Chuyện Sâu & Trùng Ở Bến Tre

Chuyện Sâu & Trùng Ở Bến Tre

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

“Phát biểu gì cũng được, trừ tham nhũng.”

Đại Biểu Quốc Hội Lê Như Tiến

Bằng giờ này tháng 4, mấy năm về trước, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư (“một mình, đất lạ, đường xa”) đã lên đến tận Hà Giang. Trong blog saurieng, bà có viết đôi dòng chữ ngắn về chuyến đi “ấn tượng khủng khiếp” này:

”Người ta nói, đi qua một khu chợ sẽ biết đời sống của cư dân ở đó. Mình tin điều đó. Và nhìn món hàng bày trước mặt những người phụ nữ vùng cao, mình hình dung được nồi cơm, căn bếp, cuộc đời… “

Những sản phẩm mà Nguyễn Ngọc Tư ghi nhận qua ống kính – ở chợ Hà Giang – chỉ là nụm nịu một hai nải chuối, lèo tèo mấy mớ rau xanh, ủn ỉn vài ba rọ lợn, hay đôi ba bó củi co ro …

Ảnh: Nguyễn Ngọc Tư

Ngó mà thương muốn đứt ruột luôn!

Để có thể ra “hình dung được nồi cơm, căn bếp, cuộc đời…” của cư dân ở một địa phương, nhà báo Văn Quang lại có một sáng kiến khác. Ông đưa chúng ta đi xem dinh thự của những vị quan đầu tỉnh:

Hà Giang luôn được coi là một tỉnh nghèo vùng núi rừng ở VN với hơn quá nửa là những gia đình thuộc “diện nghèo”. Nhưng đối nghịch lại tình cảnh này lại là sự hiện hữu của những ngôi nhà sàn “khủng”, phần lớn làm bằng gỗ “tứ thiết” của các lãnh đạo tỉnh.

Nhà của chủ tịch UBND Hà Giang Đàm Văn Bông

– Ngôi nhà “khủng” bắt mắt và có tiếng nhất hiện nay ở Hà Giang, đầu tiên phải nhắc đến nhà của Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang Đàm Văn Bông. Hiện ngôi nhà sàn này đang “hùng cứ” tại thôn Cao Bành, xã Phương Thiện (TP. Hà Giang). Đây là nơi ông Bông vẫn thường xuyên đi về trong ngày. Vật liệu làm ngôi nhà này hầu hết là gỗ trai, gỗ nghiến, một trong những gỗ nằm trong nhóm 2B nghiêm cấm khai thác, vận chuyển và được bảo tồn nghiêm ngặt theo quy định của Chính phủ.

– Sang gần bằng nhà chủ tịch UBND tỉnh Đàm Văn Bông là ngôi nhà của phó bí thư thường trực, chủ tịch Hội đồng Nhân dân tỉnh Vương Mí Vàng.

Nằm trên đường đi 4 huyện nghèo, thuộc diện 30a là Đồng Văn, Quản Bạ, Yên Minh, Mèo Vạc, ngôi nhà “tọa” tại địa bàn Tổ 8, phường Quang Trung, Thành phố Hà Giang. Theo người dân, muốn có ngôi nhà này phải có vài chục tỷ, chưa kể các trang thiết bị đi cùng. Ngôi nhà này độc đắc bởi nó chỉ làm bằng… một loại gỗ: Gỗ nghiến!

– Ngoài 2 ngôi nhà sàn nổi tiếng của 2 quan chức này, ngôi nhà sàn của ông giám đốc Sở Nội vụ Hà Giang Hoàng Đức Tiến tại xã Vĩnh Phúc (Bắc Quang) cũng nổi danh và được nhiều người biết đến.

Ngôi nhà này “độc” vì nó được làm hoàn toàn bằng gỗ trai. Một thứ gỗ hiện nay đang cạn kiệt ở tỉnh Hà Giang, nó chỉ còn ở khu vực xã Đức Xuân, huyện Bắc Quang. Theo cánh thợ, để có ngôi nhà như thế này ước chừng cũng phải “vứt xuống” vài tỷ đồng… Chỉ ở một tỉnh xa xôi “hẻo lánh” mà nhà quan đã bề thế như vậy thì các nơi khác, các thành phố khác còn “loạn” đến đâu!

Rảnh, nên tui ghé luôn qua một thành phố khác – ở dưới miền xuôi: Bến Tre. Địa danh này, hơn mười năm trước, cũng đã khiến dư luận người Việt (ngoài nước)  “nóng” lên chỉ vì đôi dòng chữ ghi thêm dưới một bài thơ của nhà sư Nhất Hạnh – in trên trang quảng cáo của báo New York Times, số phát hành hôm 24 tháng 9 năm 2001:

“I wrote this poem during the Vietnam war after I heard about the bombing of Ben Tre city. The city of 300,000 was destroyed because seven guerrillas shot several rounds of unsuccessful anti-aircraft gunfire and then left. My pain was profound.” (“Tôi viết bài thơ này trong thời gian chiến tranh Việt Nam sau khi nghe Bến Tre bị bỏ bom. Thành phố 300,000 người đã bị hủy diệt vì bẩy du kích quân bắn vài tràng súng phòng không vu vơ rồi bỏ đi. Nỗi đau của tôi sâu lắng.”)

Sơ sót, lỗi lầm nơi con số 300,000 chắc (chắn) là  do cái cậu đánh máy chứ ai. Dù vậy, Nhất Hạnh vẫn cứ bị dư luận lùm xùm trách cứ (“oan ức”) về chuyện vọng ngôn hay vọng ngữ.

Cơn bão dư luận ấy đã qua từ lâu. Bến Tre, một trong những nơi được mệnh danh là thành đồng tổ quốc, đâu có dễ gì bị suy suyển hay sứt mẻ bởi bom đạn Mỹ. Tuy thế, phần đất này đang có nguy cơ bị “hủy diệt” bởi chính những kẻ đã bỏ chạy (sau khi bắn vài tràng súng, không trúng đâu vô đâu) hồi năm 1968.

Gần năm mươi năm đã qua, những cô cậu bé du kích dũng sĩ diệt Mỹ của tỉnh Bến Tre nay đều đã trở nên những vị cán bộ lão thành cách mạng. Họ đang cùng con cháu nắm giữ hầu hết những chức vụ, cũng như nguồn lợi béo bở ở tỉnh lỵ này. Theo như cách nói ví von của ông Trương Tấn Sang thì họ đã trở thành những “bầy sâu,” đang ngày đêm (ngoem ngoém) đục khoét và làm ruỗng mục “Chủ Nghĩa Mac Xít Lê Nin Nít Bách Chiến Bách Thắng Vô địch Muôn Năm.”

Năm 2007, phó chủ tịch UBND Bến Tre, bà Nguyễn Thị Thanh Hà cho biết tỉnh đã thanh tra 108 cuộc, phát hiện sai phạm về tài chính 4,46 tỉ đồng, tăng gấp đôi so với năm 2005. Dù số tiền được “phát hiện” chỉ là phần nổi của một tảng băng sơn nhưng cứ theo cái đà tăng “gấp đôi” hàng năm như thế nên đến nay, năm 2014, Bến Tre lại làm dư luận “nóng” lên lần nữa – sau khi “những dinh thự ngất ngưởng, bề thế, nguy nga” của ông Trần Văn Truyền (cựu Bí Thư tỉnh ủy Bến Tre, cựu Tổng Thanh Tra Chính phủ Việt Nam) được phơi bầy trên mặt báo Người Cao Tuổi.

Dinh thự của ông Trần Văn Truyền. Ảnh: Người Cao Tuổi

Ông Trần Văn Truyền, tất nhiên, không phải là quan chức duy nhất bị tai tiếng như vậy ở vùng đất này, vẫn theo như thông tin cơ quan ngôn luận vừa nêu:

Kì này, mời bạn đọc đến thăm “Vườn hoa phố Thường vụ” nằm ngay Khu Trung tâm Thương mại (TTTM) thành phố Bến Tre của hàng chục “quan tri phủ” hầu hết là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bến Tre. Nhiều năm nay người dân địa phương và cán bộ lão thành, cán bộ nghỉ hưu ở đây bức xúc về quá nhiều dinh thự của “Tập đoàn quan tỉnh” tại khu vực chợ TTTM của thành phố chiếm đất, làm nhà lầu mặt tiền thông thoáng làm của riêng rồi cho thuê hoặc đem bán giá cao thu lợi lớn.

Đi đầu “phong trào” này là ông Huỳnh Văn Be (Ba Phương Hùng), cựu Ủy viên Trung ương Đảng, cựu Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre. Gia đình ông đã có “dinh thự” tọa lạc trong khu đất vườn rộng hàng chục nghìn mét vuông nằm cạnh con sông gió lộng tứ bề. Hằng ngày, ông tự lái xe hơi đi ăn sáng, uống cà-phê, dạo mát…

Ông Trần Công Ngữ (Bảy Hoàng), cựu Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre đã có nhà và đất ở rộng rãi, nhưng cũng được “bán rẻ” một căn nhà lầu hai mặt tiền nằm ngay ngã tư đường Chi Lăng – Nguyễn Du thuộc phường 2, kế bên TTTM. Do không có nhu cầu ở nên ông Hoàng đã bán thu lợi 7 tỉ đồng. Các trường hợp còn lại như ông Trần Văn Cồn, cựu Phó Bí thư Tỉnh ủy; ông Phan Văn Láng, cựu Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy; ông Nguyễn Thái Xây (Chín Tâm), cựu Chủ tịch UBND tỉnh; ông Lê Văn Sang (Tư Sang), cựu Giám đốc Công an tỉnh; ông Nguyễn Văn Tuấn, hiện là Phó Chủ tịch UBND tỉnh; ông Hồ Quốc Việt, Giám đốc Công an tỉnh đều là những thành viên được làm giàu theo gương ông Huỳnh Văn Be. Hàng chục căn nhà lầu nằm ở vị trí đắc địa mặt tiền đường, xoay quanh khu TTTM thành phố Bến Tre được “bán rẻ” cho “Tập đoàn quan tỉnh” này…

Cùng lúc, trên báo Công An Thành Phố Hồ Chí Minh (phảt hành hôm 30 tháng 3 năm 2014) người ta đọc được lời kêu gọi “những nhà hảo tâm xa gần giúp đỡ” để làm một con đường nho nhỏ – cũng ở Bến Tre:

Do điều kiện ngân sách eo hẹp nên đến nay chính quyền địa phương vẫn chưa thể đáp ứng được mong muốn của người dân. “Chúng tôi hi vọng các nhà hảo tâm xa gần chung tay giúp đỡ kinh phí xây dựng tuyến lộ Bờ Gồng để bà con không còn phải lặn lội vất vả mỗi ngày, nhất là những lúc mưa gió trở trời!” Ông Trần Văn Chận – Chủ tịch UBND xã An Hiệp chia sẻ.

Sự kiện những quan chức Việt Nam thản nhiên, sống trên nỗi khốn cùng (“phải lặn lội vất vả mỗi ngày”) của bà con – thực ra – không chỉ giới hạn ở Hà Giang hay ở bến Tre, và cũng chả phải là chuyện mới mẻ gì ráo trọi. Hơn hai mươi năm trước tác giả Thái Như đã nói đến hiện tượng “Sư tử thân trung trùng thực sư tử nhục: Chỉ có loài sâu trong thân con sư tử mới ăn được thịt của con sư tử!”

Cựu đại tá Nguyễn Đăng Quang lại vừa nhắc lại điều này, trên blog của tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện:

“Trong vòng 25 năm qua, bọn sâu bọ tham nhũng ngày một đông, ngày mỗi mạnh và đã trở thành bầy đàn! Nó như căn bệnh ung thư đã di căn tới nhiều bộ phận của cơ thể con sư tử. Nếu Đảng không quyết tâm chữa trị, không dũng cảm cắt bỏ những bộ phận cơ thể đã thối muỗng thì quốc nạn tham nhũng này, đến một lúc nào đó sẽ có kết cục như nhà báo Thái Như đã cảnh báo 23 năm về trước:’Đương nhiên điều không tránh khỏi là con sư tử đó nó sẽ ngã quỵ một khi những con sâu trong cơ thể ngày một nhiều và lớn mạnh!’ Vâng, nếu Đảng không quyết tâm diệt trừ tận gốc (giết sạch) bọn sâu bọ tham nhũng của Đảng thì chính bọn này, một ngày nào đó không xa – có thể là cuối năm nay,có thể là sang năm hoặc sang năm sau nữa(2016)- sẽ là thủ phạm “giết sống” Đảng Cộng sản Viêt Nam!

Tôi thấy tình thế đã rất cấp bách! Thời gian không còn nhiều. Rất mong Đảng hãy dũng cảm, thực tâm và kiên quyết cứu vãn tình thế trước khi nó trở nên quá muộn!”

Khác với đại tá  Nguyễn Đăng Quang, tôi e rằng tình thế đã muộn màng rồi. Vấn đề chỉ còn là chuẩn bị sao để mồ yên mả đẹp mà thôi. Sau hai phần ba thế kỷ phạm hết tội ác này sang tội ác khác, gây oán hận cho muôn dân trăm họ, chuyện “an táng” đảng Cộng Sản trong tương lai gần (rõ ràng)  không phải là việc dễ dàng chi. Với truyền thống lấy nhân nghĩa chống bạo tàn của dân tộc Việt, chỉ mong sao mọi người đều đồng thuận với nhau là oán thù – nghĩ cho cùng –  chỉ nên cởi, chứ không nên buộc.

 

Ai đã thắng trong cuộc chiến Việt Nam?

Ai đã thắng trong cuộc chiến Việt Nam?

Michel Chossudovsky

Ngọc Thu dịch

30-4: Ai đã thắng trong cuộc chiến Việt Nam?

Bạn có biết: Việt Nam đã từng trả nợ chiến tranh cho Mỹ? Việt Nam đã trả các khoản vay của chính quyền Sài Gòn thời chiến tranh, để đổi lấy các khoản vay mới của Mỹ và phương Tây và đó cũng là điều kiện để Mỹ gỡ bỏ lệnh cấm vận và bình thường hóa quan hệ ngoại giao với VN.

Đó là cái giá mà chính phủ CSVN, hay nói đúng hơn là người dân VN đã phải trả, do chính phủ CSVN không chịu bình thường hóa quan hệ với Mỹ ngay sau khi chiến tranh kết thúc, cứ khăng khăng đòi bồi thường chiến phí 3,25 tỉ Mỹ kim. Tiền bồi thường của Mỹ ở đâu không thấy, chỉ thấy sau đó phía VN phải bỏ tiền ra bồi thường chiến phí.

Thắng trong chiến tranh, nhưng chỉ 20 năm sau chính phủ CSVN đã phải đầu hàng Mỹ về kinh tế.

Đây là bài viết của GS Michel Chossudovsky về những thỏa thuận bí mật giữa chính phủ CSVN với các tổ chức tài chính quốc tế trước năm 1995.

Ngọc Thu

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, chiến tranh Việt Nam đã kết thúc bằng lực lượng cộng sản chiếm giữ Sài Gòn và sự đầu hàng của tướng Dương Văn Minh và nội các của ông ấy trong Dinh Tổng thống. Khi đội quân của Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến vào Sài Gòn, các nhân viên Hoa Kỳ và lính thủy quân lục chiến Mỹ cuối cùng đã vội vã sơ tán từ nóc tòa nhà Đại Sứ quán Mỹ. Hai mươi năm sau, một câu hỏi cơ bản vẫn chưa có lời giải đáp: Ai đã thắng trong cuộc chiến tranh Việt Nam?

Việt Nam chưa bao giờ nhận được khoản tiền bồi thường nào cho chiến tranh từ Mỹ về các tổn thất nhân mạng rất lớn và sự tàn phá [của chiến tranh], nhưng một thỏa thuận đã đạt được ở Paris vào năm 1993, yêu cầu Hà Nội nhận các khoản nợ của chính quyền Sài Gòn, một chính quyền không còn tồn tại nữa của Tướng Thiệu. Bản thoả thuận này có nhiều chỗ tương đương với việc bắt buộc Việt Nam bồi thường cho Washington các phí tổn chiến tranh.

Ngoài ra, việc áp dụng sâu rộng cải cách kinh tế vĩ mô dưới sự giám sát của các định chế Bretton Woods cũng là một điều kiện cho việc dỡ bỏ lệnh cấm vận của Mỹ. Những cải cách thị trường tự do này hiện đã định đoạt học thuyết chính thức của Đảng Cộng sản.

Qua việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Washington vào năm 1994, việc nhắc đến vai trò tàn bạo của Mỹ trong chiến tranh đang ngày càng được xem như không đúng lúc và không thích hợp. Không ngạc nhiên, Hà Nội đã quyết định dịu giọng trong lễ kỷ niệm Sài Gòn đầu hàng để không phải xúc phạm đến kẻ thù trong chiến tranh trước đây của họ. Lãnh đạo Đảng Cộng sản gần đây đã nhấn mạnh “vai trò lịch sử” của Hoa Kỳ trong việc “giải phóng” Việt Nam từ chế độ Vichy (Pháp) và sự chiếm đóng của Nhật Bản suốt Đệ Nhị Thế chiến.

Vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, trong bản Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, các đặc vụ Mỹ của Cục Tình báo Chiến lược (OSS: tiền thân của CIA ngày nay) đã có mặt bên cạnh Hồ Chí Minh. Trong khi Washington đã cung cấp vũ khí và hỗ trợ tài chính cho phong trào kháng chiến Việt Minh, chiến lược này phần lớn được thiết kế để làm suy yếu Nhật Bản trong giai đoạn cuối của Đệ Nhị Thế chiến, mà không có cam kết gửi lực lượng bộ binh Mỹ tới với số lượng lớn.

Ngược lại với bầu không khí dịu giọng và hạn chế trong kỷ niệm đánh dấu chiến tranh Việt Nam kết thúc, lễ kỷ niệm 50 năm ngày độc lập được cử hành long trọng, với một loạt các nghi lễ và các hoạt động chính thức bắt đầu từ tháng 9 và kéo dài đến Tết âm lịch.

Việt Nam bồi thường chiến tranh

Trước khi “bình thường hóa” quan hệ với Washington, Hà Nội đã bị buộc phải trả các khoản nợ xấu phát sinh của chế độ Sài Gòn do Mỹ hậu thuẫn. Tại hội nghị các nhà tài trợ tổ chức ở Paris hồi tháng 11 năm 1993, các khoản vay và số tiền viện trợ tổng cộng gần 2 tỷ Mỹ kim đã được cam kết để hỗ trợ cho cải cách thị trường tự do ở Việt Nam.

Tuy nhiên, ngay sau khi hội nghị, một cuộc họp bí mật đã được tổ chức dưới sự bảo trợ của Câu lạc bộ Paris (Paris Club).

Tại cuộc họp này, có sự góp mặt của đại diện các chính phủ phương Tây. Về phía Việt Nam, TS Nguyễn Xuân Oánh, cố vấn kinh tế cho Thủ tướng, đã đóng vai trò quan trọng trong các cuộc đàm phán.

Tiến sĩ Oánh, một cựu quan chức của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), đã giữ chức Bộ trưởng Bộ Tài chính và sau đó là Quyền Thủ tướng trong chính quyền quân sự của Tướng Dương Văn Minh, mà Mỹ đưa vào hồi năm 1963 sau vụ ám sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm và em trai. Tiến sĩ Oánh, trong khi giữ vai trò trung gian, chính thức thay mặt chính quyền cộng sản, dù sao cũng đã đáp ứng được nhu cầu của các chủ nợ phương Tây.

Các thỏa thuận đã được ký kết với IMF (đã được công bố) phần lớn chỉ là tượng trưng. Số lượng không đáng kể: Hà Nội buộc phải trả cho IMF 140 triệu đô (thuộc sở hữu của chính quyền Sài Gòn) như một điều kiện để nối lại các khoản vay mới. Nhật Bản và Pháp, những chủ nhân thuộc địa cũ của Việt Nam giai đoạn Vichy, hình thành cái gọi là “Những người bạn của Việt Nam” để cho Hà Nội vay số tiền cần thiết để hoàn trả cho IMF.

Tuy nhiên, sự sắp xếp gia hạn các khoản nợ song phương (của chế độ Sài Gòn) không bao giờ được tiết lộ. Nhưng cuối cùng thì thỏa thuận bí mật này (đạt được dưới sự bảo trợ của Câu lạc bộ Paris) là công cụ quyết định để Washington dỡ bỏ lệnh cấm vận và bình thường hóa các quan hệ ngoại giao. Việc sắp xếp này cũng là yếu tố quyết định trong việc tháo khoán các khoản vay đã được cam kết tại hội nghị các nhà tài trợ năm 1993, do đó Việt Nam bị đặt dưới sự ủy thác của các chủ nợ Nhật Bản và phương Tây. Như vậy, chỉ 20 năm sau chiến tranh, Việt Nam đã đầu hàng về mặt kinh tế.

Bằng cách công nhận hoàn toàn tính hợp pháp của các khoản nợ, Hà Nội đã đồng ý hoàn trả các khoản vay đã hỗ trợ nỗ lực chiến tranh của Mỹ. Hơn nữa, chính phủ của ông Võ Văn Kiệt cũng đã chấp nhận thực hiện đầy đủ các điều kiện thông thường (giảm giá, tự do hóa thương mại, tư nhân hóa, v.v.) của một chương trình điều chỉnh cơ cấu do IMF tài trợ. Những cải cách kinh tế này ra mắt vào giữa thập niên 1980 với các định chế Bretton Woods, trong hậu quả chiến tranh tàn khốc, đã khởi đầu một giai đoạn mới về sự tàn phá kinh tế và xã hội: lạm phát đã dẫn đến phá giá liên tục, bắt đầu từ năm 1973 dưới chế độ Sài Gòn, năm theo sau sự rút lui của quân đội Hoa Kỳ. Ngày nay, một lần nữa Việt Nam tràn ngập các ghi chú bằng đô la Mỹ, đã thay thế phần lớn tiền đồng Việt Nam. Với giá cả tăng cao, thu nhập thực tế đã giảm xuống tới mức thấp nhất.

Lần lượt những cải cách đã ồ ạt giảm năng lực sản xuất. Hơn 5.000 trong số 12.300 doanh nghiệp nhà nước đã bị đóng cửa hoặc được chỉ đạo phá sản. Các hợp tác xã tín dụng đã bị loại bỏ, tất cả các khoản tín dụng dài hạn và trung hạn cho ngành công nghiệp và nông nghiệp đã bị đóng băng. Chỉ tín dụng ngắn hạn là có sẵn, với lãi suất 35%/ năm (năm 1994). Ngoài ra, thỏa thuận IMF đã cấm nhà nước cung cấp hỗ trợ ngân sách, hoặc cho nền kinh tế nhà nước hoặc cho một khu vực tư nhân mới chớm nở.

Chương trình nghị sự về những cải cách đã bị che giấu này bao gồm nền tảng công nghiệp mất ổn định ở Việt Nam. Các ngành sản xuất công nghiệp nặng, dầu khí, tài nguyên thiên nhiên và khai thác khoáng sản, xi măng, sắt thép sẽ được tổ chức lại và được thực hiện dựa trên số vốn nước ngoài. Tài sản nhà nước có giá trị nhất sẽ được chuyển giao để củng cố và duy trì cơ sở công nghiệp, hoặc để phát triển một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thuộc sở hữu và kiểm soát bởi dân chúng.

Trong quá trình tái cơ cấu kinh tế, hơn một triệu công nhân và hơn 20.000 công nhân viên chức (trong đó đa số là nhân viên y tế và giáo viên) đã bị sa thải. Lần lượt, nạn đói địa phương đã nổ ra, ảnh hưởng đến ít nhất một phần tư dân số cả nước. Những sự đói khát này không giới hạn ở các khu vực thiếu lương thực. Ở Đồng bằng Sông Cửu Long, vựa lúa của Việt Nam, 25% số dân trưởng thành tiêu thụ chưa tới 1.800 calories mỗi ngày. Ở các thành phố, sự mất giá của tiền đồng cùng với việc loại bỏ trợ cấp và kiểm soát giá cả đã dẫn đến giá gạo và các nhu yếu phẩm khác tăng vọt.

Những cải cách này đã dẫn đến việc cắt giảm mạnh mẽ các chương trình xã hội. Với việc áp dụng học phí, ba phần tư trong số một triệu trẻ em bỏ học khỏi hệ thống trường công trong vài năm (từ 1987-1990). Các trạm y tế và bệnh viện sụp đổ, sự hồi sinh của một số bệnh truyền nhiễm như sốt rét, lao phổi và tiêu chảy được Bộ Y tế và các nhà tài trợ nhận ra. Một nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới xác nhận rằng, số người tử vong do bệnh sốt rét tăng gấp ba lần trong bốn năm đầu của thời kỳ cải cách, cùng với sự suy sụp của việc chăm sóc sức khỏe và giá cả các loại thuốc chống sốt rét tăng vọt. Chính phủ (dưới sự hướng dẫn của các nhà tài trợ quốc tế) cũng đã ngưng hỗ trợ ngân sách để cung cấp các thiết bị y tế và bảo trì, dẫn đến tình trạng tê liệt toàn bộ hệ thống y tế công cộng. Tiền lương thật sự của nhân viên y tế và điều kiện làm việc đã giảm đáng kể: tiền lương hàng tháng của các bác sĩ y tế tại một bệnh viện huyện thấp tới mức $15 một tháng.

Mặc dù Mỹ đã bị đánh bại trên chiến trường, nhưng hai thập niên sau đó Việt Nam dường như đã đầu hàng kẻ thù chiến tranh trước đây của mình về mặt kinh tế.

Không có những quả bom viên bằng thép hay màu cam, không có bom napalm, không có hóa chất độc hại: một giai đoạn mới của sự hủy diệt kinh tế và xã hội đã diễn ra. Những thành tựu của cuộc đấu tranh trong quá khứ và nguyện vọng của một quốc gia toàn vẹn chưa hoàn thành và đã bị xóa gần như với một nét bút (chữ ký).

Điều kiện nợ và điều chỉnh cơ cấu dưới sự ủy thác của các chủ nợ quốc tế tạo ra do hậu quả của chiến tranh Việt Nam, một công cụ thuộc địa bất bạo động chính thức và hiệu quả như nhau và sự bần cùng hóa ảnh hưởng đến sinh kế của hàng triệu người.

——

Tác giả: Michel Chossudovsky là giáo sư kinh tế tại Đại học Ottawa và là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Toàn cầu hóa.

Bài viết trên đã được viết năm 1995, đầu tiên được đăng tải vào ngày 30 tháng 4 năm 1995, trong bối cảnh kỷ niệm 20 năm “Giải phóng Sài Gòn”.

Một bài phân tích sâu hơn dựa trên những nghiên cứu thực tế được tiến hành ở Việt Nam, tập trung vào những cải cách tân tự do của Hà Nội, sau đó đã được đăng trong cuốn sách của Michel Chossudovsky, The Globalization of Poverty, ấn bản đầu tiên năm 1997, ấn bản thứ hai vào năm 2003.

Nguồn bản gốc: http://www.globalresearch.ca/who-won-the-vietnam-war/172

Nguồn bản dịch: https://www.facebook.com/BasamVN/posts/619964634763977

Thống kê sơ về người treo cổ trong trụ sở công an.

Thống kê sơ về người treo cổ trong trụ sở công an.

Người Buôn Gió

Xứ sở lạ đời, dân thích chọn đồn công an để tự tử?

Chỉ cần một sinh viên Bouazizi phải đi bán rau, bị phạt và hành hung nên đã tự thiêu mà toàn dân Tunisia phẫn nộ, biểu tình khiến cho Tổng thống Ben Ali phải chạy biệt xứ. Mạng một con người thiêng liêng như vậy đấy (xin nhấn mạnh là Bouazizi tự thiêu chứ không bị đánh chết).

Lại so thời thực dân phong kiến, chỉ vì để cấp dười đánh chết người mà ông quan trong triều Nguyễn Sinh Sắc bị cách tuột hết chức tước và phải biệt xứ vào nơi tận cùng đất nước! Trong khi ở một xứ “hạnh phúc thứ nhì thế giới”, “dân chủ gấp vạn lần”, “luôn lấy con người là trung tâm, là mục đích” mà hàng chục trường hợp công dân bị chết ngay trong tay “thanh kiếm và lá chắn”, trong tay những người được nhân dân nuôi và vũ trang đến tận răng để bảo vệ nhân dân, thì cái giá đáng lý phải trả là gì? Nếu cả 13-14 ông Tổng thống phải chạy biệt xứ thì chắc chắn vẫn chưa tương xứng.

Vậy mà hệ thống không mảy may suy suyển, những chiếc ghế vua quan ở đây chỉ càng thêm lì, thêm chắc, kẻ giết người không bị trừng trị thích đáng, trừng trị qua loa thì khác chi khuyến khích giết người? Mà khuyến khích thật khi còn dự kiến cho phép công an bắn chết ngay kẻ nào chống người thi hành công vụ! Thế nào là chống? Công vụ sai thì có được chống không? Dân có quyền tự vệ không? Chết rồi thì còn đâu mà cãi.

Với mười ba trường hợp thống kê “sơ sơ” dưới đây, là con người ai cũng phải giật mình, giật mình về cái khoảng cách giữa tuyên ngôn và thực tế đối lập nhau như thiên đàng và địa ngục. Biết đâu sẽ chẳng đến lượt mình, nhỡ lơ đãng mà phạm luật giao thông thôi chẳng hạn… Luật chống tra tấn chỉ trên giấy thôi sao? Mười ba nhân mạng chết tức tưởi trong tay công quyền liệu đã đủ làm mười ba tiếng nổ để rút ngắn bớt cái khoảng cách kinh hoàng giữa lời nói và việc làm chưa, hay cần nhiều thêm?

Hà Sĩ Phu

Và đây câu trả lời…

Điểm danh 1 số vụ án xảy ra sau khi bị giải lên đồn công an

2014.04.14 Đỗ Văn Bình – Đà Nẵng – treo cổ

2014.03.18 Bùi Thi Hương – Bình Phước – treo cổ

2014.03.18 Nguyễn Minh Dũng – trọng thương

2013.12.24 Đỗ Duy Việt – Thanh Hóa – treo cổ

2013.12.20 anh Đinh Ngọc H – Bình Duơng – treo cổ

2013.10.10 Trần Thị Hải Yến – Phú Yên – treo cổ

2013.08.19 Lê Hoàng Triệu Khang (15 tuổi) – Lâm Đồng – treo cổ

2013.01.02 Trần Văn Tân – Hải Dương – treo cổ

2012.09.14 Hồ Long Giang – Long Khánh – treo cổ

2012.05.13 Ngô Thanh Kiều – Phú Yên – bị đánh chết

2012.03.19 Lê Quang Trọng – Hà Tĩnh – treo cổ

2012.02.15 Nguyễn Công Nhựt – Bình Dương – treo cổ

2011.03.15 Đặng Ngọc Trung – Bình Phước – treo cổ

….

Đây chỉ là thống kê sơ bộ, chưa phải đầy đủ, nhưng cũng đủ làm giật mình bất cứ ai. Hãy nhớ đến câu nói của người tù oan 10 năm Nguyễn Thanh Chấn: “lúc đó tôi sợ họ đánh chết” – “tôi không chịu nổi nữa” – nếu nhìn vào số những nạn nhân TREO CỔ trong nhà tạm giam kia thì phải rùng mình mà công nhận ông Chấn đã quyết định đúng, nếu ông treo cổ chết rồi thì cần gì phải đau đầu với vụ án oan 10 năm của ngày hôm nay.

N. B. G.

Đức Gioan XXIII và sự khởi đầu sụp đổ Bức Màn Sắt

Đức Gioan XXIII và sự khởi đầu sụp đổ Bức Màn Sắt

Chuacuuthe.com

VRNs (17.4.2014) – Sài Gòn – CNA cho biết, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII đã bắt đầu đối thoại với Liên Xô dẫn đến việc sụp đổ ‘Bức Màn Sắt’ dưới triều Giáo hoàng của vị kế nhiệm là Đức Gioan Phaolô II, cả hai vị trên sẽ được tuyên thánh ngày 27 tháng 4 tới đây.

Năm 1961, sinh nhật của Giáo Hoàng Gioan đã trở thành dịp liên lạc đầu tiên giữa Liên Xô và Vatican kể từ cuộc Cách mạng tháng Mười năm 1917.

Chân dung Đức Gioan XXIII

Chân dung Đức Gioan XXIII

Semen Kozyrev, đại sứ Liên Xô tại Ý, đã gửi lời chúc mừng sinh nhật tới Đức Giáo Hoàng và nói: “Đại diện cho Khrushchev, tôi được giao phó nhiệm vụ liên lạc với Ngài, Ðức Thánh Cha Gioan XXIII, nhân dịp sinh nhật lần thứ 80 của ngài, tôi xin chúc mừng và chân thành gửi lời chúc sức khoẻ và thành công trong việc tiếp tục những khát vọng cao cả, nhằm góp phần và tăng cường và củng cố hòa bình trên trái đất, cũng như [đưa ra] các giải pháp về các vấn đề quốc tế thông qua những tuyên bố thẳng thắn.”

Đức Gioan XXIII đã trả lời bằng thư tay trên tờ giấy có in huy hiệu của ngài. Hồi đáp được chuyển tới Kozyrev thông qua Đức Tổng Giám Mục Carlo Grano, Sứ thần Tòa Thánh tại Ý.

“Đức Thánh Cha Gioan XXIII,” bức hồi đáp viết, “cảm ơn vì những lời chúc và bày tỏ tới vị đại diện cũng như với toàn thể người dân Nga, những lời chúc chân thành cho sự phát triển và củng cố hòa bình thế giới, thông qua sự hiểu biết lẫn nhau về tình huynh đệ em: tôi thiết tha cầu nguyện cho điều này.”

Sự trao đổi này đã mở ra một kênh liên lạc giữa hai nhà nước, và khi cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba bùng nổ vào năm sau đó, Đức Gioan XXIII đã sử dụng nó để một thông điệp tới Liên Xô, cũng như Mỹ.

Thông điệp kết luận bằng lời cầu xin: “tất cả các chính phủ không thể tiếp tục giả điếc trước tiếng kêu than của nhân loại. Với quyền lực của mình, họ phải làm tất để cứu vãn hòa bình. Và do đó, họ sẽ miễn trừ cho thế giới phải chịu những kinh hoàng từ một cuộc chiến tranh với những hậu quả đáng sợ mà không ai có thể đoán trước được. Rằng họ nên tiếp tục các cuộc thảo luận, vì lối hành xử trung thành và cởi mở này có giá trị lớn như một nhân chứng của lương tâm mọi người và trước lịch sử. Thúc đẩy, ủng hộ, chấp nhận các cuộc hội thoại, ở mọi cấp và trong bất kỳ thời điểm nào là một quy luật của sự khôn ngoan và thận trọng, cái thu hút phước lành từ trời và đất.”

Thông điệp trên đã được gửi đến các đại sứ quán của Mỹ và Liên Xô, được phát sóng trên đài phát thanh Vatican, và được xuất bản trên trang nhất của tờ Pravda, tiếng nói chính thức của đảng Cộng sản Liên Xô .

Tài ngoại giao của Đức Chân Phước Gioan XXIII cũng khiến cho Đức Hồng Y Josyf Slipyj, Đức Tổng Giám Mục của Lviv Ukraine, được trả tự do khỏi gulag (trại tù chính trị ở Nga) ngày 25 tháng 1 năm 1963.

Đức Hồng Y Slipyj bị bắt bởi Liên Xô vào năm 1945. Ngài đã bị giam trong một thời gian dài trong các gulag ở Siberia kể từ thời điểm đó.

Tòa Thánh từ lâu đã hỗ trợ cho việc trả tự do cho ĐHY nhưng không thành công, cho đến triều đại của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, khi ấy vị Hồng y đã được Khrushchev trả tự do.

Một tháng sau, Alexei Adzhubei, biên tập viên của tờ báo chính phủ Liên Xô Izvestia và là con rể của Khrushchev, đã đến thăm Rôma và muốn gặp Đức Giáo Hoàng.

Mặc dù nhiều vị giám chức của Vatican đã chống lại cuộc gặp gỡ này, nhưng theo lời khuyên của Đức Hồng Y Siri của Genoa, Đức Chân Phước Gioan XXIII đã gặp Adzhubei và vợ ông ta là Rada, vào ngày 7 tháng Ba năm 1963.

Hàng loạt các sự kiện trên đã mở đường cho chính sách Ostpolitik (chính sách bình thường hóa quan hệ của phương Tây với Đông Âu và Liên Xô vào những năm 1970) của Đức Phaolô VI, nhờ đó Ngài có thể tham gia vào cuộc đối thoại với các quan chức từ Khối Hiệp ước Warsaw để cải thiện điều kiện cho các Kitô hữu tại những quốc gia đó.

PV.VRNs

 

PHẢI LÀM TRONG SÁNG TIẾNG VIỆT !

PHẢI LÀM TRONG SÁNG TIẾNG VIỆT !

Xem ra cách ăn nói nầy đã bị “Cải Cách Hóa” từ trong nước ra hải ngoại. Nghe xướng ngôn viên đài SBTN (Sanh Bắc Tử Nam) ở Nam Cali: ” . . . VN đã làm một động thái . . . ” thay vì nói : ” . . . VN đã hành động . . .” . Cơ quan truyền thông mà dùng chữ như “rứa” thì chả trách chi bàng dân thiên hạ. Cũng như một vài lớp Việt ngữ ở hải ngoại cũng dùng i và y như trong nước “địa lí, lí do”. Chữ lí thường dùng trong hành động ,vật thể như lí lắc, li ti; còn chữ lý thường dùng trong tư tưởng suý nghĩ như lý do, duy lý, địa lý.

Làm trong sáng tiếng Việt “Ai phụ trách khâu ẩm thực?”
Câu ấy nghe được trong cuộc họp của các thầy cô giáo ở một trường dạy tiếng Việt cho trẻ em, bàn về việc tổ chức buổi picnic cho thầy cô và phụ huynh học sinh….
Xin mạn phép có một hai ý như thế này:

Thứ nhất, câu ấy có sáu chữ thì hết bốn chữ là tiếng Hán-Việt (“phụ trách”, “ ẩm thực”).
Thứ hai, ba chữ cuối ở trong câu (“khâu”, “ẩm thực”) là những chữ “mới”, du nhập “từ Bắc vô Nam” saunăm 1975.
Giá dụ học sinh nghe được câu ấy bèn giơ tay hỏi cô giáo ở trong lớp:
– “Ẩm thực” là gì thưa Cô?
– “Ẩm” là uống, “thực” là ăn. “Ẩm thực” là tiếng Hán-Việt, có nghĩa là “ăn uống”.
– Tiếng Hán-Việt là tiếng gì vậy Cô?
– Là tiếng Hán, tức là tiếng Trung Quốc, đọc theo âm Việt.
– Vậy sao mình không nói “ăn uống”, là tiếng của mình, mà lại nói “ẩm thực” thưa Cô?

Cô giáo chắc cũng hơi bối rối, và cũng hơi khó trả lời, không lẽ lại nói là “Cô cũng không rõ, nhưng nhiều người đều… nói vậy”. Em học sinh ấy nói đúng. Tại sao người Việt ở trong nước, và cả ở ngoài nước, vẫn thích nói “ẩm thực” mà không chịu nói “ăn uống”? Có phải vì nói “ăn uống” nghe phàm tục, nói “ẩm thực” nghe thanh tao và “trí tuệ” hơn chăng? Trước năm 1975, người Việt ở miền Nam Việt Nam không nói “Ai phụ trách khâu ẩm thực?” mà có nhiều cách nói đơn giản hơn và dễ hiểu hơn, chẳng hạn: “Ai lo vụ ăn uống?”, hoặc “Chuyện ăn uống ai lo?”, hoặc “Thức ăn, thức uống ai lo?”…

Nếu cứ phải vay mượn tiếng Hán-Việt hoặc tiếng nước ngoài trong sinh hoạt hàng ngày, trong lúc kho tàng tiếng Việt của chúng ta không hề thiếu thốn những chữ ấy thì thật khó mà thuyết phục các em tin được rằng “tiếng Việt giàu và đẹp” như chúng ta vẫn tự hào (đã gọi là “giàu” thì tại sao lại phải đi vay, đi mượn?!?). Những tiếng Hán-Việt nặng nề và tối tăm ấy hoàn toàn không giúp gì được cho việc “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” mà những người làm công tác giáo dục ở trong nước vẫn hô hào, như là một khẩu hiệu trong số rất nhiều khẩu hiệu thuộc loại “nói mà không làm”, hoặc “nói một đàng làm một nẻo”, hoặc… “nói vậy mà không phải vậy”.

Những chữ nghĩa kiểu ấy khá phổ biến. Bên dưới là một ít ví dụ, và các đề nghị nói thế nào cho đúng, rõ nghĩa, dễ hiểu và “Việt ngữ” hơn (chỉ là câu mẫu, người đọc có thể cho những câu khác tốt hơn):

– Thay vì nói: “Cô giáo Mỹ Linh đứng lớp Năm”, nên nói: “Cô giáo Mỹ Linh dạy lớp Năm” (không có… đứng, ngồi, nằm, quỳ chi cả)

– Thay vì nói: “Giáo viên cần soạn giáo án trước khi lên lớp”, nên nói: “Thầy cô cần soạn bài giảng trước giờ dạy” (không có… lên, xuống, ra, vào chi cả)

– Thay vì nói: “Phụ huynh đăng ký cho con em học Việt ngữ”, nên nói: “Phụ huynh ghi tên (hay ghi danh) cho con em học tiếng Việt”

– Thay vì nói: “Các em tiếp thu tương đối chậm”, nên nói: “Các em hiểu chậm”.

– Thay vì nói: “Học sinh đi tham quan một xí nghiệp”, nên nói: “Học sinh đi thăm một nhà máy”.

– Thay vì nói: “Ban văn nghệ sẽ tham gia biểu diễn (2) một tiết mục”, nên nói: “Ban văn nghệ sẽ đóng góp một màn diễn”

– Thay vì nói: “Ban giảng huấn sẽ dự giờ đột xuất các lớp học của giáo viên”, nên nói: “Ban giảng huấn sẽ vào lớp xem thầy cô giảng dạy mà không báo trước”.

– Thay vì nói: “Lớp Vỡ Lòng chủ yếu tập trung vào khâu đánh vần”, nên nói: “Lớp Vỡ Lòng cần dạy các em biết đánh vần”.

– Thay vì nói: “Cô giáo phát hiện em Nga có năng khiếu về môn Văn”, nên nói: “Cô giáo nhận thấy em Nga có khiếu về môn Văn”.
– Thay vì nói: “Các em về nhà tranh thủ ôn tập”, nên nói: “Các em về nhà cố gắng ôn bài”.

– Thay vì nói: “Tuyệt đại đa số các em tiếp thu tốt”, nên nói: “Hầu hết các em hiểu bài”.

– Thay vì nói: “Cần nâng cao chất lượng (3) trong công tác giảng dạy”, nên nói: “Cần dạy sao để các em mau tiến bộ”.

– Thay vì nói: “Ai là phụ giáo?”, nên nói: “Ai là phụ tá”.

Tiếng Việt còn, nước Việt còn” hoặc “Tiếng Việt còn, người Việt còn”, ở đâu ta cũng nghe những câu ấy, nhưng chắc không phải là thứ “tiếng Việt” kỳ quái hoặc nửa Hán nửa Việt, nửa Tàu nửa ta, chẳng thấy “giàu” cũng chẳng thấy “đẹp”, chẳng thấy “trong” cũng chẳng thấy “sáng” (chỉ thấy… tối mò mò)

Lâm Kim Trọng gởi

Tôi sẽ quay về …

Tôi sẽ quay về …

Chuacuuthe.com

VRNs (13.04.2014) – Sài Gòn – Bản tin Công Giáo Thế Giới của www.chuacuuthe.com đưa tin: ngày 28 tháng 3, Ngày Hòa Giải được tổ chức tại Vatican, hàng trăm Linh Mục mở cửa Nhà Thờ để đón nhận các hối nhân đến xưng tội, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng tham gia giải tội trong ngày này. Ngày Hòa Giải được đánh giá là thành công.

Tổng Giáo Phận Argentina cũng tổ chức giải tội cho hối nhân, điểm độc đáo là các Linh Mục cùng với vị Tổng Giám Mục của mình ra tận các đường phố để giúp giải tội cho họ. Bản tin ghi nhận:

140413007

“Nhiều cư dân sống ở phía Bắc thành phố Tucuman của Argentina vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy các Linh Mục của ba Nhà Thờ chính, có cả Đức Tổng Giám Mục đã ra tận các đường phố để ngồi tòa giải tội. Cha Carlos Sanchez của Vương Cung Thánh Đường Nuestra Señora de la Merced ( Argentina ) nói: “Như Đức Thánh Cha đã nói, Mùa Chay là thời gian để gặp gỡ Chúa. Đó là thời gian để hoán cải và nài xin lòng thương xót Chúa.”

Hằng năm rất nhiều hối nhân tìm đến Nhà Thờ Dòng Chúa Cứu Thế, số 38 đường Kỳ Đồng, Quận 3, để được nhận lãnh Bí Tích Hoà Giải. Có lẽ ân huệ lớn lao của Giáo Hội Việt Nam là chưa đến mức phải ra đường đón hối nhân, nhưng người ta nườm nượp kéo đến Nhà Thờ để xin xưng tội, vấn đề còn lại là chúng ta có mở rộng cửa để đón và hết lòng tiếp nhận các hối nhân hay không.

Vị phụ trách Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ( thuộc DCCT ) cho biết, hai tuần lễ cuối cùng của Mùa Chay cũng như Mùa Vọng, trung bình chúng tôi đón khoảng 15.000 lượt người đến nhận Bí Tích Hòa Giải. Tuần thứ nhất mỗi ngày có ba tòa Giải Tội, chiều thứ bảy có 4 hoặc 5 tòa, 12 Linh Mục trực giải tội ngày thường, mỗi ngày 4 phiên, và từ 12 đến 14 Linh Mục trực ngày thứ bảy. Tuần Thánh tăng lên đến 12 tòa, thậm chí có ngày 15 tòa. Các buổi tối, Bề Trên phân công anh em Linh Mục đi giúp giải tội ở các Xứ Đạo khác cần hỗ trợ, tùy theo nhu cầu, có Giáo Xứ xin 3, có Giáo Xứ xin 5 Linh Mục, có ngày có đến 3 Giáo Xứ xin anh em chúng tôi giúp giải tội. Có thể nói chúng tôi bị… “quần bở hơi tai” vì công việc mục vụ này.

Thời tiết Sàigòn vào Mùa Chay hoàn toàn không thuận lợi, cơn nắng nóng đầu mùa mưa rơi đúng vào những ngày gần Lễ Lá và trọn Tuần Thánh, cái nóng hầm hập, khốc liệt làm tiêu hao sức khỏe rất nhiều và rất nhanh. Trong cái bức sốt đó, hình ảnh từng đoàn người xếp hàng rồng rắn chờ đợi gây một áp lực tâm lý rất lớn, nhưng đồng thời cũng gây một mối thương cảm rất sâu sắc.

Có những lần phiên giải tội buộc phải chấm dứt vì đã đến giờ cử hành Thánh Lễ chiều, hơn nữa, những anh em Linh Mục trực phiên sau cùng cũng đã quá mỏi mệt sau hơn 2 giờ ngồi “vẹo lưng”, vậy mà những hàng người xếp vẫn còn dài và ánh mắt tha thiết mong chờ “Cha thương ngồi tiếp !” Biết làm sao đây, bỏ thì thương, vương thì tội !

Số anh chị em hối nhân những năm gần đây đổ về ngày càng đông đảo, chúng tôi cảm nhận sâu xa rằng đây là hồng ân lớn lao của Chúa, người Công Giáo Việt Nam tương đối còn giữ thói quen tốt đi xưng tội, Mục Vụ Giải Tội có làm cho anh em Linh Mục mệt thật, nhưng lại là một niềm vui rất lớn lao, vì có nhiều người trở về làm… cả “thiên đàng cũng vui mừng”.

Điều anh em chúng tôi băn khoăn đó là, với lượng người đông như vậy, cuộc đối thoại thiêng liêng với từng hối nhân rất hạn chế, có những vấn đề cần nói nhiều hơn với nhau nhưng không thể nấn ná thêm được, số người còn xếp hàng chờ còn quá dài, sức khỏe và sự tỉnh táo để nghe và khuyên các hối nhân của Linh Mục giảm dần sau nhiều ngày, nhiều phiên liên tiếp ngồi toà trong một hai tuần cao điểm.

Có một vấn đề khác tưởng cũng cần chia sẻ ở đây, ấy là một số vấn đề về luân lý nảy sinh do cuộc sống hiện tại thay đổi quá nhanh, chỉ với vài phút ngắn ngủi trong Tòa Giải Tội, Linh Mục không thể nào hướng dẫn giáo lý cho hối nhân được đầy đủ chi tiết thấu đáo.

Tân Phúc Âm hóa hôm nay cần đặt lại vấn đề về loan báo Tin Mừng, giáo huấn của Hội Thánh cần được phổ biến cách nào để đến được vừa rộng vừa sâu với các thành viên của Hội Thánh một cách sinh động nhất. Nỗi dằn vặt trăn trở của hối nhân chính là tiếng chuông cảnh báo cho sứ mạng của Linh Mục hôm nay.

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

Chúa Nhật Lễ Lá 13.4.2014

 

Chúa Nhật Lễ Lá: thấy gì qua sự tung hô của con người

Chúa Nhật Lễ Lá: thấy gì qua sự tung hô của con người

Chuacuuthe.com

VRNs (13.04.2014) –Sài GònJoe Tremblay là một ký giả cho những sự kiện của một blog Công Giáo. Ông cũng góp bài cho học viện Edmund Burke, đồng thời cũng là khách mời thường xuyên của chương trình Relevant Radio’s. VRNs giới thiệu với các bạn bài viết mới nhất của ông cho ngày Lễ Lá.

triumphal-entry-zoom

Các nhà lãnh đạo như Alexander Đại đế, Mohammad và Napoleon cưỡi ngựa với những chiến binh đầy vũ trang để chiến thắng kẻ thù. Nhưng Chúa của chúng ta vào Chúa Nhật Lễ Lá, cưỡi một con lừa con vào Giêrusalem để chinh phục kẻ thù. Điều này được tiên báo bởi lời ngôn sứ Dacaria: “Vì kìa Ðức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Ðấng Chính Trực, Ðấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ.” (9,9)

Một con lừa như vậy đã được Mẹ Maria và thánh Giuse dùng để thoát khỏi cơn thịnh nộ của vua Hêrôđê khi chạy trốn sang Ai Cập, giờ đây được dùng để chở Chúa Giêsu đến với kẻ thù. Trớ trêu thay đó là cách Chúa dùng để làm công cụ cho việc chinh phục thế giới. Như Fulton Sheen nói: ” Chúa Giêsu đã dùng công cụ tồi tệ nhất để chinh phục thế giới và rồi tội ác không bao giờ chiến thắng một lần nữa.”

Điều thú vị là con lừa được dùng cho những khách hành hương chứ không phải dùng cho những kẻ chinh phục thế giới. Chúa Kitô đã tuyên bố, chính Ngài là một vị vua và là khách hành hương nhưng không thuộc về thế giới này. Ngai vàng của Ngài không thiết lập ở Giêrusalem hay Rôma. Trong thực tế, Ngài đã đội triều thiên ở trên trời! Và như một khách hành hương về trời, Ngài đã không quan tâm đến quyền lực thế gian.

Sự xuất hiện với con lừa cho thấy Ngài đến không phải để chinh phục thế giới bằng gươm giáo và chiến binh như cách của Mohammad. Thay vào đó, vũ khí của Ngài là Lời. Trong Thư gửi tín hữu Do Thái, chúng ta đọc thấy: “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người. Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Ðấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ.” (4:12-13)

Hơn nữa, những khách hành hương lên Giêrasalem vào dịp lễ đó đến từ khắp nơi. Thật ra, một phần lớn những người Do Thái vào thế kỷ thứ I sống ngoài Palestine. Trong Chúa Nhật lễ lá ấy của Chúa Giêsu, cũng có rất nhiều người đến từ Ai Cập, Syria và Persia. Họ lên Giêrusalem theo luật buộc để tham dự Lễ Vượt Qua được tổ chức hằng năm. Và ngay cả những người ngoại kiều họ cũng lên đó vì nghe nói đến sự sống lại kỳ lạ của Lazarô do Chúa Giêsu thực hiện. Trong đám đông hỗn hợp đó, họ đã tung hô Chúa Giêsu là “Con Vua Đavít”, giống như Vua Solomon (con vua Đavít) cưỡi lừa tiến vào Thành vua Đavít.

Trước đó trong sứ vụ công khai, Chúa Giêsu nói rằng ngôn sứ không được đón nhận tại quê hương mình. Thực tế là nhiều đối thủ của Ngài, tức là những người Biệt Phái, Sađốc và Kinh sư, là người Do Thái từ xứ Giuđê không quá xa Nazareth. Nhưng cũng nhiều khách hành hương lên Giêrusalem vào Chúa Nhật Lễ Lá đã không từ quê hương của Ngài, thậm chí cũng không từ làng của Ngài. Như vậy, họ đã không nuôi định kiến ​​ chống lại Ngài như những người đồng hương của Ngài. Và có vẻ như đám đông, đại diện cho thế giới dân ngoại, cuồng nhiệt chào đón vị Chúa chúng ta ở Giêrusalem là Đấng Mêsia của người Do Thái. Tin Mừng nói rằng họ kêu lớn tiếng: “Hosanna! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vương quyền vua Đavít đang đến! Hosanna trên trời cao! “

Chúa Nhật Lễ Lá như là thành của Thiên Chúa và thành của Con Người được hiện diện tại Giêrusalem. Có những người muốn Chúa Giêsu làm vua của họ và có những người khác muốn giết Ngài. Lời tung hô “hosannas” đã được hát lên vào Chúa Nhật lễ lá sẽ bị lấn áp bởi giọng gào to hơn “đóng đinh nó đi!” vào Thứ Sáu Tuần Thánh.

Không nghi ngờ gì nữa, Chúa chúng ta đã gây tác động trên các Tông Đồ. Trong những năm sau đó, các Tông Đồ là các giám mục đầu tiên của Giáo Hội, sẽ phải nhớ rằng, họ sẽ không có được sự thoải mái, dễ dàng với các đặc quyền như là nhà lãnh đạo tôn giáo. Họ đã cảm nghiệm được rằng chỉ trong vòng vài ngày ngắn ngủi mà sự tung hô nhường đường cho những lời kết án. Họ nhớ lại những gì Chúa Giêsu nói trong bữa Tiệc Ly là môn đệ không lớn hơn Thầy. Những gì xảy đến với Chúa Giêsu cũng sẽ xảy ra với họ.

Đây là một bài học hữu ích cho những người người lãnh đạo Giáo Hội. Nếu chúng ta tìm kiếm chính Thiên Chúa trên hết và hướng mắt về Thiên Đường, sẽ chẳng bị ảnh hưởng gì cho dù có ai đề cao hay xem thường chúng ta. Như vậy, người môn đệ của Chúa Kitô sẽ không bị tác động gì với những lời hứa giả dối của thế gian vì họ đang theo đuổi phần thưởng trên trời.

Hoàng Minh

 

Chẳng lẽ dân cứ mãi cam chịu?

Chẳng lẽ dân cứ mãi cam chịu?

chuacuuthe.com

VRNs (13.04.2014) – Thanh Hóa – Vào sáng 11.4.2014 Ủy ban Thường vụ Quốc hội  họp  để bàn về quy định xử lý trách nhiệm liên quan đến quyết định chủ trương đầu tư công. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã có những phát biểu rất đáng được ghi nhận. Ông đã “hạ mình, khiêm tốn” trước tập thể Quốc Hội. Ông khẳng định:   “Chủ tịch Quốc hội cũng không phải người đứng đầu Quốc hội”. Bới lẽ tất cả những gì Quốc hội đã “quyết” đều do lá phiếu “dân chủ” của tất cả 500 vị đại biểu Quốc hội, bản thân chủ tịch không tự “quyết” nên lẽ đương nhiên là nếu có sai là do tất cả 500 lá phiếu kia, đây cũng là vấn đề xưa nay vẫn thế.

Ai bảo Đảng giao trách nhiệm cho ông đứng vào vị trí đó? Đảng giao trách nhiệm cho ông thì ông buộc phải  chấp hành thôi, chứ làm sao ông dám thoái thác? Thủ tướng chính phủ cũng đã từng nói vậy đó thôi.

140413003

Nhưng có câu này thì tôi thấy ông nói đúng có một một phần thôi ông ạ.

“Quốc hội tức là dân, dân quyết sai thì dân chịu, chứ kỷ luật ai.”

1.  ”Quốc hội tức là dân.” Theo nguyên tắc và trên danh nghĩa thì Quốc Hội là của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu sự dám sát của dân. Đại biểu nào không làm tròn bổn phận, trách nhiệm thì phải bị nhân dân loại bỏ, để chọn người khác. Nhưng ở chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa này thì người dân đâu có được bầu “ Đại biểu Quốc hội đâu ” Tất cả 500 thanh viên Quốc hội đều được “ Mặt trận tổ quốc ” một tổ chức ngoại vi của Đảng giới thiệu; do sự hướng dẫn của Bộ chính trị; dự nguồn từ Trung ương Đảng chứ thằng dân chúng tôi có biết mặt mũi gì đâu mà bầu với cử. Vậy Quốc hội này đâu phải là dân. Ông nói vậy là oan cho các đồng chí của ông rồi. Các đồng chí ấy  là quan chứ đâu phải là dân.

2. “Dân quyết sai thì dân chịu.” Chổ này thì ông nói đúng!  Dân chúng tôi đã sai. Cái sai của chúng tôi là đã để cho Đảng của các ông lừa bịp và lợi dụng. Từ những năm 1945 thằng dân chúng tôi đã bị các ông lừa đi cướp chính quyền về cho Đảng của các ông. Sau đó thằng dân chúng tôi lại bị các ông tịch thu tài sản, nhiều người bị đưa ra đấu tố bị tử hình… Ấy vậy mà Thằng dân chúng tôi vẫn chưa sáng mắt ra. Thằng dân miền Bắc chúng tôi vẫn tiếp tục nghe theo Đảng các ông, để tiến vào miền Nam gây nên cuộc chiến “ Huynh Đệ tương tàn”, khiến máu chảy đầu rơi, xương tan thịt nát cả hai miền. Đúng là chúng tôi sai thì chúng tôi phải chịu. Sau năm 1975 tới nay thì thằng dân cả hai miền chúng tôi đã hoàn toàn bị khống chế. Đảng các ông đã thiết lập các chân rết chui sâu vào quần chúng.  Uy hiếp cưỡng bức bắt buộc thằng dân chúng tôi phải cúi đầu. Từ đó tới nay thằng dân chúng tôi đâu có được “quyết ” gì đâu. Nhưng chí ít câu nói này của ông cũng đã nhắc cho thằng dân chúng tôi nhớ lại. Tại sao chúng tôi phải chịu cảnh ngậm đắng nuốt cay này. Bởi trước đây vì thằng dân chúng tôi đã “ quyết ” sai nên bây giờ phải chịu. Nhưng thưa ông vấn đề đầu tư công thì thằng dân chúng tôi đâu có biết gì. Nhưng dù ai làm sai đi nữa thì thằng dân chúng tôi cũng đành phải chịu.

3. “Chứ kỷ luật ai.” Chổ này ông nói hay thật đấy! Đảng ta làm gì cũng tài tình sáng suốt.  Chỉ có thằng dân đen chúng tôi mới sai chứ, làm sao mà kỷ luật được ai trong số các đồng chí “Đảng hội” của các ông được. Vì họ là người do Đảng cử, Đảng giao trách nhiệm mà có sai thì cứ sửa, sửa không được thì mặc dân. Dân chịu tuốt chứ các đồng chí của ông có phải chịu đâu mà sợ. Chổ này ông cũng đã học được từ ngài thủ tướng Dũng khi ngài nói trước chính phủ rằng: Ngài cũng sẽ noi gương cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, không kỷ luật đồng chí nào trong chính phủ. Bây giờ ông chủ tịch Quốc hội cũng sẽ chẳng kỷ luật đồng chí nào trong Quốc hội.

Vậy là sau nhiều năm làm phó thủ dưới trướng của ngài Dũng, ông đã trở thành học trò xuất sắc rồi đấy. Ngay cả bây giờ ngồi trên ghế chủ tịch Quốc hội rồi ông vẫn còn áp dụng rất tốt những bài học đó hết sức hiệu quả còn gì.

•  Nói tóm lại; Đảng các ông không bao giờ có thể thừa nhận mình đã  sai được, vì Đảng của các ông là một tập thể của những kẻ luôn luôn dùng thủ đoạn mưu mô để hút máu nhân dân, dần đưa dân tộc này trở lại thời kỳ “ Đồ đá” qua cái gọi là “ Thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội” mà nạn nhân của cuộc thử nghiệm không bao giờ thành của các ông chính là nhân dân Việt nam.

Thưa ông: Ông nói đúng, Thằng dân chúng tôi đã sai thì chúng tôi phải chịu. Nhưng chúng tôi chịu hết nổi rồi. Chúng tôi không thể chịu hơn được nữa. Chúng tôi đã, đang và sẽ vùng dậy để hành động và sẽ chọn cho mình một con đường đúng đắn. Lúc đó chắc chắn ông không còn phải lo biết tìm ra ai để kỷ luật, vì tất cả những kẻ gây nên tội ác với nhân dân sẽ do chính nhân dân định đoạt.

Nguyễn Trung Tôn

ĐT: 01628387716.

Email: nguyentrungtonth@gmail.com

 

Con đường cong mang tên Trường Chinh

Con đường cong mang tên Trường Chinh

An Nhiên, thông tín viên RFA
2014-04-11

04112014-duongcong-an.mp3

vietgiaitri.com-305.jpg

Tuyến đường Trường Chinh đã bị nắn cong để tránh hàng loạt nhà của quan chức

Courtesy of vietgiaitri.com

Hiện nay dư luận đang xôn xao về việc một con đường mang tên Trường Chinh ở Hà Nội bị uốn cong để tránh những căn nhà của các sĩ quan cao cấp trong quân đội. Đây là con đường kỳ lạ và báo chí không bỏ lỡ cơ hội khai thác sự kiện hiếm có này.

Áp lực từ đâu?

Theo Quyết định 108 được Thủ tướng phê duyệt vào ngày 20/6/1998, quy hoạch chung Thủ đô đến năm 2020, dự kiến hướng tuyến của tuyến đường Trường Chinh là chạy thẳng dài khoảng 2,2km, có mặt cắt ngang quy hoạch rộng 53,5m. Hướng quy hoạch, mở rộng đường đối với đoạn Vĩnh Tuy – Minh Khai – Trường Chinh – Ngã Tư Sở – Cầu Cót được định hướng chủ yếu về phía Bắc. Đoạn đường Trường Chinh đi qua địa bàn các quận Thanh Xuân và Đống Đa. Tuy nhiên, khi triển khai thực hiện thì con đường Trường Chinh bị uốn cong khoảng 800 mét khi qua khu đất của Quân chủng Phòng không Không quân, đoạn từ Hồ Hố Mẻ đến Cống chéo sông Lừ.

Khi dư luận phản ảnh tình trạng quá lộ liễu này của Sở quy hoạch Hà Nội vào chiều ngày 8/4/2014, ông Dương Đức Tuấn, Phó Giám đốc Sở Qui Hoạch Kiến Trúc Hà Nội nói với các phóng viên quốc nội rằng đoạn cong khoảng 800 mét này của đường Trường Chinh là “đường cong mềm mại” và không ảnh hưởng đến tình trạng giao thông. Quan trọng hơn ông Tuấn nói rằng đoạn cong ở đường Trường Chinh mở rộng là do yêu cầu của Bộ Quốc phòng.

Ông Trịnh, một kiến trúc sư đang công tác tại Hà Nội nói rằng việc bẻ cong con đường Trường Chinh chỉ có lợi cho một nhóm người có nhà không bị giải tỏa:

“Thật ra bẻ cong như thế thì nó rất là bất cập, tức là xét về một gốc độ nào đấy. Ban đầu mình có thể tiết kiệm được kinh phí giải tỏa, không phức tạp về vấn đề xã hội thì thật ra việc giải tỏa rất là khó, mỗi người dân thì người ta cũng có quyền của người ta, thì bây giờ, thật ra nhà nước mình cứ phải ép buộc người ta cứ như thế này thế kia, thì tất nhiên đây là lợi ích lâu dài cho xã hội, chứ còn người ta phải chuyển đi đến một khu tái định cư, trong khi mà cuộc sống người ta đang rất bình thường rất là ngại chuyển.”

Ông Nghiêm Việt Anh nhà ở ngay gần đường Trường Chinh cho biết, con đường này đã có gần một trăm năm nay rất thẳng, có từ thời Pháp trước 1954, người dân vẫn thường gọi là đường Tàu Bay, nó như là một phần lịch sử và đã có rất nhiều lần làm đường nhưng lần nào cũng thẳng mà giờ đây:

“Tránh một cái đọan là khoảng mấy trăm mét có các biệt thự của các ông tướng trong đó có Nguyễn Đức Phát, Phó tổng tham mưu, rồi có Trung tướng Phạm Tuân, có đại khái là năm ông tướng đấy. Thật ra thì cũng không phải là cái nhà của các ông ấy bỏ tiền ra xây từ ngày xưa mà thực tế đấy là những nhà công vụ, công lao do quân đội xây bằng cái tiền của dân, tiền của quốc phòng và sức của bộ đội, sức lính thôi.”

Rõ ràng con đường bị uốn cong là đề tránh những ngôi nhà của tướng tá cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam mà cụ thể là đơn vị Phòng không Không quân. Ông Việt Anh bức xúc nói thêm:

“Bây giờ ở các ông đó về hưu rồi. Các ông ở rất rộng như thế, cái biệt thự gần đường như thế, bây giờ làm nhà thì cắt của các ông đó khoảng mấy chục mét, giả sử làm đúng qui hoạch thì nhà các ông ấy vẫn còn, mà thật ra có làm hết đất đi thì các ông ấy vẫn còn có nhiều nhà khác. Vẫn có rất nhiều tiêu chuẩn để bố trí các ổng đi, nhưng mà đây là người ta không muốn lợi ích bị xâm phạm. Thành thử ra người ta vì cái quyền cao chức trọng, áp lực của bộ quốc phòng, áp lực đến Thành phố Hà Nội, chắc không phải tự nhiên thành phố thỏa thuận từ đường thẳng xuống đường cong thế đâu mà chắc lợi ích gì đấy đã thỏa thuận phía trong.“

Chuyện bình thường?

Ông Đỗ Xuân Thọ – Tiến Sỹ Cơ Học Ứng Dụng – công tác tại Viện khoa học và công nghệ GTVT nói rằng người dân Hà Nội đã quen với việc các quan chức làm những chuyện lợi ích riêng như vậy và lâu dần đã trở nên bình thường:

“Tôi chỉ biết rằng là, cái hiện tượng mà uốn cong các con đường qua các nhà của các con ông cháu cha, là thường xuyên ở Hà Nội, chắc chắn như thế. Tất là họ xây một cái biệt thư hay một cái khách sạn lên trước, sau đó họ xây một con đường chay qua đấy thì bao giờ cũng đón đầu các dự án. Đấy là một cái hiện tượng phổ biến ở Hà Nội. Rồi cái việc uốn cong đường Trường Chinh là dể hiểu thôi ….đấy có một đại gia nào đấy mà bị phá thì con đường bị uốn cong ngay giống như uốn con pháp luật bây giờ đó mà.”

Hiện tượng uốn con đường qua các nhà quan chức chính phủ, hay là quan chức hay con ông cháu cha chuyện bình thường Hà Nội này, dân Hà Nội ở ngoài vỉa hè nói chuyện đó, họ coi như chuyện bình thường.
– Ông Đỗ Xuân Thọ

Đối với một con đường chỉ dài hơn 2 km trong một thành phố đầy xe qua lại thì việc uốn cong chỉ làm cho người lái xe thêm khó khăn và tất nhiên phát sinh thêm nhiều kinh phí. Kiến trúc sư Trịnh nói rằng nếu làm thẳng thì con đường Trường Chinh sẽ tiết kiệm được nhiều kinh phí và có lợi cho xã hội:

“Con đường Trường Chinh ở Việt Nam thì chắc chắn không thể so sánh được rồi, vì nó rất là ngắn vì nếu mình làm đường thẳng, nó sẽ tiết kiệm nó sẽ tốt cho sau này. Thứ nhất nó tiết kiệm được khoảng cách con đường, kinh phí xây dựng một con đường dài hơn khoảng độ một vài chục mét, vài trăm mét thôi là tốn hơn rất nhiều kinh phí. Nếu mà vấn đề giải tỏa làm tốt thì tất nhiên con đường thẳng sau này xã hội sẽ được hưởng lâu dài, con đường ấy là một sản phẩm mãi mãi về sau, con người ta đựơc tận hưởng chứ không phải là trước mắt.”

Ông Trịnh cho biết tiếp nếu muốn làm những con đường cong trong thành phố thì phải tùy theo vị trí của từng khu vực trong nội thành:

“Tùy theo những vị tri, tức là mình ở những cái nơi khu vực có cảnh quan thì đôi khi, người ta cũng làm một con đường cong queo, ngoằn ngoèo, để dẫn hướng cho người ta đi thế này, thế kia, để người ta khám phá. Chứ còn ví dụ ở trong một quãng đường hay bị ách tắc giao thông, thì thật ra tạo một cái con đường cong, không lợi gì cả chỉ làm cho nó thêm phức tạp thôi.”

Việc công khai dùng kinh phí nhà nước để thỏa mãn yêu cầu của một số cán bộ tướng lĩnh hưu trí để bảo vệ tài sản cho họ là trái với pháp luật. Không những làm mất lòng tin của người dân mà còn khiến hố bất công ngày càng lớn và hình ảnh của người chiến sĩ không còn đẹp đẽ dưới con mắt của cả xã hội nữa

Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa

Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa

chuacuuthe.com

VRNs (12.04.2014) – Wikipedia – Giáo dục Việt Nam Cộng hòa là nền giáo dục Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa. Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa là nhân bản, dân tộc, và khai phóng.[1] Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và quy định “nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí”, “nền giáo dục đại học được tự trị”, và “những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn”.[2] Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng hòa gồm tiểu học, trung học và đại học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập và tư thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới địa phương.

Tổng quan

Từ năm 1917, chính quyền thuộc địa Pháp ở Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục thống nhất cho cả ba miền Nam, Trung, Bắc, và cả Lào cùng Cao Miên. Hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc có ba bậc: tiểu học, trung học, và đại học. Chương trình học là chương trình của Pháp, với một chút sửa đổi nhỏ áp dụng cho các cơ sở giáo dục ở Việt Nam, dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính, tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ phụ. Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập vào ngày 17 tháng 4 năm 1945,[3] chương trình học của Việt Nam – còn gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn ban hành trong khoảng thời gian từ 20 tháng 4 đến 20 tháng 6 năm 1945 dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim của Đế quốc Việt Nam – được đem ra áp dụng ở miền Trung và miền Bắc. Riêng ở miền Nam, vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp tục cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ nhất Cộng hòa thì chương trình Việt mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương trình Pháp. Cũng từ đây, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò lãnh đạo thực sự của mình.[4]

Ngay từ những ngày đầu hình thành nền Đệ nhất Cộng hòa, những người làm công tác giáo dục ở miền Nam đã xây dựng được nền móng quan trọng cho nền giáo dục quốc gia, tìm ra câu trả lời cho những vấn đề giáo dục cốt yếu. Những vấn đề đó là: triết lý giáo dục, mục tiêu giáo dục, chương trình học, tài liệu giáo khoa và phương tiện học tập, vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết bị trường học, đánh giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị.[5] Nhìn chung, người ta thấy mô hình giáo dục ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1970 có khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của Pháp vốn chú trọng đào tạo một số ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng thiên về lý thuyết, để chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng và thực tiễn. Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng hòa có một phần năm (20%) dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục. Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trung học, và 101.454 sinh viên đại học; số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số.[4] Đến năm 1975, tổng số sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên theo học ở Học viện Quốc gia Hành chánh và ở các trường đại học cộng đồng).[6]

Mặc dù tồn tại chỉ trong 20 năm, từ 1955 đến 1975, bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh và những bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ (trên 40% ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền giáo dục Việt Nam Cộng hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người có học vấn và có khả năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo được sự nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển. Kết quả này có được là nhờ các nhà giáo có ý thức rõ ràng về sứ mạng giáo dục, có ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc sống khiêm nhường để đóng góp cho nghề nghiệp, nhờ nhiều bậc phụ huynh đã đóng góp công sức cho việc xây dựng nền giáo dục quốc gia, và nhờ những nhà lãnh đạo giáo dục đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở miền Nam Việt Nam.[4]

Triết lý giáo dục

Năm 1958, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Trần Hữu Thế, Việt Nam Cộng hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu học đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật… Ba nguyên tắc “nhân bản”, “dân tộc”, và “khai phóng” được chính thức hóa ở hội nghị này.[7][8] Đây là những nguyên tắc làm nền tảng cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa, được ghi cụ thể trong tài liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa (1967).

1.         Giáo dục Việt Nam là giáo dục nhân bản. Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác. Triết lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá con người, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc… Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.

2.         Giáo dục Việt Nam là giáo dục dân tộc. Giáo dục tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thế hệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác.

3.         Giáo dục Việt Nam là giáo dục khai phóng. Tinh thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới.[1]

Mục tiêu giáo dục

Từ những nguyên tắc căn bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đề ra những mục tiêu chính sau đây cho nền giáo dục của mình. Những mục tiêu này được đề ra là để nhằm trả lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự giáo dục, những người đi học sẽ trở nên người như thế nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình, quốc gia, xã hội, và nhân loại?

1.         Phát triển toàn diện mỗi cá nhân. Trong tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học sinh, giáo dục hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên của mỗi người và theo những quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất lẫn tâm lý. Nhân cách và khả năng riêng của học sinh được lưu ý đúng mức. Cung cấp cho học sinh đầy đủ thông tin và dữ kiện để học sinh phán đoán, lựa chọn; không che giấu thông tin hay chỉ cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu trung thực theo một chủ trương, hướng đi định sẵn nào.

2.         Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh. Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết, tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.

3.         Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học. Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh tổ chức những nhóm làm việc độc lập qua đó phát triển tinh thần cộng đồng và ý thức tập thể; giúp học sinh phát triển óc phán đoán với tinh thần trách nhiệm và kỷ luật; giúp phát triển tính tò mò và tinh thần khoa học; giúp học sinh có khả năng tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhân loại.[1]

Giáo dục tiểu học và trung học

Giáo dục tiểu học

Bậc tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ nhất Cộng hòa gọi là lớp Năm đến lớp Nhất). Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập (bắt buộc).[13] Từ thời Đệ nhất Cộng hòa đã có luật quy định trẻ em phải đi học ít nhất ba năm tiểu học.[14] Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai thi trượt phải học “đúp”, tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác. Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được chia ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều. Vào đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu học, 82%[15] tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi[16] theo học ở 5.208 trường tiểu học (chưa kể các cơ sở ở Phú Bổn, Vĩnh Long, và Sa Đéc).[17]

Tất cả trẻ em từ 6 tuổi đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu học. Phụ huynh có thể chọn lựa cho con em vào học miễn phí cho hết bậc tiểu học trong các trường công lập hay tốn học phí (tùy trường) tại các trường tiểu học tư thục.[18] Lớp 1 (trước năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ môn quốc văn; 2 giờ bổn phận công dân và đức dục (còn gọi là lớp Công dân giáo dục).[19] Lớp 2 (trước năm 1967 gọi là lớp Tư), quốc văn giảm còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ sử ký và địa lý. Lớp 3 trở lên thì ba môn quốc văn, công dân và sử địa chiếm 12-13 tiếng mỗi tuần.[20] Một năm học kéo dài chín tháng, nghỉ ba tháng hè. Trong năm học có khoảng 10 ngày nghỉ lễ (thông thường vào những ngày áp Tết).[21]

140412003

Giáo dục trung học

Tính đến đầu những năm 1970, Việt Nam Cộng hòa có hơn 550.000 học sinh trung học, tức 24%[15] tổng số thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18;[16] có 534 trường trung học (chưa kể các cơ sở ở Vĩnh Long và Sa Đéc).[17] Đến năm 1975 thì có khoảng 900.000 học sinh ở các trường trung học công lập. Các trường trung học công lập nổi tiếng thời đó có Pétrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trưng Vương, Gia Long, Lê Quý Đôn (Sài Gòn) tiền thân là Trường Chasseloup Laubat, Quốc Học (Huế), Trường Trung học Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ)… Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.

Trung học đệ nhất cấp

Trung học đệ nhất cấp bao gồm năm lớp 6 đến lớp 9 (trước năm 1970 gọi là lớp đệ thất đến đệ tứ), tương đương trung học cơ sở hiện nay. Từ tiểu học phải thi vào trung học đệ nhất cấp. Đậu vào trường trung học công lập không dễ. Các trường trung học công lập hàng năm đều tổ chức tuyển sinh vào lớp Đệ thất (từ năm 1970 gọi là lớp 6), kỳ thi có tính chọn lọc khá cao (tỷ số chung toàn quốc vào trường công khoảng 62%);[22] tại một số trường danh tiếng tỷ lệ trúng tuyển thấp hơn 10%. Những học sinh không vào được trường công thì có thể nhập học trường tư thục nhưng phải trả học phí. Một năm học được chia thành hai “lục cá nguyệt” (hay “học kỳ”). Kể từ lớp 6, học sinh bắt đầu phải học ngoại ngữ, thường là tiếng Anh hay tiếng Pháp. Môn Công dân giáo dục tiếp tục với lượng 2 giờ mỗi tuần.[23] Từ năm 1966 trở đi, môn võ Vovinam (tức Việt Võ đạo) cũng được đưa vào giảng dạy ở một số trường.[24] Học xong năm lớp 9 thì thi bằng Trung học đệ nhất cấp. Kỳ thi này thoạt tiên có hai phần: viết và vấn đáp. Năm 1959 bỏ phần vấn đáp[25] rồi đến niên học 1966-67 thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi bỏ hẳn kỳ thi Trung học đệ nhất cấp.[26]

Số liệu giáo dục bậc trung học[9]

Niên học          Số học sinh      Số lớp học

1955                51.465             890

1959                132.529[11]

1960                160.500[10]

1963                264.866           4.831

1964                291.965[12]

1967-68           471.000[15]

1968-69           554.000[15]

1969-70           632.000[15]     9.069

Trung học đệ nhị cấp

Trung học đệ nhị cấp là các lớp 10, 11 và 12, trước 1971 gọi là đệ tam, đệ nhị và đệ nhất; tương đương trung học phổ thông hiện nay. Muốn vào thì phải đậu được bằng Trung học đệ nhất cấp, tức bằng Trung học cơ sở. Vào đệ nhị cấp, học sinh phải chọn học theo một trong bốn ban như dự bị vào đại học.[27] Bốn ban thường gọi A, B, C, D theo thứ tự là khoa học thực nghiệmhay còn gọi là ban vạn vật; ban toán; ban văn chương; và ban văn chương cổ ngữ, thường là Hán văn. Ngoài ra học sinh cũng bắt đầu học thêm một ngoại ngữ thứ hai.[28] Vào năm lớp 11 thì học sinh phải thi Tú tài I rồi thi Tú tài II năm lớp 12. Thể lệ này đến năm học 1972-1973 thì bỏ, chỉ thi một đợt tú tài phổ thông. Thí sinh phải thi tất cả các môn học được giảng dạy (trừ môn Thể dục), đề thi gồm các nội dung đã học, không có giới hạn hoặc bỏ bớt. Hình thức thi kể từ năm 1974 cũng bỏ lối viết bài luận (essay) mà theo lối thi trắc nghiệm có tính cách khách quan hơn.[29] Mỗi năm có hai đợt thi Tú tài tổ chức vào khoảng tháng 6 và tháng 8.[30] Tỷ lệ đậu Tú tài I (15-30%) và Tú tài II (30-45%), tại các trường công lập nhìn chung tỷ lệ đậu cao hơn trường tư thục do phần lớn học sinh đã được sàng lọc qua kỳ thi vào lớp 6 rồi.[31] Do tỷ lệ đậu kỳ thi Tú tài khá thấp nên vào được đại học là một chuyện khó. Thí sinh đậu được xếp thành: Hạng “tối ưu” hay “ưu ban khen” (18/20 điểm trở lên), thí sinh đậu Tú tài II hạng tối ưu thường hiếm, mỗi năm toàn Việt Nam Cộng hòa chỉ một vài em đậu hạng này, có năm không có; hạng “ưu” (16/20 điểm trở lên); “bình” (14/20); “bình thứ” (12/20), và “thứ” (10/20).[32] Một số trường trung học chia theo phái tính như ở Sài Gòn thì có trường Pétrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trường Hồ Ngọc Cẩn (Gia Định) và các trường Quốc học (Huế), Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Cường Để (Qui Nhơn), Võ Tánh (Nha Trang), Trần Hưng Đạo (Đà Lạt), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ) dành cho nam sinh. Các trường Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt, Trường Nữ Trung học Đồng Khánh (Huế),Trường Nữ Trung Học Hồng Đức (Đà Nẵng), Trường Nữ Trung học Bùi Thị Xuân (Đà Lạt), Trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân (Mỹ Tho), Trường Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ) chỉ dành cho nữ sinh. Học sinh trung học lúc bấy giờ phải mặc đồng phục: nữ sinh thì áo dài trắng, quần trắng hay đen; còn nam sinh thì mặc áo sơ mi trắng, quần màu xanh dương.[33]

Trung học tổng hợp

Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (tiếng Anh: comprehensive high school) là một chương trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm giáo dục của triết gia John Dewey, sau này được nhà giáo dục người Mỹ là James B. Connant hệ thống hóa và đem áp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ. Giáo dục trung học tổng hợp chú trọng đến khía cạnh thực tiễn và hướng nghiệp, đặt nặng vào các môn tư vấn, kinh tế gia đình, kinh doanh, công-kỹ nghệ, v.v… nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức thực tiễn, giúp họ có thể mưu sinh sau khi rời trường trung học. Ở từng địa phương, phụ huynh học sinh và các nhà giáo có thể đề nghị những môn học đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở nơi mình sinh sống.[34] Thời Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam chính phủ cho thử nghiệm chương trình trung học tổng hợp, nhập đệ nhất và đệ nhị cấp lại với nhau. Học trình này được áp dụng đầu tiên tại Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức, sau đó mở rộng cho một số trường như Nguyễn An Ninh (cho nam sinh; 93 đường Trần Nhân Tông, Quận 10) và Sương Nguyệt Anh (cho nữ sinh; góc đường Bà Hạt và Vĩnh Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và Chưởng binh Lễ ởLong Xuyên.[35]

Trung học kỹ thuật

Các trường trung học kỹ thuật nằm trong hệ thống giáo dục kỹ thuật, kết hợp việc dạy nghề với giáo dục phổ thông. Các học sinh trúng tuyển vào trung học kỹ thuật thường được cấp học bổng toàn phần hay bán phần. Mỗi tuần học 42 giờ; hai môn ngoại ngữ bắt buộc là tiếng Anh và tiếng Pháp.[36] Các trường trung học kỹ thuật có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố; ví dụ, công lập thì có Trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng (thành lập năm 1956; tiền thân là Trường Cơ khí Á châu thành lập năm 1906 ở Sài Gòn; nay là Trường Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng),[37], Trường Trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc, Trường Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ; tư thục thì có Trường Trung học Kỹ thuật Don Bosco (do các tu sĩ Dòng Don Bosco thành lập năm 1956 ở Gia Định; nay là Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh).[36][38]

Các trường tư thục và quốc gia nghĩa tử

Các trường tư thục và Bồ đề

Ngoài hệ thống trường công lập của chính phủ là hệ thống trường tư thục. Vào năm 1964 các trường tư thục giáo dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học sinh trung học.[12] Đến niên học 1970-1971 thì trường tư thục đảm nhiệm 17,7% học sinh tiểu học và 77,6% học sinh trung học.[39] con số này Tính đến năm 1975, Việt Nam Cộng hòa có khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh học ở hơn 1.000 trường tư thục ở cả hai cấp tiểu học và trung học.[40] Các trường tư thục nổi tiếng như Lasan Taberd dành cho nam sinh; Couvent des Oiseaux, Regina Pacis (Nữ vương Hòa bình), và Regina Mundi (Nữ vương Thế giới) dành cho nữ sinh. Bốn trường này nằm dưới sự điều hành của Giáo hội Công giáo. Trường Bác ái (Collège Fraternité) ở Chợ Quán với đa số học sinh là người Việt gốc Hoa cũng là một tư thục có tiếng do các thương hội người Hoa bảo trợ.[41] Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất có hệ thống các trường tiểu học và trung học Bồ đề ở nhiều tỉnh thành, tính đến năm 1970 trên toàn quốc có 137 trường Bồ đề, trong đó có 65 trường trung học với tổng số học sinh là 58.466. Ngoài ra còn có một số trường do chính phủ Pháp tài trợ như Marie-Curie, Colette, và Saint-Exupéry.[42] Kể từ năm 1956, tất cả các trường học tại Việt Nam, bất kể trường tư hay trường do ngoại quốc tài trợ, đều phải dạy một số giờ nhất định cho các môn quốc văn và lịch sử Việt Nam.[43] Chương trình học chính trong các trường tư vẫn theo chương trình mà Bộ Quốc gia Giáo dục đã đề ra, dù có thể thêm một số giờ hoặc môn kiến thức thêm. Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, tổng cộng có 1.087 trường tư thục ở miền Nam bị giải thể và trở thành trường công (hầu hết mang tên mới).[44]

Các trường Quốc gia Nghĩa tử

Ngoài hệ thống các trường công lập và tư thục kể trên, Việt Nam Cộng hòa còn có hệ thống thứ ba là các trường Quốc gia Nghĩa tử. Tuy đây là trường công lập nhưng không đón nhận học sinh bình thường mà chỉ dành riêng cho các con em của tử sĩ hoặc thương phế binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa như là một đặc ân của chính phủ giúp đỡ không chỉ phương tiện học hành mà cả việc nuôi dưỡng. Hệ thống này bắt đầu hoạt động từ năm 1963 ở Sài Gòn, sau khai triển thêm ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế, và Biên Hòa. Tổng cộng có 7 cơ sở với hơn 10.000 học sinh. Loại trường này do Bộ Cựu Chiến binh quản lý chứ không phải Bộ Quốc gia Giáo dục, nhưng vẫn dùng giáo trình của Bộ Quốc gia Giáo dục. Chủ đích của các trường Quốc gia Nghĩa tử là giáo dục phổ thông và hướng nghiệp cho các học sinh chứ không được huấn luyện quân sự.[45][46] Vì vậy trường Quốc gia Nghĩa tử khác trường thiếu sinh quân. Sau năm 1975, các trường Quốc gia Nghĩa tử cũng bị giải thể.

Giáo dục đại học

Học sinh đậu được Tú tài II thì có thể ghi danh vào học ở một trong các viện đại học, trường đại học, và học viện trong nước. Tuy nhiên, ở một số nơi vì số chỗ rất có giới hạn nên học sinh phải dự một kỳ thi tuyển có tính chọn lọc rất cao; các trường này thường là Y, Dược, Nha, Kỹ thuật, Quốc gia Hành chánh, và Sư phạm. Việc tuyển chọn dựa trên khả năng của thí sinh, hoàn toàn không xét đếnlý lịch gia đình. Sinh viên học trong các cơ sở giáo dục công lập thì không phải đóng tiền. Chỉ ở một vài trường hay phân khoa đại học thì sinh viên mới đóng lệ phí thi vào cuối năm học. Ngoài ra, chính phủ còn có những chương trình học bổng cho sinh viên.[18]

Chương trình học trong các cơ sở giáo dục đại học được chia làm ba cấp. Cấp 1 (học 4 năm): Nếu theo hướng các ngành nhân văn, khoa học, v.v.. thì lấy bằng cử nhân (ví dụ: cử nhân Triết, cử nhân Toán…); nếu theo hướng các ngành chuyên nghiệp thì lấy bằng tốt nghiệp (ví dụ: bằng tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm, bằng tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chánh…) hay bằng kỹ sư (ví dụ: kỹ sư Điện, kỹ sư Canh nông…). Cấp 2: học thêm 1-2 năm và thi lấy bằng cao học hay tiến sĩ đệ tam cấp (tiếng Pháp: docteur de troisième cycle; tương đương thạc sĩ ngày nay). Cấp 3: học thêm 2-3 năm và làm luận án thì lấy bằng tiến sĩ (tương đương với bằng Ph.D. của Hoa Kỳ). Riêng ngành y, vì phải có thời gian thực tập ở bệnh viện nên sau khi học xong chương trình dự bị y khoa phải học thêm 6 năm hay lâu hơn mới xong chương trình đại học.[49]

Phần lớn các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam thời Việt Nam Cộng hòa được tổ chức theo mô hình viện đại học. Đây là mô hình tương tự như university của Hoa Kỳ và Tây Âu, cùng với nó là hệ thống đào tạo theo tín chỉ. Mỗi viện đại học bao gồm nhiều phân khoa đại học (thường gọi tắt là phân khoa, ví dụ: Phân khoa Y, Phân khoa Sư phạm, Phân khoa Khoa học, v.v…) hoặc trường hay trường đại học (ví dụ: Trường Đại học Nông nghiệp, Trường Đại học Kỹ thuật, v.v…). Trong mỗi phân khoa đại học hay trường đại học có các ngành (ví dụ: ngành Điện tử, ngành Công chánh, v.v…); về mặt tổ chức, mỗi ngành tương ứng với một ban (tương đương với đơn vị khoa hiện nay).[50]

Trong thập niên 1960 và 1970, lúc hội nghị hòa bình diễn ra ở Paris, Việt Nam Cộng hòa ráo riết lên kế hoạch tái thiết hậu chiến, với viễn cảnh là hòa bình sẽ lập lại ở Việt Nam, một chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập, người lính từ các bên trở về cần được đào tạo để tái hòa nhập vào xã hội. Trong khuôn khổ kế hoạch đó, có hai mô hình cơ sở giáo dục đại học mới và mang tính thực tiễn được hình thành: trường đại học cộng đồng và viện đại học bách khoa.[51]

Trường đại học cộng đồng là một cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành. Sinh viên học ở đây để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học lớn, hoặc mở mang kiến thức, hoặc học nghề để ra làm việc. Các trường đại học cộng đồng được thành lập với sự tham gia đóng góp, xây dựng, và quản trị của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương trong các mặt văn hóa,xã hội, và kinh tế. Khởi điểm của mô hình giáo dục này là một nghiên cứu của ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào một luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học Nam California vào năm 1970 với tựa đề The Community College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam (Khái niệm trường đại học cộng đồng: Nghiên cứu sự phù hợp của nó với công cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam). Cơ sở đầu tiên được hình thành là Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang, thành lập vào năm 1971 ở Định Tường sau khi mô hình giáo dục mới này được mang đi trình bày sâu rộng trong dân chúng.[51]

Vào năm 1973, Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức được thành lập. Đây là một cơ sở giáo dục đại học đa ngành, đa lĩnh vực, và chú trọng đến các ngành thực tiễn. Trong thời gian đầu, Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức có các trường đại học chuyên về nông nghiệp, kỹ thuật, giáo dục, khoa học và nhân văn, kinh tế và quản trị, và thiết kế đô thị; ngoài ra còn có trường sau đại học. Theo kế hoạch, các cơ sở giáo dục đều được gom chung lại trong một khuôn viên rộng lớn, tạo một môi trường gợi hứng cho trí thức suy luận, với một cảnh trí được thiết kế nhằm nâng cao óc sáng tạo; quản lý hành chính tập trung để tăng hiệu năng và giảm chi phí.[51]

Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, toàn bộ các cơ sở giáo dục đại học thời Việt Nam Cộng hòa bị đổi tên và bị phân tán theo khuôn mẫu giáo dục của Liên Xô nên không còn mô hình theo đó các trường hay phân khoa đại học cấu thành viện đại học, mà mỗi trường trở nên biệt lập.[52] Giáo dục đại học Việt Nam dưới các chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo mô hình phân tán ngành học.[53]Các “trường đại học bách khoa” được thành lập dưới hai chính thể này không giống như mô hình viện đại học bách khoa vì chỉ tập trung vào các ngành kỹ thuật. Tương tự, mô hình “trường đại học tổng hợp” cũng chỉ tập trung vào các ngành khoa học cơ bản, chứ không mang tính chất toàn diện. Đến đầu thập niên 1990, chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mới thành lập hai “đại học” cấp quốc gia và ba “đại học” cấp vùng theo mô hình gần giống như mô hình viện đại học.[54] Vào tháng 10 năm 2009, một số đại biểu Quốc hội đưa ra đề nghị gọi tên các “đại học” cấp quốc gia và cấp vùng là “viện đại học”.[55]

Các viện đại học công lập

140412002

Học viện Quốc gia Hành chánh, đường Alexandre de Rhodes, Sài Gòn

•           Viện Đại học Sài Gòn: Tiền thân là Viện Đại học Đông Dương (1906), rồi Viện Đại học Quốc gia Việt Nam (1955) – còn có tên là Viện Đại học Quốc gia Sài Gòn. Năm 1957, Viện Đại học Quốc gia Việt Nam đổi tên thành Viện Đại học Sài Gòn. Đây là viện đại học lớn nhất nước. Trước năm 1964, tiếng Việt lẫn tiếng Pháp được dùng để giảng dạy ở bậc đại học, nhưng sau đó thì chỉ dùng tiếng Việt mà thôi theo chính sách ngôn ngữ theo đuổi từ năm 1955.[56] Riêng Trường Đại học Y khoa dùng cả tiếng Anh. Vào thời điểm năm 1970, hơn 70% sinh viên đại học trên toàn quốc ghi danh học ở Viện Đại học Sài Gòn.[57]

•           Viện Đại học Huế: Thành lập vào tháng 3 năm 1957 với 5 phân khoa đại học: Khoa học, Luật, Sư phạm, Văn khoa, và Y khoa.[58]

•           Viện Đại học Cần Thơ: Thành lập năm 1966 với 4 phân khoa đại học: Khoa học, Luật khoa & Khoa học Xã hội, Sư phạm, và Văn khoa.

•           Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức: Thành lập năm 1974. Tiền thân là Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật (1957), Học viện Quốc gia Kỹ thuật (1972).

Các viện đại học tư thục

•           Viện Đại học Đà Lạt: Thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1957. Một phần cơ sở của Viện Đại học Đà Lạt nguyên là một chủng viện của Giáo hội Công giáo. Viện đại học này có 4 phân khoa đại học: Chính trị Kinh doanh, Khoa học, Sư phạm, Thần học và Văn khoa. Theo ước tính, từ năm 1957 đến 1975 viện đại học này đã giáo dục 26.551 người.[59]

•           Viện Đại học Vạn Hạnh: Thuộc khối Ấn Quang của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất; thành lập ngày 17 tháng 10 năm 1964 ở số 222 đường Trương Minh Giảng (sau 1975 là đường Lê Văn Sỹ), Quận 3, Sài Gòn-Gia Định với 5 phân khoa đại học: Giáo dục, Phật học, Khoa học xã hội, Khoa học ứng dụng, và Văn học & Khoa học nhân văn. Vào đầu thập niên 1970, Vạn Hạnh có hơn 3.000 sinh viên.[60][61]

•           Viện Đại học Phương Nam: Được cấp giấy phép năm 1967, tọa lạc ở số 16 đường Trần Quốc Toản (sau năm 1975 là đường 3 Tháng Hai), Quận 10, Sài Gòn. Viện đại học này thuộc khối Việt Nam Quốc Tự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Giáo sư Lê Kim Ngân làm viện trưởng. Viện Đại học Phương Nam có 3 phân khoa đại học: Kinh tế-Thương mại, Ngoại ngữ, và Văn khoa. Vào thập niên 1970, viện đại học này có khoảng 750 sinh viên ghi danh.[60]

•           Viện Đại học An Giang (Hòa Hảo): Thành lập năm 1970 ở Long Xuyên với 5 phân khoa đại học: Văn khoa, Thương mại-Ngân hàng, Bang giao Quốc tế, Khoa học Quản trị và Sư phạm.[62] Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo.

•           Viện Đại học Cao Đài: Thành lập năm 1971 trên đường Ca Bảo Đạo[63] ở Tây Ninh với 3 phân khoa đại học: Thần học Cao Đài, Nông lâm mục, và Sư phạm.[64][65] Viện Đại học này trực thuộc Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh.

•           Viện Đại học Minh Đức: Được cấp giấy phép năm 1972, trụ sở ở Sài Gòn với 5 phân khoa đại học: Kỹ thuật Canh nông, Khoa học Kỹ thuật, Kinh tế Thương mại, Nhân văn Nghệ thuật, và Y khoa. Viện Đại học này do Giáo hội Công giáo điều hành.

Các học viện và viện nghiên cứu

Học viện Quốc gia Hành chánh, Học viện Quốc gia Nông nghiệp, Viện Hải dương học Nha Trang, và Viện Khảo cổ (Việt Nam Cộng hòa)

Phòng thí nghiệm ở Viện Pasteur Sài Gòn

•           Học viện Quốc gia Hành chánh: Cơ sở này được thành lập từ thời Quốc gia Việt Nam với văn bản ký ngày 29 tháng 5 năm 1950 nhằm đào tạo nhân sự chuyên môn trong lãnh vực công quyền như thuế vụ và ngoại giao. Trường sở đặt ở Đà Lạt; năm 1956 thì dời về Sài Gòn[66] đặt ở đường Alexandre de Rhodes; năm 1958 thì chuyển về số 100 đường Trần Quốc Toản (gần góc đường Cao Thắng, sau năm 1975 là đường 3 tháng 2), Quận 10, Sài Gòn.[67][68] Học viện này trực thuộc Phủ Thủ tướng hay Phủ Tổng thống, đến năm 1973 thì thuộc Phủ Tổng ủy Công vụ. Học viện có chương trình hai năm cao học, chia thành ba ban cao học, đốc sự, và tham sự.[69]

•           Học viện Quốc gia Nông nghiệp (1972-1974): tiền thân là Trường Cao đẳng Nông lâm súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972) rồi nhập vào Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức năm 1974.

•           Ngoài những học viện trên, Việt Nam Cộng hòa còn duy trì một số cơ quan nghiên cứu khoa học như Viện Pasteur Sài Gòn, Viện Pasteur Đà Lạt, Viện Pasteur Nha Trang, Viện Hải dương học Nha Trang, Viện Nguyên tử lực Đà Lạt, Viện Khảo cổ v.v. với những chuyên môn đặc biệt.[70]

Các trường đại học cộng đồng

Bắt đầu từ năm 1971 chính phủ mở một số trường đại học cộng đồng (theo mô hình community college của Hoa Kỳ) như Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang ở Mỹ Tho,[71] Duyên Hải ở Nha Trang,[72] Quảng Đà ở Đà Nẵng (1974),[73] và Long Hồ ở Vĩnh Long.[51] Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp; Trường Đại học Cộng đồng Duyên Hải hướng về ngư nghiệp.[72] Riêng Trường Long Hồ còn đang dang dở chưa hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán.[74] Ở Sài Gòn thì có Trường Đại học Regina Pacis (khai giảng vào năm 1973) dành riêng cho nữ sinh do Công giáo thành lập, và theo triết lý đại học cộng đồng.[72]

Các trường kỹ thuật và huấn nghệ

Ngoài những trường đại học còn có hệ thống trường cao đẳng như Trường Bách khoa Phú Thọ và Trường Nông lâm súc. Một số những trường này sang thập niên 1970 được nâng lên tương đương với cấp đại học.

•           Trường Quốc gia Nông lâm mục: Thoạt tiên là Nha Khảo cứu Đông Dương thành lập năm 1930 ở B’lao, cơ sở này đến năm 1955 thì nâng lên thành Trường Quốc gia Nông lâm mục với chương trình học bốn năm. Diện tích vườn thực nghiệm rộng 200 ha chia thành những khu chăn nuôi gia súc, vườn cây công nghiệp, lúa thóc.[75] Qua từng giai đoạn Trường đổi tên thành Trường Cao đẳng Nông lâm súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972), Học viện Quốc gia Nông nghiệp (1972-1974). Cuối cùng Trường Quốc gia Nông lâm mục được sáp nhập vào Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức (có trụ sở ở số 45 đường Cường Để, Quận 1, Sài Gòn). Trường còn có chi nhánh ở Huế,Cần Thơ, và Bình Dương.[76]

•           Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật Phú Thọ: Thành lập năm 1957 thời Đệ nhất Cộng hòa gồm bốn trường: Trường Cao đẳng Công chánh, Trường Cao đẳng Điện học, Trường Quốc gia Kỹ sư Công nghệ, và Trường Việt Nam Hàng hải. Năm 1968 lập thêm Trường Cao đẳng Hóa học. Năm 1972, Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật đổi thành Học viện Quốc gia Kỹ thuật và đến năm 1974 thì nhập với Trường Đại học Nông nghiệp để tạo nên Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức.[77][78]

•           Học viện Cảnh sát Quốc gia: Thành lập năm 1966 để đào tạo nhân viên giữ an ninh và thi hành luật pháp.[79]

Các giáo sư Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ đồng tấu: Trần Thanh Tâm (đờn kìm), Phan Văn Nghị (đờn cò), Trương Văn Đệ (đờn tam), Vũ Văn Hòa (sáo), và Nguyễn Vĩnh Bảo (đờn tranh).

Các trường nghệ thuật

•           Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ: Thành lập ngày 12 tháng 4 năm 1956 dưới thời Đệ nhất Cộng hòa. Chương trình học sau được bổ túc để bao gồm các bộ môn âm nhạc cổ điển Tây phương và truyền thống Việt Nam cùng kịch nghệ.[80]

•           Trường Quốc gia Âm nhạc Huế: Thành lập năm 1962 ở cố đô Huế,[81] chủ yếu dạy âm nhạc cổ truyền Việt Nam, dùng nhà hát Duyệt Thị Đường trong Kinh thành Huế làm nơi giảng dạy.[82]

•           Trường Quốc gia Trang trí Mỹ thuật: thành lập năm 1971, trên cơ sở nâng cấp Trường Trung học Trang trí Mỹ thuật Gia Định (tiền thân là Trường Mỹ nghệ Gia Định, thành lập năm 1940).

•           Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn: thành lập sau năm 1954; chuyên đào tạo về nghệ thuật tạo hình với các chương trình học 3 và 7 năm. Vị giám đốc đầu tiên là họa sĩ Lê Văn Đệ (1954-1966).

Sinh viên du học ngoại quốc

Một số sinh viên bậc đại học được cấp giấy phép đi du học ở nước ngoài. Hai quốc gia thu nhận nhiều sinh viên Việt Nam vào năm 1964 là Pháp (1.522) và Hoa Kỳ (399), đa số theo học các ngành khoa học xã hội và kỹ sư.[12]

Tài liệu và dụng cụ giáo khoa

140412001

Truyện Kiều bản chữ Nôm của Chiêm Vân Thị do Bộ Giáo dục xuất bản năm 1967

Năm 1958, chính phủ Đệ nhất Cộng hòa cho lập Ban Tu thư thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục để soạn, dịch, và in sách giáo khoa cho hệ thống giáo dục toàn quốc. Tính đến năm 1962, Bộ Quốc gia Giáo dục đã ấn hành xong 39 đầu sách tiểu học, 83 sách trung học, và 9 sách đại học.[83]

Các giáo chức và họa sĩ làm việc trong Ban Tu thư đã soạn thảo trọn bộ sách cho bậc tiểu học. Bộ sách này được đánh giá cao cả về nội dung lẫn hình thức. Có nhiều sách đã được viết, dịch, và phát hành để học sinh và sinh viên có tài liệu tham khảo. Phần lớn sách giáo khoa và trang thiết bị dụng cụ học tập do Trung tâm Học liệu của Bộ Giáo dục sản xuất và cung cấp với sự giúp đỡ của một số cơ quan nước ngoài. Trung tâm này còn hợp tác với UNESCO để viết và dịch sách dành cho thiếu nhi để giúp các em hiểu biết về các nền văn hóa khác nhau và tạo sự đoàn kết giữa các nhi đồng trên thế giới. Bộ Giáo dục cũng dành riêng ngân quỹ để in sách giáo khoa bậc tiểu học cho gần 30 sắc tộc thiểu số khác nhau ở Việt Nam.

Ngoài ra, để có sự thống nhất trong việc sử dụng các danh từ chuyên môn, Bộ Giáo dục cũng đã thiết lập Ủy ban Quốc gia Soạn thảo Danh từ Chuyên môn bao gồm nhiều giáo sư đại học. Ủy ban đã soạn thảo và, thông qua Trung tâm Học liệu, ấn hành những tập đầu tiên trong lĩnh vực văn học và khoa học.[84] Trong những dự án đó Bộ cho in lại nguyên bản Truyện Kiều bằng chữ Nôm.

Nhà giáo

Đào tạo giáo chức

Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn (thành lập vào năm 1957) là cơ sở sư phạm đầu tiên, bắt đầu khai giảng năm 1958.[85] Sau có thêm các trường cao đẳng sư phạm ở Ban Mê Thuột, Huế, Vĩnh Long, Long An, và Quy Nhơn[86] Nha Trang, Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên.[87] Ngoài ra còn có Trường Đại học Sư phạm Huế thuộc Viện Đại học Huế và Trường Đại học Sư phạm Đà Lạt thuộc Viện Đại học Đà Lạt.[88] Vào thời điểm năm 1974, cả nước có 16 cơ sở đào tạo giáo viên tiểu học với chương trình hai năm còn gọi là chương trình sư phạm cấp tốc. Chương trình này nhận những ai đã đậu được bằng Trung học Đệ nhất cấp.[89] Hằng năm chương trình này đào tạo khoảng 2.000 giáo viên tiểu học.[90] Giáo viên trung học thì phải theo học chương trình của trường đại học sư phạm (2 hoặc 4 năm).[91] Sinh viên các trường sư phạm được cấp học bổng nếu ký hợp đồng 10 năm làm việc cho nhà nước ở các trường công lập sau khi tốt nghiệp.[92]

Nha Sư phạm (thuộc Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên) và các trường sư phạm thường xuyên tổ chức các chương trình tu nghiệp và các buổi hội thảo giáo dục để giáo chức có dịp học hỏi và phát triển nghề nghiệp. Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên cũng gởi gởi nhiều giáo chức đi tu nghiệp ở các nước như Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Nhật, Đức, v.v…[88]

Đối với giáo sư đại học thì đa số xuất thân từ Viện Đại học Đông Dương ở Hà Nội từ trước năm 1954. Số khác được đào tạo ở Pháp, Đức và Mỹ. Vào năm 1970 tổng cộng có 941 giáo sư giảng dạy ở các trường đại học của Việt Nam Cộng hòa.[57]

Trường Đại học Sư phạm, một trường thành viên của Viện Đại học Sài Gòn

Đời sống và tinh thần giáo chức

Chỉ số lương của giáo viên tiểu học mới ra trường là 250, giáo học bổ túc hạng 5 là 320, giáo sư trung học đệ nhất cấp hạng 4 là 400, giáo sư trung học đệ nhị cấp hạng 5 là 430, hạng 4 là 470. Với mức lương căn bản như vậy, cộng thêm phụ cấp sư phạm, nhà giáo ở các thành phố thời Đệ nhất Cộng hòa có cuộc sống khá thoải mái, có thể mướn được người giúp việc trong nhà. Sang thời Đệ nhị Cộng hòa, đời sống bắt đầu đắt đỏ, vật giá leo thang, nhà giáo cảm thấy chật vật hơn, nhất là ở những thành phố lớn như Sài Gòn và Đà Nẵng. Tuy vậy, lúc nào các nhà giáo cũng giữ vững tinh thần và tư cách của nhà mô phạm (người mẫu mực, người đóng vai trò hình mẫu), từ cách ăn mặc thật đứng đắn đến cách ăn nói, giao tiếp với phụ huynh và học sinh, và với cả giới chức chính quyền địa phương.[88]

Thi cử và đánh giá kết quả học tập

Đề thi trắc nghiệm đã được sử dụng cho môn Công dân, Sử, Địa trong các kỳ thi Tú tài I và Tú tài II từ niên khóa 1965-1966. Đến năm 1974, toàn bộ các môn thi trong kỳ thi tú tài gồm toàn những câu trắc nghiệm. Các vị thanh tra trong ban soạn đề thi đều phải đi dự lớp huấn luyện về cách thức soạn câu hỏi, thử nghiệm các câu hỏi với trên 1.800 học sinh ở nhiều nơi, phân tích câu trả lời của học sinh để tính độ khó của câu hỏi và trả lời để lựa chọn hoặc điều chỉnh câu hỏi trắc nghiệm cho thích hợp.[29]

Đầu những năm 1970, Nha Khảo thí của Bộ Quốc gia Giáo dục đã ký hợp đồng với công ty IBM để điện toán hóa toàn bộ hồ sơ thí vụ, từ việc ghi danh, làm phiếu báo danh, chứng chỉ trúng tuyển… đến các con số thống kê cần thiết. Bảng trả lời cho đề thi trắc nghiệm được đặt từ Hoa Kỳ, và bài làm của thí sinh được chấm bằng máy IBM 1230. Điểm chấm xong từ máy chấm được chuyển sang máy IBM 534 để đục lỗ. Những phiếu đục lỗ này được đưa vào máy IBM 360 để đọc điểm, nhân hệ số, cộng điểm, tính điểm trung bình, độ lệch chuẩn, chuyển điểm thô ra điểm tiêu chuẩn, tính thứ hạng trúng tuyển v.v… Nhóm mẫu (sample) và nhóm định chuẩn (norm group) được lựa chọn kỹ càng theo đúng phương pháp của khoa học thống kê để tính điểm trung bình và độ lệch tiêu chuẩn.[29]

Tổ chức quản trị

Hệ thống quản trị giáo dục

Bản đồ hành chính với địa giới các tỉnhcủa Việt Nam Cộng hòa và bốn khu học chánh (cũng tương ứng với bốn vùng chiến thuật)

Dưới thời Đệ nhất Cộng hòa, Bộ Quốc gia Giáo dục có Tổng Nha Trung Tiểu học và Bình dân Giáo dục phụ trách giáo dục tiểu học và trung học; đứng đầu là một Tổng Giám đốc. Tổng Nha này (văn phòng đặt tại số 7 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sài Gòn) bao gồm Nha Trung học, Nha Tiểu học, Nha Tư thục, Sở Khảo thí, và Ban Thanh tra và Soạn Đề thi. Ở địa phương, mỗi tỉnh có một Ty Tiểu học để quản lý tất cả các trường tiểu học trong tỉnh. Nhưng các trường trung học ở Sài Gòn và ở các tỉnh lỵ và quận lỵ đều làm việc thẳng với Nha Trung học ở Tổng Nha. Khi số trường trung học gia tăng quá nhiều thi Nha Trung học hoạt động không còn hữu hiệu nữa. Ở tại các tỉnh, hiệu trưởng trường trung học tỉnh lỵ kiêm luôn việc kiểm soát các trường bán công và tư thụckhiến vị trí công việc này rất nặng nề.[93] Năm 1958 lập Ban Tu thư để soạn sách giáo khoa, phần lớn in ở ngoại quốc với viện trợ của Mỹ.[94]

Tháng 6 năm 1971, dưới thời Đệ nhị Cộng hòa, Bộ Quốc gia Giáo dục mở rộng thành Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên (VH-GD-TN). Cơ quan đầu não của Bộ bào gồm: Một Tổng trưởng (ngày nay gọi là Bộ trưởng), một Thứ trưởng, và bốn Phụ tá đặc biệt (ngang hàng thứ trưởng) đặc trách Trung Tiểu học và Bình dân Giáo dục, Văn hóa, Thanh niên, và Kế hoạch. Điều hành văn phòng cơ quan đầu não có Đổng lý văn phòng (chức vụ này bị bãi bỏ từ năm 1974), Chánh văn phòng của Tổng trưởng, Chánh văn phòng của Thứ trưởng, Bí thư của Tổng trưởng, Bí thư của Thứ trưởng, Tham chánh Văn phòng của Tổng trưởng, các Công cán Ủy viên của Tổng trưởng, Thứ trưởng, Phụ tá đặc biệt, và một số Thanh tra đặc biệt tại Bộ.[93]

Tổng thư ký và Phó tổng thư ký của Bộ trông coi khối điều hành ở trung ương với 13 nha, 1 sở, và 1 trung tâm: (1) Nha Sưu tầm và Nghiên cứu Giáo dục, (2) Nha Kế hoạch và Pháp chế, (3) Nha Học chánh (tức là Quản trị Giáo dục), (4) Nha Sinh hoạt Học đường, (5) Nha Sinh hoạt Văn hóa, (6) Nha Sinh hoạt Thanh niên, (7) Nha Công tác Quốc tế, (8) Nha Sư phạm và Tu nghiệp, (9) Nha Khảo thí, (10) Nha Y tế Học đường, (11) Nha Nhân viên, (12) Nha Tài chính, (13) Nha Tạo tác (tức là Kiến thiết và Hậu cần), (14) Sở Văn thư, và (15) Trung tâm Học liệu. Thanh Tra Đoàn được lập ở trung ương, bên cạnh khối điều hành của Tổng thư ký. Tổng Nha Trung Tiểu học và Bình Dân Giáo dục được giải tán và tất cả các công việc thuộc Tổng Nha được đưa về Bộ và nằm dưới sự điều hành trực tiếp của Phụ tá đặc biệt đặc trách Trung Tiểu học và Bình Dân Giáo dục.[93]

Vào năm 1972, Bộ VH-GD-TN thiết lập 4 Khu Học chánh để đại diện cho Bộ ở 4 vùng chiến thuật (quân khu) để đôn đốc, kiểm soát và giúp đỡ công việc văn hóa, giáo dục, và thanh niên ở các tỉnh thuộc phạm vi quân khu của mình. Đây là một cơ quan hoạt động rất hữu hiệu. Tuy nhiên vì ngân sách eo hẹp và vì nhu cầu cải tổ công vụ trên toàn quốc nên Khu Học chánh bị giải tán sau hơn một năm hoạt động. Tại mỗi tỉnh, Bộ VH-GD-TN cho thiết lập một Sở Học chánh để phụ trách tất cả các công việc liên quan đến văn hóa và giáo dục trong tỉnh; Ty Tiểu học được sáp nhập vào Sở Học chánh. Bộ VH-GD-TN mong muốn rằng cơ quan học chánh ở mỗi tỉnh phải có địa vị quan trọng và càng ít bị áp lực của địa phương càng tốt cho nên đã nâng cơ quan này lên thành Sở. Tuy vậy, do tình hình đất nước, điều này không thể thực hiện được, và công cuộc cải tổ công vụ toàn quốc đã đưa đến quyết định chuyển Sở Học chánh thành Ty Văn hóa Giáo dục tại địa phương từ năm 1974. Trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa lúc này có 50 Ty Văn hóa Giáo dục đặt tại 48 tỉnh lỵ và 2 thị xã.[93]

Về mặt ngân sách vào thời điểm năm 1961 thời Đệ nhất Cộng hòa với ngân sách quốc gia là 15.276 triệu đồng, chính phủ chi 811,4 triệu cho ngân sách giáo dục; chính quyền địa phương góp 563,3 triệu đồng tính tổng cộng là 8,99% ngân sách quốc gia.[70]

Bộ Quốc gia Giáo dục còn điều hành Viện Khảo cổ và quản lý các viện bảo tàng quốc gia như Viện Bảo tàng Quốc gia Việt Nam ở Sài Gòn, Viện Bảo tàng Huế và Viện Bảo tàng Chàm.

Giáo dục là của những người làm giáo dục

Ở Việt Nam, ngay từ thời xa xưa, giáo dục là của những người làm giáo dục. Các vương triều của Việt Nam thường chỉ vạch ra những đường nét chung và những mục tiêu chung, kèm theo đó là tổ chức các kỳ thi để tuyển chọn người tài mà không trực tiếp can dự vào hoạt động giảng dạy của các cơ sở giáo dục. Sang thời Pháp thuộc, người Pháp lập ra một nền giáo dục mới, nhưng việc điều hành và soạn thảo chương trình vẫn được giao cho các nhà giáo được huấn luyện chuyên môn, dù là người Pháp hay người Việt.[95]

Đặc điểm trên được tôn trọng trong suốt thời Quốc gia Việt Nam của Cựu hoàng Bảo Đại và đặc biệt là thời Việt Nam Cộng hòa. Các chức vụ bộ trưởng hay tổng trưởng giáo dục có thể là do các chính trị gia hay những người thuộc các ngành khác đảm nhiệm, nhưng các chức vụ khác trong Bộ Giáo dục đều là những nhà giáo chuyên nghiệp đảm trách (ngoài trừ một số chức vụ có tính chất chính trị như đổng lý văn phòng, bí thư, v.v…). Họ là những người am hiểu công việc, có kinh nghiệm, giàu tâm huyết, và xem chính trị chỉ là nhất thời, tương lai của dân tộc mới quan trọng. Trong các cơ quan lập pháp, những người đứng đầu các ủy ban hay tiểu ban giáo dục của Thượng viện và Hạ viện (của Quốc hội Việt Nam Cộng hòa) đều là những nghị sĩ quốc hội xuất thân từ nhà giáo. Ngoại trừ ở những vùng mất an ninh, những gì thuộc phạm vi chính trị nhất thời đều ngưng lại trước ngưỡng cửa học đường.[95]

Riêng trong lĩnh vực giáo dục đại học, Điều 10 của Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa (1967) nêu rõ: Nền giáo dục đại học được tự trị.[2] Ở miền Nam trước 1975 không có “Bộ Đại học” cũng không có cơ quan chủ quản kiểu như Bộ Y tế quản lý các trường đại học Y-Dược. Trong ban lãnh đạo của Bộ Quốc gia Giáo dục của Việt Nam Cộng hòa có một thứ trưởng đặc trách giáo dục đại học. Công việc của vị này chủ yếu là lo về chính sách chung vì các viện đại học là cơ quan ngoại vi đối với Bộ ở trung ương. Về học vụ và điều hành, các cơ sở giáo dục đại học được tự trị. Các hội đồng ở cấp viện đại học và cấp trường đại học (hay phân khoa đại học) có quyền thảo luận và quyết định mà không phải trình báo hay xin chỉ thị từ bất cứ ai.[50] Các hiệu trưởng hay khoa trưởng của các trường đại học hay phân khoa đại học khong do Bộ Quốc gia Giáo dục bổ nhiệm mà do các giáo sư của Hội đồng Khoa bầu lên.[96]

Về mặt tài chính, tuy các viện đại học công lập có ngân sách riêng nhưng đây là một phần của ngân sách chung thuộc ngân sách quốc gia và phải được Quốc hội chấp thuận. Tất cả các chi tiêu phải qua thủ tục “chiếu hội ngân sách” (“chiếu hội”=kiểm nhận) do Bộ Tài chính kiểm soát và thực hiện. Ngoài ra, giảng viên và nhân viên là công chức quốc gia. Việc tuyển mới, chuyển ngạch, bổ nhiệm, thăng chức, v.v… phải qua thủ tục “chiếu hội công vụ” do Phủ Tổng ủy Công vụ thực hiện để kiểm soát. Trong thực tế, thủ tục này được thực hiện một cách khá dễ dàng và nhanh chóng. Như vậy, về mặt tài chính các viện đại học công lập ở miền Nam không được nhiều quyền tự trị như các viện đại học ởHoa Kỳ. Lý do của việc này là do các viện đại học này không thu học phí của sinh viên, không có nguồn thu riêng.[50]

Các kỳ đại hội giáo dục quốc gia

•           Đại hội Giáo dục Quốc gia lần I: tổ chức ở Sài Gòn vào năm 1958. Triết lý giáo dục nhân bản – dân tộc – khai phóng được chính thức hóa ở hội nghị này.[97]

•           Đại hội Giáo dục Quốc gia lần II: tổ chức ở Sài Gòn vào năm 1964. Đại hội này tái xác nhận ba nguyên tắc căn bản nhân bản – dân tộc – khai phóng và tổ chức lại hệ thống học đường nhấn mạnh đến sự học tập liên tục từ lớp 1 đến lớp 12.[97]

Một số nhà lãnh đạo giáo dục tiêu biểu

Trong suốt thời gian 20 năm tồn tại, các vị tổng trưởng (tức bộ trưởng) và thứ trưởng giáo dục của Việt Nam Cộng hòa đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở miền Nam Việt Nam. Sau đây là vài nhà lãnh đạo tiêu biểu:[98]

•           Phan Huy Quát: sinh năm 1911, mất năm 1979; Tổng trưởng Giáo dục Quốc gia Việt Nam 1949. Ông mất trong tù cải tạo dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

•           Nguyễn Thành Giung: sinh năm 1894 tại Sa Đéc; tiến sĩ vạn vật học (Viện Đại học Khoa học Marseille); Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục 1952-1953 thời Quốc gia Việt Nam, kiêm Phó Viện trưởng Viện Đại học Hà Nội.[99]

•           Trần Hữu Thế: sinh năm 1922 tại Mỹ Tho, mất năm 1995 tại Pháp; tiến sĩ khoa học (1952), từng dạy học ở Lyon (Pháp) và làm giáo sư ở Trường Đại học Khoa học thuộc Viện Đại học Sài Gòn; từ 1958 đến 1960 làm Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục; từng làm Đại sứ của Việt Nam Cộng hòa tại Philippines. Dưới thời Bộ trưởng Trần Hữu Thế, số lượng học sinh, sinh viên gia tăng nhanh chóng, và nhiều cải tiến trong giáo dục đã được thực hiện. Cùng thời kỳ này, Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) được tổ chức ở Sài Gòn vào năm 1958 chính thức hóa ba nguyên tắc nhân bản, dân tộc, và khai phóng làm nền tảng cho triết lý giáo dục Việt Nam Cộng hòa.

•           Nguyễn Văn Trường: sinh năm 1930 tại Vĩnh Long; giáo sư tại Viện Đại học Huế; hai lần đảm trách chức vụ Tổng trưởng Giáo dục thời kỳ chuyển tiếp giữa Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa. Ông là người tích cực vận động và đóng góp vào sự ra đời của Viện Đại học Cần Thơ vào năm 1966.

•           Trần Ngọc Ninh: sinh năm 1923 tại Hà Nội; bác sĩ giải phẫu và giáo sư Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, giáo sư Văn minh Đại cương và Văn hóa Việt Nam tại Viện Đại học Vạn Hạnh; Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Giáo dục thời kỳ chuyển tiếp giữa Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa.[100]

•           Lê Minh Trí: bác sĩ y khoa tai-mũi-họng, giáo sư Trường Đại học Y khoa Sài Gòn,[101] làm Tổng trưởng Giáo dục bị ám sát bằng lựu đạn năm 1969.[102]

•           Nguyễn Lưu Viên: sinh năm 1919; bác sĩ, từng làm việc tại Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, Bệnh viện Chợ Rẫy, và Viện Pasteur Sài Gòn; từ 1969 đến 1971 làm Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Giáo dục rồi Phó thủ tướng kiêm Trưởng Phái đoàn Việt Nam Cộng hòa ở Hội nghị La Celle Saint Cloud trong chính phủ Trần Thiện Khiêm.

•           Ngô Khắc Tĩnh: sinh năm 1922 tại Phan Rang, mất năm 2005 tại Hoa Kỳ; dược sĩ (tốt nghiệp ở Pháp); từ năm 1971 đến 1975 làm Tổng trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên; từ năm 1975 đến 1988 bị tù cải tạo dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

•           Đỗ Bá Khê: sinh năm 1922 tại Mỹ Tho, mất năm 2005 tại Hoa Kỳ; tiến sĩ giáo dục (Viện Đại học Nam California); Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên thời Đệ nhị Cộng hòa. Ông là người đã thiết lập hệ thống các trường đại học cộng đồng ở miền Nam Việt Nam và được xem là “cha đẻ của các trường đại học cộng đồng Việt Nam”. Ông còn thiết lập Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức vào năm 1974 dựa theo mô hình của các viện đại học bách khoa ởCalifornia (Hoa Kỳ) và làm việc với vai trò viện trưởng sáng lập của viện đại học này.

•           Nguyễn Thanh Liêm: sinh năm 1934 tại Mỹ Tho; tiến sĩ giáo dục (Viện Đại học Iowa State, Hoa Kỳ); Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên thời Đệ nhị Cộng hòa.

•           Các Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục: Vương Quang Nhường, Nguyễn Dương Đôn, Nguyễn Quang Trình

Trợ giúp của quốc tế

Những nỗ lực phát triển giáo dục của Việt Nam Cộng hòa nhận được sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế và nhiều nước trên thế giới. Một vài ví dụ có thể kể đến: UNESCO giúp thiết lập một hệ thống các trường tiểu học cộng đồng. UNDP giúp đỡ trang thiết bị cho Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật Phú Thọ. New Zealand xây dựng các tòa nhà cho Trường Đại học Khoa học thuộc Viện Đại học Sài Gòn. Phápcung cấp nhiều giáo sư, trang thiết bị, khoản tài trợ giúp phát triển nhân sự, đặc biệt là trong lĩnh vực toán học hiện đại. Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức) giúp xây dựng và cung cấp trang thiết bị cho một trường trung học kỹ thuật, ngoài ra còn hỗ trợ Trường Đại học Y khoa của Viện Đại học Huế, v.v…[103]

Phần lớn sự trợ giúp đến từ Hoa Kỳ. Trong đó có sự giúp đỡ trong việc ấn loát sách giáo khoa, xây dựng Trường Đại học Sư phạm của Viện Đại học Sài Gòn và các trường sư phạm khác ở các tỉnh, 11.000 phòng học trong các ấp chiến lược, 18 trường trung học kỹ thuật, một trung tâm y khoa cho Viện Đại học Sài Gòn, một trường sư phạm và cùng với nó là một trường trung học kiểu mẫu, một trường sư phạm kỹ thuật, một trường đại học nông nghiệp, một trường đại học kỹ thuật, một trung tâm hành chính cho viện đại học, v.v… Tất cả các chương trình này được thực hiện thông qua các nhóm chuyên gia gồm các giáo sư, nhà quản trị, và sinh viên của các viện đại học Hoa Kỳ.[103]

Chữ viết

Vào thời đó, chính tả tiếng Việt khác với bây giờ ít nhiều. Điểm khác biệt gồm có việc dùng gạch nối “-” giữa các từ trong một từ kép, ví dụ như “ngân-hàng”, “Việt-Nam”. Cách viết tên riêng thì có khi viết thành “Nguyễn-văn-Mỗ” thay vì viết hoa mỗi chữ (Nguyễn Văn Mỗ). Những khác biệt này không phải do chính quyền tạo ra hay chỉ mới xuất hiện vào thời buổi đó mà đúng ra là tiếp nối cách viết từ thời tiền chiến.

Đánh giá

Lời đánh giá về nền giáo dục Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa trên trang mạng chính thức của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bình Định: “Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, đế quốc Mỹ đã thay chân Pháp, nhảy vào miền Nam Việt Nam. Mỹ-ngụy đã cố sử dụng giáo dục làm công cụ xâm lược Việt Nam. Chúng đã gieo rắc trong học sinh, sinh viên tư tưởng hoài nghi, mơ hồ, tư tưởng an phận, sợ Mỹ, phục Mỹ. Chúng phát triển trong học sinh, sinh viên lối sống thực dụng, quay lưng với hiện tại, chấp nhận cuộc sống vị kỷ ương hèn… Mặt khác, Mỹ-ngụy tìm mọi cách tiêu diệt nền giáo dục cách mạng, tìm cách ngăn chặn, loại trừ những mầm mống cách mạng trong nhà trường.”[104][105] Trong một giáo án về Lịch sử Giáo dục huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị: “Giáo dục Mỹ-ngụy tuy có phát triển về số lượng và có những cải cách nhất định, nhưng không thoát khỏi mục đích nô dịch, thống trị.”[106]

Từ ngày 7 đến ngày 28 tháng 6 năm 1975 (tức là sáu tuần sau sự kiện ngày 30 tháng 4), Arthur W. Galston, giáo sư sinh học ở Viện Đại học Yale, viếng thăm miền Bắc Việt Nam (lúc đó vẫn là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Theo tường trình của Galston cho tạp chí Science số ra ngày 29 tháng 8 năm 1975 thì một trong những chủ đề khiến các nhà lãnh đạo miền Bắc bận tâm vào lúc đó là vấn đề thống nhất với miền Nam. Theo tạp chí Science thì “Việc thống nhất trong lĩnh vực khoa học và giáo dục có lẽ sẽ có nhiều khó khăn vì hai miền đã phát triển theo hai chiều hướng khác nhau trong nhiều thập niên. Nhưng dù cho có nhiều khó khăn, Galston nhận thấy các nhà lãnh đạo miền Bắc công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với nhiều đặc điểm của nền khoa học và giáo dục ở miền Nam; họ dự định kết hợp những đặc điểm này vào miền Bắc khi quá trình thống nhất đang được thảo luận sôi nổi vào lúc đó thực sự diễn ra.” Theo Galston, các nhà lãnh đạo miền Bắc, cụ thể được nhắc đến trong bài là Nguyễn Văn Hiệu (Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam) và Phạm Văn Đồng (Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), đặc biệt quan tâm đến hệ thống giáo dục nhấn mạnh đến các ngành kỹ thuật và điện tử cùng hệ thống các trường đại học cộng đồng hệ hai năm đã được thiết lập ở miền Nam.[107]

Lời chứng và đánh giá của ông Mai Thái Lĩnh, cựu sinh viên Viện Đại học Đà Lạt,[108] nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố Đà Lạt dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: “Tôi là con của một cán bộ Việt Minh – tham gia Cách mạng tháng Tám tại Lâm Đồng sau đó tập kết ra miền Bắc […] Chế độ Việt Nam Cộng hòa lúc đó biết lý lịch của tôi, nhưng vẫn không phân biệt đối xử, cho nên tôi vẫn có thể học hành đến nơi đến chốn. Tính chất tốt đẹp của nền giáo dục cũ của miền Nam là điều tôi công khai thừa nhận, vì vậy suốt 14 năm phục vụ trong ngành giáo dục “xã hội chủ nghĩa” (1975-1989), tôi bị người ta gán cho đủ thứ nhãn hiệu, chụp cho nhiều thứ mũ chỉ vì tôi nêu rõ những ưu điểm của nền giáo dục cũ cần phải học hỏi. Chính là do thừa hưởng nền giáo dục đó của miền Nam mà tôi có được tính độc lập trong tư duy, không bao giờ chịu nô lệ về tư tưởng…”[109]

Đánh giá của nhà phê bình văn học Thụy Khuê: “Có thể nói, trong suốt thời gian chia đôi đất nước, mặc dù với những tệ nạn của xã hội chiến tranh, tham nhũng; miền Nam vẫn có một hệ thống giáo dục đứng đắn. Trong chương trình giáo khoa, các giai đoạn lịch sử và văn học đều được giảng dậy đầy đủ, không thiên hướng. Ở bậc trung học học sinh gặt hái những kiến thức đại cương về sử, về văn, và tới trình độ tú tài, thu thập những khái niệm đầu tiên về triết học. Lên đại học, sinh viên văn khoa có dịp học hỏi và đào sâu thêm về những trào lưu tư tưởng Đông Tây, đồng thời đọc và hiểu được văn học nước ngoài qua một nền dịch thuật đáng tin cậy, dịch được những sách cơ bản. Nguyễn Văn Trung trong hồi ký đã nhấn mạnh đến sự tự trị của đại học, nhờ sự tự trị này mà các giáo sư có quyền giảng dạy tự do, không bị áp lực chính trị của chính quyền. Chính điều kiện giáo dục này, đã cho phép miền Nam xây dựng được một tầng lớp trí thức, một tầng lớp văn nghệ sĩ và một quần chúng độc giả; giúp cho nhiều nhà văn có thể sống bằng nghề nghiệp của mình. Và cũng chính tầng lớp trí thức và sinh viên này đã là đối trọng, chống lại chính quyền, khi có những biến cố chính trị lớn như việc đàn áp Phật giáo thời ông Diệm và việc đấu tranh chống tham nhũng (như vụ báo Sóng Thần) thời ông Thiệu.”[110]

Chú thích

1.         ^ a ă â Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 24-26.

2.         ^ a ă “Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1967”. ‘Điều 26, Hiến pháp năm 1956: “Quốc gia cố gắng cho mọi người dân một nền giáo dục cơ bản có tính cách bắt buộc và miễn phí. Mọi người dân có quyền theo đuổi học vấn. Những người có khả năng mà không có phương tiện riêng sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn. Quốc gia thừa nhận phụ huynh có quyền chọn trường cho con em, các đoàn thể và tư nhân có quyền mở trường theo điều kiện luật định. Quốc gia có thể công nhận các trường tư thục đại học và cao đẳng chuyên nghiệp hội đủ điều kiện luật định. Văn bằng do những trường ấy cấp phát có thể được Quốc gia thừa nhận.” Điều 10, Hiến pháp năm 1967: “1- Quốc gia công nhận quyền tự do giáo dục. 2- Nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí. 3- Nền giáo dục đại học được tự trị. 4- Những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn. 5- Quốc gia khuyến khích và nâng đỡ các công dân trong việc nghiên cứu và sáng tác về khoa học, văn học và nghệ thuật.” Điều 11 phát biểu: “1- Văn hóa giáo dục phải được đặt vào hàng quốc sách trên căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản. 2- Một ngân sách thích đáng phải được dành cho việc phát triển văn hóa giáo dục.”’

3.         ^ “Lịch sử độc lập và nội các đầu tiên Việt Nam”. Việt Đông xuất bản cục. 1945. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2013.

4.         ^ a ă â Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 19-21.

5.         ^ Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 22-23.

6.         ^ Nguyen Van Canh, tr. 156

7.         ^ “Giáo dục Việt Nam Cộng hòa”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

8.         ^ Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 54.

9.         ^ a ă Nguyen Ngoc Bich, tr. 46.

10.       ^ a ă â Trần Văn Lục. Một thời để nhớ: những sự thật về cố Tổng thống Ngô Đình Diệm và nền Đệ nhất Cộng hòa. Westminster, CA: Nguyệt san Diễn đàn Giáo dân, 2011. tr 265-266.

11.       ^ a ă â Phan Xuân Hòa. Việt Nam gấm vóc. Paris: Institut de l’Asie du Sud-est, 1960?. Trang 268-9.

12.       ^ a ă â b c d Smith, Harvey et al. Area Handbook for South Vietnam. Washington, DC: US Government Printing Office, 1967. 146-56.

13.       ^ Sales, Jeanne M. tr 7

14.       ^ Smith, Harvey et al. tr 148

15.       ^ a ă â b c d Embassy of Viet-Nam. “Secondary Education in Viet-Nam”. Viet-Nam Bulletin No 36, Oct 1970. Washington, DC.

16.       ^ a ă Nguyen Ngoc Bich et al., tr. 43.

17.       ^ a ă Nguyen Ngoc Bich et al., tr. 47.

18.       ^ a ă Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 28-29.

19.       ^ “Báo Người Việt: Giáo dục thời Việt Nam Cộng hòa”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

20.       ^ Masur, Matthew B., tr. 58.

21.       ^ Smith, Harvey et al., tr. 148.

22.       ^ Nguyễn Thanh Liêm, tr. 28.

23.       ^ “Giáo dục thời Việt Nam Cộng hòa”. Báo Người Việt. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

24.       ^ “Lược sử Vovinam”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

25.       ^ “Nền giáo dục Phú Yên từ 1611 đến 1975″ do Hội Đồng hương Phú Yên soạn

26.       ^ “Sơ lược về Trường Trần Bình Trọng Ninh Hòa”

27.       ^ “Phân ban trung học”. Vietnamnet. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

28.       ^ Nguyen Thanh Liem (2006), tr. 32.

29.       ^ a ă â Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 38-44.

30.       ^ Smith, Harvey et al. tr 149

31.       ^ “Sự Giáo dục và Thi cử ở Việt Nam qua các thời đại, phần 7”. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2010.

32.       ^ “Xếp hạng trong các kỳ thi trung và đại học”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

33.       ^ “Nhớ lại trường trung học Hoàng Diệu, Ba Xuyên”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

34.       ^ Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 189-198.

35.       ^ “Phát triển thư viện tại Miền Nam trước năm 1975”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

36.       ^ a ă Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 199-213.

37.       ^ Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 284-285.

38.       ^ “Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh”. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2010.

39.       ^ Education and Poverty in Vietnam. tr 14

40.       ^ “Education – Vietnam”. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2010.

41.       ^ “Collège Fraternité”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

42.       ^ “Dòng La San”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

43.       ^ Smith, Harvey et al. tr 153

44.       ^ Nguyen Van Canh, tr. 157.

45.       ^ Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 312-317.

46.       ^ “Gia đình Quốc gia Nghĩa tử”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

47.       ^ Press Information Office. Embassy of the Republic of Viet-Nam. News from Viet-Nam. Trang 9.

48.       ^ Giáo dục Việt Nam

49.       ^ Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 174-175.

50.       ^ a ă â Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 168-169.

51.       ^ a ă â b Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 152-157.

52.       ^ The Higher Education System in Vietnam

53.       ^ “Đào tạo liên thông và chuyển tiếp của Trường CĐCĐ”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

54.       ^ “Về xu hướng hội nhập giáo dục đại học trên thế giới”. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2010.

55.       ^ “Báo cáo tổng hợp ý kiến thảo luận ở tổ của đại biểu quốc hội về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục ngày 28 tháng 10 năm 2009 (mục 8)”. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2010.

56.       ^ Masur, Matthew B., tr. 61.

57.       ^ a ă “Higher Education”. Viet Nam Magazine. Vol IV, No 5, 1971. tr 4-15

58.       ^ Sales, Jeanne M., tr. 8.

59.       ^ “Viện Đại học Đà Lạt giữa lòng dân tộc Việt Nam”. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.

60.       ^ a ă “Hội thảo 300 năm Phật giáo Gia Định-Sài Gòn-Tp. Hồ Chí Minh”. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.

61.       ^ “Viện Đại học Vạn Hạnh”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.[liên kết hỏng]

62.       ^ “Niên biểu An Giang qua các thời kỳ”. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.

63.       ^ “Giáo dục Văn hóa Cao Đài”. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2010.

64.       ^ “Viện Đại-học Cao-Đài: Chỉ-Dẫn (1971-1972)”. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.

65.       ^ “Viện Đại học Cao Đài”. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.

66.       ^ “Duyên Quốc gia Hành chánh…”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

67.       ^ Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 171.

68.       ^ “Lần theo vết dấu…”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

69.       ^ “Lịch sử Học viện Quốc gia Hành chánh”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

70.       ^ a ă “UNESCO Profile: Viet-Nam”. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2010.

71.       ^ “Đại học cộng đồng Tiền Giang”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

72.       ^ a ă â “Community Colleges in Vietnam”. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2010.

73.       ^ “Đà Nẵng vang bóng một thời”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

74.       ^ “Nhà văn Hứa Hoành”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

75.       ^ “Trường Nông lâm súc”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

76.       ^ “Cựu học sinh Nông lâm súc tái ngộ”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

77.       ^ “Nhóm lợi ích công cộng… lưu vực sông Cửu Long”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

78.       ^ “Trường Đại học Nông lâm”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

79.       ^ “Quá trình thành lập Học viện Cảnh sát Quốc gia”

80.       ^ “Kỷ niệm 50 năm thành lập Trường Quốc Gia Âm Nhạc & Kịch nghệ Việt Nam”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

81.       ^ “Nghệ nhân Trần Kích khổ luyện và tài hoa”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

82.       ^ “Duyệt Thị Đường: Nhà hát cổ nhất Việt Nam”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

83.       ^ Masur, Matthew, tr. 57.

84.       ^ Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 34.

85.       ^ “Lịch sử Đại học Sư phạm Sài Gòn”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

86.       ^ “Khoa Sư phạm”. Thế giới Tự do Số 4, Tập X. Sài Gòn: Sở Thông tin Hoa Kỳ, 1961. tr 34-5

87.       ^ “Những con đường dẫn vào tương lai…”

88.       ^ a ă â Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 135-138.

89.       ^ “Giáo dục thời Việt Nam Cộng Hòa”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.

90.       ^ Nguyen Ngoc Bich. tr 46

91.       ^ Sales, Jeanne M. tr 9

92.       ^ “Trường Đại-học Sư-phạm Sài Gòn”. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2010.

93.       ^ a ă â b Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 44-47.

94.       ^ Duncanson, Dennis. Government and Revolution in Vietnam. New York: Oxford University Press, 1968. tr 250.

95.       ^ a ă Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 127-128.

96.       ^ Vũ Quốc Thúc. Thời đại của tôi Cuốn II. Paris: Người Việt, 2010. Tr 372-408

97.       ^ a ă Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 136-138.

98.       ^ Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 8.

99.       ^ Nhân vật lịch sử con người Đồng Tháp, Nguyễn Thành Giung

100.     ^ “Viện Việt-Học”. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2010.

101.     ^ “Y khoa Đại học Saigon: Nhìn lại 60 năm lịch sử” theo Thời báo Onlinée

102.     ^ “South Viet Nam: The Price of Honesty” báo Timé

103.     ^ a ă Do, Khe Ba (1995), tr.9-10.

104.     ^ “Sở Giáo dục – Đào tạo Bình Định”. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2010.

105.     ^ “Giáo dục Bình Định: Những chặng đường”. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2012.

106.     ^ “Lịch sử Giáo dục Triệu Phong”. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2012.

107.     ^ Deborah Shapley (tháng 8 năm 1975). “Science in Vietnam: The Postwar North Seeks American Assistance”. Science 189 (4204): 705–707.doi:10.1126/science.189.4204.705. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2010. “[Nguyên văn tiếng Anh đoạn trích dẫn]: In science and education, unification will probably be patchy at best, since the two countries have developed along different lines for decades. But despite a host of difficulties Galston found the leaders in the North to be openly admiring of many features of science and education in the South; they planned to incorporate them in the North when the much-discussed (but still not formalized) unification takes place.”

108.     ^ “Kỷ niệm về một ngôi trường”. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2010.

109.     ^ “Hãy trút cơn giận vào nơi đáng trút”. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2011.

110.     ^ “Văn học miền Nam”. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2011.

Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a

 

HẠT GIỐNG ĐỨC TIN

HẠT GIỐNG ĐỨC TIN

Tác giả: Lm. Vĩnh Sang, DCCT

 

Hôm nay gần cuối Mùa Chay Thánh, tôi lại có dịp chia sẻ với mọi người về một trải nghiệm về việc Loan Báo Tin Mừng nơi những vùng cao, vùng sâu, vùng xa.

Chuyến đi về Bắc lần này dẫn tôi lên đến tận miền Tây Bắc, nơi trong quá khứ tôi nhận thức được qua những tác phẩm văn chương của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, những lời nhạc “tiền chiến” về một chiến trường thu hút những chàng trai hào hùng ra đi giữ nước, “từ nơi chiền trường Tây Bắc đó…”, địa chỉ của những lần thả hồn mơ màng về một vùng trời đầy thơ văn lãng mạn.

Sau này khi bước vào con đường phục vụ Giáo Hội, tôi lại có dịp lên miền Tây Bắc, và chuyến đi nào cũng để lại trong tôi niềm thao thức băn khoăn, một miền đồi núi trùng điệp, những căn nhà sàn chỏng trơ nghèo nàn, những ruộng ngô bậc thang làm chẳng đủ ăn, những người Kitô hữu ít ỏi tha thiết mong muốn có Linh Mục, có Nhà Thờ, những phiên giải tội chớp nhoáng, những Thánh Lễ dâng phải có người canh phòng từ xa để kịp báo động khi nhà cầm quyền địa phương có thể bất ngờ ập đến làm khó dễ, …và những chuyến mục vụ vội vàng căng thẳng như vậy trôi qua thật nhanh.

Hôm nay tôi trở lại một góc nhỏ của miền Tây Bắc núi đồi trùng trùng điệp điệp, mênh mông rừng rậm, dầy đặc mây trời, đường quanh co lượn khúc theo từng vách núi, sông hiền hòa lững lờ trôi theo từng hẻm hóc thấp cao. Vuông đất nhỏ bên vệ đường chông chênh bờ vực đã mọc lên một ngôi Thánh Đường nhỏ, ngôi Thánh Đường lặng lẽ mềm mại như mây trời, vách gỗ tuềnh toàng nhiều khe hở, mái lá úp chụp lên đầu như nấm rơm. Vị Giám Mục Giáo Phận đến thăm gọi đó là Nhà Thờ có máy lạnh đa chiều, ấy là vì gió núi mang về những cơn gió mát lạnh, thổi tự do vào bên trong Nhà Thờ theo nhiều ngõ ngách khác nhau.

Quỳ trong ngôi Nhà Thờ kỳ lạ độc đáo này cho tôi một cảm giác lâng lâng khó tả, sự im lặng lạ lùng của miền “đồng rừng” khác hẳn miền “đồng ruộng” dưới xuôi, tiếng chim hót líu lo như đang hợp giọng bài ca tán tụng Chúa, bình an và thanh thoát. Niềm an nhiên và hạnh ngộ chẳng thể tìm được nơi đô hội chen chúc sa hoa.

Một trong các vấn đề hiện nay về nghệ thuật ở thành phố Sàigòn đó là không gian kiến trúc, hầu hết các tượng đài không mang đủ tính nghệ thuật, nếu có thì lại không có mộtt không gian tương hợp để thể hiện trọn vẹn tính nghệ thuật, nếu có cả hai thì lại đang đứng trước nguy cơ quy hoạch không gian bị phá vỡ vì sự bùng nổ đô thị. Trước khi dựng ngôi Nhà Thờ mái lá vách gỗ miền Tây Bắc nêu trên, người anh em Linh Mục trẻ phụ trách đã cho dựng ngay tượng Đức Mẹ, bức tượng đường nét dáng dấp không sắc cạnh lắm, thế nhưng không gian thì tuyệt vời, màu áo khác lạ với màu truyền thống nhưng lại là màu của núi rừng, của dân tộc bản địa ( người Nùng, người Tày, người H’Mông… ). Màu xanh lam nổi lên mạnh mẽ giữa nền xanh của rừng cây, một ấn tượng gây thu hút hết sức tinh tế.

Thánh Lễ chúng tôi dâng với một cộng đồng bé nhỏ, niềm thao thức về công cuộc loan báo Tin Mừng lại nổi lên mạnh mẽ trong tôi. Bao nhiêu năm rồi, những người dân hiền hòa chất phác lặng lẽ sống Đức Tin, có những lúc tưởng như tuyệt vọng, sự hiện diện của Linh Mục như thổi thêm hồn vào sức sống, nhưng con người tự nguyện phục vụ ấy vẫn còn nhỏ bé quá, cả một miền rộng lớn mênh mông, thấm gì sức ngược xuôi tất bật của một Tu Sĩ trẻ nhiều tâm huyết…

Cầu xin cho có thêm các Thừa Sai quảng đại, khôn ngoan, nhiệt thành chấp nhận hy sinh, dám liều mình vì Tin Mừng, vì các linh hồn, dám dấn thân, dám đi qua các thách đố của thời cuộc. Mảnh đất quá màu mỡ, đang khát khao hạt giống Đức Tin…

Lm. VĨNH SANG, DCCT, Chúa Nhật 6.4.2014

Suy nghĩ về chuyện sống, chết

Suy nghĩ về chuyện sống, chết

Trm Thiên Thu

2-11-2013

Nói đến sự chết, người ta cho là “xui”, nghĩa là người ta sợ. Nhưng có ai trường sinh bất tử? Có chăng chỉ là trong truyện cổ tích thần thoại. Cũng có người cho là bi quan hoặc yếm thế khi nói đến sự chết. Thực ra nó có chiều kích tích cực giúp chúng ta sống tốt hơn, như Chúa Giêsu truyền: “Hãy hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng toàn thiện”.

Thường thì khi con người biết suy tư nhiều về cuộc đời là lúc người ta không còn trẻ, nghĩa là đã bắt đầu sang bên kia con-dốc-cuộc-đời: Có người 1 giờ chiều, có người 3 giờ chiều, có người 5 giờ chiều… Nhưng có những người lại biết nghĩ đến cái chết từ rất sớm, có thể từ 7 hoặc 8 giờ sáng. Tôi nghĩ người đó có một đặc ân để hướng thiện!

Khoa học tiến bộ, hầu như người ta khả dĩ làm được mọi thứ, nhưng người ta vẫn không thể nào tạo được sự sống và ngăn chặn được lưỡi hái tử thần. Người ta không “bó tay” mà cũng như “bó tay”, vì cứ phát hiện thuốc chữa bệnh này thì lại phát sinh bệnh khác, có chữa được bệnh nan y cũng chỉ là kéo dài sự sống thêm một thời gian, rồi cũng… chết. Các khoa học gia mới khám phá được vệ tinh này thì lại chợt phát hiện còn những “lỗ đen” xa trái đất hàng triệu năm ánh sáng. Chắc chắn con người phải “bó tay”. Và cứ câu hỏi này chồng chất lên câu hỏi khác… Dự báo có bão tố sắp tới mà không làm gì được, chạy trước cũng không kịp. Vậy mà người ta vẫn muốn khoe mẽ, muốn làm ngơ Thượng Đế, muốn loại bỏ Tạo Hoá, thậm chí là không muốn tin có Thiên Chúa!

Mỗi người có một nhãn quan riêng. Mỗi người có một lối suy tư riêng. Mỗi người có cách cảm nhận riêng. Muôn người muôn vẻ, nhưng tất cả vẫn là suy tư về thân phận con người, nhất là cái chết, tại sao không ai tránh khỏi?

Đời người dài, ngắn, sang, hèn

Trăm năm gom đủ một lần đưa tang!

Với cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi? Ôi cát bụi mệt nhoài! Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi! Bao nhiêu năm làm kiếp con người, chợt một chiều tóc tráng như vôi. Lá úa trên cao rụng đầy, cho trăm năm vào chết một ngày” (Cát Bụi). Con người luôn trăn trở về thân phận – dù là người có niềm tin tôn giáo, người không có niềm tin tôn giáo, hoặc người vô thần.

Và lúc khác, NS họ Trịnh lại suy tư: “Im lặng của đêm, tôi đã lắng nghe, im lặng của ngày, tôi đã lắng nghe, im lặng của đời, tôi đã lắng nghe. Tôi đã lắng nghe trái tim lạc loài, bao đêm đã qua, im lặng mặt người, tôi đã lắng nghe im lặng của tôi” (Im Lặng Thở Dài). Chắc hẳn ai cũng đã từng hơn một lần gục đầu ăn năn, suy tư, và muốn tìm ra ẩn số cuộc đời mình.
Suy đi nghĩ lại, tính tới tính lui, phân tích đủ kiểu, áp dụng mọi khoa học, nhưng vẫn không thể có đáp án thoả mãn. Có những điều tưởng đơn giản mà lại nhiêu khê, và có những điều tưởng phức tạp mà lại đơn giản. Chuyện kể thế này:

Một chiếc xe tải chở hàng, tài xế không để ý nên bị kẹt dưới gầm cầu. Xe chạy tới không được mà lùi cũng không xong. Rất nhiều người đứng chung quanh trố mắt nhìn, bàn tán, chỉ trỏ, các xe phía sau phải dừng lại vì kẹt. Kỹ sư, cảnh sát và chủ hãng xe đều đến. Người thì bàn là đào đường cho thấp xuống, người khác lại tính cắt bớt mui xe… Cách nào cũng không ổn, mà tình trạng kẹt xe càng lúc càng tăng, xe nối đuôi nhau như rồng rắn vậy.

Lúc ấy, có một cậu bé chen vào, nói lớn với tài xế: “Bác tài, cháu chỉ cho bác một cách, bác xì bớt hơi mấy bánh xe đi, xe sẽ thấp xuống và có thể qua được”. Ðám đông cười ồ lên. Còn những chuyên viên thì khó chịu, vì trẻ con mà tài lanh, dám dạy khôn người lớn. Bác tài cũng thế, nhưng cũng đành phải thử xem sao, và kết quả hơn cả tuyệt vời!

Cuộc đời chúng ta cũng vậy. Đừng để sự đời chi phối mình thái quá. Hãy tìm cách “xì” bớt hơi bon chen, đua đòi, kiêu ngạo, ghen ghét, đố kỵ, thù hận, tranh giành, ích kỷ, tham lam, phe cánh, xét đoán, bất mãn, chống đối, chua ngoa, nóng giận… để có thể thoát ra khỏi “đường hầm cuộc đời”. Cậu bé kia có cách giải quyết đơn giản, hợp lý và hiệu quả vì em đơn sơ và thật thà, không nghĩ cong queo hoặc cao xa như người lớn. Biết “xì hơi” cuộc sống là chúng ta đang hoàn thiện từng ngày, biết “chết” dần mỗi ngày vậy.

Cụ thi hào danh nhân văn hoá Nguyễn Du có cách kết luận: “Trăm năm một nấm cỏ khâu xanh rì” (Truyện Kiều). Nhắm mắt xuôi tay rồi thì ai cũng như ai: Trắng tay. Vậy mà người ta vẫn tranh giành nhau chi li. Khó hiểu quá! Có làm đám tang lớn, dùng áo quan đắt tiền, vòng hoa để chật nhà, dàn kèn tây hoành tráng… chẳng qua là đẹp mặt người sống chứ người chết chẳng được lợi gì: Sống thì chẳng cho ăn, chết làm văn tế ruồi!

Còn nhạc sĩ Vũ Thành An (nay là phó tế vĩnh viễn) lại băn khoăn trong một ca khúc Bài Không Tên: “Triệu người quen có mấy người thân, khi lìa trần có mấy người đưa”. Nghĩa tử là nghĩa tận. Thế nhưng trong đám tang thiên tài âm nhạc Wolfgang Mozart (27-1-/1756 – 4-12-1791) chỉ có vài người và một con chó đi tiễn đưa!
Chó chết là hết chuyện. Con người chết thì không thể hết chuyện: Cọp chết để da, người ta chết để tiếng. Chữ “tiếng” ở đây có hai nghĩa: Tiếng tốt hay tiếng xấu. Khi ta sinh ra, người cười mà ta khóc, vậy hãy sống sao để khi ta chết, người khóc mà ta cười. Đáng quan ngại là Thiên Chúa cho chúng ta hoàn toàn tự do. Vì thế, việc chọn lựa cách sống rất quan trọng: “Ai làm điều lành thì sẽ sống lại để được sống, ai làm điều dữ sẽ sống lại để bị kết án” (Ga 5,29). Tuy nhiên, chính sự thật sẽ giải thoát chúng ta (x. Ga 8,32).

Mình chết có được người khác nhớ đến hay không là do cách sống của mình. Người ta nhớ mình hay không là “quyền” của người ta. Nhưng chính chúng ta có bổn phẩn phải nhớ đến người đã khuất, vì “quên người đã chết là làm cho họ chết thêm một lần nữa”. Nhớ đến họ để cầu nguyện cho họ, vì họ là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị em, họ hàng, bạn bè, thầy cô, ân nhân, người quen… Mà dù họ là ai, dù mình không quen biết, chúng ta vẫn có bổn phận với họ trong tình liên đới và hiệp thông Kitô giáo trong Chúa. Muốn người khác nhớ đến mình thì mình đừng quên người khác: “Những gì anh em muốn người ta làm cho mình thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12). Vả lại, với đức tin Công giáo thì “chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” (Thánh Phanxicô Assisi), và giáo lý Công giáo đã dạy: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau” (Kinh Tin Kính).

Tác giả Anon viết: “Tôi tin rằng chúng ta được sinh ra để chết, chết để có thể sống trọn vẹn hơn. Tôi tin rằng được sinh ra để chết, chết mỗi ngày một phần ích kỷ, một phần tự phụ, một phần tội lỗi”. Một lối suy tư tuyệt vời! Quả thật, chúng ta đang sống nghĩa là chúng ta đang chết, khi chúng ta chết là lúc chúng ta bắt đầu sống. Một nghịch-lý-thuận. Đó là loại triết lý “hiện sinh” mà chỉ người có niềm tin Kitô giáo mới khả dĩ hiểu.

Hạ tuần tháng 10-2011, cư dân mạng xôn xao về vụ một em bé 2 tuổi ở Trung Quốc bị xe cán nát 2 chân, người đi đường thấy mà làm ngơ, một chiếc xe tải khác chạy tới không tránh và lại tiếp tục cán lên chân em bé tội nghiệp kia, người qua kẻ lại vần hoàn toàn vô cảm. Mãi sau mới có một phụ nữ bế em vào lề đường. Thế nhưng em bé này vừa qua đời ngày 21-10-2011. Có thể Chúa cho em từ giã cõi đời này quá sớm cũng là kết thúc tốt đẹp đối với em, nhưng sự vô tình nhẫn tâm của những người lớn sẽ là “vết chàm” của xã hội loài người ngày nay, coi con người không bằng con thú!

Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi! (Lc 5, 8), nhưng đừng bỏ mặc con trong cơn khốn khó. Con muốn thân thưa: “Lạy Chúa, này con đây, con xin đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10,7.9). Nguyện xin Thiên Chúa nhân từ ân xá cho các linh hồn nơi luyện hình được sớm hưởng Tôn Nhan Chúa muôn đời. Amen.

Trầm Thiên Thu