BẢO VỆ CÔNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA

BẢO VỆ CÔNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA

Bài giảng Lễ thánh Giuse tại Đan Viện Châu Sơn 19.03.2014

Tác giả: TGM. Jos Ngô Quang Kiệt

Từ tạo thiên lập địa Thiên Chúa có chương trình tốt đẹp cho thế giới và đặc biệt cho con người. Thiên Chúa sáng tạo mọi sự và thấy hài lòng vì mọi sự tốt đẹp. Nhưng chẳng bao lâu ma quỉ gieo sự xấu vào thế giới. Con người hư hỏng vì nghe lời ma quỉ chống lại Thiên Chúa. Vì thế lâm vào cảnh khốn cùng. Nhưng Thiên Chúa không từ bỏ ý định yêu thương nên quyết định sai Con Một xuống cứu độ trần gian. Và Thiên Chúa chọn thánh Giuse làm người bảo vệ Đấng Cứu Thế và bảo vệ công trình của Thiên Chúa. Thánh Giuse đã hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ, đưa công trình cứu chuộc của Thiên Chúa đến thành công.

Ngài bảo vệ chính mình khi sống công chính. Công chính là công bình và chính trực. Chính trực là thẳng ngay. Công bình là của ai trả cho người ấy. Chỉ nhận những gì thuộc về mình. Tin mừng hôm nay xưng tụng thánh Giuse là công chính vì đã không dám nhận Đức Mẹ làm bạn và nhận Chúa Giêsu làm con. Vì thánh nhân biết đây là công trình của Thiên Chúa. Chỉ khi Thiên Chúa truyền ban ngài mới dám lãnh nhận. Từ đó ngài quan tâm bảo vệ Đức Mẹ và Chúa Giêsu.

Ngài bảo vệ sự sống của Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Nếu không có thánh Giuse, Đức Mẹ có thể bị kết án tử hình, bị ném đá theo luật Do thái. Và Chúa Giêsu khó thoát khỏi bàn tay khát máu của Hêrôđê bạo chúa.

Ngài bảo vệ công trình cứu chuộc khi phát triển sự sống của Chúa Giêsu. Dưới mái nhà đơn sơ Nagiarét, Chúa Giêsu càng khôn lớn càng khỏe mạnh, càng thông minh và càng giầu ân nghĩa trước mặt Thiên Chúa. Để có thể trưởng thành, hoàn thành công cuộc cứu chuộc nhân loại.

Ngài tiếp tục bảo vệ công trình của Thiên Chúa. Nhiệm vụ của thánh nhân chưa kết thúc. Vì công trình của Thiên Chúa vẫn đang tạo dựng một thế giới tốt đẹp. Nhưng ma quỉ vẫn luôn gieo rắc sự xấu, tàn phá công trình của Thiên Chúa. Vũ trụ bị tàn phá. Thiên nhiên bị tàn phá. Sinh vật bị tàn phá. Nhưng trầm trọng nhất là con người bị tàn phá. Tàn phá từ thể chất đến tinh thần. Nguy hiểm nhất là tàn phá về đạo đức. Con người được Thiên Chúa yêu thương tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Nhưng con người đang bị tàn phá đến độ biến dạng không còn phản ánh vinh quang của Thiên Chúa nữa. Đáng sợ nhất khi con người không còn lương tâm, không còn phân biệt được phải-trái, thiện-ác, tốt-xấu. Vì thế hôm nay  chúng ta cần đến sự bảo vệ của thánh Giuse.

Và chúng ta cần phải noi gương Thánh Cả, tiếp tay với ngài trong công cuộc bảo vệ công trình của Thiên Chúa.

Trước hết là bảo vệ chính mình khỏi ô nhiễm thói đời để sống công chính. Ngày nay người ta dễ dàng nhận những gì không phải của mình. Vì nhận những gì không phải của mình nên người ta sẵn sàng chiếm đoạt của người khác. Từ của cải đến chức quyền. Từ danh dự đến uy tín. Thậm chí chiếm đoạt cả quyền tự do và quyền sống nữa. Trong một bầu khí như thế, cần rất nhiều đời sống công chính. Chỉ nhận những gì của mình. Và trả lại cho tha nhân những gì của họ.

Không những bảo vệ chính mình, ta còn phải bảo vệ công trình của Thiên Chúa. Thế giới hôm nay bắt đầu ý thức bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường. Nhưng ít có ai bảo vệ con người là trọng tâm của công trình của Thiên Chúa. Trong sứ điệp mùa chay năm 2014 này, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, tự trở nên nghèo để anh em được trở nên giầu có.

Đức Thánh Cha nói thế giới hôm nay còn rất nhiều người nghèo. Tuy nhiên nghèo chưa đáng sợ bằng lầm than khốn khổ. Lầm than khốn khổ là nghèo mà bị bỏ rơi, không được ai quan tâm đoái hoài. Ngài phân biệt ba loại lầm than khốn khổ. Lầm than khốn khổ về vật chất là nghèo mà không được ai quan tâm giúp đỡ, bị bỏ rơi, bị gạt ra ngoài lề xã hội. Lầm than khốn khổ về tinh thần. Là những người bị áp bức, bất công, bị bóc lột, bị chà đạp. Mà cũng bị bỏ rơi, không có ai bênh vực, không có ai khích lệ, an ủi. Lầm than khốn khổ về luân lý. Là những người rơi vào tội lỗi, tệ nạn. Nhưng cũng không được ai quan tâm giúp đỡ.

Ngài kêu gọi chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, trở nên nghèo khi đến với những anh chị em lầm than khốn khổ. Có lẽ ta đã nghĩ đến giúp người nghèo khổ vật chất. Nhưng ta ít nghĩ đến giúp những người đang bị áp bức bất công, bị bóc lột, bị tước mất những quyền cơ bản của con người như quyền được sống, quyền được tự do, tự do tôn giáo, tự do tư tưởng, tự do phát biểu. Và cả những người vì bênh vực quyền lợi chính đáng mà bị tù tội, bị ám hại, và bị mọi người sợ hãi xa tránh.

Công trình của Thiên Chúa mọi sự đều tốt đẹp. Tất cả nhằm mục đích đem sự sống và hạnh phúc cho con người. Nhưng công trình của Thiên Chúa cần được bảo vệ. Mừng lễ thánh Giuse, ta hãy cầu xin ngài tiếp tục bảo vệ công trình của Thiên Chúa. Và chúng ta hãy tiếp tay với ngài bảo vệ công trình của Thiên Chúa. Bảo vệ vũ trụ. Bảo vệ thiên nhiên. Bảo vệ súc vật. Bảo vệ môi trường sống. Và quan trọng nhất bảo vệ chính sự sống. Bảo vệ con người. Bảo vệ hạnh phúc của con người. Chính khi bảo vệ công trình của Thiên Chúa ta xây dựng một xã hội tốt đẹp. Và đem hạnh phúc cho mọi người.

Lạy thánh Giuse xin bảo vệ con người, bảo vệ Giáo hội và bảo vệ thế giới. Amen.

Tác giả: TGM. Jos Ngô Quang Kiệt

Yêu kẻ thù

Yêu kẻ thù

dongten.net

Lời Chúa: Mt 5, 43-48

John Paul II visits his would-be assassin in a prison in Rome on Dec. 27, 1983

43 “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù.44 Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.45 Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính.46 Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao?47 Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?48 Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.

Suy nim:

“Tại sao anh lại bắn tôi khi cả hai chúng ta đều tin
vào sự hiện hữu của một Thiên Chúa duy nhất.”
Đó là một câu trong lá thư Đức Thánh Cha Gioan Phaolô định gửi
cho anh Ali Agca, người đã ám sát ngài vào ngày 13-5-1981 tại Rôma.
Nhưng ngài đã đích thân thăm anh trong tù năm 1983, và đã tha thứ cho anh.
Vào Đại Năm Thánh 2000, ngài đã xin Tổng Thống Ý cho anh được ân xá.
Điều đáng nói là anh đã chẳng bao giờ công khai xin ngài tha lỗi.

“Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (c.43).
Thật ra Luật Môsê không dạy ghét kẻ thù,
nhưng ghét kẻ thù của Thiên Chúa là chuyện có trong các thánh vịnh.
“Lạy Chúa kẻ ghét Ngài làm sao con không ghét?…
Con ghét chúng, ghét cay ghét đắng,
chúng trở thành thù địch của chính con” (Tv 139, 21-22).

Đức Giêsu dạy các môn đệ yêu kẻ thù (c. 44),
Nhưng vào sau năm 70, kẻ thù của các môn đệ là ai?
Là quân xâm lược Rôma, là thế giới dân ngoại đang bắt đạo (Mt 10, 22).
Là những người đồng bào thuộc hội đường đang ngược đãi các Kitô hữu.
Là những ai không phải là anh em, nghĩa là những ai không tin Đức Giêsu.
Đức Giêsu mời ta vượt qua khuynh hướng tự nhiên là chỉ yêu kẻ yêu mình.
Tình yêu Kitô vươn đến cả những kẻ ghét và làm hại mình nữa.
Hãy yêu kẻ thù, nhưng yêu lại không phải là một tình cảm tự nhiên.
Yêu là một thái độ của lòng nhân được diễn tả bằng những hành động cụ thể.
Yêu là cầu nguyện cho kẻ bách hại, là chào hỏi và chúc bình an cho họ.
“Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi”,
Đức Gioan Phaolô II đã tuyên bố như thế sau khi hồi phục.

Yêu kẻ thù làm chúng ta được ơn trở nên con cái Cha trên trời (c. 45),
trở nên giống Cha là Đấng ban mặt trời và mưa cho kẻ bất chính.
Trở nên con cái Cha là tiến trình dài một đời,
xuyên qua những hành vi yêu thương vượt trên tự nhiên.
Cha yêu mọi người chẳng trừ ai bằng một tình yêu vô điều kiện.
Chúng ta được mời gọi trở nên hoàn thiện như Cha
nhờ yêu kẻ thù như Cha đã yêu họ (c. 48).
Kẻ thù cũng là anh em tôi, vì họ cũng là con được Cha yêu như tôi.

Chúng ta nên nghĩ đến những kẻ thù của mình, ở rất gần mình,
những người mình không muốn chào hỏi hay nhìn mặt, chỉ muốn nguyền rủa.
Tôi sẽ làm gì để bày tỏ tình yêu tha thứ đối với họ trong Mùa Chay này?

Cầu nguyện:

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
đón nhận những người khác
là điều vượt quá sức con,
vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
con không thể nào kính trọng kẻ khác được,
vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
có những ngày
mà yêu mến người khác
làm cho tim con đau nhói,
vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau
và những giới hạn của bản thân con.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
trong những ngày khó khăn đó,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
tất cả chúng con đều là con cái Chúa
và đừng để con quên lời Chúa nói :
“Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất
là làm cho chính Ta.”

(Trích trong PRIER)

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Người nào biết mở lòng để yêu thương và cầu nguyện cho những ai xúc phạm, xỉ nhục và làm hại mình, người ấy sẽ đạt được những thành tựu rất to lớn chỉ trong một thời gian ngắn ngủi.

(Thánh Simeon thần học gia mới)

Giáo hội của người nghèo và ưu tiên chọn người nghèo

Giáo hội của người nghèo và ưu tiên chọn người nghèo

Chuacuuthe.com

VRNs (12.03.2014) – Torronto, Canada – Trong cuộc họp báo sau khi đắc cử Giáo Hoàng, Đức Phanxicô giải thích lý do ngài chọn tước hiệu Phanxicô là vì đối với ngài thánh Phanxicô Assisi là con người nghèo khó, con người của hoà bình, là  người đem lại cho chúng ta tinh thần hoà bình và khó nghèo. Cũng trong cuộc họp báo này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh thêm rằng ngài mong muốn Giáo hội phải là Giáo hội của người nghèo và vì người nghèo.

14031200

Một hình ảnh tương tự về Giáo hội nghèo khó mà Đức Phanxicô thường nhắc đến gần một năm qua, đó là hình ảnh một Giáo hội lấm lem, bầm dập trên đường vì đi với người nghèo. Đặc biệt, trong Tông huấn Niềm vui Phúc Âm, Đức Giáo Hoàng  nhấn đến một Giáo hội “ưu tiên chọn” người nghèo vì “Trái tim Thiên Chúa có một chỗ đặc biệt dành cho người nghèo.” Nhấn đến hình ảnh về một Giáo hội của người nghèo như thế, Đức Giáo Hoàng nhắn nhủ rằng: “Không ai trong chúng ta có thể nghĩ rằng mình được miễn chước việc quan tâm tới người nghèo và tới công bằng xã hội”.

Thực ra, Đức Giáo Hoàng Phanxicô không phải là người đầu tiên sử dụng hình ảnh  “Giáo hội của người nghèo và vì người nghèo” để diễn tả viễn tượng của mình về Giáo hội trong thế giới hôm nay. Người đầu tiên nhắc đến ý niệm “Giáo hội của người nghèo” là Đức cố chân phước Giáo hoàng Gioan XXIII.  Ngày 11 tháng 9 năm 1962, tức là một tháng trước khi khai mạc Công đồng Vaticanô II, Đức Gioan XXIII đã phát biểu trên đài phát thanh rằng: “Trước những thách đố mà các nước kém phát triển đặt ra, Giáo hội tự giới thiệu mình như là một Giáo hội của mọi người, đặc biệt là Giáo hội của người nghèo.”

Ba tháng sau (ngày 6 tháng 12 năm 1962), khi lược đồ đầu tiên Về Giáo hội được đệ trình mà không nhắc gì đến “Giáo hội của người nghèo,” Đức Hồng Y Giacomo Lercaro đã dùng quyền can thiệp của mình (intervention) để nhắc lại viễn tượng của Đức Gioan XXIII về một Giáo hội của người nghèo. Ngài phát biểu rằng “Giáo hội luôn mang nơi mình Mầu nhiệm Chúa Kitô, mà mầu nhiệm Chúa Kitô cụ thể trong thế giới hôm nay là Chúa Kitô ở nơi người nghèo; vì thế như Đức thánh cha Gioan XIII đã nói, Giáo hội hôm nay phải thực sự là Giáo hội của người nghèo.”[i]

Công Đồng Vaticanô II dùng nhiều hình ảnh đa dạng khác nhau để trình bày mầu nhiệm Giáo hội, trong đó Công đồng cũng không quên hình ảnh về một Giáo hội của người nghèo theo viễn tượng của Đức Gioan XXIII. Cụ thể, hàng loạt các văn kiện của Công đồng nhấn mạnh đến khuôn mặt người nghèo trong mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo hội: Hiến chế Tín lý về Giáo hội số 8 và số 23; Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Hiện Đại số 1, 15, 63, 69, 71, 81, 86, 88, 90; Sắc lệnh về Tông đồ Giáo dân số 8; Sắc Lệnh về Mục Vụ trong Giáo Hội số 13 và 30; Sắc Lệnh về Thánh Chức và Đời Sống Linh Mục số 6; Sắc Lệnh về Hoạt Động Tông Đồ của Giáo Hội số 12; Sắc lệnh về Cải Tổ Thích Nghi Đời Sống Tu Trì số 13; và Tuyên Ngôn của Giáo Hội đối với những Tôn Giáo Ngoài Kitô Giáo số 9. Đặc biệt, trong Hiến chế Tín lý về Giáo hội, khi mô tả hình ảnh Giáo hội của người nghèo, Công đồng xác tín: “Như Chúa Kitô đã hoàn tất công trình cứu chuộc trong khó nghèo và bách hại, Giáo Hội cũng được mời gọi đi cùng đường lối ấy hầu thông ban ơn cứu rỗi cho loài người.…Chúa Kitô được Chúa Cha phái đến rao truyền Phúc Âm cho kẻ bần cùng… cứu chữa các tâm hồn đau khổ (Lc 4,18), tìm kiếm và cứu vớt những gì đã hư mất (Lc 19,10). Cũng thế, Giáo Hội trìu mến và ấp ủ tất cả những ai đau khổ vì sự yếu hèn của con người, nhất là nhận biết nơi những kẻ nghèo khó và đau khổ hình ảnh Ðấng Sáng Lập khó nghèo và khổ đau, ra sức giảm bớt nỗi cơ cực của họ và nhằm phụng sự Chúa Kitô trong họ”(LG 8).

Sau Công đồngVaticanô II, chủ đề Giáo hội của người nghèo được Hội đồng Giám mục Châu Mỹ La tinh nhấn mạnh hơn nữa khi xác tín rằng Giáo hội không chỉ là Giáo hội của người nghèo và vì người nghèo, mà hơn thế nữa Giáo hội là Giáo hội nghèo khó (Iglesia Pobre) (Đức Phanxicô cũng đã nhắc đến Giáo hội nghèo khó trong buổi họp báo sau khi ngài đắc cử giáo hoàng). Trong bối cảnh Châu Mỹ La tinh đói nghèo, Hội đồng Giám mục Châu Mỹ La tinh xác tín rằng Giáo hội liên đới với người nghèo và trở nên như người tôi tớ phục vụ mọi người.

Liên Hội đồng Giám mục Á châu nhóm họp tại Philippine ngày 29 tháng 11 năm 1970 cũng bàn đến Giáo hội của người nghèo theo tinh thần của Công đồng Vaticanô II. Liên Hội đồng nhắc đến tình trạng của số đông người nghèo ở Á châu và xác định rằng Giáo hội của người nghèo phải tách mình khỏi những kẻ quyền lực, giàu có và phải có sứ mạng thúc đẩy, bảo vệ quyền sống của những người nghèo khổ, thấp cổ bé miệng.

Bẳng đi một thời gian dài sau đó, dường như hình ảnh “Giáo hội của người nghèo” không được mấy ai ưa thích nhắc đến nữa.Nhưng bây giờ Đức Giáo Hoàng Phanxicô khơi gợi lại.

Thực ra, Đức Giáo Hoàng không nói điều gì mới mẻ hoặc không nói điều gì đi ngược lại dòng suy tư chính thống hay truyền thống của Giáo hội. Viễn tượng về một Giáo hội của người nghèo và vì người nghèo, như nói trên, đã được xác định bởi giáo huấn của Công Đồng Vaticanô II. Tuy nhiên, sự mới mẻ mà Đức đương kim Giáo Hoàng mang lại ấy là cách đặt vấn đề và cách nhấn mạnh của ngài về một Giáo hội như thế.

Nói đúng hơn, trong bối cảnh của thế giới hôm nay, ở đó có những ý thức hệ, những cơ cấu kinh tế – chính trị vùi dập người nghèo, làm cho biết bao người bị vong thân, tha hoá, thì ao ước của Đức Giáo hoàng Phanxicô về một Giáo hội ưu tiên chọn người nghèo, một Giáo hội luôn đi trên đường với người nghèo và chịu lấm lem, bầm dập vì người nghèo, cũng là ao ước, khát vọng của bao tâm hồn bơ vơ, tất bạt.

Nói cách khác, Đức Giáo Hoàng nói thay cho bao tâm hồn đang khát khao một luồng sinh khí mới trong Giáo hội giữa thế giới hôm nay: Giáo hội của người nghèo, ưu tiên chọn lựa người nghèo vì “trái tim Thiên Chúa có một chỗ đặc biệt dành cho người nghèo”.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Dũng, CSsR.

 

DẤU CHÂN XƯA

DẤU CHÂN XƯA

Tìm dấu chân xưa là tìm dấu chân không còn.  Trở về biển nhớ, nghìn dấu chân đã đi qua.  Sóng xô bờ đã bao lần xoá thật kĩ.  Trở về làng cũ, tàu cau đã chết thủa nào.  Năm tháng cũ nhạt hương không còn ấn tích.  Mưa nắng quanh năm giặt bạc màu ký ức.  Đổi thay trong đời như những lớp phù sa đã bao lần cày sâu xuống, lấp kín lên.  Tìm dấu chân xưa là tìm dấu chân đã mất.

Không còn dấu chân cũ mà vẫn cứ tìm vì dấu chân ấy có nhiều thương nhớ.  Bến ga chiều nay mưa phùn bay, nhưng người ta trở về tìm dấu chân cũ vì ảnh xưa thì đẹp và hình xưa là hạnh phúc.  Tìm vết chân cũ, vì ở tình yêu ấy, đã bao lần ngọt ngào cùng nhau quấn quýt bước chân đi.  Không gian thay đổi nhưng hồn quá khứ không muốn đổi thay.  Thế giới ấy đi bằng những bước chân đẹp nên nó trong ngắt.  Bụi chỉ xoá dấu chân trên đường còn thế giới trong ngắt của linh hồn nó đẹp mãi.  Và, vì thế, nhiều người cứ muốn đi tìm.

Đi tìm dấu chân xưa, vì về ngõ hồn quá khứ có khi dễ hơn lách lối tương lai đi tới.  Đời người có khi tương lai khép kín mà quá khứ mở rộng ngõ.  Lắm lúc càng đi về phía trước mà lại chỉ thấy đẹp ở phía sau.  Vì thế, hôm qua, hôm nay và mãi về sau vẫn sẽ có nhiều kẻ muốn đi tìm kỷ niệm của dấu chân xưa.

Dấu chân không gian đã mờ nhạt, bụi cát bôi rồi.  Đi tìm dấu chân xưa là dấu chân trong hồn mà thôi. Có nhiều bước chân.  Có bước chân lên đồi.  Có bước chân vào hoàng hôn.  Có bước chân ra bình minh.  Đi tìm dấu chân xưa là tìm riêng kỷ niệm đẹp.  Nhưng khi quá khứ mở ngõ là mở rộng cả đôi cánh.  Vì thế, có những dấu chân không đẹp, chẳng muốn tìm mà vẫn gặp.  Có dấu chân muốn quên mà cứ nhớ.

Lạy Chúa, trong hành trình đời sống, Chúa đã nói với con về những bước chân:

Đừng dõi theo đường phường gian ác

Đừng tiến tới trong đường lũ ác nhân

Hãy tránh đi, đừng đi qua đó

Hãy quay lại và đi đi. (Cách Ngôn 4:14-15)

 

Ta dạy con trong đường khôn ngoan

Và Ta đã hướng dẫn con đi đường ngay chính

Khi con đi bước chân con sẽ thênh thang

Và nếu con chạy, con sẽ chẳng vấp ngã. (Cách Ngôn 1:11-12)

Dấu chân của một mình ta thôi mà đã là những dấu chân xưa muốn đi tìm rồi.  Huống chi, những dấu chân của hai người đi bên nhau chắc hẳn sẽ còn lưu luyến, bởi, vết chân của người này mở ý cho vết chân của người kia đi về.  Con tim mình thổn thức vì nó dâng hai nhịp đập của một chiều sóng.  Vết chân hôn nhân và vết chân của Đức Kitô với các môn đệ là những vết chân này.

Dấu Chân Thiêng Liêng

Trong dấu chân xưa của những chuyện tình, chuyện thuỷ chung, còn một thứ dấu chân của thập giá. Đó là dấu chân theo Chúa ở biển hồ Galilêa khi nghe tiếng gọi: Hãy theo Ta (Mt 4:19).  Theo Chúa trong hành trình truyền giáo: Ngài sai từng hai người một (Mc 6:7).  Theo Chúa lên cuộc tử nạn: Hãy vác thập giá hằng ngày (Lc 9:23).  Những dấu chân thiêng liêng này không sao xóa nhoà được.  Những bước chân này đã một lần in dấu là kỷ niệm thiên thu.  Bởi, Thiên Chúa quý kỷ niệm.  Ngài không bao giờ quên những bước chân ân tình.  Một lần gọi là một lần muốn có trang thiên tình sử.  Một bước chân đi bên nhau là hy vọng có kẻ mang Tin Mừng.

Khi chết rồi Đức Kitô vẫn về Galilêa, vẫn muốn đến biển hồ.  Gặp gỡ Thây trò ở khúc đường Emmaus không phải là đi tìm dấu chân xưa hay sao.  Nhưng dấu chân xác thân không còn.  Chỉ còn là dấu chân xưa trong hồn mà thôi.  Đó là dấu chân thiêng liêng.

Cửa tương lai sẽ đóng lại.  Thí dụ, ngày Đức Kitô chết.  Vết chân trên cát của Ngài chấm dứt.  Mỗi bước chân nhân thế cũng vậy.  Ngày xuôi tay là bước chân sau cùng chào vĩnh biệt đường trần.  Sự chết đến như con đường cụt.  Tôi không còn bước nữa.  Bây giờ tôi chỉ còn quay lại tìm dấu chân xưa. Và bây giờ dấu chân xưa trở thành vô cùng huyền nhiệm linh thiêng.  Tất cả định mệnh hạnh phúc hay đau khổ của tôi trong cõi sống vĩnh hằng hệ tại những dấu chân xưa này.  Tôi đã bước đi trong quá khứ thế nào, thì bây giờ bước chân ấy cũng dẫn tôi vào tương lai như vây.  Bước chân ngang trái sẽ dẫn tôi tới ngang trái.  Bước chân chính trực, chính trực sẽ đem tôi tới đại lộ.  Cái huyền nhiệm của dấu chân xưa thiêng liêng là không tìm, tôi cũng sẽ gặp, cũng phải gặp, như lời Kinh Thánh sau đây:

“Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự trên ngai vinh hiển của Người.  Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê.  Người cho chiên đứng bên phải Người còn dê đứng bên trái…Bấy giờ đức Vua phán cùng những người ở bên phải rằng: Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi từ thủa tạo thiên lập địa… Rồi Đức Vua phán cùng những người ở bên trái rằng: Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành cho tên Ác Quỷ và các thần của nó.” (Mt 25:31-46)

Giờ này, dấu chân xưa thiêng liêng có sức mạnh thần thánh đưa tôi về trời cao hay xuống vực sâu.

Ai cũng có kinh nghiệm dấu chân xưa trong đời sống trần thế.  Ngày thơ tuổi nhỏ.  Tấm hình năm cũ.  Nó đưa ta về những vùng ký ức xa mờ.  Dấu chân xưa oan trái sẽ làm ngày tháng hôm nay của ta ảm đạm.  Dấu chân xưa đẹp thì hôm nay cho ta hạnh phúc ngọt ngào.

Trở lại một bến ga bụi sương, dù năm tháng mù mịt rồi, người xưa đã khuất mà lòng ta cứ gần.  Ghé lại bến đò cũ, dòng sông gợi cho ta bao nhớ nhung.  Dấu chân xưa trong chuyện mình lúc còn sống là thế. Nhưng không ai biết thao thức của người chết đi tìm dấu chân xưa như thế nào.  Đơn giản, là không có ai từ cõi chết về kể chuyện cho ta nghe cả.  Phúc Âm có kể chuyện một người chết đi tìm dấu chân xưa như sau:

Xưa có một nguời giàu, ăn mặc những gấm tía, và hàng mịn; ngày ngày yến tiệc linh đình.  Lại có người ăn mày tên là Lazarô, người ta vứt bỏ bên cổng nhà ông, mình đầy lở lói, ước ao có được miếng thừa dưới bàn ông nhà giàu mà ngốn cho no, lại còn bầy chó hoang liếm các ung nhọt người ấy.  Nhưng xẩy ra là người ăn mày chết, và được các thiên thần đem lên dự tiệc ngay lòng Abraham.  Còn ông nhà giàu cũng chết và được tống táng.

Trong âm phủ giữa những cực hình, ông nhà giàu ấy ngẩng mặt lên, thấy đằng xa Abraham cùng Lazarô nơi lòng ông.  Người ấy mới kêu lên và nói: “Lạy cha Abraham, xin thương xót tôi, và sai Lazarô nhúng đầu ngón tay một chút nước mà thấm dịu lưỡi tôi, vì tôi quằn quại đây trong ngọn lửa này.” Nhưng Abraham nói: “Hỡi con, hãy nhớ lại: suốt đời con đã lãnh cả sự lành phần con, còn Lazarô cũng lãnh, nhưng chỉ là tai với họa.  Bây giờ Lazarô được an ủi nơi đây, và con phải quằn quại đau đớn.  Vả chăng giữa chúng ta và các ngươi, đã cắt ngang định sẵn một vực thẳm, khiến cho tự bên này, ai muốn cũng không thể qua bên các ngươi, và tự bên ấy, người ta không thể quá giang đến được với chúng ta. “ Ông nhà giàu lại nói: “Vậy thì, lạy tổ phụ, xin tổ phụ sai Lazarô đến nhà con, vì con có năm anh em, ngõ hầu Lazarô làm chứng răn dạy chúng, kẻo chúng cũng phải sa vào chốn cực hình này.” Abraham nói: “Chúng đã có Maisen và các tiên tri, chúng hãy nghe lời các ngài.” Người ấy đáp: “Thưa tổ phụ Abraham, không đâu!  Song có ai từ cõi chết mà nói với chúng, tất chúng sẽ hối cải.” Nhưng Abraham bảo người ấy: “Nếu chúng không nghe Maisen và các tiên tri, thì cho dẫu có ai sống lại từ cõi chết, chúng cũng chẳng nghe đâu.” (Lc 16:19-31).

Hai người trong câu chuyện, Lazarô và nhà phú hộ đều bước những dấu chân trong đời.  Bây giờ dấu chân ấy đưa họ đi mỗi người mỗi ngã.  Dấu chân xưa của người nghèo Lazarô đưa ông về Nước Trời với Abraham.  Dấu chân xưa của người giàu đưa ông về cõi vắng mênh mông.

Trong cuộc sống này, ta tìm kỷ niệm dấu chân xưa mà nhiều khi không gặp.  Khi chết rồi vào giờ phán xét, những dấu chân xưa thiêng liêng ấy sẽ tự ý đi tìm ta.  Và, dấu chân này sẽ đưa ta về cõi hệ trọng vô biên.  Hạnh phúc hay gian nan.  Bởi đó, mỗi dấu chân linh hồn đi hôm nay trong cõi đời sẽ là dấu chân thiêng liêng cho ngày mai.

Khi nhớ về kỷ niệm là ta đi tìm dấu chân xưa.  Dấu chân đó có thể là những bước chân trên bến đò, trên con đường nhỏ.  Những dấu chân này là dấu chân trong tình cảm, nó sẽ chấm dứt khi ta chết.  Còn dấu chân xưa thiêng liêng là đời sống thánh thiện hay tội lỗi, công bình hay gian tham, độ lượng hay hẹp hòi, thì khi cuộc đời chấm dứt, những bước chân này mới khởi đầu.

Lạy Chúa, khi con đi tìm kỷ niệm cũ, tìm dấu chân xưa trong tình cảm, thì xin Chúa nhắc nhở con đến dấu chân thiêng liêng, để hôm nay con biết đi những bước chân thật đẹp, hầu bước chân này chuẩn bị cho con bước vào hạnh phúc trong Nước Chúa mai sau.

LM Nguyễn Tầm Thường, S.J.

From: langthangchieutim & Anh chị Thụ Mai gởi

THA THỨ.

THA THỨ.

Một thiền sinh hỏi: “Thưa sư phụ, con đau khổ vì cha mẹ tàn nhẫn, người yêu con ruồng bỏ, anh em phản bội, bạn bè phá hoại… Con phải làm sao để hết oán hờn và thù ghét đây?”
Vị sư phụ đáp: “Con ngồi xuống tịnh tâm, tha thứ hết cho họ.”
Vài hôm sau, người đệ tử trở lại: “Con đã học được tha thứ cho họ sư phụ ạ. Thật nhẹ cả người! Coi như xong!”
Sư phụ đáp: “Chưa xong, con về tịnh tâm, mở hết lòng ra thương yêu họ.”
Người đệ tử gải đầu: “Tha thứ thôi cũng đã quá khó, lại phải thương yêu họ thì… Thôi được, con sẽ làm”
Một tuần sau, người đệ tử trở lại, mặt vui vẻ hẳn, khoe với sư phụ là đã làm được việc thương những người mà trước đây đã từng đối xử tệ bạc với mình.
Sư phụ gật gù bảo: “Tốt! Bây giờ con về tịnh tâm, ghi ơn họ. Nếu không có họ đóng những vai trò đó thì con đâu có cơ hội tiến hóa tâm linh như vậy.”
Người đệ tử trở lại, lần nầy tin tưởng rằng mình đã học xong bài vở. Anh tuyên bố: “Con đã học được và ghi ơn hết mọi người đã cho con cơ hội học được sự tha thứ!”
Sư phụ cười: “Vậy thì con về tịnh tâm lại đi nhé. Họ đã đóng đúng vai trò của họ chứ họ có lầm lỗi gì mà con tha thứ hay không tha thứ.”

SUY NGHĨ :

Câu chuyện thật ý nghĩa, chúng ta có thể nhận ra rằng tha thứ giúp cho chúng ta đóng lại những đau thương, bất công trong quá khứ và nhìn nhận các sự việc rõ ràng để buông xuống. Tha thứ giúp cho chúng ta mở rộng lòng yêu thương, giúp cho ta nhìn lại chính mình đã làm hao phí năng lượng khi đánh mất lòng khoan dung.
Tha thứ chính là một tiến trình tiến hóa tích cực của nội tâm, khi chúng ta thật sự đối diện và buông xuống những đau thương, mất mát, bất công… chúng ta sẽ không còn mang lòng oán hận, giận dữ… từ đó giúp cho chúng ta không nuôi dưỡng những niềm cay đắng, phẫn uất, trả thù… để rồi tạo thêm những điều bất thiện ở hiện tại và tương lai lại phải nhận sự khổ đau.
Qua đó, chúng ta nhận rõ tha thứ giúp cho chúng ta sống an ổn hiện tại và tương lai. Vì vậy, có thể nói rằng “tha thứ cho người khác chính là tha thứ cho chính mình”, vì khi chúng ta buông bỏ lòng thù hận, sẽ giúp cho tâm mình luôn bình an. Tâm bình an sẽ là chất liệu để tạo dựng nên lòng yêu thương từ bi cho mình và cho tất cả.
Đọc và suy ngẫm câu chuyện một lần nữa, chúng ta thấy rõ như một trình tự khi bạn biết tha thứ , bạn sẽ có lại tình thương với những đối tượng đã gây cho mình đau khổ mà bấy lâu mình đánh mất vì thiếu lòng khoan dung , hiện khởi Tâm Từ Bi rộng lớn, nhớ ơn tất cả đã cho chúng ta sự thành tựu này và chợt nhận ra rằng “vạn pháp vốn bình đẳng”.
Trên bước đường tu tập của người con Phật, chúng ta phải cảm ơn những bậc thiện hữu tri thức đã đưa đến cho mình nghịch duyên để chúng ta có cơ hội nâng cao đời sống tâm linh của chính mình. Nghịch tăng thượng duyên là vậy! Thật vậy, nếu lúc nào cũng thuận duyên, cũng đều được quí mến thì ta dễ dàng bị ru ngủ trong niềm tự hào, hãnh diện , ta đang biến mình thành nô lệ cho sự cống cao ngã mạn… tự đánh mất chính mình lúc nào không hay. Vì vậy, vị Sư đã dạy người học trò của mình phải biết ghi ơn những người đã đem đến cho mình những phiền não, oan uổng….để chúng ta có cơ hội nhìn lại chính mình, thực hành và chuyển hóa nội tâm, để nhận chân sự thật “chẳng có ai là người tha thứ và được tha thứ cả!”
Với tôi, việc học cách tha thứ và hành theo những lời dạy của Chư Phật, Chư Tổ không phải đơn giản và dễ dàng nhưng cũng không phải là quá khó nếu mình muốn và tôi đã bắt đầu cho những sự việc nhỏ nhất từ trong cuộc sống của chính mình với mọi người xung quanh…để có được sự bình an hạnh phúc chân thật!

Cổ Đức có câu này: “ Càng buông bỏ dưới chân này.
Ấy là chỗ đứng càng ngày càng cao ”

Từ Nguyễn Kim Bằng gởi

Tham: Cơn Cám Dỗ Thời Đại

Tham: Cơn Cám Dỗ Thời Đại

Nguyễn Trung Tây, SVD

Vietcatholic.net

Sau năm 75, cả nhà tôi đói mờ con mắt. Bố mẹ tôi chạy vắt giò lên cổ nhưng gạo vẫn chạm đáy lu. Sáng anh chị em chúng tôi cứ thế mà gặm sắn luộc. Trưa và chiều, cơm độn với bo bo, năm thì mười họa được bữa thịt hoặc cá, nhưng bao giờ cũng kho mặn chát với muối! Gì chứ muối thì chả bao giờ thiếu ở Việt Nam. Vứt ngoài đường cũng không có mấy người hốt. Hèn chi dư thừa để kho cá kho thịt mặn chát cho đỡ tốn. Tôi tham ăn nổi tiếng trong nhà. Mẹ tôi hay mắng, “Cái thằng… Thùng bát chí thình!”, bởi tôi chuyên viên rình rình, không ai để ý, nhanh tay thò đũa gắp nguyên miếng thịt khúc cá cho thẳng vào miệng, nuốt chửng. Hên, chưa bao giờ chết nghẹt, nhưng tối hôm đó, chết khát! Thì ai biểu! Nguyên một miếng thịt, nguyên một miếng muối nuốt trôi, làm chi mà không nước ừng ực. Khát! Chỉ có nước mới trị được. Cứ thế mà uống, uống như chưa bao giờ được uống. Bụng căng phồng. Chạy bằng thích. Tào Tháo rượt. Ơi chạy! Ơi khát!
Học được bài học nhớ đời. Tôi bớt tham… Nhưng lần khát nhớ đời thứ hai thì tôi không được chọn lựa, bởi cơn khát tới khi thuyền gỗ đang bập bềnh sóng nước. Mờ sáng thuyền âm thầm rời bến. Chiều cùng ngày thuyền tiến thẳng vào hải phận quốc tế. Khi đó mới biết, trên thuyền chỉ có vài can nước. Con thuyền với hơn sáu mươi mạng người, chỉ có từng đó nước, cầm cự được mấy hồi? Lênh đênh phận nghèo với cơn khát bốn ngày, thuyền đỗ bến Marang, Mã Lai. Tôi mắt trắng dã, môi khô nứt nẻ từ dưới khoang thuyền ngước lên mở miệng năn nỉ với nhân viên Hội Trăng Lưỡi Liềm Đỏ đang đứng trên bờ,
— Cô ơi, khát quá… Làm ơn cho xin miếng nước.
Cô nhân viên khuôn mặt trắng hồng quay đi ngay. Khoảng hai phút sau, cô quay lại cùng với mấy người thanh niên lực lưỡng, ai nấy khệ nệ bê trên tay mấy thùng nước sinh tố ướp đá lạnh. Cô vội vàng phân phát cho chúng tôi mỗi mạng người hai hộp nước. Chúng tôi xé hộp, uống ngay. Có nước sinh tố, chúng tôi thôi khát, hồi phục!
Dòng thời gian đẩy tới. Tôi định cư vùng Thung lũng Hoa Vàng, người Mỹ gọi Silicon Valley. Tôi đi học, ra trường, làm việc. Có tí ti tiền lương, tôi hăm hở kiếm tìm mua computer mới và laptop mới. Thế là lang thang ghé hết tiệm này sang tiệm khác, Best Buy, Fry’s Electronics, đủ mặt trên từng cây số. Computer hãng Dell, Best Buy đang on sale. Sony Laptop mỏng dính, Fry’s Electronics đang bán rẻ. Giờ ăn trưa, mấy tên bạn cùng phân khu tranh cãi ầm ĩ một góc phố về high tech và giá cả. Cứ như đám cháy nhà. Nhưng khổ! Làm ở hãng điện tử của Silicon Valley, tên nào chả rành sáu câu vọng cổ mùi rệu,
— Diệu em ơi đây là sự thật… The moment you open your computer box… that moment your computer becomes obsolete!/…Giây phút em khui mở máy vi tính, giây phút đó máy của em biến thành…đồ cổ”!
High tech mà, lúc nào cũng phải đi trước thiên hạ cả mấy chục năm. Thế mới tranh được miếng ăn ngon. Thì đấy, cứ nom đi, Windows 2000 xài chưa xong, Windows Vista xuất hiện, rồi bây giờ đang là mùa Windows 7. Memory, giữa thập niên 90, có được 4Mb là sang trọng kẻ cả lắm rồi. Thấm thoát nhảy cái vèo lên 1Gig, rồi 2, 4. Bây giờ là mấy? Chả biết nữa! Cứ thế đuổi theo, mệt nhoài, thở không ra hơi, bở hơi tai. Hồi xưa tham ăn, bây giờ tham high tech, tôi mua thêm software, cài thêm vào máy memory. Nếu không, máy chạy chậm rì như bà bầu. Ơi khát! Tôi uống hết ly nước này đến ly khác. Nhưng vẫn khát, khát khô cả hồn.
Thập niên 80 có được cassette nhạc 60 phút, 90 phút là vui. Trời mùa thu đỏ rực lá vùng thung lũng hoa vàng, tôi nằm mở nhạc nghe Khánh Ly, Khánh Hà. Hạnh phúc! Bước sang giữa thập niên 90, lần đầu tiên nghe tới chữ CD. Tôi tò mò tìm hiểu. Biết CD rồi, tôi như người ma nhập, bỗng nhiên hóa dại! Say mê CD, nhất là CD bán rẻ, 10 đô 3 CD, tôi hăm hở móc tiền mua cả đống. Nhiều quá, có tới hơn cả ngàn. Chất không hết tủ sách, tôi bỏ hộp (case), lấy đĩa cho vào Album, mỗi Album chứa được 100 CD. Giờ đếm lại, nguyên một ngăn tủ, trên dưới 15 cái Album đựng CD. Tưởng thế là thôi, không khát nữa. Nhưng tôi vẫn khát, vẫn cứ hăm hở tìm kiếm CD. Nhất là mỗi khi tiệm bán CD on sale mùa lễ, Tết. Tôi vác lên vai, tôi như người lên đồng, bị ma nhập, khuân về nhà bằng thích. Hết CD này tới CD khác. Thật thà khai báo thì đến là xấu hổ, bởi có những CD đến ngày hôm nay, tôi tình thiệt cũng chưa có dịp nghe qua, dù chỉ là một lần!
Hồi đó băng nhựa VCR, mở đầu máy coi Cô Gái Đồ Long mê tít thò lò Triệu Minh. Nhưng thoáng một cái, thấy thiên hạ bàn tán xôn xao về đĩa DVD. Ủa, DVD là cái chi vậy cà. Bạn tôi nửa đùa nửa thật,
— Muốn biết, cứ việc tới tiệm…
Tôi lái xe tới tiệm. Đúng như lời người bạn, tôi thấy liền DVD phim thời xưa, Cleopatra, Ben Hur, đủ cả, coi sướng cả mắt. Màn ảnh rõ tưởng như giơ tay ra là chạm được người đẹp mắt tím Elizabeth Taylor. Thế là thằng người chết khát chạy rông khắp cùng các tiệm nhặt mua cho bằng được DVD phim ưa thích. Mà lỡ nhìn thấy DVD không thích nhưng đang bán rẻ, mua luôn cho đã cơn khát.
DVD có rồi, nhưng cần tới đầu máy DVD, thế là lại hối hả chạy ra tiệm kiếm đầu máy DVD. Nhưng có đầu máy mà không có TV loại chiến thì làm sao mà đã cơn khát! Thế là lệ khệ bê luôn về nhà màn ảnh TV bự tổ chảng coi cho đã con mắt. Lúc đó mới thấy căn phòng khách nhỏ bằng cái lỗ mũi chứa làm sao cho nổi cái TV super size mới mua. Vậy là liều, tôi ôm nguyên cái TV cũ nhưng còn chạy ngon lành, mang thẳng ra tiệm bán đồ cũ Goodwill, ký tặng tại chỗ!
Ghé vào apartment chơi, mẹ tôi tinh mắt, hỏi liền,
— Ủa, cái TV cũ đâu rồi?
Tôi ngần ngại, ấp úng thật thà xưng tội. Mẹ tôi thoáng cau mặt,
— Mày, chỉ được cái phí của!
Tôi phân bua, một câu nói đụng chạm lung tung,
— Bên Mỹ mà mẹ, đâu phải như bên Việt Nam…
Mẹ tôi yên lặng, không nói chi. Nhưng nhìn mặt, tôi biết mẹ tôi không vui!
Khoảng một thời gian sau, ghé vào nhà người bạn, tôi giật mình nhận ra hắn có cái TV cùng hiệu Sony, nhưng đời mới hơn. Màn ảnh TV lớn hơn, nét rõ hơn cái TV tôi mới mua cách đây mấy tháng. Chiều Chúa Nhật hôm đó rảnh rỗi, tôi ngồi uống mấy lon bia với người bạn, cùng coi TV chương trình ca nhạc mới ra lò. Nhìn màn ảnh sân khấu với đèn sáng lấp lánh, khuôn mặt ca sĩ đẹp rực rỡ qua màn ảnh mới tinh, tôi tiếc hùi hụi cho cái TV mới mua cách đây mấy tháng. Đầu óc tôi lơ mơ nghĩ ngợi lung tung. Cơn khát thời đại cứ thế mà hành!
Tôi có người bạn thân cùng thời đi học. Thời sinh viên hắn cũng nghèo xơ xác như tôi bây giờ. Hai đứa phải thuê chung một căn phòng, nằm dưới đất. Lớp tối học xong, về tới nhà mười giờ khuya, nấu mì gói ăn đều đều. Nghèo! Hai đứa hồi sinh viên thiệt tình là trên răng dưới…khố! Giờ hắn ra trường, kỹ sư trưởng, có gia đình, đã mua nhà. Có lần tôi ghé vào gửi nhờ mấy thùng sách. Nhìn nhà xe của người bạn, tự nhiên tôi ngần ngại, bởi thấy trong đó đồ đạc chất cao có ngọn. Tã trẻ con mấy thùng xếp lớp lớp đụng sát trần. Màn ảnh monitor của computer mấy thùng giấy còn nguyên chưa bóc tem. La liệt… Và còn cả trăm thứ hầm bà lằng khác mà tôi không biết tên… Garage chứa hai xe, bạn tôi một, vợ hắn một. Từng đó thứ nhốt trong garage. Tôi thật sự cũng chẳng có chỗ để mà bước đi.
Thấy tôi cứ chiếu tia nhìn đăm đăm vào mấy thùng tã chất cao, bạn tôi phân bua,
— Bà xã thấy Costco bán on sale, khuân về nhà mấy thùng…
Nhìn đồ đạc chất đống ngổn ngang, bạn tôi giải thích,
— Hai đứa, đi đâu mà thấy đồ bán rẻ là tạt vào ngay…
Thấy mặt tôi ngớ ngấn như người dở hơi, bạn tôi nửa đùa nửa thật,
— Ông cứ lấy vợ đi… Biết liền…
Bạn tôi có gia đình, con mấy đứa. Phải tích cốc phòng cơ. Cho nên không lạ nếu bạn tôi gặp tã bán rẻ, ghé vào mua ngay. Nhưng còn mấy thùng màn ảnh monitor? Nghe tới chữ màn ảnh, người vợ cũng là bạn học thời xưa nói liền,
— Anh ấy, cứ cuối tuần là ghé vào Fry’s Electronics. Giờ xếp đó cả đống monitor, chả biết làm gì!?
Tôi suy nghĩ…tã cho con, bạn tôi không có chọn lựa, tương tự như lần vượt biên, tôi khát; nhưng màn ảnh computer, thì rõ ràng là khác…
Mùa Giáng Sinh về, cũng như mọi người dưới bầu trời Bắc Mỹ, đại gia đình chúng tôi tụ họp tại căn nhà của mẹ ăn tiệc Noel, rồi chia quà. Chị tôi gọi tên từng đứa cháu, tuần tự, từ nhỏ tới lớn. Tôi thấy các tên nhóc đều giống nhau ở một điểm: chẳng có tên nào, sau khi “khui thùng”, chịu khó để ra một hay hai phút, ngắm nghiá món quà Giáng Sinh mới nhận được từ bà, bố mẹ, các dì, các cậu. Nhận được gói quà, tên nào cũng vội vàng xé bỏ tờ giấy gói xinh đẹp, lục tung bên trong tìm kiếm. Thấy chân dung món quà rồi, hắn vội vàng liệng bỏ không thương tiếc món quà mới tinh, rồi hấp tấp quay sang gói quà bên cạnh; rồi lại vội vàng xé bỏ, lại tìm kiếm, lại quẳng bỏ không ngần ngại để quay sang gói quà khác. Cứ thế! Tôi ái ngại và thiệt tình là khó chịu khi nhìn thấy món quà xếp chữ mà anh tôi cất công tìm kiếm mấy tiếng đồng hồ trong thương xá đã được cô con gái rượu sáu tuổi đón nhận rất hững hờ. Tôi thắc mắc nếu cháu tôi chỉ nhận được một món quà Giáng Sinh duy nhất, hắn sẽ còn ơ hờ với bảng hình xếp chữ hay không?
Tôi chia sẻ nhận xét ở trên với người bạn. Thật bất ngờ người mẹ ba con cũng gật đầu đồng ý với tôi. Nhưng không chỉ dừng lại ở cái gật đầu, hai vợ chồng cô quyết định mùa Giáng Sinh vừa qua, thay vì dùng số tiền mua quà Noel cho mấy người con, họ đã tặng hết số tiền đó cho cơ quan từ thiện Salvation Armies. Tôi thiệt tình ngạc nhiên, hỏi liền,
— Ủa! Bộ không sợ mấy cháu tụi hắn buồn hay sao?
Bạn tôi gật đầu với lời nhận xét,
— Ông nói đúng. Hai vợ chồng cũng phải bàn với nhau, phải nói chuyện với mấy cháu, giải thích rõ ràng, là ba cháu vẫn nhận được quà Giáng Sinh từ bố mẹ. Nhưng số tiền dùng để mua quà Noel sẽ được tặng cho người nghèo.
Bạn tôi nói tiếp,
— Tôi còn phải cẩn thận nói thêm, “Bố mẹ muốn tụi con phải biết nghĩ đến người khác. Đồng thời học được bài học bớt đi lòng tham…”
Có một khoảng thời gian hiện tượng Occupy diễn ra nhiều nơi trên thế giới. Occupy thoạt tiên xảy ra tại Wall Street vào ngày 17 tháng 9 năm 2011. Nhiều người kéo về Wall Street biểu tình phản đối lòng tham của những người phú hộ thiên niên kỷ thứ ba. Xuất hiện trên màn ảnh TV bảng hiệu của người biểu tình, tôi đọc được hàng chữ, “Share the world’s resources/Hãy chia sẻ tài nguyên thế giới”; hoặc, “Stop being greedy immediately/Chấm dứt ngay lòng tham không đáy”. Phong trào Occupy ngày càng lan rộng trên nước Mỹ và toàn cầu. Tại San Francisco, “Occupy San Francisco”. Tại Tokyo, “Occupy Tokyo”. Tại London, “Occupy London”. Tại Sydney, Melbourne, phố lớn Úc Châu, “Occupy Sydney”, “Occupy Melbourne”; và thêm nhiều thành phố lớn trên thế giới. Người người tụ tập, giơ cao biểu ngữ phản đối lòng tham không đáy của những nhà tài phiệt.
Người Do Thái có câu chuyện khá độc đáo về cơn khát. Theo như câu chuyện tại một phố kia có ông phú hộ, ngày ngày ông khoác vào người bộ quần áo sang trọng nhất, đẹp rực rỡ nhất cho những yến tiệc linh đình thâu đêm suốt sáng. Nhưng cắc cớ một điều, nằm ngay trước cửa nhà ông phú hộ có người hàng xóm hành khất ghẻ lở đầy mình. Người hành khất bần hàn chỉ có một giấc mơ nhỏ nhoi là được ăn những mảnh vụn thức ăn dư thừa rơi từ bàn ăn phú hộ. Nhưng rất tiếc ước mơ nhỏ nhoi này cũng không bao giờ trở thành hiện thực. Dòng đời đẩy tới, cuối cùng ông phú hộ nhắm mắt buông xuôi hai tay, để rồi ôm vào lòng “one way ticket to hell”! Dưới hỏa ngục, vào một ngày kia ngước mắt lên, ông phú hộ nhìn thấy Ông Trời. Thấy Ông Trời nhân hậu, ông phú hộ mở miệng năn nỉ xin một giọt nước, chỉ một giọt nước mà thôi, bởi ông đang khát khô với những ngọn lửa nóng trong lò lửa bừng bừng thiêu đốt! Nhưng trước lời năn nỉ nhỏ nhoi của ông phú hộ, Trời lắc đầu, nói ngay,
— Trễ quá rồi con! Trễ quá rồi!
Một giọt nước chẳng là chi. Một trăm giọt nước cộng lại hóa ra một chén nước lạnh cũng không là gì. Không ai buôn bán một giọt nước. Chẳng ai nỡ lòng từ chối một chén nước lạnh với người qua đường. Hồi xưa tôi khát, mở miệng xin nước với nhân viên Hội Trăng Lưỡi Liềm Đỏ, họ cho ngay. Nhưng thật lạ lùng, yêu cầu nhỏ nhoi, chỉ xin một giọt nước làm nguội đầu lưỡi của ông nhà giàu trong Hỏa Ngục cũng bị Ông Trời nhân hậu thẳng tay từ chối.
Tôi nghĩ tôi bị cơn khát thời đại hành như ma hành bởi THAM. Hồi ở Việt Nam, tôi tham ăn, hay thò đũa gắp nguyên khúc cá miếng thịt kho mặn chát cho vào miệng, nuốt trôi. Hên là chưa chết nghẹn, chỉ bị khát!
Bởi tham cho nên gặp CD, DVD bán rẻ, dù có là CD hoặc DVD chẳng phải loại mình ưa thích, cũng khuân vác về nhà chật chội căn phòng chung cư bé tí ti.
Bởi tham, cho nên tôi cứ như con bò, ngong ngóng nhìn đồng cỏ xanh tươi của hàng xóm, mà quên đi cỏ xanh ngay trong vườn nhà, với là tới; cho nên có lần đã dám quẳng bỏ nguyên cái TV đang chạy ngon lành!
Bởi tham, cho nên tôi hóa ra người chết khát, cứ ăn, cứ đổ vào trong bao tử bao nhiêu thìa muối, cho nên khát, khát dài dài!
Lòng tham, như một định luật, bao giờ cũng dẫn tới những cơn khát. Lòng tham càng cao, cơn khát càng nhiều!
Tôi hy vọng, chỉ có bớt đi lòng tham lam, khi đó tôi sẽ thôi, không bị hành hạ bởi những cơn khát, trong thiên niên kỷ thứ ba, tôi gọi “cơn cám dỗ thời đại!”.
□ Nguyễn Trung Tây, SVD
www.nguyentrungtay.com

Sống để yêu và yêu để sống

Sống để yêu và yêu để sống
Nhân Ngày Quốc Tế Phụ Nữ, 8.3

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Vietcatholic.net

1. Tình yêu và thời gian

Ngày xưa các vị Thần Hạnh Phúc, Khổ Đau,Tình Yêu,Giàu Sang và nhiều vị khác nữa cùng sống chung với nhau trên một hoang đảo. Một hôm, cơn đại hồng thuỷ tràn đến, hòn đảo xinh xắn sắp chìm trong biển nước.Tất cả các vị Thần đều chuẩn bị thuyền để vượt biển vào đất liền lánh nạn.Riêng Thần Tình Yêu vì quá nghèo nên không có nổi một chiếc thuyền để ra đi.Thần đành ngồi im lặng đợi chờ đến giây phút cuối cùng mới quyết định quá giang các vị Thần khác.

Khi Thần Giàu Sang đi ngang qua,Thần Tình Yêu xin : Anh mang tôi đi cùng với!

Không được đâu, tôi có biết bao vàng bạc quý giá phải mang theo, sao còn chỗ cho bạn.

Thần Đau Khổ đến gần. Thần Tình Yêu nài nỉ: Anh cho tôi đi với nhé!

Tôi bất hạnh và buồn chán quá,tôi chỉ muốn ở một mình thôi.

Thần Hạnh Phúc đi ngang qua cũng thế. Thần quá hạnh phúc đến nổi không nghe được tiếng kêu cứu của Thần Tình Yêu.

Bỗng nhiên có giọng nói của một cụ già : Này tình yêu, tôi sẽ đưa anh vào đất liền.

Thần Tình Yêu nghe thế liền chạy nhanh đến thuyền của cụ già.Quá vui mừng vì thoát nạn,Thần Tình Yêu quên hỏi tên cụ già tốt bụng.

Khi tất cả các vị thần đều đến được đất liền, cụ già lẳng lặng bỏ đi mất. Khi đó Thần Tình Yêu mới sực nhớ là đã quên cám ơn người đã giúp mình thoát nạn liền quay sang hỏi Thần Kiến Thức : Thưa ông, cụ già vừa giúp tôi khi nãy tên gì vậy?
Thần Kiến Thức đáp: Đó là Thần Thời Gian.

Thần Thời Gian ư ? Nhưng vì sao ông ta lại giúp tôi ?

Thần Kiến Thức mỉm cười : Vì chỉ có thời gian mới có thể hiểu được tình yêu vĩ đại như thế nào. (Tuổi trẻ Chúa Nhật, số 44/2000).

Tình yêu và thời gian là hai phạm trù khác biệt nhưng lại có tương quan chặt chẽ.Thời gian nuôi dưỡng tình yêu. Thời gian đo lường tình yêu.Tình yêu lớn lên hay lụi tàn theo thời gian.Sống trong thời gian là yêu để sống.Thời gian không có tình yêu sẽ lạnh lùng buồn chán.Tình yêu ý nghĩa hoá và thắp hồn cho thời gian. Bởi đó, kẻ đang yêu là người sống trong thời gian với đầy ắp niềm vui êm ả. Kẻ biết yêu là người biết nhìn thời gian như dòng ngọc bạc.

Những người yêu nhau, họ muốn đi đến kết hôn với nhau. Họ đã có một thời gian dài để quen biết. Tìm hiểu về gia phong,về tính tình,về sở thích của nhau. Chính qua thời gian họ hợp nhau. Tình yêu nảy nở. Ngày cưới, tình yêu của họ đơm hoa kết trái.
Tình yêu rất kỳ diệu. Nó gõ hồn ta vào những giờ không định như Xuân Diệu viết:

Làm sao cắt nghĩa được tình yêu.
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều,
nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,
bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu.
Tình yêu rất nhạy cảm. Chỉ một lần chạm tay nhau mà về nhà mang bệnh tương tư :

Hôm qua lỡ chạm tay nhau,
về nhà đó có bị đau không nào?
Riêng đây chẳng biết vì sao,
chạm tay lần ấy đau vào đến tim.

Tình yêu rất mạnh mẽ.Khi yêu thì vượt qua tất cả mọi thử thách,mọi khó khăn để có nhau. Ca dao đúc kết:

Yêu nhau mấy núi cũng trèo,mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua.
Yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.
Yêu nhau bất kể giàu nghèo,dù cho lên ải xuống đèo cũng cam.

Yêu nhau chẳng quản chiếu giường,
Một tàu lá chuối che sương cũng tình.

Thiếp xa chàng ăn vàng cũng đắng,
Thiếp gần chàng ăn muối trắng cũng ngon.
Tình yêu rất cần thời gian dành cho nhau.
Năng mưa thì nước năng đầy
Anh năng lui tới mẹ thầy em thương.

Tình yêu cho hai người nên một, vui buồn, hạnh phúc đau khổ luôn có nhau chia sẽ.

Lạ chưa vẫn ở bên em,
mà anh cứ nhớ cứ thèm gần hơn.
Cứ lo em giận em hờn,
mãi mê anh để cô đơn em buồn.
Cớ chi chắp được đôi hồn,
như chim đôi cánh lượn hôn mây trời.
Cớ chi đi suốt đường đời,
như hình với bóng sóng đôi tháng ngày.
Em cười anh cũng vui lây.
Em đau anh lại lệ cay xót thầm.
Qua bao xao động thăng trầm,
tâm ca đựơc mấy tri âm không lời.
Tình yêu là thế em ơi.
Hai người mà hoá một người trăm năm.

Tình yêu thật đẹp và thật kỳ diệu. Vì thế, quyết định sống chung với một người suốt đời là rất quan trọng.Quyết định mà không hiểu biết đó là liều lĩnh và mù quáng sẽ dẫn tới bất hạnh.Sự hiểu biết về mình và đối tượng mình chọn lựa luôn cần thời gian dài khá dài tìm hiểu,thử thách và đo lường.

Thời gian chính là thước đo tình yêu.Chân thật hay giả dối,thuỷ chung hay hời hợt chóng qua,thời gian sẽ xác định cho một tình yêu. Bởi vậy ông bà ta khôn ngoan khuyên con cháu cần phải có thời gian dài để tìm hiểu kỹ lưỡng rồi mới tiến tới hôn nhân.

Con người được sinh ra từ tình yêu, lớn lên trong thời gian rồi trở về với cội nguồn tình yêu.Trong kinh điển An giáo có lời chép: “Tất cả mọi hữu thể đều do tình yêu mà sinh ra, tất cả mọi hữu thể một khi đã sinh ra đựoc sống nhờ tình yêu nâng đỡ, tất cả mọi hữu thể khi chết đều trở về trong tình yêu” ( Taittirya Upanisad III,6).

2. Nét đẹp của phụ nữ

Thời gian yêu nhau là thời gian đẹp nhất.Có nhiều yếu tố dệt nên tình yêu hạnh phúc. Phẩm chất đẹp nhất nơi người phụ nữ là dịu dàng, hiền thục. Phẩm chất đẹp nhất nơi người đàn ông đó là quãng đại, bao dung.Phẩm chất tốt đẹp ấy được kết tinh trong quãng đời sống với cha mẹ, được giáo dục trong gia đình đạo hạnh.

Ca dao khuyên con gái :
Chim khôn làm tổ lựa cành
Gái khôn tìm chốn trai lành gởi thân.

Và khuyên con trai:
Làm trai lấy được vợ hiền
Như cầm đồng tiền mua được của ngon.

Người vợ hiền thục được Thánh Kinh ca tụng.Sách Huấn Ca viết : Phúc thay ai cưới được vợ hiền. Vợ đảm đang làm cho chồng vui sướng. Vợ hiền là tốt số vận may dành cho ai biết kính sợ Chúa. Phúc thay ai cưới được vợ hiền, tuổi thọ người ấy sẽ tăng lên gấp đôi.Có người vợ hiền trong gia đình thì cửa nhà ngăn nắp. Người vợ hiền đẹp như vầng hồng trên chốn cao xanh của Đức Chúa. (Hc 26,16-18).
Cha mẹ hiền lành là điều hạnh phúc cho con cái.

Chẳng tham nhà ngói ba toà
Tham vì một nổi mẹ cha anh hiền

Hay là:
Kiếm nơi cha thảo mẹ hiền
Gởi thân khua sớm bạc tiền chẳng tham.

Sự hiền lành,dễ thương dễ mến chính là nhân đức căn bản giúp người chồng, người vợ sống quãng đại, xây đắp tổ ấm gia đình. Chúa Giêsu mời gọi hãy học với Ngài : Hãy học cùng Thầy vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Hiền lành và khiêm nhường là nền tảng của sự thánh thiện. Đó là con đường nên thánh của người Kitô hữu.

Nhân đức được rèn luyện qua dòng thời gian. Phẩm hạnh đựoc kết tinh qua năm tháng được giáo dục. Con đường nên hoàn thiện cho mỗi người trải dài suốt dòng đời.

Có câu chuyện huyền thoại kể rằng: Một hôm Thiền Sư già kia, nói với đệ tử của mình rằng: “Này anh bạn, ta có một điều tệ nhất là: ta không hiểu biết gì về người phụ nữ cả. Hãy nói cho ta biết phụ nữ là gì đi ?”

Người học trò mỉm cười nói rằng: “Thuở mới sinh ra trái đất, ông thợ Tạo Hóa chỉ dựng nên có một mình ông Ađam, ông lang thang một mình trong vườn địa đàng mênh mông rộng lớn, trong khi các loài vật khác đều có cặp có đôi quấn quýt bên nhau. Thấy ông cô đơn hiu quạnh, thơ thẩn đi vào đi ra. Tạo Hóa thấy thế mà thương, bèn nghĩ rằng: mình phải tạo dựng cho Ađam một người bạn đường thôi, để nó sống một mình cũng không tốt. Lúc ấy Tạo Hóa mới nhớ ra rằng: lúc trước mình tạo dựng muôn vật từ hư vô, nay mọi sự đã trở nên hiện hữu, sao mình không lấy chính cái hiện hữu để tạo thêm một vật nữa nhỉ ?

Trong lúc nan giải, Tạo Hóa suy nghĩ một hồi lâu, rồi quyết định rằng sẽ tập trung tất cả vạn vật lại lấy mỗi thứ một tí để chế tạo ra người phụ nữ. Và Tạo Hóa đã lấy vẻ đầy đặn của mặt trăng tròn 16, đường cong của các loại dây leo, dáng run rẩy của hoa cỏ, nét mảnh khảnh của lau sậy, màu sắc rực rở trên cánh bướm, sự nhẹ nhàng của chiếc lá, sự tinh tế ở đầu vòi voi, cái nhìn ngây thơ của nai tơ, cái xúm xít của đàn ong mật, ánh sáng rực rỡ của mặt trời, nét xa xăm của tầng mây, sự lay động của làn gió, sự lộng lẫy kiêu sa của chim công, chất cứng rắn của kim cương, vị ngọt ngào của trái chín, lòng tàn nhẫn của hùm beo, sức thiêu đốt của ngọn lửa, khí lạnh lẽo của băng tuyết, tiếng kêu khắc khoải của chim quyên, tính nết dối trá của cò vạc v.v…, nói chung, tất cả mọi thứ, mỗi thứ một tí.

Tạo Hóa đem hết thảy những thứ đó, nhào nặn với khúc xương sườn của Ađam để tạo thành người phụ nữ (người phụ nữ phức tạp, với đầy đủ mọi sắc thái, mọi tinh chất của vũ trụ; nên không thiếu một thứ gì mà không có trong con người phụ nữ ấy) rồi tặng cho Ađam”.

Người học trò vừa kể đến đây, chưa kịp đưa ra câu kết, thì ông thầy già liền vội vàng ngăn lại: “Đừng nói gì thêm nữa… điều tệ nhất của ta đã hết hạn!”.

Vâng, người phụ nữ với đầy đủ mọi sắc thái, cá tính, không thiếu một tính chất gì của vũ trụ như thế; nên đã làm cho biết bao nhiêu người trong giới đàn ông, không biết phải đối xử thế nào cho phải, hay suốt đời đàn ông cứ phải chiều phụ nữ ăn đi ăn lại quả trái cấm… Mình nói như thế không biết có quá đáng không nhỉ ?

Nhân loại ngày nay đang biến chuyển nhiều, đang từ từ trả lại cho phụ nữ chỗ đứng và phẩm giá của mình. Mặc khải trong Kinh Thánh cũng đã phần nào soi sáng chúng ta về quá trình biến chuyển trên. Là “Ađam mới”, là “Trưởng Tử trong mọi loài thọ sinh”, Chúa Giêsu qui tụ mọi người lại thành một khối, đàn ông cùng với đàn bà, vượt lên trên mọi ranh giới mà xã hội loài người đã dựng lên trước đó.

Nhờ vậy, con người dù là nam hay nữ hằng ngày khám phá rằng mình nằm trong một mạng lưới gồm vô số tương quan với thế giới xung quanh, trong đó có Thiên Chúa và có anh em. Trong mạng lưới ấy, mỗi người, nam hay nữ, đều góp phần của mình. Bước thăng tiến này của nhân loại là do Đức Kitô dẫn đầu và điều khiển, vì Người là “Anpha và Ômêga”. Nhờ vậy, “không còn chuyện Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà, nhưng tất cả chỉ là một, trong Đức Kitô” ( Gl 3, 28 )

Trong đời sống thiêng liêng của người Kitô hữu, Đức Maria là người phụ nữ tuyệt vời hơn mọi người phụ nữ: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,42). Đức Maria là gương mẫu của mọi người phụ nữ, nét đẹp từ trong tâm hồn, lời nói và đời sống của Mẹ nâng cao phẩm giá giới phụ nữ.

Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Mẹ, Mẹ có Phúc hơn mọi người phụ nữ. Mẹ là Nữ Hoàng của mọi người phụ nữ…Người Phụ Nữ được Thiên Chúa ưu ái đặc tuyển của muôn đời đã từng rất thương đau, nhưng cuối cùng vẫn uy hùng bước vào vinh quang như đạo binh xếp hàng vào trận. Dòng dõi của Người Nữ Diễm Phúc luôn mãi ngời sáng giữa lòng nhân loại hôm nay.

3. Sống để yêu và yêu để sống

Thiên Chúa là tình yêu và là thời gian. Sống giữa cuộc đời để yêu thương nhau. Đó là hồng ân diệu vợi mà Thiên Chúa ban tặng cho mỗi con người. Thánh Gioan đã khẳng định điều đó khi viết: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa” ( 1Ga 4,8).

Sống để yêu và yêu để sống. Tình yêu cho cuộc sống màu xanh. Thời gian luôn đong đầy hạnh phúc. Vì thế phải yêu cho thật tình đừng dối gian nhau. Yêu cho thật nhiều không hề toan tính. Chúa Giêsu đã tha thiết kêu mời: Hãy yêu nhau “Như Thầy đã yêu anh em” (Ga 15,12).Chúa đã yêu bằng hành động cụ thể là hy sinh cho người mình yêu. Khi yêu nhau, người ta có thể hy sinh cho nhau thời giờ, tiền bạc, sức khỏe, công việc…Hy sinh cao cả nhất là hy sinh mạng sống “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Chúa đã thực thi sự hy sinh cao độ ấy “ Đức Kitô đã chết vì chúng ta” ( Rm 5,6; Ep 5,2; 1Ga 3,16), để chúng ta yêu thương “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta phải thương yêu nhau” (1 Ga 4,19), nhờ đó mà “niềm vui được nên trọn vẹn” (Ga 15,9). Tình yêu thật vĩ đại cho những ai sống theo gương Chúa Giêsu trong hành trình cuộc đời mình.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Những vần thơ vui nhân ngày 8.3 (sưu tầm)

1. Phân bua:
Hôm nay mồng tám tháng ba.
Giá hoa thì đắt, giá quà thì cao
Tiền lương tiêu hết hồi nào
Thù lao, tiền thưởng chẳng trao lễ này…
Ai đem quà cáp kềnh càng
Riêng tôi dâng tặng cho nàng thơ thôi
Hoa hồng mấy bữa héo rồi
Còn thơ, thơ tuyệt vời là thơ

2. Tự trào
Là đàn ông tức là mê rửa chén
Mơ lau nhà và háo hức lau xe
Làm đàn ông là tựa cửa đợi vợ về
Nhanh nhảu chạy ra đỡ làn, đỡ nón
Dịu dàng bằng cánh tay năm ngón
Hỏi nàng xem có uống nước không?
Rồi bưng lên trên khay nhỏ màu hồng
Nước giải khát, khăn lau tay, xí muội…

3. Khổ sở
Hôm nay mồng tám tháng ba
Đàn ông xách gói chạy ra chạy vào
Mua hoa mua quà ào ào
Tiền đâu trong túi cứ nhào nhào ra
Hôm sau mồng chín tháng ba
Lục lọi trong túi tiền đâu mất rồi
Mì tôm cả tháng đến hồi
Cố nhai cố nuốt xong rồi tháng ba.

4. Đùa tí
Hôm nay mồng tám tháng ba
Chị em phấn khởi đi ra đi vào
Đàn ông kính cẩn cúi chào
Chị em phấn khởi đi vào đi ra…
Hôm sau mồng chín tháng ba
Chị em tưởng bở đi ra đi vào
Đàn ông hổng có cúi chào
Chị em tiu nghỉu hết vào lại ra…

Chúc quý chị em tận hưởng ngày 8-3 thật vui vẻ trong sự quan tâm săn sóc nhiệt tình của các đấng mày râu!

“Biển nhớ tên em gọi về…”

“Biển nhớ tên em gọi về…”

Lm. VĨNH SANG, DCCT

Chuacuuthe.com

bn

VRNs(10.03.2014) – Sài Gòn-  Vào Mùa Chay, Hội Thánh giới thiệu với chúng ta những gương mặt, qua đó, tình thương và quyền năng của Chúa được biểu lộ một cách rõ rệt trong cuộc đời của họ. Một trong những gương mặt tiêu biểu đó, chính là Môsê.

Bài đọc thứ nhất trong Kinh Sách ngày thứ sáu sau Lễ Tro đã bắt đầu giới thiệu gương mặt này. Môsê được nói đến trong sách Xuất Hành. Ông sinh ra trong một hoàn cảnh nghiệt ngã, Pharaô đã ra lệnh giết chết tất cả các bé trai Do Thái khi chào đời, mẹ ông lén lút nuôi ông, nhưng không thể kéo dài lâu được nữa, bèn bỏ con mình vào một cái giỏ thả trôi sông, xuôi theo giòng nước, nơi có công chúa của Ai Cập đang tắm. Cô chị khôn ngoan của em bé vẫn lần mò theo dõi cái giỏ đang lững lờ trôi trên sông. Công chúa Ai Cập đã vớt được cái giỏ có chú bé nằm trong đó, nàng nhận bé làm con nuôi, qua trung gian của chị bé, công chúa nhờ chính mẹ bé cho bé bú với tư cách là người vú nuôi. Tên Môsê của em bé có ý nghĩa là được vớt từ nước lên ( Xh 2, 1 – 10 ).

Câu 11 – 13, chương 2, sách Xuất Hành kể lại rằng: Môsê lớn lên trong triều đình của người Ai Cập, nhưng lòng ông vẫn nhớ và hướng về đồng bào ruột thịt của mình đang chịu cảnh nô lệ khổ đau, chính giòng sữa mà mẹ ông cho ông bú đã nuôi tâm hồn ông vẫn mãi là người Do Thái chứ không phải là người Ai Cập. Kình Thánh nói vỏn vẹn một câu: “Ông ra ngoài thăm anh em đồng bào và thấy những việc khổ sai họ phải làm” ( c. 11 ), chỉ một câu ấy thôi đủ để diễn tả lòng ông Môsê. Ra ngoài, ông ra khỏi chăn êm nệm ấm, ra ngoài, ông ra khỏi sự phú quí giàu sang, ra ngoài, ông ra khỏi quyền cao chức trọng, ra ngoài, ông ra khỏi những đặc ân đặc lợi.

Xướng đáp Kinh Sách còn nhận định như sau: “Nhờ Đức Tin, ông Môsê khi lớn lên đã từ chối không chịu cho người ta gọi là con của con gái vua Pharaô; ông thà chịu ngược đãi cùng với dân Thiên Chúa còn hơn được hưởng cái sung sướng chóng qua“. Môsê đã chọn lập trường khổ chung cái khổ của dân, đau chung cái đau của dân, chia sẻ nỗi đằng cay với dân của mình nhờ đức tin, cho dù ông đang đầy đủ điều kiện sống trong bình an, sung sướng. Ông không cần tìm, không cần thỏa hiệp, không cần chạy theo tâng bốc kẻ quyền thế, không cần vào hùa chà đạp người khác, ông vẫn có đầy đủ điều kiện để sống giàu sang phú quí.

Nhớ cách đây không lâu, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chia sẻ với mọi người về sứ mạng mục tử của ngài là: “mang lấy mùi chiên”. Chắc chắn mùi chiên không lấy gì là thơm tho, vì hiện nay rất nhiều chiên bị đọa đày, bị đau khổ, bị hành hạ, bị loại trừ, bị đàn áp. Chẳng có chiên nào bị đọa đày, bị đau khổ, bị hành hạ, bị loại trừ, bị đàn áp mà lại thơm tho cả, chúng mang đầy thương tích, thân mình bị ứa máu, lở loét, lấm lem và dơ bẩn. Nhưng mang lấy mùi chiên cũng là mang lấy mùi của Con Chiên Thiên Chúa, Con Chiên của vinh quang, chiến thắng sự dữ, đem lại sự sống đời dời, Con Chiên thơm mùi cây gỗ hồng phúc, Con Chiên thơm mùi máu cứu độ, Con Chiên thơm mùi bánh trường sinh. Bánh trường sinh, máu cứu độ, gỗ hồng phúc từ thân mình đầy những vết thương.

Ông Môsê không thể nào quên mình từ đâu tới, mình ở đâu ra, nơi nào là cội nguồn của mình, ông không thể nào quên mà quay lưng với anh em cốt nhục của mình. Tiếng sóng của giòng sông vẫn vang dội trong ông, trong hồn ông, nhắc ông quay về với đất nước, với dân tộc, với lòng tin, với cội nguồn. Nhắc ông chấp nhận sự chịu ngược đãi để được đồng hành với cội nguồn của ông. Chính ý thức này đưa ông tới sứ mạng mà Chúa sẽ chọn ông.

Có tiếng sóng biển của cội nguồn nào thức tỉnh những ai đang tìm thỏa hiệp, đon đả quỵ luỵ, và cấu kết với sự dữ không nhỉ ?

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

VÀO HOANG ĐỊA

VÀO HOANG ĐỊA

TGM Ngô Quang Kiệt

Ai yêu bóng đá đều say mê theo dõi những trận đấu đỉnh cao giữa các đội ngoại hạng Anh, hoặc giữa các đội tranh Cúp C1.  Ta say mê vì các cầu thủ siêu hạng phô diễn kỹ thuật cá nhân điêu luyện, các đội bóng di chuyển chiến thuật kỳ ảo, các bài bản tinh vi của các huấn luyện viên bậc thầy, các pha phối hợp đẹp mắt giữa các cầu thủ.  Không phải tự nhiên mà các cầu thủ chơi bóng giỏi đến mức độ nghệ thuật như thế.  Họ phải mất nhiều thời gian tập luyện. Tập luyện để đạt được kỹ thuật cá nhân điêu luyện.  Tập luyện để có thể lực dẻo dai.  Tập luyện để có những xử lý thông minh theo tình huống. Tập luyện để hiểu nhau tiến đến những pha phối hợp nhịp nhàng ăn ý.  Những buổi tập rất nghiêm ngặt, đòi hỏi cầu thủ phải có quyết tâm cao, có tinh thần kỷ luật nghiêm túc.  Ai không chịu nổi các bài tập khó, sẽ bỏ cuộc.  Ai vượt qua được những buổi tập nghiêm túc sẽ trở thành những cầu thủ giỏi.

Đời sống tâm linh là một cuộc chiến đấu.  Chiến đấu với ba thù: ma quỷ, xác thịt, thế gian.  Để có đủ khả năng chiến đấu, ta phải được rèn luyện, phải trải qua những thử thách.  Đức Giêsu, sau khi chịu phép rửa, được Thánh Thần đưa vào hoang địa để chịu thử thách.

Hoang địa là nơi hoang vu không nhà không cửa, không người thân, không cây cối, tức là không có một tiện nghi tối thiểu nào, không có một nguồn trợ lực nào. Chỉ có cát đá, thú dữ, ma quỷ, tức là chỉ có những khó khăn thách đố bắt ta phải chiến đấu, phải đương đầu.

Cuộc chiến đấu thứ nhất mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến đấu với thiên nhiên.

Người sống trong hoang địa phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt.  Tại các sa mạc cát phủ, đêm thì lạnh thấu xương, ngày thì nóng như thiêu.  Hầu như không có thực phẩm.  Người sống trong hoang địa phải chịu đói, chịu khát, chịu cái nóng nung người, chịu cái lạnh cắt da, chịu tất cả mọi thiếu thốn của đời sống thường ngày.  Xưa, dân Do Thái được Chúa đưa vào nơi hoang địa để huấn luyện trước khi đưa họ vào Đất Hứa.  Trong hoang địa, người Do Thái không chịu nổi những thiếu thốn, nên đã nhiều lần nổi loạn chống lại Chúa, chống lại ông Môsê, muốn quay trở lại làm nô lệ bên Ai cập để được ăn no ngủ kỹ.  Trái lại, tổ phụ Abraham đã chấp nhận vượt qua hoang địa, nên đã tới Đất Hứa, tiên tri Êlia đã vượt qua hoang địa 40 đêm ngày, nên đã đi đến núi của Thiên Chúa.  Và hôm nay, Đức Giêsu đã thắng được cái lạnh, cái nóng và nhất là đã thắng được cái đói cái khát, đã hoàn toàn làm chủ được bản thân trước những nhu cầu của thân xác.

Cuộc chiến đấu thứ hai mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến đấu chống lại ma quỷ.

Thiên Chúa cho phép ma quỷ thử thách con người.  Từ tạo thiên lập địa, hai ông bà nguyên tổ đã bị ma quỷ cám dỗ và đã thua cuộc.  Ông thánh Gióp cũng đã bị ma quỷ thử thách, mất hết tài sản, mất hết con cái, mất hết danh dự.  Nhờ kiên quyết trung thành với Chúa đến cùng, ông đã thắng được ma quỷ.  Đức Giêsu đã thắng vượt mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới nhờ Người vững lòng tin ở Thiên Chúa.  Những cơn cám dỗ của ma quỷ thường là cám dỗ về đức tin.  Adong và Evà không vững lòng tin nên đã sa ngã.  Ông thánh Gióp vững lòng tin nên luôn đứng vững qua mọi thử thách.  Đức Giêsu luôn vững niềm tin vào Chúa Cha, nên đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ thâm độc nhất của ma quỷ.

Cuộc chiến đấu thứ ba mà Đức Giêsu đã trải qua là cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để tìm thánh ý Chúa Cha.

Hai ông bà nguyên tổ đã tìm ý riêng hơn ý Chúa, nên đã đi trệch đường.  Đức Giêsu luôn tìm thánh ý Chúa Cha, nên Người đã từ bỏ con đường rộng để đi vào con đường hẹp, từ bỏ con đường dễ để đi vào con đường nghèo hèn, từ bỏ con đường riêng tư để đi vào con đường Chúa Cha đã định.  Nên Người đã toàn thắng trong cuộc chiến đấu.

Hoang địa không phải chỉ là nơi thử thách.  Hoang địa còn là nơi gặp gỡ Chúa.  Sau khi đã thắng vượt tất cả các cuộc thử thách, ta sẽ gặp được Chúa, sẽ sống thân tình với Chúa và sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa.  Ông Môsê, sau 40 đêm ngày ở trên núi Sinai, đã trở nên bạn nghĩa thiết của Chúa.  Mặt ông trở nên sáng láng đến nỗi dân Do Thái không dám nhìn thẳng vào.  Tiên tri Êlia, sau khi đi 40 đêm ngày, đã tới núi của Chúa và đã gặp được Chúa.  Đức Giêsu đã gặp gỡ Chúa Cha, đã tìm được ý Chúa Cha và đã kết hiệp mật thiết với Chúa Cha đến độ từ nay Người trọn vẹn thuộc về Chúa Cha.  Thánh ý Chúa Cha đã trở thành kim chỉ nam hướng dẫn đời Người.  Thi hành thánh ý Chúa Cha trở thành lương thực nuôi dưỡng Người.  Người sẽ hy sinh tất cả, kể cả mạng sống để cho thánh ý Chúa Cha được nên trọn.  Chính vì thế mà Người đã được gọi là “Con yêu dấu” của Chúa Cha.

Trong Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi ta hãy vào hoang địa với Đức Giêsu để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên cường.  Ta không có điều kiện để vào nơi hoang vắng, nhưng ta vẫn có thể vào hoang địa của cuộc đời.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, thiếu thốn trong đời sống, dù đói nghèo vẫn giữ được tâm hồn tự do, không chịu nô lệ vật chất.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là kiên cường chống trả mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới, luôn vững niềm tin vào Chúa dù gặp những khó khăn thử thách.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là từ bỏ những ý riêng để luôn tìm thánh ý Chúa, sẵn sàng thực hành thánh ý Chúa, dù có phải đau đớn, thiệt thòi.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là giữ tâm hồn bình an thanh thản để gặp gỡ Chúa, tiếp xúc thân mật với Chúa, hoàn toàn thuộc về Chúa để trở nên “Con yêu dấu” của Chúa.

Nếu ta chuyên tâm rèn luyện trong suốt mùa Chay, tâm hồn ta sẽ trở nên vững mạnh chống lại được những cám dỗ ma quỷ đưa tới; nhanh nhẹn dấn thân vào những việc đạo đức không ngại khó khăn vất vả; quen từ bỏ ý riêng để tuân theo ý Chúa và sẽ trở nên Con hiếu thảo của Chúa.

TGM Ngô Quang Kiệt

From: langthangchieutim & anh chị Thụ Mai gởi

 

BƯỚC VÀO MÙA TẬP LUYỆN CHIẾN ĐẤU THIÊNG LIÊNG

BƯỚC VÀO MÙA TẬP LUYỆN CHIẾN ĐẤU THIÊNG LIÊNG

Suy niệm Thứ Tư Lễ Tro

(Mt 6, 1-6; 16-18)

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Lễ Tro, khai mạc Mùa Chay Thánh, bằng nghi thức làm phép tro và mỗi người nhận tro trên đầu, cùng lúc đó sẽ nghe được một trong hai câu Lời Chúa : Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng, hoặc : Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi (SLRM).

Mỗi khi Mùa Chay về, chúng ta nghe văng vẳng bên tai lời Chúa mời gọi: “Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van” (Joel 2,12).

Như thế, hai ý tưởng trong Mùa Chay Thánh luôn song hành với nhau, thứ nhất : chúng ta là những con người yếu đuối, tội lỗi; thứ hai : Thiên Chúa là Người Cha giàu lòng thương xót, Ngài luôn yêu thương chúng ta, Ngài sẵn sàng tha thứ và ban cho chúng ta sức mạnh với tình thương. Vì yếu đuối nên cần đến ơn Chúa, vì tội lỗi nên muốn được Chúa thứ tha, nhưng để lãnh nhận được ơn tha thứ thì cẩn phải trở về với Thiên Chúa trong cầu nguyện, trong chay tịnh và nước mắt, hướng tới tha nhân. Đó là ba việc phải làm trong Mùa Chay Thánh.

Ăn chay

Cầu nguyện

Và bố thí

Là ba việc cần phải làm trong Mùa Chay, vì nó diễn tả ba chiều kích, ba mối tương quan giữa đương sự với Thiên Chúa và với anh em. Tương quan với Thiên Chúa là cầu nguyện, với tha nhân là bố thí và với chính mình là ăn chay. Ba tương quan này đồng hành với nhau và thể hiện cùng một lúc trong đời sống thường nhật của người kitô hữu.

Để ba tương quan này gắn kết với nhau, điều kiện đã được Chúa Giêsu nói rõ đó là : nội tâm. Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay xuất phát từ sâu thẳm của tâm hồn hướng lên Thiên Chúa và hướng đến anh em, chứ không phải là hình thức bên ngoài. Vì thế, ăn chay, cầu nguyện cũng như bố thì là những việc được làm vì đẹp lòng Chúa, chứ không phải cho người ta thấy.

Trước hết phải khiêm nhường

Ăn chay, tiếng La tinh là jejunium, nghĩa là : ” tự nhịn bất kỳ thức ăn nào”. Khi nhịn chay, con người nhận ra mình lệ thuộc vào Thiên Chúa, “hạ mình”  trước mặt Chúa, vì cảm thấy mình mỏng giòn, yếu đuối  như tác giả Thánh vịnh nói : ” Phần tôi, những ngày chúng đau yếu, tôi đã từng khoác áo nhặm vào thân, lại ăn chay để hãm mình phạt xác, lòng tôi ấp ủ câu kinh lời nguyện” ( Tv 34, 13).

Khiêm nhường khi ăn chay còn để Chúa thấy rằng chúng ta chẳng là gì nếu không có Chúa và thiết tha kêu cầu Chúa : ” Bấy giờ tất cả con cái Ít-ra-en và toàn dân đã lên Bết Ên; họ ngồi khóc tại đây trước nhan Ðức Chúa. Hôm ấy họ ăn chay cho đến chiều. Rồi họ dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an lên trước nhan Ðức Chúa ” (x. Tl 20, 26) ; ” Vua Ða-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất ; Vua trả lời: “Bao lâu đứa bé còn sống, ta ăn chay và khóc lóc vì ta tự bảo: “Biết đâu Ðức Chúa sẽ thương xót ta và đứa bé sẽ sống! ” (2 S 12, 16.22), nhất là nhận biết mình là tội lỗi, là hư vô và cầu xin ơn Chúa tha : ” Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van”. (Dn 9, 3).  Việc giữ chay thể xác chỉ có ý nghĩa khi nhịn ăn đi kèm với việc trách xa tội lỗi : ” Chúng nói: “Chúng tôi ăn chay, sao Ngài không thấy, chúng tôi hãm mình, sao Ngài chẳng hay?”… Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Ðức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc,trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? ” (x. Is 58, 1-12), nếu không nó chỉ là phô trương.

Đừng phô trương

Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo : “Các người hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để cho thiên hạ trông thấy…khi các người bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng… Các ngươi có bố thì, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc ngươi bố thí được giữ kín. Và Cha ngươi, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho người ” (Mt 6, 1-6).

Trong Kinh Thánh, Chúa tố cáo mạnh nhất cái vẻ bề ngoài, hay là giả hình. Vi khi giả hình, con người giáng cấp Thiên Chúa, họ đặt Ngài xuống hàng thứ hai, đặt tạo vật, công chúng lên chỗ nhất: “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thí thấy tận đáy lòng” (1 Sm 16, 7). Trau dồi dáng vẻ bên ngoài của chúng ta hơn tâm hồn chúng ta có nghĩa là coi người phàm trọng hơn Thiên Chúa.

Như vậy, vẻ bề ngoài hay sự giả hình tự bản chất là một sự thiếu đức tin: nhưng đó cũng là một sự thiếu đức bác ái đối với tha nhân theo nghĩa nó có xu hướng qui những con người thành những kẻ say mê. Sự giả hình không công nhận phẩm giá thích đáng của họ, nhưng thấy họ tùy thuộc hình ảnh của chính mình. Thiếu đức tin và thiếu đức bác ái, việc làm sẽ trở nên vô ích, nên không có được công phúc gì.

Sống cậy trông vào Chúa

Sai lầm lớn nhất của nền văn hóa hiện nay là tin rằng con người có thể có hạnh phúc mà không cần Thiên Chúa. Như thế khi loại bỏ điều sâu thẳm trong con người, người ta chối bỏ điều liên kết con người với Thiên Chúa là Đấng ban sự sống … theo Đức Thánh Cha Phanxicô, đó là một tội ác, vì tước mất của người nghèo sự hiện diện của Thiên Chúa, mà cũng vì xem rằng con người có thể sống như thể không có Thiên Chúa, phủ nhận chiều kích thụ tạo và sự lệ thuộc của con người vào Thiên Chúa, không cậy dựa vào Chúa (x. Sứ điệp Mùa Chay 2014).

Người nghèo bị tước mất Thiên Chúa, và người giầu không cần đến Thiên Chúa, cả hai hạng người này đều được Giáo hội quan tâm. Giáo hội nhìn đến những ai đang thiếu thốn, không chỉ do nỗi khốn khổ về tâm linh, vốn thường ẩn chứa trong lòng mọi người và làm cho họ day dứt, dù họ có nhiều của cải… Khốn khổ vật chất là sống trong điều kiện không xứng với phẩm giá con người. Khốn khổ luân lý là nô lệ cho thói xấu và tội lỗi, có thể dẫn đến khốn khổ vật chất, và luôn đi đến chỗ khốn khổ tâm linh, đó là khi người ta xa rời Thiên Chúa, khước từ tình yêu của Ngài.

Đó là lý do mùa chay năm nay Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi chúng ta suy tư lời của thánh Phaolô : “Thực vậy, anh chị em biết lòng quảng đại của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta: Ngài giàu sang, nhưng đã trở nên nghèo vì anh chị em, để anh chị em trở nên giàu sang nhờ cái nghèo của Ngài ” (2 Cr 8,9). Sự giàu có đích thực của Chúa Giêsu là phận làm Con Thiên Chúa, đã nên người nghèo khó để chúng ta được làm con Thiên Chúa, trở nên giàu có nhờ sự khó nghèo của Ngài. Con người giầu vì được làm con Thiên Chúa theo bản tính. Con Thiên Chúa thấy cái nghèo của chúng ta, nên đã thi hành ý Chúa Cha, hạ mình nhập thể, chịu chết, sống lại để cứu chuộc chúng ta. Chúng ta cũng thế, làm sao để cái nghèo của anh em chạm đến con tim chúng ta, hầu chúng ta có thế giúp người anh em ta đang khao khát ơn cứu độ (x. Sứ điệp Mùa Chay 2014).

Xin Chúa Thánh Thần nâng đỡ những quyết tâm của chúng ta trong suốt hành trình của Mùa Chay Thánh này cho nên. Amen.

Tác giả: Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hãy nhớ mình là bụi tro !

Hãy nhớ mình là bụi tro !

TRẦM THIÊN THU

Chuacuuthe.com

VRNs (05.03.2014) – Sài Gòn – Mùa Chay bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro bằng nghi thức xức tro. Tuy không bắt buộc theo truyền thống, nhưng đó là ngày thánh, không tới nhà thờ để được xức tro thì những người có tâm hồn đạo đức sẽ cảm thấy áy náy, cảm thấy có lỗi với Chúa. Ngay cả những người không thường xuyên tới nhà thờ cũng cố gắng bắt đầu thể hiện mùa Chay bằng việc chịu tro. Tây phương xức tro bằng cách vẽ hình Thánh giá trên trán, còn Việt Nam thường bỏ một ít tro trên đầu.

Xức tro để nhớ lại thân phận mình chỉ là bụi cát: Được hóa thân từ bụi cát rồi sẽ trở về bụi tro. Nói thẳng ra là CHẾT. Điều đó nhắc nhở người ta phải không ngừng canh tân cách sống sao cho càng ngày càng tốt hơn. Thiết tưởng cũng nên nhắc lại là Thứ Ba trước Lễ Tro thường được gọi là Thứ Ba Béo (Fat Tuesday, Mardi Gras).

14030500

Tro trong Kinh thánh

Thói quen dùng tro trong nghi lễ tôn giáo bị mai một từ giữa thời tiền sử, nhưng chúng ta vẫn thấy trong truyền thống tôn giáo thời Cựu ước. Chẳng hạn, tiên tri Giêrêmia kêu gọi sám hối thế này: “Thiếu nữ dân tôi ơi, hãy quấn vải thô vào mình và lăn trên tro bụi” (Gr 6:26).

Mặt khác, tiên tri Isaia lại phê bình cách dùng vải thô và tro để cầu xin Thiên Chúa, ông chỉ ra rằng việc này phổ biến trong dân Ítraen: “Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa?” (Is 58:5).

Tiên tri Đanien xin Chúa cứu dân Ítraen, và nêu gương cho họ thế này: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van” (Đn 9:3).

Có thể các ví dụ điển hình về ăn chay trong Cựu ước liên quan vải thô và tro. Khi tiên tri Giôna vâng lệnh Chúa đến rao giảng trong thành phố lớn Ninivê, cách giảng của ông đã hiệu quả, lời kêu gọi ăn chay và sám hối tới tận tai nhà vua: “Tin báo đến cho vua Ninivê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro” (Gn 3:6).

Trong sách Giuđitha, chúng ta thấy việc ăn chay xác định rằng tro được xức trên đầu: “Hết mọi người nam trong dân Ítraen cùng với vợ con cư ngụ ở Giêrusalem đều phủ phục trước Đền Thờ, rắc tro lên đầu, mặc áo vải thô ra trước nhan Đức Chúa” (Gđt 4:11; x. Gđt 4:15 và 9:1).

Thời Tân ước, nhóm người đấu tranh giành độc lập cho Do Thái cũng đã chuẩn bị cuộc chiến bằng cách dùng tro: “Ngày hôm ấy, họ ăn chay, mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu và xé áo mình ra” (1 Mcb 3:47; x. Mcb 4:39).

Trong Tân ước, Chúa Giêsu nhắc đến việc dùng vải thô và tro là dấu hiệu của sự sám hối: “Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, họ đã mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối” (Mt 11:21; Lc 10:13).

Tro trong lịch sử Giáo hội

Dù các ám chỉ này có trong Kinh thánh, việc dùng tro trong Giáo hội chỉ còn lại ít tài liệu hồi thế kỷ I trong lịch lịch sử Giáo hội. Thomas Talley, chuyên gia về lịch sử phụng vụ, nói rằng phụng vụ ban đầu có thể xác định niên đại về Thứ Tư Lễ Tro cho thấy việc rắc tro có từ năm 960. Trước đó, tro được dùng làm dấu hiệu của sự chấp nhận đối với nghi thức sám hối. Từ đầu thế kỷ XVI, nghi lễ dùng cách vẽ hình Thánh giá bằng tro trên trán khi chấp nhận một người bệnh nặng đối với nghi thức sám hối. Từ đầu thế kỷ XI, Viện phụ Aelfric ghi chú rằng đó là thói quen đối với các tín hữu tham dự nghi lễ ngày Thứ Tư khởi đầu mùa Chay, bao gồm việc xức tro. Gần cuối thế kỷ XI, ĐGH Urbanô II kêu gọi dùng tro trong ngày này. Sau đó, ngày này mới được gọi là Thứ Tư Lễ Tro.

Đầu tiên, giáo sĩ và đàn ông được xức tro trên đầu, còn phụ nữ được vẽ dấu Thánh Giá bằng tro trên trán. Nhưng rồi cách vẽ Thánh giá bằng tro trên trán được áp dụng cho cả nam và nữ.

Thế kỷ XII, luật nói rằng tro được tạo ra bằng cách đốt những cành lá đã làm phép từ Lễ Lá năm trước. Ngày nay, nhiều giáo xứ kêu gọi giáo dân đưa lá được làm phép năm trước đến nhà thờ để làm nghi lễ đốt lá sau thánh lễ.

Nghi thức Sám hối

Có vẻ như việc dùng trong đầu mùa Chay là cách mở rộng việc dùng tro khi bước vào nghi thức sám hối. Quy luật này là cách mà Bí tích Hòa giải được cử hành qua hầu hết thế kỷ I của Giáo hội. Những người phạm tội trọng xưng tội với giám mục hoặc vị đại diện giám mục và được giao việc đền tội sẽ thực hành qua một thời gian. Sau khi đền tội xong, họ được giám mục giao hòa bằng lời tha tội trước cộng đoàn.

Khi làm việc đền tội, hối nhân thường có một chỗ riêng trong nhà thờ và mặc trang phục đặc biệt để cho biết tình trạng của mình. Như các tân tòng chuẩn bị lãnh Bí tích Thánh tẩy, họ thường ra khỏi cộng đoàn sau phần phụng vụ Lời Chúa.

Đây là toàn bộ quá trình được làm mẫu trên hành trình trở lại của tân tòng, vì Giáo hội thấy việc phạm tội trọng sau khi lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy là chưa thực sự trở lại. Đền tội là cố gắng thứ nhì để nuôi dưỡng sự trở lại. Các giáo phụ thời kỳ đầu của Giáo hội còn gọi việc đền tội là “Bí tích Thánh tẩy đệ nhị”.

Mùa Chay được phát triển trong Giáo hội là toàn thể cộng đoàn cầu nguyện và ăn chay cho các tân tòng chuẩn bị lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy. Lúc đó, cả cộng đoàn đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy cùng chuẩn bị tái tuyên hứa lời hứa rửa tội trong đại lễ Phục sinh. Như vậy, mọi người cùng các tân tòng đào sâu sự trở lại của mình. Đó là điều tự nhiên mà nghi thức sám hối tập trung vào mùa Chay, với sự hòa giải thường được cử hành vào Thứ Năm Tuần Thánh để việc tái hòa giải có thể chia sẻ trong các phụng vụ của Tam Nhật Thánh (Triduum). Mùa Chay là mùa tập trung vào Bí tích Thánh tẩy và Bí tích Hòa giải.

Thay đổi cách hiểu mùa Chay

Viếc tiếp nhận tân tòng dần dần biến mất khiến cách hiểu của người ta về mùa Chay cũng thay đổi. Thời Trung cổ, việc nhấn mạnh không còn rõ ràng về Bí tích Thánh tẩy. Thay vì thế, việc nhấn mạnh chính chú trọng vào cuộc Khổ nạn và Sự chết của Đức Kitô. Nghệ thuật Trung cổ phản ánh sự tập trung gia tăng này vào Đấng Cứu Thế Đau Khổ, cho nên lòng sùng kính phổ biến cũng vậy. Mùa Chay được coi là thời gian nhận biết tội lỗi mình đã khiến Đức Kitô phải đau khổ và chết thê thảm. Đền tội được coi là cách tránh hình phạt vì tội hơn là cách tái thề hứa lời hứa rửa tội.

Việc biến mất nghi thức sám hối dần dần, việc dùng tro trở thành phần thêm vào văn bản gốc. Sự tập trung vào việc đền tội riêng và Bí tích Hòa giải vẫn tiếp tục trong Mùa Chay, nhưng sự liên kết với Bí tích Thánh tẩy không còn rõ ràng với đa số chúng ta nữa. Điều này phản ánh trong công thức kết hợp với việc xức tro: “Hãy nhớ mình chỉ là cát bụi và sẽ trở về bụi tro”. Câu này tập trung vào sự chết của chúng ta, là cách nghiêm túc khích lệ đền tội, nhưng có chút gợi ý ở đây về ý nghĩa rửa tội nào đó. Cách nhấn mạnh vào sự chết hợp với kinh nghiệm sống thời Trung cổ, khi sự đe dọa của cái chết luôn chực chờ. Nhiều người chết còn rất trẻ, và sự tàn phá xã hội của bệnh dịch đã khiến tử vong rất dễ.

Thứ Tư lễ Tro sau Công đồng Vatican II

Công đồng Vatican II (1962-1965) đã kêu gọi đổi mới Mùa Chay, phục hồi đặc tính cũ liên quan Bí tích Thánh tẩy. Sự phục hồi này rất tiến bộ nhờ giữ lại cách tiếp nhận tân tòng được ủy thác của Nghi lễ Khai tâm Kitô giáo cho Người lớn (Rite of Christian Initiation of Adults) năm 1972. Khi người Công giáo gia tăng tương tác với các tân tòng trong giai đoạn cuối của việc họ chuẩn bị lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, họ bắt đầu hiểu Mùa Chay là mùa chuẩn bị rửa tội và tái thề hứa lời hứa rửa tội.

Vì Thứ Tư Lễ Tro đánh dấu khởi đầu Mùa Chay, tự nhiên cũng là khởi đầu khôi phục sự tập trung vào Bí tích Thánh tẩy. Một gợi ý là công thức thứ nhì được đưa ra cho việc xức tro: “Hãy sám hối và tin vào Phúc âm”. Dù điều này không minh nhiên nói tới Bí tích Thánh tẩy, nhưng vẫn nhắc nhớ chúng ta về lời hứa rửa tội là xa tránh tội lỗi và tuyên xưng đức tin. Rõ ràng kêu gọi chúng ta xa tránh tội lỗi, trở về với Chúa, người mà chúng ta phải ấp ủ cả đời mình.

Khởi đầu Mùa Chay, Thứ Tư Lễ Tro mời gọi chúng ta bắt đầu hành trình trở về, đánh dấu Mùa Sám Hối. Khi các tân tòng bước vào giai đoạn cuối của việc chuẩn bị cho các Bí tích mùa Phục sinh, tất cả chúng ta cũng được mời gọi đồng hành với họ để chúng ta cũng chuẩn bị tái thề hứa lời hứa rửa tội trong đêm vọng phục sinh.

Các bài đọc trong lễ Tro

Các bài đọc trong Thứ Tư Lễ Tro làm nổi bật lời mời gọi trở về. Bài đọc I trích từ sách Giôen, kêu gọi chúng ta trở về với Chúa “bằng việc ăn chay, than khóc và thống thiết than van”. Tiên tri Giôen nhắc nhớ chúng ta rằng “Thiên Chúa từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương”, đó là mời gọi chúng ta tín thác vào Tình Yêu của Thiên Chúa khi chúng ta cố gắng canh tân đời sống. Cần lưu ý rằng tiên tri Giôen không chỉ kêu gọi trở về cá nhân. Ông kêu gọi toàn thể mọi người, nên ông nói: “Hãy thổi kèn ở Sion, công bố ăn chay, kêu gọi nhóm họp; quy tụ mọi người, chú ý giáo đoàn; nhóm họp người lớn, con cái và trẻ em còn bú”. Khi chúng ta bước vào mùa canh tân, chúng ta kết hiệp với cả dân Chúa, vì tất cả chúng ta đều chia sẻ nhu cầu trở về liên tụcchúng ta được kêu gọi nâng đỡ nhau trong suốt hành trình này. Bắt chước những người tham dự Nghi thức Sám hối trong quá khứ, chúng ta cùng trở thành cộng đoàn sám hối khi tìm cách tiếp cận Thiên Chúa qua việc đền tội và canh tân đời sống.

Với cách nói khác nhưng không kém phần cấp bách, thánh Phaolô xin chúng ta “giao hòa với Thiên Chúa, vì đây là thời thuận tiện và là ngày cứu độ”. Thời điểm trở về với Chúa là lúc này, Mùa Chay Thánh này, chính ngày này.

Phúc âm Lễ Tro cho chúng ta lời khuyên tốt về cách chúng ta hành động trong Mùa Chay. Chúa Giêsu nói về 3 quy tắc chính của Mùa Chay: Bác ái, cầu nguyện và trai tịnh. Các hoạt động tâm linh này, như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta, được làm dù không ai biết. Điều quan trọng không phải là chúng ta chỉ nên cầu nguyện một mình mà không cầu nguyện chung với cộng đoàn, mà là chúng ta chỉ nên cầu nguyện không phải để người ta thấy mình đạo đức hoặc thánh thiện. Việc ăn chay và bác ái cũng vậy, không cần phải giấu giếm mà nên làm vì kính mến Chúa và yêu thương tha nhân, chứ không để người ta biết mà khen mình.

Có điều mỉa mai là chúng ta sử dụng đoạn Phúc âm này, khuyên chúng ta rửa mặt và không làm ra vẻ ăn chay, với vẻ chỉ loanh quanh với việc xức tro là xong. Đây chỉ là cách Chúa Giêsu bảo chúng ta đừng làm những hành động mang tính tôn giáo chỉ muốn khoe khoang cho người khác biết. Chúng ta đừng xức tro để tỏ ra mình thánh thiện, mà phải biết rằng chúng ta đều là những tội nhân khốn nạn cần phải sám hối, đền tội và canh tân.

Từ tro tới giếng rửa tội

Lời mời gọi liên tục sám hối phản ánh trong các bài đọc cũng là sứ điệp của TRO. Chúng ta sống Mùa Chay từ tro tới giếng rửa tội. Chúng ta xức tro vào Thứ Tư Lễ Tro và rửa sạch bằng nước của giếng rửa tội. Sâu xa hơn, chúng ta phải chết cho tội và xác thịt từ đầu Mùa Chay để có thể sống trọn vẹn hơn trong Đấng Phục Sinh trong ngày đại lễ Phục sinh.

Khi xức tro, chúng ta nhớ mình là gì. Chúng ta nhớ rằng chúng ta là thụ tạo bởi bụi đất: “Hãy nhớ mình là bụi đất”. Chúng ta nhớ rằng chúng ta là những thụ tạo sẽ chết và “sẽ trở về bụi đất”. Chúng ta nhớ rằng chúng ta đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy. Chúng ta nhớ rằng chúng ta là những lữ khách trên hành trình trở về: “Hãy sám hối và tin vào Phúc âm”. Chúng ta nhớ rằng chúng ta là chi thể của Nhiệm thể Đức Kitô: Xức tro để công bố mình đồng nhất với người khác.

Canh tân mình trước mặt Chúa là điểm cốt lõi của việc thực hành Mùa Chay. Rất dễ quên, vì thế chúng ta thường “lăn vào vết xe cũ” của thói quen phạm tội, cách nghĩ và cách sống trái ngược với Ý Chúa. Chúng ta cũng như dân thành Ninivê trong chuyện kể của tiên tri Giôna. Chính sự “đồi bại” của họ khiến Chúa phải sai Giôna tới rao giảng cho họ. Tiên tri Giôna muốn tránh né sứ vụ đó và bị chìm sâu trong nước. Được cá cứu, cuối cùng tiên tri Giôna mới làm theo Ý Chúa và bắt đầu rao giảng trong khắp thành Ninivê. Lời giảng của ông lọt vào tai và lòng của dân thành, họ làm theo và đã được cứu.

Từ đầu Mùa Chay, Lời Chúa kêu gọi chúng ta trở về. Nếu chúng ta biết mở tai và mở lòng đón nhận Lời Chúa, chúng ta cũng sẽ như dân thành Ninivê cố gắng từ bỏ tội lỗi và thành tâm trở về với Chúa. Chắc chắn chúng ta sẽ được tha thứ và được cứu độ. Rất đơn giản, thời điểm đó bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro!

Nghi thức xức tro là nghi thức long trọng, là dấu hiệu khởi đầu Mùa Chay Thánh. Nghi thức rất đặc biệt, không có động thái phụng vụ như những ngày khác trong suốt năm phụng vụ.

Tro được tạo ra từ việc đố các lá đã làm phép của Chúa Nhật Lễ Lá năm trước. Tro được làm phép trong Thánh Lễ Thứ Tư Lễ Tro, sau bài giảng. Mọi người lần lượt lên chịu tro, thừa tác viên vừa xức tro vừa đọc: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần, hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:15), hoặc: “Hãy nhớ mình là bụi đất và sẽ trở về bụi đất” (St 3:19). Tro là biểu tượng của 2 thứ chính trong Cựu ước.

Sự chết và sám hối

Tro tương đương với cát bụi, thân xác con người được tạo thành từ đất: “Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2:7), và khi thân xác hư nát, nó sẽ trở về đất cát hoặc bụi tro.

Tổ phụ Abraham đã thưa với Chúa: “Con chỉ là thân tro bụi” (St 18:27), ám chỉ cái chết của nhân loại. Còn tiên tri Giêrêmia mô tả cái chết là “thung lũng tử thi và tro thiêu xác” (Gr 31:40).

Tro là điềm gở, và chúng ta dùng tro vào ngày Thứ Tư Lễ Tro để nhắc nhớ về cái chết chắc chắn sẽ đến với chúng ta. Cái chết có thể đến sớm, cũng có thể đến chậm, nhưng chắc chắn nó sẽ đến. Nếu cái chết đến, chúng ta cần chuẩn bị, và thời gian chuẩn bị là ngay từ bây giờ, còn cách chuẩn bị là sống theo phương cách của Chúa.

Tiên tri Đanien đã khúm núm lúc mặc áo vải thô và xức tro, đó là dấu hiệu ăn năn vì đã phản nghịch, bội bạc và trụy lạc: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van” (Đn 9:3).

Khi Giôna cảnh báo dân thành Ninivê rằng Thiên Chúa sắp hủy diệt thành phố vì sự suy đồi và sự trụy lạc của họ, dân thành đã vội mặc áo vải thô và xức tro để tỏ ra xa tránh lối sống sa đọa: “Tin báo đến cho vua Ninivê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro. Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại, Người hối tiếc về tai hoạ Người đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, Người đã không giáng xuống nữa” (Gn 3:6 & 10). Tro là lời khẩn thiết cầu xin Chúa ân ban lòng thương xót, lòng trắc ẩn, và ơn tha thứ.

Hơn nữa, đó còn là cách công nhận tội lỗi mình, lá cách bày tỏ sự buồn rầu vì tội lỗi đã trót phạm, là lời hứa canh tân và quyết tâm chống lại chước cám dỗ trong tương lai.

Chúng ta đều là những tội nhân. Khi chúng ta chịu tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta xin lỗi Chúa về tội lỗi mình, và chúng ta muốn dùng Mùa Chay để sửa sai, để thanh tẩy tâm hồn, để kiểm soát ước muốn và tiến bộ trong sự thánh thiện, nhờ đó chúng ta sẽ chuẩn bị mừng lễ Phục sinh.

Sống tinh thần Lễ Tro

Thiên Chúa là Đấng chí thánh, Thiên Chúa của chúng ta, Đấng đã ban sự sống và mọi thứ cho chúng ta. Trong đời sống, áp lực của công việc và trách nhiệm thường khiến chúng ta quên sám hối, đền tội và yêu thương. Chúng ta sa ngã và không sống đúng bổn phận của mình, không thể hiện niềm tín thác vào Con Thiên Chúa.

Mùa Chay Thánh giúp chúng ta chấn chỉnh những gì sai sót, giúp chúng ta đền tội và canh tân đời sống bằng ân sủng của Chúa, giúp chúng ta nhớ mình chỉ là tội nhân, đặc biệt là giúp chúng ta nhớ đến Lòng Chúa Thương Xót vô biên.

Khởi hành từ Thứ Tư Lễ Tro, mong sao tro có thể nhắc nhớ chúng ta rằng chúng ta thuộc về Con Thiên Chúa. Ước mong sự thờ phượng, lời cầu nguyện và việc đền tội của chúng ta có thể kiên trì bền vững trong suốt 40 ngày Mùa Chay.

Nguyện xin Chúa giúp chúng ta thực sự canh tân để có thể hân hoan mừng với sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô trong đại lễ Phục sinh. Chúng ta hãy đồng hành cùng Chúa để có thể thanh thản bước vào Mùa Chay Thánh…

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ AmericanCatholic.org và TheCatholicSpirit.com)

ĐỂ CẢM THẤY VUI HƠN

ĐỂ CẢM THẤY VUI HƠN

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

Trong nếp sống hàng ngày, có nhiều chuyện “không đâu” xẩy ra khiến ta cảm thấy không thoải mái, bực mình, lo sợ. Chắc chắn là mình muốn làm một việc tích cực nào đó để khỏi bị quấy rầy, và không rơi vào con đường rượu chè, phạm pháp, tự hủy hoại thân thể.

Sau đây là một số điều mà mọi người có thể làm để cảm thấy yên vui hơn.

Xin hãy đọc qua tất cả các điều sau đây, lựa chọn những điều mà mình thấy hấp dẫn, có thể giúp ta vượt qua khó khăn. Viết các đìều đó vào một tờ giấy, dán lên tủ lạnh, trước cửa ra vào để nhắc nhở. và thực hiện ngay khi cảm thấy khó chịu.

1- Hãy làm việc nào mà mình cảm thấy thích thú như đọc sách, vẽ, chơi ô chữ, làm thủ công nghệ, trồng hoa, viết văn, làm thơ, chụp hình, đi câu…

2- Vận động cơ thể, đi bộ, bơi lội, đạp xe đạp…Tất cả đều làm tinh thần thoải mái, sức khỏe rồi rào hơn.

3- Tham gia các sinh hoạt tâm linh, tôn giáo, tĩnh lặng tâm hồn.

4- Tạo thói quen làm vài công việc thường lệ mỗi ngày, vào thời điểm đã định trước. Chẳng hạn tới giờ nào đó thì đi bộ, giờ đó đi tắm, điện thoại cho con cháu, coi phim bộ…

Thói quen tốt giúp kiểm soát được thời gian trong ngày của mình.

5- Mặc một chiếc áo mầu mà mình thích, đeo đôi bông tai kỷ niệm xa xưa…để tạo niềm vui cá nhân.

6- Làm những công việc lặt vặt trong nhà như lau bàn ghế, giặt quần áo trong máy giặt, quét nhà….để khỏi có thời gian nhàm chán, “không biết làm gì”, rồi chỉ đi ra đi vào.

7- Học một vài kiến thức mới về các lãnh vực liên quan tới đời sống, như ăn uống sao cho hợp lý, làm sao phòng tránh viêm xương khớp, cao huyết áp, học cách sử dụng máy vi tính, giữ gìn vệ sinh cá nhân, phòng ngừa bệnh tật…

8- Tìm hiểu sự thật trước khi hành động theo phản ứng tự nhiên cũng giúp mình tránh phiền muộn vì hiểu nhầm, ngô nhận.

Chẳng hạn thấy con đi học về trễ, đừng vội la mắng, cho rằng cháu lại la cà với bè bạn. Thực ra xe của cháu có thể bị bể bánh dọc đường phải thay hoặc cản trở lưu thông, hoặc có khi cháu ở lại trường học thêm với giáo sư với bạn bè…

9- Sống với hiện tại, tận hưởng thời gian, lạc thú mà thiên nhiên dành cho.

Có nhiều người không thực tế, ngồi đó để nuối tiếc quá khứ huy hoàng hoặc mơ mộng một tương lai giầu có…mà quên mất những điều hay điều vui hiện đang có.

10- Lâu lâu dành chút thời giờ để thưởng thức vẻ đẹp của một bông hoa, nhìn tấm hình đám cưới của vợ chồng hơn ba chục năm về trước, ngắm ngôi sao lấp lánh trên bầu trời, hít không khí trong mát của đêm khuya..ta sẽ thấy thoải mái, dễ chịu hơn.

11- Vui chơi với con cháu nội ngoại, vỗ về một con chó trung thành …cũng làm vợi đi nỗi ưu tư, căng thẳng của mình.

12- Tập luyện vài phương pháp cử động nhịp nhàng để gân cốt thư giãn, tập trung thiền định để tinh thần lắng dịu, bình an…

13- Nghe âm nhạc dịu nhẹ để thư giãn và dễ đi vào giấc ngủ, nhạc hùng mạnh để nâng cao tinh thần.

14- Ca hát tự do cho không khí trong lành vào phổi, cho âm thanh thoát ra khỏi cửa miệng cũng giúp giải khuây, đỡ buồn. Hát khi đi tắm. Hát khi quét nhà. Hát khi nấu cơm…

Mọi người vẫn thường nói: “hát hay không bằng hay hát mà”. Ðâu có cần hát giỏi, hát hay mà chỉ cần thấy trong lòng thoải mái là vui rồi.

15-Tắm nước ấm giúp thư giãn và hàn gắn căng thẳng tinh thần. Nếu được nằm trong bồn tắm có nước ấm xịt quanh mình, thì lại tốt hơn nữa.

16- Thưởng thức mùi thơm của những bông hoa hồng, của chiếc bánh mì nóng hổi mới làm cũng làm mình vui vui, sảng khoái

 

Hành Trình đi tới bình phục

Xin hãy bắt đầu con đường đi tới bình phục sau stress bằng cách tự hỏi mình muốn đời sống sẽ như thế nào.

Ðể bình phục, nên hoàn tất một số trong những gợi ý sau đây:

1- Hãy quý trọng cái thân thể với các chức năng, cấu tạo tuyệt hảo của mình.

2- Hãy đặt một giới hạn mà ta cảm thấy là đúng và an toàn trong mọi mối bang giao.

Hãy trả lời “KHÔNG” cho bất cứ điểu gì mình không muốn. Một người bạn quấy rầy mình bằng cách điện thoại nhiều lần trong ngày, hãy thẳng thắn nói cho họ hay là mình không muốn như vậy

3- Hãy tranh đấu cho quyền hạn của mình và tận lực làm việc để đạt được điều mình muốn và cần.

Chẳng hạn, nếu muốn học thêm một nghề mới lạ, hãy tìm hiểu về nghề đó qua sách báo, bạn bè. Muốn biết bệnh tình của mình ra sao thì nghiêm nghị yêu cầu bác sĩ giải thích rõ ràng hoặc gửi mình sang một bác sĩ chuyên môn khác.

4-Hãy tạo lòng tự trọng, vì mỗi người là một sinh vật đặc biệt, toàn hảo và đều đáng được hưởng những điều tốt lành mà tạo hóa dành cho.

5-Hãy làm một danh sách ghi rõ những điều mà mình muốn làm để cảm thấy thoải mái hơn. Hãy làm những điều đó mỗi ngày, nhất là khi nào cảm thấy buồn rầu, khó chịu.

6-Mỗi gia đình có một lối sống, một cách suy nghĩ riêng.

Những điều mà mình học được khi còn bé có thể ảnh hưởng, gây trở ngại cho nếp sống hiện tại, thì mình nên thay đổi. Chẳng hạn, ta học được thói quen là không kể chuyện riêng tư cho ai. Nhưng khi có khó khăn, cần giúp đỡ giải quyết, thì ta cũng cần tâm sự với người mà ta tin cậy.

7- Hãy tạo ra mối hài hòa với mọi người trong gia đình. Hãy vui chơi với họ, nghe tâm sự của họ mà không phê bình, chỉ trích…

8- Hãy tìm hiểu cách đối thoại với mọi người để họ thông cảm với mình. Hãy xin bạn bè cho biết mình nên diễn tả, hành động như thế nào để tăng sự hiểu biết lẫn nhau.

9- Mỗi người có thể có nhiều ý tưởng tiêu cực về mình và về nếp sống của mình. Xin hãy tìm cách chuyển đổi những tiêu cực đó thành tích cực hơn.

Chẳng hạn, mình cứ ám ảnh với ý nghĩ “chẳng ai ưa mình” thì chuyển ý nghĩ sang “tôi vẫn có nhiều bạn bè”. Rồi mạnh dạn tạo thêm tình bạn mới.

10- Hãy phác họa một kế hoạch hành động phòng tránh và phục hồi để giúp ta sống bình an và để đối phó với những căng thẳng của đời sống.

 

Như là:

a- Nhắc nhở điều gì cần làm mỗi ngày, chẳng hạn ăn ba bữa cơm chính với đầy đủ các chất dinh dưỡng, vận động đều đặn 30 phút, ngủ 8 giờ mỗi đêm…

b- Những hoản cảnh gây ra khó chịu cho mình và cách thức hóa giải, ngăn ngừa chuyện đó. Chẳng hạn cãi cọ bất hòa với con cái, bạn bè thì mình nên ôn tồn, thân thiện với họ…

c- Những dấu hiệu cho biết tình trạng sẽ trở nên trầm trọng hơn như là mệt mỏi, mất ăn mất ngủ, hay quên, rất buồn rầu, lo sợ, không muốn ra khỏi nhà…

d- Các tin tức mà thân nhân bạn bè cần biết khi mình không tự chăm sóc hoặc ở trong hoàn cảnh không an toàn.

Các dữ kiện này có thể là tên bác sĩ đang điều trị cho mình, tên người tư vấn tâm thần, dược sĩ, tên các loại thuốc đang dùng, các phương thức thường giúp mình cảm thấy an toàn, khỏe mạnh hoặc làm cho bệnh trầm trọng hơn.

Trên đường hồi phục sau stress, nếu xuất hiện những sự việc có thể gây khó khăn, ta cần sáng suốt đối phó.

Chẳng hạn sử dụng quá lố rượu thuốc đưa tời xáo trộn gia cang, gây gổ với lối xóm làm mất an ninh xã hội… thì phải hành động hợp lý hơn bằng cách bỏ thói quen xấu và tạo ra thói quen tốt.

Ta cần kiên nhẫn và can đảm để đi hết con đường phục hồi. Xin đừng nản chí, rút lui.

Và nên nhớ rằng, có nhiều người cũng gặp những khó khăn, chấn thương như mình, kể cả các vị anh hùng, danh nhân thế giới.

Họ cũng phải phấn đấu như mình và họ cũng đã thành công.

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

www.bsnguyenyduc.com

http://www.youtube.com/user/Drnguyenyduc/videos

Tác giả: Câu Chuyện Thầy Lang, Bác sĩ Nguyễn Ý Đức