BÊN KỶ NIỆM XƯA

BÊN KỶ NIỆM XƯA

Tác giả: Lm. Vĩnh Sang, DCCT

Trong mấy ngày vừa qua, tôi có dịp đi dự Lễ đặt viên đá xây dựng môt ngôi Nhà Thờ nhỏ vùng cao nguyên, ngôi Nhà Thờ của một cộng đoàn người anh chị em dân tộc K’Hor. Qua vài dòng lịch sử, cộng đoàn này đã được hình thành từ năm 1954, khi đường đi vào vùng đồi núi này chưa có, các Thừa Sai DCCT Canada đã phải đi nhờ trực thăng của quân đội Sàigòn lúc bấy giờ, đến nơi đây, ở lại với anh em dân tộc, loan báo Tin Mừng, khi ấy di chuyển quanh vùng phải dùng ngựa. Một cây Thánh Giá đã được cắm ở đỉnh đồi R’Lơm, một ngọn đồi bên sườn dòng suối Đạ Đờng ( suối lớn ) để làm nơi tụ họp thờ phượng Chúa mỗi Chúa Nhật. Dần dần cộng đoàn đông đảo lên, năm 1964, cha già Antoine Lapointe  đã dựng một ngôi Nhà Nguyện nhỏ bằng gỗ, các kèo cột bằng gỗ, mái tôn. Một cái chuông nhỏ treo ngay trước cửa Nhà Thờ, tiếng chuông king koong ngân theo các ngọn gió của núi rừng réo gọi con cái ngài đến, bọn trẻ con tròn xoe con mắt nghếch tai nghe tiếng chuông rung.

cha già Antoine Lapointe

( Ảnh chụp ngôi mộ cha Antoine Lapointe, DCCT, ngay bên cạnh Nhà Thờ R’Lơm ).

Ngày người ta trả lại ngôi Nhà Thờ cho Giáo Hội, ngày ngôi Nhà Thờ được mở cửa lại, ván sàn đã mục nát, ngôi nhà hôi hám lâu ngày không có bóng người, dơi chuột lấy làm nơi sinh sống, ngậm ngùi anh chị em dân tộc kéo đến sửa sang lại, làm sạch sẽ lại, trang hoàng lại để thờ phượng Chúa. Hơn 15 năm nữa đi qua, Chúa ban cho cộng đoàn ngày một đông đảo, không chỉ ở tại chỗ, anh chị em ở các nơi khác, xa hàng chục cây số cũng về nương tựa bóng Nhà Thờ này. Con số tín hữu tại chỗ vượt 2.000, con số tại Phi Tô, một làng cách 7 cây số cũng vượt 2.000. Cần phải sửa Nhà Thờ lại để đáp ứng phần nào nhu cầu.

Giữ nguyên hình ảnh ngôi Nhà Thờ cũ. Anh em Tu Sĩ đang phục vụ tại Giáo Sở này muốn giữ nguyên lại hình dáng ngôi Nhà Thờ cũ, một hình dáng đơn sơ mộc mạc, dong dỏng cao như những đồi những núi, mầu gỗ thô ráp như những bàn tay lao động giữa núi rừng. Anh em muốn giữ lại hình dáng ngôi Nhà Thờ cũ như giữ lại hình dáng của một tiến trình lịch sử cộng đoàn, những thế hệ đi qua đã in dấu ngôi Nhà Thờ này, sóng gió như chính ngôi Nhà Thờ này đã đi qua. Giữ lại hình dáng ngôi Nhà Thờ này cũng một phần vì lý do tài chính, khó có thể kiếm tiền để xây dựng những hình dáng sang trọng cầu kỳ hơn, Nhà Thờ sang thì các bàn ghế thiết bị cũng phải trọng, Nhà Thờ mộc mạc thì nội thất cũng mộc mạc như vậy thôi. Hơn nữa còn nhiều Giáo Sở chưa có Nhà Thờ, có những Giáo Sở vẫn còn phải mượn nhà dân để dâng Lễ.

( Ảnh chụp cha Sylvère Drouin, DCCT, và anh em dân tộc ở Fyan ).

Trong bài giảng Thánh Lễ, Đức Giám Mục nhắc mọi người “sẽ khó coi nếu Nhà Thờ sang trọng mọc lên giữa những ngôi nhà nghèo nàn của cộng đoàn chúng ta”. Điều mà vị Giám Mục theo đuổi ấy là xây dựng ngôi nhà tinh thần thờ phượng Thiên Chúa trước khi xây dựng ngôi nhà thờ phượng bằng gạch bằng đá.

Lễ khởi công đã xong, chia tay anh em về lại Sàigòn, một câu hỏi lớn vẫn luẩn quẩn trong tôi, câu hỏi của anh em hỏi nhau: “Làm sao kiếm đủ tiền để xây cho xong Nhà Thờ đây ?” Tôi cứ nhớ trong đầu hình ảnh cái chiếu trải ra ở giữa nhà, mấy chị em dân tộc ngồi vuốt từng đồng tiền xếp lại để đếm, tôi nhìn thấy toàn tiền lẻ phơi ra lạc lõng với diện tích của chiếc chiếu trải rộng. Xin phó thác cho Chúa mà thôi !

Lm. VĨNH SANG, DCCT, thứ bảy 22.3.2014

Năm mươi năm trôi qua, có những năm tháng ngôi Nhà Nguyện bị đóng cửa, 15 năm những người tin vào Chúa đi ngang ngôi Nhà Nguyện này lặng lẽ cúi đầu, không có ánh đèn đỏ quen thuộc chầu Chúa, không còn tiếng chuông kinh koong nghe lạ tai mỗi sáng mỗi chiều, cánh cửa Nhà Thờ khép lại nghe lòng thấy đìu hiu, Khoảng sân nhỏ bên ngôi Giáo Đường hoang vắng. Ngôi mộ của cha già Lapointe vẫn nơi đó, đã có lần người ta đào mộ ngài định lấy cắp xương vì nghĩ có thể giả làm hài cốt lính Mỹ, nhưng vẫn là một sự lạ lùng, sáng ra con cái đi qua thấy ngôi mộ bị đào xới nhưng chưa chạm được đến nắp quan tài, kẻ có ý không ngay lành đã bỏ đi từ bao giờ bỏ lại ngôi mộ ngổn ngang đất cát. Ông cụ nằm đó, canh giữ bao nhiêu năm nay ngôi Nhà Thờ bé nhỏ, canh giữ niềm tin cho con cái mình. Không có đèn chầu nhưng vẫn có… người chầu !

Tác giả: Lm. Vĩnh Sang, DCCT

NGỌN ĐÈN ĐỨC TIN

NGỌN ĐÈN ĐỨC TIN

TGM Ngô Quang Kiệt

Ta nhìn thấy được là nhờ có ánh sáng.  Đôi mắt là ánh sáng của thân thể.  Nếu mắt hư hỏng, thì dù bên ngoài trời có sáng trưng, ta vẫn không thấy gì hết. Người bị hư mắt sống hoàn toàn trong đêm tối.

Có nhiều thứ đêm tối.  Cũng như có nhiều loại mắt.

Có thứ đêm tối u mê dốt nát.  Ánh sáng văn hoá có đó.  Sách vở chữ nghĩa có đó.  Nhưng ta không đọc được.  Vì ta mù chữ. Trí tuệ ta thiếu đôi mắt.  Nên ta chìm trong đêm tối u mê.

Có thứ đêm tối phàm phu. Thiên nhiên có biết bao cảnh đẹp.  Nhìn cảnh hoàng hôn, bình minh, người họa sĩ có thể xúc cảm vẽ nên những bức tranh tuyệt tác.  Ta không cảm được vẻ đẹp của đất trời vì ta không có cặp mắt họa sĩ.  Nghe chim ca, nhìn lá rụng, thi sĩ có thể viết nên những vần thơ.  Còn ta, ta không nghe được sứ điệp của chim, không cảm được nỗi buồn của lá, vì ta không có tâm hồn, ánh mắt nhạy cảm của nhà thơ.

Có thứ đêm tối đức tin. Cuộc sống thần linh có đó.  Thiên Chúa hiện hữu đó.  Nhưng ta không thấy được nếu ta không có đức tin.

Đức tin là ánh sáng soi rọi vào thế giới vô hình, cho ta thấy được những điều mà người không tin không thấy.  Đức tin là ngọn đèn soi cho ta bước đi trên con đường tiến về cuộc sống vĩnh cửu.  Ngọn đèn ấy chỉ đủ sáng cho ta bước từng bước nhỏ.  Trong khi bầu trời vẫn tối đen để ta phải phó thác tin yêu.

Tin là một thái độ dấn thân.  Người mù đi ra giếng Silôê rửa theo lời dạy của Chúa Giêsu vì anh tin.  Anh có thể nghi ngờ: Rửa nước giếng có gì tốt đâu?  Nhưng anh đã đi vì anh tin lời Chúa.  Tin rồi anh không ngồi lì một chỗ nhưng dấn thân, lên đường và hành động theo lời Chúa dạy.

  • Tin là một hành trình ngày càng gian khổ.  Đức tin cần phải có thử thách.  Thử thách như những bài học ngày càng cao, càng khó bắt người tin phải có thái độ lựa chọn ngày càng dứt khoát hơn.  Ta hãy dõi theo hành trình của anh thanh niên bị mù.

Thoạt tiên, việc dẫn thân của anh khá dễ dàng.  Anh chỉ việc đi ra giếng Silôê rửa bùn đất mà Chúa Giêsu đã đắp lên mắt anh.  Kế đó anh phải đối phó với một tình hình phức tạp hơn:  Người ta nghi ngờ anh.  Người ta tò mò xoi mói anh.  Nhưng anh đã vững vàng vượt qua thử thách đó.  Anh dõng dạc tuyên bố:  Chính tôi là người mù đã ăn xin tại cổng thành.

Tình hình phức tạp hơn khi gia đình anh tỏ ra thờ ơ lãnh đạm.  Anh khá đau lòng và cảm thấy cô đơn.  Anh được sáng mắt.  Anh có niềm tin.  Đó là một biến cố quan trọng thay đổi toàn bộ đời anh. Thế mà những người thân thiết nhất là cha mẹ, anh chị em trong gia đình vẫn thờ ơ, lãnh đạm.  Để vững niềm tin vào Chúa, anh đành chấp nhận hành trình đơn độc.  Vì tin Chúa anh đành cam chịu sự thờ ơ lãnh đạm của những người thân.  Trung thành với niềm tin đã làm trái tim anh rướm máu.

Sự căng thẳng lên đến cực điểm khi anh phải đối đầu với quyền lực tôn giáo.  Họ mạt sát anh là sinh ra trong tội lỗi.  Họ tố cáo Chúa Giêsu đã lỗi phạm luật nghỉ ngày Sabbat.  Và sau cùng, họ khai trừ anh khỏi hội đường.  Đây là hình phạt nặng nề nhục nhã nhất đối với người Do Thái.  Bị gia đình từ bỏ.  Giờ đây lại bị xã hội chối từ.  Anh trở thành người cô đơn nhất.  Đây là thử thách lớn lao nhất. Nhưng anh vẫn vững vàng vượt qua.  Lựa chọn của anh giờ đây là dứt khoát.  Mất tất cả chỉ để trung tín với niềm tin của mình.

Đúng lúc đau đớn nhất Chúa Giêsu lại xuất hiện.  Như để khen thưởng cho đức tin kiên vững của anh.  Chúa Giêsu tỏ cho anh biết Người là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa.  Lập tức anh quỳ sấp mặt xuống thờ lạy Người.  Hành trình niềm tin gian khổ thế là chấm dứt.  Anh đã gặp được Chúa Kitô.

Như thế niềm tin tăng dần theo với thử thách.  Thử thách càng cao, đức tin càng mạnh.  Thoạt tiên, anh coi Chúa Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó trong muôn vạn người: “Một người tên là Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi”.  Những câu hỏi của đám đông, những tra vấn của Pharisêu khiến anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhận rằng: “Ngài thật là vị tiên tri”.  Khó khăn bắt bớ của giới chức tôn giáo thời đó lại khiến anh khẳng định: “Người từ Thiên Chúa mà đến”.  Và sau cùng anh đã nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.

Đức tin giống như hạt ngọc bị lớp đất bụi che phủ.  Những khó khăn thử thách giống như chiếc dũa, dũa sạch bụi đá.  Càng dũa nhiều, ngọc càng sáng.  Đức tin giống như ngọn đèn.  Thử thách gian khổ là dầu.  Càng có nhiều dầu gian khổ, đèn đức tin càng toả sáng, càng toả nóng.

Hành trình đức tin của anh thanh niên mù chính là khuôn mẫu cho hành trình đức tin của mỗi người chúng ta.  Anh thanh niên mù đã chiến đấu với những bóng tối vây phủ đức tin của anh.  Anh đã kiên trì và đã chiến thắng.  Anh đã ra khỏi tối tăm, gặp được Chúa Kitô nguồn ánh sáng.  Đời anh từ nay tràn ngập ánh sáng niềm tin.  Còn tôi, tôi đã chiến đấu thế nào với những thế lực bóng tối đe dọa đức tin của tôi?  Những bóng tối nghi kỵ, những bóng tối thù hận, những bóng tối độc ác, những bóng tối tự mãn kiêu căng, những bóng tối dục vọng tội lỗi.  Tôi có can đảm chiến đấu để phá tan những bóng tối đó không?

Anh thanh niên mù đã giữ ngọn đèn đức tin khỏi mọi bão gió, lại còn đổ dầu đầy bình, giữ cho đèn cháy sáng cho đến khi gặp Chúa Kitô.  Ngày Rửa Tội, Chúa đã trao cho tôi ngọn đèn đức tin.  Biết bao ngọn gió đã thổi ngang đời tôi, muốn dập tắt ngọn đèn đức tin của tôi.  Liệu tôi có giữ được ngọn đèn đức tin cháy sáng cho đến ngày ra gặp mặt Chúa?

Mùa Chay chính là cơ hội cho tôi khêu ngọn đèn đức tin cho sáng, đổ dầu đầy bình cho ngọn đèn đức tin cháy mãi.  Dầu, đó là sự ăn chay, cầu nguyện, là thống hối, là hoà giải, là chia sẻ cho người túng thiếu.  Xin Chúa Kitô là ánh sáng trần gian dẫn con đi suốt hành trình đức tin để con thoát mọi bóng tối, đến gặp Người là ánh sáng tinh tuyền, ánh sáng vĩnh cửu.

TGM Ngô Quang Kiệt

From: ThiênKim & chị Nguyễn Kim Bằng gởi

‘Dậy sóng’ với tâm thư của người Nhật gửi Việt Nam

‘Dậy sóng’ với tâm thư của người Nhật gửi Việt Nam

(Tệ nạn xã hội) – Một bạn trẻ người Nhật từng du học ở Việt Nam vừa có bài viết gửi giới trẻ Việt Nam khiến dư luận xôn xao.

Bài viết về văn hóa con người Việt Nam của một bạn du học sinh Nhật. Nội dung bài viết như sau:

“Việt Nam – nhà giàu và những đứa con chưa ngoan

Tôi đang là một du học sinh Nhật, có hơn 4 năm sinh sống tại Việt Nam. Với ngần ấy thời gian, tôi đã kịp hiểu một đạo lý giản đơn của người Việt: “Sự thật mất lòng”. Song không vì thế mà tôi sẽ ngoảnh ngơ trước những điều chưa hay, chưa đẹp ở đây. Hy vọng những gì mình viết ra, không gì ngoài sự thật, như một ly cà phê ngon tặng cho mảnh đất này, tuy đắng nhưng sẽ giúp người ta thoát khỏi cơn ngủ gục – ngủ gật trước những giá trị ảo và vô tình để những giá trị thật bị mai một.

Tôi có một nước Nhật để tự hào


image

Tôi tự hào vì nơi tôi lớn lên, không có rừng vàng biển bạc. Song, “trong đêm tối nhất, người ta mới thấy được, đâu là ngôi sao sáng nhất”.

Thế đấy, với một xứ sở thua thiệt về mọi mặt, nghèo tài nguyên, hàng năm gánh chịu sự đe dọa của hàng trăm trận động đất lớn nhỏ lại oằn mình gánh chịu vết thương chiến tranh nặng nề, vươn lên là cách duy nhất để nhân dân Nhật tồn tại và cho cả thế giới biết “có một nước Nhật như thế”.

Tôi tự hào vì đất nước tôi không có bề dày văn hiến lâu đời nên chúng tôi sẵn sàng học hỏi và tiếp nhận tinh hoa mà các dân tộc khác “chia sẻ”. Từ trong trứng nước, mỗi đứa trẻ đã được học cách cúi chào trước người khác. Cái cúi chào ấy là đại diện cho hệ tư tưởng của cả một dân tộc biết trọng thị, khiêm nhường nhưng tự trọng cao ngời.

Tôi tự hào vì đất nước tôi được thử thách nhiều hơn bất kỳ ai. Khi thảm họa động đất sóng thần kép diễn ra, cả thế giới gần như “chấn động”. Chấn động vì giữa hoang tàn, đổ nát, đói khổ và biệt lập, người ta chỉ nhìn thấy từng dòng người kiên nhẫn xếp hàng nhận cứu trợ và cúi đầu từ tốn cảm ơn. Không có cảnh hôi của, lên giá, cướp bóc, bạo lực nào diễn ra giữa sự cùng khổ. Chỉ chưa đầy một năm sau khi hàng loạt thành phố bị xóa sổ hoàn toàn, sự sống lại bắt đầu hồi sinh như chưa từng có biến cố nào đã xảy ra. Thế đấy, không có những thành tích to lớn để nói về nước Nhật nhưng thương hiệu “made in Japan”, là thương hiệu uy tín vượt trên mọi khuôn khổ, tiêu chuẩn khắt khe, được toàn cầu tôn trọng nhất mà tôi từng biết.

Bạn cũng có một nước Việt để tự hào

Nói Việt Nam là một “nhà giàu”, quả là không ngoa. Giàu tài nguyên, giàu truyền thống, giàu văn hóa…Nhưng con cháu của nhà giàu, sẽ phải đối mặt với những vấn đề nan giải của nhà giàu. Và không phải ai cũng biết cách sống có trách nhiệm trong sự giàu có ấy.

Thật đáng tự hào nếu bạn được lớn lên ở một đất nước được thiên nhiên ưu đãi với rừng vàng biển bạc. Đáng xấu hổ nếu xem đó là khoản thừa kế kếch xù, không bao giờ cạn. Thật tiếc đó lại là những gì tôi thấy.

Tại các thành phố, chỉ cần nhà mình sạch sẽ là được, ngoài phạm vi ngôi nhà, bẩn đến đâu, không ai quan tâm. Ở các nhà máy, nếu không biết dồn rác thải ở đâu, họ sẽ cho chúng ra ngoài đường, sông suối, biển cả vì đó là “tài sản quốc gia” – đã có quốc gia lo, không phải việc của mỗi người dân. Tại một đất nước mà 80% dân số sống bằng nghề nông, đất đai, nước ngầm hầu như đã bị nhiễm độc, đến nỗi, người ta nói vui trong năm nữa thôi sẽ là thời đại của ung thư vì ăn gì cũng độc, không ít thì nhiều, không thể khác. Vì sao nên nỗi?

Thật đáng tự hào vì Việt Nam có 4000 năm văn hiến. Thật xấu hổ nếu 4000 năm văn hiến chỉ là một chương trong sách lịch sử chứ không được thể hiện trong cách hành xử đời thường. Thật buồn vì đó cũng là điều tôi thấy mỗi ngày.

Hãy chỉ cho tôi thấy rằng tôi đã sai nếu nói: Người Việt không biết xếp hàng, xếp hàng chỉ dành cho học sinh tiểu học; người Việt không biết tự hào về người Việt, nếu không thì Flappy Bird đã không phải chết yểu đau đớn; người Việt chửi hay còn hơn hát, cứ xách ba lô ra tới thủ đô một chuyến thì sẽ được mục sở thị; người Việt vẫn còn luyến tiếc văn hóa làng xã, giai cấp nếu không phải thế thì họ đã không đứng thẳng người chửi đổng và cúi rạp mình trước quyền lực bất công mà chẳng dám lên tiếng; người Việt có đôi mắt siêu hạng nhất vì nhìn đâu cũng thấy cơ hội để mánh mun, lọc lừa.

image

Tôi chưa từng thấy đất nước nào mà các bậc mẹ cha dạy dỗ con cháu cố gắng học hành để sau này là bác sỹ, phi công, thuyền trưởng… mà xuất phát không vì đam mê mà vì phong bì nhiều, đút lót dễ, giàu sang mấy hồi…Vì đâu nên nỗi?

Người Việt có một nền di sản độc đáo, một nguồn sức mạnh vô cùng to lớn, ai cũng nhìn thấy, chỉ có người Việt là không thấy hoặc từ chối nhìn thấy. Vì sao nên nỗi?

Tôi đang nhìn thấy một thế hệ, họ không còn biết phải tin vào điều gì, thậm chí còn không dám tin vào chính mình. Là một người Việt – khó lắm! Thật vậy sao?”.

image

Thân phận nông dân Việt Nam

Thân phận nông dân Việt Nam

Thanh Quang, phóng viên RFA
2014-03-25

000_Hkg9232650-600.jpg

Thu hoạch bắp cải trên một cánh đồng ở ngoại ô Hà Nội ngày 26 tháng 11 năm 2013

AFP photo

Người nông dân VN tự ngàn xưa đã phải “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Rồi kể từ ngày Bác Hồ ra sức mang lại “người cày có ruộng” để “ai cũng có cơm ăn, áo mặc”, thì thân phận người trồng lúa hiện giờ có khá hơn không?

Đời nào cũng khổ

Giữa lúc người nông dân VN, như công luận đã rõ, trên thực tế, hầu như “đời nào cũng khổ” dù được “tôn lên” là thuộc “liên minh công-nông tiên tiến” “đưa đất nước ta vững bước vào thiên niên kỷ thứ ba trong sự lãnh đạo tài tình của đảng thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, thì tại ĐBSCL, “vựa lúa gạo, trái cây, thủy sản lớn nhất nước” – nói theo lời Vụ trưởng Vụ Kinh tế Trần Hữu Hiệp của Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ, một nông dân than rằng:

Nói chung, thu nhập nông dân hiện rất thấp trong bối cảnh vật giá leo thang, mọi mặt hàng tiêu dùng đâu có hạ giá trong khi nông dân bán lúa bị hạ giá. Mà một phần cũng tại “ông Hiệp hội” cứ ép giá khiến nông dân phải bán lúa rẻ, nên chịu khổ. Nông dân giờ ở đâu cũng đều khổ hết !

Một nông dân ở An Giang cũng than về thân phận người trồng lúa:

Làm ruộng mấy năm trước, cái giá lúa có thì nông dân cũng đỡ. Chớ còn mấy năm nay, cái giá lúa nó không có đó. Hầu như là tòan bộ nông dân cũng khổ lắm. Rốt cuộc thì nông dân chịu thiệt thòi !

Theo Vụ trưởng Trần Hữu Hiệp vừa nói thì “Người nông dân không định được từ giá thành đến giá bán các sản phẩm nông nghiệp của mình. Thực tế là, thu nhập của những người tạo ra kỳ tích cho nền nông nghiệp Việt Nam vẫn đang bấp bênh theo giá cả thị trường. Một kết quả nghiên cứu về ‘Chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo’ cho thấy, với bình quân đất sản xuất hiện tại, một gia đình thuần nông không thể làm giàu. Sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, nên 30% lợi nhuận của nông dân (nếu có) chia cho số nhân khẩu trong hộ còn thấp hơn mức thu nhập một đô la Mỹ/người/ngày !”.

Hồi tháng Giêng vừa rồi, nông dân Hồ Thị Kim Phượng thuộc xã Long Sơn, huyện Cần Đước, tỉnh Long An có viết bài “Làm người nông dân sao khổ thế!”, tâm sự rằng “ có lẽ ở VN ta không nghề nào cực khổ, đen đủi hơn nghề nông. Từ lúc làm ra hạt giống để gieo sạ là đã khổ rồi…Hạt giống lên rồi thì phải vay mượn tiền ngân hàng mà trả tiền cày xới, mua phân bón, thuốc trừ sâu rầy…. với cái giá đại lý hét bao nhiêu chúng tôi phải trả bấy nhiêu, không có quyền cò kè trả giá thêm bớt đồng một đồng hai”.

“  Nói chung, thu nhập nông dân hiện rất thấp trong bối cảnh vật giá leo thang, mọi mặt hàng tiêu dùng đâu có hạ giá trong khi nông dân bán lúa bị hạ giá.
Nông dân giờ ở đâu cũng đều khổ hết !
– Ông Trần Hữu Hiệp ”

Ngòai tình trạng mà báo chí trong nước gọi là những “cú sốc giá”, hay nói như lời người nông dân Kim Phượng, “điệp khúc (muôn đời) trúng mùa mất giá”, thì người nông dân hết bị thiên tai lại gặp “nhân tai”, như nạn thủy điện xã lũ làm thiệt hại hoa màu, thậm chí chết người, rồi đèn đường cao tốc làm cây lúa không trổ bông…

Lên tiếng với báo Dân Trí,  TS Nguyễn Lân Dũng từ Hà Nội lưu ý rằng trong khi người nông dân VN, “họ khổ như vậy nhưng chúng ta có những chính sách làm họ khổ thêm” !

Sau khi “thấm thía” tình cảnh người nông dân qua tác phẩm “Chân trời vỡ đôi” báo động “thực trạng đau lòng về nông dân VN từ hơn nửa thế kỷ này là giai cấp luôn bị lợi dụng và lạm dụng”, “vẫn không thoát khỏi bi kịch khốn khổ, buồn đau bởi nghèo đói và đủ thứ đè nén, lừa gạt”, như một “điềm báo” cho thân phận dân oan Đòan Văn Vươn, nhà văn Nguyễn Hiếu không quên lưu ý rằng “ Gần hai mươi năm qua kể từ khi hội nhập và đổi mới, cơn bão các dự án công nghiệp tràn ngập vào nước ta huỷ hoại một cách tàn khốc những cánh đồng và môi trường Việt Nam…Những sản vật tôm cá đặc sản của các dòng sông, dòng kênh của cả nứơc ta đang chết dần chết mòn đi đến huỷ diệt vì chất thải công nghiệp, vì cách đánh bắt không nghĩ đến ngày mai …”.

Bị bóc lột thậm tệ

000_APH2002010775969-250.jpg

Nông dân cuốc đất chuẩn bị cho vụ mùa mới. AFP photo

Qua bài “ Nông dân – người khổ nhất nước ta hiện nay ?”, nhà văn Nguyễn Hiếu mô tả:

Những cánh đồng mầu mỡ, thẳng cánh cò bay bị tàn sát không thương tiếc thì người đón nhận thiệt hại đầu tiên là nông dân. Một thủa người nông dân vui mừng được chia ruộng, rồi lại thu lại bị lùa vào hợp tác để rồi đẻ ra tình trạng “mỗi người làm việc bằng hai để cho chủ nhiệm mua đài mua xe”. Và ngày nay giá đất đền bù cho mỗi mét đất màu mỡ trong mảnh ruộng nuôi sống người nông dân hàng ngàn đời chỉ bằng một phần trăm giá khi người ta dựng lên những khu đô thị, khu công nghiệp.

Người nông dân mất ruộng và mất luôn hi vọng trước những lời hứa về khu định cư, về việc làm…Cuối cùng chỉ là những lời hứa hão trước những khu tồi tàn, và con cái họ đã trở thành đội quân thất nghiệp trên chính quê hương, mảnh đất của mình. Bi kịch của người nông dân xuất hiện từ đây !

Cái “bi kịch nông dân” ấy được nhà văn Phạm Đình Trọng từ Saigòn bổ sung thêm:

Cái khổ lớn nhất của nông dân bây giờ là họ bị mất đất đai. Đó mới là điều nguy hiểm ! Tức là trong số người dân VN hiện nay, thì giới nông dân là khổ nhất và cuộc sống của họ bị đe dọa đến tận cùng rồi. Người nông dân phải thay trâu cày cũng đã là khổ rồi, nhưng cái nguy hiểm hơn là đất của họ có thể bị tước mất vào bất cứ lúc nào. Đó mới là điều đen tối, nguy hiểm và bi đát của người nông dân ngày nay.

Nhà báo Trúc Lê trong nước nhận thấy “ người nông dân cho dù cố bảo vệ ruộng đồng của họ thì cuối cùng vẫn bị phá vỡ. Họ không có khả năng chống cự lâu dài được. Đến lúc đó, có những điều tồi tệ sẽ đến. Và vụ việc ở Tiên Lãng, Hải Phòng là một trong những điều tồi tệ đó…, cho thấy một cách xử lý bất hợp lý ( và vô nhân) của chính quyền với người nông dân. Song điều hệ trọng hơn là chính quyền đã không hiểu và không có cảm xúc về lịch sử và công lao của người nông dân với đồng ruộng của họ”.

“ Người nông dân ngày nay bị bóc lột thậm tệ nhất chủ yếu là do các nhóm lợi ích cấu kết với các thế lực, quyền lực. Pháp luật hiện hành cùng chính quyền hòan tòan không đứng về phía người nông dân.
– Nhà văn Phạm Đình Trọng”

Nhà văn Phạm Đình Trọng xem chừng như không dằn được bực tức:

Bây giờ là cái thời của các nhóm lợi ích. Và các nhóm này cấu kết với giới quyền lực để cướp bóc người nông dân. Hiện giờ không có gì để bảo vệ người nông dân cả. Người nông dân ngày nay bị bóc lột thậm tệ nhất chủ yếu là do các nhóm lợi ích cấu kết với các thế lực, quyền lực. Pháp luật hiện hành cùng chính quyền hòan tòan không đứng về phía người nông dân.

Nói đến đây, có lẽ người ta không khỏi liên tưởng đến nguyện vọng tột cùng của Bác Hồ dành cho người dân Việt là “Ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”, nên Bác đã nỗ lực mang lại cảnh “người cày có ruộng”. Cái cảnh đó hiện giờ ra sao công luận đã rõ; nhưng nếu có, thì đó lại là hình ảnh “khổ nhất nước’ của giới chân lấm tay bùn – mà nói theo nhà thơ Trần Ngọc Thụ:

Ông lão dắt trâu đi bừa

Là con ông lão ngày xưa đi cày.

 

Hậu quả của khủng bố và đức hạnh của hy vọng

Hậu quả của khủng bố và đức hạnh của hy vọng

Chuacuuthe.com

140324005

VRNs (24.03.2014) – Đức Quốc – Hơn 40 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã biệt Việt Nam. Vào năm 2015, thế giới sẽ chứng kiến kỷ niệm lần thứ 40 chiến thắng của Cộng sản và nhiều người sẽ gọi đó là ngày “giải phóng”.

Ga xe lửa Huế, nơi một đầu máy và một toa hành lý khởi hành chuyến tầu tượng trưng 500 thước mỗi buổi sáng vào lúc 8 giờ sẽ không còn đáng đi vào kịch trường của sự phi lý nữa. Nó đã được phục hồi đẹp đẽ và sơn phết lại mầu hồng. Một lần nữa, tương tự như những ngày dưới sự thống trị của người Pháp, nó là nhà ga xe lửa đẹp nhất vùng Đông Dương và tài xế tắc-xi không phải chờ đợi vô ích bên ngoài. Mười chuyến tầu thong dong chạy qua mỗi ngày, năm chuyến xuôi Nam và năm chuyến ra Bắc. Gộp chung lại chúng được mệnh danh một cách không chính thức là Tàu Tốc Hành Thống Nhất. Chẳng lẽ nào tôi lại không mừng vui?

Chuyện này có khác nào bên Đức khi bức tường Bá Linh đổ xuống và những bãi mìn biến mất, và nay những chuyến tầu cao tốc phóng ngược xuôi giữa hai xứ nguyên là Cộng sản bên Đông và Dân chủ bên Tây với tốc độ lên tới 200 dặm một giờ?

Hiển nhiên là tôi rất vui khi chiến tranh kết thúc và Việt Nam được thống nhất và phát triển, những chuyến xe lửa đã hoạt động trở lại và các bãi mìn đã được tháo gỡ. Nhưng đến đây thì sự tương đồng với nước Đức chấm dứt. Nước Đức hoàn thành sự thống nhất, một phần nhờ người dân tại Đông Đức đã lật đổ chế độ độc tài toàn trị bằng những cuộc biểu tình và phản kháng ôn hòa, một phần nhờ vào sự khôn ngoan của các nguyên thủ quốc tế như các vị Tổng thống Ronald Reagan và George G.W. Bush, của Thủ tướng Helmut Kohl, của lãnh tụ Sô Viết Mikhail Gorbachev, và cũng phần khác vì sự sụp đổ có thể đoán trước được của hệ thống xã hội chủ nghĩa sai lầm trong khối Sô Viết. Không có ai bị thiệt mạng trong tiến trình này, không một ai bị tra tấn, chẳng có ai phải vào trại tù và cũng không có ai bị buộc phải trốn chạy.

Có một khuynh hướng khó hiểu, ngay cả trong số các vị học giả đáng kính của phương Tây đã diễn tả sự kiện Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam như là một cuộc “giải phóng”. Điều này đặt ra một câu hỏi: giải phóng cái gì và cho ai? Có phải miền Nam đã được “giải phóng” khỏi sự áp đặt một nhà nước độc đảng toàn trị được xếp hạng chung với những chế độ vi phạm tồi tệ nhất thế giới về các nguyên tắc tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí? Một cái thứ giải phóng gì đã làm chết 3,8 triệu người dân Việt từ 1954 đến 1975 và đã buộc hơn một triệu người khác phải trốn ra khỏi đất nước, không những từ miền Nam bại cuộc mà cả từ những bến cảng miền Bắc và làm từ 200.000 đến 400.000 người gọi là thuyền nhân bị chết đuối?

Có phải là hành động giải phóng không khi xử tử 100.000 người lính miền Nam và viên chức chính phủ sau ngày Sài Gòn thất thủ? Phải chăng chỉ là một màn trình diễn nhân đạo của bên thắng cuộc bằng cách lùa từ một triệu đến hai triệu rưỡi người miền Nam vào các trại tù cải tạo, trong đó có khoảng 165.000 người mất mạng và hàng ngàn người khác đã bị tổn thương sọ não lâu dài và bị các vấn đề tâm thần do hậu quả của tra tấn, theo một cuộc nghiên cứu của một nhóm học giả quốc tế do Bác sĩ tâm thần Richard F. Molina của đại học Harvard dẫn đầu?

Từ giữa những năm 1960, những tay bịa đặt chuyện huyền thoại về chính trị và lịch sử của phương Tây, hoặc ngây thơ hoặc bất lương, đã chấp nhận lời giải thích của Hà Nội rằng cuộc xung đột là một cuộc “chiến tranh nhân dân”. Cũng đúng thôi nếu chấp nhận định nghĩa của MaoTrạch Đông và Võ Nguyên Giáp về cụm chữ đó. Nhưng theo luật văn phạm về sở hữu tự theo cách Saxon Genitive qui định thì “chiến tranh nhân dân” phải được hiểu là cuộc “chiến tranh của nhân dân”.

Thực tế không phải như vậy. Ðã có khoảng 3,8 triệu người Việt Nam đã bị giết giữa các năm 1954 và 1975. Khoảng 164.000 thường dân miền Nam đã bị thủ tiêu trong cuộc tru diệt bởi Cộng sản trong cùng thời kỳ, theo nhà học giả chính trị Rudolf Joseph Rummel của trường Đại học Hawaii. Ngũ Giác Ðài ước tính khoảng 950.000 lính Bắc Việt và hơn 200.000 lính VNCH đã ngã xuống ngoài trận mạc, cộng thêm 58.000 quân Hoa Kỳ nữa. Đây không thể là một cuộc chiến tranh của nhân dân mà chính là chiến tranh chống nhân dân.

Trong tất cả những lập luận đạo đức giả về cuộc chiến Việt Nam ta gặp quá thường trong vòng 40 năm qua, cái câu hỏi quan trọng nhất đã bị mất dấu hay AWOL, nếu dùng một từ ngữ viết tắt quân sự có nghĩa là “vắng mặt không phép”, câu hỏi đó là: Dân Việt Nam có mong muốn một chế độ Cộng sản hay không? Nếu có, tại sao gần một triệu người miền Bắc đã di cư vào Nam sau khi đất nước bị chia cắt năm 1954, trong khi chỉ có vào khoảng 130.000 cảm tình viên Việt Minh đi hướng ngược lại?

Ai đã khởi đầu cuộc chiến tranh? Có bất kỳ đơn vị miền Nam nào đã hoạt động ở miền Bắc hay không? Không. Có du kích quân miền Nam nào vượt vĩ tuyến 17 để mổ bụng và treo cổ những người trưởng làng thân cộng, cùng vợ và con cái họ ở đồng quê miền Bắc hay không? Không. Chế độ miền Nam có tàn sát cả một giai cấp hàng chục ngàn người trên lãnh thổ của họ sau năm 1954 bằng cách tiêu diệt địa chủ và các đối thủ tiềm năng khác theo cách thống trị theo lối Sô Viết của họ hay không? Không. Miền Nam có thiết lập chế độ độc đảng toàn trị hay không? Không.

Với cương vị một người công dân Đức, tôi không can dự gì đến cuộc chiến này, hay nói theo lối người Mỹ là “I have no dog in this fight” (tôi chẳng có con chó nào trong vụ cắn lộn này cả). Nhưng, nhằm chú giải cho cuốn sách “Lời nguyện của nhà báo”, tương tự như các phóng viên kỳ cựu có lương tâm, lòng tôi đã từng và vẫn còn đứng về phía dân tộc Việt Nam nhiều đau thương. Lòng tôi hướng về những người phụ nữ tuyệt vời với tính tình rất thẳng thắn và vui vẻ; hướng về những người đàn ông Việt Nam khôn ngoan và vô cùng phức tạp đang theo đuổi giấc mơ tuyệt hảo theo phong cách Khổng giáo; hướng về các chiến binh giống như trẻ con đi ra ngoài mặt trận mang theo cái tài sản duy nhất là một lồng chim hoàng yến; hướng về các góa phụ trẻ trong chiến tranh với cơ thể bị nhào nặn méo mó chỉ vì muốn bắt một tấm chồng lính Mỹ nhằm tạo một ngôi nhà mới cho con cái và có thể cho chính họ, còn hơn là đối mặt với độc tài Cộng sản; hướng về nhóm trẻ em bụi đời trong thành thị cũng như ngoài nông thôn săn sóc lẫn nhau và những con trâu đồng. Với trái tim chai cứng còn lại, lòng tôi thuộc về những người trốn chạy khỏi lò sát sinh và vùng chiến sự, luôn luôn đi về hướng Nam mà không bao giờ về hướng Bắc cho đến tận cùng, khi không còn một tấc đất nào vắng bóng Cộng sản nữa để mà trốn. Tôi đã chứng kiến họ bị thảm sát hay bị chôn sống trong những ngôi mồ tập thể và mũi tôi vẫn còn phảng phất mùi hôi thối của những thi thể đang thối rữa.

Tôi không có mặt vào lúc Sài Gòn thất thủ sau khi toàn bộ các đơn vị Quân Lực VNCH, thường xuyên bị bôi bẩn một cách ác độc bởi truyền thông Hoa Kỳ, giờ đây bị những đồng minh người Mỹ của họ bỏ rơi, đã chiến đấu một cách cao thượng, biết rằng họ không thể thắng hay sống sót khỏi trận đánh cuối cùng này. Tôi đang ở Paris, lòng sầu thảm khi tất cả những chuyện này xẩy ra và tôi ước gì có dịp tỏ lòng kính trọng năm vị tướng lãnh VNCH trước khi họ quyên sinh lúc mọi chuyện chấm dứt, một cuộc chiến mà họ đã có thể thắng: Lê Văn Hưng (sinh năm 1933), Lê Nguyên Vỹ (sinh năm 1933), Nguyễn Khoa Nam (sinh năm 1927), Trần Văn Hai (sinh năm 1927) và Phạm Văn Phú (sinh năm 1927).

Khi tôi viết đoạn kết này, một ký giả đồng nghiệp và một loại học giả sinh năm 1975 khi Sài Gòn bị thất thủ, đã tự tạo cho bản thân một thứ tên tuổi bằng cách bêu xấu tội ác chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Vâng, họ thật đáng bị bêu xấu. Đúng, đó là sự thật. Mỹ Lai có thật. Tôi biết, tôi đã có mặt trong phiên tòa mặt trận khi Trung úy William Calley bị kết án là có tội. Tôi biết cái tiêu chuẩn đếm xác chết được tôn sùng bởi đầu óc méo mó của các cấp chỉ huy quân sự cũng như dân sự thời đại Mc Namara tại Washington và bản doanh Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã làm tổn hại hàng ngàn mạng sống của người dân vô tội.

Nhưng không có hành vi tàn ác nào của các đơn vị rối loạn Hoa Kỳ và VNCH có thể sánh bằng cuộc tàn sát do lệnh nhà nước giáng xuống đầu người miền Nam nhân danh Hồ Chí Minh. Những tội ác mà cho đến ngày nay những kẻ kế thừa thậm chí vẫn không thừa nhận vì không ai có cái dũng cảm hỏi họ: Tại sao các anh thảm sát tất cả những người vô tội mà các anh rêu rao là đi chiến đấu để giải phóng họ?

Với tư cách một người Đức, tôi xin được thêm một đoạn chú thích như sau: tại sao các anh giết người bạn của tôi là Hasso Rüdt von Collenberg, tại sao lại giết các bác sĩ người Đức ở Huế, và anh Otto Söllner tội nghiệp mà “tội ác” duy nhất là dạy trẻ em Việt Nam cách điều khiển một ban nhạc hòa tấu? Tại sao các anh bắt cóc những thanh niên thiện nguyện Knights of Malta, làm cho một số bị chết trong rừng rậm và số khác thì bị giam cầm tại Hà Nội? Tại sao các anh không bao giờ tự xét lương tâm về những hành động đó, theo cách những người Mỹ chính trực trong khi họ đã được xác định một cách đúng đắn là họ thuộc về phía lẽ phải trong cuộc Đại Chiến Thứ Hai, vẫn bị dằn vặt bởi cái di sản khủng khiếp để lại vì đánh bom rải thảm những khu dân cư trong nước Đức và tấn công bằng bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki?

Hồi tưởng lại cuộc thử thách trên con đường mòn Hồ Chí Minh trong tạp chí Der Spiegel, cô y tá Tây Đức Monika Schwinn nhớ lại cuộc gặp gỡ với các đơn vị chiến đấu Bắc Việt trên đường xuống phía Nam như là một trong những kinh nghiệm khủng khiếp nhất. Cô diễn tả cái cường độ của mối hận thù trên khuôn mặt của những tên lính đó và cô viết chính những tên Việt Cộng canh chừng phải khó khăn lắm mới ngăn chận họ không giết những người Đức ngay tại chỗ. Không có ai sinh ra là biết hận thù cả. Sự thù hận chỉ có thể có được do dậy dỗ. Nuôi dưỡng tính giết người trong lòng thanh niên là một khuôn phép huấn luyện chỉ có trường phái chủ nghĩa toàn trị là giỏi nhất.

Trong cuốn tiểu sử rất hay nói về tay chỉ huy SS Heinrich Himmler, sử gia Peter Longerich diễn tả là ngay cả gã sáng lập viên cái lực lượng tàn độc gồm những tên côn đồ mặc đồ đen cũng khó lòng buộc thuộc hạ vượt qua sự kiềm chế tự nhiên để thi hành lệnh thảm sát Holocaust (Longerich. Heinrich Himmler. Oxford: 2012).

Chính cái ánh mắt thù hận của những tên sát nhân Bắc Việt tại Huế làm ám ảnh những người tôi phỏng vấn hơn cả. Nhưng dĩ nhiên phải dành nhiều thời gian với họ, chịu sự đau khổ cùng họ, tạo niềm tin và trò chuyện với họ thì mới khám phá ra cái cốt lõi của một phần nhân tính con người, một hiểm họa về mặt chính trị và quân sự vẫn còn quanh quẩn bên chúng ta từ bốn thập niên qua. Chỉ phán ý kiến về nó từ trên tháp ngà đài truyền hình New York hay các trường đại học Ivy League thì không bao giờ đủ cả.

Trong một cuốn sách gây chú ý về đoàn quân Lê Dương Pháp, Paul Bonnecarrère đã kể lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đại tá đầy huyền thoại Pierre Charton và Tướng Võ Nguyên Giáp sau khi Pháp thất trận tại Điên Biên Phủ (Bonnecarrère. Par le Sang Versé. Paris: 1968). Charton là tù binh trong tay Cộng sản Việt Minh. Ông Giáp đến thăm Charton nhưng cũng để hả hê. Cuộc gặp gỡ xẩy ra trong một lớp học trước mặt khoảng 20 học viên đang tham dự một buổi tuyên truyền chính trị. Cuộc đối thoại giữa hai nhân vật đối chọi nhau đã xẩy ra như sau:

Giáp: “Tôi đã đánh bại ông, thưa Đại tá!”

Charton: “Không, ông không đánh bại tôi, thưa Đại tướng. Rừng rậm đã đánh bại chúng tôi… cùng sự hỗ trợ các ông đã nhận được từ người dân bằng các phương tiện khủng bố”.

Ông Võ Nguyên Giáp không ưa câu trả lời này và cấm các học viên không được ghi chép nó. Nhưng đó là sự thật, hay chính xác hơn: đó là một nửa của sự thật. Cái nửa kia là các nền dân chủ như Hoa Kỳ đúng là không được trang bị về chính trị và tâm lý để theo đuổi một cuộc chiến trường kỳ. Sự nhận thức này, cùng với cách sử dụng các phương tiện khủng bố đã trở thành trụ cột trong chiến lược của Võ Nguyên Giáp. Hắn đã đúng và hắn đã thắng. Thậm chí nguy hiểm hơn nữa là ngày nay các chế độ toàn trị đang chú ý đến điểm này.

Cho đến tận ngày hôm nay tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi cái kết luận tôi bắt buộc phải rút ra từ kinh nghiệm về Việt Nam là: khi một nền văn hóa bê tha hủ hóa đã mệt mỏi về lòng hy sinh, nó sẽ có khả năng vứt bỏ tất cả. Nó đã chín mùi để bỏ rơi một dân tộc mà đáng lẽ nó phải bảo vệ. Nó còn thậm chí sẵn sàng xóa đi những mạng sống, sức khoẻ về thể chất và tinh thần, nhân phẩm, trí nhớ và danh thơm của những thanh niên đã được đưa ra mặt trận. Điều này đã xẩy ra trong trường hợp các cựu chiến binh Việt Nam. Tác động của sự khiếm khuyết đã ăn sâu trong các nền dân chủ tự do này rất đáng sợ vì cuối cùng nó sẽ phá hỏng chính nghĩa và tiêu diệt một xã hội tự do.

Tuy nhiên tôi không thể kết thúc câu chuyện ở đây bằng điều tăm tối này được. Là một người quan sát về lịch sử, tôi biết là lịch sử, mặc dù được khép kín trong quá khứ, vẫn luôn luôn mở rộng ra tương lai. Là một Kitô hữu tôi biết ai là Chúa của lịch sử. Chiến thắng của Cộng sản dựa vào những căn bản độc ác: khủng bố, tàn sát và phản bội. Hiển nhiên tôi không biện minh cho chuyện tiếp tục đổ máu nhằm chỉnh lại kết quả, cho dù có khả thi đi chăng nữa. Nhưng là một người ngưỡng mộ tính kiên cường của dân tộc Việt Nam, tôi tin là họ sẽ cuối cùng tìm ra phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát khỏi những tay bạo chúa. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó sẽ xẩy ra.

Trong ý nghĩa này, tôi bây giờ chỉ muốn xếp hàng vào đoàn xích-lô bên ngoài ga xe lửa Huế vào năm 1972, nơi chẳng có người khách nào quay trở lại. Chỗ của tôi ở đâu bây giờ? Tôi còn lại gì nữa ngoài niềm hy vọng?

Uwe Siemon-Netto

Trích đoạn kết của: A reporter’s love for a wounded people

 

Đáp án Nước Trời

Đáp án Nước Trời

TRẦM THIÊN THU

VRNs (25.3.2014) – Sài Gòn – Phàm điều gì hoặc cái gì được biết rõ thì người ta mới mơ ước, khao khát. Thế nhưng không ai biết gì về Nước Trời, vậy mà ai cũng mơ ước cháy lòng. Lạ thật!

Chỉ có ba môn đệ được “nếm thử” hạnh phúc Nước Trời khi Chúa Giêsu cho họ thấy Ngài biến hình, rồi đàm đạo với ông Mô-sê và ông Ê-li-a (Mt 17: 1-8; Mc 9:2-8; Lc 9:28-36), và một vài vị thánh cũng được thị kiến về Thiên Đàng. Còn chúng ta hoàn toàn mù tịt.

Kinh thánh giúp chúng ta nhận biết Nước Trời.

Trên Nước Trời, chúng ta có kết hôn?

Minh họa. Ảnh goole

Minh họa. Ảnh goole

Chúa Giêsu nói: “Trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời” (Mt 22:30). Mối liên kết hôn nhân là “hình bóng” của Chúa Giêsu và Giáo hội lữ hành. Trên trời không còn hôn nhân như phàm nhân nữa.

Trên Nước Trời, chúng ta có thân xác?

Thánh Phaolô nói: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3:20-21).

Trên Nước Trời, có âm nhạc?

Có loại âm nhạc khác, không giống như nhạc thế gian. Kinh thánh có những chỗ nói tới âm nhạc. Khi Chúa Giêsu giáng sinh, các thiên thần đồng ca: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14). Sách Khải Huyền cũng cho biết rằng người ta đồng ca “Bài Ca Mới” (x. Kh 5:9-13).

Trên Nước Trời, chúng ta có nhận biết thân nhân và bạn bè?

Khi lập Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu nói: “Từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy” (Mt 26:29). Những người đã chết từ lâu mà các môn đệ vẫn có thể “nhận diện” là Mô-sê và Ê-li-a cùng đàm đạo với Chúa Giêsu (Mt 17:3).

Trên Nước Trời, điều gì sẽ xảy ra?

Kinh thánh nói: “Họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn. Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa” (Kh 7:15-16).

Trên Nước Trời, chúng ta có giới tính?

Chúa Giêsu đã quả quyết rằng mọi người “như thiên thần” (Mt 22:30; Mc 12:25). Chắc chắn có sự biến đổi tâm linh để nên giống hình ảnh Thiên Chúa hoàn toàn, không còn ngoại hình như phàm nhân, tức là không còn giới tính.

Trên Nước Trời, chúng ta có nhìn thấy Thiên Chúa?

Chắc chắn là CÓ! Nhưng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê: “Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống” (Xh 33:20). Thánh Phaolô khao khát: “Chúng tôi luôn mạnh dạn, và điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” (2 Cr 5:8). Trong Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giêsu đã nói: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5:8).

Trên Nước Trời, chúng ta sống thế nào?

Thánh Phaolô nói: “Công việc của mỗi người sẽ được phơi bày ra ánh sáng” (1 Cr 3:13).

Trên Nước Trời, có các động vật?

Từ tạo thiên lập địa, Thiên Chúa đã có mục đích cho mọi loài. Kinh thánh không trực tiếp đề cập sự sống đời sau, nhưng ngôn sứ I-sai-a mô tả: “Sói với chiên con sẽ cùng nhau ăn cỏ, sư tử cũng ăn rơm như bò, còn rắn sẽ lấy bụi đất làm lương thực. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá” (Is 65:25). Rõ ràng không còn nguy hiểm. Điều đó ngụ ý nói sự bình an trong Nước Trời và mọi loài vui mừng.

Nước Trời như thế nào?

Thánh Phaolô nói: “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người” (1 Cr 2:9). Sách Khải Huyền cho chúng ta một cái nhìn: “Đấng ngự đó trông giống như ngọc thạch và xích não. Chung quanh ngai có cầu vồng trông giống như bích ngọc. Chung quanh ngai có hai mươi bốn ngai khác, và trên những ngai đó có hai mươi bốn vị Kỳ Mục; các vị đang ngồi, mình mặc áo trắng, đầu đội triều thiên vàng. Từ ngai phát ra ánh chớp, tiếng sấm tiếng sét. Bảy ngọn đuốc, tức là bảy thần khí của Thiên Chúa cháy sáng trước ngai. Trước ngai có cái gì như biển trong vắt tựa pha lê. Ở giữa ngai và chung quanh ngai có bốn Con Vật, đằng trước và đằng sau đầy những mắt. Con Vật thứ nhất giống như sư tử, Con Vật thứ hai giống như bò tơ, Con Vật thứ ba có mặt như mặt người, Con Vật thứ bốn giống như đại bàng đang bay. Bốn Con Vật ấy, mỗi con có sáu cánh, chung quanh và bên trong đầy những mắt. Ngày đêm chúng không ngừng hô lên rằng: Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa, Thiên Chúa toàn năng, Đấng đã có, hiện có và đang đến!” (Kh 4:3-8). Khắp nơi là sự hiện diện và vẻ đẹp chói ngời của Thiên Chúa (x. Kh 21:23). Nước Trời được ví như Thành Giêrusalem Mới (Kh 3:12; Kh 21:2). Kinh Lạy Cha cho chúng ta biết rằng “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, đó là “thiết kế” của Nước Trời.

Trên Nước Trời, chúng ta sẽ làm gì?

Thánh Gioan nghe từ phía ngai có tiếng hô to: “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21:3-4).

Trên Nước Trời, chúng ta có trở thành thiên thần?

Chúa Giêsu nói rằng chúng ta sẽ “như các thiên thần” (Mt 22:30; Mc 12:25). Còn Thánh Gioan cho biết: “Thiên thần bảo tôi: ‘Hãy viết: Hạnh phúc thay kẻ được mời đến dự tiệc cưới Con Chiên!’. Người lại bảo tôi: ‘Đó là những lời chân thật của chính Thiên Chúa’. Tôi phủ phục xuống dưới chân người mà thờ lạy, nhưng người nói: ‘Đừng, đừng! Tôi cũng là một tôi tớ như ông và như các anh em của ông, những người giữ lời chứng của Đức Giêsu. Hãy thờ lạy Thiên Chúa’. Lời chứng của Đức Giêsu, là thần khí linh hứng cho ngôn sứ” (Kh 19:9-10).

Nước Trời có cổng hoặc cửa?

Thị kiến của Thánh Gioan: “Thành hình vuông: chiều dài cũng bằng chiều rộng. Rồi người lấy cây sậy đo thành, được mười hai ngàn dặm: chiều dài, chiều rộng và chiều cao đều bằng nhau. Người đo tường thành được một trăm bốn mươi bốn thước, theo thước đo của loài người cũng là của vị thiên thần. Tường xây bằng ngọc thạch, thành thì bằng vàng y, giống như thủy tinh trong sáng. Nền móng tường thành được trang trí bằng mọi thứ đá quý. Nền móng thứ nhất bằng ngọc thạch, nền móng thứ hai bằng lam ngọc, nền móng thứ ba bằng lục ngọc, nền móng thứ tư bằng bích ngọc, nền móng thứ năm bằng mã não, nền móng thứ sáu bằng xích não, nền móng thứ bảy bằng kim châu, nền móng thứ tám bằng lục châu, nền móng thứ chín bằng hoàng ngọc, nền móng thứ mười bằng kim lục, nền móng thứ mười một bằng huỳnh ngọc, nền móng thứ mười hai bằng tử ngọc. Mười hai cửa là mười hai khối ngọc trai; mỗi cửa là một khối ngọc duy nhất. Quảng trường của thành bằng vàng y như thủy tinh trong suốt. Trong thành, tôi không thấy có Đền Thờ, vì Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành. Thành chẳng cần mặt trời mặt trăng chiếu sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa toả rạng, và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi. Các dân ngoại sẽ tiến bước theo ánh sáng của thành, và vua chúa trần gian đem kho tàng vinh quang tới đó. Ngày nọ qua ngày kia, cửa thành không bao giờ đóng, vì ở đấy sẽ chẳng có đêm. Thiên hạ sẽ đem tới đó kho tàng vinh quang và sự giàu sang của các dân ngoại. Tất cả những gì ô uế cũng như bất cứ ai làm điều ghê tởm và ăn gian nói dối, đều không được vào thành, mà chỉ có những người có tên ghi trong Sổ trường sinh của Con Chiên mới được vào” (Kh 21:16-27).

Nước Trời có đủ chỗ cho chúng ta?

Chúa Giêsu nói: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi” (Ga 14:1-4).

Trên Nước Trời, chúng ta có làm việc?

Sách Khải Huyền nói: “Sẽ không còn lời nguyền rủa nào nữa. Ngai của Thiên Chúa và của Con Chiên sẽ đặt trong thành, và các tôi tớ Người sẽ thờ phượng Người” (Kh 22:3). Những người tôi trung sẽ được “hưởng niềm vui của chủ” (Mt 25:23). Không còn cực nhọc, chỉ có vui hưởng phần thưởng.

Trên Nước Trời, có sự cai trị?

Ông Phi-la-tô muốn tha Chúa Giêsu nhưng sợ hơn đám dân nổi loạn.9 Ông trở vào dinh và nói với Chúa Giêsu: “Ông từ đâu mà đến?”. Nhưng Đức Giêsu không trả lời. Ông Phi-la-tô nói: “Ông không trả lời tôi ư? Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?”. Đức Giêsu đáp lại: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn” (Ga 19:11).

Trên Nước Trời, chúng ta cảm thấy thế nào?

Kinh thánh cho biết: “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14:17). Vương quốc của Thiên Chúa là sự công chính, hòa bình và vui mừng trong Chúa Thánh Thần. Các phẩm chất tốt lành đó đầy ắp trong “không khí” của Nước Trời.

Nước Trời có là nơi thật?

Thánh Phaolô nói: “Nhờ đức tin, ông Áp-ra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như tại một nơi đất khách, ông sống trong lều cũng như ông I-xa-ác và ông Gia-cóp là những người đồng thừa kế cũng một lời hứa, vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng. Nhờ đức tin, cả bà Xa-ra vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín. Vì thế, do một người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được” (Dt 11:8-12). Nước Trời là một nơi vô cùng tốt đẹp, một “vương quốc” và một “thành phố” do chính Thiên Chúa thiết kế. Nước Trời vượt ngoài sức chúng ta có thể tưởng tượng được những gì tuyệt vời nhất.

Nước Trời ở đâu?

Sau khi Chúa Giêsu sống lại, các môn đệ hỏi có phải lúc đó là lúc Chúa Giêsu khôi phục vương quốc Ít-ra-en không. Hoàn toàn không như các ông nghĩ. Chúa Giêsu đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7-8).

Nói xong, Ngài được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Ngài, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Ngài đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1:11-12). Kinh thánh nói về việc “được đưa lên”, vậy Nước Trời ở ngoài không gian và thời gian.

Chúng ta lên trời bằng cách nào?

Ông Tôma vốn “đa nghi” nên hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”. Chúa Giêsu đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người” (Ga 14:6-7).

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Beliefnet.com)

TRUYỀN TIN CHO ĐỨC MẸ!

TRUYỀN TIN CHO ĐỨC MẸ!

Đúng 9 tháng trước lễ Sinh nhật là lễ Truyền tin cho Đức Mẹ (25-3/25-12).

Truyền tin là biến cố hết sức quan trọng.  Nếu không có biến cố Truyền tin, thì cũng sẽ không có biến cố Sinh nhật, Phục sinh.

Hội Thánh mừng biến cố truyền tin bằng thánh lễ trọng thể, với phụng vụ phong phú.  Nhiều lời cầu nguyện.  Nhiều đoạn Thánh Kinh.  Nhiều bài giảng dạy.  Nhiều cuộc tĩnh tâm, hội thảo và thánh ca.
Những người con bé nhỏ của Đức Mẹ sẽ không bỏ qua lễ trọng này.  Họ mừng lễ với tất cả tấm lòng bé nhỏ.  Chia sẻ tấm lòng bé nhỏ của mình về Mẹ của mình cũng là một cách mừng lễ.  Dưới đây là một thứ chia sẻ.

Trong biến cố truyền tin, Đức Mẹ bỗng chốc trở nên khác thường.

1/ Mẹ là một tình yêu dâng hiến

Đức Tổng lãnh thiên thần Gabriel chào kính Đức Mẹ bằng một lời hết sức mới lạ: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà” (Lc 1, 28).

Thế nào là đầy ân sủng?  Và thế nào là Thiên Chúa ở cùng bà?  Thiết tưởng sẽ không sai, nếu có ai hiểu đầy ân sủng là đầy tình yêu của Chúa.  Nhất là khi lại thêm: Thiên Chúa ở cùng bà, mà “Thiên Chúa chính là tình yêu” (1 Ga 4, 8).

Tin vui đầu tiên, mà Đức Mẹ nhận được từ Đức Tổng Lãnh thiên thần là: Đức Mẹ được Chúa chia sẻ chính sự sống của Người là tình yêu của Người cho Đức Mẹ.

Tin đó không phải là lời chào chúc, mà chính là một chứng thực.  Thực Thiên Chúa tình yêu đang ở trong Đức Mẹ.  Thực Đức Mẹ đang được đón nhận một nguồn tình yêu lạ từ Thiên Chúa.

Đức Mẹ không những tin, mà còn cảm được mình đã thuộc về Chúa.  Tình yêu Chúa bao phủ Mẹ.  Tình yêu Chúa biến đổi Mẹ.  Mẹ trở nên một tình yêu từ Thiên Chúa tình yêu.

Tin ấy được cảm nhận như một cái nhìn mới, đem lại hạnh phúc ngập tràn.  Bên cạnh hạnh phúc sâu xa, cái nhìn mới ấy cũng cho Đức Mẹ hiểu những đặc tính của tình yêu Thiên Chúa.

Những gì mà thánh Phaolô sau này mô tả trong “Bài ca đức mến” chắc cũng đã được Chúa cho Đức Mẹ thấy một cách nào đó, ngay lúc Mẹ được trở nên một tình yêu tuyệt vời của Chúa.

“Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu… hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13, 4-7).

Đặc biệt, những dâng hiến đến cùng, mà sau này Chúa Giêsu sẽ thực hiện, chắc cũng được Chúa cho Đức Mẹ thấy trước.

Như vậy, tình yêu nơi Đức Mẹ trong biến cố truyền tin là một tình yêu dâng hiến.  Dâng hiến như Chúa Giêsu dâng hiến.  Vì mến Chúa Cha và vì thương nhân loại.

Nhận thức đó không làm cho Đức Mẹ tự hào chút nào.  Trái lại, nó đã làm cho Đức Mẹ nên khiêm nhường tự hạ.

2/ Đức Mẹ là một tình yêu khiêm hạ

Sự khiêm nhường của Đức Mẹ được diễn tả vắn tắt bằng câu trả lời: “Xin vâng, này tôi là nữ tỳ của Chúa” (Lc 1,38).

Lời “xin vâng” lúc đó của Đức Mẹ mở đường cho cả một cuộc đời đầy những từ bỏ.  Một phần nào đó, Đức Mẹ biết trước những đau đớn về các từ bỏ của Chúa Giêsu trên đường cứu độ.

Thánh Phaolô viết về Chúa Cứu Thế: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa.  Nhưng đã hoàn toàn từ bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế.  Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá” (Pl 2,6-8).

Tinh thần khiêm hạ đã luôn đi kèm tình yêu dâng hiến.  Nơi Chúa Giêsu là thế.  Nơi Đức Mẹ cũng vậy.

Sự khiêm nhường tự hạ làm đẹp cho việc dâng hiến.  Hơn thế nữa, nó còn có giá trị cứu chuộc các linh hồn.

Dâng hiến mà không khiêm nhường tự hạ có thể được người đời cho là việc anh hùng, nhưng không có thể được Chúa cho là việc đạo đức có giá trị cứu rỗi.

Nhìn ngắm tình yêu dâng hiến đầy khiêm nhường tự hạ nơi Đức Mẹ, những người con bé nhỏ của Đức Mẹ sẽ rất hân hoan vì những bé nhỏ thấp hèn của mình.

3/ Một tình yêu phục vụ

Ngay sau biến cố truyền tin, Đức Mẹ “đã vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa” (Lc 1,39).  Mục đích là để viếng thăm bà Êlisabét.  Cuộc viếng thăm này đã được Chúa dùng để thánh hoá thai nhi trong lòng bà Êlisabét.  Thai nhi đó chính là thánh Gioan Baotixita (x. Lc 1, 41-45).

Tình yêu Chúa trong Đức Mẹ đã thúc đẩy Đức Mẹ lên đường phục vụ.  Phục vụ kín đáo.  Phục vụ cá nhân.  Nhưng phục vụ đó đã được thực hiện trong tinh thần vâng theo thánh ý Chúa.  Đức Mẹ đã làm một việc bác ái với đúng những điều kiện của phục vụ.  Đó là làm đúng việc, cho đúng đối tượng, đúng lúc, đúng cách mà Chúa muốn.

Phục vụ như thế của Đức Mẹ sẽ được Đức Mẹ thực hiện suốt cuộc đời mình.

Qua việc phục vụ ấy, người ta nhìn thấy một tấm lòng bao la cao cả, và cảm nhận được một tình yêu nhưng không vô bờ.

*******************************************

Chúng ta hết lòng cảm tạ Chúa đã chọn Đức Mẹ để mạc khải tình yêu cứu độ.

Đức Mẹ là một bản tin ngọt ngào của Chúa.

Chúng ta vui mừng vì được là con Đức Mẹ.  Cho dù chúng ta rất thấp hèn, rất yếu đuối, nhưng chúng ta tin:  Đức Mẹ sẽ thương giúp chúng ta luôn biết đón nhận Thiên Chúa tình yêu.

Chúng ta hy vọng Đức Mẹ sẽ đồng hành với chúng ta mọi bước trên đường làm chứng cho Chúa giàu lòng thương xót.

Chúng ta sẽ ca ngợi Chúa đã thực hiện nơi Đức Mẹ lời Chúa phán xưa: “Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18, 14).

ĐGM JB Bùi Tuần

From: ThiênKim & Nguyễn Kim Bằng gởi

 

Đức Giáo Hoàng Francis đầu bảng 50 lãnh tụ vĩ đại thế giới

Đức Giáo Hoàng Francis đầu bảng 50 lãnh tụ vĩ đại thế giới
March 20, 2014

nguoi-viet.com


VATICAN CITY (NV)
Tạp chí Fortune hôm Thứ Năm liệt kê Ðức Giáo Hoàng Francis đứng đầu danh sách 50 lãnh tụ vĩ đại nhất thế giới, tuy nhiên theo TODAY.com, Tổng Thống Barack Obama nằm ngoài danh sách này.

Cựu Tổng Thống Bill Clinton đứng hạng năm trong danh sách qua hoạt động “hăng say và không ngừng nghỉ” cho nhiều mục tiêu.

Ðức Giáo Hoàng Francis, vừa được tạp chí Fortune xếp đầu bảng 50 lãnh tụ vĩ đại thế giới. (Hình: Franco Origlia/Getty Images)

Fortune cho biết qua một văn bản: “Tổng Thống Obama không bị loại khỏi danh sách 50 lãnh tụ vĩ đại trên thế giới.”

Tạp chí này thêm rằng, năm nay, ông Obama không đạt được địa vị của 50 cá nhân xuất chúng, chỉ vì ông không đủ tiêu chuẩn lọt vào danh sách này, dành cho những người từng chứng tỏ khả năng lãnh đạo hiếm hoi trong nhiều lãnh vực, hoặc từng chứng tỏ một quá trình lãnh đạo lâu dài.

Ðức Giáo Hoàng Francis được xếp hạng cao nhất qua phong cách vốn gây được sự chú ý và khâm phục chỉ mới trong một năm, hơn hẳn bất kỳ vị tiền nhiệm nào trong suốt nhiều thập niên.

Vừa đánh dấu một năm lên ngôi vị Giáo Hoàng, ngài đã góp tay giúp làm sạch vụ tai tiếng tiền bạc của ngân hàng Vatican, và quan tâm đến vụ lạm dụng tình dục trẻ em của giáo hội.

Ngài cũng tạo một phong thái nổi bật mới qua mẫu mực khiêm cung, theo Fortune, điều chỉ có nơi các lãnh tụ vĩ đại.

Vài tháng trước đây, tạp chí Time cũng xếp hạng Ðức Giáo Hoàng Francis là nhân vật nổi bật nhất trong năm. (TP)

Xin xem thêm:

Tạp chí Fortune: Đức Phanxicô là “Lãnh Tụ Vĩ Đại Nhất Thế Giới” (Vietcatholic.net)

 

Tuổi Rồng

Tuổi Rồng

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Tôi đề xuất: Hay các ông lập ra một trang mạng tạo cơ chế cho một diện hẹp nào đó được đọc, các ông quản lý để chúng tôi viết trình bày chính kiến của mình: Điều nào sai các ông phản bác, điều nào đúng để những người có trách nhiệm tiếp thu; chúng tôi cũng chỉ mong có thế, vì không có nơi vui vẻ tiếp nhận nên chúng tôi phải tung lên mạng, lên trời…

Phạm Viết Đào

Tết năm kia, năm con rồng, Marianne Brown (Guardian Weekly) có bài “Vietnam’s parents want a dragon son.” Thì cả Tầu lẫn ta ai mà không muốn có con trai tuổi thìn. Nhâm Thìn, tất nhiên, lại càng bảnh dữ nữa. Nam nhâm nữ qúi thì sang mà lị.

Theo tuviso.com: “Tuổi Nhâm Thìn có nhiều hy vọng tốt đẹp về vấn đề tình duyên và tương lai về cuộc sống, có phần tốt đẹp về tình cảm và tài lộc, vào trung vận và hậu vận thì được nhiều tốt đẹp về hạnh phúc, công danh có phần lên cao.”

Nói vậy nhưng chưa chắc đã đúng vậy đâu. Nhà văn Phạm Viết Đào, một người tuổi nhâm thìn nhưng  hậu vận (rõ ràng) có phần hơi lận đận chứ không được may mắn hay “tốt đẹp” gì cho lắm.

Thụy My (RFI) vào hôm 14 tháng 3 năm 2014 cho hay: “Ngày 19/03/2014 sắp tới, tòa án Hà Nội sẽ xét xử sơ thẩm ông Phạm Viết Đào, một blogger có nhiều bài viết chỉ trích chính quyền Việt Nam, bị bắt từ tháng Sáu năm ngoái vì tội danh ‘lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân’ theo điều 258 Luật Hình sự Việt Nam.”

Uả, bộ thiệt vậy sao? Mà cái ông nhà văn này đã “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của tổ chức Nhà Nước” hay “công dân” nào vậy cà?

Phạm Viết Đào trong phiêm sơ thẩm – TTXVN

Tôi nhào vô trang http://phamvietdaonv.blogspot.com/ nhưng cửa đóng then cài (rồi) nên chạy qua bên Dân Luận thì quả nhiên thấy rằng đương sự đã nhiều lần “xâm phạm lợi ích của tổ chức doanh nghiệp Vinashin” và “tổ chức khai thác bauxite” ở  Tây Nguyên.”

Xin trích dẫn vài đoạn ngắn, làm bằng, về Vinashin:

Những người trực tiếp cầm lái con tàu Vinashin không phải là những nhà doanh nghiệp thực sự, nhà doanh nghiệp có căn cốt làm ăn; họ chỉ đám người biết lợi dụng sự trao quyền tự quyết quá to của Luật Doanh nghiệp, sự lơ ngơ hoặc cố tình ngậm miệng ăn tiền của khâu quản lý nhà nước để vận hành guồng máy sản kinh doanh theo kiểu cách làm ăn của dân con phe đầu cơ, chạy mánh dự án để bán kiếm lời…

Một chính phủ với những bộ được giao quản lý về đầu tư kinh doanh nhưng không biết kinh doanh như thế nào để ra hiệu quả, không biết đầu tư như thế nào là an toàn, không biết việc mình đang đem trứng gửi cho quạ nhưng lại tưởng mình là người đang đầu tư phát triển đất nước… Khi vụ việc đổ bể lại tìm cách đổ cho Luật, cho thời vận; khủng hoảng kinh tế thế giới ?

….

Đối với vụ Vinashin chỉ một cơn lốc của thị trường đã làm cho toàn bộ cơ đồ của tập đoàn này trở thành đống sắt vụn… Hiện nay, không chỉ một mình Vinashin mà rất nhiều doanh nghiệp trong khu vực doanh nghiệp nhà nước đang rơi vào tình cảnh này. Họ đang nắm một phần vốn nhà vay của nhà nước lớn gấp nhiều lấn vốn điều lệ mà họ có. Do chính sách đầu tư phiêu lưu này nên chỉ một cú hích nhẹ là lăn kềnh ra. Tức là họ tồn tại trên mồ hôi, xương máu của người khác?

Ơ, cái ông Phạm Viết Đào này hay nhỉ?  “Xương máu của người khác” thì việc gì đến mình mà lo lắng (cuống cuồng) lên như thế? Như thế là (rành rành) “đã xâm phạm đến quyền và lợi ích công dân” của những người chủ trương và điều hành Vinashin rồi, chớ còn gì nữa?

Tương tự, Đảng và Nhà Nước đã có chủ trương (lớn) về chuyện khai thác bauxite rồi mà Phạm Viết Đào vẫn cũng cứ nằng nặc bàn ra và bàn lùi cho bằng được –  chỉ vì e ngại sự mơ hồ của hiệu quả kinh tế, và tác động tai hại đến môi sinh:

Chỉ xin nói một điều hết sức đơn giản: về hiệu quả kinh tế, nhiều nhà kinh tế chứng minh Dự án khai thác bauxite Tây Nguyên không mang lại hiệu quả kinh tế; điều này đã được chứng minh cộng trừ về con số chứ không bằng các lập luận chung chung?

Xin lấy số liệu của Tập đoàn Than Khoáng sản do ông Đoàn Văn Kiển đã phát biểu: mỗi năm lãi 250 triệu USD; ông Kiếm cho biết 13 năm đầu đủ thu hồi vốn, sau đó bắt đầu có lãi với đời dự án là 40-50 năm. Cứ cho ông Đoàn Văn Kiển đúng đi thì dự án này sau 50 năm thu được bao nhiêu tiền: 10 đến 15 tỷ USD là cùng? Và như ông Đoàn Văn Kiển bộc bạch thì kết quả dự án này là 50/50, có nghĩa lợi nhuận trong năm mươi năm cũng chỉ được dăm, bảy tỷ là cùng theo cách tính của Ông Kiến, còn các nhà khoa học khác thì tính là âm?! Nếu theo tính toán của ông Kiên số tiền này có quá lớn không so với toàn bộ nền kinh tế Việt Nam để đem đi đánh đổi tất cả mọi thứ để làm cho bằng được? Còn nếu âm, xảy ra thảm hoạ môi trường, an ninh quốc gia thì ai chịu?

Và điều đáng trách (cũng như đáng tội) hơn hết là Phạm Viết Đào cũng đã (rất) nhiều lần lợi dụng các quyền tự do dân chủ để làm phương hại đến mối giao hảo giữa nước bạn láng giềng. Trên trang Dân Luận, đọc được vào hôm 7 tháng 1 năm 2010, đương sự công khai bầy tỏ mối nghi ngại trước thông điệp ngoại giao “tạm gác lại những tranh chấp” của Đại sứ Trung Quốc (Tôn Quốc Cường) tại Việt Nam:

Vấn đề ngoại giao mà Đại sứ quán Trung Quốc đề xuất hai bên cần gác lại đó là vấn đề Trung Quốc đang lấn chiếm nhiều vùng lãnh hải của Việt Nam trên biển Đông trong đó có Trường Sa và Hoàng Sa ? Gác lại khác gì thừa nhận và để yên cho Trung Quốc lấn chiếm biên giới lành hải của quốc gia mình?

Nếu cứ tin vào lời ông Đại sứ: Liệu ngư dân Quảng Ngãi thôi cất thuyền đi, khi nào hai bên đàm phán phân vùng biển xong rồi hãy ra khơi đánh cá. Trong khi đó thì tàu đánh cá Trung Quốc lại cứ ngang nhiên xâm phạm lãnh hải Việt Nam, hải quân Trung Quốc ra sức hiện đại hóa và thường xuyên tập trận, đe dọa…Ngư dân Việt Nam ra khơi chỗ nào cũng bị coi là xâm phạm lãnh hải Trung Quốc cá…

Thành ra Ngài Đại sứ đề nghị cứ gác lại, trong khi Trung Quốc lại không gác, cứ lấn lướt hết việc này đến việc khác, nói thế mà nghe lọt tai được ư? Có mà lừa trẻ con!

Phạm Viết Đào, rõ ràng, đi quá xa trong thân phận của một người dân ở một đất nước mà giới lãnh đạo (đã) cam phận chư hầu nên dù ông ấy tuổi con gì thì cũng phải vào tù thôi, kể cả con rồng! Nói như thế không nhất thiết là tôi hoàn toàn phủ nhận những điều may mắn và tốt đẹp dành của tuổi Nhâm Thìn. Vì ngoài năm sinh, tính tình của mỗi người cũng góp phần không nhỏ trong trung vận hay hậu vận của họ.

Xin đơn cử một thí dụ (để làm rõ câu chuyện) về một nhân vật khác, cũng tuổi Nhâm Thìn: ông Nguyễn Thế Thảo.

Theo Wikipedia:

Nguyễn Thế Thảo (1952-) là đương kim Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội, ủy viên Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIXII, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa khóa IX, XXI.

Dù là đại biểu quốc hội (hết khoá này qua khóa khác) ông Thảo vẫn chưa bao giờ có ý kiến ý cò gì ráo trọi về tổ chức kinh doanh Vinashin,  hay khai thác bauxite ở Tây Nguyên. Ông chỉ lên tiếng “phê phán hoạt động biểu tình chống Trung Quốc” và cho rằng “các thế lực thù địch và số cơ hội chính trị đã kích động người dân, nhất là số người đi khiếu kiện ở các địa phương biểu tình để gây áp lực với chính quyền phải giải quyết những khiếu nại, yêu sách” – theo như tin loan của BBC, nghe được vào hôm 13 tháng  năm 2012.

Ảnh: Dân Làm Báo

Về chuyện này, tôi có nghe ông Thái Bá Tân phàn nàn:

Khi nhà ông bị cướp.
Vợ con ông kêu lên,
Mà ông ngồi im lặng
Thì ông là thằng hèn.

Tôi không nghĩ Nguyễn Thế Thảo là một “thằng hèn.” Ông ta, chả qua, chỉ  là một người  “kín tiếng” thôi. Tuy “kín” như thế nhưng ông vẫn được mọi người nhắc đến sau vụ “cắt đá” và “múa đôi” (hôm 19 tháng 1 và 17 tháng 2) vừa qua, trước tượng đài Lý Thái Tổ ở Hà Nội – nơi mà ông đang giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố.

Khi mà dân Việt hễ cứ ra biển là gặo ngay “tầu lạ,” và cứ “ra ngõ là thấy người Trung Quốc” thì ông Nguyễn Thế Thảo (trong tương lai gần) còn có triển vọng giữ những chức vụ cao hơn nữa – nếu vẫn tiếp tục thái độ phù thịnh như hiện tại.

Và đó chỉ là chuyện của  “tương lai gần” thôi, chứ tình trạng Việt Nam (cũng như nước bạn Trung Hoa) đã muốn suy (và nguy) đến nơi rồi. Hậu vận của ông Nguyễn Thế Thảo, rồi ra, chắc cũng chả đã tốt lành gì.

Tuổi rồng, xem chừng, và nghĩ cho cùng, không khá – bất kẻ rồng ta hay rồng (chạy theo) Tầu.  Đó cũng là kinh nghiệm của riêng  tôi, một thằng cũng tuổi Thìn và đã sống (gần) hết đời như một kẻ tha phương cầu thực!

 

Quản lý theo kiểu “mất bò mới lo làm chuồng”

Quản lý theo kiểu “mất bò mới lo làm chuồng”

Vũ Hoàng, phóng viên RFA
2014-03-19

boi-song-305.jpg

Hình ảnh chụp từ video clip: cô giáo chui túi nilon vượt suối lũ đến trường.

Screen capture

Thiếu cơ sở vật chất căn bản

Video clip “cô giáo chui túi nilon vượt suối lũ đến trường” trên tờ Tuổi Trẻ và được các trang mạng phổ biến lại từ hôm 17/3 khiến nhiều người xem đều bày tỏ sự bức xúc, bàng hoàng… Nhưng đó chỉ là phần nổi của tảng băng trôi về tình trạng thiếu cơ sở vật chất căn bản tại nhiều vùng sâu, vùng xa của Việt Nam.

Hình ảnh trong video clip hơn 4 phút quay cảnh các cô giáo đứng bên bờ suối, nước xiết cuồn cuộn, sau đó, cả học sinh và cô giáo đều chui vào những bao nilon, lọt thỏm với miệng bao trùm kín đầu, được các thanh niên trai bản vừa bơi, vừa kéo qua con sông nước đục ngầu chảy mạnh.

Đó là những gì mà cô giáo Tòng Thị Minh, giáo viên mẫu giáo ghi lại bằng điện thoại di động tại đoạn suối giáp ranh giữa hai bản Lai Khoang và Sam Lang ở huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên, mới được đăng tải trên báo Tuổi Trẻ online.

Có lẽ hình ảnh những người cõng chữ lên non như cô Minh là chuyện “thường ở huyện” của những người vẫn ngày ngày đối mặt với tử thần, để mang kiến thức đến cho con trẻ và ngược lại, những đứa trẻ ngây thơ cũng vẫn xem đó là chuyện thật bình thường vì chúng không còn lựa chọn nào khác.

” Đây là một chuyện rất kỳ dị, có thể nói là chưa từng có ở đâu kể cả ở Việt Nam cũng như trên thế giới, người ta qua sông với một phương tiện chết người ngay tức khắc.
-PGS Văn Như Cương”

Song chuyện bình thường với những con người bình thường ấy lại là chuyện “không bình thường” đối với những nhà quản lý xã hội, ngành giáo dục và là chuyện thật kỳ dị “ở trên trời” đối với nhiều người. Bản thân bà Nguyễn Thị Khá, Ủy viên thường trực Ủy ban các Vấn đề xã hội của QH thốt lên rằng bà không hiểu vì sao ngành giáo dục đến bây giờ vẫn có cảnh như vậy, bởi các cô giáo ngồi trong túi nilon để qua suối là rất nguy hiểm đến tính mạng và độ rủi ro thì rất cao.

Chia sẻ với chúng tôi những suy nghĩ sau khi xem xong clip trên, PGS Văn Như Cương, hiệu trưởng Trường THPT Dân lập Lương Thế Vinh, Hà Nội không giấu diếm sự bất ngờ pha lẫn lòng khâm phục với những người dám liều mình vì sự nghiệp trồng người:

“Tôi cũng được xem video clip cô giáo và học sinh qua sông, đây là một chuyện rất kỳ dị, có thể nói là chưa từng có ở đâu kể cả ở Việt Nam cũng như trên thế giới, người ta qua sông với một phương tiện chết người ngay tức khắc hoặc là ngạt thở hay vướng vào cái que hoặc vật gì đó chọc thủng túi nilon ấy nước tràn vào. Bây giờ clip đưa lên mọi người mới biết! Rất đáng thương, rất đáng ngại, rất đáng khâm phục cả các cô giáo và học sinh đã liều chết để đi đến trường như thế.”

Những hình ảnh tương phản

Trong khi đó, GS TS Nguyễn Thế Hùng của trường Đại học Bách Khoa Đà Nẵng cũng với vai trò người thầy, ông đánh giá về sự việc “cô giáo chui túi nilon qua suối”:

“Tôi thấy đây là một tình trạng đáng buồn, xã hội đã sang thế kỷ 21 mà vẫn còn em học sinh và cô giáo chui vào bao nilon để mà có người đàn ông khỏe mạnh đưa qua sông thì đó là điều rất đáng buồn.”

boi-song-250.jpg

Cô giáo chui ra khỏi túi nilon sau khi vượt suối lũ.Screen capture.

GS TS Nguyễn Thế Hùng cho rằng hiện tượng trên không chỉ đáng buồn mà đó còn là lời cảnh báo về một sự lãng phí tràn lan trong xã hội, hình ảnh tương phản của những kẻ quan tham ăn trên ngồi chốc hưởng lợi hàng ngàn tỉ đồng với hình ảnh thiếu thốn dù chỉ một cây cầu tạm bợ, mà những đứa trẻ dám đánh đổi cả mạng sống của mình để được đến lớp học con chữ hàng ngày:

“Ở Việt Nam có biết bao công trình rất lãng phí từ sân bay bến cảng…Tôi chỉ nói nếu bây giờ bán đứt một cái sân bay hay một bến cảng thì có thể xây biết bao cái cầu như thế, hàng ngàn cái cầu khỉ cho các em đi học có phải tốt hơn không! Xây những công trình sân bay, bến cảng rồi tham nhũng khác như Vinashin, Vinalines những cái tầm bậy tầm bạ… thì có thể xây được hàng vạn cái cầu để con em đi học. Điều đó thể hiện một xã hội thối nát tham nhũng.

Lời chia sẻ đầy xót xa của GS TS Nguyễn Thế Hùng không phải là không có cơ sở khi lật giở từng trang báo, người ta không khỏi ngỡ ngàng khi những con số biết nói đang báo động một thực trạng bòn rút, bớt xén, đục khoét đang diễn ra như cơm bữa tại Việt Nam. “Dự án đường cao tốc Cầu Giẽ – Ninh Bình: Bớt xén đủ kiểu, đội kinh phí hơn 5.000 tỉ đồng”; “thanh tra Bộ Xây dựng xử lý trên 1.000 tỷ đồng sai phạm”; “Quan chức đốt 20.000 tỷ đồng ở cảng Kê Gà” hay “Hà Nội “ném” tiền tỷ vì những cây cầu: Quy hoạch bị “hỏng”…

” Bây giờ xã hội này tùy thuộc vào tầng lớp chóp bu, người dân thấp cổ bé họng làm sao có thể mà thay đổi những việc này được.
-GSTS Nguyễn Thế Hùng”

Chỉ lấy một thí dụ thật đơn giản, 1 tỉ đồng cho một cây cầu qua sông cho dân nghèo thì với những gì bị bòn rút, chia chác, tham nhũng có thể xây đến hàng ngàn, hàng vạn cây cầu… và từ đó, có thể cứu sinh mạng của biết bao những người vẫn ngày đêm giằng co giữa cái sống và cái chết chỉ vì mỗi tội… nghèo khó.

Phần nổi của tảng băng chìm “chui túi nilon qua suối” “đu dây qua sông” hay “ngồi thau nhựa đến trường” dường như mới chỉ là một nửa của câu chuyện, bởi theo PGS Văn Như Cương thì trách nhiệm của nhà quản lý mới là điều đáng phải bàn, ông cho rằng đừng để chuyện “mất bò mới lo làm chuồng”.

“Nó nói lên những điều hết sức quan liêu của những người làm việc cho Nhà nước, bởi vì dân ở đấy nói chuyện này rất bình thường, nhưng đối với những người làm việc thì phải thấy đó là những điều hết sức không bình thường. Ngay khi clip này đưa ra, bộ trưởng Đinh La Thăng quyết định xây ngay một cái cầu như thế, một cái cầu treo để vượt sông. Đó là điều hoan nghênh, nhưng cách quản lý như thế là “mất bò mới lo làm chuồng.”

Đứng về phía quản lý nhà nước thì không thể chấp nhận được bởi một cái cầu hay một phương tiện nào qua sông không phải là tốn kém gì nhiều so với tất cả những thứ mà Việt Nam đang làm là xây chùa chiền, làm lễ hội hàng năm có đến 8,000 lễ hội, tốn tiền bao nhiêu như thế, nhưng chỉ có mỗi việc như thế này lại không chú ý đến, thì đấy là điều khó chấp nhận.”

Vâng, điều mà PGS Văn Như Cương gọi là “khó chấp nhận” ấy vẫn đang là những gì được xã hội Việt Nam “chấp nhận,” người dân chấp nhận bởi họ biết những gì mình lên tiếng khó được lắng nghe, bởi họ chỉ là những thành phần “thấp cổ bé họng” và mọi việc đang tùy thuộc vào những thế lực đầy quyền uy đứng đằng sau nhiều quyết định ảnh hưởng đến vận mệnh đất nước, GSTS Nguyễn Thế Hùng tiếp lời:

“Bây giờ xã hội này tùy thuộc vào tầng lớp chóp bu, người dân thấp cổ bé họng làm sao có thể mà thay đổi những việc này được. Nhiều người cảm thấy xót xa như thế nhưng cuối cùng công việc cứ vẫn năm này qua năm khác, người dân không có quyền quyết định vận mệnh đất nước.”

Hẳn đến lúc những quyết định “ném tiền qua cửa sổ” hay tham ô, tham nhũng phải được triệt tiêu từ trong trứng nước, trước khi những đồng tiền mồ hôi nước mắt của người dân bị tiêu xài hoang phí, trở những bãi rác ngàn tỷ bên những ụ nổi, cầu cảng, sân bay… bỏ hoang, hay đơn giản là những tài sản đang chạy thẳng vào túi của những ông quan lớn với những bê bối liên tiếp chấn động trong suốt một thời gian dài.

Bill Gates đang rón rén bước vào Đạo Công Giáo

Bill Gates đang rón rén bước vào Đạo Công Giáo

Vũ Văn An

3/18/2014

Hemant Mehta vừa lần rở lại hành trình rón rén bước vào Đạo Công Giáo của người giầu thứ hai trên thế giới, chủ tịch Microsoft Bill Gates.

Trong cuộc phỏng vấn của PBS năm 1995, Bill Gates phát biểu rằng: “Tôi không phải là người đi nhà thờ thường xuyên. Các yếu tố chuyên biệt của Kitô Giáo không phải là những điểu khiến tôi tin nhiều. Trong các khía cạnh luân lý của tôn giáo, có rất nhiều giá trị. Tôi nghĩ giá trị này có thể có tác dụng hết sức, hết sức tích cực… Về phương diện hành sự, tôi chấp nhận cách tiếp cận có tính khoa học nhiều hơn đối với lý do tại sao sự việc đã xẩy ra và chúng xẩy ra cách nào. Tôi không biết liệu có thần minh hay không, nhưng tôi nghĩ các nguyên tắc tôn giáo đều rất có giá trị”.

Năm 1997, trong cuộc phỏng vấn của Time, Bill Gates tâm sự rằng: Melinda (vợ ông) là người Công Giáo, đi nhà thờ thường xuyên và muốn dưỡng dục Jennifer cách đó. “Nhưng nàng đề nghị với tôi một điều: nếu tôi chịu đi nhà thờ, gia đình tôi vốn theo giáo phái Congregationalist (Công Lý Hội), thì Jennifer có thể được dưỡng dục trong bất cứ tôn giáo nào tôi chọn”. Gates công nhận rằng ông bị lôi cuốn bởi đề nghị này vì ông thích con gái ông có một tôn giáo “ít thần học và mọi chuyện” hơn Đạo Công Giáo, nhưng ông đã không theo đề nghị ấy. Ông giải thích “Về phương diện dành tài nguyên thì giờ mà thôi, tôn giáo không hiệu năng bao nhiêu. Có nhiều điều tôi có thể thực hiện được hơn vào sáng Chúa Nhật”.

Năm 2010, bích chương của Liên Minh Sinh Viên Duy Tục Illini có đăng hình Bill Gates với những dòng chữ sau: Người giầu thứ hai trên thế giới đã hiến tặng hơn 26 tỷ cho bác ái. Bill Gates là người tốt mà không cần có Thiên Chúa (good without God). Bạn thì sao?

Năm 2014, trên tập san Rolling Stone, tức tập san gần đây có hình và bài về Đức Phanxicô trên trang bìa, Bill gates cho rằng “Tôi nghĩ: các hệ thống luân lý của tôn giáo đều siêu quan trọng. Chúng tôi từng dưỡng dục con cái mình theo cung cách tôn giáo; chúng vốn đi nhà thờ Công Giáo, nơi Melinda thường đi và tôi cũng tham gia. Tôi vốn may mắn và do đó đã hết sức cố gắng giảm thiểu các bất công trên thế giới. Và đó là một thứ tín ngưỡng tôn giáo. Tôi muốn nói, ít nhất đó cũng là niềm tin luân lý…

Tôi đồng ý với những người như Richard Dawkins (nhà vô thần nổi tiếng) rằng nhân loại cảm thấy nhu cầu phải có những huyền thoại về tạo dựng. Trước khi thực sự hiểu bệnh tật và thời tiết và những điều tương tự như thế, ta đi tìm các lối giải thích lầm lẫn về chúng. Bây giờ, khoa học đã giải thích đầy đủ một số lãnh vực này, không phải tất cả, những lãnh vực mà trước đây tôn giáo vẫn giải thích. Nhưng mầu nhiệm và vẻ đẹp của thế giới là điều cực kỳ lạ lùng, và hiện chưa có giải thích khoa học nào đối với việc chúng xẩy ra cách nào. Nói rằng chúng tình cờ phát sinh ra hình như, ông thấy đó, là một điều thiếu bác ái (cười). Tôi nghĩ rằng tin Thiên Chúa là điều có nghĩa, nhưng quyết định nào khác trong đời bạn cần đưa ra vì thế thì tôi không biết chính xác”.

Như thế… ở một thời điểm nào đó trong thập niên qua, xem ra Bill Gates đã tìm thấy tôn giáo. Có lẽ thế. Ông không thẳng thừng nhìn nhận mình tin Thiên Chúa hơn là điều ông vẫn cho là mình không tin Thiên Chúa.

Tuy nhiên, xem ra ta không thể bao gồm ông vào hàng ngũ vô tôn giáo được nữa.

Frank Weathers cũng cùng một nhận định như trên, căn cứ vào hai câu hỏi cuối cùng trong cuộc phỏng vấn của Rolling Stone, mà câu trả lời đã được Mehta thuật lại trên đây. Weathers tin rằng nơi Bill Gates đang có sự thay đổi về quan điểm tôn giáo, một cách huyền nhiệm nhờ công trình của Chúa Thánh Thần. Nghĩa là không do thời khóa biểu của bất cứ ai mà là của Thiên Chúa.

Dĩ nhiên ta không quên sự kiện này ông bà Gates đang có những ý kiến và có những hành động đi ngược lại giáo huấn Công Giáo. Nhưng xét cho cùng có ai trong chúng ta thực sự xứng đáng được kể vào hàng con cái Giáo Hội? Trước khi có Giáo Hội, Thánh Vịnh Gia từng chỉ rõ:

“Từ vực thẳm con kêu lên Chúa, lạy Chúa; Xin nghe tiếng con, hỡi Chúa! Xin tai Chúa chăm chú lắng nghe lời con kêu van thương xót. Lạy Chúa, nếu Chúa chấp tội, nào ai đứng vững? Nhưng Chúa có sự tha thứ và vì thế Chúa được kính tôn”.

“NƯỚC HẰNG SỐNG” CHÍNH LÀ ĐỨC GIÊSU

“NƯỚC HẰNG SỐNG” CHÍNH LÀ ĐỨC GIÊSU

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Trong kiếp nhân sinh của con người, phát sinh từ sự thiếu thốn, thèm muốn, mong mỏi và hy vọng được thỏa mãn, nên người ta thường khao khát một điều gì đó tốt hơn những gì đang sở hữu. Có những khát khao làm cho cuộc sống của con người tốt hơn sau khi đạt được. Nhưng cũng không thiếu gì những thỏa mãn làm cho tình trạng của con người trở nên tồi tệ hơn.

Trình thuật của thánh Gioan mà chúng ta vừa nghe cho thấy có một thứ khát khao mà theo lẽ thường thì ít ai nghĩ tới, đó là khát khao “Nước Hằng Sống”. Một khi đã được thỏa mãn niềm khát khao quan trọng nhất này, thì mọi khát khao khác cũng được trở nên dư đầy.

1. Cuộc gặp gỡ kỳ diệu

Bài Tin Mừng hôm nay gợi lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari. Một cuộc gặp gỡ hiếm có và xem ra rất bất thường, hy hữu và đặc biệt giữa một bên là người Dothái, bên kia là người Samari.

Hy hữu, bất thường, bởi vì từ trước đến nay giữa người Samari và người Dothái không hề có sự liên lạc, giao thương và luôn trong trạng thái nghi kỵ, khinh khi. Ấy vậy mà hôm nay, Đức Giêsu là người Dothái, người phụ nữ là người Samari lại có buổi gặp nhau thân tình. Câu chuyện được khởi đi từ việc Đức Giêsu rời Giuđê để đi Galilê. Trên hành trình đó Ngài đã chọn con đường tắt, nhanh nhất để đi. Con đường đó phải băng qua làng Samari. Chính khi băng qua đây, mà Ngài gặp gỡ người phụ nữ Samari. Đây là cuộc gặp hy hữu và bất thường.

Cuộc gặp gỡ này cũng là một cuộc gặp gỡ đặc biệt vì: ban đầu, Đức Giêsu là người chủ động xin nước nơi chị phụ nữ Samari từ giếng Giacóp, Ngài lên tiếng: “Chị cho tôi xin chút nước uống!” (Ga 4,7). Người phụ nữ quá ngỡ ngàng bởi lẽ giữa người Dothái và Samari đã từ lâu, họ không đội trời chung, và người Samari luôn bị người Dothái khinh miệt, không thèm tiếp xúc… Nhưng Đức Giêsu đã đi bước trước để phá vỡ rào cản mà lâu nay vẫn trói buộc giữa hai bên, bằng việc Ngài bắt chuyện và chủ động xin nước uống. Hành động này của Đức Giêsu làm cho người phụ nữ không khỏi ngạc nhiên, vì thế, chị ta thốt lên: “Ông là người Dothái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?” (Ga 4,9).  Nhưng Đức Giêsu đã trả lời: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4, 10); và như một sự tiệm tiến, Đức Giêsu đã nói trực tiếp chính Ngài là nguồn mạch nước hằng sống, thứ nước ấy uống vào sẽ không còn khát nữa. Khi nghe thấy thế, Người đàn bà đã tha thiết xin Đức Giêsu: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (Ga 4, 15).

Thật vậy, qua cuộc gặp gỡ này, Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng. Cách mạng về khoảng cách địa lý, về vai vế để đi đến một cuộc cách mạng vĩ đại, đó là cách mạng tâm hồn. Nhờ cuộc cách mạng tâm hồn này, mà từ nay, giữa người Dothái và người Samari được sống và sống dồi dào khi thờ phượng Chúa không chỉ ở trên núi này hay núi nọ, mà ngay tại trong tâm của mình qua Thần Khí và sự thật.

2. Đức Giêsu là Nước Hằng Sống

Khi nói về cuộc cách mạng tâm hồn nơi chị phụ nữ trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, tưởng cũng nên nhắc lại: trước kia giữa người Dothái và người Samari, họ có chung một nguồn gốc. Nhưng do cuộc sống thay đổi và vì thời cuộc…, nên người Samari có những giao thương với ngoại bang, từ đó người Do thái cho là lai căng, thậm chí là bội giáo, và thường khinh thị, không muốn giao tiếp.

Nhưng hôm nay, Đức Giêsu đã vượt qua ranh giới của cái gọi là “ta và địch”, trong truyền thống để đến với anh chị em của mình.

Khi Ngài chủ động đến với chị ta như thế, Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng nhằm cải hóa tâm hồn chị. Tâm trạng và thái độ của người đàn bà này có thể nói là một cuộc diễn biễn tiệm tiến trong ân sủng và đức tin.

Thật vậy, thoạt tiên, sự xuất hiện của Đức Giêsu trước mặt chị chẳng hơn gì một “tên Dothái”. Đây là lối nghĩ miệt thị nhau, vì đã có mâu thuẫn từ nhiều thế hệ. Nhưng sau đó, chị ta đã “thưa ông”. Tiếp theo, khi được Đức Giêsu mặc khải cho biết chị ta đã 5 đời chồng rồi, lúc đó, chị đã gọi Ngài là một vị “ngôn sứ” là Đấng “Mêsia”. Cuối cùng, chị đã tôn vinh Ngài là Đấng Cứu Độ trần gian.

Qua câu chuyện giữa Đức Giêsu và người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp, Đức Giêsu đã mặc khải hai điều:

Trước tiên, Đức Giêsu mặc khải cho người phụ nữ biết rằng: Ngài chính là Đấng Kitô, là Mêsia mà muôn dân mong đợi từ lâu. Ngài chính là nguồn mạch phát sinh sự sống, nên gặp được Ngài là gặp được chính nguồn sự sống bất diệt: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa.Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4, 13-14). Như vậy, Đức Giêsu chính là “Nước Hằng Sống”.

Thứ đến, Đức Giêsu mặc khải thêm: đã đến lúc không còn chuyện phân biệt rằng Thiên Chúa của tôi và Thiên Chúa của chị nữa. Không còn chuyện cùng một Thiên Chúa chúng ta thờ, nhưng lại chỉ thờ ở đây mà không thờ chỗ khác. Vì thế, Đức Giêsu cất tiếng nói: “Nhưng giờ đã đến – và chính lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4, 23).

Như vậy, điều mà Đức Giêsu đã mặc khải cho người phụ nữ khi xưa, cũng chính là điều mà Ngài muốn mặc khải cho chúng ta ngày hôm nay.

3. Sứ điệp Lời Chúa

Chúng ta đang sống trong một xã hội đề cao nhu cầu hưởng thụ. Thượng tôn vật chất… Tuy nhiên, vẫn còn đó những thiếu thốn khi trong nhà có nhiều tiền. Vẫn còn đó sự bất an, khi quyền lực có trong tay. Và, vẫn còn đó, một khoảng cách giữa người với người ngay trong cùng một căn nhà…

Vì thế, trong cuộc sống hiện thời, con người luôn khắc khoải và có những khát vọng như:

Khát vọng chân lý, công bằng khi phải đối diện với sự gian dối, bất công. Hoặc sống trong cảnh thù hận, ích kỷ…người ta khao khát tình thương, lòng bao dung, sự tha thứ. Còn sống trong chiến tranh, loạn lạc, đau khổ và bất an, thì người ta mong muốn có hòa bình, hạnh phúc và an vui…

Như vậy, con người vẫn luôn mong được hạnh phúc. Nhưng có biết bao người càng tìm càng mất. Tại sao vậy? Thưa, vì họ tìm và gắn bó vào những thực tại trần thế như: quyền, tiền, danh vọng, nhục dục… nên không bao giờ họ được khỏa lấp nỗi khát vọng trong sâu thẳm tâm hồn của mình. Tình trạng của người Phụ nữ bên bờ giếng là một minh họa. Chị ta ngồi ngay bên miệng giếng, nhưng tâm hồn vẫn khát. Chị ta cứ ngỡ rằng khi lao mình vào những thú vui nhục dục… thì sẽ được hạnh phúc. Không phải thế! Chị ta đã lầm khi đặt lý tưởng, mục đích của cuộc đời chị sai chỗ, nhầm đối tượng. Chỉ khi gặp được Đức Giêsu, chị ta mới hết khát và thỏa mãn. Thật vậy: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Hay như thánh Augustinô cũng phải thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, linh hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”.

Thật vậy, theo bản năng của con người, ai trong đời mà lại không mong muốn đạt được chân, thiện, mỹ. Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta cũng không khác gì Dân Itrael khi xưa. Luôn đi tìm những thứ nhất thời, mau qua. Họ được Chúa cứu và giải thoát ra khỏi cảnh nô lệ bên Aicập, nhưng không bao lâu, người ta lên tiếng trách mọc Chúa và nhớ những củ hành củ tỏi bên Aicập. Họ đã lầm! Đang có Chúa ở bên, nhưng vẫn không nhận ra.

Cũng vậy, khi chưa cảm nhận được Chúa thực sự, con người luôn sống hình thức và phụ thuộc vào những chuyện bên ngoài. Vì thế, vẫn còn đó những anh chị em sốt sắng đi lễ nhà thờ, nhưng sẵn sàng cãi vã to tiếng với những người sống chung quanh chỉ vì con chó, con mèo, hay mấy đứa trẻ chơi với nhau… Cũng vẫn còn đó khi làng này và làng bên kia có những khúc mắc từ lâu, nên hôm nay có lễ ở làng bên thì bên này làng tỏ vẻ ngần ngại không muốn đi, chỉ vì sự nghi kỵ trước kia lại nổi lên.

Mong sao, với sứ điệp Lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta sẽ khao khát đi tìm chân lý, sự sống. Đi tìm chính Chúa và sống với Ngài. Đồng thời, chúng ta cũng bỏ qua khoảng cách kỳ thị để đến được với nhau. Bởi vì Chúa là Chúa của mọi người chứ không chỉ riêng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết vượt lên trên những rào cản của kỳ thị, ghét ghen, để xây dựng sự hiệp nhất. Luôn biết mở lòng ra để đón nhận chính Chúa vào trong cuộc đời, hầu chúng con đáng được hưởng hạnh phúc viên mãn. Amen.

Tác giả: Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển