ĐƯỜNG EMMAUS

ĐƯỜNG EMMAUS

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Đường Emmaus thật lạ kỳ.  Cùng một con đường, cùng một buổi chiều mà hai môn đệ đi lại hai lần, mỗi lần lại mỗi dáng vẻ hoàn toàn khác nhau.  Khi đi thì đường xa vời vợi, mãi không thấy đến.  Lúc về thì sao chóng vánh, chưa đi đã đến.  Khi đi thì ảo não u sầu.  Lúc về lại phấn khởi hân hoan. Khi đi trời còn sáng mà tưởng như đi trong đêm đen.  Lúc về trời đã tối mịt mà tưởng đi giữa ban ngày.  Khi đi tuyệt vọng chán chường.  Lúc về tràn đầy hi vọng.  Chắc hẳn ai cũng hiểu, lúc về có kết quả tốt đẹp như thế là vì hai môn đệ đã gặp được Chúa Kitô Phục Sinh.  Chính Chúa Kitô Phục Sinh làm nên khác biệt.  Gặp Chúa Kitô Phục Sinh là bí quyết giúp thay đổi cuộc đời, giúp cuộc đời có ý nghĩa, có niềm vui, có hi vọng và có lẽ sống.

Nhưng làm thế nào để gặp được Chúa Kitô Phục Sinh?  Thực ra sau khi phục sinh, Chúa không còn bị giới hạn trong không gian.  Chúa ở khắp mọi nơi.  Chúa ở ngay bên ta.  Nhưng ta không thấy được Ngài và có khi thấy nhưng không nhận ra Ngài.  Muốn gặp Ngài và nhận ra Ngài, ta hãy học hỏi bí quyết của hai môn đệ Emmaus: bí quyết đó là xây dựng những cộng đoàn chia sẻ.

Trước hết là chia sẻ Lời Chúa.  Hai môn đệ không đi một mình nhưng lúc nào cũng bên nhau.  Hai môn đệ không nói chuyện vu vơ, nhưng cùng nhau nhớ đến Chúa, nói chuyện về Chúa, chia sẻ tâm tư về Chúa.  Các ngài đã thực hành Lời Chúa: “Ở đâu có hai ba người tụ họp nhân danh Thày thì Thày ở giữa họ.”  Chúa đã thực hiện lời hứa nên đã đến đồng hành với các môn đệ.  Hơn nữa, Chúa còn chia sẻ Lời Chúa giúp các ngài hiểu biết và yêu mến Lời Chúa.

Tiếp đến là chia sẻ bác ái. Chúa giả vờ muốn đi xa hơn.  Nhưng các môn đệ van nài: “Xin ở lại với chúng tôi vì trời đã chiều và ngày sắp tàn.”  Thật cảm động khi lỡ đường mà được mời chia sẻ một mái nhà, dù chỉ là quán trọ.  Và chia sẻ một bữa ăn dù đơn sơ đạm bạc.  Nếu các môn đệ không có lòng bác ái chia sẻ như thế, có lẽ Chúa đã bỏ đi.  Cảm động trước tấm lòng chia sẻ chân thành nên Chúa đã ở lại.  Các môn đệ đã thực hành Lời Chúa: “Mỗi lần các con làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40).  Nhờ chia sẻ bác ái, các ngài đã được gặp Chúa.  Và chính Chúa đã ở lại để chia sẻ tâm tình với các ngài.

Sau cùng là chia sẻ Thánh Thể. Ngồi vào bàn, Chúa Giêsu “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ.”  Đúng như cử chỉ Chúa làm khi lập phép bí tích Thánh Thể.  Mắt các môn đệ mở ra và nhận ra Chúa.  Phép Thánh Thể cho các ngài bảo chứng về sự hiện diện của Chúa.  Phép Thánh Thể ban cho các ngài niềm vui được gặp gỡ Chúa.  Phép Thánh Thể ban cho các ngài sức sống mới để tiếp tục xây dựng các cộng đoàn chia sẻ rộng lớn hơn.  Từ đó nhân lên các cộng đoàn chia sẻ Lời Chúa, chia sẻ bác ái và chia sẻ Thánh Thể đi khắp thế giới.

Tôi rất vui mừng vì giáo xứ nhà thờ chính tòa chúng ta đang phấn đấu xây dựng thành một cộng đoàn theo gương các môn đệ.  Cha Xứ và Anh chị em đang tích cực khuyến khích nhau học hỏi, chia sẻ và thực hành Lời Chúa, khuyến khích tổ chức các nhóm họat động từ thiện bác ái, và khuyến khích mọi người đến tham dự thánh lễ ngày càng đông đảo.  Đó là dấu hiệu Chúa đang ở giữa chúng ta.  Có Chúa hiện diện tôi tin chắc cộng đoàn giáo xứ chúng ta sẽ được ơn biến đổi, sẽ tràn đầy niềm vui, niềm bình an, sẽ ngày càng thêm đoàn kết yêu thương và sẽ hăng hái đi loan Tin Mừng.  Xin Chúa cho con đường cộng đoàn chúng ta đang đi trở nên con đường Emmaus, khi đi dù có khó khăn vất vả, nhưng với sự phấn đấu ta sẽ gặp Chúa và đường về sẽ tràn ngập niềm vui.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh xin cho chúng con được sống lại thật về phần linh hồn.  Amen!

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

From: langthangchieutim & Anh chị Thụ Mai gởi

 

Hãy thong thả Sống

Hãy thong thả Sống

Trần Mộng Tú

“Thượng Đế khi đem mình vào đời, có hỏi ý kiến mình đâu. Nên chắc chắn là khi Ngài gọi mình đi cũng chẳng cần thông báo trước.”

Nhiều khi chúng ta sống mà quên bẵng đi là mình có thể chết bất cứ lúc nào. Ta hối hả sống, vui, buồn, khỏe, yếu, ta cứ lướt qua rồi không ngoái đầu lại nhìn chuỗi ngày tháng ta đã tiêu hao của một đời người.

Cho đến khi có một người bạn vừa ngã bệnh, bệnh nặng, không biết sẽ mất đi lúc nào, lúc đó ta mới xa, gần, hốt hoảng gọi nhau. Tưởng như chưa từng có người bạn nào “Chết” bao giờ. Hay ta có một người thân trong gia đình, đang rất khỏe vừa báo tin bị bệnh hiểm nghèo. Gia đình, họ hàng cuống lên, sợ hãi như chưa nghe đến ai nói về cái chết bao giờ, chưa chứng kiến cảnh vào bệnh viện, cảnh tang ma bao giờ.

Cả hai người trên có thể đã ngoài 70 tuổi. Lạ thật! Cái tuổi nếu có chết thì cũng đã sống khá lâu trên đời rồi, sao những người chung quanh còn hoảng hốt thế. Hóa ra người ta, không ai muốn nghe đến chữ “Chết” dù chữ đó đến với mình hay với người thân của mình.

Hình như không ai để ý đến mỗi sáng chúng ta thức dậy, nhìn thấy mặt trời mọc (nếu còn để ý đến mặt trời mọc) là chúng ta đã tiêu dùng cái ngày hôm qua của đời sống mình. Có người vì công việc làm ăn, cả tuần mới có thời giờ ngửng mặt nhìn lên mặt trời. Buổi sáng còn tối đất đã hấp tấp ra đi, buổi chiều vội vã trở về lúc thành phố đã lên đèn, làm gì nhìn thấy mặt trời. Nhưng mặt trời vẫn nhìn thấy họ, vẫn đếm mỗi ngày trong đời họ. Họ tiêu mất cái vốn thời gian của mình lúc nào không biết. Tiêu dần dần vào cái vốn Trời cho mà đâu có hay. Rồi một hôm nào đó bỗng nhìn kỹ trong gương, thấy mình trắng tóc. Hốt hoảng, tiếc thời gian quá! Khi nghe tin những người bạn bằng tuổi mình, bệnh tật đến, từ từ theo nhau rơi xuống nhanh như mặt trời rơi xuống nước, họ vừa thương tiếc bạn vừa nghĩ đến phiên mình.

Thật ra, nếu chúng ta bình tâm nghĩ lại một chút, sẽ thấy “Cái chết” nó cũng đến tự nhiên như “Cái sống” . Đơn giản, mình phải hiểu giữa sống và chết là một sự liên hệ mật thiết, vì lúc nào cái chết cũng đi song song từng ngày với cái sống.

Dẫu biết rằng, đôi khi có những cái chết đến quá sớm, nhưng ta cũng đâu có quyền từ khước chết.

Tôi biết có người mẹ trẻ, con của bạn thân tôi. Chị bị ung thư, chị cầu xin Thượng Đế cho sống đến khi đứa con duy nhất của mình vào Đại Học. Chị không cưỡng lại cái chết, chị chỉ mặc cả với Thượng Đế về thời gian vì con chị lúc đó mới lên 3 tuổi. Thượng Đế đã nhận lời chị. Ngày con chị tốt nghiệp Trung Học, chị ngồi xe lăn đi dự lễ ra trường của con và tuần lễ sau chị qua đời. Trong suốt mười mấy năm trị bệnh, chị vẫn làm đủ mọi việc: chị đội tóc giả đi làm, đến sở đều đặn, lấy ngày nghỉ hè và ngày nghỉ bệnh đi trị liệu.

Những bạn làm chung không ai biết chị bị ung thư, ngay cả xếp của chị. Khi họ biết ra, thì là lúc chị không đứng được trên đôi chân mình nữa. Chị sửa soạn từng ngày cho cái chết với nụ cười trên môi. Vẫn vừa đi làm, vừa cơm nước cho chồng con, ân cần săn sóc cha mẹ, hiền hòa giúp đỡ anh em trong nhà, chị mang niềm tin đến cho tất cả những người thân yêu của mình. Sau ba năm chị mất, cậu con trai mỗi năm vẫn nhận được một tấm thiệp sinh nhật mẹ viết cho mình (Mẹ đã nhờ qua người dì gửi hộ). Hôm sinh nhật 21 tuổi của cậu cũng vào ngày giỗ năm thứ ba của Mẹ, cậu nhận được tấm thiệp mừng sinh nhật mình, với dòng chữ nguệch ngoạc, chị viết cho con: Mừng sinh nhật thứ 21 của con. Hãy bước vui trong đời sống và nhớ rằng mẹ luôn luôn bên cạnh con. Tôi đọc những dòng chữ mà ứa nước mắt.

Tôi nghĩ đến chị với tất cả lòng cảm phục. Chị là người biết sống trong nỗi chết. Khi không thắng được bệnh tật, chị biết hòa giải với nó để sống chậm lại với nó từng ngày cho con mình. Chắc “Cái chết” cũng nhân nhượng với chị, thông cảm với chị như một người bạn.

Một chị bạn kể cho nghe về một bà bạn khác. Bà này mới ngoài sáu mươi, nhanh nhẹn, khỏe mạnh và tính nết vui vẻ, yêu đời. Nhưng khi nào đi ra khỏi nhà bà cũng mang theo một bộ quần áo đặc biệt, đủ cả giầy vớ bỏ vào một cái túi nhỏ riêng trong va-li. Hỏi bà, sao lại để bộ này ra riêng một gói vậy, bà thản nhiên nói:“Nếu tôi chết bất thình lình ở đâu, tôi có sẵn quần áo liệm, không phiền đến ai phải lo cho mình.” Bà mang theo như thế lâu lắm rồi, tôi không biết có khi nào bà ngắm nghía mãi, thấy chưa dùng tới, bà lại đổi một bộ mới khác cho ưng ý không? Giống như người phụ nữ sắp đi dự tiệc hay cầm lên, để xuống, thay đổi áo quần sao cho đẹp. Đi vào cái chết cũng có thể coi như đi dự một đám tiệc.

Tôi nghĩ đây là một người khôn ngoan, sẵn sàng cho cái chết mà bà biết nó sẽ đến bất cứ lúc nào. Bà đón nhận cái chết tự nhiên, giản dị như đi dự tiệc, hay một chuyến đi xa, đi gần, nào đó của mình.

Nhưng không phải ai cũng nghĩ về cái chết giản dị như vậy. Phần đông muốn được sống lâu, nên bao giờ gặp nhau cũng thích chúc cho nhau tuổi thọ. Thích hỏi nhau ăn gì, uống gì cho trẻ trung mãi. Loài người nói chung, càng ngày càng thích sống hơn chết. Họ tìm kiếm đủ mọi phương thuốc để kéo dài tuổi thọ. Người ta ức đoán, trong một tương lai rất gần, loài người có thể sống đến 120 tuổi dễ dàng với những môn thuốc ngăn ngừa bệnh tật và bồi dưỡng sức khỏe.

Rồi người ta sẽ còn tạo ra những bộ phận mới của nội tạng để thay thế cho những bộ phận gốc bị nhiễm bệnh. Gan, ruột, bao tử v.v, sẽ được thay như ta thay những phần máy móc của một cái xe cũ. Chúng ta, rồi sẽ sống chen chúc nhau trên mặt đất này.

Chỉ tiếc một điều là song song với việc khám phá ra thuốc trường thọ người ta cũng phải phát minh ra những người máy (robot) để chăm sóc những người già này, vì con cháu quá bận (chắc đang chúi đầu tìm thuốc trường sinh) không ai có thời giờ chăm sóc cha mẹ già. Theo tôi, ngắm nhìn hình ảnh một cụ ông hay một cụ bà lưng còng, tóc bạc, đang cô đơn ngồi trong một căn buồng trống vắng, được một người máy đút cơm vào miệng, thật khó mà cảm động, đôi khi còn cho ta cái cảm giác tủi thân nữa.

Nhưng sống như vậy mà có người vẫn thích sống. Một người đàn ông ngoài bẩy mươi, bị bệnh tim nặng, đang nằm trong phòng đặc biệt (ICU) lúc mơ màng tỉnh dậy, nhắn với các con cháu là khi nào vào thăm không ai được mặc áo mầu đen. Ông kiêng cữ mầu của thần chết. Ông quên rằng thần chết, đôi khi, có thể đến với chiếc áo mầu hồng.

Thật ra, chính nhờ “cái chết” cho ta nhận biết là “cái sống” đẹp hơn và có giá trị hơn, dù có người sống rất cơ cực vẫn thấy cuộc đời là đẹp.

Những bậc thiên tài, những nhà văn lớn đã tự tìm về cái chết khi họ bắt đầu nhìn thấy cái vô vị trong đời sống như nhà văn Ernest Hemingway, Yasunari Kawabata và họa sĩ Vincent van Gogh, v.v… Chắc họ không muốn sống vì thấy mình không còn khả năng hưởng hết vẻ đẹp của “cái sống” nữa. Họ là một vài người trong số nhỏ trên mặt đất này sau khi chết để lại tên tuổi trên những trang sử, lưu lại hậu thế, còn phần đông nhân loại, sau khi chết một thời gian, không để lại một di tích nào. Con cháu có thờ cúng được một hai thế hệ, sau đó tên tuổi mờ dần, mất hẳn theo ngày tháng, vì chính những kẻ thờ phụng đó lại tiếp theo nằm xuống cùng cát bụi.

Ðời sống con người chóng qua như cỏ, như bông hoa nở trong cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích.(Thánh Vịnh)

Thượng Đế khi đem mình vào đời, có hỏi ý kiến mình đâu. Nên chắc chắn là khi Ngài gọi mình đi cũng chẳng cần thông báo trước.

Chúng ta cứ thong thả sống từng ngày, khi nào chết thì chết, mặt trời mọc rồi mặt trời lặn, bông hoa nở rồi bông hoa tàn, thế thôi.

Tại sao ta phải cay cú với cái chết? Hãy dùng trí tưởng tượng của mình, thử hình dung ra một thế giới không có cái chết(*)

Chắc lúc đó chúng ta sẽ không còn không khí mà thở chứ đừng nghĩ đến có một phiến đất cho bàn chân đứng.

Trần Mộng Tú

Anh chị Thụ Mai gởi

Sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản tại Việt Nam

Sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản tại Việt Nam

Nguyễn Hưng Quốc

30.04.2014

Trước đây, trên thế giới, có 15 quốc gia chính thức theo chủ nghĩa cộng sản và 11 quốc gia tự nhận là cộng sản hoặc theo khuynh hướng cộng sản. Mười lăm quốc gia ở trên là: Albania, Bulgaria, Czechoslovakia, Đông Đức, Hungary, Mông Cổ, Ba Lan, Romania, Liên Xô, Yugoslavia, Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào và Việt Nam. Mười một quốc gia ở dưới là: Angola, Benin, Congo, Ethiopia, Mozambique, Zimbabwe, Grenada, Nicaragua, Campuchia, Afghanistan và Nam Yemen. Tổng cộng, từ hai bảng danh sách ấy, có cả thảy 26 nước cộng sản hoặc có khuynh hướng theo cộng sản. Từ đầu thập niên 1990, tất cả các chế độ cộng sản ấy đều lần lượt sụp đổ. Hiện nay, trên cả thế giới, chỉ còn năm nước mang nhãn hiệu cộng sản: Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào và Việt Nam.

Chưa có dấu hiệu nào cho thấy chủ nghĩa cộng sản ở năm quốc gia này sẽ sụp đổ sớm. Trong năm nước, có ba nước có quan hệ chặt chẽ với nhau: Trung Quốc, Việt Nam và Lào. Có lẽ Lào chỉ thay đổi được thể chế chính trị nếu, trước đó, Việt Nam cũng thay đổi; và Việt Nam có lẽ chỉ thay đổi nếu trước đó Trung Quốc cũng thay đổi. Như vậy, quốc gia có khả năng châm ngòi cho bất cứ sự thay đổi lớn lao nào là Trung Quốc.

Tuy nhiên, ngay cả khi Trung Quốc và Việt Nam chưa thay đổi và chưa từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, giới nghiên cứu cũng phát hiện những dấu hiệu suy tàn âm thầm của chủ nghĩa cộng sản bên trong hai quốc gia này.

Ở đây, tôi chỉ tập trung vào Việt Nam.

Nhìn bề ngoài, chế độ cộng sản tại Việt Nam vẫn mạnh. Hai lực lượng nòng cốt nhất vẫn bảo vệ nó: công an và quân đội. Dân chúng khắp nơi bất mãn nhưng bất mãn nhất là nông dân, những người bị cướp đất hoặc quá nghèo khổ. Có điều nông dân chưa bao giờ đóng được vai trò gì trong các cuộc cách mạng dân chủ cả. Họ có thể thành công trong một số cuộc nổi dậy nhưng chỉ với một điều kiện: được lãnh đạo. Trong tình hình Việt Nam hiện nay, chưa có một tổ chức đối kháng nào ra đời, hy vọng nông dân làm được gì to lớn chỉ là một con số không. Ở thành thị, một số thanh niên và trí thức bắt đầu lên tiếng phê phán chính phủ nhưng, một, số này chưa đông; và hai, còn rất phân tán. Nói chung, trước mắt, đảng Cộng sản vẫn chưa gặp một sự nguy hiểm nào thật lớn.

Thế nhưng, nhìn sâu vào bên trong, chúng ta sẽ thấy quá trình mục rữa của chủ nghĩa cộng sản đã bắt đầu và càng ngày càng lớn. Như một căn bệnh ung thư bên trong một dáng người ngỡ chừng còn khỏe mạnh.

Sự mục rữa quan trọng nhất là về ý thức hệ.

Khác với tất cả các hình thức độc tài khác, chủ nghĩa cộng sản là một thứ độc tài có… lý thuyết, gắn liền với một ý thức hệ được xây dựng một cách có hệ thống và đầy vẻ khoa học. Thật ra, chủ nghĩa phát xít cũng có lý thuyết, chủ yếu dựa trên sức mạnh và tinh thần quốc gia, nhưng không phát triển thành một hệ thống chặt chẽ và có ảnh hưởng sâu rộng như chủ nghĩa cộng sản. Còn các chế độ độc tài ở Trung Đông chủ yếu gắn liền với tôn giáo cộng với truyền thống quân chủ kéo dài (thường được gọi là độc tài quốc vương, sultanistic authoritarianism) hơn là lý thuyết. Nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh: các chế độ cộng sản không thể tồn tại nếu không có nền tảng ý thức hệ đằng sau.

Ý thức hệ cộng sản một thời được xem là rất quyến rũ vì nó bao gồm cả hai kích thước: quốc gia và quốc tế. Ở bình diện quốc gia, nó hứa hẹn giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân; ở bình diện quốc tế, nó hứa hẹn giải phóng giai cấp vô sản và tạo nên sự bình đẳng và thịnh vượng chung cho toàn nhân loại. Ở bình diện thứ hai, chủ nghĩa cộng sản, gắn liền với một ước mơ không tưởng, rất gần với tôn giáo; ở bình diện thứ nhất, đối lập với chủ nghĩa thực dân, nó rất gần với chủ nghĩa quốc gia. Trên thực tế, hầu hết các nước cộng sản trước đây đều cổ vũ và khai thác tối đa tinh thần quốc gia trong cả quá trình giành chính quyền lẫn quá trình duy trí chế độ. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa quốc gia dễ thấy nhất là ở các nước thuộc địa và cựu thuộc địa như Việt Nam.

Sau năm 1991, tức sau khi chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, ý thức hệ cộng sản cũng bị phá sản theo. Thực trạng nghèo đói, bất công và áp bức dưới các chế độ cộng sản ấy đều bị vạch trần và phơi bày trước công luận. Sự hứa hẹn về một thiên đường trong tương lai không còn được ai tin nữa. Tính hệ thống trong chủ nghĩa Marx-Lenin cũng bị đổ vỡ. Nền tảng ý thức hệ của các chế độ cộng sản bị tan rã tạo thành một khoảng trống dưới chân chế độ.

Để khỏa lấp cái khoảng trống ấy, Trung Quốc sử dụng hai sự thay thế: chủ nghĩa Mao và Nho giáo (trong chủ trương tạo nên một xã hội hài hòa, dựa trên lòng trung thành). Việt Nam, vốn luôn luôn bắt chước Trung Quốc, không thể đi theo con đường ấy. Lý do đơn giản: Đề cao chủ nghĩa Mao là một điều nguy hiểm cả về phương diện đối nội lẫn đối ngoại; còn với Nho giáo, một là Việt Nam không am hiểu sâu; hai là, nó đầy vẻ… Tàu, rất dễ gây phản cảm trong quần chúng. Bế tắc, Việt Nam bèn tạo nên cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng ông Hồ Chí Minh lại không phải là một nhà lý thuyết. Ông chỉ là một người hành động. Ông viết nhiều, nhưng tất cả đều rất thô phác và đơn giản. Hơn nữa, ở Việt Nam hiện nay, cũng không có một người nào giỏi lý thuyết để từ những phát biểu sơ sài của Hồ Chí Minh xây dựng thành một hệ thống sâu sắc đủ để thuyết phục mọi người. Thành ra, cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh hoàn toàn không trám được khoảng trống do sự sụp đổ của ý thức hệ Marx-Lenin gây ra. So với Trung Quốc, khoảng trống này ở Việt Nam lớn hơn gấp bội.

Mất ý thức hệ cộng sản, chính quyền Việt Nam chỉ còn đứng trên một chân: chủ nghĩa quốc gia.

Nhưng cái chân này cũng rất èo uột nếu không muốn nói là đã lung lay, thậm chí, gãy đổ.

Trên nguyên tắc, Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước rất cao. Bao nhiêu chế độ ra đời từ giữa thế kỷ 20 đến nay đều muốn khai thác và tận dụng lòng yêu nước ấy. Tuy nhiên, với chế độ cộng sản hiện nay, việc khai thác vốn tài sản này gặp rất nhiều khó khăn. Lý do là lòng yêu nước bao giờ cũng gắn liền với sự căm thù. Không ai có thể thấy rõ được lòng yêu nước trừ phi đối diện với một kẻ thù nào đó của đất nước. Hai kẻ thù chính của Việt Nam, trong lịch sử mấy ngàn năm, là Trung Quốc; và gần đây nhất, là Mỹ. Nhưng Việt Nam lại không dám nói quá nhiều về hai kẻ thù này. Với Mỹ, họ cần cả về phương diện kinh tế lẫn phương diện chiến lược. Đề cao truyền thống chống Mỹ, do đó, là điều rất nguy hiểm. Đề cao truyền thống chống Trung Quốc lại càng nguy hiểm hơn: Trung Quốc có thể đánh hoặc ít nhất đe dọa VIệt Nam bất cứ lúc nào.

Bởi vậy, Việt Nam, một mặt, phải hạ giọng khi nói về truyền thống chống Mỹ và phải né tránh việc nhắc nhở đến truyền thống chống Trung Quốc. Hai hành động này có lợi về phương diện đối ngoại nhưng lại có tác hại nghiêm trọng về phương diện đối nội: chính quyền hiện ra, dưới mắt dân chúng, như những kẻ hèn, hèn nhát và hèn hạ. Từ một chế độ được xây dựng trên thành tích chống ngoại xâm, chế độ cộng sản tại Việt Nam lại bị xem như những kẻ bán nước, hoặc bán nước dần dần bằng cách hết nhượng bộ điều này sang nhượng bộ điều khác trước sự uy hiếp của Trung Quốc.

Trước sự sụp đổ của cả hai nền móng, ý thức hệ cộng sản và chủ nghĩa quốc gia, đảng Cộng sản Việt Nam bèn chuyển sang một nền tảng khác: kinh tế với phương châm ổn định và phát triển. Nội dung chính của phương châm này là: Điều cần nhất đối với Việt Nam hiện nay là phát triển để theo kịp các quốc gia khác trong khu vực cũng như, một cách gián tiếp (không được nói công khai), đủ sức để đương đầu với Trung Quốc. Nhưng để phát triển, cần nhất là phải ổn định về chính trị, nghĩa là sẽ không có thay đổi về thể chế và cũng không chấp nhận đa đảng.

Phương châm ấy, thật ra, là một sự bịp bợm: Nó chuyển vấn đề từ chính trị sang kinh tế với lý luận: nếu vấn đề quan trọng nhất của Việt Nam hiện nay là vấn đề kinh tế thì mọi biện pháp sửa đổi sẽ chỉ giới hạn trong phạm vi kinh tế. Với lập luận này, chính quyền có thể trì hoãn mọi yêu cầu cải cách chính trị.

Tuy nhiên, nó hoàn toàn không thuyết phục, bởi, ai cũng thấy, lãnh vực kinh tế là mặt mạnh nhất của chủ nghĩa tư bản và cũng là mặt yếu nhất của chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản. Tất cả các quốc gia dân chủ ở Tây phương đều có hai đặc điểm nổi bật: về chính trị, rất ổn định và hai, về kinh tế, rất phát triển. Ở Việt Nam, người ta cố thu hẹp phạm vi so sánh: các cơ quan truyền thông chính thống chủ yếu tập trung vào các nước Đông Nam Á, đặc biệt Thái Lan với một thông điệp chính: đa đảng như Thái Lan thì lúc nào cũng bị khủng hoảng. Nhưng ở đây lại có hai vấn đề: Một, dù liên tục khủng hoảng về chính trị, nền kinh tế của Thái Lan vẫn tiếp tục phát triển, hơn hẳn Việt Nam; hai, ngày nay, do xu hướng toàn cầu hóa, tầm nhìn của dân chúng rộng rãi hơn nhiều; chính quyền không thể thu hẹp mãi tầm nhìn của họ vào tấm gương của Thái Lan được.

Về phương diện lý luận, chiêu bài ổn định và phát triển, do đó, không đứng vững. Về phương diện thực tế, những sự phá sản của các đại công ty quốc doanh và đặc biệt, khối nợ nần chồng chất của Việt Nam khiến dân chúng càng ngày càng thấy rõ vấn đề: các chính sách kinh tế của Việt Nam không hứa hẹn một sự phát triển nào cả, nếu không muốn nói, ngược lại, chỉ lún sâu vào chỗ bế tắc.

Thành ra, có thể nói, tất cả các nền tảng chế độ cộng sản Việt Nam muốn nương tựa, từ chủ nghĩa Marx-Lenin đến chủ nghĩa quốc gia và lập luận ổn định để phát triển, đều lần lượt sụp đổ. Chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay như một đám lục bình chỉ nổi bập bềnh trên mặt nước. Sự tồn tại của nó chỉ dựa vào sự trung thành của công an. Do đó, một mặt, đảng cộng sản đưa ra sự khuyến dụ đối với công an: “Còn đảng, còn mình”; mặt khác, họ ngoảnh mặt làm ngơ trước hai tệ nạn do công an gây ra: tham nhũng và trấn áp dân chúng một cách dã man. Nhưng chính sách này chỉ càng ngày càng biến công an thành một đám kiêu binh và càng ngày càng đẩy công an cũng như chính quyền trở thành xa lạ với dân chúng. Sự xa lạ này càng kéo dài và càng trầm trọng, đến một lúc nào đó, trở thành đối nghịch với quần chúng.

Một nhà nước được xây dựng trên một đám kiêu binh, trong thời đại ngày nay, không hứa hẹn bất cứ một tương lai nào cả.

 

Chuyện Quanh Lòng Chảo Điện Biên

Chuyện Quanh Lòng Chảo Điện Biên

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Với tôi, cái lòng chảo Điện Biên chỉ là một vạc dầu oan nghiệt u mê, ấu trĩ, cuồng tín.

Trần Hồng Tâm

Trận Điện Biên Phủ kết thúc vào hôm 7 tháng 5 năm 1954. Sáu mươi năm đã qua  nhưng dư âm chiến thắng, nghe chừng, vẫn còn âm vang khắp chốn. Tại một góc phố, ở Hà Nội, có bảng tên đường Điện Biên Phủ – cùng với đôi dòng chú thích đính kèm – ghi rõ nét tự hào và hãnh diện:

Niềm tự hào và hãnh diện này, tiếc thay, đã không nhận được sự đồng tình chia sẻ bởi tất cả mọi người. Nguyễn Khải là một trong những người như thế: “Một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng long rom như một kẻ bại trận.”

Ông nhà văn nói đúng nhưng (tưởng) cũng nên nói thêm là những kẻ bại trận sau Thế Chiến Thứ II, ở khắp mọi nơi – chắc chắn – không đâu và không ai phải trải qua một cuộc sống thảm hại, khốn cùng như người dân ở Điện Biên hiện tại:

– Báo Hà Nội Mới, 13 tháng 4 năm 2014: Lội sông đến trường, 7 học sinh ở Lai Châu bị nước cuốn trôi.

– Báo Tuổi Trẻ, 17 tháng 3 năm 2014: Vào mùa lũ, các thầy cô giáo, học sinh ở bản Sam Lang (Điện Biên) phải                chui vào túi nilông và nhờ người biết bơi kéo qua suối.

Soha News: Ngày hôm nay (3/4) trên mạng xã hội đã xuất hiện một bức ảnh rất cảm động về một em                           bé được cho là ở Điện Biên. Bức ảnh đã lột tả rất chân thực về nỗi kham khổ của trẻ em nghèo. Tuy tuổi đời                 còn rất nhỏ (khoảng 3,4 tuổi – PV) nhưng đứa bé đã sớm phải xuống ruộng để mò cua bắt ốc…

Em bé Điện Biên. Ảnh: Soha News

Tuổi thơ là một thành quả đặc thù thế kỷ XX. Trước đó, nhân loại phải dồn hết nỗ lực vào việc mưu sinh nên trẻ con chỉ là một người lớn thu nhỏ (miniature adult) với trách nhiệm đè nặng lên vai gần như bố mẹ. Nhân loại đã bước vào thế kỷ 21 nhưng một số người dân ở Điện Biên thì dường như đang đi thụt lùi. Một số khác, tuy đang bước tới nhưng lại nắm bắt những “phó sản văn minh” của thời đại mới – theo Điện Biên TV, xem được hôm 6 tháng 9 năm 2013:

“Trong những năm qua, Điện Biên luôn được xác định là địa bàn trọng điểm, phức tạp về ma túy ở cả 3 khía cạnh: mua bán, vận chuyển và tàng trữ trái phép chất ma túy… Theo số liệu thống kê, trong năm 2012 và 8 tháng năm 2013, lực lượng chức năng Công an tỉnh đã phát hiện, bắt giữ 962 vụ với 1.158 đối tượng. Tang vật thu giữ 79,625kg thuốc phiện, 13.379 viên + 71,5g ma túy tổng hợp, 77,98g cần sa, 8,9kg quả thuốc phiện, hơn 9 tỉ đồng, 141.500 USD, 04 xe ô tô, 417 xe máy, 729 điện thoại cùng nhiều tang vật khác.”

Báo Điện Biên Phủ, số ra ngày 1 tháng 6 năm 2013, còn trích dẫn lời của quan chức bầy tỏ sự âu lo về sợ nghèo đói ở địa phương này vì tính lười biếng của người dân:

“Bên cạnh những giải pháp cốt lõi mang tính xuyên suốt, lâu dài để thực hiện hiệu quả các chính sách giúp người dân xóa đói giảm nghèo, cấp ủy, chính quyền các cấp tỉnh Điện Biên còn đặc biệt quan tâm đến việc tìm ‘thuốc’ cho ‘bệnh lười’ đang tồn tại trong không ít người dân.”

Không chỉ lười mà dân chúng nơi đây còn “ẩu” nữa nha. Trong khi qúi vị lãnh đạo đang tìm “những giải pháp cốt lõi mang tính xuyên suốt, lâu dài để thực hiện hiệu quả các chính sách giúp người dân xóa đói giảm nghèo” (nên chưa kịp làm cầu) thì họ đã liều lĩnh chui vào bao ni lông hay bơi qua sông để đến trường nên mới bị nước cuốn trôi oan mạng!

Tên tuổi một danh nhân rất tăm tiếng (và tai tiếng) được găn liền với địa danh Điện Biên là tướng Võ Nguyên Giáp, người vừa từ trần vào hôm 4 tháng 10 năm 2013. Trong một cuộc phỏng vẫn dành cho báo Tin Nhanh Việt Nam, khi được hỏi về việc “về việc chọn con đường mang tên Đại tướng,” nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết:

“Có người đặt vấn đề, đổi tên những con đường đã có tên thành tên Đại tướng. Điều này nên hết sức tránh, nhất là việc những tên phố cũ cũng rất ý nghĩa, đáng lưu danh. Còn nếu là đường mới thì cũng phải xứng tầm với Đại tướng. Đây cũng là bài toán không dễ vì trên thực tế chúng ta chưa chuẩn bị gì cả.”

Nói nào ngay thì dù có “chuẩn bị” chăng nữa cũng rất khó mà chọn một con đường để “xứng tầm với Đại tướng” vì mọi nẻo đường ở Việt Nam, hôm nay, đều nhan nhản tội ác cùng với tệ đoan xã hội và sự bất an:

– “Xôn Xao Chợ  Mãi Dâm đường Điện Biên Phủ” – báo Tiền Phong.

– “Cướp Giật Có Súng trên phố Điện Biên Phủ” – báo An Ninh Hải Phòng.

– “Quét Gái Mãi Dâm Trên Đường Nguyễn Chí Thanh” – báo An Ninh Thủ Đô

– “Đột Nhập Động Mãi Dâm Trên Đường Phạm Văn Đồng” – báo Người Đưa Tin

– “Bắt Kẻ Giao Hàng Trắng Dọc Đường Trường Chinh” – báo An Ninh Thủ Đô

– “Trộm Vàng Táo Tợn Trên Đường Xuân Thuỷ” – báo VietNamNet

– “Phóng Viên Truy Đuổi Đối Tượng Trộm Cắp Trên Đường Phạm Hùng”    báo An Ninh Thủ Đô

– “Xe Buýt Lại Tông Người Trên Đường Lê Duẩn” – báo Người Lao Động

– “Xuất Hiện Hố Tử Thần Trên Đường Trần Quốc Hoàn” – báo Lao Động

– “Dàn Cảnh Cướp Xe Trên Đường Hồ Chí Minh” – báo Dân Trí

Thiệt là ớn chè đậu. Biết còn chỗ nào “xứng tầm” với ông Đại Tướng Điện Biên đây, Trời? Thôi thì đành chọn đường Điện Biên Phủ, thuộc phường Đa Kao, Sài Gòn – nơi vừa cắt băng khánh thành khai mạc quán ăn McDonald’s đầu tiên ở Việt Nam.

Nó không những đắc địa mà còn mang nhiều ý nghĩa lịch sử lớn nữa. Tập đoàn hàng ăn McDonald’s giữa thành phố H.C.M quang vinh, nằm trên một con đường mang tên V.N.G, sẽ nhắc nhở mọi người không bao giờ quên được máu xương của hàng triệu binh sĩ (dưới quyền) mà Đại Tướng đã “hy sinh” cho công cuộc cuộc chống đế quốc Mỹ xâm lược vừa qua.

Theo Báo Mới , số ra ngày 8 tháng 2 năm 2014, ghi nhận (và in đậm) như sau:

“Giá một chiếc burger cỡ lớn làm nên thương hiệu của McDonald’s có tên là Big Mac sẽ có giá 85.000 đồng. Mức giá này tương đương với gần 4 USD, thấp hơn so với tại Mỹ tuy nhiên lại cao hơn so với nhiều nước trong khu vực như Singapore, Indonesia, Philippines hay Malaysia.”

Em bé Điện Biên, hôm nay, chắc phải mò cua bắt ốc nguyên tháng mới đủ tiền để mua một cái Bic Mac của McDonald’s. Thảo nào mà giữa kèn trống trong “quốc tang” dành cho Đại Tướng, vẫn xen lẫn những tiếng đời dị nghị: “Năm triệu người thiệt mạng để Ông khai sinh ra một chính quyền. Nhưng chính quyền của Ông lại tồi tệ hơn những chính quyền mà Ông đã khai tử.”

 

LÀ MỘT NGƯỜI VIỆT, KHÓ LẮM ! THẬT VẬY SAO ?

LÀ MỘT NGƯỜI VIỆT, KHÓ LẮM ! THẬT VẬY SAO ?

Trích Ephata 607

Cách đây không lâu, một lá thư được phổ biến từ Việt Nam và nói rằng tác giả là một “du học sinh người Nhật” đưa ra những nhận xét ngay thẳng về đất nước và con người Việt Nam ngày nay. Lá thư không dài, với nội dung như sau:

Tôi đang là một du học sinh Nhật, có hơn 4 năm sinh sống tại Việt Nam. Với ngần ấy thời gian, tôi đã kịp hiểu một đạo lý giản đơn của người Việt: “Sự thật mất lòng”. Song không vì thế mà tôi sẽ ngoảnh ngơ trước những điều chưa hay, chưa đẹp ở đây. Hy vọng những gì mình viết ra, không gì ngoài sự thật, như một ly cà phê ngon tặng cho mảnh đất này, tuy đắng nhưng sẽ giúp người ta thoát khỏi cơn ngủ gục – ngủ gật trước những giá trị ảo và vô tình để những giá trị thật bị mai một.

Tôi có một nước Nhật để tự hào

Tôi tự hào vì nơi tôi lớn lên, không có rừng vàng biển bạc. Song, “trong đêm tối nhất, người ta mới thấy được, đâu là ngôi sao sáng nhất”. Thế đấy, với một xứ sở thua thiệt về mọi mặt, nghèo tài nguyên, hàng năm gánh chịu sự đe dọa của hàng trăm trận động đất lớn nhỏ lại oằn mình gánh chịu vết thương chiến tranh nặng nề, vươn lên là cách duy nhất để nhân dân Nhật tồn tại và cho cả thế giới biết “có một nước Nhật như thế”.

Tôi tự hào vì đất nước tôi không có bề dày văn hiến lâu đời nên chúng tôi sẵn sàng học hỏi và tiếp nhận tinh hoa mà các dân tộc khác “chia sẻ”. Từ trong trứng nước, mỗi đứa trẻ đã được học cách cúi chào trước người khác. Cái cúi chào ấy là đại diện cho hệ tư tưởng của cả một dân tộc biết trọng thị, khiêm nhường nhưng tự trọng cao ngời.

Tôi tự hào vì đất nước tôi được thử thách nhiều hơn bất kỳ ai. Khi thảm họa động đất sóng thần kép diễn ra, cả thế giới gần như “chấn động”. Chấn động vì giữa hoang tàn, đổ nát, đói khổ và biệt lập, người ta chỉ nhìn thấy từng dòng người kiên nhẫn xếp hàng nhận cứu trợ và cúi đầu từ tốn cảm ơn. Không có cảnh hôi của, lên giá, cướp bóc, bạo lực nào diễn ra giữa sự cùng khổ.

Chỉ chưa đầy một năm sau khi hàng loạt thành phố bị xóa sổ hoàn toàn, sự sống lại bắt đầu hồi sinh như chưa từng có biến cố nào đã xảy ra. Thế đấy, không có những thành tích to lớn để nói về nước Nhật nhưng thương hiệu “made in Japan”, là thương hiệu uy tín vượt trên mọi khuôn khổ, tiêu chuẩn khắt khe, được toàn cầu tôn trọng nhất mà tôi từng biết.

Bạn cũng có một nước Việt để tự hào

Nói Việt Nam là một “nhà giàu”, quả là không ngoa. Giàu tài nguyên, giàu truyền thống, giàu văn hóa… Nhưng con cháu của nhà giàu, sẽ phải đối mặt với những vấn đề nan giải của nhà giàu. Và không phải ai cũng biết cách sống có trách nhiệm trong sự giàu có ấy.

Thật đáng tự hào nếu bạn được lớn lên ở một đất nước được thiên nhiên ưu đãi với rừng vàng biển bạc. Đáng xấu hổ nếu xem đó là khoản thừa kế kếch xù, không bao giờ cạn. Thật tiếc đó lại là những gì tôi thấy. Tại các thành phố, chỉ cần nhà mình sạch sẽ là được, ngoài phạm vi ngôi nhà, bẩn đến đâu, không ai quan tâm. Ở các nhà máy, nếu không biết dồn rác thải ở đâu, họ sẽ cho chúng ra ngoài đường, sông suối, biển cả vì đó là “tài sản quốc gia” – đã có quốc gia lo, không phải việc của mỗi người dân.

Tại một đất nước mà 80% dân số sống bằng nghề nông, đất đai, nước ngầm hầu như đã bị nhiễm độc, đến nỗi, người ta nói vui trong năm nữa thôi sẽ là thời đại của ung thư vì ăn gì cũng độc, không ít thì nhiều, không thể khác. Vì sao nên nỗi ?

Thật đáng tự hào vì Việt Nam có 4.000 năm văn hiến. Thật xấu hổ nếu 4.000 năm văn hiến chỉ là một chương trong sách lịch sử chứ không được thể hiện trong cách hành xử đời thường. Thật buồn vì đó cũng là điều tôi thấy mỗi ngày.

Hãy chỉ cho tôi thấy rằng tôi đã sai nếu nói: Người Việt không biết xếp hàng, xếp hàng chỉ dành cho học sinh tiểu học; người Việt không biết tự hào về người Việt, nếu không thì Flappy Bird đã không phải chết yểu đau đớn; người Việt chửi hay còn hơn hát, cứ xách balô ra tới thủ đô một chuyến thì sẽ được mục sở thị; người Việt vẫn còn luyến tiếc văn hóa làng xã, giai cấp nếu không phải thế thì họ đã không đứng thẳng người chửi đổng và cúi rạp mình trước quyền lực bất công mà chẳng dám lên tiếng; người Việt có đôi mắt siêu hạng nhất vì nhìn đâu cũng thấy cơ hội để mánh mung, lọc lừa.

Tôi chưa từng thấy đất nước nào mà các bậc mẹ cha dạy dỗ con cháu cố gắng học hành để sau này là bác sĩ, phi công, thuyền trưởng… mà xuất phát không vì đam mê mà vì phong bì nhiều, đút lót dễ, giàu sang mấy hồi… Vì đâu nên nỗi ?

Người Việt có một nền di sản độc đáo, một nguồn sức mạnh vô cùng to lớn, ai cũng nhìn thấy, chỉ có người Việt là không thấy hoặc từ chối nhìn thấy. Vì sao nên nỗi ?

Tôi đang nhìn thấy một thế hệ, họ không còn biết phải tin vào điều gì, thậm chí còn không dám tin vào chính mình. Là một người Việt – khó lắm ! Thật vậy sao ?”

Một du học sinh người Nhật ( ? )

LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT THẬT BẤT CÔNG ?

LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT THẬT BẤT CÔNG ?

PM. CAO HUY HOÀNG

Trích Ephata 607

“Em Đạo dòng. Đạo từ đời ông cố, ông sơ. Ông nội em là ông trùm cả 20 năm liền. Bà nội em không từ nan một việc gì khi giúp các Đấng. Đến thời cha mẹ em cũng đóng góp không biết bao nhiêu là thời gian cho việc Nhà Chúa. Vợ chồng em cũng theo gương ấy mà cộng tác đủ các việc Nhà Thờ…. Nhưng, lắm lúc buồn lắm anh ạ. Nhìn lại cái cảnh nhà mình, không giống ai. Ông xã em với chiếc xe cánh én hơn 20 năm rồi, cọc ca cọc cạch đi Lễ đi làm việc Nhà Thờ. Có mấy lần bị “thiên hạ” mời đến trụ sở để “làm việc” và bị hỏi: “Làm ở Nhà Thờ lương tháng bao nhiêu mà hăng vậy ?” Thấy mà thương ! Mấy đứa nhỏ đi học ở Sàigòn, đứa nào cũng phải tự bươn trải, vừa học vừa làm kiếm tiền học phí, tiền ăn, tiền nhà trọ… Tội nghiệp !

Mấy hôm nay chuẩn bị Lễ Lòng Chúa Thương Xót, có vài người đến nói với chồng em xin cho họ được làm chứng về Lòng Chúa Thương Xót trong Đại Hội. Nghe chuyện vài người kể với nhà em, người thì được ơn chữa lành, người trúng đất, người mới mua được đất, người mua được xe…, đủ các thứ mà người ta cho là Lòng Chúa Thương Xót đã… thương xót họ ! Hầu hết đó là những người mà trong con mắt em, họ chẳng ra chi, hoặc là người tân tòng mới theo Đạo vài năm mà ra vẻ, hoặc là người đã từng tội lỗi công khai, giang hồ, tai tiếng, mà nay đi đâu cũng bô bô Chúa Xót Thương, Chúa Thương Xót…

Trong số những người xin làm chứng, đáng kể nhất là một người tân tòng: một chị, lấy chồng Đạo được 9 năm nay, kể rằng: Ban đầu, chị đến với Lòng Chúa Thương Xót nhờ mấy chị bạn rủ đi đọc kinh và chị đã kêu cầu Chúa như vái tứ phương, cầu may, hên xui. Không ngờ Chúa đã ban cho chị được như ý. Ông bố của chị, vốn là người vô thần, ghét đạo kinh khủng, đến mức đã không cho chị theo đạo, rồi khi chị có đứa con trai là thằng cu Bin, vợ chồng chị đem con đi rửa tội và mời ông ngoại sang ăn đầy tháng. Ổng không đến, không cho bà ngoại đến, cấm các cậu các dì đến, còn chửi em thậm tệ: “Mới đẻ, nó có tội gì mà đè nó ra xối nước rửa ?” Từ đó, ổng từ chị luôn. Đến với Lòng Chúa Thương Xót, chị chỉ xin là “Nếu bố con có ghét Chúa thì kệ ổng, chỉ ráng xin cho ổng đừng ghét con thôi”.

Thế rồi hơn sáu tháng chị van vái cầu may, chị thấy bố thay đổi. Chiều Thứ Năm Tuần Thánh năm ấy, tự động ổng đến thăm Cu Bin, nay đã 7 tuổi rồi, cho cu Bin 100 ngàn. Ổng nói: “Mai là ngày Chúa tụi mày chết, rồi nghe nói được vài hôm thì ổng sống lại. Tao qua thăm tụi mày. Cho Cu Bin 100 ngàn nè. Nói với ổng nếu tao có chết, thì cho tao sống lại với nghen”. Thế là chị nghĩ Lòng Chúa Thương Xót đã thương xót chị. Chuyện ba với Chúa thì chưa biết, nhưng ít là ba của chị đã đến thăm con, thăm cháu…

Anh nghĩ xem, có phải thấy mà phát ghét, nghe mà phát ganh, nhìn mà phát điên tiết không ! ? ! Chúa có Lòng Thương Xót như vậy sao ? Thiệt bất công quá đi ! Em Đạo dòng… Xin Chúa hoài mà chẳng thấy Chúa ban cho điều gì. Còn mấy cái thứ người kia…”

Vậy đó, chợt nghĩ, trong chúng ta không ít người có lòng ganh tỵ như người kể chuyện trên đây. Có khi phản ứng bất bình với Chúa còn hơn như vậy nữa. Phát ghét, còn đỡ hơn là không ít kẻ thấy người khác được Chúa xót thương mà đâm ra thù hận, tìm cách hại người ta mới ghê !

Ước gì mỗi chúng ta đều nhận ra Lòng Chúa đang thương xót từng người, và ban ân lộc cho từng người, “như mưa xuống trên ruộng người lành, lẫn ruộng kẻ dữ”. Thiên Chúa không bất công nhưng Ngài khôn ngoan và cân nhắc cho con cái Ngài từng chút một, từng việc nhỏ. Ngài luôn dành cho chúng ta những gì tốt nhất theo ý Ngài, không phải tốt nhất theo ý của chúng ta. Mà, ý tốt nhất của Thiên Chúa là “để chúng ta được cứu rỗi”, “để chúng ta được sống đời đời”, kẻo uổng công trình trút hết đến giọt máu, đến giọt nước cuối cùng để chết đi vì yêu, rồi sống lại vì yêu, sống lại để người mình yêu được sống lại.

Trở lại câu chuyện của chị Đạo dòng, thiết tưởng, chị phải nhận ra rằng Chúa đã ban cho cả họ tộc của chị, và cho chồng chị nữa một ơn đặc biệt là sống nghèo hèn thanh thoát trước của cải phù vân, sống cho Danh Thiên Chúa cả sáng, cho Nước Thiên Chúa trị đến… là đã sống trước cuộc sống phục sinh ngay trên dương thế này rồi. Như vậy, chắc hẳn sẽ khác với những người đang sống ở trần gian mà không tin có đời sau, không tin sự sống lại, không dám chắc một cuộc sống mai hậu chứ ? Hơn nữa, của cải vật chất Chúa ban cho là để chúng ta sử dụng trong việc tìm kiếm Nước Trời, để được sống đời đời, chứ nào phải để chúng ta hưởng dùng cho thoải mái ở đời này đâu !

Tôi không dám giải thích gì cho chị, người kể chuyện ấy. Nhưng bất ngờ, qua một chị bạn của chị, tôi mới hiểu một nguyên nhân vui vui là: “Người ta lên đời cả rồi, bạn chị, đứa thì Air Blade, đứa thì Atila, đứa còn có chiếc xe con 7 chỗ, còn chị, ngồi sau chiếc Honda cánh én cũ rích mà mắc cỡ…”

Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng có thể giống như chị kia, luôn than thở trách móc Lòng Chúa Thương Xót bất công quá. Xin cho chúng con nhận ra lòng Chúa Xót Thương không bao giờ bất công cả, vì Chúa là Đấng Khôn Ngoan, luôn dành cho mỗi chúng con điều tốt nhất là cho chúng con được phục sinh trong Nước Thiên Chúa. Amen.

PM. CAO HUY HOÀNG

 

Nỗi buồn không thể gọi tên

Nỗi buồn không thể gọi tên

Chuacuuthe.com

VRNs (30.4.2014) – Sài Gòn – Có một nỗi buồn không thể gọi tên, có những nỗi đau không thể nói thành lời. Trước tiên, xin kính cẩn nghiêng mình trước anh linh của những người lính và những người dân vô tội đã chết trong cuộc chiến phi nghĩa giai đoạn 1954-1975.

Nỗi buồn không thể gọi tên là khi tôi tận mắt nhìn thấy những Thương Phế Binh (TPB), cho tôi được phép viết hoa danh xưng đó vì tôi dành cho họ một tình thương cảm khác.
Tôi đứng đó, nhìn thấy họ từng con người, từng hoàn cảnh cứ xuất hiện dần trong tôi như một màu sắc khác của cuộc sống mà đến giờ tôi mới biết nó tồn tại.
Họ chưa bao giờ xuất hiện hay tồn tại trong ký ức tôi. Vì sao thế? Không phải tôi không học hỏi mà những điều đó tôi không được học. Nếu có thì những điều người ta cho tôi biết về họ là những người nhu nhược, sống bám bằng đồng đô la Mỹ, là đội quân hèn nhát…
Với tôi họ mờ nhạt, rất rất mờ nhạt, để rồi hôm nay đây tôi phải nghẹn đắng và sống mũi cay cay. Tôi khóc. Khi nhìn thấy họ- những người TPB ở chính mảnh đất họ chiến đấu.
Tôi chỉ biết đến sự hi sinh nhiều vô kể của hàng triệu lính Bắc Việt mà không hề biết đến sự hi sinh của những người lính Việt Nam Cộng Hoà.
Tôi chỉ biết đến những người thương binh của miền Bắc cũng có những hoàn cảnh khó khăn được trao ít quà mỗi dịp nào đó. Nhưng những đồng tiền hay món quà đó đã bị chặn đầu chặn đuôi rất nhiều. Và họ cũng khổ, nhưng chí ít họ được nhắc nhớ.
Còn rất nhiều điều tôi biết mà hoá ra không biết để rồi ngày hôm đó (28/4/2014) tôi mới hiểu thêm được một trang sử khác, khác rất nhiều những trang sử tôi được đọc, được học.
Chiến tranh phút này còn, giây của phút sau đã mất. Sự tàn khốc của chiến tranh là điều không ai phủ nhận. Vậy tại sao lại phủ nhận rất nhiều nhân chứng lịch sử của cuộc chiến tranh ấy?
Không có sự thật lịch sử nhưng có những dữ kiện lịch sử mới làm nên bức tranh lịch sử chân thực. Cộng sản Việt Nam đã viết một trang lịch sử bằng máu đỏ. Màu đỏ ấy đã chiếm hết lịch sử để rồi giờ đây không chỉ tôi mà có rất nhiều người trẻ không biết đến một màu cờ vàng từng tồn tại phồn vinh và tự do trên mảnh đất hình chữ S.
Tôi đứng đó chết lặng khi nhìn thấy những người mất hết tay chân, đi trên đôi nạng gỗ, những người mù mắt vì xác pháo bắn vào, đa số họ đã mất khả năng lao động nhưng vẫn phải mưu sinh vì miếng cơm manh áo hàng ngày.
Họ đã một thời là những thanh niên khoẻ mạnh dũng cảm. Họ là những người lính có những phút giây lãng mạn của thời thanh niên trai tráng, có những mẹ già, em thơ hay một hình bóng người con gái… Tôi chợt nhận ra họ rất người nhưng sao họ không được đối xử công bằng? Họ phải đi tù cải tạo, bị đối xử rất tồi tệ có thể điều đó cũng khiến họ buồn, nhưng điều đáng buồn hơn cả là họ bị lãng quên.

Một ông thương phế binh VNCH thới tham dự ngày họp mặt Tri ân các thương phế binh hôm 28.4 vừa qua. Ảnh Đức Hiệp

Một ông thương phế binh VNCH thới tham dự ngày họp mặt Tri ân các thương phế binh hôm 28.4 vừa qua. Ảnh Đức Hiệp

Tôi hiểu vì sao 30/4 lại là ngày quốc hận.

Hình ảnh thứ hai tôi xúc động là giọt nước mắt của Cha Giám tỉnh Vinh Sơn. Tôi không nghĩ một người như Ngài có thể khóc, bởi tôi gặp người lần nào cũng là sự vui vẻ và những câu chuyện khiến tôi cười không dứt. Những người anh em cùng thời với Cha, người còn, người mất và bị xã hội này cố tình lãng quên. Để hôm nay đây, bất chấp sự độc ác của chế độ này lần thứ hai Dòng Chúa Cứu Thế tổ chức gặp mặt để họ ôn lại những điều đáng nhớ.
Tôi thấy họ hào hùng hơn bao giờ hết khi họ hát lên bài “Việt Nam quê hương ngạo nghễ”. Tôi thấy được hình ảnh của họ thời đó, một chút gì đó trong họ sống lại. Tôi thấy giọt nước mắt xúc động của không chỉ một mà rất nhiều các ông, các bác và các chú TPB hôm nay.
Chỉ trong khoảng bốn tiếng đồng hồ tôi được nhìn thấy một bức tranh khác về lịch sử. Tôi tự hỏi những người thương binh Bắc Việt có biết có những người giống hệt hoàn cảnh của họ.
Tôi đã thấy hình ảnh khác của người lính không phải “ba lô, súng, mũ tai bèo” nữa.
Tôi thương cảm cho những anh linh của những người lính đã ngã xuống ở hai phía. Nhưng đôi khi cái chết đó có khi còn may mắn hơn là sống dưới chế độ này, họ bị coi rẻ, họ bị tâm lý của “bên thua cuộc”, song có một sự thật khác họ cũng không hơn gì những người thương binh của “bên thắng cuộc”.
Cuộc chiến phi nghĩa ấy đã khiến cho mảnh đất hình chữ S một trang sử đen tối. Nếu thực sự muốn hoà giải, cộng sản nên hoà giải với người sống trước, đừng chỉ hoà giải với người đã chết.
Cộng sản luôn nói đến hoà giải nhưng tôi chưa thấy họ làm được điều gì đáng cho 1 điểm trong việc này. Đừng nhắc đến chữ hoà giải khi những ngày này vẫn còn nói về sự “chiến thắng”.

Vân Hà, cộng tác viên VRNs

 

Nắng sao như nắng đời xưa ấy

Nắng sao như nắng đời xưa ấy

Chuacuuthe.com

VRNs (30.04.2014) – Úc Đại Lợi – Suy tư Tin Mừng Chúa nhật thứ Ba năm A 04-5-2014

“Nắng sao như nắng đời xưa ấy,

Nắng vàng con mắt thấy duyên đâu.”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Lc 24: 13-35

Nhà thơ vẫn thấy nắng đời xưa ấy cứ như nắng vàng con mắt chẳng thấy duyên. Nhà Đạo có theo chân đồ-đệ Chúa trên đường Emmaus, cũng chẳng thấy được nắng “thủy tinh” vàng rực cả tâm hồn, mà không biết

Truyện kể hôm nay về đồ-đệ rong ruổi “trên đường Em-maus” đã thành văn bản song hành so với bản văn Tân Ước chứa đựng nội dung ta cử hành Tiệc Thánh Thể mỗi tuần. Điều này có lẽ sẽ khiến nhiều người ngạc nhiên, khi nghĩ: Tiệc Tạ Từ của Chúa đâu giống thế. Nhưng ở trình thuật hôm nay, thánh Luca nhắc nhở cộng đoàn lúc ấy cũng như bây giờ, rằng: họ cũng bị cản ngăn không gặp được Chúa, nhưng mọi người vẫn có kinh nghiệm sống đích thực là Ngài đang hiện diện quanh ta và với ta.

Trong hành trình tin-yêu, môn đệ đã gặp gỡ Chúa như họ từng có kinh nghiệm. Đây là chi tiết sống động trong trình thuật hôm nay. Quả vậy, nơi trình thuật, Đức Giê-su đã lắng nghe những gì họ mong mỏi, hy vọng và cả những chán chường tuyệt vọng cho đến khi họ bộc lộ thực trạng, Đức Kitô mới tỏ lộ Kinh thánh, để họ nhớ. Làm thế, Ngài lấy đi các huyễn hoặc và giúp họ thấy được mối nối kết dẫn đưa vào trình thuật cứu độ. Và, điều này dẫn họ vào hy vọng. Cả vào lúc đó, họ mới nhận ra Ngài. Nhận ra được Ngài, vào lúc Ngài bẻ bánh. Và bằng vào bẻ bánh, Ngài tỏ cho họ biết Ngài là Đấng, họ ngóng trông. Và, kinh nghiệm ấy đã dẫn họ về lại Giê-ru-sa-lem, làm chứng cho việc Ngài thật sự đã Phục Sinh.

Mỗi Chúa nhật, thành phần của hành trình tin-yêu ta dấn bước trên đường đến Em-mau, có Chúa. Có chi tiết nào đưa ta đến đây, để tự hào mà nói: ta khác nhiều với những gì mình thực sự cảm nghiệm. Khác nhiều với những gì mình thực sự đang sống niềm tin ấy. Đức Chúa thấy được tâm can và tâm trí của mỗi người. Ngài gặp gỡ mỗi người chúng ta qua lớp bụi lẩn vẩn của cuộc sống, dù những thứ ấy có mang mặc hình hài khác lạ. Truyện kể về “Con đường Em-mau” dạy cho ta biết Đức Giê-su, trước nhất, muốn lắng nghe ý lòng chúng ta trước khi Ngài muốn ta lắng nghe Lời Ngài.

Tuy vậy, truyện “Con đường Em-mau” không chỉ nói về đồ đệ Chúa và cuộc sống của các thánh, thôi. Hệt một kiểu như thế, Tiệc Thánh Thể cũng không chỉ diễn tả cuộc sống của ta một cách đơn thuần mà Đức Kitô đã mở Kinh thánh cho ta thấy mỗi tuần, để ta có thể tạo cho kinh nghiệm sống của ta có được ý nghĩa. Để ta thấy được con đường Chúa hiện diện, cũng như vắng mặt. Và như thế, mới thấy được sự khùng điên của mỗi người, trong ta. Cũng giống môn đệ trên đường Em-mau, ta được chào đón. Được ngồi vào cùng bàn tiệc của Đức Chúa. Ở bàn tiệc ấy, ta nhận ra Ngài qua việc bẻ bánh. Và nhận ra chén cứu chuộc. Tiệc Thánh Thể, vẫn giúp ta sau khi rời khỏi nơi đây vào cuối bữa, để ra đi rao báo cho mọi người biết rằng ta đã gặp Đức Kitô. Ngài đã thực sự sống lại và Ngài sống lại rồi.

Một trong những điều mà Hội thánh ngày nay rất trân trọng, là: việc nối kết với các kinh nghiệm sống của Hội thánh thời ban sơ. Đích thực là như thế và thật là vinh dự. Vinh dự, nhắc nhớ những gì ta thường làm ở đây, mỗi Chúa Nhật. Nhắc để ta nhớ những gì có khả năng vun đắp niềm tin yêu nơi ta. Những gì ta đang cử hành và tiếp tục làm thế, qua nhiều thế hệ, là điều hệ trọng. Giống “Em-mau.

Cho dù, nhiều điều diễn ra, có thể rất khác. Khác vì văn hoá sắc tộc mỗi người khác nhau. Nhưng, khi thực hiện Tiệc Lòng Mến ở khắp nơi, vẫn có những điều giống hệt nhau. Những điều vẫn được lưu giữ, ở lại. Chính Đức Kitô Phục Sinh, Đấng vẫn tháp tùng cùng đi với ta đi bên ta, trong hành trình của cuộc sống. Ngài vẫn lắng nghe mỗi người. Ngài vẫn mở rộng lòng trí của mỗi người, để nhớ lại những điều nói trong Kinh thánh. Ngài vẫn mời ta ngồi vào bàn tiệc của Ngài. Vẫn gửi ta ra đi về với thế giới nhân trần, cho họ biết: Ngài đích thực đã sống lại từ cõi chết.

Đây là cách hay nhất để ta hiểu được chính mình theo “truyền thống của người Công Giáo” ở khắp nơi. Như thế, ta sẽ chia sẻ với các thế hệ ngàn năm trước/sau, cũng một lửa ngọn của tình yêu của Đức Chúa đang bừng bừng, làm cháy nóng tâm can ta, khi ta được chào đón mỗi tuần ở đây nơi Tiệc Lòng Mến mỗi tuần. Nơi, ta được lắng nghe, được giáo huấn, nuôi dưỡng và gửi đi để làm một chút gì rút từ chính con người mình hầu biến Vương Quốc Nước Trời của Đức Chúa thành hiện thực.

Đó chính là ý nghĩa của trình thuật “Trên đường Em-mau”. Của Tiệc Thánh Thể, rất hôm nay.

“Nắng sao như nắng đời xưa ấy,

Nắng vàng con mắt thấy duyên đâu

Muốn gửi thương về người cổ độ,

Mà sao tình chẳng nói cho đau.”

(Hàn Mặc Tử – Buồn ở đây)

Nhà thơ “buồn ở đây” vì “tình chẳng nói cho đau”. Con dân nhà Đạo cũng chẳng cần nói đến Tình bởi có nói vẫn cứ đau, vì người người đã có tình. Tình yêu-thương, giùm giúp chí ít là người trong Đạo, vẫn giữ đạo suốt đời mình.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

TÂM LÝ ĐỘC TÀI

TÂM LÝ ĐỘC TÀI

Tôi nghe, không phải một lần, mà là khá nhiều lần; từ không phải một người, mà là khá nhiều người, chủ yếu là những Việt kiều, vì thiện chí, về Việt Nam làm việc và có cơ hội tiếp xúc với nhiều người trong giới lãnh đạo, than thở: “Nói chuyện với giới lãnh đạo Việt Nam khó lắm. Khen thì mấy ổng cười toe toét. Nhưng chê, dù là chê những chuyện có vẻ hiển nhiên và với giọng điệu nhẹ nhàng nhất, mấy ổng cũng sầm mặt xuống ngay tức khắc. Sau đó muốn gặp lại cũng khó. Khó lắm!”

Khi tôi kể lại những lời than thở trên cho một số bạn bè từ Việt Nam sang; mọi người – tất cả đều thuộc giới trí thức khá cao cấp, có người còn nắm giữ những chức vụ khá cao trong guồng máy hành chính – đều xác nhận. Họ thừa nhận, là, họ, chính họ, các trí thức và cán bộ trong nước, cũng không thể nói thẳng và nói thực với cấp trên: Không ai muốn nghe cả. Không những không muốn nghe, người ta còn giận. Nghĩ là mình lập trường không vững hay có ý đồ gì không tốt.

Nhưng, tôi để ý là, sau khi than thở hoặc thừa nhận như thế, tất cả, từ Việt kiều đến những người trong nước, đều cố biện minh: “Cũng tại mấy ổng già quá rồi. Người già thường khó tính.”

Tôi không tin và cũng không thích những lời biện hộ kiểu đó. Tôi cho đó chỉ là một nguỵ biện. Lại là thứ nguỵ biện nguy hiểm. Nguỵ biện: Không phải người già nào cũng không thích nghe sự thực. Vả lại, phần lớn giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay cũng không thực quá già. Trên thế giới có vô số nhà lãnh đạo lớn tuổi mà vẫn thoải mái tiếp nhận những sự phê phán từ người khác. Nguy hiểm: Chính những sự nguỵ biện kiểu như thế đã dung dưỡng cho thái độ nhắm mắt và bịt tai của những người đang cần được nghe nói thực nhất.

Tôi muốn gọi đúng tên cái chứng không thích nghe về cái xấu, cái dở ấy: độc tài.

Lâu nay, nói đến độc tài (authoritarianism), chuyên chế (dictatorship) hay toàn trị (totalitarianism), chúng ta thường nghĩ ngay đến cơ chế (mechanism), đến bộ máy khép kín và nặng nề của đảng và nhà nước. Đành là đúng. Độc tài (hay những thứ cùng loại đã kể), trước hết, là một cơ cấu quyền lực chỉ cho phép một người, hoặc một nhóm nhỏ, được quyền quyết định tất cả. Không có đối lập. Thậm chí, không có gì được độc lập, kể cả hai thành phần cần được độc lập nhất: tư pháp và truyền thông.

Tuy nhiên, độc tài không phải chỉ là vấn đề cơ chế.

Độc tài còn là vấn đề tâm lý. Tâm lý độc tài là tâm lý chỉ tin vào chính mình, chỉ muốn sử dụng quyền lực để bảo vệ niềm tin của mình, và từ chối nghe bất cứ một ý kiến gì khác với mình. Người độc tài, như thế, ở một trạng thái khá mâu thuẫn: một mặt, họ tự tôn, cho mình, chỉ có một mình mình, là đúng; nhưng mặt khác, lại thiếu tự tin: họ sợ những thách thức đến từ người khác; họ tránh đương đầu; họ không muốn hoặc không dám sử dụng lý trí để thuyết phục người khác và bênh vực cho quan điểm của mình.

Người độc tài, do đó, không phải là những người mạnh mẽ. Và họ cũng biết họ không mạnh mẽ. Biết, nên họ thích sử dụng những biện pháp phi-lý trí để áp đặt và cưỡng chế người khác bằng cách xây dựng những cơ chế bảo vệ cái quyền không dùng lý trí của mình. Cái cơ chế ấy không cần lý lẽ, hơn nữa, nhằm loại trừ mọi lý lẽ. Trong cơ chế ấy, chỉ có một nguyên tắc được vận hành: bạo lực.

Tâm lý độc tài, do đó, là tâm lý sùng bái bạo lực. Tâm lý độc tài nào cũng tìm kiếm và cố duy trì một cơ chế độc tài: với người chồng hoặc người bố có tâm lý độc tài, cơ chế ấy là quyền gia trưởng; với người lãnh đạo một quốc gia, đó là tính chất độc quyền. Cơ chế thuộc chính trị. Tâm lý thuộc văn hoá. Thay đổi cơ chế độc tài cần có những vận động chính trị mạnh mẽ và quyết liệt. Thay đổi tâm lý độc tài cần những cuộc vận động lâu dài và sâu sắc nhằm thay đổi cách nhìn và cách nghĩ. Trong cái gọi là cách nhìn và cách nghĩ ấy, có hai điều quan trọng nhất: chấp nhận sự khác biệt và chấp nhận đối thoại.

Đối thoại chứ không phải độc thoại.

ĐẤNG PHỤC SINH ĐANG Ở GIỮA CHÚNG TA

ĐẤNG PHỤC SINH ĐANG Ở GIỮA CHÚNG TA

GM Giuse Vũ Văn Thiên

EucharistIII

Chúng ta đã long trọng mừng lễ Phục Sinh.  Mọi ồn ào của những cuộc kiệu rước đã lắng xuống. Những bận rộn của Tuần Thánh cũng đã đi qua.  Đối với nhiều người, Tuần Thánh và lễ Phục Sinh giống như những ngày lễ hội mỗi năm tổ chức một lần, lễ xong là hết.  Điều còn lại có thể chỉ là những lời bình phẩm về cách tổ chức lễ năm nay có gì hơn hay kém năm ngoái.  Để tránh lối suy nghĩ lệch lạc đó nơi các tín hữu, Phụng vụ hôm nay khẳng định với chúng ta rằng Chúa phục sinh đang hiện diện trong cộng đoàn các tín hữu.  Người hiện diện như mối dây liên kết chúng ta nên một trong tình bác ái và sự chia sẻ nâng đỡ lẫn nhau.  Hình ảnh cộng đoàn tiên khởi ở Giêrusalem là lời mời gọi chúng ta hãy noi gương mà sống xứng đáng với danh nghĩa những môn đệ Chúa Kitô (Bài đọc I).  Nếu các tín hữu có thể coi mọi sự là của chung và chuyên cần tham dự bẻ bánh, siêng năng cầu nguyện và nhiệt thành thực thi bác ái là vì họ tin Chúa Giêsu phục sinh đang ở giữa họ và chứng kiến những điều tốt lành họ đang làm.

Tuy vậy, vấn đề người chết sống lại, xưa cũng như nay, được coi là một câu chuyện hoang đường, không thể chấp nhận.  Ngay như các môn đệ là những người đã cùng sống với Chúa và đã được nghe Người tiên báo về sự phục sinh, mà các ông còn chưa dễ dàng tin vào sự kiện này.  Thánh Máccô ghi lại sự nghi ngờ đến mức cứng lòng của các ông: khi bà Maria Mácđala kể với các ông là bà đã gặp Chúa phục sinh, các ông cũng không tin.  Các ông cũng không tin khi hai môn đệ từ Emmau trở về quả quyết đã gặp Chúa (x. Mc 16, 9-13).

Lời Chúa hôm nay dẫn chứng một nhân vật cụ thể nữa, đó là Tôma.  Ông không có mặt khi Chúa hiện ra với các môn đệ.  Điều các bạn kể lại không thể thuyết phục ông chấp nhận một điều “ngược đời”. Dấu đinh ở tay, vết thương ở cạnh sườn Chúa… là những điều ông đã chứng kiến như bằng cớ của việc Chúa Giêsu đã chết.  Đối với ông, việc được xỏ ngón tay vào lỗ đinh và đặt bàn tay vào cạnh sườn bị đâm thủng là bằng chúng xác thực về việc Chúa sống lại.  Thực ra, Tôma không thách thức Chúa, ông chỉ cần bằng chứng thiết thực để ông tin.

Chúa Giêsu đã đáp trả những điều kiện Tôma đã đưa ra.  Tám ngày sau, cũng vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa đã hiện đến với các ông với những thương tích trên thân thể Người.  Nếu trước đây Tôma đã ra điều kiện để tin, thì nay Chúa mời ông thực hiện những điều ấy.  Ông chẳng còn lòng dạ nào mà xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn Chúa.  Đúng hơn, ông chẳng cần làm những điều đó, vì Chúa đang ở trước mặt ông bằng xương bằng thịt và đang nói với ông: “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.”  Qua lời nói với Tôma, Chúa Giêsu phục sinh muốn gửi đến cho chúng ta một thông điệp: “Phúc thay những người không thấy mà tin.”  Thông điệp ấy vẫn có giá trị đến ngày hôm nay.  Là những tín hữu, chưa ai trong chúng ta được thấy Chúa trực tiếp.  Chúng ta chỉ cảm nhận Chúa bằng Đức tin.  Con tim và lý trí mách bảo chúng ta Chúa đang hiện diện và những ai tin vào Người thì sẽ không phải thất vọng. “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”  Đó là lời tuyên xưng Đức tin của một người đã hoàn toàn bị chinh phục.  Đó cũng là tâm tình sám hối của một người đã chậm tin những chứng từ của anh em mình.

Trong trình thuật của mình, thánh sử Gioan hai lần nói đến chi tiết “các cửa đều đóng kín,” để diễn tả Đức Giêsu phục sinh không còn bị giới hạn bởi không gian, nghĩa là Người trở nên thiêng liêng giữa thế giới của chúng ta.  Cũng như Người có thể vào trong phòng khi các cửa đều đóng kín, hôm nay Người đang hiện diện nơi dung mạo và cuộc đời của những ai mang tên Người, tức là các Kitô hữu. Thánh Phêrô đã khuyên chúng ta: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin.  Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của Đức tin là ơn cứu độ con người” (Bài đọc II)

Chúa Giêsu phục sinh hôm nay đang hiện diện cách huyền nhiệm nơi cuộc đời này.  Sự hiện diện của Chúa có thể được chứng tỏ qua đời sống đạo đức yêu thương của các tín hữu.  Xin cho mỗi chúng ta biết nhận ra Người đang sống giữa chúng ta để hăng hái nhiệt thành làm chứng cho Người.  “Đức tin là sự tin tưởng sống động và táo bạo vào ơn Chúa, chắc chắn và vững bền tới mức một người có thể cược cả đời mình cho nó hàng nghìn lần” (Sưu tầm).

GM Giuse Vũ Văn Thiên

ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và thông điệp Lòng Thương Xót Chúa

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và thông điệp Lòng Thương Xót Chúa

Chuacuuthe.com

VRNs (27.4.2014) – Sài Gòn – “Tôi coi thông điệp này là một nhiệm vụ đặc biệt của mình. Đấng Quan Phòng đã chỉ định nó cho tôi trong bối cảnh hiện nay của con người, của Hội Thánh và thế giới.”(Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, ngày 22 tháng Mười Một năm 1981)

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II vào đầu năm 1940 đã biết đến thánh Faustina và những mạc khải được ban cho sơ từ Chúa Giêsu. Khi ấy, ĐTC đang là một sinh viên theo học một cách bí mật tại một chủng viện ở Krakow, để tiến tới chức linh mục.

Đức Gioan Phaolô II trong một lần chủ sự giờ Chầu Thánh Thể. Ảnh communio

Đức Gioan Phaolô II trong một lần chủ sự giờ Chầu Thánh Thể. Ảnh communio

Lần đầu tiên ngài nghe nói về những mạc khải tư này từ một chủng sinh khác tên là Andrew Deskur (Andrzej Maria Deskur), người sau này cũng trở thành một Đức Hồng Y. Andrew đã nói với ngài về thánh Faustina Kowalka, cũng như những thông điệp về Lòng Thương Xót Chúa mà sơ tuyên bố đã nhận được từ Chúa.

Cũng trong khoảng thời gian sơ nhận được những thông điệp từ Chúa, Karol Wojtyla bị buộc phải làm việc như một công nhân tại mỏ đá Zakrzowek và sau đó là tại nhà máy hóa chất Solvay, dưới sự chiếm đóng của các lực lượng Đức Quốc xã. Cả hai địa điểm này đều nằm gần tu viện của dòng Đức Mẹ Nhân Lành, nơi thánh Faustina được chôn cất lần đầu.

Chàng trai trẻ Karol Wojtyla thường đi bộ đến tu viện trong chiếc giày gỗ sau một ngày làm việc chăm chỉ. Sau này, khi trở thành linh mục và sau đó là một giám mục, ngài vẫn thường đến đây để cầu nguyện và tĩnh tâm. Sau khi thánh Faustina qua đời, chính Karol Wojtyla, trong vai trò là Tổng Giám Mục Krakow, là người đầu tiên xem xét việc đệ trình lên Thánh Bộ Tuyên Thánh trường hợp của thánh Faustina, như một nhân vật đáng được tuyên chân phước.

Trong thời gian diễn ra Công Đồng Vatican II, ngài đã tiếp cận với Đức Hồng y Ottaviani để trình bày mong muốn của các tín hữu Ba Lan, về việc nâng nữ tu Faustina lên bàn thờ. Đức Hồng y Ottaviani đã nói với ngài rằng, bước đầu tiên là phải thu thập tất cả các lời khai của những người biết sơ ấy khi họ vẫn còn sống.

Đức Tổng Giám Mục Karol Wojtyla sau đó đã ủy thác cho vị Giám mục phụ tá là Đức cha Julian Groblicki, trách nhiệm thu thập các thông tin để bắt đầu ‘Tiến trình Thông tin’ về đời sống và nhân đức của thánh Faustina. Tháng 9 năm 1967, tiến trình được hoàn tất, và vào tháng Một năm 1968, ‘Tiến trình tuyên Chân phước’ được khởi động. Vì kết quả tích cực từ ‘tiến trình thông tin’, các yêu cầu thông tin từ nhiều nơi, đặc biệt từ Ba Lan và cách riêng là từ Đức Tổng Giám Mục Wojtyla, đã được gửi đến Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin. Họ thắc mắc liệu những điều cấm trong Thông báo 1959 của Bộ vẫn còn hiệu lực hay chăng? Trong gần 20 năm, Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin đã cấm việc lan truyền cuốn nhật ký của vị nữ tu thần bí này. Để trả lời cho những yêu cầu thông tin trên, Bộ đã đưa ra một ‘Thông báo’ mới vào ngày 15 tháng Tư năm 1978, trong đó đề cập: “Thánh Bộ giờ đây đã có trong tay nhiều tài liệu nhiều gốc chưa được biết đến vào năm 1959, và đã xem xét những tình huống thay đổi một cách sâu sắc, cũng như đã cứu xét ý kiến ​​của nhiều Giám mục Ba Lan. Giờ đây Thánh Bộ tuyên bố, những điều cấm chứa trong ‘Thông báo 1959′ không còn mang tính ràng buộc.”

Vào Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, ngày 30 tháng 11 năm 1980, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã công bố thông điệp thứ hai của ngài ‘Dives in Misericordia’ (Đấng Giàu Lòng Thương Xót), trong đó ngài mô tả lòng thương xót của Thiên Chúa như là sự hiện diện của một tình yêu, thứ lớn hơn bất kỳ sự ác nào, cũng như lớn hơn mọi tội lỗi và cả cái chết. Cũng trong thông điệp này, ngài kêu gọi Hội Thánh dâng hiến chính mình trong việc khẩn cầu Lòng thương xót của Thiên Chúa cho toàn thể thế giới.

Việc công bố thông điệp thứ hai này có lẽ là sự kiện quan trọng nhất trong cuộc đời của Đức Thánh Cha, và trong mối liên hệ của ngài với thánh Faustina cũng như với thông điệp Lòng Thương Xót Chúa.

Trong vai trò là Tổng Giám Mục của Krakow, Karol Wojtyla đã bênh vực thánh Faustina khi uy tín của sơ và thông điệp Lòng Thương Xót Chúa bị đặt nghi vấn tại Rôma. Việc này xảy ra là do một bản dịch lỗi ‘cuốn nhật ký của sơ’ bằng tiếng Ý, được gửi đến Thánh Bộ Bảo vệ Đức Tin.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói rằng ngài cảm thấy “rất gần gũi với thánh Faustina và đã nghĩ về sơ, cũng như về thông điệp Lòng Thương Xót Chúa, khi ngài bắt đầu khởi sự thông điệp ‘Đấng Giàu Lòng Thương Xót’ (Dives in Misericordia).” Ngày 22 tháng Mười năm 1981, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã có chuyến tông du bên ngoài Rôma đầu tiên. Và vào ngày Lễ Chúa Kitô Vua, ngài đã viếng thăm trong một vài ngày Đền thánh Tình Yêu Thương Xót tại Collevalenza. Một hội nghị quốc tế cũng đã được tổ chức tại đây để cùng tìm hiểu thông điệp ‘Đấng Giàu Lòng Thương Xót’.

Sau khi cử hành Thánh Lễ, ngài đã tuyên bố công khai một cách mạnh mẽ về tầm quan trọng của thông điệp Lòng thương xót. Ngài nói: “Một năm trước, tôi đã công bố thông điệp ‘Đấng Giàu Lòng Thương Xót’. Điều đó đã khiến tôi đến ngôi Đền Tình yêu Thương xót hôm nay đây. Với sự hiện diện của tôi, tôi muốn xác nhận một lần nữa những thông điệp từ thông điệp đó. Tôi muốn đọc lại nó [cho anh chị em] và chuyển giao nó một lần nữa. Ngay từ ngày khởi đầu sứ vụ tại ngai tòa thánh Phêrô ở Rôma, tôi đã coi thông điệp này là một nhiệm vụ đặc biệt của mình. Đấng Quan Phòng đã chỉ định nó cho tôi trong bối cảnh hiện nay của con người, của Hội Thánh và của thế giới. Có thể nói chính xác rằng, chính bối cảnh này đã chỉ định thông điệp ấy cho tôi như một nhiệm vụ của tôi trước mặt Thiên Chúa.” (Trích từ bài giảng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tại Đền Tình yêu Thương xót tại Collevalenza, Ý, ngày 22 tháng 11 năm 1981)

Vào Chúa Nhật về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, ngày 10 tháng Tư năm 1991, hai năm trước khi Faustina được tuyên Chân phước, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói về thánh Faustina, liên kết thánh nữ với thông điệp của ngài và nhấn mạnh vai trò của thánh nữ trong việc mang thông điệp Lòng thương xót ra toàn thế giới, “Những lời trong thông điệp Đấng Giàu Lòng Thương Xót (Dives in Misericordia) đặc biệt gần gũi với chúng ta. Chúng nhắc lại hình ảnh của một vị Tôi Tớ Chúa, thánh Faustina Kowalka. Vị nữ tu giản dị này đã làm cho thông điệp Phục Sinh của Chúa Kitô Thương xót trở nên gần gũi hơn với toàn thế giới.”

Vào Chúa Nhật Thương Xót, ngày 18 tháng Tư năm 1993, thánh Faustina được ĐTC Gioan Phaolô II tuyên Chân phước tại quảng trường thánh Phêrô. Ngài bắt đầu bài giảng với một trích đoạn từ cuốn nhật ký của vị tân Chân phước: “Tôi cảm thấy sứ mạng của tôi sẽ không chấm dứt sau cái chết của tôi, nhưng đó sẽ là khởi đầu.” Và quả thật đúng như thế! Sứ mạng của chị vẫn tiếp tục và đang sinh hoa kết quả lạ lùng. Thật sự lạ lùng cách mà lòng sùng kính của chị đối với Chúa Giêsu nhân lành đang loan truyền ra khắp thế giới đương đại của chúng ta, và đem về rất nhiều linh hồn!

“Ở nơi nào mà thế giới có thể tìm thấy chỗ nương tựa và ánh sáng của hy vọng, nếu không phải là nơi Lòng Thương Xót Chúa?” đó là một trong những chủ đề của triều Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Trong buổi đọc kinh ‘Lạy Nữ Vương Thiên Đàng’ (Regina Caeli), ngày 23 tháng 4 năm 1995, ngay sau khi kết thúc buổi cử hành Chúa Nhật Lòng Thương Xót tại nhà thờ Thánh Linh, ĐTC Gioan Phaolô II đã khuyến khích các tín hữu đích thân trải nghiệm Lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài nói: “một cách đặc biệt, hôm nay là ngày Chúa nhật tạ ơn, tạ ơn vì sự tốt lành của Thiên Chúa đã thể hiện ra cho con người trong toàn bộ mầu nhiệm Phục Sinh”.

“Đó là lý do tại sao Chúa nhật này còn được gọi là Chúa Nhật về Lòng Thương Xót Chúa của Thiẹn Chúa. Về cơ bản, lòng thương xót của Thiên Chúa, như qua kinh nghiệm thần bí của thánh Faustina Kowalka, người đã được nâng lên bàn thờ vào năm 2000, giúp chúng ta hiểu và tiết lộ một cách chính xác sự thật này: sự thiện chiến thắng trên sự dữ, sự sống mạnh hơn cái chết, và tình yêu của Thiên Chúa thì quyền năng hơn tội lỗi.”

“Tất cả điều này được biểu lộ trong mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô, nơi đó Thiên Chúa xuất hiện trước chúng ta như một người Cha có trái tim nhân hậu, người không bỏ cuộc khi đối diện với sự vô ơn của con cái mình, và luôn sẵn sàng tha thứ.”

“Chúng ta phải đích thân trải nghiệm lòng thương xót này, để đến lượt mình, chúng ta cũng cảm thấy ước muốn có khả năng thương xót. Chúng ta hãy học cách tha thứ! Vòng trôn ốc của hận thù và bạo lực đã làm vấy bẩn vết máu lên hướng đi của rất nhiều cá nhân và quốc gia, cái chỉ có thể được phá vỡ bởi phép mầu của sự tha thứ.”

Khi ĐTC Gioan Phaolô II có chuyến hành hương đến đền Lòng Thương Xót Chúa tại Lagiewniki, Ba Lan, ngày 7 tháng Sáu năm 1997, ngài đã có một bài huấn đức rất cá nhân trước các nữ tu của Dòng Đức Mẹ Nhân Lành (hội dòng của thánh nữ Faustina), trong đó ngài suy niệm về Lòng Thương Xót Chúa, đưa ra một chứng từ cá nhân tuyệt vời của thánh Faustina và thông điệp của chị, “Tôi đến đền thánh này như một khách hành hương, để tham dự vào bài thánh ca bất tận tôn vinh Lòng Thương Xót Chúa. Tác giả thánh vịnh của Thiên Chúa đã xướng bài thánh ca ấy, đã biểu lộ những gì mà mọi thế hệ sẽ lưu giữ và tiếp tục lưu giữ, như hoa quả quý giá nhất của đức tin.”

“Không có gì khiến con người cần hơn là Lòng thương xót Chúa, đó là tình yêu rộng lượng, từ bi, tình yêu nâng con người lên trên sự yếu đuối của họ, để vươn tới chiều cao vô hạn là sự thánh thiện của Thiên Chúa. Tại nơi đây, chúng ta đặc biệt ý thức được điều này. Trên thực tế từ nơi đây, chính Đức Kitô đã chọn để truyền đi thông điệp của Lòng Thương Xót Chúa cho thế hệ chúng ta qua thánh nữ Faustina. Đó là một thông điệp rõ ràng và dễ hiểu đối với mọi người. Bất cứ ai cũng có thể đến đây, nhìn vào bức ảnh Chúa Giêsu đầy lòng thương xót này, trái tim của ngài phát ra tia sáng ân sủng, và thánh nữ Faustina đã nghe trong sâu thẳm linh hồn của Thiên Chúa rằng: “Đừng sợ, Ta ở với con luôn mãi.” (Nhật ký, 586)

“Và nếu người nào đáp trả với một trái tim chân thành, ‘Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa’, người ấy sẽ tìm được sự an ủi giữa những lo âu và sợ hãi. Thông điệp Lòng thương xót Chúa đã luôn luôn gần gũi và trở nên thân thương đối với tôi. Dường như lịch sử đã ghi khắc điều đó trong kinh nghiệm bi thảm của cuộc Thế chiến thứ hai. Trong những năm tháng khó khăn ấy, [thông điệp Lòng thương xót Chúa] là một hỗ trợ đặc biệt và là nguồn hy vọng vô tận, không chỉ cho người dân Krakow nhưng cho toàn thể quốc gia này. Đây cũng là kinh nghiệm cá nhân của tôi, cái mà tôi mang theo mình khi tiến tới ngai tòa thánh Phêrô, và theo một cách nào đó, điều ấy đã khuôn đúc nên hình ảnh của triều đại Giáo Hoàng này.”

Vào Chúa nhật Thương xót ngày 30 tháng Tư năm 2000, trước gần 250.000 khách hành hương và các máy quay của truyền hình thế giới, ĐTC Gioan Phaolô II đã tuyên thánh cho nữ tu Faustina Kowalka, ‘vị Tông Đồ vĩ đại của Lòng Thương Xót Chúa’. Ngài đồng thời cũng chấp thuận thông điệp Lòng Thương Xót Chúa và việc sùng kính này bằng cách tuyên bố, Chúa nhật thứ hai sau lễ Phục Sinh là ‘Chúa Nhật về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa’ cho toàn thể Giáo Hội Hoàn vũ. Trong một bài giảng đặc biệt dưới triều giáo hoàng của mình, ĐTC Gioan Phaolô II đã lặp đi lặp lại ba lần rằng, thánh Faustina là một ‘món quà của Thiên Chúa ban tặng cho thời đại của chúng ta.’ Chị đã biến thông điệp của Lòng Thương Xót Chúa trở thành ‘cầu nối tiến tới thiên niên kỷ thứ ba.’ Sau đó ĐTC nói tiếp, “bởi hành động tuyên thánh cho nữ tu Faustina, tôi muốn truyền đi thông điệp này cho thiên niên kỷ thứ ba. Tôi muốn truyền nó cho tất cả mọi người, để họ có thể học và nhận biết tốt hơn gương mặt đích thực của Thiên Chúa và gương mặt đích thực của người thân cận. Trong thực tế, tình yêu Thiên Chúa và tình yêu dành cho người thân cận là không thể tách rời.”

Cổ vũ mọi người cùng đồng thanh với Đức Maria, Mẹ của Lòng Thương Xót, và với thánh Faustina, “người đã biến đời sống mình thành một bài ca của lòng thương xót”, để “ca tụng tình thương Chúa đến đời đời.” (Tv 89, 2) ĐTC kết thúc bài giảng với những lời sau đây, “Anh chị em thân mến, thánh Faustina là một một món quà của Thiên Chúa dành cho thời đại của chúng ta, một món quà đến từ miền đất Ba Lan dành cho toàn thể Hội Thánh. Ngài đã cho chúng ta biết về chiều sâu của Lòng thương xót Chúa; ngài giúp chúng ta sống kinh nghiệm đó và làm chứng về nó giữa anh chị em của chúng ta. Xin cho thông điệp của ánh sáng và hy vọng này được lan truyền ra khắp thế giới, thúc đẩy những tội nhân hoán cải, làm dịu đi sự kình địch và hận thù, và giúp các cá nhân cũng như các quốc gia thực hành tình huynh đệ.”

Những mạc khải tư cho thấy việc sùng kính Lòng Thương Xót Chúa, là một chỉ thị rõ ràng và mạnh mẽ được trao cho Hội Thánh. Chúng ta đã thấy trong lễ tuyên thánh của thánh nữ Faustina sự hoàn tất của mệnh lệnh này. Bằng việc tuyên thánh cho vị nữ tu, Hội Thánh đã thiết lập việc sùng kính Lòng Thương Xót Chúa cho tất cả mọi người. Vì vậy ngày hôm nay, cùng với Đức Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chúng ta hãy nhìn lên gương mặt của Chúa Kitô Phục sinh, chúng ta hãy cầu nguyện và nói lên với niềm hy vọng vững vàng rằng, Lạy Chúa Giêsu là Đấng Phục Sinh, con tín thác nơi Ngài.

Trong chuyến viếng thăm Ba Lan cuối cùng vào ngày 17 tháng Tám năm 2002, ĐTC Gioan Phaolô II đã cung hiến Vương Cung Thánh Đường Lòng Thương Xót Chúa, tiếp giáp với đền Lòng Thương Xót Chúa. Cũng vào thời điểm đó, ĐTC đã trao phó toàn thế giới cho Lòng Thương Xót Chúa.

Phỏng dịch và thêm một số chi tiết từ bài viết của tác giả Val Conlon

Đức Thiện, VRNs

 

Hạnh phúc vì Tin

Hạnh phúc vì Tin

Chuacuuthe.com

VRNs (26.04.2014) – Biến cố tử nạn của Đức Giêsu chỉ mới diễn ra trong 3 ngày, các môn đệ còn vẫn chưa hết bàng hoàng, hoảng sợ thì đã nhận được tin báo Ngài sống lại. Như vậy, để tin việc phục sinh ấy chẳng dễ chút nào. Nhất là đối với các môn đệ, những người đã tận mắt chứng kiến cuộc bắt bớ của Ngài từ trong vườn Giệtsimani cho đến cái chết đau thương trên núi Sọ. Nỗi tang tóc, ảm đạm vẫn còn chưa ngớt trong các ông, họ tụ họp với nhau mà phải cửa đóng then cài vì rất đỗi hoảng sợ.

Khó tin chẳng phải không thể tin, vì hằng ngày theo chân Đức Giê suđi rao giảng, các ông không ít lần chứng kiến phép lạ của Ngài khi cho người đã qua đời được trở về từ cõi chết. Nhưng có lẽ phần lớn là do quá sợ trước cái chết của Thầy mình, chen lẫn sự tuyệt vọng.

Sự hiện diện của Đức Giêsu trong lúc này giữa các ông thật là một niềm an ủi lớn lao, cả vật chất lẫn tinh thần. Không những được tận mắt chứng kiến, sờ tận tay người mà tưởng rằng đã vĩnh viễn rời xa họ, mà còn được củng cố niềm tin và sức mạnh vào lý tưởng, vào con đường họ đã chọn, đã đi.

Đức Giêsu đã trỗi dậy thật từ cõi chết khẳng định sự toàn thắng của thế giới sự thiện trước bóng tối tội lỗi và sự ác mà thế gian đã cướp mất. Ngài đã trả lại cho con người hạnh phúc nguyên thủy và bình an đích thực, nguồn bình an đến từ Thiên Chúa: “Bình an cho anh em!” (Ga 20, 21a)

Khi đã lãnh nhận được nguồn bình an đích thực từ Thiên Chúa, Đức Giêsu mong muốn chúng ta cũng can đảm ra đi loan báo và làm chứng tin vui cứu độ cho mọi người: “Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em.” (Ga 20, 21b)

Ông Tôma vì vắng mặt nên đã không tin, ông đòi hỏi: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” (Ga 20, 25) Tám ngày sau, Đức Giêsu đã hiện ra cho ông thỏa mãn yêu cầu: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” (Ga 20, 27)

Nỗi hoài nghi, ngờ vực của Tôma cũng chính là tâm trạng của mỗi người chúng ta trong cuộc sống thường nhật. Mỗi khi gặp gian nan, thử thách, đau khổ, thất bại, chúng ta cũng mất niềm tin vào Thiên Chúa và hoài nghi lòng thương xót, tình yêu quan phòng của Ngài. Nhất là trong thời đại ngập chìm sự ác của thế giới ngày nay, người ta như còn không tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa nữa, bởi sức mạnh của đồng tiền và quyền lực đang mỗi ngày xâm chiếm địa cầu. Bóng tối che khuất ánh sáng, ánh trăng “tội lỗi” của thế gian che khuất ánh sáng chân lý của mặt trời. Biết đến khi nào mọi người mới biết cất lên lời tuyên tín: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20, 28)

Chỉ vì đã được thấy nên Tôma mới tin, thật là phúc cho những ai, không thấy nhưng vẫn tin! (x. Ga 20, 29)

Lạy Chúa, không ai có thể lên đến mặt trời vì sức nóng tột độ của nó, con người cũng không thể nào diện đối diện với Ngài vì ánh sáng sự thiện tuyệt hảo nơi Ngài chỉ vì bất toàn, tội lỗi. Biết mình không thể chạm tới nhưng con vẫn tin. Tin vào sự toàn thắng của chân lý. Niếm tin ấy đã cho con sức mạnh tồn tại giữa bóng đêm tội lỗi đầy bất công này. Nhưng niềm tin của con còn yếu kém quá, mỏng manh và leo lắt như ngọn đèn trước gió. Xin giúp con có được nguồn bình an phục sinh đích thực, để con tin rằng Thiên Chúa đã sống lại vì con và cho con. Cho dù ngày sau có phải ra sao, nhưng hôm nay con vẫn là kẻ diễm phúc vì đã tin và can đảm tuyên tín niềm tin!

M. Hoàng Thị Thùy Trang.