HÃY XÉ LÒNG

HÃY XÉ LÒNG

Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao.  Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện.  Ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết.  Để thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi.  Khi ông ăn chay và cầu nguyện ít, ngôi sao mờ đi.  Khi ông ăn chay nhiều và cầu nguyện nhiều thì ngôi sao càng sáng lên.  Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi.  Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng ông.  Thày trò hăng hái lên đường.  Đường càng lên càng dốc dác khó đi.  Mặt trời càng lúc càng nóng gắt.  Cả hai thày trò ướt đẫm mồ hôi và cảm thấy khát nước.  Nhưng không ai dám uống.  Em bé không dám uống trước khi thày uống.  Vị ẩn tu không dám uống vì sợ mất công phúc trước mặt Chúa.  Nhưng nhìn thấy bé gái mỗi lúc mệt thêm, thày ẩn tu thấy thương, nên mở nước ra uống.  Lúc ấy cô bé mới dám uống.  Uống nước xong, cô bé mỉm cười rất tươi và cám ơn thày.  Thày ẩn tu len lén nhìn lên đầu núi.  Thầy sợ ngôi sao biến mất vì thày đã không biết hãm mình.  Nhưng lạ chưa, trên đầu núi thày thấy không phải một mà có đến hai ngôi sao xuất hiện.  Thì ra, để thưởng công vì thày biết nghĩ đến người khác, Chúa đã cho xuất hiện một ngôi sao nữa, sáng không kém gì ngôi sao kia.

Mùa chay được mở đầu bằng nghi thức xức tro và một ngày ăn chay kiêng thịt.  Có lẽ có nhiều người thắc mắc tại sao ngày xưa người Do Thái rắc đầy tro trên đầu, ngồi cả trên đống tro, mà ngày nay ta chỉ xức một chút ít tro, và tại sao ngày xưa ăn chay trong bốn mươi ngày, mà ngày nay chỉ còn ăn chay có 2 ngày Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu tuần thánh?  Thưa vì Giáo hội muốn ta càng ngày càng đi vào tinh thần hơn là chỉ giữ hình thức bên ngoài.

Mục đích của Mùa Chay là giúp ta trở về với Chúa và với anh em bằng sám hối nhìn nhận tội lỗi của chính mình.  Việc xức tro, ăn chay, cầu nguyện, làm việc thiện, chỉ là những phương tiện.

Xức tro là để tỏ lòng sám hối.  Xức nhiều tro mà trong lòng không thật tình sám hối thì có ích gì.  Ngày nay, Giáo hội chỉ dùng một chút tro tượng trưng để nhắc nhớ ta.  Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn.  Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy tâm hồn mình đã ra hoen ố vì tội lỗi.  Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã bôi tro trát trấu vào khuôn mặt Thiên chúa, làm lem luốc khuôn mặt Giáo hội, làm ô danh cho đạo thánh của Chúa.  Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã làm cho mối quan hệ với tha nhân bị vẩn đục vì những tham vọng, những ích kỷ, những nhỏ nhen của ta.  Hãy xức tro vào tâm hồn để lòng ta xót xa, đau đớn, hối hận vì những tội lỗi đã phạm.

Ăn chay không phải là một hình thức làm cho qua lần, chiếu lệ.  Ăn chay không phải chỉ là nhịn ăn một hai bữa cơm.  Ăn chay có mục đích nhắc nhớ ta hãy biết hãm dẹp thân xác, hãm dẹp những tính mê tật xấu, hãm dẹp những gì làm mất lòng Chúa và làm phiền lòng anh em.  Giáo hội giản lược việc ăn chay vào 2 ngày trong một năm, không phải vì coi nhẹ việc ăn chay, nhưng vì Giáo hội muốn tránh thái độ ăn chay hình thức, để tập trung vào việc ăn chay trong tâm hồn. Nhịn ăn một bát cơm không bằng nhịn nói một lời có thể làm buồn lòng người khác.  Nhịn ăn một miếng thịt không bằng nhịn đi một cử chỉ xúc phạm đến anh em.  Nhịn một bữa cơm ngon không bằng nhường nhịn, tha thứ, làm hoà với nhau.  Kềm chế cơn đói không bằng kềm chế cơn nghiện rượu, nghiện ma tuý, nghiện cờ bạc.  Kềm chế cơn khát không bằng kềm chế dục vọng, tính tham lam, thói kiêu ngạo.

Chính vì thế mà tiên tri Joel đã kêu gọi dân chúng: “Hãy xé lòng chứ đừng xé áo”.  Người Do thái có tục lệ khi ăn chay, thống hối thì xé áo ra.  Đó là một hình thức biểu lộ sự thống hối.  Điều quan trọng là có tâm hồn thực sự sám hối.  Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những tham lam, bất công.  Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói lười biếng, khô khan, nguội lạnh.  Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những dính bén trần tục.  Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói gian dối, giả hình. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới gạt bỏ được những chướng ngại ngăn cản ta đến với Chúa.  Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới đến gần Chúa, sống tình thân mật với Chúa, hưởng được tình yêu thương của Chúa.

Để ăn chay trong tinh thần và để thực sự hướng về tha nhân, nhiều nước trên thế giới đã biến việc ăn chay thành những hành động bác ái cụ thể.  Mỗi ngày trong mùa chay, họ bớt chi tiêu một chút, gửi tiền tiết kiệm giúp những nơi nghèo khổ, bị thiên tai.  Nhờ thế, việc ăn chay của họ không còn là hình thức, nhưng là những hi sinh thực sự và trở nên những việc làm đầy tình bác ái huynh đệ.

Bây giờ thì chúng ta đã hiểu thế nào là ăn chay và sám hối đẹp lòng Chúa.  Mỗi người hãy tự đặt ra cho mình, cho gia đình mình một chương trình sống Mùa Chay.  Ước gì mùa Chay năm nay sẽ là khởi điểm của một đời sống mới, giúp mỗi người chúng ta thực sự thay đổi đời sống, mến Chúa hơn, yêu người hơn.

Lạy Chúa, xin thương xót con,

vì con là kẻ tội lỗi. Amen.

TGM Ngô Quang Kiệt

From: ThiênKim & Nguyễn Kim Bằng

Mùa Chay và Việc Giữ Chay

Mùa Chay và Việc Giữ Chay

Luật ăn chay, giữ chay cần phải hiểu thế nào?

1. Mục đích và ý nghĩa:

  • Trở về với Thiên Chúa.
  • Noi gương Chúa Giêsu và vâng lời Giáo Hội.
  • Hy sinh hãm mình đền tội.
  • Thành tâm sám hối tội lỗi.
  • Tham gia công tác từ thiện, bác ái.
  • Cầu nguyện và làm việc lành.

2. Tiêu chuẩn:

  • Tuổi giữ chay, theo GL 97 và 1252: “Mọi tín hữu tuổi từ 18 cho đến 60 tuổi thì buộc phải giữ chay”.
  • Tuổi ăn kiêng, theo GL 1252 “buộc những tín hữu tuổi từ 14 trở lên”.
  • Tại Việt Nam hiện nay chỉ còn buộc giữ chay hai ngày (Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh). Một số giáo phận còn giữ luật cũ (tất cả các ngày Thứ Sáu trong Mùa Chay).
  • Luật giữ chay kiêng thịt cũng có thể miễn hoặc giảm cho những người già yếu, đau bệnh, phụ nữ có thai, phụ nữ nuôi con bằng sữa mẹ…

3. Cách thức:

  • Chỉ ăn một bữa no trong ngày. Nếu lấy bữa trưa làm chính thì bữa sáng và bữa tối chỉ được ăn chút đỉnh mà thôi.
  • Không ăn các loại “thịt”.
  • Không ăn quà vặt trong ngày.
  • Không uống các thức uống có chất kích thích như rượu, bia…

4. Kinh Thánh dạy ta ăn chay thế nào để đẹp lòng Thiên Chúa?

  • Is 58,2-12: Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?
  • Ge 2,12-13: Đây là sấm ngôn của Đức Chúa: “Nhưng ngay cả lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van”. Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng hoạ.
  • Hc 34,26: Cũng thế, kẻ ăn chay đền tội, rồi đi phạm lại vẫn những tội ấy, hỏi ai sẽ nghe lời nó cầu xin? Hạ mình kiểu đó, nào được ích lợi gì?
  • Mt 6,16-18: Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh em, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh em ăn chay, ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh em.

5. Tóm lại:

Mùa Chay là mùa mà Giáo Hội kêu gọi mọi người Kitô hữu sống tinh thần: “Âm thầm cầu nguyện, lặng lẽ hy sinh và thành tâm sám hối.”

Để có thể giữ chay tốt, ta nên chú ý đến ý nghĩa của việc giữ chay hơn là những tiêu chẩn và cách thức (hình thức). Ví dụ như: nếu ta giữ đúng những tiêu chuẩn và cách thức của luật giữ chay, mà lại thay thế bữa thịt bằng một bữa ăn đặc sản vùng biển tốn kém, thì còn gì là ý nghĩa chay tịnh nữa.

Đàng khác, nếu ta chỉ giữ chay với thói quen hình thức, mà không yêu thương, từ tốn, nhã nhặn, tha thứ cho những người xung quanh ta, thì giữ chay nào có ích gì.

Vậy, ăn chay theo đạo Công Giáo là nhịn ăn hoặc bớt ăn để diễn tả sự hy sinh tự nguyện, để cổ võ lòng đạo đức hoặc lập thêm công đức; hơn nữa, nhịn ăn hay bớt ăn cũng là để chia sẻ với người nghèo khó trong tinh thần bác ái và phục vụ.

JB. Bùi Ngọc Điệp

 

Hạt Bụi Mùa Chay

Hạt Bụi Mùa Chay

Nguyễn Trung Tây, SVD

Mùa Chay khởi đi với thứ Tư Lễ Tro, người người tín hữu trên khắp năm châu cúi đầu nhận hình thánh giá bằng dấu tro ghi trên trán. Mùa Chay cũng nhắc nhở người tín hữu, dưới lăng kính màu tím, thân phận tro than của con người, có đó rồi mất đó, tương tự như hoa Quỳnh Hương khuya nở sớm tàn. Nhưng nhìn dưới lăng kính màu hồng, Mùa Chay cũng gợi nhớ mối liên hệ phụ mẫu tử giữa trời cao và đất thấp, bởi vì “Chúa ơi, con chẳng là chi, chỉ là hạt bụi, mà sao Chúa lại yêu con vô cùng?”. Mùa Chay, hơn thế nữa, kêu gọi người tín hữu bóc lột miếng vỏ cũ, khoác vào tấm áo mới, một dạng thay đổi, một cuộc đổi thay để thôi không làm trứng, làm sâu, làm nhộng, nhưng vươn mình triển nở hóa ra cánh bướm tô thêm đậm đặc màu xanh thiên đàng ngay trên cõi trần gian.

Những hạt bụi tro Mùa Chay ghi trên trán có thể được ví với những vị thuốc diệu kỳ có khả năng chữa trị những căn bệnh của nhân loại. Từ những thời kỳ đầu tiên khi trái đất cất tiếng khóc oe oe chào đời, kéo xuống tới ngày người ta chà đạp đá sỏi kinh thành kéo vào Vườn Cây Dầu trói chặt Đức Giêsu mang đi, cho tới thời kỳ của bây giờ và hôm nay, đã bao nhiêu bàn chân bước đạp giẫm lên trên mặt đất đen của trái địa cầu, đã bao nhiêu linh hồn từng ghé xuống cõi trần rong chơi một khoảng, đã bao nhiêu hình hài nghiêng đổ bóng dài xuống cõi nhân gian? Ai ngồi tính toán cho ra? Cuộc sống tiếp tục xoay vần, Sinh! Bệnh! Lão! Tử! Con người nhịp nhàng xoay tròn quỹ đạo trăm năm. Tiếp nối trăm năm vẫn chưa là gì ngoại trừ tro bụi. Trong vòng quay cuốn hút của sinh, bệnh, lão, tử, người người vẫn cứ thường thường quên đi là một ngày sẽ tới, khi đó tôi sẽ hóa ra tro bụi của hình hài nguyên thủy mà tôi đang mang trên vầng trán vào ngày thứ Tư của Mùa Chay. Khi nhớ lại thân phận con người là hữu hạn, là tro bụi, tôi sẽ bớt, thôi, không khóc lóc, hoặc là bớt, thôi, không than thở, hoặc là bớt, thôi, không khó chịu với cuộc đời, khi những phiền toái của cuộc sống đè nặng trên đôi vai nhỏ bé của tôi. Khi nhận ra cuộc sống đang được đếm từng ngày từng tháng, cho nên một giây không nên bỏ phí, một phút chớ nên bỏ quên, tôi sẽ dễ dàng gạt bỏ đi, bớt, thôi, không dõi nhìn những lăng kiếng khá tiêu cực của thường tình nhân gian.

Những hạt bụi màu đen của Mùa Chay cũng nhắc nhở tôi về liên hệ phụ mẫu tử của thiên đàng và trần gian. Thiên Chúa biết tôi là hạt cát, hạt bụi, thế mà tại sao Ngài lại yêu hại cát, hat bụi là tôi đến thế nhỉ? Đã bao nhiêu lần khi tôi bước chân lên bãi cãi dài vô tận của đại dương, bao nhiêu hạt cát đã lọt qua những kẻ chân hoặc bị tôi dẵm dí, chà đạp lên trên, nhưng có hạt cát nào đủ sức mời gọi tôi dừng bước kiên nhẫn cúi nhìn tìm kiếm sắc hình? Đã bao nhiêu lần khi tôi bước dẵm đạp lên trên những hạt bụi của sàn nhà, hạt bụi nào đủ ma lực kêu mời để tôi cúi xuống phân biệt bụi này bụi đỏ, bụi kia bụi tro? Hạt bụi nào? Chẳng có hạt bụi nào cả. Thế mà thiên đàng xa thẳm vẫn cứ tiếp tục từ trên trời cao vén mây kiếm tìm hạt bụi lạc loài trên trần gian là tôi. Đã từ bao lâu nay, vĩnh hằng vĩnh cửu vẫn cứ loay hoay đi ra đi vô than ngắn thở dài bên song cửa, bởi vì Phụ Mẫu thiên đàng vẫn chưa nhìn thấy bóng dáng hạt bụi trần gian quay về nơi căn nhà xưa. Lạ nhi? Hay ghê? Nhìn tôi trong kiếng, ngắm mình trong gương, tôi vẫn thấy mình nguyên vẹn hình hài của một hạt cát, hạt bụi. “Thế mà vĩnh hằng thiên đàng ơi, con vẫn không hiểu tại sao Ngài lại yêu con đến như thế?”.

Mùa Chay cũng gợi lại trong tôi nhạc phẩm, “Kià con bướm vàng…” của một thời ấu thơ. Đã có một thời của Lớp Mẫu Giáo, Lớp Một, tôi mê nhìn những cánh bướm màu sắc rực rỡ bay lượn trên những cánh đồng. Vào một khoảng của thơ ấu, đã biết bao lần tôi mơ làm bướm vàng bay xa bay cao vào trong bầu trời rực rỡ. Thời của ngây thơ đơn giản hóa vấn đề không bao giờ đặt trong tôi câu hỏi về mối tương quan và sợi giây liên hệ giữa trái trứng lốm đốm trên mặt lá xanh với con sâu lông lá xấu ơi là xấu, với con nhộng nằm chết héo khô lặng lẽ treo trên nhánh cây, và với chú bướm vàng đẹp đẽ bay lượn trong bầu trời. Thơ ấu trôi xa vào quá khứ để lại giọng khàn vỡ đục của tuổi bắt đầu làm người lớn cho tôi lại thêm một lần nữa hiểu biết và kinh nghiệm về đổi thay của trứng bướm, của con sâu, của con nhộng, và của con bướm. Nếu không thay đổi, tôi sẽ tiếp tục nằm chết trong quả trứng bướm, một quả trứng hư, trứng ung, trứng thối. Nếu tôi đổi thay chuyển động lắc mình, mầm trứng nhúc nhích biến hình đổi dạng, khiến tôi nứt vỏ trứng, mở mắt ngỡ ngàng hé nhìn thế gian. Nhưng thay đổi từ trứng sang sâu vẫn chưa đủ, bởi nếu tôi vỡ trứng hóa ra con sâu lông lá xấu xí, khắp cùng thiên hạ đều sẽ gớm ghét, tránh xa khi họ đối diện tôi. Mà có quý chi một kiếp sâu, bởi con sâu cũng chỉ làm tôi nổi bật hóa ra mồi thơm cho chim trời bay lượn trên không dừng lại một nhịp cánh, bay xuống nuốt trôi tôi vào vực thẳm tối tăm. Là con sâu, tôi cũng chỉ tiếp tục cong người trườn bò đi dưới mặt đất. Nếu thiên hạ giơ chân đạp xuống, thế là thân phận con sâu cái kiến biến dạng trên mặt đất. Nhưng thay đổi từ sâu sang nhộng vẫn chưa đủ, bởi nếu tôi chịu nhả tơ làm kén, hóa thành nhộng, thì tôi cũng vẫn tiếp tục lặng lẽ chết đi trong kén. Nếu vậy, cuộc đời cũng chẳng có chi gọi là khá hơn. Đáng giá gì một sợi tơ tằm? Lụa nào kết nối chỉ bởi một đường tơ? Con nhộng, hình hài của thây ma xác chết, ai xót thương, ai nhỏ lệ cho một chú nhộng?

Đổi thay, thương hải biến vi tang điền, biển cả (đổi thay) biến thành ruộng dâu.

Thay đổi, hạt lúa gieo vào đất đen đổi thay nảy mầm vươn cao biến thành cây mạ xanh non.

Đổi thay, thay đổi, khi vươn vai phá rách bốn bức tường bao bọc phận kén, tôi nhẹ mình bay bổng vào cõi trời xanh trong của rực rỡ hương hoa thiên đàng.

Mùa Chay, mùa để tôi thay đổi, tôi không dự tính, lên kế hoạch, vẽ họa đồ đổi thay ai khác nhưng chính tôi, hạt bụi trần gian.

Tôi đang ngồi đếm trứng bướm trên mặt lá của cuộc đời vào những ngày đầu tiên của Mùa Chay. Tôi thắc mắc không biết trái trứng nào cần phải chuyển mình nứt vỏ nhường lại cho tôi một đời sống mới của con bướm vàng. Nếu chưa biết, tôi sẽ hỏi,

— Chúa ơi, xin chỉ cho con biết con sẽ phải chết đi thói hư tật xấu nào trong Mùa Chay này?

□ Nguyễn Trung Tây, SVD
www.nguyentrungtay.com

 

Lịch sử Mùa Chay Thánh

Lịch sử Mùa Chay Thánh

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

2/27/2014

Tứ thời bát tiết Xuân, Hạ, Thu, Đông, thay đổi tuần hoàn luân vòng chuyển đổi. Niên lịch phụng vụ của Giáo Hội Công Giáo cũng nằm trong chu kỳ ấy.

Phụng vụ Giáo Hội cũng có bốn Mùa như : Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh qua đi, Mùa Thường niên tiếp nối, chúng ta chuẩn bị bước vào Mùa Chay Thánh, cao điểm là Tuần Thánh và Đêm Vọng Phục Sinh. Vậy Mùa Chay có từ bao giờ, kéo dài bao lâu ? Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay có ý nghĩa thế nào ? Mùa Chay đến rồi lại đi, chúng ta làm gì để Mùa Chay không trở nên nhàm chán và có ý nghĩa ?

Mùa Chay có từ bao giờ, kéo dài bao lâu ?

Vào những thế kỷ đầu Kitô giáo, để sống đạo và thực hành đạo, các kitô hữu tiên khởi đã quan sát những người chung quanh xem họ sống đạo và thực hành đạo thế nào, cụ thể như việc người Dothái giữ ngày Sabát, hay lên Đền thờ cầu nguyện. Tuy các kitô hữu tiên khởi họp nhau thành một cộng đoàn tế tự, cử hành phép rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần theo một công thức tuyên xưng đức tin. Nhưng khi cử hành các ngày đại lễ như lễ Vượt Qua, lễ Năm Mươi, dù vẫn giữ nguyên những ngày lễ của người Dothái nhưng lại mặc cho các ngày lễ ấy một ý nghĩa mới, chẳng hạn : khi cử hành, họ không chỉ nhắc lại các biến cố Xuất Hành Cựu Ước, mà còn tưởng nhớ cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô, cũng như việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông đồ.

Mãi đến thế kỷ thứ IV, trong Giáo Hội mới nảy sinh những ý kiến khác nhau như : liệu có cử hành lễ Phục Sinh vào ngày lễ Vượt Qua của người Dothái không ? Tại các Giáo đoàn thuộc Tiểu Á, họ vẫn giữ nghi lễ chiên vượt qua. Riêng Giáo đoàn Antiokia lại ấn định lễ Phục Sinh vào ngày Chúa Nhật sau lễ Vượt Qua của người Dothái, trong khi đó, các kitô hữu tại Alexandria do các nhà chiêm tinh tính toán nên đã chuyển rời lễ Phục Sinh vào dịp phân xuân.

Cho dù có sự khác nhau về ngày cử hành các ngày lễ, nhưng lễ Phục Sinh vẫn là lễ chung của toàn thể cộng đoàn Kitô giáo, vì lễ Phục Sinh dựa trên nền tảng đức tin, trước lễ Phục Sinh, có một thời gian chuẩn bị tương đối dài gọi là Mùa Chay hay « 40 ngày », tưởng nhớ 40 Chúa Giêsu ở trong hoang địa 40 đêm ngày.

Việc thực hành Mùa Chay đã có từ thời thì đầu Kitô giáo, nhưng trải qua những bước thăng trầm, mãi tới thế kỷ thứ II, thời thánh Irênê, giám mục thành Lyon, việc giữ chay ngắn hạn từ hai đến ba ngày, không ăn bất kỳ thức ăn nào mới được phổ biến. Sang kỷ thứ III tại Alexandria, người ta kéo dài việc ăn chay ra hết một tuần. Những dấu tích của Mùa Chay hay « 40 ngày » được tìm thấy ở thế kỷ thứ IV, trong lễ qui của Công Đồng Nicêa. Đây là thời gian chuẩn bị mừng lễ, nhưng ưu tiên vẫn là việc giúp các người dự tòng chuẩn bị lãnh Phép Rửa Tội và Đêm Vọng Phục Sinh.

Cuối thế kỷ thứ IV, Giáo đoàn tại Giêrusalem bắt đầu giữ chay 40 ngày hay còn gọi là Mùa Chay 8 tuần, người ta ăn chay suốt thời gian này, trừ thứ Bẩy và Chúa Nhật. Sang thế kỷ thứ V, tại Aicập người ta cũng giữ chay, tiếp đến là xứ Gôlơ, người ta ăn chay ngày thứ Bẩy và thứ Sáu tuần trong Mùa Chay. Trong khi giữ chay, các kitô hữu chỉ ăn một bữa mỗi ngày, thức ăn gồm có bánh, rau và nước. Giữ nghiêm ngặt nhất là ngày Thứ Sáu và Thứ Bẩy Tuần Thánh, người ta không ăn một chút thức ăn nào. Giờ ăn chay được qui định tùy theo sự khác nhau của mỗi giáo đoàn. Vì mùa chay gồm 6 tuần không thể tương ứng với 40 ngày được. Nên sang thế kỷ thứ VII, người ta đã lùi về trước Mùa Chay mấy ngày, cụ thể như bắt đầu từ ngày thứ Tư cho đến ngày thứ Bẩy tuần trước khi bước vào Mùa Chay, ngày mà hôm nay chúng ta gọi là Thứ Tư Lễ Tro, ngày ăn chay. Đồng thời, ba Chúa Nhật trước Mùa chay, là gồm tóm thời gian chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh, cách lễ Phục Sinh chín tuần. Việc giữ chay ngày càng đòi hỏi nghiêm ngặt hơn, chẳng hạn như buộc chỉ ăn bữa tối. Nhưng đến thế kỷ thứ VIII, việc giữ chay được nới rộng ra, nghĩa là cho phép những người ốm đau bệnh tật được ăn chứng, bơ, sữa, cá và cả rượu nữa. Sang thế kỷ XII và XIII, bữa ăn ngày chay được ấn định là trước giờ trưa 3 giờ tức 9 chín giờ sáng, tiếp theo được ăn « bữa ăn nhẹ » vào buổi tối. Sang thế kỷ XVII việc ăn chay giảm dần và Giáo Hội cho phép được ăn cháo, sữa và cá nhỏ. Trong ngày chay, tại các hoàng gia, nhà bếp thi nhau trổ tài làm ăn với những thực đơn sao cho dồi dào phong phú hơn ngày thường.

Một cảnh chợ cá ngày Thứ Tư Lễ Tro

Từ năm 1949, Giáo Hội Công Giáo qui định việc giữ chay và kiêng thịt là ngày Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh mà thôi. Lý do vì hai ngày đó là ngày tưởng nhớ sự chết : ngày thứ tư lễ Tro, linh mục chính thức làm phép tro được đốt từ những cành lá đã làm phép vào ngày Lễ Lá năm trước rồi vẽ hình thánh giá trên trán người nhận tro và nhắc lại rằng « ngươi là tro bụi, và người sẽ trở về tro bụi », nhắc lại cái chết của mỗi người chúng ta, tiếp đến, ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, ngày tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá.

Trong phụng vụ của Giáo Hội Chính Thống, thời gian chuẩn bị bước vào Mùa Chay kéo dài năm tuần liền, mỗi tuần đọc một đoạn Tim Mừng riêng, với cách thức sám hối sâu xa. Tuần thứ bốn, được ấn định là ngày kiên thịt và ăn chay trong toàn Giáo Hội. Chúa Nhật thứ năm được gọi là Chúa Nhật Hòa giải, mỗi người hòa giải với người bên cạnh trước khi toàn thể cộng đoàn xin lỗi Chúa.

Cảm tưởng chung là một bầu không khí « vui và buồn ». Mỗi tín hữu, với sự hiểu biết có giới hạn và khác nhau về phụng vụ, nên khi bước vào nhà thờ với các kinh nguyện của Mùa Chay, mỗi người mỗi cảm tưởng khác nhau. Một phần vì những lời kinh tiếng hát mang đậm nét buồn, màu áo tím, những bài đọc dài hơn, đơn điệu hơn ngày thường, và hầu như không có nét vui tươi. Một nét đẹp nội tâm rực sáng, tựa như ánh sáng ban mai chiếu rọi từ thung lũng tối tăm lên tận đỉnh cao của núi đồi.

Niềm vui âm thầm, êm dịu và toàn bộ các bài Sách thánh trong Mùa Chay nghe thật đơn điệu cho thấy sự bình an đã dẫn đưa người ta tới những điệp ca hòa tấu Allêluia trong Đêm Vọng Phục Sinh.

Chúa Nhật lễ Lá là thời gian không còn dành riêng cho việc tưởng niệm cuộc khổ nạn nữa, bước vào một Tuần Thánh, với những bài đọc nhắc lại những ngày sau hết của Chúa Kitô trên trần gian và sự Phục Sinh của Ngài.

Tại sao lại gọi là 40 ngày chay thánh ?

Từ « Mùa Chay » là một từ tương phản với từ gốc latinh là « quadragesima » có nghĩa là 40. Trong Kinh thánh, con số 40 có ý diễn tả một khoảng thời gian chờ đợi, một quá trình, tượng trưng cho việc chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa. Số 40 còn diễn tả hành trình trong sa mạc trên đường về Đất hứa của Dân Dothái kéo dài 40 năm. Ông Môisen đã ở trên núi Chúa 40 ngày (x. Xh 24,18; 34,28). Những người trinh sát đã ở trong vùng đấy 40 ngày (x. Ds 13, 25). Elia đã đi 40 ngày trước khi tới được hang ở đó Ngài được thị kiến (x. 1V 19,8). Ninivê đã được cho 40 ngày để sám hối (x. Gn 3,4). Và quan trọng nhất là Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy vào trong hoang địa 40 ngày để ăn chay cầu nguyện trước khi thi hành sứ vụ công khai (x. Mt 4,2).

Như vậy Mùa Chay là mùa nhắc nhớ 40 năm hành trình trong sa mạc của dân Dothái, 40 ngày trong hoang địa của Chúa Giêsu. Con số 40 ngày, là thời gian đi vào hoang địa của cõi lòng, thinh lặng để chuẩn bị gặp gỡ Chúa. Đây là thời gian phụng vụ cao điểm thuân tiện thích hợp cho các kitô hữu noi gương Đức Kitô dùng 40 ngày để ăn năn đền tội và dấn thân phục vụ anh chị em. Và bằng 40 ngày long trọng của Mùa Chay, mỗi người được liên kết mật thiết hơn với các Mầu Nhiệm của Chúa Giêsu, Đấng đang tiến đến cái chết và sự sống lại.

Mùa chay mang lại cho chúng ta điều gì?

Phần lớn người kitô hữu không thực hành việc ăn chay, nguyện ngắm, nên Mùa Chay không có ảnh hưởng tới đời sống của họ là bao? Khi nói về Mùa Chay, người ta thường hiểu một cách không tích cực lắm. Đại đa số dân chúng cho rằng trong Mùa Chay việc kiêng ăn, kiêng uống giữ chay chiếm vị trí hàng đầu.

Tuy nhiên điều đáng lưu ý là đại đa số người kitô hữu không thực hành đạo trong đời sống nhưng họ vẫn đến nhận tro vào Thứ Tư Lễ Tro. Đây là một nghi thức giầu tính biểu tượng, nó tác động đến tận đáy lòng con người, nhắc nhớ người ta suy nghĩ về thân phận của mình khi nhận tro và mời gọi con người trở về với Chúa. Vì nhiều khi con người quên đi thân phận yếu hèn, mỏng giòn của mình, dẫn đến đau thương và đổ vỡ. Bi kịch cuộc đời con người đều từ đó mà ra. Con người phạm tội, tội cắt đứt sự hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa, làm cho con người mất đi hạnh phúc, phải đau khổ và phải chết. Chuyện sa ngã của Nguyên tổ đã chứng minh điều đó. Lịch sử cứ độ của Dân Chúa, tội thì Chúa phạt, hối cải thì Chúa tha và cứu. Nên mỗi khi lâm vào hoàn cảnh bi đát đau thương hay thất vọng, Dân Chúa đều nhận ra rằng cần phải sám hối trở về giao hòa với Thiên Chúa để được chữa lành. Mùa Chay là mùa sám hỗi, chúng ta hãy ra sức làm những việc cần thiết để được giao hòa và hiệp thông với Chúa, hầu được Chúa ban ơn.

Trong đời sống người kitô hữu, nhiều khi lắng nghe lời Chúa xong, chúng ta đã có quyết tâm đi xưng tội, làm việc đền tội, nhưng rồi kết quả không mấy khả quan, thì Mùa Chay là cơ hội rất thuận lợi. Thư thánh Phaolô nói với chúng ta : « Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ» (2 Cr 6,2). Đây là thời gian khẩn trương trong năm phụng vụ, thời gian thuận tiện được ban cho chúng ta để đẩy mạnh quyết tâm hoán cải, tăng cường việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện, thống hối, mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa, thực hành khổ chế một cách quảng đại hơn, để đi tới và giúp đỡ tha nhân đang túng thiếu: đó là một hành trình tinh thần giúp chúng ta chuẩn bị sống Mầu Nhiệm Phục Sinh. Vậy chúng ta hãy tin tưởng điều đó và bước vào Mùa Chay Thánh.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

CHÚNG TÔI RAO GIẢNG MỘT ĐẤNG KITÔ BỊ ĐÓNG ĐINH

CHÚNG TÔI RAO GIẢNG MỘT ĐẤNG KITÔ BỊ ĐÓNG ĐINH

Tác giả: Sr. Minh Nguyệt

Cha René-Luc 48 tuổi là Linh Mục thuộc giáo phận Montpellier ở miền Nam nước Pháp. Vốn là con hoang không cha, được một tên vô-lại nuôi dưỡng, sau một thời thơ ấu bầm-dập rách-nát, Cha may mắn gặp gỡ THIÊN CHÚA và dâng hiến trọn cuộc đời cho Ngài. Xin ghi lại chứng từ Cha trình bày trước cử tọa gồm khoảng hơn một ngàn học sinh trung học của hai trường tư thục Công Giáo ở Roche-sur-Yon.

Với nụ cười thẳng thắn và đoan hậu, với thân hình lực sĩ cao lớn và bằng giọng nói dõng dạc trầm lắng, Cha René-Luc mở đầu buổi nói chuyện như sau.

Điều Cha sắp kể cho các con nghe không phải là chuyện phim mà là chuyện thật cuộc đời Cha. Và Cha muốn nói ngay với các con rằng, ngay cả khi bị tuột dốc chúng ta vẫn luôn luôn tìm ra một lối thoát. Cha chào đời tại Nimes, có hai anh trai và hai em gái trong một gia đình vắng bóng thân phụ. Thân mẫu Cha một mình dưỡng dục các con. Năm Cha 10 tuổi, thân mẫu Cha gặp một người đàn ông tên Martial và chung sống với ông. Cứ tưởng cuộc sống gia đình giờ đây sẽ tươi sáng hơn, nào ngờ, mọi sự nhanh chóng đổi chiều. Bởi vì, ông Martial nghiện rượu và là một tên trộm cướp từng bị cảnh sát theo đuổi. Cuộc sống gia đình biến thành địa ngục. Không biết bao nhiêu lần thân mẫu dẫn Cha trốn chạy nhưng ông Martial luôn luôn tìm ra chỗ trú ẩn nên bắt cả hai mẹ con đem trở về nhà.

Mãi cho đến một buổi chiều trong tháng 11 năm 1979, ông Martial tự bắn một phát súng vào ngực và kết liễu cuộc đời. Năm ấy Cha 13 tuổi. Chứng kiến thảm trạng cuộc đời, lòng Cha bỗng nổi loạn và khởi đầu một cuộc sống ăn chơi trộm cắp và bạo hành ngay cả với thân mẫu Cha.

May mắn thay vào năm 1980 thân mẫu Cha gặp bà Marie-Do một tín hữu Công Giáo nhiệt thành. Bà mời cả hai mẹ con đến tham dự buổi thuyết trình của mục sư tin lành Nicky Cruz, một cựu thành viên băng đảng bất-lương ở thành phố New-York. Trước một cử tọa gồm 2 ngàn người, vị mục sư làm chứng rằng chính cuộc gặp gỡ với THIÊN CHÚA đã thay đổi toàn vẹn cuộc đời ông.

Chứng từ của mục sư Nicky Cruz đã đi vào tận cõi thâm sâu linh hồn Cha. Cha rất xúc động và nước mắt tuôn trào. Ngày hôm ấy, quả thật Cha đã sống kinh nghiệm câu kinh thánh nơi sách tiên tri Êdêkien: ”Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các con và sẽ ban tặng các con một quả tim bằng thịt” (36,26).

Chưa hết. Bà Marie-Do giúp Cha khám phá Đức Tin Công Giáo dưới những chiều kích sống động và mới mẻ. Rồi bà đưa Cha đi hành hương Lộ Đức. Chính tại Trung Tâm Thánh Mẫu Lộ Đức mà Cha đã quyết định dâng hiến cuộc đời cho Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng Cứu Độ nhân loại. Cha gia nhập Chủng Viện năm 20 tuổi và thụ phong Linh Mục năm 27 tuổi. Từ đó đến nay hơn 20 năm trôi qua, Cha du hành khắp nước Pháp để làm chứng về Tình Yêu THIÊN CHÚA cũng như làm chứng về niềm vui được trở thành Linh Mục. Độc thân không phải là một trạng thái bệnh-hoạn ẻo-lã. Trái lại, độc thân giúp trái tim được hoàn toàn tự do và có thể quảng đại yêu thương mọi người, không trừ ai.

Vào năm 13 tuổi Cha biết rằng thân phụ Cha là một người Đức và ông đã bỏ rơi thân mẫu Cha chỉ vỏn vẹn sau ba tháng chung sống, khiến Cha trở thành một đứa con hoang, một đứa trẻ không cha!

Thế rồi một ngày, người cha ruột này tìm kiếm và muốn gặp Cha. Thân phụ liên lạc được với Cha vào chính buổi chiều trước khi Cha thi vấn đáp môn Đức ngữ. Sau đó hai cha con tạo cơ hội gặp nhau và chính thân phụ ngỏ lời xin Cha tha lỗi. Sau đó cả hai cha con cùng đi ra tòa thị chính để làm giấy chứng thực về tờ khai sinh. Năm ấy Cha 37 tuổi và sống kinh nghiệm đầu tiên về lòng tha thứ cũng như hưởng nếm tình phụ tử bao la.

Một bạn trẻ nêu câu hỏi:

– Làm thế nào mà Cha có thể đặt trọn niềm tin tưởng nơi THIÊN CHÚA khi cuộc đời chỉ cống hiến toàn những gian trá đáng nghi ngờ?

Cha René-Luc cẩn thận trả lời bằng cách dùng một hình ảnh. Cha nói.

Các con cứ tưởng tượng có một ngôi nhà bị bỏ hoang. THIÊN CHÚA đứng trước nhà và gõ cửa. Đàng sau nhà có các cánh cửa khác mở ra bên ngoài: cho thể thao, cho chia sẻ và có lẽ cho cả ích kỷ nữa .. Trong khi cánh cửa THIÊN CHÚA đang đứng đã không bao giờ được mở ra. Nhưng khi quan sát thật gần người ta mới thấy rằng cánh cửa này không có nắm-cửa ở bên ngoài mà chỉ có ở bên trong. Vậy thì THIÊN CHÚA không thể nào mở được cánh cửa lòng các con. Ngài chỉ gõ và đứng đó chờ đợi. Chính các con mới là những người duy nhất có thể quyết định mở hay không mở cánh cửa này. Vậy thì, Cha xin cầu chúc cho mỗi người trong các con, một ngày nào đó, hãy mở cánh cửa lòng mình để đón tiếp THIÊN CHÚA Nhân Lành ngự vào.

… ”Thật thế, lời rao giảng về Thánh Giá là một sự điên rồ đối với những kẻ trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của THIÊN CHÚA. Vì có lời chép rằng: ”Ta sẽ hủy diệt sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan, và sẽ vứt bỏ sự thông thái của người thông thái. Người khôn ngoan đâu? Người học thức đâu?” Người lý sự của thời này đâu? THIÊN CHÚA lại đã không để cho sự khôn ngoan của thế gian ra điên rồ đó sao? Thật vậy, thế gian đã không dùng sự khôn ngoan mà nhận biết THIÊN CHÚA ở những nơi THIÊN CHÚA biểu lộ sự khôn ngoan của Người. Cho nên THIÊN CHÚA đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người tin. Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng KITÔ bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được THIÊN CHÚA kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Chúa GIÊSU KITÔ, sức mạnh và sự khôn ngoan của THIÊN CHÚA. Vì cái điên rồ của THIÊN CHÚA còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của THIÊN CHÚA còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1Côrintô 1,18-25).

(”Catholiques en Vendée”, La Vie de l’Église de Luçon, n.89, 13 Novembre 2013, trang 28)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Nguồn : vietvatican.net

 

Điều nghịch lý của hạnh phúc

Điều nghịch lý của hạnh phúc

Có câu truyện về một người cỡi một con ngựa đang phi như bay trên đường.  Khi anh và con ngựa chạy ngang qua một khu phố, có vài người đứng bên đường thấy vậy gọi với theo, “Anh kia có việc gì phải đi đâu mà vội vã thế?”  Anh ta ngoái đầu lại và nói lớn, “Tôi cũng không biết nữa, hỏi con ngựa kìa!”  Sự tiến bộ trong xả hội của chúng ta ngày nay cũng được ví giống như con ngựa trong câu truyện ấy, chúng ta đang phi như bay nhưng có biết mình đang đi về đâu chăng?

Theo tôi nghĩ thì những phát minh, sáng tạo mới của khoa học giúp cho cuộc đời bớt đi những tật bệnh, làm vơi bớt khổ đau là một điều rất tuyệt vời và vô cùng quý báu cho nhân loại.  Nhưng chúng ta cũng đừng quên đi những nguyên nhân sâu xa của khổ đau.

Nếu như những “tiến bộ” ấy lại vô tình khiến ta tách rời xa sự tốt lành tự nhiên, thì ta cũng cần nên phải thận trọng.  Ông Bob Moorehead, một tiến sĩ về thần học ở Hoa kỳ có những nhận xét như sau, về những điều nghịch lý của thời đại ngày nay,

“Điều nghịch lý của thời đại ngày nay là chúng ta có những toà nhà cao hơn nhưng sự kiên nhẫn lại ngắn hơn, ta có những xa lộ rộng lớn hơn nhưng cái nhìn lại nhỏ hẹp hơn. Chúng ta tiêu xài nhiều hơn nhưng có được ít hơn, mua sắm nhiều hơn nhưng thưởng thức lại kém hơn. Ta có căn nhà to rộng hơn nhưng gia đình nhỏ bé hơn; có nhiều tiện nghi hơn nhưng thời giờ ít ỏi hơn. Chúng ta có nhiều bằng cấp hơn nhưng hiểu biết lại giảm đi, ta dư thừa kiến thức nhưng lại thiếu sự xét suy; ta có thêm nhiều nhà chuyên môn nhưng cũng thêm biết bao nhiêu là vấn đề, có thêm thuốc men nhưng sự lành mạnh lại càng sụt giảm.

Thời đại ngày nay chúng ta uống rượu và hút thuốc quá nhiều, tiêu pha không tiếc nuối, thiếu vắng tiếng cười, lái xe quá nhanh, nóng giận rất dễ, thức rất khuya, dậy mệt mỏi, đọc sách rất ít, xem ti vi quá nhiều, và hiếm khi ta biết ngồi lại trong tĩnh lặng! Tài sản của ta tăng lên gấp bội phần, nhưng giá trị chúng ta cũng sụt giảm đi. Chúng ta nói quá nhiều, thương yêu quá ít, và thù ghét thì lại quá thường.

Chúng ta biết cách kiếm sống, nhưng không mấy ai biết sống. Chúng ta cộng thêm năm tháng vào đời mình, nhưng chỉ là năm tháng mà thôi. Chúng ta đã lên đến mặt trăng và trở về trái đất, nhưng rất khó bước qua bên kia đường để chào người hàng xóm mới. Ta chinh phục được thế giới bên ngoài nhưng không biết gì về thế giới bên trong. Chúng ta đã làm được rất nhiều việc lớn lao, nhưng rất ít việc tốt lành.

Chúng ta làm trong sạch không khí chung quanh, nhưng lại làm ô nhiễm tâm hồn mình. Chúng ta chia cắt được một hạt nguyên tử, nhưng chưa phá được thành kiến của chính mình. Chúng ta chia sẻ nhiều hơn, nhưng học được ít hơn. Chúng ta có nhiều dự án hơn, nhưng hoàn tất ít hơn. Chúng ta biết cách làm việc nhanh chóng, nhưng không biết cách đợi chờ; có nhiều người quen, nhưng ít ai là bè bạn. Chúng ta thiết kế thêm nhiều máy điện toán, chứa thêm nhiều dữ kiện, in ra thật nhiều tài liệu, nhưng sự truyền thông giữa con người mỗi ngày lại càng ít đi.

Ngày nay là thời đại của mì ăn liền, tiêu hoá chậm, con người to lớn nhưng chí khí rất nhỏ, lợi nhuận thì rất sâu mà tình người thì rất cạn.  Thời đại của hòa bình thế giới, mà nội chiến trong gia đình.

Đây là thời đại của gia đình với hai đầu lương nhưng trăm ngàn ly dị, nhà cửa khang trang nhưng hạnh phúc đổ vỡ. Đây là thời đại của những chuyến đi ngắn vội vàng, đồ xài chỉ một lần, đạo đức vứt bỏ, và những viên thuốc giải quyết cho mọi vấn đề, từ hưng phấn, đến lắng dịu, đến cái chết.

Đây là thời đại của những mặt hàng trưng bày ngoài cửa tiệm thì rất nhiều, nhưng trong nhà kho lại trống không. Đây là thời đại mà công nghệ có thể mang lá thư này đến thẳng với bạn và bạn cũng hoàn toàn tự do để chọn đọc nó hay xoá bỏ đi…

Nhưng xin bạn hãy nhớ bỏ thì giờ ra với người thương, vì họ sẽ không có mặt với ta mãi mãi. Hãy nhớ chọn những lời dễ thương với những ai đang ngước nhìn bạn nhiều ngưỡng phục, vì cô hay cậu bé đó rồi cũng sẽ lớn lên và rời xa ta.

Hãy nhớ ôm chặt người gần bên, vì đó là một món quà vô giá mà ta có thể ban tặng cho người khác, khi nó được xuất phát từ đáy tim mình, mà không tốn một xu nào.

Hãy nhớ nói lời thương yêu với những người thân yêu, và phải hết sức thật lòng mình. Một nụ hôn, một vòng tay ôm, sẽ chữa lành hết mọi vết thương khi nó phát xuất từ chính con tim.

Hãy nhớ nắm tay nhau và trân quý phút giây này, vì biết rằng tất cả sẽ không ở với ta mãi mãi. Hãy có thì giờ để thương nhau, để lắng nghe nhau, và nhất là hãy chia sẻ với nhau những ý tưởng đẹp nhất trong tâm mình.

Và nhất là bạn hãy luôn nhớ rằng, cuộc sống không phải được đo lường bằng con số hơi thở của mình, mà bằng những giây phút kỳ diệu trong cuộc đời đã mang hơi thở ấy bay cao.”

Lấy từ Internet

 

THIÊN CHÚA QUAN PHÒNG

THIÊN CHÚA QUAN PHÒNG

Có một nhà hiền triết quan sát cơn gió thổi qua đồng cỏ.  Khi cơn gió nổi lên, cây cỏ đều ngả theo chiều của gió.  Khi cơn gió tạm ngưng thì cây cỏ lại ngóc đầu lên.  Khi con gió đổi chiều, thì cây cỏ cũng đổi chiều

Thấy vậy, nhà hiền triết bèn nói: Cây cỏ là chúng ta, còn cơn gió là số mệnh.  Số mệnh không bao giờ để cho chúng ta nghỉ yên, nó thổi tung và thổi tung mãi, khi thì thổi bên trái, lúc thì thổi bên phải.  Điều quan trọng là phải biết nương theo chiều gió.  Đừng chống cự, đừng phản kháng, nhưng hãy biết gắn bó với số mệnh của mình, bởi vì số mệnh là chính Thiên Chúa, là thánh ý của Ngài.

Từ đồng cỏ, nhà hiền triết ghé thăm một người bạn quen.  Thoạt khi tới cửa, thì con chó sủa vang, đứa bé đang chơi ngoài sân, nhìn thấy người lạ, bèn chạy đi nép mình vào vòng tay người mẹ.  Nhà hiền triết càng tiến tới, thì đứa trẻ níu chặt lấy đôi tay người mẹ.

Thấy vậy, nhà hiền triết bèn nói: Đứa trẻ sợ hãi là chúng ta.  Người lạ mặt là số mệnh, còn vòng tay chở che là Thiên Chúa.  Số mệnh nhiều khi âm thầm từng bước tiến lại gần, khiến chúng ta sợ hãi, thế nhưng điều khôn ngoan là hãy noi gương bắt chước đứa trẻ, biết nép mình vào vòng tay uy quyền của Thiên Chúa.   Tương lai càng đen tối, chúng ta lại càng phải níu chặt bàn tay của Thiên Chúa.  Sống dưới cái nhìn trìu mến của Ngài, chúng ta sẽ không còn sợ hãi.  Nếu đứa trẻ nhận ra tôi là một người quen, thì nó sẽ vui mừng chạy ra và ôm lấy.  Cũng vậy, số mệnh dù có bẽ bàng thì cũng là thánh ý của Thiên Chúa.  Nếu chúng ta có một đức tin mạnh mẽ, chúng ta sẽ sẵn sàng đón nhận không kêu ca oán trách.

Thế nhưng có một người đàn bà đã lên tiếng phản đối: Làm sao tôi có thể giơ tay đón nhận số mệnh, vì nó như những ngọn roi quất vào cuộc đời tôi.  Chồng tôi bị chết trong chiến tranh, và bây giờ, mười mấy năm sau, đứa con trai tôi cũng lại chết trong chiến tranh.

Nhà hiền triết thông cảm với những đau khổ ấy, nhưng rồi ông đã trả lời bằng một giọng đầy an ủi khích lệ:  Tôi biết, rất có thể chúng ta sẽ phải khóc dưới sức nặng của thập giá, nhưng chúng ta không có quyền chất vấn Thiên Chúa.  Chúng ta phải tin rằng Đấng đã dựng nên những bông hoa xinh tươi, những trái cây ngon ngọt, Đấng đã cẩn thận sắp xếp từng nguyên tử của vật chất, thì Ngài sẽ chẳng để cuộc sống con người bị bất ổn.

************************

Con người đau khổ, đó là điều dĩ nhiên.  Nhưng đau khổ không phải là một cái gì thừa thãi và vô ích, chính Chúa Giêsu cũng đã từng chịu đau khổ, nhưng Ngài đã mặc cho những đau khổ ấy một giá trị tuyệt vời và đã dùng những đau khổ ấy để cứu chuộc chúng ta.  Rồi Ngài lại phán: Phúc cho những ai than khóc vì Nước Trời là của họ.  Vậy thì chị là người đang đau khổ, Nước Trời là của chị đó.  Nếu không có Nước Trời, thì tôi sẽ lên tiếng kêu gọi mọi người đau khổ hãy đoàn kết, chống lại số mệnh, chống lại Thiên Chúa.  Nhưng Nước Trời còn đó, và Thiên Chúa đang chờ đón chúng ta.  Hãy để Ngài tẩy rửa và thanh luyện chúng ta nên xứng đáng với hạnh phúc tuyệt vời ấy.

Đừng hỏi tại sao Thiên Chúa lại dựng nên bông hồng có những gai nhọn, Ngài có chương trình của Ngài.  Hãy để cho Ngài uốn nắn và hành động.  Thái độ khôn ngoan nhất là biết nép mình vào bàn tay Chúa.  Nếu cây cối chống trả với ngọn gió, nó sẽ bị gẫy đổ, nếu chúng ta chống trả với Thiên Chúa, đời chúng ta sẽ chồng chất thêm nhiều khổ đau, dù cuộc đời chúng ta có sóng gió, thì cũng hãy tin tưởng vào Thiên Chúa vì trước mặt Thiên Chúa, chúng ta đáng giá hơn chim trời và hơn hoa cỏ đồng nội rất nhiều.

************************

Lời Kinh Của Người Đau Khổ

Lạy Chúa,
Con cầu xin ơn mạnh mẽ
để thành đạt trong cuộc đời,
Chúa lại làm cho con ra yếu ớt
để biết vâng lời khiêm hạ…

Con cầu xin có sức khỏe
để mong thực hiện những công trình lớn lao,
Chúa lại cho con chịu tàn tật
để chỉ làm những việc nhỏ tốt lành…

Con cầu xin được giàu sang
để sống sung sướng thoải mái,
Chúa lại cho con nghèo nàn
để học biết thế nào là khôn ngoan…

Con cầu xin được có uy quyền
để mọi người phải kính nể ca ngợi,
Chúa lại cho con sự thấp hèn
để con biết con cần Chúa…

Con xin gì cũng chẳng được theo ý muốn.
Nhưng những điều con đáng phải mơ ước,
Mà con không hề biết thốt lên lời cầu xin,
Thì Chúa lại đã ban cho con
thật dư đầy từ lâu…

Lạy Chúa,
Hóa ra, con lại là người hơn hết trên đời này,
Bởi con đã nhận được ơn Chúa vô vàn…

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

 

AI ĐANG THỐNG TRỊ TÂM HỒN TÔI?

AI ĐANG THỐNG TRỊ TÂM HỒN TÔI?

Tác giả: Lm. Inhaxio Trần Ngà

Suy niệm Tin Mừng Mat-thêu (6, 24-34)

Lòng tham lên ngôi thống trị

Ai đang điều khiển bản thân ta? Đó là một câu hỏi không dễ trả lời.

Khi vừa mới nghe qua câu hỏi nầy, nhiều người sẽ vội đáp: Tất nhiên là lương tri tôi, lý trí tôi đang điều khiển tôi. Tuy nhiên, thực tế cho thấy là không hẳn như thế.

Có nhiều thứ quyền lực đang thống trị và điều khiển bản thân ta mà chính ta cũng không hay biết.

Nơi người nầy, có thể là những ham muốn nhục dục đang thống trị; nơi người kia, có thể là sự khao khát danh vọng đang nắm quyền chỉ huy…

Nhưng có lẽ quyền lực lớn lao và mạnh mẽ hơn hết đang thống trị nhiều người, đó là lòng tham lam.

Khi lòng tham đã lên ngôi, đã nắm quyền thống trị ai, thì lý trí, lương tri của người đó mất hết quyền chỉ huy bản thân mình.

Một số bác sĩ thừa biết thế nào là “lương y như từ mẫu”, nhưng lòng tham đang ngự trị trong tâm hồn các vị nầy đã thôi thúc các vị thực hiện những hành vi man trá (như nhân bản xét nghiệm chẳng hạn) tác hại đến sức khoẻ bệnh nhân để trục lợi hoặc từ chối cấp cứu nạn nhân không tiền đang lúc nguy kịch, khiến họ phải chết cách oan ức.

Không ít thầy cô thừa biết thế nào là đạo đức nhà giáo, nhưng lòng tham đang thống trị trong lòng một số thầy cô đã chỉ đạo cho các vị nầy bắt học sinh phải học thêm liên tục, để tăng thêm thu nhập cho mình, bất chấp các em phải học ngày học đêm, vừa cạn kiệt túi tiền, vừa khiến cho đầu óc tê liệt, thân xác rã rời!

Không ít vị lãnh đạo (như Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang gọi là cả một bầy sâu) thừa biết rằng tham ô là quốc nạn, là tội ác đối với dân tộc, nhưng lòng tham đang ngự trị trong tâm hồn những vị nầy sai khiến họ phải tiếp tục vơ vét không biết điểm dừng.

Nói chung, lòng tham đang thống trị trong tâm hồn con người đã xui khiến, xô đẩy người ta thực hành đủ mọi hình thức tham ô, trấn lột, chiếm đoạt, cướp bóc, giành giựt, xâm lấn, lường gạt, giết người cướp của, kể cả buôn người xuyên biên giới… để thu lợi về cho mình, bất chấp thiệt thòi, mất mát, đau thương, khốn cùng… của bao nhiêu người khác.

Điều đáng sợ là trong xã hội ngày nay, lòng tham ngày càng thắng thế. Lòng tham từng bước truất phế lương tri, lý trí, lòng đạo đức nơi rất nhiều người để chiếm lấy vị trí thống trị trong tâm hồn và đời sống của họ; và điều đáng sợ hơn nữa là hầu như không có một quyền lực nào – ngoại trừ quyền lực của Tin Mừng, của điều thiện – có thể lật đổ, truất phế lòng tham để cho lòng đạo đức và lương tri được lên ngôi.

Qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su cảnh báo rằng nếu chúng ta để cho lòng tham thống trị là chúng ta đã truất phế Chúa ra khỏi tâm hồn và khỏi cuộc đời mình. Ngài nói: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.” (Mat-thêu 6,24)
Một khi đã truất phế Thiên Chúa, lật đổ chân thiện mỹ, để cho lòng tham lên ngôi, thì cuộc sống con người sẽ sa đoạ và đau thương.

Chúa Giê-su kêu gọi truất phế lòng tham.

Chúa Giê-su khuyến khích nhân loại đừng vơ vét tài sản vật chất khi Ngài tuyên bố: “Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó” (Mt 5,3) và đừng tích trữ “kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm cho hư nát, nơi kẻ trộm khoét vách lấy đi, nhưng hãy tích trữ cho mình kho tàng trên trời…” (Mt 6, 19)

Chúa Giê-su hô hào nhân loại lật đổ, truất phế sự thống trị của lòng tham khi Ngài răn dạy: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam…” (Lc 12, 15); khi Ngài cảnh báo người phú hộ chỉ biết lo tích luỹ của cải đời nầy mà không biết chia sẻ cho tha nhân rằng: “Đồ ngốc! Nội đêm nay ta đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi tích trữ sẽ về tay ai?” (Lc 12,20)

Chúa Giê-su hô hào nhân loại lật đổ, truất phế sự thống trị của lòng tham khi Ngài kết án những người sống xa hoa như ông nhà giàu chỉ biết vui hưởng của cải dư dật của mình mà không chia sớt cho La-da-rô nghèo khổ (trong Tin Mừng Luca 16, 19-26) thì sẽ phải chịu cực hình đời đời trong hoả ngục.

Và đặc biệt, Chúa Giê-su kêu mời mọi người hãy đánh đổi, đổi một lấy trăm triệu lần hơn, bằng cách chia sớt tài sản đời nầy cho người nghèo khổ để mai sau được vui hưởng hạnh phúc thiên đàng, qua lời Ngài nói: “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm cho mình những những túi tiền, những kho tàng bất hoại trên trời…” (Lc 12,33)

Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho chúng con kiên quyết lật đổ lòng tham, không để nó thống trị tâm hồn và cuộc sống chúng con và dứt khoát tôn Chúa lên làm vua thống trị đời mình, biết vâng lời Chúa dạy để tích luỹ kho tàng trên trời bằng cách rộng tay chia sẻ những gì mình có với anh chị em chung quanh. Amen.

Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà

 

Từ Ukraina, Việt Nam sẽ học hỏi và cải cách những gì?

Từ Ukraina, Việt Nam sẽ học hỏi và cải cách những gì?

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2014-02-24

02242014-maclam.mp3

000_TS-Par7803470-600.jpg

Bà Catherine Ashton, đại diện ngoại giao châu Âu đang chụp hình tại khu tưởng niệm tạm thời những người thiệt mạng do biểu tình chống chính phủ tại Quảng trường Độc lập, Kiev hôm 24/2/2014

AFP photo

Khi giới cầm súng của Ukraina từ chối không tiếp tục bắn vào người dân theo lệnh của Tổng thống Viktor Yanukovych nữa thì cuộc cờ giữa dân chúng và chính phủ coi như kết thúc. Người luôn luôn chấp nhận những yêu cầu của Nga trước khi lắng nghe nguyện vọng của dân chúng đã phải rời bỏ dinh thự riêng cực kỳ xa hoa của mình để chạy trốn người dân. Viktor Yanukovych biết rõ nếu bị bắt sinh mạng của ông sẽ không ai bảo đảm, kể cả mẫu quốc Nga hay người bạn Putin.

Sự chọn lựa Nga, khước từ liên minh EU của Viktor Yanukovych đã dấy lên lòng căm phẫn của người dân Ukraina vốn luôn rất nhạy cảm với Nga, đất nước từng chôn vùi dân chúng Ukraina trong triểu đại Stalin qua cuộc tắm máu người dân nước này vào thập niên 30 đã làm cho dân chúng không còn sợ hãi họng súng của chính phủ.

Ba tháng kéo dài tranh đấu trong băng giá đã tôi luyện ý chí dân chúng cho thành quả hôm nay: độc tài phải ra đi nhường sân chơi lại cho những người yêu tự do dân chủ.

Những hứa hẹn về kinh tế của Nga không mê hoặc được dân chúng Ukraina vì họ biết rằng trong thế giới toàn cầu ngày nay đất nước này sẽ được vực dậy nếu có quyết tâm chuyển đổi nền kinh tế một cách khôn ngoan và Nga không phải là nước duy nhất có thể làm bạn với Ukraina khi bên cạnh nó một khối EU hùng mạnh sẵn sàng đưa tay nắm chặt người láng giềng đang tự cô lập mình bởi những món tiền mà tổng thống Viktor Yanukovych nhận được.

” Đúng là vấn đề Ukcraina với Việt Nam là khá giống nhau. Chính quyền đi thân với mẫu quốc chứ còn nhân dân thì người ta lại muốn tự do đi với phương tây thế cho nên hai bên mâu thuẫn, Việt Nam cũng đang y như thế.
– Tiến sĩ Hà Sĩ Phu “

Tiến sĩ Hà Sĩ Phu nhận xét biến cố này qua so sánh Ukraina với Việt Nam, một đất nước theo ông đang từ chối cơ hội tốt hơn để nhận về phần quà cho một thiểu số cầm quyền:

Đúng là vấn đề Ukcraina với Việt Nam là khá giống nhau. Chính quyền đi thân với mẫu quốc chứ còn nhân dân thì người ta lại muốn tự do đi với phương tây thế cho nên hai bên mâu thuẫn, Việt Nam cũng đang y như thế. Tóm lại mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam mà đại diện là những tầng lớp dân chủ, trí thức, giới trẻ và giới tiến bộ trong nhân dân với đảng. Nhân dân ở đây phải được hiểu là giới tiên tiến chứ số đông thì chỉ là con số chưa có định hướng.

Người ta bảo nhân dân là một dãy số 0 nhưng khi nó đứng sau một con số có nghĩa thì những số 0 ấy trở thành có nghĩa. Rõ ràng có mâu thuẫn giữa nhân dân và đảng. Cái quyết tâm giữ cho kỳ được cái độc tài, đặc quyền đặc lợi của Việt Nam nó còn mạnh hơn cả Ukraina nữa.

Blogger Mẹ Nấm cùng quan điểm với TS Hà Sĩ Phu khi chị cho rằng Việt Nam không hề cô độc sao phải tự lừa dối mình bằng chính sách ổn định chính trị, chị nói:

Việt Nam có rất nhiều sự lựa chọn chứ không phải chỉ có một con đường là ngả về phía Trung Quốc vì thật sự ngả về phía Trung Quốc không còn là lợi ích nhà nước hay quốc gia nữa mà là lợi ích và sự tồn vong của đảng cộng sản. Với cái thế cân bằng hiện nay mà Mỹ và các nước khác đã mở ra cho Việt Nam thì không thể dùng lý luận là nước yếu hay nhỏ đề mà thần phục Trung Quốc. Phải có thái độ dứt khoát và rõ ràng các vấn đề trên Biển Đông, biên giới hay vấn đề tiểu ngạch hay mậu dịch. Đừng sử dụng tiểu xảo với thế giới, cứ làm đàng hoàng thì Việt Nam chắc chắn sẽ có cửa đề thấy sự thay đổi.

Yều tố Trung Quốc đã và đang chia cắt chính quyền với người dân, tuy nhiên đối với nông dân thì mối quan ngại của họ vẫn là đất đai và hy vọng đó đã tiêu tan khi bản hiến pháp mới vẫn không thay đổi những lề luật cơ bản khi viết rằng “đất đai là sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý”.

Ông Trần Văn Huỳnh, cha của người tù nhân lương tâm Trần Huỳnh Duy Thức cho rằng sai lầm quan trọng của nhà nước rất nhiều tuy nhiên làm yên dân trước tiên thì không gì tốt hơn là cải tổ luật đất đai, ông nói:

Rõ ràng là có những sai lầm trong vấn đề quản lý nhà nước và sửa đổi những sai lầm đó thì tôi thấy rằng đó là việc cần phải làm còn nếu không thì hậu quả thế nào thì không biết đò là quy luật. Hiện giờ trong nội bộ đảng cầm quyền ai cũng thấy điều đó. Tôi cho rằng nếu mà khắc phục những sai lầm đó thì sẽ tránh được tình trạng Ukraina. Phải thấy cái nào lớn hơn, cái nào liên quan đến lợi ích tối thượng của đất nước và dân tộc. Tôi cho rằng khi luật đất đai được thông qua thì sẽ có thể giảm tệ nạn tham nhũng mà chính tệ nạn đó là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ tất yếu không thể tránh khỏi.

Đừng xem thường tiếng nói người dân

000_Par7803599-250.jpg

Người dân Ukraine mang một cây thánh giá lớn tưởng niệm cho các nạn nhân của cuộc xung đột gần đây giữa người biểu tình và cảnh sát tại Kiev. Ảnh chụp hôm 24/2/2014. AFP photo

Blogger Mẹ Nấm người từng được hãng tin CNN phỏng vấn vì các hoạt động dân chủ, nhân quyền thì cho rằng bên cạnh yếu tố Trung Quốc việc nhà nước cần làm hiện nay là lắng nghe tiếng nói của người dân thông qua các cá nhân bất đồng chính kiến. Lắng nghe sẽ tránh được bài học của Tổng thống Viktor Yanukovych khi xem thường tiếng nói của người dân:

Tôi nghĩ việc đầu tiên dễ nhất mà nhà nước có thể làm đó là tránh việc chụp mũ và bắt những người bất đồng chính kiến vì những lý do khác nhau. Có sửa đổi hay không thì nó phải bắt nguồn từ sự lắng nghe. Cách dễ nhất có thể học được tù Ukraina đó là lắng nghe nguyện vọng của người dân.

Riêng luật sư Lê Thị Công Nhân qua kinh nghiệm đấu tranh của mình cho rằng báo chí tư nhân xuất hiện trong lúc này sẽ phần nào rút bớt những bức xúc trong dư luận quần chúng, LS cho biết:

Cộng sản Việt Nam hiện nay chắc chắn không thể cùng một lúc giải quyết được nhiều việc đúng như anh nói tại vì đảng quá bừa bộn và trên mọi lĩnh vực chúng ta đều thấy. Theo tôi nghĩ thì trước mắt phải thả bớt áp lực tinh thần người dân đã bị dồn nén suốt nhiều năm qua bằng cách thực hiện việc tự do ngôn luận mà cụ thể là cho Việt Nam có được nền báo chí tư nhân. Tuy chỉ là tinh thần thôi nhưng các diễn biến trong đời sống của đất nước nó sẽ bộc lộ hết bản chất thật.

Bên cạnh tự do ngôn luận thì kinh tế Việt Nam cũng phải được nhìn lại một cách khách quan đúng theo quy luật phát triển của một nền kinh tế lành mạnh. Theo LS Lê Thị Công Nhân muốn thế thì Việt Nam phải can đảm triệt bỏ các doanh nghiệp quốc doanh vốn đang giết chết dần nền kinh tế Việt Nam qua sự bòn rút, thâm lạm và đặt lợi ích nhóm cao hơn lợi ích quốc gia của các tống công ty, tập đoàn nhà nước

Khía cạnh thứ hai đó là buông tất cả những doanh nghiệp nhà nước dưới mọi hình thức dù là tổng công ty, hay là tập đoàn như là cái đài truyền hình Việt Nam chằng hạn. Buông tất cả những cái đó để cho giới tư nhân người ta làm mà ở Việt Nam người ta gọi là cổ phần hóa chính là tư nhân hóa tất cả lĩnh vực kinh tế mà hiện nay nhà nước sống chết nắm lấy một cách hết sức mù quáng.

” Có sửa đổi hay không thì nó phải bắt nguồn từ sự lắng nghe. Cách dễ nhất có thể học được tù Ukraina đó là lắng nghe nguyện vọng của người dân.
– Blogger Mẹ Nấm “

Doanh nghiệp nhà nước đã bóp chết nền kinh tế bởi vì đã giao cho doanh nghiệp nhà nước quá nhiều đặc quyền, đặc lợi trong khi hiệu quả kinh tế gần như là thấp kém thậm chí là âm trong rất nhiều doanh nghiệp nhà nước.

Sau khi Liên sô sụp đổ, Việt Nam đổi mới để tồn tại. Với cuộc cách mạng Mùa xuân Ả Rập Việt Nam siết chặt mạng lưới Internet, bắt giam blogger, nhà báo, dân oan, những người đấu tranh đòi dân chủ và nhân quyền.

Ukraina là lần thứ ba và người dân Việt Nam lại rất tin câu nói của ông bà để lại “nhất quá tam ba bận”.

Liệu bận thứ ba Việt Nam sẽ có quyết định như thế nào và người dân Việt Nam có xứng đáng để được lãnh đạo lắng nghe thực sự?

Tìm hiểu nguyên nhân sập cầu Lai Châu

Tìm hiểu nguyên nhân sập cầu Lai Châu

Thứ ba, 25 tháng 2, 2014

Mở bằng chương trình nghe nhìn khác

Công tác cứu chữa cho hàng chục nạn nhân vụ đứt cầu treo ở Tam Đường, Lai Châu, đang tiếp tục trong khi giới chức nói nguyên nhân là “quá tải trọng gây đứt cáp”.

Vụ đứt cáp cầu treo hôm 24/2 tại bản Chu Va 6 (xã Sơn Bình, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu) đã làm 8 người thiệt mạng, trong đó có 7 người chết ngay tại hiện trường.

Ngoài ra còn có hơn 30 người khác bị thương, nhiều người bị thương nặng.

Báo trong nước cho hay 25 bác sỹ từ Hà Nội đã được chuyển bằng trực thăng lên Lai Châu để giúp cấp cứu cho các nạn nhân.

Bộ trưởng Bộ Giao thông-Vận tải Đinh La Thăng đã nhanh chóng tới hiện trường vụ tai nạn vào sáng thứ Ba 25/2 để thị sát tình hình và thăm hỏi người dân địa phương.

Trong khi đó, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói tại một cuộc họp ở Hà Nội rằng “nguyên nhân sơ bộ ban đầu xác định cầu treo bị sập là do quá tải và cộng hưởng khi đoàn người đi bộ qua cầu”.

Tuy nhiên ông Phúc nói trong ngày 25/2, Bộ trưởng Đinh La Thăng sẽ làm việc với UBND tỉnh Lai Châu để làm rõ nguyên nhân.

Quá tải gây đứt cáp cũng là nguyên nhân mà giới chức Lai Châu kết luận.

Tai nạn do tham nhũng?

Mở bằng chương trình nghe nhìn khác

Trên các diễn đàn mạng xuất hiện một số clip video do người dân quay được cho thấy đoàn người đưa tang một quan chức Hội đồng Nhân dân xã Sơn Bình, huyện Tam Đường, đang tới giữa cầu thì dây cáp đứt.

Video chiếu hình ba người đầu hàng bê vòng hoa và nhiều người khác đi sau cho tới khi cầu đứt.

Chiếc cầu, được nói là dài hơn 50m, được đưa vào sử dụng từ tháng 12/2012.

Thương tích gây ra nặng nề vì hiện đang mùa khô, dưới cầu không có nước khiến nhiều người rớt xuống dưới bị chấn thương sọ não và nội tạng.

Trong khi đó, một chuyên gia hàng đầu về xây dựng ở Việt Nam, giáo sư Nguyễn Đình Cống, nói với BBC rằng cần phải nhìn sâu đằng sau giải thích nguyên nhân.

Theo GS Cống, nguyên nhân trực tiếp là đứt hoặc tuột dây cáp.

“Chất lượng kém trong thi công bắt nguồn từ tệ nạn tham nhũng đang tràn lan, nạn bớt xén tiền trong xây dựng dẫn đến chất lượng vật liệu và thi công đều không bảo đảm.”

GS Nguyễn Đình Cống

Tuy nhiên, ông cho rằng lỗi chính không phải vì quá tải. Chiếc cầu treo còn mới, tải trọng thiết kế đủ cho cả đoàn đưa tang.

“Ngay cả khi tải trọng vượt tải thiết kế thì dây cáp vẫn chưa thể đứt nếu được thiết kế và thi công với chất lượng bảo đảm vì hệ số an toàn của dây cáp được quy định rất cao.”

GS Nguyến Đình Cống cũng loại trừ khả năng cộng hưởng, mà ông nói đã từng xảy ra trên thế giới nhưng “phải là đội quân diễu hành đi rầm rập”.

Nguyên nhân thực sự của tai nạn này, theo ông, là chất lượng kém trong thi công.

“Và chất lượng kém trong thi công bắt nguồn từ tệ nạn tham nhũng đang tràn lan, nạn bớt xén tiền trong xây dựng dẫn đến chất lượng vật liệu và thi công đều không bảo đảm.”

“Xa hơn nữa là thể chế độc quyền.”

GS Cống đề xuất điều tra và truy trách nhiệm cá nhân cho những người chịu trách nhiệm công trình này.

Biết Sống

Biết Sống

Sống lâu và sống đẹp thì ai cũng thích, nhưng biết sống cho đẹp và có ý nghĩa để đời sau được hạnh phúc thì phải học tập và rèn luyện. Một người “biết sống”có lẽ cần theo những điều sau đây:

Giữ tâm bình thản, trước những biến động của cuộc sống.  Để được vậy, hãy cầu xin hằng ngày cho được sự bình an trong tâm hồn. – Đừng sân si giận hờn đối với những gì không xảy ra như ý mình. – Đừng say mê quá đáng những gì của mình và tham đắm những gì không phải của mình. – Đừng có ý hại người và vật.- Sống hết lòng và chân thật, mặc chuyện đời dối trá. – Sống tỉnh táo, không đua đòi, mặc chuyện đời chen lấn say mê.

Ăn uống có tiết độ, nhai nhuyễn và nhất là đừng sử dụng những thực phẩm có hóa chất chiều theo cảm giác. – Suy niệm Lời Chúa trong thinh lặng mỗi ngày. –  Mỉm cuời nhiều lần trong ngày. dù có lúc nghĩ đến những vui buồn của quá khứ – Đừng nghe và nói những câu chuyện vô ích. – Hãy nỗ lực làm những gì mà mình nghĩ là đẹp lòng Chúa hơn. –

Đừng có những ý nghĩ so sánh…, vì sao?  Vì mọi chuyện ở đời này đều có nguyên nhân do Chúa sắp đặt.  So sánh khiến tâm hồn ta sinh ra mặc cảm hay đua đòi mệt mỏi.  Ta hãy nỗ lực thực hiện những cái đẹp trong khả năng Chúa ban để chúng trở thành hiện thực trong đời sống của ta, dưới nhiều hình thức sống động khác nhau. –  Đừng để ý đến chuyện xấu của người khác, vì lúc ấy điều xấu trong tâm mình có cơ hội khởi lên, làm cho tâm mình vẩn đục và nét mặt của mình mất đi vẻ thánh thiện tươi vui của một Kitô-hữu.

– Ta phải biết thực tập lắng nghe và học hỏi. Học hỏi từ cuộc sống và lắng nghe những biến đổi của những cảm thức trong tâm hồn, trong từng nhịp thở, để có khả năng biết rằng, những gì ta không muốn người khác làm cho mình, thì cũng không bao giờ làm cho người khác. – Đời người chỉ tồn tại trong từng hơi thở, nên ta phải sống đẹp, sống hết lòng và thảnh thơi trong từng hơi thở, để mỗi hơi thở đều có khả năng đưa ta đi đến đời sống cao thượng. Một đời người được xem là lãng phí, là vì họ lãng phí ngay trong từng hơi thở của chính họ. –  Phải biết nuôi dưỡng ý thức “sống cùng” và “sống với” mọi người, nếu không có ý thức này, ta sẽ bị cảm giác cô đơn đánh lừa và sẽ bị chết đói trong cảm giác ấy. – Ta đừng khởi tâm tranh giành với bất cứ ai, vì ở đời nầy không có ai là số một, và cũng chẳng có ai là quan trọng cả.

– Phải hiểu tính chất hay thay đổi của con người và vạn vật.  Không có ai là xấu hoặc tốt một cách quá đáng, vì mọi sự xấu tốt ở đời đều tự thay đổi khi có cơ duyên, và hãy vững tin rằng Chúa ban cho ta thiên thần bản mệnh để giúp ta không rơi vào cạm bẫy của ma quỷ. – Phải tự biết khả năng và giới hạn của mình trong lúc tiếp xử với mọi người và muôn vật, để khỏi rơi vào những lầm lỗi đáng tiếc, dẫn đến tâm ân hận. – Hãy đầu tư những gì tốt đẹp vào tâm thức… bằng Lời Chúa, bằng gương các thánh.  Một khi nguồn vốn ấy phát triển lớn mạnh trong đời sống của ta, thì chẳng một lợi nhuận nào trong xã hội có thể chiếm hữu lòng ta được.

Hãy nghĩ đến những gì tốt đẹp mỗi ngày khi mặt trời lên và lúc mặt trời khuất bóng. – Mỗi ngày nên dành một giờ để thực tập làm những việc khó làm, nhằm nuôi dưỡng những ý chí và nghị lực trong ta hầu có thể vượt qua những trở ngại “đi theo Chúa Giêsu”. –  Đừng tự phong thánh cho mình và cũng đừng để ai phong thánh mình, mà phải biết tạo điều kiện cho những hạt giống thánh thiện trong tâm hồn mình được biểu hiện ra trong hành động, trong đức tin và hãy giúp cho những hạt giống thánh nơi người khác cũng được sinh khởi. – Đừng nói nhiều về đạo đức hay bác ái, mà hãy sống bác ái và đạo đức ngay trong những hành động của chính mình đối với mọi người và muôn vật. –

Cuộc sống lâu dài và đẹp nhất là cuộc sống được nuôi dưỡng bởi tình yêu.. và giản dị một điều là chỉ có tình yêu mới đẹp lâu dài…

S.T.

“Tội nghiệp lắm, tâm hồn chưa biết khóc” & “Ta ra đi một chiều thắm,”

Suy tư tuần thứ 8 mùa thương niên năm nay, người đọc thấy có giòng chảy vẫn cứ bảo:

“Tội nghiệp lắm, tâm hồn chưa biết khóc, Đêm trùng trùng, ai sẽ đến trong mơ.”

Mơ hay khóc, thế rồi người lại hát:

“Ta ra đi một chiều thắm, vang lời ca buồn trong khóm đá. Nỗi u hoài, ngày tháng khôn nguôi.

Thì ra, tháng ngày của nhiều người ở trong đời, lại vẫn thấy có những thời những lúc khôn nguôi nỗi u buồn, rất trong mơ, dù chưa biết khóc. Thôi thì, bạn và tôi ta về với Nước Trời Hội thánh, sẽ lại thấy ở câu hát có lời vàng, rằng: “Tính quê lai láng dưới trời thu, khói xây thành chập chùng xa đưa.”

Thế mới biết, mọi sự đều tương đối, dù có u buồn hay khóc lóc. Chỉ mỗi tình thương yêu là tuyệt đối đem lại cho con người nhiều vui sướng, rất phúc hạnh.

Thế đó, là tình tự của hôm nay xin gửi đến người anh, người chị ở thánh hội, rất yêu thương.

Mai Tá

www.giadinhanphong.com

Suy tư Tin Mừng Chúa nhật thứ 8 thường niên năm A 02-3.2014

“Tội nghiệp lắm, tâm hồn chưa biết khóc”

“Đêm trừng trùng, ai sẽ đến trong mơ.”

(Dẫn từ thơ Lã Thế Phong)

Mt 6: 24-34

Nhà thơ vẫn cứ tội nghiệp cho tâm hồn chưa biết khóc. Nhà Đạo luôn thương tình khi nghe thấy lời khuyên: “Hãy sống như gà mẹ cất tiếng gọi đàn mà ấp ủ con, dưới cánh!”

Mỗi khi nghe ai khuyên những lời như thế, hẳn người nghe cũng sẽ bảo: điều đó còn tùy. Tuỳ tâm trạng mỗi người, mà xử thế! Trình thuật trích dẫn hôm nay, thoạt xem cũng tựa hồ lối phát biểu vô tâm/vô tính, nếu ta gửi nó đến những người đang sống cảnh cơ cực/bần hàn, khó xử. Tức, những người thiếu cả những vật phẩm rất cần cho cuộc sống, mà lại được khuyên: “Đừng lo! Hãy vui sống, cứ để Chúa lo.”

Vẫn biết rằng, Đức Chúa của ta đầy xót thương và tình thương của Ngài vô bờ vô bến. Nhưng, với những người bụng đang đói cồn đói cào vẫn theo chân Ngài để nghe giảng dạy và cung cấp thức ăn cho no bụng, mà lại nhận được những thế, cũng khó lòng. Biết rằng, trong cuộc sống, ta vẫn cầu và xin được ‘hằng ngày dùng đủ’, mà bụng vẫn đói. Vậy thì, thánh sử Mát-thêu hôm nay muốn nhấn mạnh điều gì khi ghi chép Lời Chúa vẫn nói: “Các ngươi đừng lo cho mạng sống: lấy gì ăn; cũng đừng lo cho thân xác: lấy gì mặc. Mạng sống ngươi chẳng trọng hơn của ăn, và thân xác ngươi chẳng trọng hơn áo mặc sao?” (Mt 6: 25) Ở đoạn khác, ta còn được dạy về hệ quả của lời Chúa khuyên, như: “Ta đói, các ngươi đã cho Ta (hoặc chẳng cho Ta ăn). Ta mình trần, các người cũng đã cho (hoặc chẳng cho ta mặc)….”

Thật ra, Bài Giảng Trên Núi vẫn là hiến chương Chúa viết ra cho xã hội. Chính Chúa đem đến cho ta trách nhiệm giùm giúp hết mọi người, ngõ hầu ta có thể dựng xây cuộc sống mới, ở đời. Một cuộc sống, biết quan tâm giùm giúp hết mọi người. Một cuộc sống, biết dựng xây Vương Quốc Nước Trời, ở trần gian. Nói rõ hơn, mọi người phải nhận trách nhiệm định ra đường hướng cho chức năng cùng hoạt động của mình, coi đó là trọng trách gửi đến cho mình, ngõ hầu giải quyết nhu cầu của người khác, như của mình. Hãy để hết tâm can vào chuyện này. Và đặt ưu tiên số một cho chính mình, là tạo dựng một xã hội được như thế. Tạo và dựng, Nước Trời ở trần gian, ở nơi đó, mọi người biết lo cho nhau. Giúp người và giúp nhau, suốt đời.

Xem như thế, hãy coi trình thuật này như một cảnh báo chống mọi tẩy não do doanh thương quảng cáo nghĩ ra để bắt mọi người tự chuốc lấy cho mình những ưu tư khó bỏ, rồi tự hỏi: không biết mình có gì để ăn không đây? Lấy gì để mặc bây giờ? Người đời, ở mọi thời, vẫn chẳng muốn nghe/muốn biết tiếng rên than từ người nghèo ở đây hay ở đó, về nơi ăn chốn ở. Về, giáo dục và y tế để sống cho ra người, mà hưởng thụ. Thế nhưng, được mấy ai trong ta tin rằng mình thực sự yên tâm dù được dạy bảo rằng: “Cha Trên Trời” vẫn biết rõ điều mình cần, Ngài sẽ nhanh chóng chu cấp những thứ đó, ngay lập tức? Nói cho cùng, cũng rất khó. Đã mấy ai hoàn toàn tin tưởng mà đặt mình vào bàn tay chăm sóc của người khác, đây?

Để trả lời, Hội thánh mau mắn gửi đến cho ta bài đọc 1 có lời khuyên hãy suy tư về chuyện tùy thuộc vào ơn trên như con cái tùy vào mẹ hiền, của mình. Đó còn là ảnh hình Đức Chúa như Đấng Bậc Mẹ Hiền hằng ưu tư ấp ủ đàn con, như sau: “Xion từng nói: ‘Đức Chúa đã bỏ tôi, Chúa Thượng của tôi đã quên tôi rồi!’ Có phụ nữ nào quên con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mà mình đã mang nặng đẻ đau, không? Dù bà có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.” (Is 49: 14-15)

Thật sự, thì nơi Chúa vẫn dấy tràn tình thương yêu ấp ủ của mẹ hiền hơn cả các bà mẹ ở trần gian, nữa. Nhiều lần, tôi lẳng lặng quan sát các bà mẹ làm cử chỉ rất tự nhiên nhưng kín đáo, cứ cho con bú ngay cả vào giờ lễ, ở nhà thờ. Nhìn những cảnh như thế, thật khó có thể nghĩ rằng các bà mẹ như người mẹ hôm ấy, lại có thể quên con nhỏ của mình, mà bỏ bê. Nhìn cảnh mẹ thương con ấp ủ, rồi liên tưởng đến Tình Chúa thương yêu con người, tôi chắc một điều, là: Ngài thương yêu con cái Ngài còn hơn cả người mẹ trần gian thương con mình, nữa. Chẳng cần phải thủ giữ vai trò của các vị cổ võ cho phong trào phụ nữ rất bình quyền, để rồi mới đề nghị mọi người tiếp nhận hình ảnh thân thương của người mẹ hiền khi cho con bú mớm, để rồi đưa vào cuộc sống của chính mình những hình ảnh về tình thương của Đức Chúa, mà suy nghĩ. Suy và nghĩ, hầu nhận ra vai trò tích cực của các nữ phụ, trong cuộc đời. Làm như thế, vô hình chung ta phá bỏ hình ảnh thiển cận của những người cứ nghĩ Chúa như một nam nhân, thượng phụ râu tóc bạc phơ, ơ hờ.

Nói cho cùng, nếu ta được dựng nên, theo ảnh hình của Chúa, thì có lẽ ảnh hình về tình mẫu tử sẽ còn nói lên nhiều hơn nữa bản chất mà ta cần có và cần tỏ rõ, mỗi khi ta nói đến nhu cầu quan tâm giùm giúp, hết mọi người. Giả như ta tiếp nhận cho mình ảnh hình của Đức Chúa luôn nhấn mạnh đến tình mẫu tử mỗi khi đối xử với mỗi người và mọi người, hẳn là khi đó, ta sẽ không còn ưu tư lo lắng không biết có gì để ăn, lấy gì để mặc, cho thân xác mình nữa.

Và khi đó, ta sẽ ngạc nhiên một cách thích thú khi thấy Chúa mô tả tình Ngài xót thương thành thánh Giêrusalem và dân con sống ở đó, bằng những lời lẽ rất thiết tha, rằng: “Giêrusalem! Giêrusalem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi! Đã bao lần Ta muốn tập họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu.” (Lc 13: 34)

Xem như thế, có lẽ mọi người cũng nên làm như Chúa, biết cất tiếng kêu gọi mọi người như gà mẹ cất tiếng gọi đàn con đến với mình để được ấp ủ, dưới lớp cánh bù xù của mẹ!

Với tâm tình như thế, ta lại sẽ ngâm tiếp lời thơ còn ngâm dở, những thơ rằng:

“Tội nghiệp lắm, tâm hồn chưa biết khóc”

“Đêm trùng trùng, ai sẽ đến trong mơ.

Nhánh cây khô uốn mình trong khắc khoải,

còn như thương gió chiếc nặng u hoài.

Có đợi đâu ngày mưa thu trở lại,

Đưa mộng buồn vào vạn kiếp phôi phai.”

(Lã Thế Phong – Nỗi Lòng Đá Cuội)

Tâm hồn chưa biết khóc hoặc cây khô uốn mình trong khắc khoải, cũng vẫn là tâm tình nhà thơ hay nhà Đạo chưa biết được tình thương yêu của Đức Chúa, Đấng vẫn thương yêu mỗi người và mọi người dù người đó có u hoài, khắc khoải đưa “mộng buồn vào kiếp phôi phai”, nhiều nỗi lòng.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 8 Mùa thường niên Năm A 02-3-2014

“Ta ra đi một chiều thắm,”

Vang lời ca buồn trong khóm lá,
Nỗi u hoài, ngày tháng khôn nguôi.”

(Việt Lang – Tình Quê Hương)

(Mt 6: 5-6)

Rất nhiều lần, bạn bè đến với bần đạo hỏi một câu rất “xanh rờn” hoa lá có giòng nước, rằng:“Tại sao khi yêu cầu bầu bạn nguyện cùng Chúa cho anh điều gì đó, anh lại chỉ mong người ấy đọc mỗi kinh Sáng Danh chứ không phải Kinh Lạy Cha, hay Kính Mừng hoặc kinh nào khác, thế?”

Nghe vậy, bần đạo không mấy sốt sắng trả lời/trả lãi, bằng cách tỏ-bày lập-trường này nọ nghe hoài kỳ quá. Nay, bần đạo dám xin thưa một lần nữa, rằng; bần đạo làm thế, là bởi trong các kinh kệ nhiều loại, kinh nào người đọc cũng chỉ “xin và xin”, thôi. Dù, chỉ xin cho đồng đạo hay ai khác cũng thế. Duy có kinh Sáng Danh được cất lên là để chúc tụng/ngợi khen Chúa, một đôi khi.

Hôm nay bần đạo bắt được ý của Đức Phanxicô nhà mình, khi ngài nói với đồng đạo vào buổi chia sẻ Lời Chúa ngày “N” hôm “H”, như sau:

“Các kinh ta dâng lên Chúa hoặc xin Chúa, không nhất thiết là để dành riêng cho các vị có ân-lộc đặc biệt, mà thôi!” Trên đây là lời Đức Giáo Hoàng Phanxicô từng nói với các đấng bậc và chúng dân tham-dự thánh-lễ hôm ấy, ngày 28/1/2014. Sau đó, ngài lại thêm: “Thật cũng dễ hiểu! Các kinh ta đọc cùng Chúa không phải để xin Ngài điều gì đó mà thôi, nhưng còn để cảm tạ Ngài nữa. Nên, thường thì các lời kinh chúc tụng Thiên-Chúa là Cha, Con và Thánh Thần, thường bộc phát trong giây lát không là những lời được ai đó soạn trước, trong quá khứ..”

Hôm ấy, Đức Giáo Hoàng tập trung bài chia sẻ vào bài đọc 1, trong đó có diễn tả cảnh vua Đavít từng cầu nguyện bằng cách múa nhảy trước mặt Chúa để Ngài đừng bỏ rơi ông. Và, Đức Phanxicô lại cũng nghĩ: có thể, những người nghe ngài giảng hôm ấy, hẳn sẽ phản ứng rất nhạy bén, rằng: “Thưa cha, điều đó chỉ xảy ra đối với các vị giỏi dang, nhiều ân-lộc, mà thôi chứ không phải của mọi người?!”

Đức Giáo Hoàng tiếp: “Không phải thế đâu! Lời kinh chúc tụng Chúa là lời cầu mà tất cả các tín-hữu đều làm chứ đâu riêng gì bậc giảng-dạy hoặc đấng-bậc nào khác đâu chứ. Anh chị em đều biết rõ: Thánh Vịnh là Sách gồm câu ca chúc tụng Chúa và đó cũng là lý do và ý-nghĩa của Kinh Vinh Danh và Tiền Tụng mọi người vẫn hát trong thánh lễ…” (xem Bản tin có tựa đề: “Francis: if you can cheer for a team, you can pray”, The Catholic Weekly 09/02/2014, tr. 6)

Nói như Đức Giáo Tông nhà mình ở vào thời buổi này, là nói như mọi người vào thời trước: “Hát, là nguyện cầu đến 2 lần.” Vậy thì, nay xin bạn và tôi, ta nghe thêm câu hát đã cất lên ở buổi nhạc “Hát Cho Nhau Nghe” năm thứ 8 tức, cuối năm 2013 ở Sydney, với chủ đề “Những Nẻo Đướng Quê Hương” có lời ca như sau:

“Ngàn dâu xanh ngát mấy nếp tranh xa mờ,

Tiếng sáo bay dập dìu đường về thôn xưa.

Tình quê lai láng dưới trời thu,

Khói xây thành chập chùng xa đưa.

Cành tơ liễu thấp thoáng bên hồ,

Mùa nhớ nhung dòng nước lững lờ.

Ta ra đi một chiều thắm

Vang lời ca buồn trong khóm lá

Nỗi u hoài ngày tháng khôn nguôi.”

(Việt Lang – bđd)

“U hoài (nhiều) ngày tháng”, “(rất) khôn nguôi”, có lẽ và cũng có thể là của nhiều người,  Chí ít là những vị chả nhớ gì chuyện kinh kệ mà chỉ nhớ lời ca, những là:

“Miền xa thương nhớ,

Tình quê hương thiết tha

Buồn lắng nhắn theo lời gió.

Mùa trăng êm tiếng tơ một trời còn vương.

Ôi buồn nhớ quê hương!”

(Việt Lang – bđd)

Lời ca/tiếng hát của người nghệ-sĩ ở đời, chí ít là những người rời xa khung cảnh hiền hoà của quê nhà êm ắng, vẫn như thế. Còn, các giáo sĩ hoặc đạo sĩ ở nhà thờ/nhà thánh thì sao?

Quả, đây là một trong những câu hỏi khá “hóc búa” gửi bạn và tôi; thôi thì, có hóc hay không hóc, và búa có nện đầu ta cho ra tư tưởng hay không, xin cứ để đó hạ hồi rồi sẽ tính. Nay mời bạn/mới tôi, ta tính chuyện nhà Đạo có đề tài như sau. Trước hết, nay tính đến ý-kiến/ý cò của vị nhân-sĩ cũng rất Đạo, từng bộc bạch như bên dưới:

“Trong một phỏng-vấn rất chớp nhoáng, đạo sĩ nọ có tên là Herpreet Grewal sinh hoạt rất đều đặn nơi trang mạng “The Clash Blog” đã tóm gọn nỗi “thôi thúc linh đạo” trong sách ông viết với để-tài nổi-cộm rằng: “Ở chương cuối, tôi đã cảm-tạ bạn đạo nào từng cùng tôi san sẻ hành-trình xuyên-suốt trong Đạo. Nhưng, có một điều khiến tôi nghĩ ngợi mãi là mình cũng nên nói thêm với mọi người, điều này là câu trích-dẫn từ thánh Tôma Akinô vẫn từng bảo: Ai muốn đạt hạnh-phúc mình tìm kiếm, cũng thấy được niềm vui trong sáng-tạo nhiều thứ nhưng chẳng có thứ nào mà người sáng tác/sáng-tạo tìm được nơi linh đạo hết.

Có người lại cứ săn tìm quyền lực, tiếng tăm hoặc thú vui xác thịt cùng tiền bạc hoặc thứ gì khác. Riêng tôi, tôi vốn có sơ sơ một chút quyền, nên cũng chẳng kiếm tìm thêm nữa mà làm gì, mấy thứ ấy. Phần tôi vẫn dõi theo cung-cách kiếm tiền, cùng vui thú này khác nhiều hơn những gì mình đáng được hưởng; vậy mà, những thứ đó có làm cho tôi sung sướng chi thêm đâu. Tôi lại cũng có đôi chút tiếng tăm và nhiều thứ khác, nhưng nay lại nghĩ tất cả đều ra vô-nghĩa, chẳng hay ho gì.

Bởi thế nên, cả 4 thứ trên nay có chung một mẫu-số, là: sự tự cao tự đại, ra chiều có tiếng tăm, vv…  tất cả chỉ là những cái đem đến cho “tôi, những tôi và mỗi tôi mà thôi”. Quả thật, giả như bạn và tôi, ta kiếm tìm: lòng thương xót, sự hiền-lành/tử tế, cùng các sinh-hoạt từ-thiện và tình thương-yêu, thì lại khác. Cái khác là ở chỗ: mình nên bỏ sức-lực ra để làm cho người khác được hạnh-phúc/sướng vui nhiều hơn, rồi thì cuối cùng, mình cũng sẽ thấy vui. Điều đó đã giảm bớt đi một số điều tôi từng cố tạo cho mình trong đời, tức: 250 ngàn lần hoặc lượt trị bệnh chân/khớp cho người khác bớt đau và chơi nhạc cho cả triệu người nghe, cốt để thực-hiện quyết tâm tôi có được. Thành thử, ngày hôm nay, vấn đề là ta cần phải làm nhiều hơn nữa những chuyện như thế cho mọi người. Với tôi, đó là bí kíp cuộc đời của con người.” (xem Bản tin trên The Catholic Weekly 09/02/2014 có đề-tựa: “Mercy, Charity the Secret” tr. 9)

Những điều trên, tưởng chừng nghe quen, nhưng thực tế lại ít thấy từ miệng lưỡi những con người thường tình ở trong đời, tuyệt nhiên không phải của đấng bậc giảng dạy trong Đạo. Người thường trên sân khấu nghệ-thuật lại vẫn tỏ-bày bằng lời ca tiếng hát, rất như sau:

“Lòng say mê dấn bước ra đi

Vì núi sông ca khúc nguyện thề.

Bên nương dâu đường xanh ngát

Ta về đây chiều mơ gió mát

Bóng chiều tà tràn thắm hương quê.”

(Việt Lang – bđd)

“Lòng say mê”, “thắm hương quê”, đôi lúc cũng được hiểu như lòng mê say, thắm tình người đi Đạo rất đức hạnh. “Lòng say mê” trong Đạo, đôi khi còn thấy ở nhiều người/nhiều vị cứ “xục xạo” những vùng “thắm hương quê” để tìm cho ra nơi nào có người báo cho biết: Đức Nữ Trinh Maria đã hiện hình theo cách nào đó để báo mộng hoặc cho biết lúc còn sống về việc gì đó, để rồi bà con kéo nhau đi xem cho biết.

Báo gì thì báo, không biết các vị ấy có báo cho mọi người biết một tin hoặc sự việc được Đức (thánh là) Cha Phanxicô vừa cảnh-báo, như tờ báo Đạo ờ Sydney từng đưa bài báo từ thủ-đô Vaticăng do nhà báo có tên là Carol Glatz viết như sau:

“Nhiều thị-kiến có nội-dung về chuyện Đức Mẹ hiện ra ở đâu đó, nếu hiểu theo tinh thần hoặc tình-tiết sai lạc, có thể tạo ra những ngộ-nhận khiến giáo-dân xa dần Lời Chúa từng căn-dặn. Đó là ý tưởng được Đức Giáo Hoàng Phanxicô từng cảnh-cáo nhiều người.

Tính tò mò/xục xạo tìm chuyện lạ hoặc phép lạ Mẹ hiện ra càng làm cho người dân đi Đạo xa rời tinh-thần Phúc Âm, xa rời Chúa Thánh Thần, cũng như niềm vui an bình và hy vọng, xa vời sự vinh-quang và nét diễm-kiều của Chúa. Đó là ý chủ lực được Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã giảng giải trong bài chia sẻ Lời Chúa vào thánh lễ tại nhà khách Vaticăng hôm 14/11/2013.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô còn dẫn giải: Chúa của ta vẫn dạy rằng: Vương quốc Nước Trời không đến với con người theo cách hấp dẫn những người hiếu-kỳ để tìm đến, giống như thế. Đức Phanxicô diễn-giải bài Tin Mừng thánh Luca đoạn 17 câu 20-25, trong đó có đoạn mô tả đám Pharisêu hỏi Chúa: Bao giờ thì Nước Thiên-Chúa đến? Ngài đáp lời họ và nói: Nước Thiên Chúa không đến như điều ta quan sát được. Và người ta sẽ không nói: “Ngài đang ở đây hay ở kia kìa!” , vì Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.” ( Lc 17: 20) Và Ngài dạy các môn đệ của Ngài đừng nên chạy theo các dấu chỉ bề ngoài về ngày Chúa Quang Lâm lần tới…

Và Đức Giáo Hoàng Phanxicô giảng giải tiếp: “Tính hiếu-kỳ/xục xạo chỉ thúc-dẩy con người tìm xem Chúa/Mẹ đang hiện ra ở nơi nào hoặc khiến ai đó tự hào nói: tôi thấy Chúa/Mẹ hiện ra ở đây, ở đó, có nói với tôi điều này điều nọ. Chúa/Mẹ đâu phải là Giám đốc Bưu điện gửi thiệp mỗi ngày đi khắp nơi, đâu! Nước Chúa đang ở giữa chúng ta. Đừng bao giờ tìm điều lạ như các phép lạ, hiện tượng lạ, bởi vì thế giới này vẫn còn nhiều người hiếu-kỳ chỉ tìm biết những thứ đó. Tính hiếu-kỳ, làm ta xa rời tính khôn-ngoan, bởi họ chỉ thích những tin tức giựt gân, các tin nảy lửa để thoả mãn tính tò mò, tọc mạch của ngày thường. Đây là tinh thần đào thoát, đãng trí khiến ta xa rời Chúa, tinh-thần nói năng linh tinh, quá lời, tính tò mò/tọc mạch rất trần thế chỉ khiến ta phân vân, lẫn lộn thôi. (xem Bản tin trên The Catholic Weekly 24/11/2013: Francis warns on ‘visions’ of Mary, tr. 7)

Gì gì đi nữa, nói đi thì lại nói lại, tức là: nói những lời khích-lệ để cho vui, hoặc nói và kể những chuyện khá “phiếm” để bà con/cô bác nghe cho đỡ tủi. Tủi, nhưng không hổ vì từng nghe biết và từng thực hiện để xem sao. Truyện kể, là những chuyện để nghe cho vui. Nhưng trước khi kể, lại cũng xin mời bạn/mời tôi, ta nghe thêm lời ca/tiếng hát người nghệ-sĩ từng lấy hứng: sau:

“Lòng trai muôn thuở những bước chân giang hồ
Kiếp sống tung bụi mờ một chiều chia phôi.
Đường đi xa tắp tháng ngày trôi,
Nhớ nhung hoài nhạc sầu chơi vơi.
Này đây khóm lá,
Này đây bao nếp tranh mờ xóa những khi chiều xuống.
Này đây bao thiết tha êm đềm tình thương.
Ôi buồn nhớ quê hương!”

(Việt Lang – bđd)

Nghe nghệ sĩ hát “nhớ quê hương” rồi, bạn và tôi ta cứ tiến vào vườn truyện kể với cốt chuyện như sau:

“Chuyện đạo tôi nghe được là như sau:

Có thầy nọ sống đời tu hành rất mực thánh thiện. Không kể những lúc bắt buộc phải nhín chút thời gian dành cho các sinh hoạt cần thiết của đời thường, thầy luôn cố gắng thu xếp tối đa thời gian trong ngày để cầu nguyện, tụng kinh, ngồi thiền, v.v…

Đầu óc thầy hầu như không còn chỗ nào trống trải cho các tà niệm sái quấy có thể thừa cơ len lỏi vào. Sau nhiều năm dài tu hành tinh nghiêm, cẩn mật như thế, thầy thấy mãn nguyện trước sự tiến bộ tâm linh. Thế rồi khuya hôm nọ, sau khi xong cữ thiền giờ Tý, thầy đi ngủ và mơ thấy mình dự một buổi tiệc lớn gồm toàn những bậc đạo cao đức trọng. Trong lúc chủ tiệc chưa ra tiếp khách, mọi người lần lượt được rước tới bàn ăn rất to và dài. Ai cũng có chỗ ngồi trang trọng theo đúng thứ bậc vì chủ tiệc đã gắn sẵn trên mặt bàn những tấm thẻ nhỏ ghi họ tên từng thực khách. Thầy thấy mình được vinh dự xếp ngồi gần chủ tiệc, nhưng ở vị trí thứ nhì. Vị trí thứ nhất dành cho người bán tạp hóa ở khu phố không xa nơi thầy cư trú.

Sáng hôm sau, thầy tìm tới tiệm tạp hóa, lựa một góc và nhẫn nại đứng quan sát rất lâu. Tiệm không lớn lắm nhưng lúc nào cũng có khách hàng vào ra nườm nượp. Chủ tiệm chẳng hở tay bán hàng, thu tiền, thối tiền… vẻ mặt lúc nào cũng tươi cười, nói năng hòa nhã… Tuyệt nhiên không thấy chủ tiệm có cử chỉ, động tác đặc biệt gì tỏ ra ông đang tĩnh tâm hay cầu nguyện. Nhân một lúc ngớt khách, thầy bước tới chào chủ tiệm và kể lại giấc mơ kỳ lạ. Chủ tiệm ôn tồn nói: “Tôi cần chiết dầu ăn từ cái thùng hai mươi lít ra hai mươi cái chai xếp sẵn ở góc kia. Xin thầy giúp một tay. Đừng để chai nào đầy quá hay vơi quá. Đừng làm sánh dầu ra ngoài chai nhớp nháp. Lát nữa sẽ tiếp tục câu chuyện của thầy.”

Thầy chiết dầu vừa xong thì đúng lúc chủ tiệm được ngơi tay bán hàng. Ông ta bước tới hỏi: “Nãy giờ cắm cúi lo chiết dầu ra chai, trong đầu thầy có giây phút nào nhớ nghĩ tới Trời tới Phật không?” Thầy bẽn lẽn: “Tôi làm không quen, ráng tập trung rót dầu vào từng chai theo đúng yêu cầu của ông, mệt toát mồ hôi. Do đó chẳng được phút giây nào rảnh trí mà nhớ nghĩ tới Phật Trời!” Chủ tiệm cười hiền: “Nếu thầy bận bịu buôn bán như tôi cả ngày, lu bu quanh năm suốt tháng, thì tâm thầy ắt xa Trời xa Phật mịt mù luôn! Tôi không có phước lớn để được rảnh rang chuyên lo tu hành như thầy. Tôi chỉ ráng tập thành thói quen cho tâm tôi lúc nào cũng nhớ Trời nhớ Phật. Khi bán hàng cho khách tôi nguyện không để ai phải phiền lòng vì bị cân non đong thiếu. Khi chiều chuộng khách hàng tôi nguyện không để ai mích lòng vì thấy tôi thiên vị. Gặp khách hàng xấu tính, tôi nói cười nhã nhặn, thầm nhắc nhở: Thánh Thần giả dạng thường dân tới thử thách mình đây. Tôi tu như vậy đó, thưa thầy”. Huệ Khải

Trích dẫn truyện kể như thế, dù có là chuyện nhà chùa hay chuyện của nhà Chúa, cũng thấy vui. Vui, là bởi bà con cũng như tôi/như bạn, là: ta vẫn nhận ra được đôi điều trên đời. Không chỉ mỗi lời căn-dặn/nhủ khuyên của đấng bậc nhà thờ thôi, mà là lời bộc-bạch ở khắp mọi nơi trong đời. Đó là ý-hướng “vào đời” để tìm Đạo, rất đích thực.

Đó, là gặp gỡ Đức Kitô cả nơi những người không cùng Đạo với mình. Đó, là tinh-thần “đại kết” trong tâm hồn, chứ không bằng mồm mép hay miệng lưỡi. Tự nhủ rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta nghe thêm Lời Vàng khi xưa Chúa từng dạy:

“Khi cầu nguyện,

anh em đừng lải nhải như dân ngoại;

họ nghĩ rằng:

cứ nói nhiều là được nhận lời.8

Đừng bắt chước họ,

vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì,

trước khi anh em cầu xin.”

(Mt 6: 5-6)

Tâm niệm Lời Chúa dặn, tưởng cũng nên hiên-ngang mà thực hiện. Thực-hiện việc nguyện-cầu không chỉ bằng kinh-kệ có sẵn cứ đọc lai rai, dài dài tính số lần đọc và số kinh. Tâm và niệm, để rồi quyết thực-hiện tinh-thần nguyện-cầu chứ không phải nội-dung của câu kinh đầy những xin. Tâm và niệm, có quyết-tâm để sẽ không có đấng nào khác, trách-móc hoặc chỉ bảo nhiều hơn Chúa.

Tâm niệm thế rồi, ta sẽ hiên ngang đầu cao mắt sáng “đi vào đời” để gặp Chúa nơi người đời, và trong đời người cũng rất “đời”.

Trần Ngọc Mười Hai

Đã và đang rắp ranh “Vào đời” như thế

để học hỏi mọi điều hay từ người đời.

Trong đời người.