Mà đã tha hóa cao đến mức vào Quốc hội rồi mà bỏ đảng thì họ khui ra đầy ‘phốt’ ngay. Thời bây giờ nói thật những người phản tỉnh ở cấp cao cũng chả tốt đẹp gì đâu, hiếm lắm. Thời chống Pháp thì nhiều, vì đó là thời các tiền bối cộng sản phần lớn họ trong sạch, có lý tưởng; nên khi họ phản tỉnh thì họ đa số được mọi người tín nhiệm, lắng nghe ví dụ như ông Trần Độ, hay Hoàng Minh Chính, Trần Xuân Bách. Những người đó, thời chưa có Internet, tôi nghe bố mẹ, hàng xóm bàn tán cả tuần về những người đó.”

Người cựu đảng viên Nguyễn Thái Sơn mới ra khỏi đảng từ hồi tháng 7 thì cho rằng những người bị oan ức cùng cảnh ngộ như ông không có được một chỗ dựa nào tại đất nước Việt Nam:

“Vấn đề ở Việt Nam hiện tại không có chỗ dựa nào cho những người thẳng thắn đấu tranh như thế.”

Trong bài viết sau một năm từ bỏ Cộng sản, anh Nguyễn Chí Đức trích lại lời nói của cố tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu ‘Đừng nghe những gì Cộng sản nói mà hãy nhìn những gì Cộng sản làm’. Đó là một trong ba cảnh tỉnh chân thành mà anh Nguyễn Chí Đức đưa ra.

CÓ ĐƯỢC BIẾN LỄ TANG THÀNH LỄ CƯỚI HAY LỄ PHONG THÁNH KHÔNG ?

CÓ ĐƯỢC BIẾN LỄ TANG THÀNH LỄ CƯỚI HAY LỄ PHONG THÁNH KHÔNG ?

Tác giả: Lm. PX. Ngô Tôn Huấn

Tôi phải viết bài này vì đã được chứng kiến một vài  việc xét thấy không phù hợp với giáo lý và niềm tin của Giáo Hội về việc cử hành  lễ tang ( funeral mass) cho ai  đã ly  trần . Tôi cần nói để giáo dân khỏi hoang mang khi có thể còn phải chứng kiến một việc tương tự  không phù hợp với văn hóa Việt Nam và  quan trọng hơn là giáo lý của Giáo Hội về việc cầu nguyện cho những người đã chết.

Thật vậy, như tôi đã có đôi lần viết rằng lễ tang ( Funeral mass) cho bất cứ ai  ly trần- dù là giáo dân, hay linh mục, Giám mục và cả Đức Giáo Hoàng  nữa, thì cũng không bao giờ là lễ cưới hay lễ phong thánh ( canonization) cho ai, dù cho  biết rằng người quá cố là người đã sống một đời sống đạo đức thánh thiện đáng được hưởng phúc Thiên đàng theo nhãn quan con người. Phải nói như vậy, vì không ai có thể biết được Chúa phán xét ra sao cho  một người đã ly trần, kể cả cho những người đã tự tử chết, hoặc chết mà không kịp được  sức dầu và lãnh phép lành Tòa Thánh.

Vì  Giáo Hội  không biết được  số phận đời đời của họ, nên chỉ dạy  các tín hữu  phải cầu nguyện  cho những linh hồn đã ly trần mà thôi, dù người đó đã sống tốt lành  hay bê bối  ra sao,   trước con mắt của người đời..Nghĩa là,  ta không thể phán đoán ai đã được lên Thiên đàng rồi nên khỏi cần  cầu nguyện cho họ nữa, hoặc ai đã  sa hỏa ngục rồi nên cũng  không cần cầu nguyện nữa.

Nhưng  thực tế  đã cho thấy là có một số linh mục đã biến lễ tang thành lễ phong thánh hay lễ cưới. Biến lễ tang thành lễ phong thánh,  khi giảng rằng người này đã sống quá tốt  lành nên chắc chắc  đã được vào thiên đàng hưởng Thánh nhan Chúa rồi ! Nếu biết chắc như vậy,  thì dâng lễ cầu nguyện cho họ làm gì nữa ?.Thật là điều không cần thiết ,  vì có giáo lý nào dạy dâng lễ cầu cho một ông thánh hay bà thánh nào trên Thiên Đàng đâu ???  hay chỉ có lễ kinh ( feast or memorial) một hay nhiều  vị thánh mà Giáo Hội đã tuyên phong lên hàng hiển thánh  mà thôi.

Thử hỏi : có ai sống thánh thiện hơn các Đức Giáo Hoàng ? Nhưng khi một vị qua đời thì Giáo Hội để tang trong 9 ngày và dâng lễ cầu hồn  cho,  chứ chưa hề  tức khắc phong thánh cho ai bao giờ.

Có phong thánh cho ai thì cũng phải chờ một thời gian dài ngắn và đòi hỏi một số điều kiện như có 3 phép lạ  được  kiểm chứng nhờ cầu xin vị đã ly trần mà Chúa ban cho ai cầu xin,  cũng như có đủ bằng chứng về đời sống thánh thiện của vị đó. Như vậy, dứt khoát không ai được  tự  ý phong thánh cho người đã ly trần  trong một tang lễ, khi giảng rằng người  quá cố – mà xác còn đang nằm trong nhà thờ đây-  đã vào thiên Đàng rồi,  vì khi còn sống đã làm biết bao việc từ thiện, giúp xây nhà thờ, nhà Dòng .v.v. Giảng như vậy chỉ có tác dụng đề cao người chết để làm vui lòng cho thân nhân còn sống mà thôi, nhưng đã đi vượt khỏi quyền phong thánh của Giáo Hội.

Lại nữa, trong một tang lễ mà tôi tham dự  đồng tế, tôi rất đỗi ngạc nhiên khi nghe  linh mục chủ tế  là con  của người đã ly trần,  đã biến lễ tang của cha mình thành lễ cưới khi giảng rằng : hôm nay là ngày  vui mừng vì cha tôi được vào dự bàn tiệc với rượu ngon và thịt béo, theo lời ngôn sứ I-saia nói về Tiệc cánh chung như sau:

Ngày ấy trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc

Tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon

Thịt  béo ngậy, rượu ngon tinh chế

Trên núi này Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ mọi dân

Ngày ấy, người ta sẽ nói: Đây là Thiên Chúa chúng ta

Chúng ta trông đợi Người và đã được Người thương cứu độ

Chính Người là ĐỨC CHÚA chúng ta từng đợi trông

Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ . ( Is 25: 6- 9)

Lời ngôn sứ trên đây  chỉ  có ý nói về ngày sau hết khi Thiên Chúa mở tiệc khoản đãi những ai được cứu độ để vào dự bàn tiệc Nước  Trời đã dọn sẵn cho họ.. Nhưng có biết bao người đã từ chối không tham dự viện lý do này , lý do   khác để  khước từ  lời  mời   như ta đọc thấy trong dụ ngôn “ Tiệc cưới” của Tin Mừng Thánh Matthêu( Mt 22: 1-14;  Lc 14: 15- 24)

Nghĩa là không phải tất cả mọi người,  sau khi chết , đều  đương nhiên được vào dự Tiệc “với rượu và thịt ngon” như ngôn sứ I-saia nói trên. Đó chỉ là điều mong muốn của Thiên Chúa “ Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người  được cứu độ và nhận biêt chân lý.” ( 1 Tm 2 : 4)

Chúa mong muốn như vậy vì  Chúa là tình thương và khoan dung tha thứ. Nhưng con người vẫn có tự do để đáp lời mời gọi của Chúa vào dự tiệc cưới đã dọn sẵn hay khước từ lời mời đó vì còn quá quyến luyến những lợi lại và vui thú tội lỗi chóng qua ở đời này. Vì thế, bàn tiệc Nước Trời không đương nhiên dọn sẵn cho hết mọi người sau khi chết trong thân xác, mà chỉ dọn sẵn cho những ai có  thiện chí muốn vào tham dự qua quyết tâm từ bỏ những quyến rũ của thế gian và  cám dỗ của ma quỉ  khi sống trên trần thế này.

Nghĩa là nếu người ta không quyết tâm tìm và yêu mến Chúa, trên hết mọi sự   để xa tránh tội lỗi và sống theo đường lối của Chúa, thì  họ đã từ chối lời mời của Chúa vào dự “bàn tiệc Nước Trời   như những khách được mời  đã viện đủ lý do  để không đến  dự tiệc cưới của con  vua  trong dụ ngôn  tiệc cưới mà Chúa Giêsu đã kể trong Tin Mừng Thánh Matthêu 22  và tương tự trong Luca chương 14.

Nhưng ai là người có thiện chí muốn sống theo đường lối của Chúa để cuối cùng được vào dự “Tiệc Nước Trời” thì chỉ có Chúa biết và phán đoán đúng mà thôi. Chúng ta hoàn toàn  không biết được  nên chỉ biết cầu nguyện cho những người đã ly trần như Giáo Hội dạy mà thôi.

Lại nữa, trong mọi nền văn hóa nhân loại, cái chết là điều đau khổ nhất cho thân nhân còn sống, nên thương khóc người thân  đã  ra đi là điều tự nhiên phù hợp với nhân tính và đức tin. Chính Chúa Giêsu,  khi  mang thân phận con người, cũng đã cảm thông sự đau khổ này,  nên khi nghe tin người bạn của Chúa là Laza rô chết, Chúa đã đến trước mồ của anh và đã thổn thức trong lòng” khi thấy  Maria, chị của Lazarô  khóc và những người do thái đi với cô cũng khóc.

Nhưng Chúa không nói với họ là “ hãy vui mừng lên vì La za rô đã vào dự bàn tiệc “Nước Trời với rượu và thịt ngon” rồi. Ngược laị  Chúa đã  khóc hay  thổn thức  trong lòng và nói với Mac-ta  rằng: “  Thầy là sự sống  lại và là sự sống . Ai tin vào Thầy thì dù đã  chết cũng sẽ được sống.” ( Ga 11: 25)

Sau đó Chúa đã truyền cho La za rô chỗi dậy, ra khỏi mồ, dù đã nằm chết được bốn ngày để an ủi chị em Maria và cũng để chứng mình lời Người vừa nói là “Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống.

Như thế  khóc thương người đã ly trần là điều tự nhiên, phù hợp với nhân tính, và văn hóa của mọi dân tộc,( người da đen và Mễ Tây Cơ còn khóc to hơn người Viêt mỗi khi có thân nhân chết). Và Giáo Hội cũng không dạy phải biến lễ tang thành đám cưới, để thân nhân đừng khóc thương và để tang ai  nữa.

Ngược lại Giáo Hội chỉ qui định nghi thức tang lễ ( Order  of  Christian Funerals ( Ordo Exsequiarum) cử hành từ trong nhà quàn, đến nhà thờ  và tiễn đưa ra ngoài nghĩa trang. Cũng như  dạy  phải cầu nguyện cho người đã ly  trần bất kể  người đó đã sống ra sao  trước khi chết. Như vậy, mượn  lời ngôn sứ I-saia nói  về bữa tiệc cánh chung khi những người  đã được cứu độ vào dự bàn tiệc Nước Trời, để biến lễ tang thành lễ cưới là điều sai lầm xét về cả hai mặt văn hóa và giáo lý của Giáo Hội.

Vẫn biết ai cũng có quyền hy vọng cho thân nhân mình được phần rỗi để vào dự bàn tiệc Nước Trời đã dọn sẵn, nhưng làm sao chúng  ta biết ngay được chắc chắn ai đã được vào để mừng vui với họ và không cần cầu nguyện  và  khóc thương nữa ? Và  khóc thương thì có sao đâu, vì niềm tin và Giáo Lý của Giáo Hội đâu có ngăn cấm việc này ?

Giáo Hội chỉ dạy các tin hữu tin có sự sống lại của những ai đã ly trần, và đây là niềm an ủi cho chúng ta mỗi khi phải tiễn biệt ai trong trần thế này qua cái chết.

Chính vì không biết được phần rỗi của ai, nên Giáo Hội chỉ dạy phải cầu xin cho người đã ly trần mà thôi. Cụ thể, khi nghe tin một hồng y hay giám mục nào chết, Đức Thánh Cha luôn  gửi lời phân ưu chia buồn ( condolences) tới thân nhân hay giáo phận của vị đã qua đời. Chưa hề có   Giáo Hoàng nào đã  gửi lời chúc  mừng đến thân nhân của ai  qua đời , vì cho rằng người quá cố đã vào “Bàn Tiệc Nước Trời” rồi nên phải mừng vui., thay vì khóc thương và để tang !

Như  vậy, biến lễ tang thành đám cưới hay lễ phong thánh là sai hoàn toàn mục đích của việc cầu xin cho người đã chết  như giáo lý và giáo luật của Giáo Hội qui định. ( x.giáo luật số 1177, )

Tuy nhiên, trước cái chết của ai, Giáo lý Giáo Hội dạy rằng: Trong sự chết, Thiên Chúa gọi con người đến với Ngài. Bởi vậy người Ki tô hữu có thể  có một ước mơ như Thánh Phaolô đã nói : ước ao của tôi là ra đi để  được  ở vói Chúa Kitô,  điều này tốt hơn bội phần ( Pl 1: 23). Và người Kitô hữu cũng có thể biến sự chết của mình thành một hành vi vâng phục với Chúa Cha, theo gương Chúa Kitô. ( Lc 23: 46.) . ( x SGLGHCG số 1011).

Nói rõ hơn, trước sự chết, thái độ và tâm tình thích hợp của người tín hữu là hy vọng hay trông  cậy  Chúa sẽ cho người thân mà mình đang khóc thương bây  giờ, được sống  lại  để vào Nước Trời  vui hưởng hạnh phúc Thiên Đàng , như Chúa Kitô đã hứa cho những ai tin Người thì đã chết cũng sẽ được  sống lại.

Tóm lại, lễ cưới, lễ tang, lễ phong thánh đều có ý nghĩa và mục đích riêng khác nhau theo giáo lý và phụng vụ của Giáo Hội . nên không thể lẫn lộn làm theo ý riêng của mình được. Vả lại, làm như vậy là không am hiểu mục đích và ý nghĩa của phụng vụ thánh dành cho mỗi cử hành khác nhau.

Chúng ta đều được khuyến khích cậy trông và  mong ước cho người thân đã ly trần của mình được vào hưởng Thánh Nhan Chúa. Và  cầu nguyện cho họ chính là để nói lên ước muốn đó. Tuy nhiên, chúng ta hoàn toàn không biết Chúa phán xét ra sao cho người thân  của mình  đã ly trần,  nên chỉ biết trông cậy vào lòng khoan dung thương xót  của Chúa mà thôi; chứ không nên đi quá giới hạn đó để  tỏ ra vui mừng  như  thể  đã thấy được người thân của mình đang dự “ Bàn Tiệc Nước Trời” khiến không cần phải khóc thương hay để tang nữa.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

 

 

Nelson Mandela và bi kịch của Việt Nam

Nelson Mandela và bi kịch của Việt Nam

Song Chi

Nelson Mandela, cựu Tổng thống da đen đầu tiên của Nam Phi, biểu tượng của phong trào đấu tranh chống phân biệt chủng tộc đã qua đời ngày 5.12.2013 ở tuổi 95.

Biết là thừa khi viết thêm những lời ca ngợi về con người vĩ đại, được yêu mến, kính trọng, ngưỡng mộ không chỉ bởi người dân Nam Phi, mà khắp nơi trên thế giới này.

Nelson Mandela vĩ đại không chỉ vì sự hy sinh của ông cho lý tưởng về một xã hội hòa bình – tự do – dân chủ – bình đẳng, hy sinh cho đất nước, dân tộc, theo đúng tinh thần của một trong những câu ông từng nói: “Real leaders must be ready to sacrifice all for the freedom of their people.” (“Những nhà lãnh đạo thực sự phải sẵn sàng hy sinh tất cả cho tự do của dân tộc họ”).

Nelson Mandela vĩ đại không chỉ vì tầm hiểu biết, trí tuệ, tư duy chiến lược của một chính trị gia lỗi lạc hay nhân cách đạo đức của ông, mà còn vì tư tưởng nhân ái, sự khoan dung của ông đối với những kẻ đã bắt giam và đày đọa ông suốt 27 năm.

Sau khi ra khỏi tù, làm Tổng thống, có quyền lực trong tay, ông đã không dùng quyền lực để trả thù, để tiếp tục thực hiện một chế độ phân biệt đối xử trở lại đối với những người da trắng ở Nam Phi, như họ đã từng áp dụng trên đất nước ông suốt bao nhiêu năm. Ông đã chọn con đường tha thứ và hòa giải.

Một trong những câu nói nổi tiếng khác của Nelson Mandela là:“As I walked out the door toward the gate that would lead to my freedom, I knew if I didn’t leave my bitterness and hatred behind, I’d still be in prison.” (“Khi tôi bước ra khỏi cánh cửa về phía dẫn đến tự do, tôi biết rằng nếu không để lại cay đắng và hận thù phía sau, tôi vẫn sẽ còn ở trong tù”).

Những con người thật sự vĩ đại trên thế giới, như Nelson Mandela, Dalai Lama, Martin Luther King Junior, Mahatma Gandhi… đều là những người có tinh thần khoan dung, đều chọn một con đường đấu tranh ít tốn hao xương máu nhất cho nhân dân họ. Bởi vì họ đều đặt lợi ích của đất nước và hạnh phúc của người dân lên trên tất cả.

Chiều sâu của tri thức, tầm hiểu biết cộng với tinh thần tôn giáo hoặc sự chiêm nghiệm về triết học trong mỗi con người ấy đã khiến họ lựa chọn đường đi, lựa chọn cách hành xử như vậy.

Dường như người ta cũng đang phần nào nhìn thấy điều đó trong nữ chính trị gia, lãnh tụ phe đối lập của Myanmar, Aung San Suu Kyi, và kể cả trong Tổng thống đương nhiệm Thein Sein khi họ đã chọn con đường ngồi lại với nhau, đối thoại, cùng hợp tác vì tương lai đất nước. Và bà Aung San Suu Kyi đã từng nhiều lần nói đến sự tha thứ, hòa giải, không trả thù.

Tương tự, cả hai đều là những trí thức, có tư tưởng và có tinh thần Phật giáo soi sáng.

Nhìn lại bi kịch của đất nước, của dân tộc Việt Nam từ đầu thế kỷ XX cho tới hiện tại chính là từ sự du nhập triết học Mác Lênin, chủ nghĩa cộng sản, và sự thắng thế dẫn đến cầm quyền tuyệt đối của đảng cộng sản.

Ngay từ đầu, những người cộng sản đã chọn con đường bạo lực cách mạng để lật đổ chính quyền, triệt hạ tất cả các đảng phái đối lập. Từ tư tưởng cho đến mục tiêu chiến đấu suốt bao nhiêu năm của họ là phải dành chiến thắng, bất kể cái giá máu xương quá đắt phải trả. Còn trong xã hội, sự phân chia giai cấp, tư tưởng đấu tranh giai cấp đã gây ra biết bao nhiêu bi kịch từ Nhân văn Giai phẩm, Cải cách ruộng đất… ở miền Bắc cho tới cải tạo tư sản, tư thương… ở miền Nam sau này.

Sau khi giành được chiến thắng, những người cộng sản đã cư xử cực kỳ tàn ác với những người ở phe thua cuộc và cả đồng bào miền Nam.

Hàng trăm ngàn dân quân cán chính VNCH bị lùa đi học tập cải tạo, thực chất là đi tù năm, mười năm và hơn nữa, trong đó rất nhiều người đã mãi mãi nằm lại nơi những trại giam khác nhau, hàng triệu gia đình bị mất đi người chồng, người cha là nơi nương tựa. Những người dân không phải đi học tập cải tạo thì tiếp tục khốn khổ với sự phân biệt đối xử, chủ nghĩa lý lịch…

Đảng cộng sản tiếp tục đem nguyên mô hình xây dựng XHCN ở ngoài Bắc vào áp dụng trong Nam, làm sụp đổ cả nền kinh tế, xáo trộn cả xã hội với hàng loạt những đợt cải tạo tư sản, cải tạo công thương nghiệp, mô hình hợp tác xã, chính sách lùa dân đi kinh tế mới…dẫn đến việc hàng triệu người phải bỏ nước ra đi, làm nên những cuộc vượt biển kinh hoàng với thảm cảnh của những thuyền nhân (boat people) rúng động lương tâm cả thế giới…

Sau bao nhiêu năm hoang tàn, điêu linh vì chiến tranh, xã hội lại tiếp tục bị tàn phá bởi những chính sách sai lầm, sự ngu dốt, lòng thù hận và chia rẽ.

Cho đến bây giờ, gần 40 năm sau chiến tranh, nhà nước cộng sản VN đã nhanh chóng quên đi quá khứ, bắt tay với Mỹ, và còn nhanh hơn nữa, bắt tay với Trung Cộng. Trong khi đó thì họ vẫn không thể hòa giải hòa hợp với những người anh em của phe thua cuộc và với lịch sử, vẫn không hề có bất cứ một hành động nào để chứng tỏ sự hối lỗi, hối tiếc trước những sai lầm trong quá khứ hay hiện tại.

Những người tù chính trị, dù thuộc lực lượng dân quân VNCH còn sót lại như ông Nguyễn Văn Trại (đã chết), Trương Văn Sương (đã chết), Bùi Đăng Thủy (đã chết), Nguyễn Hữu Cầu đang phải tiếp tục ở tù cho đến nay là 37 năm… hay những người hoạt động dân chủ, bất đồng chính kiến thuộc các thế hệ sau này như blogger Điếu Cày, blogger Công lý và Sự thật, tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, thạc sĩ tin học Nguyễn Tiến Trung, kỹ sư Trần Huỳnh Duy Thức, nhà hoạt động Đỗ Thị Minh Hạnh, thầy giáo Đinh Đăng Định, linh mục Nguyễn Văn Lý, tín đồ Phật giáo Hòa hảo Mai Thị Dung… tiếp tục là những đối tượng bị đối xử khắc nghiệt nhất, đày đọa phi nhân nhất trong tù.

Không những thế, nhà nước cộng sản luôn luôn đối xử với nhân dân một cách thù địch, đầy nghi kỵ. Sau gần 40 năm, chưa bao giờ trên đất nước này mâu thuẫn xã hội giữa người nghèo, người giàu, giữa người dân và các cấp chính quyền lại sâu sắc đến thế.

Bi kịch, bất công diễn ra khắp nơi. Từ thảm cảnh của những người nông dân mất đất vác đơn đi khiếu kiện ròng rã bao năm, có cả xô xát bạo lực, cả cái chết như vụ Đoàn Văn Vươn hay Đặng Ngọc Viết. Những cuộc biểu tình, đình công của lớp lớp công nhân bị bóc lột sức lao động đến tận cùng với đồng lương rẻ mạt. Những cái chết oan tức tưởi do sự lộng hành của đám công an côn đồ. Những vụ án oan sai thấu trời đất gây ra bởi pháp luật mù lòa v.v…

Thế nhưng, tất cả nhũng lời kêu than của các tầng lớp nhân dân hay những lời góp ý, kiến nghị…của bao nhiêu nhân sĩ trí thức đã bị nhà nước này thẳng tay vứt vào sọt rác. Hiến pháp 2013 là một bằng chứng mới nhất cho thấy rõ Đảng và nhà nước cộng sản tiếp tục mù lòa, vô cảm trước những biến chuyển của thời cuộc, nhu cầu nhất thiết phải thay đổi để sống còn của đất nước và nguyện vọng của nhân dân.

Đảng Cộng sản Việt Nam đã chọn con đường cố thủ quyền lực, cương quyết không thay đổi, thậm chí đối lập với nhân dân bởi vì qua bao thế hệ cho đến tận bây giờ, trong số những người nắm quyền cao nhất vẫn là những kẻ thiếu chiều sâu kiến thức, không có tầm nhìn viến kiến, tư duy chiến lược, cũng không có tinh thần tôn giáo hay triết học để soi sáng, ngoài… triết học Mác Lênin!

Quan trọng không kém, họ chưa bao giờ biết đặt quyền lợi của tổ quốc, dân tộc lên trên quyền lợi của Đảng, của phe nhóm và bản thân.

Trước đây, đã từng có những giai đoạn Đảng Cộng sản suy trì được quyền lực nhờ vào sự ngây thơ và niềm tin của số đông người dân do bị tuyên truyền một chiều kết hợp với bạo lực. Nay niềm tin của đa số người dân đã mất đi, Đảng chỉ còn lại bạo lực thuần túy.

Và thay vì có một lối thoát tốt đẹp trong hòa bình, hòa hợp, hòa giải với nhân dân, thì với một chế độ tàn bạo xây dựng trên bạo lực, thù hận và sự nghi kỵ như vậy, cũng khó mà hy vọng một kết thúc êm ả, hay một đối xử khác, từ nhân dân, một khi sức chịu đựng của người dân đã hết.

S. C.

Nguồn: https://www.facebook.com

Nelson Mandela: tha thứ và hòa giải

Nelson Mandela: tha thứ và hòa giải

Nguyễn Trọng Nghĩa

clip_image001

Nelson Mandela, tranh Marian Kamensky (internet)

Từ cuộc đời tranh đấu phi thường của Mandela, bài học lớn nhất mà ta có thể rút ra có lẽ là sự tha thứ và quyết tâm hòa giải thực sự của ông vì ông ý thức sâu sắc được rằng đó là cách làm duy nhất nhằm tránh một cuộc nội chiến đẫm máu giữa người da đen và người da trắng ở Nam Phi.

Trong một cuộc họp quan trọng giữa ANC và các tướng lĩnh hưu trí của quân đội và các tổ chức tình báo Nam Phi, Mandela đã nói thẳng với họ rằng: “Nếu các ông muốn chiến tranh, tôi phải lương thiện thừa nhận rằng chúng tôi sẽ không thể đương đầu với các ông trên chiến trường. Chúng tôi không có phương tiện. Cuộc tranh đấu sẽ dài và gian khổ, nhiều người sẽ chết, đất nước có thể rốt cuộc sẽ thành tro bụi. Nhưng các ông đừng quên hai điều. Các ông không thể thắng vì chúng tôi đông người hơn: không thể nào giết hết chúng tôi. Và các ông không thể thắng vì có cộng đồng quốc tế. Họ sẽ đứng về phía chúng tôi và sẽ ủng hộ chúng tôi”.

Chủ trương hòa giải của ông được dựa trên một số ý tưởng không cao siêu gì nhưng vô cùng cơ bản.

Ngay từ lúc trẻ, Mandela đã thấm nhuần tư tưởng bất bạo động (ahimsa) của Gandhi mà ông rất ngưỡng mộ và xem như người thầy của mình. Nhưng đối với ông, bất bạo động không phải là một giáo điều: trong cuốn tự truyện Con đường dài đi đến tự do , ông xác định bất bạo động là một chiến lược, một quyết định thực tế sau khi đã duyệt qua các chọn lựa khác. Theo ông, “để tạo dựng hoà bình với một kẻ thù, ta phải làm việc với kẻ thù này nên anh ta thành người đối tác với ta”.

Có một quan hệ biện chứng mật thiết giữa hai bên: “Tôi không thực sự tự do nếu tôi tước đoạt tự do của kẻ khác. Kẻ bị áp bức và kẻ áp bức cả hai đều bị tước mất nhân tính của mình” ; “… tự do không phải chỉ là tháo bỏ gông cùm, mà là sống theo cách tôn trọng và tăng cường tự do của người khác” ; “Tôi biết rõ rằng người áp bức cũng phải được giải phóng như người bị áp bức. Một người tước đoạt tự do của kẻ khác là tù nhân của sự hận thù, của các thành kiến và của tinh thần hẹp hòi”.

Các tư tưởng trên đã được Mandela rút ra từ quan niệm đạo đức và triết lý nhân bản “Ubuntu” của dân tộc ông: phải ý thức sâu sắc về quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, vì “chúng ta hiện hữu, vậy thì tôi hiện hữu” và vì ”một cá nhân là cá nhân là do (có) các cá nhân khác”.

Khác với nhiều đồng chí của ông, Mandela không xem người Afrikaner là “kiều dân”, mà là người Nam Phi cũng giống như người da đen, vì họ đã lập nghiệp ở nước ông từ hơn ba thế kỷ. Do đó, ở trong tù, ông đã học tiếng afrikaans của người da trắng, nghiên cứu lịch sử và văn hoá của họ. Và; ông cũng đã khuyên các đồng chí của ông làm như thế, vì “sẽ có một ngày, các dân tộc của nước ta, kể cả dân tộc Africaner, sẽ phải hiểu nhau để sống chung với nhau”. Chính nhờ thế mà ông đã hiểu rõ nỗi sợ hãi của người Afrikaner: nếu hủy bỏ chế độ apartheid và nếu có dân chủ, người da đen, do chiếm đa số tuyệt đại, chắc chắn sẽ lên nắm quyền và sẽ tước đoạt tất cả các đặc quyền đặc lợi khổng lồ của họ, thậm chí còn có thể trục xuất, thậm chí tàn sát họ để trả thù sau mấy thế kỷ bị áp bức tàn bạo. Do đó, ông chủ trương phải làm tất cả những gì có thể làm được để trấn an họ.

Cũng như Gandhi hay Martin Luther King, Mandela đã biết chống lại các các xung lực hận thù và bạo động. Và thuyết phục người khác cũng làm như thế. Ông đã tự thắng được mình, nên tạo được cho mình sức mạnh để cùng thắng với kẻ thù, đúng như Lão tử đã viết trong Đạo đức kinh: “Thắng nhân giả hữu lực, tự thắng giả cường” (kẻ thắng người là có sức lực, nhưng kẻ tự thắng mình mới có sức mạnh”. Ông chỉ ra con đường để thoát khỏi cái mà triết gia Pháp René Girard gọi là “bạo lực bắt chước” (violence mimétique), tức là không ngừng trả lời bạo lực bằng bạo lực. Thế mà, theo Mandela bạo lực không phải là giải pháp duy nhất để giải quyết tranh chấp. Ông chủ trương phải nỗ lực thảo luận với kẻ thù để biến họ thành ngưới đối tác.

Cũng cần nói thêm rằng Mandela là một chính khách thực sự yêu chuộng dân chủ, tự do và công bằng. Năm 1964, trước toà án sẽ kết án ông tù chung thân, ông đã tuyên bố: “Suốt đời tôi, tôi đã tập trung vào cuộc đấu tranh vì nhân dân châu Phi. Tôi đã chống lại sự thống trị của người da trắng và tôi đã chống lại sự thống trị của người da đen. Tôi yêu lý tưởng có được một xã hội tự do và dân chủ trong đó tất cả mọi người đều sống cùng nhau trong sự hài hoà và với cùng các cơ hội như nhau. Đó là một lý tưởng mà tôi hy vọng sống và hành động vì nó. Nhưng, nếu cần, tôi cũng sẵn sàng chết vì lý tưởng đó”.

Theo ông, “không ai có thể an nghỉ chừng nào còn có những người còng lưng dưới sức nặng của đói khát, bệnh tật, thiếu giáo dục, và chừng nào hàng triệu người khác trên thế giới còn sống trong sự mất an ninh và sự sợ hãi hằng ngày”.

Mandela hoàn toàn khác với nhiều nhà giải phóng dân tộc khác hô hào dân chủ, tự do nhưng lại không chấp nhận đối lập (và ngay cả đối trọng), và nhất là lại cấm tự do báo chí, tự do biểu tình, lập đảng… Thực không thể tưởng tượng nổi là, vào thập niên thứ hai này của thế kỷ 21, vẫn còn có những người ra sức duy trì – với bất cứ giá nào – sự thống trị của tập đoàn hay đảng phái của mình, cho đến ngày tận thế !

Viết đến đây tôi chợt nhớ đến nỗi bàng hoàng của tôi khi nghe một trí thức kiêm ca sĩ dõng dạc đọc – với vẻ mặt rực lửa căm thù – đoạn sau đây trích từ bài thơ nổi tiếng “Ba mươi năm đời ta có Đảng” của Tố Hữu, trong một đêm văn nghệ Tết Việt kiều cách đây khoảng 50 năm, khi tôi mới chân ướt chân ráo đến Paris:

“Đường giải phóng mới đi một nửa

Nửa mình còn trong lửa nước sôi

Một thân không thể chia đôi

Lửa gươm không thể cắt rời núi sông

Gươm nào chém được dòng Bến Hải?

Lửa nào thiêu được dải Trường Sơn?

Căm hờn lại giục căm hờn

Máu kêu trả máu, đầu van trả đầu!”

Khi động cơ của tranh đấu là căm hờn, thì không đời nào thực hiện được hoà giải, chứ chưa nói đến hoà hợp dân tộc, vì hoà giải là điều kiện tiên quyết cho hoà hợp. Có thể là tôi sai lầm và lạc hậu, nhưng tôi nghĩ không thể xây dựng một hệ thống đạo đức, xã hội, chính trị trên hận thù, mà là trên nhân nghĩa, từ bi, bác ái…

Nelson Mandela (1918-2013)

Tiểu sử tóm tắt

NTN

clip_image002

Nelson Mandela, một ngày sau khi được trả tự do (1990), sau 27 năm bị cầm tù

18.7.1918: Mandela sinh ở làng Mvezo (vùng Transkei) trong một gia đình hoàng tộc thuộc dân tộc Xhosa . Dù có tên riêng là Rolihlahla (kẻ gây rối hay gây vấn đề), ông được cô giáo đặt cho tên khác là Nelson, nhưng người Nam Phi thường thân mật gọi ông là Madiba.

1939: Chống việc gia đình bắt lấy vợ, Mandela bỏ nhà trốn đến Johannesburg làm nghề gác mỏ, rồi làm cho một văn phòng luật sư vừa học hàm thụ luật ở đại học Fort Hare.

1942: tốt nghiệp cử nhân luật.

1943: tiếp xúc với ANC. Ghi tên ở đại học Witwatersrand để lấy bằng luật sư. Sau đó ông tiếp tục học luật ở đại học Witwatersrand

1944: ông gia nhập Đảng Quốc đại Nam Phi (ANC), hoạt động trong Đoàn Thanh niên của đảng. Cũng trong năm này ông lấy bà Evelyn Ntoko-Mase.

1945: ANC đòi phổ thông đầu phiếu phi chủng tộc thay vì chỉ chống phân biệt chủng tộc.

1948: thắng lợi của Đảng Quốc gia kéo theo một chính sách phân biệt chủng tộc mới, cực kỳ tệ hại, được gọi là apartheid . Từ năm 1913 đến 1942, chính quyền của người da trắng (Afrikaner) thông qua nhiều đạo luật bất công: phân biệt cư trú, cấm đình công… và nhất là cấm người da đen sở hữu đất đai bên ngoài các khu cư trú của họ (kết quả là dù chỉ chiếm chưa đến 10 % cư dân, người Afrikaner sở hữu đến 80 % đất canh tác).

1950: ANC lấy lại chương trình của Đoàn Thanh niên thuộc ANC, chủ trương đình công, bất tuân dân sự, tẩy chay và bất hợp tác với chế độ apartheid.

1951: Mandela cùng bạn học là Olivier Tambo trở thành hai luật sư da đen đầu tiên ở Johannesburg.

1952: được bầu làm chủ tịch Đoàn Thanh niên của ANC, Mandela phát động chiến dịch đòi hủy bỏ các đạo luật phân biệt chủng tộc mà đỉnh cao là cuộc biểu tình ngày 6.4.1952: Mandela ở trong số 8500 người bị bắt.

1953: bị kết án 8 tháng tù treo, cấm hội họp, quản thúc tại gia ở Johannesburg

5.12.1956: bị bắt cùng với 155 người khác vì tội phản bội.

1957: li dị với bà Evelyn Ntoko-Mase.

1958: lấy bà Winifred Madikizela.

21.3.1960: tàn sát ỏ Sharpeville (69 người bị giết ). Liên hiệp quốc lên án, đòi Nam Phi phải bỏ chính sách apartheid.

1961: ANC bị cấm. Thành lập Umkhonto we Sizwe (MK), tổ chức vũ trang của ANC do thấy đấu tranh bất bạo động không có hiệu quả trước chính sách đàn áp của chính quyền. Mandela chuyển sang hoạt động bí mật.

5.1961: phát động tổng đình công, rồi phát động chiến dịch phá hoại những mục tiêu biểu tượng nhưng cố không gây thiệt hại nhân mạng.

1962: bí mật sang Anh sáu tháng rồi sang Ethiopia tập luyện quân sự. Sau khi về Nam Phi bị bắt, rồi bị kết án 5 năm tù.

12.6.1964: Mandela và sáu đồng chí khác bị kết án tù chung thân, bị giam 18 năm ở đảo Robben.

6.1976: tàn sát ở Soweto (hơn 300 người bị giết).

1982: chuyển sang nhà tù Pollsmoor và bị giam cách ly trong sáu năm.

2.1985: Mandela từ chối đề nghị trả tự do cho ông của tổng thống Pieter Willem Botha nếu ông từ bỏ đấu tranh vũ trang.

1988: Được đưa vào bệnh viện vì bị lao, rồi được chuyển sang nhà tù Paarl. Mandela trở thành tù nhân chính trị nổi tiếng nhất thế giới trong khi tình hình ngày càng thêm xấu cho chính quyền apartheid: với sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa và sự chấm dứt chiến tranh lạnh, nó ngày càng bị các nước phương Tây – kể cả Mỹ – bỏ rơi ; ANC ngày càng hoạt động mạnh ở bên trong cũng như ở ngoài Nam Phi.

7.12.1988: quản thúc tại gia.

6.1988: hòanhạc mừng Mandela 70 tuổi ở Wembley, được 600 triệu người ở 67 nước xem qua truyền hình trực tiếp.

1989: Mandela đề nghị thương thuyết giữa chính phủ Nam Phi và ANC để tránh việc hai phe tàn sát lẫn nhau.  Mandela cho rằng tổng thống Frederik de Klerk là người nghiêm túc và lương thiện nhất trong số các nhà l ãnh đạo da trắng, nên có thể thương thuyết với ông ta.

11.2.1990: được trả tự do sau 27 năm bị cầm tù.

26.2.1990: hô hào các đồng chí của ông từ bỏ đấu tranh vũ trang.

8.1990: ANC chính thức từ bỏ đấu tranh vũ trang.

30.6.1991: Mandela được bầu làm chủ tịch ANC lại trở thành hợp pháp. Thương thuyết với tổng thống Nam Phi Frederik de Klerk

30.6.1991: Hủy bỏ chế độ apartheid.

11.1991: ly thân với bà Winnie, rồi ly dị trong năm sau.

9.1992: ký kết hiệp định về quốc hội lập hiến và chính phủ chuyển tiếp

Đêm 17.6.1992: ở Boipatong đảng Inkatha Tự do của người Zoulou (đảng này chịu cộng tác với chính quyền apartheid) tàn sát 46 người da đen.

7.9.1992: ở Bisho, đảng Inkatha Tự do lại giết  29 người và làm bị thương 200 người

17.3.1993: với sự ủng hộ của Mandela, de Klerk được 68,7% cử tri ủng hộ trong cuộc trưng cầu ý kiến dân da trắng về việc chấm dứt apartheid.

1993: Mandela và de Klerk được giải Nobel hoà bình năm 1993 nhờ đã hoạt động “nhằm hủy bỏ chế độ apartheid và nhằm xây dựng một nước Nam Phi mới và dân chủ”. Khi nhận giải, Mandela đã tôn vinh sự can đảm của de Klerk

10.4.1993: sau khi Chris Hani, một nhà lãnh đạo của MK, bị ám sát, Mandela kêu gọi dân Nam Phi giữ bình tĩnh. Nhưng nhiều cuộc bạo loạn bùng nổ sau đó.

27.4.1994: tổng tuyển cử đa chủng tộc đầu tiên ở Nam Phi. Trước đó, Mandela phải thương thuyết trong ba tháng rưỡi với tướng Constand Viljoen, lãnh tụ của Mặt trận nhân dân Afrikaner (Afrikaner Volksfront) tập hợp nhiều tổ chức bảo thủ hay cực hữu muốn tạo ra một “nhà nước thuần túy chủng tộc” (Volkstaat) cho người Afrikaner và xem de Klerk là kẻ phản bội ; mặt khác ông cũng phải thương thuyết cực kỳ khó khăn với vua của người Zoulou là Goodwill Zwelithini kaBhekuzulu muốn lập ra nước zoulou ở Natal và với đảng Inkatha Tự do của hoàng thân Mangosuthu Buthelezi (cả hai đều đã cộng tác với chính quyền apartheid). Rốt cuộc Mandela thuyết phục được họ chấp nhận tham gia tuyển cử. ANC được 62,6% số phiếu. Được bầu làm tổng thống, ông thành lập chính phủ thống nhất dân tộc với sự tham gia của ANC, Đảng Quốc gia, và đảng Inkatha Tự do. Frederik de Klerk được cử làm Phó tổng thống. Mandela đã mời các cai ngục ở đảo Robben và công tố viên đã đòi ông phải bị kết án tù chung thân tham dự lễ nhận chức tổng thống của ông.

Nelson Mandela với thủ quân đội bóng bầu dục Nam Phi F. Pienaar, 1995

1995: chủ trương “forgive but not forget” (tha thứ nhưng không quên), Mandela cho thành lập Ủy ban sự thật và hoà giải do Tổng giám mục Desmond Tutu làm chủ tịch để thu thập chứng từ về các bạo hành và tội ác đã phạm trước đó không những của chính quyền apartheid mà ngay cả của các tổ chức chống apartheid như ANC. Những người chịu công khai thú tội sẽ được ân xá. Trái lại những người không chịu thú tội sẽ bị đưa ra toà, nếu nhà cầm quyền tìm ra đủ bằng chứng. Để nêu gương, Mandela kể chi tiết các bạo hành của ANC, đặc biệt là ở Angola, trong những năm 1970. Ông công nhận là trong khi đấu tranh, ANC cũng đã vi phạm nhân quyền và phê phán một số người trong ANC đã toan hủy bỏ các thông tin về các sai trái của ANC ghi trong các báo cáo của Ủy ban.

8.1995: Mandela đến tận nhà gặp vợ goá cực kỳ bảo thủ của Hendrik Verwoerd, lý thuyết gia tệ hại nhất của chính sách apartheid. Cũng trong năm này, Mandela kêu gọi dân da đen ủng hộ đội Springboks (mà trước đó họ tẩy chay vì chỉ gồm toàn cầu thủ da trắng) ở giải bóng bầu dục thế giới 1995.

1997: Mandela từ chức chủ tịch ANC.

18.7.1998: kết hôn – vào tuổi 80 – với bà Graça Machel, vợ goá của tổng thống Samora Machel (Mozambique). Ông tuyên bố như sau về mối tình này: “Yêu đương là một trải nghiệm mà mỗi người nên biết. Đối với tôi, đó là một trải nghiệm phi thường”.

1999: sau khi hết nhiệm lỳ, Mandela không tái ứng cử tổng thống để phục vụ nhân dân Nam Phi cho đến chết như nhiều nhà cách mạng khác!

2000: Mandela được bổ nhiệm làm trung gian để giải quyết tranh chấp giữa người Hutu và người Tutsi ở Burundi.

1.2002: Mandela chính thức tích cực tham gia chống bệnh AIDS ở châu Phi.

5.12.2013: Mandela từ trần.

N. T. N.

Nguồn: diendan.org

Loạn thờ cúng do đâu?

Loạn thờ cúng do đâu?

Tiến sỹ Đoàn Xuân Lộc

Gửi cho BBC Việt ngữ từ London

Thứ tư, 11 tháng 12, 2013

Đi chùa ngày rằm tháng Giêng

Ngày rằm tháng Giêng ở một ngôi chùa

Một xu hướng, hay có thể nói một hiện tượng – thu hút sự chú ý của dư luận trong thời gian qua là tại Việt Nam càng ngày càng có nhiều người – từ dân nghèo tới đại gia đến quan chức, và thậm chí một vài cơ quan nhà nước – ‘đi chùa’, ‘thờ cúng’ hay ‘cầu siêu’.

Nhu cầu tâm linh, ít hay nhiều ai cũng cần, xã hội nào cũng có. Nhưng điều làm dư luận quan tâm là việc thờ cúng tại Việt Nam không chỉ đang xảy ra tràn lan, bất chấp quy cách mà còn bị biến tướng, lạm dụng, gây nhiều phản cảm, phản tôn giáo, phản tâm linh.

Câu hỏi đặt ra là tại sao có ‘hiện tượng’ này và đặc biệt vì đâu có việc ‘loạn thờ cúng’ như vậy?

Thực hư lẫn lộn?

Dù đúng hay sai, ít nhiều phải thừa nhận rằng con người tìm đến với tôn giáo hay coi trọng đời sống tâm linh một phần cũng vì thấy mình bất lực hoặc phải đối diện với nhiều tai ương, khốn khó trong cuộc sống, trong cuộc đời của mình.

Và khi càng thấy mình bất lực, càng gặp nhiều khó khăn người ta lại càng cần đến thần linh hay một đấng vô hình nào đó.

Trong một xã hội nhiều rủi ro – từ thực phẩm đến giao thông – như Việt Nam, chuyện người dân tìm đến chùa chiền hay tổ chức thờ cúng để cầu phước, cầu may cho mình hay cho người thân của mình cũng không khó hiểu.

Theo số liệu thống kê của Ủy ban An toàn Giao thông Việt Nam, trong 10 tháng đầu năm 2013 Việt Nam đã có đến gần 8.000 người tử vong và hàng chục nghìn người bị tàn phế vì tai nạn giao thông.

“Một câu hỏi khác và quan trọng hơn được đặt ra là tại sao Bộ Giao thông – Vận tải – một cơ quan của một nhà nước thế tục, hơn nữa theo ý thức hệ cộng sản và chủ trương vô thần – lại đứng ra tổ chức một nghi lễ tôn giáo như thế?”

Đó là con số không nhỏ chút nào. Khi biết tai nạn luôn rình rập, có thể đến lúc nào, bất cứ ở đâu và với bất cứ người nào, chắc ai cũng muốn cầu mong chính mình và gia đình mình không rơi vào cảnh đau thương, mất mát ấy.

Và xem ra không chỉ người dân mà các quan chức Việt Nam cũng thấy ‘bất lực’ trước tình trạng tai nạn giao thông nhiều và càng ngày càng tăng như vậy.

Giữa tháng 11 vừa qua có một Đại lễ Cầu siêu cho các nạn nhân giao thông tại chùa Bái Đính (Ninh Bình) và được biết đây cũng là lần thứ hai Đại lễ Cầu siêu cho các nạn nhân tử vong vì tai nạn giao thông với quy mô quốc gia được tổ chức tại Việt Nam.

Việc một tôn giáo tổ chức một nghi lễ tín ngưỡng như thế để cầu cho linh hồn, hương linh những người tử vong được siêu thoát hoặc phần nào xoa dịu, an ủi chia sẻ bao mất mát, đau thương với người nhân của những người bị nạn – hay qua một nghi lễ như vậy mời gọi, nhắc nhở mọi người biết ý thức hơn về việc chấp hành luật giao thông – là một điều tốt, nên làm.

Có điều Đại lễ Cầu siêu ấy lại do Ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia Việt Nam cùng với Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức, và điều này đã làm nhiều người đặt câu hỏi.

Phải chăng Ủy ban An toàn Giao thông và Bộ Giao thông – Vận tải nói riêng đang bó tay, bất lực trước tình trạng tai nạn giao thông tràn lan và phải ‘cầu siêu’ để đối phó với tình trạng ấy?

Một câu hỏi khác và quan trọng hơn được đặt ra là tại sao Bộ Giao thông – Vận tải – một cơ quan của một nhà nước thế tục, hơn nữa theo ý thức hệ cộng sản và chủ trương vô thần – lại đứng ra tổ chức một nghi lễ tôn giáo như thế?

Nếu cố gắng tìm câu trả lời cho câu hỏi này chắc ai cũng có tìm thấy được những nguyên nhân khác – gián tiếp hay trực tiếp – dẫn đến tình trạng loạn thờ cúng ở Việt Nam. Trong số đó có sự nhập nhằng, mập mờ, nửa thực, nửa mơ của một nền ‘kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa’.

Với những ai quan tâm hay theo dõi tình hình chính trị, kinh tế, xã hội ở Việt Nam chắc ít nhiều cũng có cảm giác rằng tại quốc gia này mọi thứ dường như đang lẫn lộn, không biết đâu là giả, đâu là thật.

“Vì luật pháp không rõ ràng, nghiêm minh, vì thiếu cạnh tranh lành mạnh trong kinh tế cũng như chính trị, muốn làm ăn xuôi chảy, muốn có tiền tài danh vọng, muốn được thăng quan tiến chức, người ta phải ‘đi chùa’, phải ‘khấn vái’ cầu may.”

Vì luật pháp không rõ ràng, nghiêm minh, vì thiếu sự cạnh tranh lành mạnh trong kinh tế cũng như chính trị, muốn làm ăn xuôi chảy, muốn có tiền tài danh vọng, muốn được thăng quan tiến chức, người ta phải ‘đi chùa’, phải ‘khấn vái’ cầu may.

Nếu pháp luật thực sự nghiêm minh, nếu có một xã hội bình đẳng và một cơ chế minh bạch – nơi đó hay qua đó mọi người có thể cạnh tranh lành mạnh, có thể làm giàu hay ‘làm quan’ chính đáng bằng chính nỗ lực, khả năng, tài đức của mình – chắc ít ai phải cần đến ‘âm trợ, dương phù’ như vậy.

Và khi biết mình trở thành ‘đại gia’ hay được ‘làm quan’ nhanh một phần vì ‘nhờ sự hỗ trợ của thần linh’, người ta lại càng cảm thấy mình cần phải đến đền chùa. Đến một phần để ‘tạ ơn’, một phần để xin cho mình giữ được chức, khỏi bị nạn.

Hơn nữa, có thể khi đã có tiền, có quyền nhưng thấy trống vắng, bất an, người ta lại cảm thấy cần đi chùa, cần thờ cúng nhiều hơn để cầu an.

Có người cũng vì giàu quá nhanh, có quá nhiều tiền và muốn để lại ‘công đức’ hay vì muốn tạo ‘tiếng thơm’ cho mình, dòng họ của mình, họ đã bỏ tiền xây dựng những ngôi chùa lớn, hoành tráng ghi tên mình.

Nhưng có thể còn có một lý do khác ít hay nhiều dẫn đến nạn thờ cúng tràn lan và tùy tiện hiện nay ở Việt Nam.

Tượng phật ở Việt Nam

Đảng thành ‘tôn giáo’?

Nếu quan sát các nghi lễ, cách vận hành, tổ chức, hoạt động, lãnh đạo – hoặc đọc các văn kiện – của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam, ai cũng có thể nhận ra rằng Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCS) không còn là một đảng chính trị thuần túy mà là ‘một tôn giáo’ vì nó có không ít những hành vi, cử chỉ không khác gì một tín ngưỡng, một tôn giáo hay một dòng tu.

Lời Mở đầu của Bản Hiến pháp sửa đổi, vừa mới được Quốc hội Việt Nam thông qua hôm 28/11, viết: ‘Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh … , Hiến pháp này…’.

Đọc đến đây, chắc nhiều người – đặc biệt những ai đã từng xem qua các văn bản quan trọng của các tôn giáo, dòng tu như luật dòng – sẽ có cảm giác rằng mình không phải đang đọc một bản Hiến pháp của một quốc gia mà là một hiến chương hay luật của một tôn giáo, một dòng tu.

Tại những kỳ họp quan trọng, chính thức của ĐCS và các cơ quan Nhà nước hay tại các phòng họp của các công sở hoặc tại các cuộc mítting của các ban ngành ở Việt Nam, đều có một khán đài hay một bàn thờ. Trên đó, luôn có tượng hay hình của ba người – được coi là ba ‘vị thánh tổ phụ’ – là Mác, Lênin và Hồ Chí Minh. Đối với người Việt Nam, vì quá quen nên ít ai quan tâm đến những chi tiết này.

Nhưng với người nước ngoài hay những ai hay để ý, chắc chắn họ cảm thấy như mình đang vào trong một nhà nguyện, một ngôi chùa hay đang tham dự một nghi lễ tôn giáo.

“…Hình tượng của Lênin bị lật đổ, đập vỡ tại nhiều nước Đông Âu khác trước đây – hay như ở Ukraina trong những ngày qua – giới lãnh đạo Việt Nam vẫn quyết đi theo ‘ánh sáng’ của họ và ‘tôn thờ’ họ.”

Gần đây, nhằm chấn chỉnh tình trạng tha hóa, nham nhũng nơi ‘một bộ phận không nhỏ’ quan chức của mình, ĐCS phát động chiến dịch ‘tự kiểm điểm’. Thái độ, hành vi tự kiểm điểm hay tự sám hối cũng là một cử chỉ được nhiều tôn giáo khuyến khích, thực hành.

Hơn nữa, chính quyền Việt Nam còn phát động chiến dịch ‘học tập tư tưởng Hồ Chí Minh’. Việc học hỏi và noi theo các nhân đức của những vị thánh, những vị tiền nhân đầy đức hạnh cũng là một điều thường thấy nơi các tôn giáo.

Chưa hết, tại Việt Nam ảnh tượng của Chủ tịch Hồ Chí Minh được treo, được đặt, được ‘thờ’ hầu như khắp mọi nơi và xác thì được tẩm liệm rồi đặt trong hòm kính và trưng bày trong một lăng lớn nằm ngay giữa quảng trường lớn nhất, quan trọng nhất ở thủ đô.

Xem ra, khi làm như vậy, Đảng và chính quyền Việt Nam ‘thờ’ ông không khác gì – thậm chí còn hơn – những tín đồ của các tôn giáo thờ kính những người sáng lập tôn giáo của mình.

Điểm lại một vài trường hợp trên để thấy rằng Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước họ lãnh đạo vận hành, hoạt động không khác gì một tôn giáo.

Và việc ĐCS và Nhà nước Việt Nam – một đảng và một nhà nước có khuynh hướng hay chủ trương vô thần – lại có những hành vi, cử chỉ, nghi lễ rất tôn giáo, rất tín ngưỡng như thế đã và đang góp phần làm nảy sinh nhiều ‘hiện tượng’ khác trong đó có tình trạng loạn thờ cúng.

Không cần phải có nhiều kiến thức, nếu quan tâm thời cuộc, chắc ai cũng có thể biết chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội mà Mác và Lênin chủ trương, khởi xướng đã thất bại ngay tại nơi chúng được hình thành. Và chắc không ít người trong giới quan chức Việt Nam hiện hành cũng hiểu rõ điều này.

Nhưng trong khi học thuyết, chủ nghĩa của họ bị vứt bỏ và hình tượng của Lênin bị lật đổ, đập vỡ tại nhiều nước Đông Âu khác trước đây – hay như ở Ukraina trong những ngày qua – giới lãnh đạo Việt Nam vẫn quyết đi theo ‘ánh sáng’ của họ và ‘tôn thờ’ họ.

Việc cả một hệ thống chính trị ‘tôn thờ hai vị thánh’ ấy và coi chủ nghĩa của họ là ‘ánh sáng’ chỉ đường khi nhiều người biết nó rất đen tối, mù mờ – hay ngay cả chính Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thừa nhận đến ‘cuối thế kỷ 21 chưa chắc Việt Nam có Chủ nghĩa xã hội’ trong một phát biểu được báo chí trích thuật và dư luận bình phẩm nhiều gần đây – chuyện quan chức và đặc biệt người dân Việt Nam thiếu hiểu biết về tôn giáo, tín ngưỡng, dẫn đến tình trạng mà có người gọi là ‘cầu cúng, giết mổ, ngoại cảm’ ở Việt Nam hiện nay cũng không có gì lạ.

Hơn nữa, chắc cũng không ít người tự hỏi nếu coi mình là ‘sáng suốt’, ‘quang vinh muôn năm’, tại sao Đảng Cộng sản Việt Nam lại không bằng chính khả năng, kiến thức, tài đức của mình tìm ra một hướng đi thích hợp, tốt cho mình, cho đất nước và người dân của mình mà phải cứ viện vào ‘ba vị thánh tổ phụ’ ấy và dựa vào chủ nghĩa, tư tưởng của họ.

Trong một lần trả lời phỏng vấn BBC gần đây, Giáo sư Ngô Đức Thịnh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Dân gian đã nhận xét rằng càng ngày càng có nhiều quan chức Việt Nam tìm đến thế giới tâm linh và tự hỏi phải chăng họ làm như vậy vì họ ‘thiếu niềm tin vào bản thân, vào hệ thống chính quyền của mình’.

Nhưng, với việc Đảng Cộng sản Việt Nam luôn dựa vào Mác, Lênin và Hồ Chí Minh để tìm sự chính danh hay nhờ vào ‘ánh sáng’, tư tưởng của họ để vận hành, để duy trì quyền lãnh đạo phải chăng không chỉ từng đảng viên và quan chức Việt Nam thiếu niềm tin vào cá nhân mình, vào đảng của mình mà cả Đảng Cộng sản và hệ thống chính quyền Việt Nam cũng đang thiếu niềm tin vào chính mình?

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của Tiến sỹ Đoàn Xuân Lộc, gửi cho BBC Tiếng Việt từ London.