NHÌN NGƯỜI NỮ…, NHÌN NGƯỜI NAM…

NHÌN NGƯỜI NỮ…, NHÌN NGƯỜI NAM…

Tác giả: Lm. Minh Anh, GP. Huế

Sống là chọn lựa. Chọn lựa là hy sinh. Hy sinh là chết đi. Chết đi cho điều này để sống trọn cho điều kia. Bài đọc thứ nhất sách Huấn Ca hôm nay nói đến việc chọn lựa, “Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước; con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy. Trước mặt con là cửa sinh cửa tử; ai thích gì, sẽ được cái đó”.

Tin Mừng hôm nay cũng nói đến việc chọn lựa, “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết, ai giận anh em mình thì đáng bị đưa ra toà”. “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình; còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết, bất cứ ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi”.

Nếu có những lối đi yên tĩnh thì cũng có những ngõ vắng xôn xao;

Nếu có những đường làng quạnh hiu thì cũng có những đại lộ rộn rã.

Tương tự như thế, trong tình yêu,

Tình yêu có cả những đại lộ thênh thang,

Cả những lối mòn chật hẹp.

Các bạn trẻ thân mến,

Luật cũ dạy: chớ giết người, chớ ngoại tình… đó là những đại lộ tình yêu, ai cũng thấy, ai cũng biết và dễ chấp nhận. Nhưng ai giận anh em mình, ai bảo anh em mình là “bờm”, thì đáng bị toà án luận phạt… đó là những lối hẹp tình yêu mà ai ai cũng dễ va vấp và khó chấp nhận. Cũng như, “Ai nhìn người nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” lại là một lối mòn chật hẹp hơn. Phải chăng đây chính là điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người mà thánh Phaolô nói tới trong bài đọc thứ hai hôm nay?

Có người nói, lạy Chúa, Chúa quá quắt, “Chúa đi guốc trong bụng đàn ông…”; nhưng cũng không ít người tạ ơn Chúa vì Chúa quá tế nhị, quá nhân ái khi không dám nói thêm “Ai nhìn người nam…”.

Thưa các bạn, có lẽ đây là đoạn Tin Mừng mà mỗi khi đọc hoặc nghe nói đến là chúng ta nhăn mặt, một đoạn Tin Mừng hiếm khi được chọn để suy niệm trong các buổi chia sẻ.

Vậy hôm nay, chúng ta thử nhìn thẳng vấn đề. Đức Giêsu muốn nói gì ở đây? Phải chăng Ngài muốn nói đến đức ái trọn hảo? Phải chăng Ngài muốn nói đến sự thanh khiết hồn nhiên của những ai theo Ngài? Hoặc Ngài muốn nói đến những đòi buộc triệt để giúp chúng ta tiến “nhanh hơn, cao hơn và xa hơn” trong đời sống làm con Chúa? Có lẽ tất cả đó đều là câu trả lời.

Đức Giêsu, Đấng ba lần thánh, dẫu hoàn toàn vô tội… nhưng không vì thế mà những gì xảy ra nơi con người lại xa lạ với Ngài. Ngài biết đến những xung năng vật vã, biết cả những cuồng si ươn hèn, hay những cám dỗ chết người nơi thân phận bọt bèo của kiếp nhân sinh. Ngài biết nam cũng như nữ, trẻ cũng như già, khoẻ cũng như ốm, người sống đời dâng hiến cũng như kẻ ở bậc vợ chồng.

Trong cuốn sách của mình, một bác sĩ tâm lý thổ lộ: “Tôi thiết nghĩ, trong đời sống vợ chồng, việc giữ đức khiết tịnh còn khó hơn gấp bội so với những người sống đời độc thân. Tôi không nói đến ngoại tình, nhưng tôi muốn nói đến sự kiêng khem”. Vậy thì tại sao phải kiêng khem trong bậc vợ chồng cũng như phải dè giữ ngũ quan trong đời dâng hiến? Câu trả lời hẳn phải có một mẫu số chung: tất cả chỉ vì tình yêu.

Người ta sẽ không biết từ chối những điều cấm nếu đã không biết chối từ những điều được phép. Sẽ không biết yêu thương nếu người ta đã không biết hy sinh cả những gì có thể làm. Vì không phải điều ta dâng Chúa mới đáng giá, nhưng sẽ đáng giá hơn, cả những điều ta từ chối vì Người. Tất cả phải phát xuất từ tình yêu, chỉ vì tình yêu. Tất cả gỗ của muôn cánh rừng sẽ thật vô dụng nếu không có lấy một ngọn lửa, “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy những ước mong cho lửa này bùng cháy lên”. Lửa ở đây, chính là lửa yêu thương.

Kitô hữu là những người lội ngược… mà dừng lại là thua cuộc, là trôi theo dòng đời.

Đừng ngần ngại tìm sự cô tịch cho tâm hồn ở những lối đi chật hẹp!

Đừng do dự trổ hoa giữa những sa mạc cằn khô!

Cũng đừng băn khoăn khi phải chắt chiu niềm vui nơi những lối đi gập ghềnh.

Ngài có đó, Giêsu có đó… sẵn sàng dẫn dắt, bổ sức và chữa lành bạn; ở đó, niềm vui dâng hiến sẽ là những bông hoa hiếm hoi trổ nụ trên những que cọng tình yêu. Hãy cầu xin cho bạn đủ sáng, đủ hấp dẫn để các tâm hồn được gần Chúa hơn; cũng hãy cầu xin cho đủ lu mờ để không ai gắn bó với bạn mà xa dần Người. Chúc bạn mạnh mẽ để can trường đi vào những lối nhỏ yêu thương đó!

Lm. Minh Anh (Gp.Huế)

Nhìn lại những “chiến thuật” của nhà cầm quyền VN

Nhìn lại những “chiến thuật” của nhà cầm quyền VN

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-02-18

02182014-nhaydamtaihn-kinhhoa.mp3

nguyenxuandienblog-305.jpg

“Chiến thuật” nhảy đầm của nhà cầm quyền VN nhằm ngăn chặn nhân sĩ trí thức tưởng niệm ngày chiến tranh biên giới 17/2. Ảnh chụp hôm 16/2/2014 tại Hà Nội.

Courtesy of thanhnienconggiao

Ngày 16/2 vừa qua cơ quan công quyền ở thủ đô Hà Nội đã dùng một biện pháp hoàn toàn mới để ngăn trở cuộc tập hợp tưởng niệm chiến tranh biên giới hồi năm 1979. Kính Hòa nhìn lại những biện pháp mà nhà cầm quyền sử dụng trong thời gian những năm gần đây.

“Chiến thuật” nhảy đầm

Như vậy là không có buổi lễ nào được chính thức tổ chức để tưởng niệm sự kiện 17/2/1979, 35 năm sau ngày nhà cầm quyền Trung quốc phát động cuộc chiến tranh biên giới kéo dài trong  một tháng. Theo những số liệu được công bố thì có khoảng 60 ngàn người Việt ngã xuống trong một tháng ấy.

Buổi lễ long trọng nhất có lẽ là buổi lễ được nhóm NO-U tổ chức vào ngày 16/2. Đây là một tổ chức dân sự không có liên quan đến cơ quan công quyền.

Sáng ngày chủ nhật 16/2/2014 khoảng gần 100 người dân Hà Nội đã hẹn nhau đến tượng đài Vua Lý Thái Tổ để làm lễ dâng hương cho những người đã ngã xuống, tuy nhiên họ đã không thể tổ chức buổi lễ tại nơi dự định. Anh Nguyễn Chí Tuyến, thường được biết với tên gọi Anh Chí, người đọc văn tế cho những liệt sĩ 35 năm trước trong buổi tưởng niệm nói với chúng tôi,

Ở chân tượng Lý Thái Tổ thì họ tổ chức cho các cặp đôi trung niên, tôi nói là trung niên vì các anh các chị, các ông các bà ấy lớn tuổi rồi, cũng tầm phải 50 là ít. Các em thiếu niên ở phía tượng đài kia còn nhỏ thì tôi không nói, còn các vị trung niên rồi, thậm chí lên chức ông chức bà rồi mà ra đó khiêu vũ thì nó lố bịch quá. Có các bác hôm nay đến dự buổi tưởng niệm đến nói với họ dừng lại để mọi người làm lễ đã thì họ không chịu, họ nói việc họ họ làm. Tôi nói với anh em là sang bên kia đường để làm. Sau đó mọi người tập trung ở đấy để làm việc tưởng niệm.

Nhà cầm quyền Hà Nội đã gây những khó khăn cản trở bằng việc dựng lên những sân khấu bằng gỗ, làm các chương trình ca nhạc rồi mời các câu lạc bộ khiêu vũ của các vị trung niên ấy đến nhảy nhót trước tượng ông Lý Thái Tổ là nơi mà chúng tôi định làm lễ.”

Đây là chiến thuật mới nhất của nhà cầm quyền Hà nội để đối phó với những cuộc tập họp đông người mà họ không thích. Trong những năm gần đây những nhóm xã hội đối lập với nhà cầm quyền xuất hiện ngày càng nhiều và cơ quan công quyền đã sử dụng nhiều biện pháp không chính thống để đối phó.

Những vụ biểu tình chống Trung quốc ở đô thị nổ ra vào khoảng năm 2007 bị trấn dẹp bằng biện pháp cổ điển là lực lượng chức năng chính thống như công an cùng các thiết bị nghiệp vụ của họ như xe phá sóng điện thoại.

Các biện pháp phi chính thống

Các biện pháp ngăn trở sau đó được đa dạng hóa hơn.

thanhnienconggiao-250.jpg

Nữ văn sĩ Võ Thị Hảo cầm trên tay bông hoa trắng, TS. Nguyễn Quang A chít khăn: Nhân Dân Không Quên 17-2-1979. Courtesy of thanhnienconggiao

Trong tháng giêng này, trước sự kiện khiêu vũ ngày 16/2, người dân Hà nội tập trung tổ chức tưởng niệm ngày trận đánh Hòang Sa năm 1974 thì bị một công trường giả dựng lên để gây tiếng ồn cản trở việc tập hợp. Một viên đá được cắt ngang dọc để phục vụ cho công trường giả ấy.

Năm 2008, sau vài tháng giằng co giữa chính quyền Hà nội và giáo dân công giáo về việc tranh chấp một khu đất thuộc tòa khâm sứ ngay trung tâm thủ đô, một công viên đã được dựng lên hầu như chỉ trong một đêm để chấm dứt chuyện đòi khu đất này của giáo dân, vì rằng công viên là một tiện ích công cộng.

Một biện pháp cũng không chính thống nhưng mang tính bạo lực là sử dụng các nhóm người bất hảo để quậy phá các cuộc tập hợp, ở đô thị cũng như ở nông thôn trong các cuộc biểu tình đòi đất của nông dân. Ngoài ra những đoàn viên thanh niên cộng sản trong đồng phục màu xanh dương không vũ trang cũng được huy động trong các hoạt động chống biểu tình. Các nhóm người được huy động cho công việc này thường được báo chí của đảng cộng sản gọi là các nhóm quần chúng tự phát.

Trên phương diện pháp lý, tội danh trốn thuế thường được đưa ra để kết tội những người có ý kiến trái với nhà cầm quyền như phiên tòa đang diễn ra để xử luật sư Lê Quốc Quân vào ngày 18/2/2014. Trước đó, hồi năm 2009, doanh nhân trẻ tuổi Trần Huỳnh Duy Thức cũng bị bắt với tội danh trốn thuế, nhưng tội danh này không được nêu ra trong bản án 16 năm tù dành cho anh Thức sau đó.

Các biện pháp phi hành chính cũng được triệt để áp dụng để làm rối những nhà hoạt động dân sự. Kỹ sư Nguyễn Văn Thạnh, người đề xướng việc kiện các nhà máy thủy điện ở miền Trung xả nước làm chết dân bị các chủ nhà trọ từ khước do áp lực của nhà cầm quyền.

Hiệu quả của biện pháp mới

Trở lại với biện pháp mới nhất là sử dụng khiêu vũ ngoài trời để ngăn trở cuộc tập hợp tưởng niệm chiến tranh biên giới tại Hà nội vừa qua, một facebooker đưa ra nhận xét như sau,

thanhnienconggiao-2-250.jpg

Các nhân sĩ trí thức tưởng niệm đồng bào và chiến sĩ tử trận trong cuộc chiến tranh biên giới 17/2/1979. Courtesy of thanhnienconggiao

“Mình phục đồng chí nào đã nghĩ ra cái màn khiêu vũ hôm qua ở tượng đài Lý Thái Tổ. Một lựa chọn rất thông minh. Nó giúp tránh được tai tiếng cho lực lượng an ninh.  Một lực lượng an ninh không được huấn luyện kỹ lưỡng để hành xử một cách văn minh thì sẽ dễ mất kiên nhẫn và hành xử như những côn đồ khi phải đối diện với những người biểu tình bản lĩnh.  những hình ảnh khiêu vũ chỉ gây mắc cười chứ không gây xấu hổ trước công luận như những hình ảnh côn đồ.”

Quả thực là hình ảnh đôi nam nữ trung niên khiêu vũ giữa trời đông Hà nội, như bước ra từ những trang sách của nhà văn Vũ Trọng Phụng cách đây gần một thế kỷ vào lúc Hà nội bắt đầu Âu hóa, được hãng thông tấn AP đưa lên khắp mặt báo và cơ quan truyền thông khắp thế giới đã gây không ít ngạc nhiên và những nụ cười.

Nhưng đối với nhiều người Việt đến để tưởng niệm cuộc chiến tranh thì họ không cười được. Nghệ sĩ Kim Chi có mặt tại nơi tưởng niệm bên bờ hồ Hoàn Kiếm nói với biên tập viên Mặc Lâm rằng,

Tôi có hai cảm xúc đối với việc hôm qua, thứ nhất là đối với tấm lòng của bao nhiêu người xót thương, biết ơn những người đã hy sinh trong cuộc chiến ấy để bảo vệ tổ quốc thì số ấy đông lắm ở phía bờ hồ. Còn điều mà nó làm cho tôi rất khó chịu mà nói nặng hơn là phẫn nộ trước những hành động rất là lố bịch. Cái ngày như thế mà họ bắt loa thiệt to rồi họ ôm nhau nhảy nhót này kia, nó không có tự nhiên…tôi không hiểu các bạn sung sướng gì mà ra đây ăn mừng cái ngày đó.”

Anh Chí thì nói với chúng tôi,

“Tôi nói với mọi người là cứ để họ diễn trò, để cho nhân dân người ta nhìn, dư luận người ta nhìn, rồi những bậc tiền nhân như ông Lý Thái Tổ ông ấy đứng đấy ông nhìn xuống, vong linh các đồng bào chiến sĩ đã ngã xuống sẽ chứng giám chuyện này.”

Như vậy nếu biện pháp khiêu vũ có thể sẽ không gây ra những phản ứng mạnh từ cộng đồng thế giới về vấn đề nhân quyền trong sự đàn áp, nhưng đối với những người giàu tình tự dân tộc như nghệ sĩ Kim Chi hay Anh Chí thì biện pháp này có vẻ mang một hiệu ứng ngược.

Ta lủi thủi đi sâu vào cõi mất

Ta lủi thủi đi sâu vào cõi mất

Lm Richard Leonard sj

VRNs (19.02.2014) – Úc Đại Lợi – Suy tư Tin Mừng Chúa nhật thứ 7 thường niên năm A 23.02.2014

“Ta lủi thủi đi sâu vào cõi mất

Hồn rã rời, thể chất hoá sương băng.”

(Dẫn từ thơ Tế Hanh)

Mat 5: 38-48

Nhà thơ, xưa nay lủi thủi đi vào cõi mất, rất rã rời. Nhà Đạo bây giờ hiên ngang tiến bước chốn vui mừng, dù tháng ngày mình sống rất miên man.

Miên man sống như trình thuật hôm nay thay đổi toàn bộ cuộc đời của nhiều người. Lời Chúa mặc khải đã trở thành cuộc cách mạng đối với nhiều người, và riêng tôi từng nhớ lại Lời Chúa nói: “Hãy trở nên toàn thiện như Cha các người trên trời là Đấng Toàn Thiện”. Tôi nhận ra đây là lời khích lệ hơn là luận cứ cứng ngắc, không sai sót. Cũng không hẳn là yêu cầu, hoặc mời gọi.

Một hôm ngồi trong căn phòng nhỏ ở Oxford, tôi nhận ra rằng ở tiếng Hy Lạp, cụm từ ‘teleios’ vẫn được các dịch giả Kinh thánh chuyển thành hình-dung-từ ”toàn hảo/toàn thiện”, để áp dụng cho con người. Điều này có nghĩa: người ấy thật sự chín chắn. Tức, có khả năng thành đạt mọi thứ, trong mọi chuyện.

Chúa đem đến cho ta một hình ảnh Thiên Chúa là tất cả. Ngài là Đấng khả năng làm tất cả. Nói thế không có ý bảo rằng Ngài vô cảm hoặc cứng ngắc! Tin Mừng có chỗ nói: “Cha các ngươi trên trời đã cho mặt trời mọc trên kẻ xấu cũng như người lành; và Ngài đổ mưa xuống cho người luơng thiện lẫn kẻ bất lương.” Và Chúa dạy ta sống toàn thiện như đáng ra ta phải sống như thế để mọi người tôn trọng.

Và, điều này đã nổ bùng trong tôi, như quả bom. Chúng ta là tông đồ chín chắn, rất trưởng thành bằng cách bắt chước Chúa là không cầm giữ lại ánh sáng mặt trời ban sự sống và làn mưa đổ xuống trên đầu trên cổ người xấu xa, tồi tệ, bất lương. Chúa không làm tắt ngúm cuộc sống của con người chỉ vì họ là kẻ xấu hoặc địch thù của Ngài. Và, ta trở nên giống hình ảnh của Ngài, ở điểm này. Và, đó là lý do ta được dạy phải yêu mến kẻ thù mình.

Nói tóm lại, tôi trở thành người Công giáo chủ trương hoà bình, đã từ lâu. Tôi tôn kính Hội thánh vào ba thế kỷ đầu đời. Đó, là Hội thánh của các vị tử đạo dám chối từ mọi nai nịt bằng súng ống. Trước đây, tôi rất khâm phục Martin Luther King và coi ông như vị anh hùng của riêng tôi. Bởi, ông dám có những hoạt động bất bạo động, theo tinh thần của Bài Giảng Trên Núi. Ông là người hoán cải được nước Mỹ đầy những rẽ chia, kỳ thị. Lúc bấy giờ, tôi cũng như nhiều người tìm mua bức ảnh đen trắng chụp hình mục sư King để treo tường, đặt ở trên cao nơi bàn làm việc.

Về lại Úc, tôi tham gia một số hoạt động chính trị, nhằm làm áp lực nhà cầm quyền Úc rút quân khỏi Việt Nam. Còn lại, là chuyện lịch sử khá dài dòng. Lúc ấy, là lúc tôi được bầu vào Thượng viện làm Bộ trưởng Tư Pháp suốt sáu năm. Mọi việc thông suốt như một giòng chảy hài hoà. Và, tôi hài lòng được ở trên cao, rất quyền thế. Lúc ấy tôi hiểu thế nào là người thực sự theo Chúa.

Và tôi như ở trong cơn mê. Và, giấc mơ này đã tiêu tan vào tháng Giêng năm 1991, khi ấy Thủ tướng đang cần phiếu ở Thượng viện để hỗ trợ cho việc bố trí lực lượng hải quân được Liên Hiệp Quốc chấp thuận cho sử dụng quân đội nhằm đuổi quân lính của Saddam Hussein khỏi Kuwait, là nơi quân đội ông ta tràn qua để chiếm đóng.

Nói tóm, sau một buổi cuối tuần đầy suy tư âu lo, tôi đã kết luận rằng mọi tiêu chuẩn để đạt một cuộc chiến có chính nghĩa là phải bảo vệ người vô tội chống lại mọi cuộc tấn kích và tôi bỏ phiếu thuận cho việc chủ trương này. Lúc ấy và cả bây giờ tôi vẫn đoan chắc rằng chiến tranh Irak có được chính nghĩa là nhờ vào giáo huấn của Hội thánh trong suốt 16 thế kỷ qua. Nhưng tim tôi vỡ đổ.

Bởi, tôi nhận ra rằng tôi đã phản lại Lời Thầy Chí Ái nói ở Bài Giảng Trên Núi. Và từ đó, tôi đặt ảnh Martin Luther King quay vào tường, bởi tôi không thể chịu nổi ánh mắt của ông cứ như đang trách móc tôi một điều gì, đến tận phần sâu lắng trong tâm can. Tôi cũng chẳng dám mở Tin Mừng thánh Mát-thêu ra mà đọc, sợ gặp phải đoạn Lời Chúa nói, như hôm nay.

Tôi vẫn không tài nào tìm được sự bình yên trọn vẹn. Tôi tự an ủi mình bằng sự kiện thấy rằng chính Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ II, bình thường vẫn là vị Giáo hoàng rất cương quyết, vẫn có những cảm nghiệm, những giao-động ở tâm can và đầu óc, vì từng vật lộn với những vấn đề tương tự. Không ai có thể đọc Hiến chế Sự Sống Tin Mừng mà không phấn đấu (x. Hiến chế Evangelium Vitae #55)

Tôi mong hai chuyện xảy đến. Thứ nhất, toàn thể Hội thánh phải phấn đấu với lời dạy của Chúa khi Ngài bảo: “Các ngươi phải…” mà chữ “ngươi” kia là ở số nhiều, tức cộng đoàn và toàn xã hội. Các nhà bình luận bảo thủ ở Hoa Kỳ vẫn cứ coi lời khuyên bảo của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II về chiến tranh và xung đột như sự sai lầm chỉ do cung cách, ý thức hệ.

Không phải thế. Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động nơi Hội thánh như cộng đoàn của các kẻ tin vào Đức Kitô theo chiều hướng không như đã cảm nghiệm từ ba thế kỷ đầu. Thứ hai nữa, trong Tin Mừng hôm nay, Chúa nhấn mạnh đến điều đòi buộc ta phải cầu nguyện cho những người đang làm hại ta. Nếu họ là người xấu, hoặc kẻ công kích chỉ muốn làm hại kẻ vô tội, thì họ vẫn cần đến lời nguyện cầu của ta.

Ta vẫn phải cầu cho họ để họ được cứu khỏi tình trạng xấu xa, đầy bất nhẫn. Họ được cứu khỏi ý thức hệ rất độc hại vẫn vùi họ dưới bùn đen của ác thần. Chính đó là ý nghĩa tích cực của lời Chúa khuyên ta rất hôm nay, ở Tin Mừng.

Trong tâm tình đó, ta cứ đọc lại lời thơ còn dang dở để thấy là nhà thơ kia đã từng than thở:

“Ta lủi thủi đi sâu vào cõi mất,

Hồn rã rời, thể-chất hoá sương băng.

Cho đến lúc bóng đêm tràn mặt đất,

Người mới hay nhân-loại thiếu tình Trăng.”

(Tế Hanh – Trăng Tàn)

Hôm nay, dù trăng có tàn, nhân-loại có thiếu tình trăng đi nữa, vẫn còn đó tình Chúa thương-yêu hết mọi người. Ngài vẫn đồng hành với mỗi người” để mọi người nhớ mãi rằng: dù “bóng đêm có tràn mặt đất” như nhà thơ viết, nhưng sẽ không tràn với những ai vẫn cứ tin Thiên-Chúa-là-Tình-Thương, với mọi người. Suốt mọi thời.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

 

CHÚA TRONG TÔI RẤT NHỎ…

CHÚA TRONG TÔI RẤT NHỎ…

Tôi được một linh mục dạy giáo lý mỗi tuần một giờ vào chiều thứ tư trong tuần.  Bố tôi thương đứa con gái ngỗ nghịch nhất nhà, tánh tình thẳng thắn và ngang tàng giống con trai, nên bố cho phép tôi học giáo lý công giáo để “tòng phu”.  Học được bao nhiêu giờ tôi cũng không nhớ, học những gì tôi cũng không biết có lưu lại trong tâm hồn tôi được bao nhiêu… chỉ biết khi cha tuyên bố cho phép được làm phép Thánh tẩy là tôi thở phào nhẹ nhõm.  Thế là tôi trở thành một “tân tòng Chúa”, từ ngày “tân tòng phu”.

Trong đời sống hôn nhân, mỗi Chúa Nhật vợ chồng tôi đều diện đẹp đến nhà thờ chánh tòa dự Thánh Lễ mà không khi nào vào ngồi ở hàng ghế trong nhà thờ, ông chồng tôi chỉ muốn đứng ở ngưỡng cửa nhà thờ và khi rước lễ xong là chàng kéo tôi ra, khi không rước lễ thì trong lúc người ta đi lên Cung Thánh, chúng tôi đi ra ngoài, leo lên chiếc xe Honda hai bánh chạy một mạch ra phố, lân la hết hàng phở, đến hàng cà phê, hang chè, hàng bánh… rồi làm một vòng dạo phố, khi trời đẹp chúng tôi cưỡi Honda chạy quanh bờ hồ ngắm cảnh, ngắm hoa ở vườn Bích Câu, rồi mới về nhà.  Bà mẹ đỡ đầu của tôi chắc để ý theo dõi chúng tôi, một hôm bà đón chúng tôi ở sân nhà thờ nhắc nhở, khi nào cha ban phép lành xong các con hãy ra về nhé. – Ôi, quê xệ!!!

Trước và sau khi nhận phép Thánh Tẩy tôi thấy mình chả có gì khác.  Chúa ở trong tôi chả thấy đâu cả, chắc Chúa ngủ yên và ngủ say.  Tôi sống đạo như thế kéo dài chả biết là bao lâu, chỉ có hình thức bên ngoài vào ngày Chúa Nhật thôi, còn bên trong thì rỗng tuếch rỗng toác, chẳng có tí nào là Chúa.  Lần lượt những đứa con ra đời, đứa nào chồng tôi cũng tìm bạn của anh đỡ đầu cho con trong ngày Lễ Thánh Tẩy… và rồi đời sống đức tin cũng vẫn vậy, dù rằng suốt thời gian mang bầu và khi sanh các cháu, tôi thỉnh thoảng lần chuỗi 50 Kinh Kính Mừng, mà không hề biết suy gẫm về sự Thương, sự Vui, sự Mừng ra sao cả.  Tôi cũng chẳng có chút cảm nghiệm gì về Chúa về Đức Mẹ.

Các con tôi bắt đầu đến trường rồi tuổi teen, tôi thấy mình phải có trách nhiệm dạy con biết về Chúa, mà mình có biết gì về Chúa đâu, hỏi chồng, hỏi vài người đạo gốc, đạo dòng mà cũng không ai đáp ứng rõ ràng cho tôi hiểu về Chúa ra sao.  Thôi thì cứ giao các con cho các cha ở nhà thờ.  Đi dự lễ ngày Chúa Nhật tôi nghe các bài đọc, càng thấy chả hiểu gì và nghe giảng tôi cũng chả nhận được chi.

Tôi hỏi cha trong tòa giải tội cũng không được giải thích thỏa đáng.  Bao nhiêu câu hỏi về Chúa vẫn cứ lẩn vẩn trong đầu.  Tôi thắc mắc và hỏi nhiều câu mọi người cho là vớ vẩn nên không giải thích được.

Biến cố tháng 4.1975 đến, chồng tôi phải đi tù cải tạo, một mình nuôi bốn đứa con trong khốn khó, vì chồng là “ngụy quân” nên bị đuổi khỏi sở, không công ăn việc làm, không biết buôn bán, tôi lăn lưng ra đi làm đủ mọi nghề bằng tay chân.  Ở cuối bờ hồ Xuân Hương, gần nhà tôi có một biệt thự, chắc là của ông “cán bộ nhớn” nào đó đang sửa, tôi xin được việc phụ hồ để kiếm gạo nuôi con và để khỏi phải bị đuổi đi kinh tế mới.  Có cô hàng xóm ngày xưa, gần nhà ba mẹ tôi thấy tôi khổ quá, vì mỗi khi cô đi ngang hiện trường nhìn thấy tôi ăn mặc xốc xếch, khệ nệ bưng những ki xi măng, bê những cục gạch nặng nề mà mặt thì chảy xệ buồn hiu, có khi tay xúc hồ, tay quệt nước mắt nên cô thương tình bèn rủ đi buôn bán may ra khá hơn chăng…

Tuy sống khổ cực, thiếu thốn mọi bề mà Chúa Nhật nào mẹ con tôi cũng ăn mặc tươm tất nhất có thể, đi dự Thánh Lễ.  (mẹ con tôi chỉ mỗi người có một bộ đồ tươm tất nhất để dành cho ngày Chúa Nhật)

Bây giờ suy niệm câu Kinh Thánh (Ga. 3,30)” Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” này tôi mới thấy Chúa ở trong tôi có một xí, bé tẹo tèo teo.!!!…

Lúc này chắc Chúa ở trong tôi dường như thức dậy mỗi Chúa Nhật rồi Chúa lại thiếp đi và ngủ say.

Mỗi sáng hai con trai lớn, đứa 11 tuổi, đứa 12 lo dậy sớm để đi giúp lễ 5 giờ 30 sáng.  “Đồ tế nhuyễn, của riêng tây” đã ra hết chợ trời để có gạo cho con ăn nên các cháu không biết giờ, có hôm chúng đến nhà thờ chắc khoảng 3 hay 4 giờ sáng, chưa mở cửa, hai đứa co ro ôm nhau ngoài góc cửa nhà thờ, ngủ quên trong gió lạnh Đà lạt cho đến khi ông từ đến mở cửa nhà thờ.  Tội nghiệp mẹ con tôi quá.!!!

Chắc Chúa cùng ngủ với các con tôi.  Tạ ơn Chúa!!!

Không biết Chúa to hay bé bao nhiêu trong lòng các con tôi???

Từ ngày ra hải ngoại, được sống trong đất nước tự do, lần đầu tiên tôi rủ nhà tôi đi tĩnh tâm do linh mục đồng hương tổ chức, vì từ khi gia nhập đạo Chúa, tôi chưa hề biết tĩnh tâm ra sao.  Từ chiều thứ Bẩy bắt đầu đến nhà tĩnh tâm tôi được gặp gỡ nhiều đồng hương thật vui.  Giới thiệu nhau rồi chúng tôi ăn chiều, sau đó Thánh Lễ rồi đi ngủ.  Lần đầu quen nhau nên chả ai ngủ nghê gì cả.  Suốt đêm cứ rì rầm đủ thứ chuyện về quê nhà, về vượt biên, v.v…  Sáng hôm sau chúng tôi được cha cho mọi người chia sẻ về đời sống đức tin.  Thôi thì các bà, các ông lại tha hồ kể lể đủ thứ chuyện bên quê nhà, chuyện cha xứ, chuyện xứ đạo.  Ăn trưa xong, chúng tôi dự Thánh Lễ rồi chầu Thánh Thể và kết thúc.

Đi tĩnh tâm về tôi cũng vui lắm, thấy thú vị vì quen một số đồng hương, được chia sẻ đủ thứ chuyện, được chầu Thánh Thể (mà hồi giờ tôi chưa hề biết)… rồi năm nào vị linh mục cũng lập lại cuộc tĩnh tâm như thế.

Tôi thấy mình chẳng học được gì về Chúa cả.

Những thắc mắc trong tâm hồn lại ngồn ngộn trở về mà chẳng biết hỏi ai, chẳng có một sách báo hay thông tin nào về đạo mà đọc cả.

Năm 1989 tôi được mời dự Đại Hội Sinh Viên Công Giáo Âu Châu, tổ chức ở Strassbourg, Pháp Quốc.  Dịp này tôi được một linh mục giới thiệu đi dự một khóa tĩnh tâm theo phương pháp linh thao của Thánh Inhaxiô Loyola.  Trong 3 ngày linh thao tại Brüssels, tôi mới biết thế nào là Ơn Cứu Độ, và hiểu sơ sơ về Lịch Sử Cứu Độ.  Tôi được Chúa dạy tập thể thao cho linh hồn tôi, bằng những giờ thinh lặng để lắng nghe tiếng Chúa, khi cầu nguyện với đoạn Phúc Âm mà cha giảng phòng vừa hướng dẫn.

Tiếng Chúa thật mảnh, thật thanh, thật nhẹ, thật khẽ nên càng lắng đọng tâm hồn bao nhiêu, ta nghe được tiếng Chúa rõ bấy nhiêu.

Tôi đã gặp được Chúa Giêsu, tôi yêu thích và quý trọng nhất khi Chúa chạm đến trái tim “ngổn ngang trăm mối” của tôi thật dịu dàng mà thắm thiết, thật sâu thẳm mà ngọt ngào biết bao!!!.  Những giọt nước mắt biết ơn, cảm động, sung sướng tuôn tràn, ngập đầy hạnh phúc trong tôi.  Lần đầu tiên tôi biết Chúa Giêsu, là con Thiên Chúa xuống thế làm người, là Đấng Kitô chịu chết trên cây thập tự để chuộc tội cho thiên hạ và cho chính cá nhân tôi.  Lần đầu tiên tôi biết đến Lời Chúa, Kinh Thánh, Tin Mừng là gì, Giáo Hội là ai, các Thánh là ai, và quan trọng nhất tôi là ai.  Là ai mà Chúa thương yêu vậy?

Bây giờ Chúa ở trong tôi thật sự thức dậy rồi.  Chúa thức dậy và làm những điều kỳ diệu, mở trí khôn cho tôi hiểu Ngài, mở trái tim cho tôi biết yêu Ngài. Tôi nhớ đoạn Tin Mừng “Trong khi Đức Giêsu đang ở đằng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ.  Các môn đệ đánh thức người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?  Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! câm đi!”  Gió liền tắt và biển lặng như tờ” (Mc 4, 38-39).

Tâm hồn tôi bây giờ đã có Chúa ngự “ở đằng lái” để hướng dẫn tôi đi trên con đường của Thầy: “Ta là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6).

Từ đó mỗi ngày tôi để cho Chúa dắt tôi đi với Lời Chúa, những lúc này tôi được sống giây phút lặng thinh êm ả bên Chúa, tôi hiểu Chúa, và yêu Chúa.  Tôi cố gắng mỗi năm đều đi dự tĩnh tâm linh thao để có những ngày nghỉ ngơi tĩnh lặng bên Chúa, được sống trọn vẹn với Ngài, được Chúa yêu thương an ủi, xoa dịu những vết thương, những nỗi đau trong đời sống thường ngày, và tôi được yêu Ngài dồi dào hơn.

Tôi biết Chúa ở trong tôi đang lớn lên… và lớn chừng nào thì tôi không biết.

Thước để đo xem Chúa lớn bao nhiêu trong linh hồn chúng ta là

Mỗi ngày tôi sống với Chúa trong lòng mình bao nhiêu phút…

Chỉ có một người đã yêu Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực, chính là Thánh Phaolô, khi Thánh nhân thốt lên: “Tôi sống không phải tôi sống mà là Chúa sống trong tôi”

Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa đã gieo vào lòng con hạt giống Giêsu từ bao nhiêu năm nay thế mà con không biết chăm bón cho hạt giống nẩy mần lớn lên, mà chính con đã để cho thế gian trong con đè chết ngạt hạt giống ấy, mặc dầu nhiều lúc hạt giống cũng đã nứt mần, muốn ngoi lên, nhưng bóng tối đầy đặc đã vô tình ngăn chặn không cho Hạt Giống Giêsu lớn lên.

Lạy Chúa Giêsu, xin mở lòng, mở trí cho cá nhân con và cho chúng con, những tín hữu biết yêu Chúa trên hết mọi sự.  Xin cho chúng con biết noi gương và sống như Thánh Phaolô.  Amen!

Elisabeth Nguyễn

From: langthangchieutim & anh chị Thụ Mai gởi

Olympia – Thế vận hội mùa Đông Sotschi 2014

Olympia – Thế vận hội mùa Đông Sotschi 2014


Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long

2/16/2014

Từ 07. – 23. Tháng Hai 2014 diễn ra Thể thao thế vận hội Olympia mùa Ðông ở Sotschi , bên nước Nga.

Các nước trên thế giới đựợc kêu mời gửi các người chơi thể thao chuyên nghiệp tham dự cuộc tranh tài. Thời gian lễ hội Olympia kéo dài hai tuần lễ.

Thể thao và đời sống cùng với niềm tin tôn giáo có liên quan với nhau không?

1. Olympia trong đời sống

Ngay từ thời thượng cổ năm vào khoảng 776 / 775 trước Chúa giáng sinh ( v. Chr.) đã có hội lễ thể thao Olympia kính thờ thần Zeus bên Hy lạp, như sử sách còn ghi chép để lại.

Những cuộc tranh tài lễ hội Olympia được tổ chức cứ bốn năm một lần cho tới thế kỷ thứ ba sau Chúa giáng sinh. Vào năm 394 n.Chr. hoàng đế Theodosius I. ra chiếu chỉ cấm hẳn những sinh hoạt lễ hội Olympia. Từ thời điểm đó không còn lễ hội thể thao Olympia nữa.

Ðến năm 1894 Pierre Baron de Coubertin, người Pháp, đã đưa ý kiến làm sống lại truyền thống thể thao Olympia. Thế vận hội Olympia mùa Hè lần đầu được tở chức ở thành phố Athena bên Hylạp năm 1896.

Từ năm 1924 có thêm lễ hội thể thao Olympia mùa Ðông, lần đầu tiên diễn ra ở Chamonix – vùng núi cao tuyết phủ quanh năm Mont Blanc bên Pháp

Các cuộc tranh tài thể thao Olympia được tổ chức cho hai loại thể thao mùa Ðông và mùa Hè khác nhau. Cách bốn năm lễ hội thể thao Olympia được tổ chức ở một địa điểm tùy theo ban tổ chức Olympia thế giới chọn quyết định.

Năm 2002 Olympia mùa Ðông ở Salt Lake city, năm 2006 Olympia mùa Ðông ở Turino, năm 2010 diễn ra ở Vancouver, năm 2014 ở Sotschi bên Nga

Olympia mùa Đông lần này diễn ra ở Sotschi bên Nga có 88 quốc gia trên thế giới cử đội thể thao đến tham dự những cuộc tranh tài trên các khu vực, các vùng núi đồi, cũng như sân vận động có tuyết bao phủ.

Ngay từ lúc bắt đầu trong thời gian lễ hội Olympia được tổ chức, không chỉ có các cuộc tranh tài thể thao, nhưng còn có những lễ hội khác như ca nhạc, như rước kiệu tôn kính thần thánh. Nên mọi hình thức chiến tranh gây hấn thù địch nhau phải ngừng nghỉ.

Hòa bình là mục tiêu Olympia muốn loan truyền xây dựng trong cuộc sống con người với nhau.

Các vận động viên thể thao tham dự các cuộc tranh tài không chỉ dành phần thắng lợi, nhưng họ còn phải có một đời sống biểu lộ niềm vui tươi trên khuôn mặt.

Lễ hội tranh tài thể thao Olympia được tổ chức để khuyến khích mọi người luyện tập cho thân thể được khỏe mạnh dẻo dai cường tráng.

Trong khi tranh tài thi đua sự chân thành, cao thượng là đức tính cao cả được đề cao.

Và qua các cuộc gặp gỡ tranh tài thể thao, ca hát trình diễn văn hóa, con người hiểu biết nhau hơn cùng xây dựng với nhau tình bằng hữu.

Ngày nay khi lễ hội thể thao Olympia được khai mạc, lá cờ mầu trắng Olympia được kéo lên trong suốt thời gian tranh tài Olympia. Trên là cờ Olympia có hình năm vòng tròn in hay thêu nằm sát cạnh đan chéo một phần góc lên nhau. Ðiều này nói lên sự liên kết cùng chung sống của con người khắp năm châu bốn bể trên thế giới.

Năm vòng tròn tượng trưng cho năm Châu lục: Úc châu, Á châu, Phi châu, Âu châu và Mỹ châu với năm mầu khác nhau: Xanh da trời, Vàng, Ðen, Xanh lá cây và Đỏ. Năm mầu này chỉ là tượng trưng cho đẹp thôi.

2. Ngọn lửa Olympia

Không chỉ lá cờ Olympia với năm vòng tròn tượng trưng cho năm châu lục được long trọng kéo lên trên sân vận động Olympia, nhưng ngọn lửa Olympia cũng được rước vào khai mạc và đốt cháy sáng trong suốt thời gian diễn ra lễ hội thể thao Olympia.

Lửa Olympia được lấy trực tiếp từ mặt trời, ở tại chính vận động trường Olympia ngày xưa đã diễn ra Olympia bên Hylap. Ðây là một vận động trường nhỏ ngày xưa thời thượng cổ xây có sân vận động, có nhiều ngôi đền thờ trong khuôn viên để tôn kính thần Zeus. Bây giờ khu vận động trường Olympia lịch sử chỉ còn lại những tàn tích đổ nát.

Và cứ gần tới lễ hội Olympia được tổ chức nơi đâu trên thế giới, lại có lễ lấy lửa Olympia. Ngọn lửa đó được gìn giữ rước vòng quanh các nước, các thành phố cho tới ngày khai mạc Olympia rước vào vận động trường nơi tổ chức Olympia.

Ðức thánh cha Benedicto XVI. đã làm phép chúc lành ngọn đuốc Olympia tại quảng trường Thánh Phero, lúc ngọn đuốc Olympia hôm 05.02.2006 được rước tới đó. Và ngài cũng đã có suy tư: “ Ngọn lửa này nhắc người tín hữu Chúa Kitô nhớ đến Ngôi Lời Thiên Chúa đã xuống trần gian làm người, cùng chung sống trong mọi hoàn cảnh con người. Vâng có cả thể thao nữa, và đồng thời Chúa Giêsu Kitô là ánh sáng soi chiếu trong trần gian. Chúa Giêsu con Thiên Chúa đã chấp nhận hóa thành người có thân xác, trừ tội lỗi ra. Ngài đã sống trải qua những chặng biến cố, kể cả thể thao của con người chúng ta dưới sự hướng dẫn soi sáng của Thiên Chúa. Ðể những gía trị của cá nhân cũng như tập thể trên mọi phương diện được thanh luyện và nâng cao.”

3. Olympia và đời sống đức tin

Lễ hội thể thao Olympia có những cuộc thi đua tranh tài các bộ môn thể thao. Người thắng cuộc được tưởng thưởng hạng nhất bằng Huy chương vàng, hạng nhì Huy chương bạc và hạng ba Huy chương đồng. Tranh tài thuộc về quy luật trong đời sống. Có thế cuộc sống mới phát triển, mới trăm hoa đua nở! Nhưng phải trong tinh thần cao thượng thể thao, tôn trọng sự chân thật.

Thành tích thi đua ở lễ hội thể thao Olympia được tóm tắt trong khẩu hiệi: Citius – Altius – Fortius – Nhanh hơn – Cao hơn và khoẻ mạnh dẻo dai hơn!

Thánh Phaolô viết nhắn nhủ: “ Anh em chẳng biết sao: trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một người đoạt giải. Anh em hãy chạy thế nào để chiếm cho được phần thưởng không bao giờ hư nát.” (1cor 9,24-25).

Đức Thánh Cha Phanxico đã có lời chào mừng cùng cầu chúc lúc đọc kinh Truyền tin hôm 09.02.2014: „ Trong những ngày này Thế Vận Hội mùa đông cũng đang diễn ra tại Sochi bên Nga. Tôi muốn gửi lời chào tới các người tổ chức và tất cả các lực sĩ tham dự với lời cầu chúc nó là một lễ hội của thể thao và tình bạn.“

Tâm hồn lành mạnh trong một thân xác khỏe mạnh.

Olympia mùa Đông, 02.2014

Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long

Đời tu và hạnh phúc

Đời tu và hạnh phúc

Jos.Vinc. Ngọc Biển

2/15/2014

Là con người, từ cổ chí kim, từ Đông chí Tây…, đủ mọi lứa tuổi, mọi thành phần, ai ai cũng đều mong muốn mình được hạnh phúc hoặc sờ chạm thấy hạnh phúc dù chỉ một chút. Thánh Tôma Aquinô cũng đã nói: “Theo bản tính tự nhiên, tất cả mọi người đều khát mong hạnh phúc” . Chính vì thế, mà nhiều người chấp nhận đánh đổi rất nhiều để cầu mong được hạnh phúc. Ngày nay, cũng đã có nhiều người tìm ra cho mình những kỹ năng để nâng niu và nắm giữ được hạnh phúc lâu dài.

Tuy nhiên, điều họ mong muốn và tìm kiếm đó có đúng không hay chỉ là một sự mơ tưởng hoặc bị hiểu sai về hạnh phúc? Vậy hạnh phúc đích thực là gì và ở đâu?

1. Hạnh phúc là gì và ở đâu?

Thực sự câu trả lời rất khó để khẳng định đâu là hạnh phúc; ai là người được hạnh phúc, và dựa vào tiêu chuẩn nào để cho rằng mình hạnh phúc! Lại càng khó hơn khi mỗi người đều có một quan điểm hay một khái niệm để mặc định cho nó. Đôi khi dẫn đến tình trạng uốn nắn hạnh phúc theo chủ ý khách quan của mình.

Nhưng như đã nói, hạnh phúc được mỗi người hiểu một cách khác nhau, nên rất khó thống nhất. Các trường phái hay tôn giáo cũng có những quan niệm khác nhau khi bàn về hạnh phúc.

Trong từ điển tiếng Việt khi nói về hạnh phúc thì viết: “Có được nhiều sung sướng, toại nguyện” . Còn theo ngôn ngữ triết học thì: “Tình trạng sung sướng của con người khi khuynh hướng được hoàn toàn thỏa mãn, về lượng, về phẩm, về lâu dài theo đúng bậc thang (hay là trật tự) giá trị” . Hoặc theo Bách khoa Toàn thư thì: “Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc của con người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó mang tính trừu tượng. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao, được cho rằng chỉ có ở loài người, nó mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí” .

Sự sung sướng, hay thỏa mãn có thể là cái gì đó nắm bắt được cách cụ thể như: tiền tài, danh lợi, sức khỏe, sắc đẹp, địa vị, uy thế, quyền lực, thành công, thỏa mãn ước muốn…, bởi vì người ta phỏng chiếu sự hạnh phúc dưới nhiều lăng kính chủ quan và có phần hiện sinh, nên đôi khi “thấy vậy mà không phải vậy”. Tôi theo góc độ và vị thế của tôi; anh theo chủ quan của anh. Mỗi người sẽ tùy thuộc vào quan điểm, hiểu biết và bậc sống của mình dựa trên nhu cầu về thể lý hay tâm linh để hình thành nên một quan niệm về hạnh phúc.

Nhưng nếu chỉ có thế thì quan niệm của con người về hạnh phúc thật lệnh lạc vì nó không bám rễ sâu trong tâm hồn, nơi nội căn của con người. Hạnh phúc như thế, thì phải chăng không phải là hạnh phúc thật, bởi vì nó mang nặng tính chủ quan, phiến diện, nên con người cứ nhọc công tìm kiếm, và lòng tham vô đáy của con người biết đâu cho vừa, nên cứ phải đi tìm hoài, tìm mãi… Người đời thường có câu: “Con dao và cái nĩa không làm cho người ta ngon miệng” (De Sirvy). Còn trong nhà tu thì có ngạn ngữ: “Áo dòng không phải chân tu, hoa thơm nhân đức đời tu mới thành” hay: “chiếc áo không làm nên thầy tu”.

Từ cái nhìn đó, mỗi người chúng ta hiểu được ngay rằng: những thứ bên ngoài thì không đem lại cho người ta hạnh phúc thật, còn những cái ở bên trong mới đem lại cho con người hạnh phúc.

Như vậy, hạnh phúc là một cái gì đó cao quý, thiêng liêng, là vô hằng mà ai cũng mong muốn đạt được. Nó là một trạng thái nội tâm sâu xa được khởi đi từ nội căn chứ không phải thứ hạnh phúc bề ngoài do ngoại tại tác động. Còn khi nói đến hạnh phúc trong đời tu, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã nói khi gặp gỡ các linh mục và tu sĩ tại Hoa Kỳ trong chuyến viếng thăm mục vụ năm 2008: “Giáo Hội không cần có nhiều linh mục, tu sĩ chỉ đề có nhiều, nhưng Giáo Hội cần có các linh mục, tu sĩ hạnh phúc vì được là linh mục tu sĩ”. Rồi trong năm Đức Tin vừa qua, Giáo Hội cũng mời gọi con cái của mình: “Tái khám phá hành trình Đức Tin để làm sáng lên niềm vui, lòng phấn khởi được gặp gỡ Đức Kitô”. Tiếp theo, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã quyết định chọn năm 2014 là năm: “Tân Phúc Âm Hóa Gia Đình”, qua đó các ngài mời gọi mọi thành phần dân Chúa sống tinh thần “Tân Phúc Âm Hóa Gia Đình để thông truyền Đức Tin”.

Tất cả những lời giáo huấn của các đấng chủ chăn trong Giáo Hội luôn mời gọi mỗi người hãy cảm nghiệm được: “Evangelii Gaudium – Niềm Vui Tin Mừng”. Khi cảm nghiệm được niềm vui và hạnh phúc vì có Chúa ở cùng và sống với, mỗi người chúng ta mới có thể loan báo và lưu truyền Đức Tin cho thế hệ tương lai.

Tuy nhiên, thành phần quan trọng trong sứ vụ này không ai khác là chính những người sống đời thánh hiến. Nhưng trước khi giúp cho người khác khám phá và tái khám phá niềm vui, hạnh phúc khi đi theo và gắn bó với Đức Kitô, thì chính những người được thánh hiến phải trở nên dấu chỉ về niềm hy vọng, hạnh phúc và niềm vui của mình cho người khác.

2. Đời tu và hạnh phúc

Có một câu chuyện kể rằng: “Một ông vua giàu có nọ không bao giờ cảm thấy thỏa mãn, bởi vì tất cả tài sản mà ông có đều do sự miễn cưỡng đóng góp của thần dân. Ông tự so sánh mình với những người hành khất: người hành khất nhận được tiền của do lòng thương của người khác, còn ông, ông nhận được tiền do sự cưỡng bách.

Ngày nọ, ông vua giàu có đã cải trang thành người hành khất để cảm nghiệm được những đồng tiền bố thí… Thế là mỗi ngày Chúa Nhật, ông biến mình thành một người ăn xin lê lết trước cửa giáo đường. Ông được nhiều người giúp đỡ ông và tỏ lòng thương mến. Tối về, ông tự nghĩ: ‘bây giờ ta mới thực sự là người giàu có nhất trên đời, bởi vì tiền của ta nhận được là do lòng thương xót của con người, chứ không do một sự cưỡng bách nào’.

Một thời gian sau đó, ông gom góp tặng hết những gì mình có cho người nghèo trong vùng rồi chảy đi nơi khác. Ông cảm thấy hạnh phúc vô cùng, bởi vì lần đầu tiên ông cảm nghiệm được niềm vui của sự ban tặng. Ông hiểu được rằng cho thì có phúc hơn là nhận lãnh… Lần này, ông thốt lên với tất cả xác tín: ‘Tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian này’”.

Đời tu cũng thế, hạnh phúc không phải là ở trong một nhà dòng to lớn có bề dày về truyền thống, hay có những cơ sở hạ tầng vĩ đại, hoặc một giáo xứ lớn, những nơi giáo dân luôn tôn trọng, nâng đỡ và tạo điều kiện thuận lợi là hạnh phúc. Không! Hạnh phúc đời tu không phải như thế! Hạnh phúc trong đời tu chính là gắn bó với Chúa liên lỉ trong đời sống hằng ngày.

Chỉ có sự gắn bó với Chúa, được biểu hiện qua đời sống cầu nguyện, chúng ta mới thấy được hạnh phúc nội tâm và niềm vui chia sẻ.

Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo nói: “Cầu nguyện Kitô giáo là mối tương quan giao ước giữa Thiên Chúa và con người trong Đức Kitô” (x. GLHTCG số 2564).

Như vậy, nhờ cầu nguyện, chúng ta được đi vào giao ước thánh của lòng ta với Thiên Chúa. Có cầu nguyện, ta mới khám phá ra hạnh phúc thật và hạnh phúc giả tạo: “Hãy sống thân tình với Thiên Chúa và xây dựng bình an, anh sẽ tìm lại được hạnh phúc” (G 22, 21).

3. Sống thân tình với Thiên Chúa

Khi chọn đời sống tu trì để hiến dâng cho Thiên Chúa và con người, thì đời tu của mỗi chúng ta là một cuộc giao ước thánh. Thông qua giao ước này, ta chọn Chúa làm Chủ đời ta, ta thuộc về Ngài, và Ngài thuộc về ta. Cuộc giao ước này là một cuộc giao ước tình yêu. Lời mời gọi của Đức Giêsu “hãy theo Thầy” và ta đáp trả, ấy là một cuộc tình được thiết lập, mà Đức Giêsu là người chủ động đi bước trước.

Đây là một lời mời gọi mang đầy tình mến mà Đức Giêsu dành cho những ai Ngài chọn. Khi chúng ta đáp lại lời mời gọi đó, là chính lúc ta được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài. Thánh Phaolô đã nói thật thâm sâu: “ Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Ðức Kitô Giêsu, Chúa của tôi …” (Pl 3, 8).

Tông Huấn về đời sống thánh hiến khẳng định: “Khởi điểm của chương trình này là sự kiện phải rời bỏ tất cả để theo Đức Kitô” (ĐSTH số 93) và sống gắn bó với Ngài.

Sự gắn bó với Đức Kitô được hiểu như là sự sống còn. Chính Ngài cũng đã diễn tả tâm tình này khi đưa ra hai dụ ngôn người tá điền và anh lái buôn: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” (Mt 13,44 – 46).

Niềm vui và hạnh phúc của người môn đệ chính là xác tín thật chắc chắn về vị Thầy mà mình quyết định đi theo để được ở cùng và sống với Ngài. Vị Thầy đó chính là kho tàng, là viên ngọc quý. Nói cách khác, Ngài là lẽ sống, là lý tưởng, là thần tượng của chúng ta. Vì thế, không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô (x. Rm 8, 38). “Khi được Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô” (x. Pl 3,7-8). Trong Tin Mừng, chúng ta cũng thấy có câu chuyện chàng thanh niên giàu có được Đức Giêsu đem lòng yêu mến, quý trọng và mời gọi anh ta bước đi theo Ngài để được hạnh phúc: “ Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”. (22) Anh ta sa sầm nét mặt vì lời đó, và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (Mc 10,21-22). Tuy nhiên, anh đã không đáp lại lời mời gọi ấy và đã buồn rầu bỏ đi chỉ vì anh ta có nhiều của cải. Chúa của anh là đồng tiền. Chính đồng tiền đã chiếm địa vị độc tôn nơi anh ta.

Trong thực tế, giới nhà tu của chúng ta cũng vậy. Có rất nhiều người muốn theo Chúa, hiến thân để sống đời phục vụ… Nhưng oái oăm thay, họ lại không chịu những điều kiện đi đôi với ước muốn đó. Họ muốn cả hai và luôn trong tình trạng sẵn sàng “bắt cá hai tay”; hay “tu sĩ hàng hai”. Họ ngại khó, ngại hy sinh, và khó từ bỏ. Hoặc thay vì đi theo và chọn Chúa, thì lại chỉ lo làm việc của Chúa! Đến khi không có việc của Chúa hay không ưng ý với công việc được trao thì sinh ra buồn phiền, chán nản và bỏ đi như chàng thanh niên giàu có kia.

Chính vì thế, chúng ta không lạ gì khi thấy rất nhiều người tỏ vẻ bên ngoài thành công, mũ mão cân đai, họ nói cười oang oang, họ vỗ ngực xưng tên, họ được nhiều người trọng dụng… Nhưng thực chất, khi đối diện với lương tâm, họ là những người bi đát, thất vọng vì không có nguồn hạnh phúc thật là chính Chúa, mà chỉ có những thứ hạnh phúc rẻ tiền mà thôi.

Vậy muốn có một cuộc đời hạnh phúc thật, thì trước tiên, người sống đời thánh hiến phải yêu mến và siêng năng đời sống cầu nguyện.

4. Đời sống cầu nguyện nơi người thánh hiến

Nói đến nghề đi buôn, người ta nghĩ ngay đến chuyện buôn gì, có lời hay lỗ. Cũng vậy, khi nói đến đời tu, người ta nghĩ ngay đến đời sống cầu nguyện. Cầu nguyện được ví như hơi thở: ” Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái,nhưng thể xác lại yếu đuối” (Mt 26,41). Nếu không cầu nguyện, chúng ta còn có nguy cơ bị cám dỗ và xa dần Thiên Chúa nữa.

Cầu nguyện đối với người sống đời thánh hiến được khởi đi từ lúc bình minh đến khi chiều tà. Từ khi mặt trời ló rạng đến khi khuất núi ban chiều. Mẹ Têrêsa Calcutta đã cầu nguyện liên lỉ. Cầu nguyện trong mọi cảnh huống thường ngày. Tuy nhiên, mẹ không phải lúc nào cũng ở trong nhà thờ để cầu nguyện. Với mẹ, mọi nơi mọi lúc đều có thể cầu nguyện được. Chính vì thế, hễ những ai gặp được mẹ, từ người quyền cao chức trọng, đến thường dân. Từ người giàu đến người sống trong khu ổ chuột… ai ai cũng cảm thấy hạnh phúc và vui mừng khi gặp mẹ. Mẹ không có tiền bạc, không phải là một phụ nữ hấp dẫn, trẻ trung, không phải là người có địa vị trong xã hội… Nhưng mẹ hấp dẫn là vì mẹ có tình yêu. Tình yêu của mẹ là tình yêu hướng tha, được khởi đi từ sự cầu nguyện. Chính trong đời sống cầu nguyện mà mẹ cảm nghiệm thật hạnh phúc, đồng thời mẹ trao ban niềm vui và hạnh phúc đó cho mọi người.

Trong đời tu, nhiều khi chúng ta không cảm thấy hạnh phúc ngay trong những chiến thắng bề ngoài. Tại sao vậy? Thưa chỉ đơn giản là không có cầu nguyện. Hay lời cầu nguyện của chúng ta bị đóng khung ở bên trong nhà thờ; bị khóa chặt trong cuốn sách kinh mà không hề ăn nhập gì với cuộc sống cả. Những người như thế, họ như là “xác không hồn” và không sớm thì muộn, đời tu của họ sẽ sụp đổ tan tành ngay bởi sự nhàm chán trong công việc phụng vụ, phục vụ và nỗi cô đơn trong đời tu.

Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận trong tác phẩm Đường Hy Vọng có nói: “Thứ nhất cầu nguyện, thứ hai hy sinh, thứ ba mới đến hoạt động” (ĐHV 119).

Khi không có đời sống cầu nguyện trong cuộc đời của người tận hiến, chúng ta làm mọi chuyện chỉ là việc cưỡng ép, mà nếu làm như vậy, thì có lẽ máy móc tân tiến ngày nay làm hơn chúng ta nhiều.

Nếu chúng ta không có đời sống cầu nguyện, thì chúng ta mất đi nguồn sự sống, nguồn bình an, và như thế, chính bản thân ta đâu có đủ tư cách nói rằng tôi làm việc này hay việc khác vì Chúa đâu! “Cầu nguyện là nền tảng của đời sống thiêng liêng. Lúc cầu nguyện con nối liền, kết hợp với Thiên Chúa. Bóng điện sáng nhờ nối liền với máy phát điện (ĐHV 120). Những người không có đời sống cầu nguyện, thì dù họ có làm được phép lạ cũng đừng tin. Cuộc đời của họ sẽ sụp đổ nhanh chóng vì họ xây nhà trên cát (x. Lc 6, 49).

Có rất nhiều anh chị em chúng ta nói: tôi cầu nguyện rất nhiều, tôi dành cho Chúa rất nhiều thời giờ, nhưng sống với anh chị em trong cộng đoàn thì chẳng ra gì cả. Người đời thường nói: “Khoảng cách xa nhất trong cuộc sống chính là từ miệng đến bàn tay”.

Như vậy, cầu nguyện phải là một trạng thái thanh thoát và bình an. Cầu nguyện không phải là chuyện làm cho xong để rồi giờ cầu nguyện được ví như giờ lên lớp hay trả bài. Không phải thế, cầu nguyện là lòng với lòng, ta với Chúa trong tình Cha – con. Vì thế, đừng lý luận cao siêu, đừng bóp trán nặn óc để thưa lên với Chúa những lời sáo rỗng từ chương, nhưng thực chất chẳng có gì.

Mặt khác, cầu nguyện còn giúp cho mỗi chúng ta trở về với lòng mình cách chân thực để biết mình và biết Chúa. Nhận ra con người yếu đuối của mình, và nhận ra Thiên Chúa là đáng tuyệt mỹ. Khi nhận ra mình như thế thì điều đầu tiên cần có là tâm hồn sám hối và sung sướng vì được Chúa thương yêu. Khi họ cầu nguyện, họ được vì như: “Người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bảo táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá ” (Mt 7, 24-25).

Những người sống đời cầu nguyện thâm sâu, thì họ sẽ suy nghĩ, nhìn, nói, hành động theo ý muốn và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Khi kết hiệp với Chúa, họ không ngừng sám hối và cũng không ngớt được thúc đẩy mở rộng lòng bao dung, tình thương đến với người khác. Pierre Van Brieman đã nói: “Cầu nguyện là mở tâm hồn, mở trái tim và đôi bàn tay trước mặt Thiên Chúa. Tôi còn bám víu vào nhiều thứ trong đời sống của tôi và quyết nắm chặt lấy chúng trong tay: của cải vật chất, tinh thần, công việc, địa vị của tôi, bạn bè, nguyên tắc của tôi… Nếu tôi mở tay ra, những ‘của cải’ trên vẫn còn đó, có lẽ không một vật nào rơi bớt đi, nhưng ít nhất đôi bàn tay tôi đã mở. Thái độ đó là thái độ của người cầu nguyện”.

Người sống đời tận hiến chỉ hạnh phúc khi gắn bó với Nguồn cội, với Đấng đã, đang và sẽ ban cho mình tất cả.

Nói cho cùng, chúng ta hạnh phúc vì đã mở ra, mở ra với Thiên Chúa và mở ra với tha nhân.

Như một lời kết luận, xin mượn câu chuyện của mẹ Têrêsa Calcutta với một ký giả, khi ông này có buổi tiếp xúc với mẹ.

Câu chuyện được bắt đầu với lời hỏi của anh ta:

Sáng nay mẹ làm gì?

Cầu nguyện.

Bắt đầu từ mấy giờ?

4 giờ rưỡi.

Và sau khi cầu nguyện?

– Chúng tôi tôi tiếp tục cố gắng cầu nguyện qua công việc bằng cách làm những công việc đó với Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu và cho Chúa Giêsu. Điều này giúp chúng tôi đặt cả trái tim và tâm hồn mình vào công việc đang làm. Những người đang hấp hối, những người đang co quắp, những người bệnh tâm thần, những người bị bỏ rơi, những người không được yêu thương. Họ là Chúa Giêsu cải trang….

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy đời sống cầu nguyện của chúng ta rất quan trọng. Khi cầu nguyện, chúng ta tin nhận Thiên Chúa là chủ đời ta cũng như vận mệnh của đời ta. Chúng ta sẽ làm mọi chuyện vì quy Kitô. Lấy Chúa Kitô làm trung tâm của ơn gọi và sứ vụ. Lúc đó chúng ta sẽ hạnh phúc vì có Chúa ở cùng chứ không bị lệ thuộc vào những công việc của Chúa hay những thứ bề ngoài.

TIN NÀO MANG LẠI NIỀM VUI ?

TIN NÀO MANG LẠI NIỀM VUI ?

Lm. VĨNH SANG, DCCT

Như thói quen mọi năm, năm nay tôi đi Cần Giờ để đón Giao Thừa Giáp Ngọ. Ra khỏi Sàigòn, vượt thoát cái không gian náo động làm tôi cảm nhận được sự thoải mái, cho dù chiều 30 Tết, Sàigòn đã vắng vẻ nhiều, xe cộ đi lại dễ dàng và đường phố thoáng đãng hơn. Nói ra khỏi Sàigòn có vẻ khó nghe, vì Cần Giờ vẫn là một huyện của Sàigòn cơ mà, nhưng trong thực tế, Cần Giờ vẫn là một vùng xa xăm dù trung tâm Cần Giờ chỉ cách trung tâm Sàigòn trên dưới 40 cây số.

Xa xăm vì nếp sống và mức sống rất khác nhau: một bên là thành phố ồn ào, hàng quán tấp nập kẻ ra người vào, những ngôi nhà cao ngất trời, đèn xanh đèn đỏ nhấp nháy quảng cáo khắp nơi; một bên là những rừng đước mênh mông, những con kênh chằng chịt, những nhà tranh vách đất hoặc phên lá, những ruộng muối trắng bệch trơ màu xơ xác.

Thật ra những năm gần đây, nhất là khi con đường rộng thênh thang được mở ra, người ta đã thấy lác đác vài căn biệt thự kiên cố xuất hiện, cổng cao rào kín với vườn cây ăn trái như xác nhận “đẳng cấp” của gia chủ giữa vùng nghèo khó mạt cùng. Mặt khác, cái sang trọng của Saigon đang lan rộng ra theo nhiều chiều, theo hướng Cần Giờ nó đang liếm dần ra biển, phần nào khựng lại ở bên này bến phà Bình Khánh. Con sông Sàigòn bỗng dưng chỗ này rộng phình ra, con phà qua lại làm người ta có cảm giác hơi hướm của thế kỷ 19 vẫn còn vương vấn đâu đây, thuở chúng đã viết nên những chuyện tình lãng mạn vùng sông nước.

Tôi “rời” Sàigòn qua những con phố đìu hiu… Ngang khu trung tâm, tôi chứng kiến những vạt hoa ế ẩm của chiều 30 trên các vệ đường, trên những mảng công viên, người bán đượm đầy vẻ lo âu trên gương mặt, quần áo xốc xếch, những vạt hoa cứ vậy như thấm đẫm nỗi buồn của người “đưa đò” cho nó. Tình hình buôn bán khá ế ẩm, không biết tôi có cảm nhận sai lầm không nhỉ ?

Đêm Giao Thừa tôi ở cộng đoàn Cần Giờ, ngồi ăn cơm chiều nói chuyện với nhau, tôi đã trở thành mồi ngon cho loài muỗi đói, nó xông ra từ những bụi đước, lao thẳng đến, ghim vào da thịt như những chiếc phi cơ chiến đầu cảm tử lao vào mục tiêu. Cảnh giác với đôi chân thì chúng lại tìm cách xuyên qua cả quần áo, chỗ nào cũng thấy bị nó tấn công. Anh em ở vùng khó khăn, tắm bằng nước nhiễm phèn, da thịt ai cũng bóng lưỡn, dày cộm và đã quen mùi gian khổ, còn mình “dân thành phố” ăn trắng mặc trơn, anh em bảo da có mùi thơm, chịu sao nổi với gian lao khổ ải ?

Đêm Giao Thừa người ta bắn pháo bông ở trung tâm xã Cần Thạnh, dân chúng quanh vùng chạy ra xem thích thú, từng ngọn pháo bông bay lên nổ tung trên không trung, tỏa ra muôn vàn ánh sáng kỳ diệu lung linh sắc màu. Cuộc bắn pháo bông chào mừng năm mới diễn ra chừng 20 phút, sau đó mọi sự lại chìm vào thinh lặng của biển và của ruộng nương.

Sáng Mồng Một anh chị em tín hữu kéo đến đầy Nhà Thờ, tràn cả ra ngoài sân, cha sở ngạc nhiên vì có nhiều “kẻ lạ mặt” đi dự lễ, hỏi ra mới biết con cháu từ xa về ăn Tết với gia đình. Không khí vui tươi náo nhiệt nơi Nhà Thờ kéo dài khoảng hơn 1 giờ đồng hồ, tôi hỏi cha sở: “Sau đó thì sao ?” Ngài nói: “Ai về nhà ấy, bắt đầu những… sòng bạc và những chiếu nhậu”. Hết ! Tết ở đây là vậy !

Chiều Mồng Hai mới có Lễ, làm lễ sáng… chẳng ma nào đi ! Tôi, cha sở và một cha nữa, bóc tấm bánh chưng ra ăn, cha sở lấy chai xì dầu xịt xịt vài cái vào chén của mình như thói quen ngày trước trên bàn cơm khi ngài còn sống chung với chúng tôi ở Tu Viện Sàigòn. Ngài nổi tiếng là ăn cơm tốn… xì dầu ! Bữa sáng Mồng Một Tết của chúng tôi ở vùng truyền giáo, một huyện thuộc Sàigòn, cách trung tâm Sàigòn hơn kém 40 cây số, nối với Sàigòn bằng một con đường ngang 26 mét, rộng thênh thang…

Trên đường trở về thành phố, tôi đi ngang qua các ruộng muối, các vuông tôm, lác đác người diêm dân ra thăm ruộng, co ro trong tấm áo mỏng tang, chiếc quần cộc và cái nón lá. Buổi sáng sớm, 7g30 ngày Mồng Một Tết, họ đón Tết như những ngày lao động bình thường, vẫn là ruộng, vẫn là muối, có một chị đàn bà nhấp nhô đạp guồng nuôi tôm quần quật cả ngày chắc vẫn không… đủ ăn.

Không biết từ bao giờ cái Tết bỗng mất bầu khí vui tươi, trong lành và đậm đà tình tự, chỉ còn là cơ hội của một số người trục lợi ( chắc tôi không quá bi quan và cũng không vơ đũa cả nắm đâu ! ), ngay tại sát nách thành phố này mà còn có những cảnh đời như vậy nói gì đến những vùng sâu vùng xa hơn nữa ? Ngay tại đường huyết mạch Cần Giờ – Sàigòn mà còn thế thì những vùng sâu bên trong dân chúng sống thế nào ?

Một xã hội như vậy đó, Chúa bảo chúng ta dấn thân để rao giảng Tin Mừng, tin nào sẽ làm cho những người nghèo được mừng ? Một câu hỏi đầu năm cho chúng ta, thật nhức nhối !

Lm. VĨNH SANG, DCCT, Minh Niên Giáp Ngọ

Tác giả: Lm. Vĩnh Sang, DCCT (Ephata 597)

Nhiều kêu gọi tưởng niệm 35 năm cuộc chiến chống Trung Quốc

Nhiều kêu gọi tưởng niệm 35 năm cuộc chiến chống Trung Quốc

Nghĩa trang các liệt sĩ trong chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979 bên ngoài thủ đô Hà Nội.

Nghĩa trang các liệt sĩ trong chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979 bên ngoài thủ đô Hà Nội.

Trà Mi-VOA

14.02.2014

Các nhóm dân sự độc lập trong và ngoài nước kêu gọi tưởng niệm 35 năm cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung ngày 17/2/1979.

Cuộc chiến xâm lược của Trung Quốc trên toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam đã gây ra những tổn thất nặng nề cho Việt Nam. Cho tới nay vẫn chưa có số liệu thống nhất về số thương vong từ phía Việt Nam và Hà Nội cũng chưa chính thức tưởng niệm sự kiện lịch sử nhuốm đầy xương máu này.

Đánh dấu 35 năm cuộc chiến bảo vệ chủ quyền dân tộc, hơn 70 nhân sĩ-trí thức trong nước bao gồm những vị có tên tuổi như Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Công Giàu, Huỳnh Kim Báu…ngày 12/2 công bố Lời Kêu gọi trên các trạng mạng xã hội, lên án hành động xâm lược của Trung Quốc và yêu cầu chính phủ Việt Nam phải tôn vinh những người đã hy sinh vì đất nước.

Những người ký tên trong Lời Kêu gọi nói cuộc tấn công của Trung Quốc là ‘tội ác’ và là một ‘điều sỉ nhục, hèn hạ’, đồng thời cũng bày tỏ phẫn nộ về việc nhà cầm quyền Việt Nam ‘nín nhịn không cho phép công bố sự thật về cuộc chiến tranh xâm lược bẩn thỉu và dã man này.’

Chúng tôi kêu gọi các cơ quan chức năng, công an, an ninh hiểu được thiện ý rằng các hoạt động của chúng tôi là để bảo vệ Tổ quốc, thức tỉnh nhân dân đấu tranh xây dựng xã hội tự do-dân chủ.

Anh Nguyễn Lân Thắng, thành viên của NO-U Hà Nội.

Các nhân sĩ-trí thức Việt Nam nói sẽ ‘hèn hạ không kém nếu không dám công khai và quyết liệt vạch trần tội ác xâm lược của kẻ thù, càng phi đạo lý hơn nữa khi thỏa hiệp với luận điệu xảo trá về cái gọi là giữ gìn đại cục, chui đầu vào thòng lọng của mười sáu chữ lừa bịp để tự trói tay, trói chân mình, quay lại đàn áp nhân dân biểu tỏ lòng yêu nước, lên án giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.’

Nhóm nhân sĩ trí thức đề nghị nhà nước Việt Nam chính thức tổ chức lễ tưởng niệm cuộc chiến tranh biên giới 1979 bằng nhiều hình thức, trả lại vị trí xứng đáng cho những anh hùng-liệt sĩ đã hy sinh, và lấy ngày 17/2 hằng năm làm ngày kỷ niệm ‘cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Trung Quốc như cách ông cha từng làm với Giỗ Trận Đống Đa kỷ niệm chiến thắng đánh tan 20 vạn quân xâm lược nhà Thanh thế kỷ XVIII.’

Cùng lúc đó, nhóm hoạt động phản đối bản đồ đường lưỡi bò của Trung Quốc ở Biển Đông với tên gọi ‘NO-U Hà Nội’ ra thông báo kêu gọi mọi người đến tham gia Lễ Kỷ niệm Ngày Biên giới Việt Nam để tri ân những liệt sĩ hy sinh bảo vệ đất nước trước ngoại xâm Trung Quốc.

 

Người biểu tình giương biểu ngữ tưởng niệm 40 năm Hoàng Sa bị Trung Quốc cưỡng chiếm tại vườn hoa Lý Thái Tổ, Hà Nội, ngày 19 tháng 1, 2014.

Người biểu tình giương biểu ngữ tưởng niệm 40 năm Hoàng Sa bị Trung Quốc cưỡng chiếm tại vườn hoa Lý Thái Tổ, Hà Nội, ngày 19 tháng 1, 2014.

Lễ Kỷ niệm dự kiến diễn ra lúc 9 giờ sáng chủ nhật, 16/2, tại Tượng đài Lý Thái Tổ, Hồ Gươm, Hà Nội.

Anh Nguyễn Lân Thắng, một thành viên tích cực của NO-U Hà Nội, cho biết thêm chi tiết:

“NO-U Hà Nội chúng tôi tổ chức sự kiện này để dâng hương, dâng hoa, đọc những lời tri ân đối với các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống cho Tổ quốc. Tùy theo tình hình, chúng tôi sẽ có nhiều hoạt động khác, còn chờ xem thái độ của chính quyền và sự ngăn trở của họ ra sao.”

Buổi tưởng niệm tương tự đúng ngày này năm ngoái ở Hà Nội đã gặp phải sự sách nhiễu của chính quyền địa phương. Anh Thắng nói những sự cản trở như vậy không hề làm cho việc tổ chức sự kiện này thất bại, vì:

“Chúng tôi không nghĩ rằng việc tổ chức trọn vẹn buổi lễ là thành công vì tất cả các hoạt động của chúng tôi là nhằm tưởng niệm các liệt sĩ và kêu gọi sự quan tâm của tất cả quần chúng nhân dân đến các vấn đề của đất nước. Đồng thời, chúng tôi cũng kêu gọi các cơ quan chức năng, công an, an ninh hiểu được thiện ý rằng các hoạt động của chúng tôi là để bảo vệ Tổ quốc, thức tỉnh nhân dân đấu tranh xây dựng xã hội tự do-dân chủ.”

NO-U Hà Nội kêu gọi chính quyền và các lực lượng an ninh của nhà nước bảo đảm an toàn cho buổi lễ, không tổ chức hát hò, vui chơi thể thao và thi công trong khu vực quanh Hồ Gươm cũng như không gây khó dễ cho những người tham gia Lễ Kỷ niệm này.

Anh Nguyễn Lân Thắng tiếp lời:

“Nếu như họ có bất kỳ động thái nào ngăn trở người tham gia lễ tưởng niệm, ném mắm tôm, cắt đá, hay dùng loa phá rối sẽ là thông điệp gửi cho thế giới về thái độ của chính quyền Việt Nam đối với nhân dân, đối với xương máu của bao nhiêu đồng bào chiến sĩ đã bỏ mình vì Tổ quốc như thế nào.”

Cùng lúc đó, cộng đồng người Việt tại Philippines cũng ra thông báo kêu gọi đồng hương đang sinh sống, học tập, và làm việc ở Manila tham gia buổi tưởng niệm 35 năm cuộc chiến tranh biên giới 1979 được tổ chức trước đại sứ quán Trung Quốc.

” Nếu họ có bất kỳ động thái nào ngăn trở người tham gia lễ tưởng niệm…sẽ là thông điệp gửi cho thế giới về thái độ của chính quyền Việt Nam đối với nhân dân, đối với xương máu của bao nhiêu đồng bào chiến sĩ đã bỏ mình vì Tổ quốc như thế nào.

Anh Nguyễn Lân Thắng.”

Ban tổ chức cho biết các sinh hoạt tưởng niệm từ 11 giờ trưa đến 1 giờ chiều ngày 17/2 sẽ bao gồm thắp nến, cầu nguyện, hát quốc ca, kêu gọi gìn giữ hòa bình, và lên án tội ác chiến tranh.

Cuối năm ngoái, báo chí nhà nước dẫn lời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng loan báo chính phủ Việt Nam sẽ kỷ niệm sự kiện 40 năm cuộc hải chiến Việt-Trung ở Hoàng Sa (19/1/1974) và 35 năm cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung ở phía Bắc (17/2/1979).

Tờ Thanh Niên trích phát biểu của ông Dũng tại buổi làm việc với Hội Khoa học Lịch sử rằng: ‘Phải kỷ niệm. Nhưng kỷ niệm thế nào để ổn định’, ‘chứ không phải Bộ Chính trị không quan tâm’.

Bản tin này sau đó đã bị gỡ xuống và hầu như tất cả báo chí trong nước đều ngưng đưa tin về cuộc hải chiến Hoàng Sa 1974 một hôm trước ngày tưởng niệm 19/1.

Chương trình tưởng niệm, thắp nến tri ân ‘Hướng về Hoàng Sa’ dự kiến diễn ra tại Công viên Biển Đông (Đà Nẵng) cũng bị hủy vào giờ chót với lời cáo lỗi của ông Đặng Công Ngữ, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện Hoàng Sa, rằng ‘do công tác chuẩn bị chưa được chu đáo’.

TQ đánh VN vì muốn làm ăn với Mỹ’

TQ đánh VN vì muốn làm ăn với Mỹ’

Thứ bảy, 15 tháng 2, 2014

Ông Đặng Tiểu Bình và ông Jimmy Carter trong một buổi lễ vào tháng 01/1979

Nhân tròn 35 năm cuộc chiến Biên giới Việt – Trung năm 1979, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc (1974-1987) nhìn lại sự kiện từ góc độ một nhà ngoại giao khi đó đang có mặt ở Bắc Kinh.

Trong cuộc phỏng vấn ngày 15/2, ông cho biết chi tiết những gì đã xảy ra với Tòa đại sứ Việt Nam và các nhân viên vào thời điểm xảy ra cuộc chiến hôm 17/2/1979.

“Lúc bấy giờ thì mọi hoạt động ngoại giao đều bị đình chỉ, dù chưa tuyên bố cắt quan hệ ngoại giao,” ông nói.

“Khi đó sứ quán chúng tôi bị họ vây, cán bộ đi ra ngoài thì bị theo dõi.”

Mở bằng chương trình nghe nhìn khác

“Nhiều khi họ gây trở ngại, nói xe chúng tôi là đi trái pháp luật, nhưng thật ra thì không phải là trái pháp luật mà là họ cố ý làm chậm trễ việc tôi đi tiếp xúc với các đoàn ngoại giao khác.”

Tuyên truyền cho chiến tranh

Ông cho biết trước khi cuộc chiến xảy ra, Việt Nam và Trung Quốc đã có mâu thuẫn xung quanh vấn đề người Hoa và phía Trung Quốc đã tuyên truyền là “Việt Nam xua đuổi người Hoa”.

“Họ nói họ phải đưa hai tàu vào TP.HCM và Hải Phòng để đón cái gọi là ‘nạn kiều’ của họ,” ông nói.

“Khi Campuchia đánh phía Tây Nam Việt Nam, chúng tôi đánh lại, thì họ tuyên truyền là chúng tôi xâm lược Campuchia.”

Tuy nhiên ông Vĩnh cũng nói khi đó, báo chí Trung Quốc không hề đả động đến hành động diệt chủng của chính quyền Khmer Đỏ.

“Lúc bấy giờ mấy sư đoàn của Pol Pot là do Trung Quốc trang bị. Họ trang bị cho đồng minh của họ để xúi Pol Pot đưa quân đánh phía Tây Nam Việt Nam”.

Ông Vĩnh cũng nói nội bộ lãnh đạo Việt Nam lúc đó đã nhất trí hoàn toàn về việc tiến công qua biên giới Campuchia.

‘Không chuẩn bị’

“Chúng tôi không có chủ trương gây chiến tranh, sự thật thì họ xâm lược chúng tôi thì chúng tôi phải đánh, họ rút lui rồi thì thôi, chúng tôi cũng chẳng thấy phải đuổi theo để tiêu diệt thêm quân Trung Quốc làm gì”

Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh

Thiếu tướng Vĩnh cho hay “khi biết được Trung Quốc đang làm một số đường dẫn ra biên giới thì tôi hiểu là họ đang có ý đồ muốn tạo thành một gọng kìm từ phía Bắc với đồng minh Campuchia của họ ở phía Nam.”

“Thế nhưng tôi không biết chính xác khi nào là họ sẽ đánh.”

Ông cũng cho biết phía Việt Nam “thực sự đã không chuẩn bị gì” cho cuộc tấn công của Trung Quốc.

Trả lời câu hỏi của BBC về sự hỗ trợ của Liên Xô thời bấy giờ đối với Việt Nam trong chiến tranh biên giới với Trung Quốc, ông Vĩnh cho biết:

“Mặc dù trước đó đồng chí Lê Duẩn có ký một hiệp ước tương trợ với Liên Xô rồi, nhưng khi Trung Quốc đánh thì không có sự tương trợ nào từ Liên Xô cả.”

“Khi đó chủ lực của chúng tôi chủ yếu ở phía Nam, phía Bắc thì chỉ có hai sư đoàn địa phương ghép lại để đánh lại với 60 vạn quân Trung Quốc thôi.”

Tuy nhiên, ông cũng khẳng định “phía chúng tôi thì cũng không có bất mãn nào” đối với Liên Xô.

“Lúc bấy giờ chỉ có bộ đội biên giới chúng tôi đánh lại với Trung Quốc, nhưng Trung Quốc lại gặp bất lợi về chiến trường vì địa hình rừng núi, tiếp tế cũng khó, hành quân cũng khó. Nên họ thương vong rất nhiều.”

Vì sao không truy kích?

Tù binh Trung Quốc trong cuộc chiến năm 1979

Trả lời câu hỏi của BBC về việc Việt Nam quyết định không truy kích sau khi quân Trung Quốc rút lui vào tháng Ba năm 1979, ông Vĩnh nói:

“Bởi vì chúng tôi không có chủ trương gây chiến tranh, sự thật thì họ xâm lược chúng tôi thì chúng tôi phải đánh, họ rút lui rồi thì thôi, chúng tôi cũng chẳng thấy phải đuổi theo để tiêu diệt thêm quân Trung Quốc làm gì.”

“Miễn là họ phải rút lui khỏi biên giới chúng tôi là được.”

Ông Vĩnh cũng cho rằng cuộc chiến biên giới năm 1979 là do Trung Quốc muốn tạo thiện chí với Mỹ.

“Một là họ đánh Việt Nam là để đỡ đòn cho đồng minh Pol Pot ở Campuchia,” ông nói.

“Một mặt khác, họ đánh với chúng tôi để gửi đi thông điệp là không phải vì cùng là cộng sản mà Việt Nam và Trung Quốc lại thân nhau.”

“Họ muốn đánh chúng tôi vì họ muốn làm ăn với Mỹ.”

Valentine và Mùa Xuân

Valentine và Mùa Xuân


Lm Giuse Nguyễn Hữu An

1. Thánh Valentinô

Ngày 14 tháng 2, Giáo Hội mừng lễ Thánh Valentinô.

Người ta nghĩ rằng Thánh Valentine là linh mục ở Rôma và là một y sĩ. Trung thành với đức tin, ngài được phúc tử đạo vào ngày 14 tháng 2. Chúng ta không biết gì nhiều về ngài, nhưng ngay vào khoảng năm 350, một nhà thờ đã được xây cất nơi ngài tử đạo.

Truyền thuyết nói rằng ngài là một linh mục thánh thiện đã cùng với Thánh Marius giúp đỡ các vị tử đạo trong thời Claudius II. Ngài bị bắt, và bị điệu đến tổng trấn Rôma xét xử. Sau khi dụ dỗ mọi cách nhưng đều vô hiệu, quan tổng trấn đã ra lệnh cho lính dùng gậy đánh đập ngài, sau đó đưa đi chém đầu vào ngày 14 tháng 2, khoảng năm 269. Người ta nói rằng Ðức Giáo Hoàng Julius I đã cho xây một nhà thờ gần Ponte Mole để kính nhớ ngài.

Nhiều giả thuyết khác nhau về nguồn gốc việc cử hành ngày Valentine. Một số cho rằng người Rôma có một tập tục vào giữa tháng 2, trong ngày ấy các con trai tô điểm tên các cô con gái để tỏ lòng tôn kính nữ thần dâm dục là Februata Juno. Các tu sĩ thời ấy muốn dẹp bỏ tập tục này nên đã thay thế bằng tên các thánh tỉ như Thánh Valentine. Một số khác cho rằng thói quen gửi thiệp Valentine vào ngày 14 tháng 2, là vì người tin rằng các con chim bắt đầu sống thành cặp vào ngày này, là ngày Thánh Valentine bị chém đầu. Dường như chắc chắn hơn cả là vào năm 1477, người Anh thường liên kết các đôi uyên ương với ngày lễ Thánh Valentine, vì vào ngày này “mọi chim đực đi tìm chim mái.”. Tục lệ này trở thành thói quen cho các đôi trai gái viết thư tình cho nhau vào ngày Valentine. Ngày nay, các cánh thiệp, quà cáp và thư từ trao cho nhau là một phần của việc cử hành ngày Valentine.(x.nguotinhuu.com)

Ngày 14 tháng 2 hàng năm đã trở thành ngày truyền thống để trao đổi thư tình và Thánh Valentinô đã trở thành quan thầy của những cặp uyên ương. ( Macmillan Profiles: Festivals and Holidays, 1999, p. 363)

2. Tình yêu và mùa xuân

Nhân ngày Valentine, nghe ca khúc “Anh cho em mùa Xuân”, nhạc réo rắt gợi bao cảm xúc về tình yêu hồn nhiên trong sáng.

Nhạc sĩ Nguyễn Hiền phổ nhạc từ bài thơ “Nụ hoa vàng ngày xuân” của thi sĩ Kim Tuấn.

“Anh cho em mùa Xuân. Mùa xuân này tất cả.
Lộc non vừa trẩy lá. Thơ còn thương cõi đời.
Con chim mừng ríu rít.Vui khói chiều chơi vơi.
Đất mẹ gầy có lúa.Đồng ta xanh mấy mùa.
Con trâu từ đồng cỏ.Khua mõ về rộn khua.
Ngoài đê diều thẳng cánh.Trong xóm vang chuông chùa.
Chiều in vào bóng núi.Câu hát hò vẳng đưa.
Tóc mẹ già mây bạc.Trăng chờ trong liếp dừa.
Con sông dài mấy nhánh.Cát trắng bờ quê xưa…”.

Kim Tuấn sinh năm 1940 tại Huế.Trải qua thời thơ ấu ở Phan Thiết rồi vào Sài Gòn vừa đi làm vừa đi học, làm thơ từ đầu thập niên 1960 và là thi sĩ có thơ được phổ nhạc nhiều nhất trước 1975 với 17 bài.

Về bài thơ “Nụ hoa vàng ngày xuân”, Kim Tuấn cho biết: Tôi làm bài thơ này để nhớ về quê mẹ: Hà Tĩnh, vùng đất sỏi đá nhiều hơn cơm gạo với mơ ước “Đất mẹ gầy có lúa”, có lúa chứ không phải cỏ lúa như nhiều người vẫn hát nhầm (cỏ lúa thì phải nhổ đi chứ ai lại mơ ước có thêm!). Bài thơ này tôi sáng tác vào đầu thập niên 1960, sau đó in trong tập “Ngàn Thương” (chung với Định Giang) và được nhạc sĩ Nguyễn Hiền phổ thành ca khúc. Đã có nhiều ca sĩ thể hiện bài hát này nhưng tôi thích giọng ca của Hà Thanh hơn cả và điều làm tôi ray rứt là cho tới nay vẫn chưa nói được với nữ ca sĩ này một lời cám ơn…

Nhạc sĩ Nguyễn Hiền kể lại trường hợp ông đã phổ bài thơ “Nụ hoa vàng ngày xuân”của Kim Tuấn. Đó là ngày mùng 5 Tết 1962, tôi đi làm trong một không gian vẫn còn hơi hướm tết. Đến sở, trên bàn làm việc của tôi có một tập thơ còn thơm mùi giấy mới. Đó là tập 40 bài thơ của các nhà thơ Vương Đức Lệ, Định Giang, Kim Tuấn và một người nữa tôi không nhớ tên. Tôi lần giở đọc qua từng bài và bắt gặp bài thơ “Nụ hoa vàng ngày xuân”.

Đó là một bài thơ ngũ ngôn đầy ắp hình tượng và rất giàu cảm xúc. Vậy là chỉ trong buổi sáng hôm đó tôi phổ nhạc xong bài thơ. Điều buồn cười là tôi lấy luôn 3 câu thơ đầu tiên phổ thành 1 câu nhạc (Anh cho em mùa xuân, nụ hoa vàng mới nở, chiều đông nào nhung nhớ…) thấy rất “ngọt” nên cứ thế mà phát triển bài thơ thành ca khúc. Tôi lấy câu thơ đầu tiên để đặt tên cho ca khúc này. Sáng hôm sau có một nhà thơ còn rất trẻ xưng tên là Kim Tuấn đến gặp tôi, hỏi: “Có gửi cho nhạc sĩ một tập thơ, không biết đã nhận chưa?”. Tôi trả lời: “Nhận được rồi và riêng bài thơ ‘Nụ hoa vàng ngày xuân’ của Kim Tuấn thì tôi đã phổ thành ca khúc”.

Kim Tuấn rất ngạc nhiên và sau khi nghe tôi hát thì anh rất vui. Từ đó, tôi và Kim Tuấn đã có một mối quan hệ, mối duyên văn nghệ rất tốt đẹp…

Nhà thơ Kim Tuấn mất năm 2003, còn nhạc sĩ Nguyễn Hiền mất năm 2005. Hai người bạn thơ nhạc đã rủ nhau vào cõi vĩnh hằng nhưng bài thơ bài nhạc họ gởi lại trần gian vẫn còn mãi. (x.dotchuoinon.com)

Mỗi độ xuân về, giai điệu rộn ràng tươi vui của bài hát “Anh cho em mùa xuân” lại vang vọng trên khắp mọi nẻo đường quê hương.

Anh cho em mùa xuân, đường hoa vào phố nhỏ, nhạc chan hòa đây đó. Tình yêu non nước này, bài thơ còn xao xuyến, rung nắng vàng ban mai…

Tình yêu cũng giống như mùa xuân. Những cảm xúc tình yêu khi xuân đến không giống như con tim yêu lãng mạn của mùa thu, không kiếm tìm sự ấm áp như mùa đông, cũng chẳng giống như suối nguồn tưới mát tâm hồn trong những ngày nắng cháy da của mùa hạ. Tình yêu trong mùa xuân là nỗi khát khao cháy bỏng, là sự trào dâng những xúc cảm mãnh liệt, nồng nàn, rộn rã…

Ngày Valentine như một kỷ niệm để nhắc nhở mọi người về Tình yêu. Một chàng trai thương mến một cô gái nhưng không dám tỏ tình, nhân ngày Valentine đã dùng một tấm thiệp hay một món quà để bày tỏ tình cảm. Một cặp tình nhân, nhân dịp Valentine để biểu lộ tình yêu đằm thắm hơn. Một đôi vợ chồng già, tình yêu đã phai nhạt với tháng ngày, nhân ngày Valentine, một bó hoa, một cử chỉ đặc biệt sẽ làm sống lại mối tình lâu ngày ngủ yên. Con cái bày tỏ tình yêu hiếu thảo với cha mẹ nhân ngày Valentine. Thật hạnh phúc khi nhận được một đóa hồng nhân ngày Valentine. Tình yêu sẽ bừng sáng, tươi mát trở lại hơn xưa rất nhiều.

Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời người bắt đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của đời người. Mùa xuân là mùa của sự sống niềm vui và hy vọng.Yêu nhau là mùa xuân đang về, cưới nhau là khởi đầu mùa xuân, một năm mới của đời sống vợ chồng. Thật hạnh phúc cho những ai đang yêu và được yêu, những rung động của tình yêu sẽ hòa chung với sắc xuân ấm áp, linh thiêng và tươi mới…!

Làm sao để vợ chồng mãi là mùa xuân của nhau?

*  1)  Thứ nhất là phải biết nghe nhau.Lắng nghe bằng tất cả sự tôn trọng.

*  2)Thứ hai là phải biết nói với nhau. Nói với nhau bằng ngôn ngữ tình yêu.

*  3) Thứ ba phải biết dí dỏm, trào lộng. Hài hước sẽ làm cho bầu không khí gia đình nhẹ nhàng vui tươi.

*  4)  Thứ bốn phải biết cầu nguyện với nhau và cho nhau.Cầu nguyện cho nhau, và cầu nguyện cùng nhau. Có hình ảnh nào đẹp hơn hình ảnh gia đình cùng cầu nguyện, cùng nghe lời Chúa.

Hãy tặng nhau Tình Yêu Valentine để luôn có mùa xuân hạnh phúc. Tình Yêu Valentine là Tình yêu Vị Tha Agapê. Đặc tính của tình yêu là dịu dàng như dòng nước, êm mát nhún nhường. Tình yêu có vẻ mềm yếu hơn tất cả nhưng lại mạnh hơn tất cả. Bởi vì không phải đá hay lửa thắng được nước mà là nước chảy đá mòn. Không gì có thể thắng nổi tình yêu vì Thiên Chúa là tình yêu. Vì thế mọi dòng sông vẫn tiếp tục chảy ra biển cả. Tình yêu Thiên Chúa vẫn chan hoà muôn người.

Tình yêu dạy cho con người niềm hạnh phúc lớn nhất cao cả nhất và đẹp nhất là biết trao ban, hiến dâng, cho đi, quãng đại, bao dung. Đó là đỉnh cao tình yêu Kitô giáo: Yêu là hy sinh cho người mình yêu. Yêu là tìm hạnh phúc cho người mình yêu.

GIẢNG DẬY BẰNG GƯƠNG MẪU

Có lẽ nhiều người không biết đến tên Juan Romero, nhưng hàng triệu người còn nhớ tấm hình của anh được xuất hiện trên hàng ngàn tờ tuần san, nhật báo và các đoạn phim ngắn trên toàn thế giới.
Juan Romero là một chú bồi phòng 17 tuổi trong y phục trắng quỳ trên sàn nhà, tay đỡ lấy đầu của TNS Robert Kennedy ngay sau khi ông bị ám sát vào năm 1968.
Trong lòng bàn tay của TNS Kennedy người ta thấy có chuỗi Mai Khôi. Đó là xâu chuỗi mà Juan đã lấy trong túi và đặt vào tay thượng nghị sĩ khi anh quỳ bên cạnh ông.
Ba mươi năm sau, nhân ngày giỗ TNS Kennedy vào năm 1998, cả hai tuần báo TimesNewsweek đều in lại tấm hình này và kể lại câu chuyện của anh Juan.
Buổi tối hôm trước, Juan thu dọn các khay thực phẩm còn sót lại từ đêm qua vì anh được vinh dự phục vụ căn phòng mà TNS Kennedy ở trong khách sạn.
Khi Juan bước vào phòng, TNS Kennedy bắt tay anh một cách thân mật. Sau này Juan kể lại, “Lúc ấy tôi không còn cảm thấy mình là một chú bồi phòng… Tôi cũng không thấy mình chỉ là một thiếu niên 17 tuổi. Tôi thấy mình là một con người.” Juan rất ngưỡng mộ TNS Kennedy đến độ anh ghim tấm hình của thượng nghị sĩ ngay bên cạnh tượng thánh giá ở trên tường. Juan ngưỡng mộ TNS Kennedy vì ông là một người Công Giáo, một người lưu tâm đến gia đình, và là người đã khen ngợi các người Mễ chăm chỉ làm việc.
Làm thế nào Juan lại ở bên cạnh TNS Kennedy khi ông ta bị bắn?
Khi Juan được biết sau cuộc vận động tranh cử tổng thống ở mặt tiền khách sạn chấm dứt, TNS Kennedy và bà vợ Ethel cùng với các thân hữu và các vệ sĩ sẽ đi ra khỏi khách sạn bằng lối nhà bếp.
Với hy vọng sẽ được bắt tay vị anh hùng một lần nữa, Juan đứng đợi trên đường đến nhà bếp. Khi TNS Kennedy đi ngang qua, Juan đã bắt tay ông một lần nữa. Ngay khi đó, Juan cảm thấy một luồng khí nóng sát ngay cạnh đầu. Đó là từ cây súng đã giết chết TNS Kennedy.
Ngày hôm sau, tấm hình anh Juan quỳ trên sàn, tay đỡ lấy đầu TNS Kennedy xuất hiện trong các đoạn phim và có thể nói trên mọi tờ báo lớn ở trong nước.
Độc giả ở khắp nơi đều xúc động trước hình ảnh này. Các thông tín viên săn đuổi anh Juan và viết bài phỏng vấn. Ngay cả có người đề nghị cấp học bổng đại học cho anh để đổi lấy câu chuyện độc đáo cho riêng mình.
Nhưng Juan từ chối. Anh nói rằng, cha anh từng bảo với anh rằng thật chẳng vinh dự gì khi được lợi ích từ sự đau khổ của người khác. Do đó Juan từ bỏ cơ hội để được nổi tiếng và quyết định noi gương vị anh hùng của mình bằng sự chăm chỉ làm việc, vinh danh Thiên Chúa, và lo lắng cho gia đình.
Ngày nay, Juan có bốn người con và bốn đứa cháu. Ông làm việc trong một công ty làm lề đường, lái xe tải và rải nhựa đường.
Ông và gia đình sẵn sàng chia sẻ căn nhà của họ cho những người di dân từ Mễ Tây Cơ, là những người cần sự giúp đỡ ban đầu.
Điều này đưa chúng ta trở về với bài Phúc Âm hôm nay và lời hứa của Chúa Giêsu: Ai giữ và dậy người khác tuân giữ các giới răn của Ta, họ sẽ nên cao trọng trong Nước Thiên Chúa.
Juan Romero đã giữ các giới răn và, qua đời sống gương mẫu, ông đã cũng đã dậy người khác làm như vậy.
Trước khi minh hoạ cách ông thi hành điều này, chúng ta cần biết về TNS Kennedy. Cũng giống như mọi người chúng ta, ông cũng có ưu và khuyết điểm trong đời sống.
Một trong những ưu điểm của thượng nghị sĩ Kennedy là ông có thể khích lệ và linh hứng giới trẻ thuộc mọi thành phần.
Thí dụ, trước khi ông bị ám sát, TNS Kennedy đã đến nói chuyện với các học sinh trung học ở trung tâm Pine Ridge Reservation ở South Dakota. Sau cuộc thăm viếng này, một thiếu nữ da đỏ cho biết: Ông đã làm chúng tôi cảm thấy hãnh diện về dòng giống chúng tôi, chứ không phải xấu hổ. Trong ánh nhìn xa xăm của các học sinh chung quanh tôi, một số đứa nhìn ông thấy kính sợ, đứa khác thấy hy vọng, đứa khác thấy đức tin… Chúng tôi biết rằng ông để ý đến chúng tôi.
Đó là ưu điểm của TNS Kennedy mà nó đã linh hứng ông Juan.
Chúng ta hãy thử nhìn xem làm thế nào qua gương mẫu đời sống, bây giờ đến lượt ông Juan linh hứng người khác.
Một trong những nguồn linh hứng người khác là tượng thánh giá và tấm ảnh của TNS Kennedy treo trên tường phòng ngủ của Juan.
Có bao nhiêu người Công Giáo ngày nay treo tượng thánh giá ở trong phòng để nhớ đến những gì Chúa Giêsu đã làm cho họ?
Tôi biết có lẽ sẽ nhiều người nói rằng, “Ba mươi năm trước thì người Công Giáo còn làm như vậy, chứ ngày nay thì có ai?”
Một năm trước đây, tôi cũng nói như vậy, nhưng một ngày kia, có một người cha cô độc đến với tôi và nói, “Thưa cha, con có câu chuyện muốn chia sẻ với cha. Tuần qua con đến thăm thằng con trai. Như cha biết, nó được học bổng đầy đủ của một trường đại học nổi tiếng ngoài đời ở miền đông. Con cũng hãnh diện là nó được bầu làm chủ tịch của lớp. Nhưng điều làm con thực sự xúc động, và hãnh diện hơn nữa về nó là khi con bước vào phòng của nó. Ở trên tường ngay trên đầu giường là một tượng thánh giá. Cạnh đó là tấm hình của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mà nó đã cắt từ tờ báo.
Khi người cha kể cho tôi nghe câu chuyện này, tôi nghĩ ngay đến tấm gương của Juan Romero. Nhưng chúng ta hãy đi sang các tấm gương khác.
Nhiều người tín hữu Kitô ngày nay mang tràng hạt trong túi áo, cũng giống như ông Juan. Nhưng có bao nhiêu người sáng suốt đủ để đặt xâu chuỗi ấy vào tay của một người đang hấp hối vì đó là lúc họ cần đến nhất?
Có bao nhiêu tín hữu Kitô dám từ bỏ những cơ hội để được nổi tiếng và có tiền, như ông Juan đã làm, chỉ vì họ không muốn lợi dụng sự đau khổ của người khác?
Sau cùng, có bao nhiêu tín hữu Kitô dám chia sẻ mái nhà của mình cho những người di dân là những người cần được giúp đỡ ngay tự ban đầu, như ông Juan đang thi hành ngày hôm nay? Tôi nghĩ điều đó rõ ràng cho thấy cách ông Juan dậy người khác bằng gương mẫu của mình.
Chúng ta hãy kết thúc với những lời của một thi sĩ. Bài thơ vô danh này giải thích cách chúng ta áp dụng những điểm này vào đời sống của mình.
Tất cả sẽ vô hiệu khi giảng dậy về chân lý, cho những đôi tai của các thiếu niên… Lời lẽ hay ho sẽ đánh bóng cho lời bạn khuyên bảo, nhưng thanh thiếu niên sẽ học hỏi từ cách bạn sống.

Lm Mark Link, SJ

Việt Nam có đưa Trung Quốc ra tòa?

Việt Nam có đưa Trung Quốc ra tòa?

Thứ năm, 13 tháng 2, 2014

 

Trung Quốc ngày càng hung hăng trên Biển Đông

Hãng tin Anh Reuters vừa đăng tải bài viết của ký giả Greg Torode nói về khả năng một ‘cuộc chiến pháp lý’ giữa các nước Asean với Trung Quốc trong lĩnh vực chủ quyền ở Biển Đông.

Mới đây, Tổng thống Philippines Benigno Aquino đã gây chú ý khi ông so sánh chính sách của Trung Quốc tại Biển Đông với Đức Quốc xã thời trước Thế chiến II và kêu gọi quốc tế trợ giúp cho các nỗ lực đối chọi lại tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh mà Manila đang đưa ra.

Philippines đã mang tranh chấp chủ quyền biển với Trung Quốc ra tòa trọng tài quốc tế để phán xử theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển và theo các luật sư, tòa án có thể cho phép các nước khác cùng tham gia.

Trung Quốc cho tới nay vẫn khước từ tham gia vụ kiện và đã cảnh báo Việt Nam không nên ủng hộ Philippines.

Tuy nhiên, phóng viên Reuters nói Hà Nội vẫn đang cân nhắc và chưa đưa ra quyết định cuối cùng nào.

Bà Bonnie Glaser, chuyên gia từ Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và các vấn đề quốc tế tại Washington, được dẫn lời nói: “Nếu như có nhiều quốc gia, trong đó có các thành viên Asean, cùng lên tiếng ủng hộ việc áp dụng luật pháp quốc tế để giải quyết tranh chấp thì Bắc Kinh có thể sẽ thấy rằng họ không thể bác bỏ phán quyết của tòa quốc tế, ngay cả khi phán quyết đó nói đường chín đoạn của Trung Quốc là bất hợp pháp”.

Đức quốc xã

“Nếu như có nhiều quốc gia, trong đó có các thành viên Asean, cùng lên tiếng ủng hộ việc áp dụng luật pháp quốc tế để giải quyết tranh chấp thì Bắc Kinh có thể sẽ thấy rằng họ không thể bác bỏ phán quyết của tòa quốc tế, ngay cả khi phán quyết đó nói đường chín đoạn của Trung Quốc là bất hợp pháp.”

Bonnie Glaser, chuyên gia Trung tâm CSIS , Washington DC “

Các nước tranh chấp chủ quyền trực tiếp ở Biển Đông, ngoài Trung Quốc và Philippines, còn có Việt Nam, Malaysia và Đài Loan.

Trong phỏng vấn với báo New York Times hồi tuần trước, Tổng thống Aquino đã so sánh tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc với Đức Quốc xã năm 1938.

Ông cũng kêu gọi các nước không tiếp tục nhượng bộ trước các yêu sách mà ông ví như Anh và Pháp nhượng vùng Sudetenland với mục đích ngăn ngừa Thế chiến II nhưng bất thành.

Hoa Kỳ có lẽ là một trong các quốc gia lên tiếng đầu tiên ủng hộ Philippines tìm kiếm giải pháp hòa bình thông qua luật biển cho tranh chấp.

Được biết chủ đề tranh chấp Biển Đông có thể sẽ được đặt lên bàn nghị sự trong chuyến thăm của Ngoại trưởng John Kerry tới Bắc Kinh tuần này.

Trong khi đó, theo Reuters, Trung Quốc vẫn tiếp tục các động thái ngày càng mạnh bạo tại Biển Đông.

Điều đáng chú ý là phản ứng của các nước liên quan.

Báo chí nhà nước Trung Quốc đưa tin đoàn tàu tuần tra gồm hai tàu khu trục và một tàu đổ bộ hạng lớn đã tới gần bãi James Shoal – cách bang Sarawak của Malaysia có 80 km.

Tuy nhiên không rõ vì sao người đứng đầu hải quân Malaysia lại bác bỏ tin này, trong khi Tân Hoa Xã vẫn tường thuật chi tiết hải trình của các tàu Trung Quốc, rằng chúng đã qua các eo biển chiến lược của Indonesia là Lombok và Makassar để ra Ấn Độ Dương.

Truyền thông Trung Quốc còn cho hay nước này đã đưa tàu tuần tra dân sự tải trọng 5.000 tấn tới quần đảo Hoàng Sa mà Việt Nam cũng tuyên bố chủ quyền.

Tính toán của Việt Nam

Trong khi thông thường giới chức Hà Nội chỉ đưa ra các phản đối có tính khuôn mẫu, giới quan sát cho rằng ở đằng sau Việt Nam đã có những hành động nghe ngóng và tham khảo ý kiến của giới chuyên gia luật quốc tế khiến Trung Quốc phải lên tiếng cảnh báo nước này không nên tham gia vụ kiện của Philippines.

Carl Thayer, chuyên gia về Biển Đông tại Học viện Quốc phòng Australia tại Canberra, nói ông được giới chức Việt Nam cho biết đích thân Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị đã mang cảnh báo này tới cho quan chức Việt Nam trong chuyến đi Hà Nội tháng 9/2013.

Theo ông Thayer, Việt Nam đang cố cưỡng lại áp lực để giữ quyền có thể có hành động bảo vệ lợi ích quốc gia của mình.

Cựu phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị khi được hỏi về áp lực từ phía Trung Quốc đã không trả lời thẳng nhưng nói Hà Nội “theo dõi chặt các bước đi về luật pháp của Philippines”.

Đối với câu hỏi liệu Việt Nam có quyết định tham gia vụ kiện hay không, ông Nghị cũng chỉ trả lời rằng Việt Nam sẽ “sử dụng tất cả các biện pháp cần thiết và hòa bình để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia”.

Hiện tại đội ngũ gồm 5 luật sư Mỹ và Anh của Philippines đang chuẩn bị hoàn tất hồ sơ đệ tòa trước thời hạn 30/3 nhằm chứng minh đường yêu sách chín đoạn, còn gọi là đường ‘lưỡi bò’ của Trung Quốc, là bất hợp pháp theo Luật biển LHQ.

Luật sư trưởng của Philippines trong vụ này, Paul Reichler, thuộc công ty luật Foley Hoag đặt ở Washington DC, nói tòa trọng tài quốc tế có các điều khoản cho phép các nước khác xin tham gia.

Ông nói với Reuters tuy hiện chưa có nước nào ngỏ ý nhưng họ “còn nhiều thời gian để làm việc này”.

Liệu Việt Nam có quyết định tham gia hay không, chắc phải theo thời gian mới có lời giải đáp

Cuộc chiến 1979 và báo chí 35 năm trước

Cuộc chiến 1979 và báo chí 35 năm trước

Thứ sáu, 14 tháng 2, 2014

Tranh cổ động chống TQ được treo trên khắp các con đường tại VN năm 1979.

Nhân dịp kỷ niệm 35 năm chiến tranh biên giới Việt-Trung, ông Nguyễn Công Khế, Cựu Tổng Biên tập Báo Thanh Niên kể lại với BBC cách truyền thông Việt Nam của 35 năm trước đưa tin về cuộc chiến ngắn ngủi nhưng khốc liệt này.

BBC: Khi cuộc chiến nổ ra năm 1979 thì ông đang công tác ở đâu, và báo chí lúc đó đưa tin về cuộc chiến như thế nào, thưa ông?

Nhà báo Nguyễn Công Khế: Lúc đó tôi làm phóng viên của báo Phụ nữ Việt Nam. Tôi nhớ lúc đó ông Hoàng Tùng là Bí thư Trung ương Đảng phụ trách về tư tưởng, đã viết một bài xã luận rất mạnh trên báo Nhân Dân, nếu tôi nhớ không nhầm thì có tựa là “Đánh sập thói hung hăng của quân Trung Quốc xâm lược.”

Hồi Trung Quốc đánh Việt Nam thì phải nói là cả nước rất đồng lòng.

Tôi nhớ khi đó Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam và các đài khác đều phát bài của Phan Nhân mà bây giờ hát lại vẫn rất hay, có đoạn là “Bọn bành trướng Trung Quốc hãy cút ra khỏi Việt Nam ngay”.

Tôi nghĩ rằng chuyện Trung Quốc đánh sáu tỉnh biên giới phía Bắc và tàn sát người Việt Nam thì toàn dân đều ghi nhớ. Và đó là một cuộc chiến đấu rất anh dũng của người Việt Nam trước thế lực bành trướng phương Bắc.

BBC: Ngoài những bài xã luận thì những bài tường thuật về tình hình chiến trường có được đăng tải thường xuyên không, thưa ông?

Nhà báo Nguyễn Công Khế: Lúc đó đăng tải thường xuyên chứ.

Mở bằng chương trình nghe nhìn khác

Khi đó ông Võ Văn Kiệt đã nhân danh là Bí thư thành ủy để đứng trước rất nhiều cuộc mít tinh trước Nhà hát lớn thành phố và lên án Trung Quốc rất mạnh mẽ.

Từ Bộ Chính trị của Việt Nam đến Trung ương và toàn dân rất quyết tâm để bảo vệ biên giới phía Bắc.

Các tầng lớp nhân dân, từ lao động, xe ôm đến các tầng lớp trí thức đều biểu hiện quyết tâm rất cao.

BBC: Ông có thể thuật lại quan sát của ông về sự thay đổi trong cách đưa tin cũng như chủ trương về cách đưa tin xung quanh sự kiện chiến tranh biên giới năm 1979 trước và sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ?

Nhà báo Nguyễn Công Khế: Tôi nghĩ thế này. Các nước đều phải cẩn trọng trong việc xử sự với nhau để bảo vệ đối sách ngoại giao của mình.

Thế nhưng anh kỷ niệm chiến tranh với người Mỹ thì rất lớn, mà máu của người Việt Nam đổ ra trong các cuộc chiến tranh, thì máu nào cũng là máu, đâu phải nước lã.

Tôi đã từng trao đổi với những vị lãnh đạo lớn ở Việt Nam. Tôi nói vì sao chiến thắng Điện Biên Phủ chúng ta làm rất lớn, rồi chiến tranh với người Mỹ cũng kỷ niệm rất lớn, trong khi cuộc chiến tranh năm 1979 để bảo vệ Tổ quốc, cuộc chiến ghê gớm như thế, cuộc chiến mà chúng ta bị tàn sát, hy sinh nhiều như thế, lại không kỷ niệm.

Người lãnh đạo đó mới nói với tôi rằng cái đó cũng phải kỷ niệm chứ, đó cũng là một cuộc chiến của người Việt Nam chống ngoại xâm, chúng ta kỷ niệm chiến thắng quân Nguyên-Mông, chiến thắng của Quang Trung Nguyễn Huệ, đó là vấn đề bình thường, không có gì phải bàn tán.

Đối sách ngoại giao của Việt Nam đối với một nước khác, với Mỹ, Thái Lan hay Campuchia cũng vậy. Ngoại giao là của nhà nước, còn báo chí là kênh riêng.

Những việc vì lợi ích quốc gia như việc kỷ niệm chiến tranh biên giới năm 1979 là việc rất đáng làm, không có gì phải ngần ngại cả. Tôi nghĩ nếu anh cấm thì rất vô lý, lúc đó thì giới trẻ và nhân dân nghĩ về anh thế nào?

Nguyễn Công Khế, cựu Tổng biên tập báo Thanh Niên

‘Trong các cuộc chiến tranh, thì máu nào cũng là máu, đâu phải nước lã’ – Nguyễn Công Khế

BBC: Thế nhưng những loạt bài về chiến tranh biên giới năm 1979 trên PetroTimes hoặc báo Một Thế giới đều bị gỡ, thưa ông?

Nhà báo Nguyễn Công Khế: Có hai trường hợp, có thể người ta ngại ảnh hưởng tới quan hệ với Trung Quốc nên người ta bảo rút. Nhưng tôi nghĩ khả năng đó thấp thôi.

Các tổng biên tập báo trong nước người ta cũng tự kiểm duyệt, khi người ta đăng lên rồi người ta cũng vì sợ hay ngại cái gì đó mà tự rút thì cũng có.

Chính ông Nguyễn Thế Kỷ là Phó Ban Tuyên giáo Trung ương mà đã nói là không có lệnh cấm đó, thì tôi cũng tin một phần nào đó là không có chuyện đó.

BBC: Nếu Việt Nam có tự do báo chí thì phải chăng là lãnh đạo Việt Nam sẽ đỡ phải khó xử mỗi lần kỷ niệm các cuộc chiến, bởi những gì xuất hiện trên mặt báo không thể hiện quan điểm ngoại giao của nhà nước?

Nhà báo Nguyễn Công Khế: Nếu giả sử tôi là người lãnh đạo hoặc tôi có quyền gì đó, thì việc báo chí, báo chí cứ làm, việc Bộ Ngoại giao, Bộ Ngoại giao làm.

Trung Quốc một mặt thì nói là hữu hảo, 16 chữ vàng, nhưng một số báo của Trung Quốc như Hoàn cầu Thời báo cũng nói về Việt Nam rất không đúng và tệ hại.

Khi chúng ta hỏi họ thì họ nói là trung ương không chủ trương mà là các báo tự làm. Trung Quốc luôn luôn đối xử như vậy đấy.