LỬA THÁNH THẦN

LỬA THÁNH THẦN

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã nhiều lần hứa sẽ gửi Thánh Thần đến an ủi các môn đệ.  Quả thật, các ngài không phải chờ đợi lâu.  Vào ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần xuống đầy tràn trên các ngài.  Ơn Chúa Thánh Thần thật mãnh liệt.  Chúa Thánh Thần đã đụng chạm đến các ngài.  Chúa Thánh Thần như nguồn nhựa sống thấm tẩm vào từng chân tơ kẽ tóc làm cho các ngài thay đổi da thịt, trở thành con người mới.  Các ngài đã cảm nghiệm được sự tác động ấy.  Đó là cảm nghiệm về một ngọn lửa.

Chúa Thánh Thần là ngọn lửa thanh luyện.

Giống như ngọn lửa thanh luyện vàng và kim loại khỏi các tạp chất, ngọn lửa Thánh Thần tẩy sạch con người cũ của các tông đồ.  Trước kia các tông đồ là những người nhỏ nhen ích kỉ, ham hố danh vọng, thường tranh nhau chỗ cao chỗ thấp.  Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các Ngài trở nên quảng đại, hy sinh quên mình, chỉ nghĩ đến phục vụ Nước Chúa.  Trước kia các Tông đồ là những người nhút nhát, dễ thay đổi.  Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các Ngài đã trở nên cam đảm, trung thành làm cho Chúa đến nỗi dám hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa.  Hơi ấm của Chúa Thánh Thần băng bó những vết thương làm cho tâm hồn các Ngài liền da liền thịt, sạch hết mặc cảm, trở nên những con người hoàn toàn mới.

Chúa Thánh Thần là ngọn lửa soi sáng.

Ai đã có lần đi trong hang động tối tăm mới hiểu được nỗi khổ của người mò mẫm lần từng bước dò đường đi.  Những tảng đá lởm chởm, những thú vật độc ác, những vực sâu hiểm nghèo đang rình chờ cướp mạng sống của người mạo hiểm.  Hạnh phúc biết bao khi có ánh sáng tới.  Đường đi xuất hiện rõ ràng.  Khách bộ hành an tâm mạnh dạn tiến bước.

Trước kia, các Tông đồ giống như người đi trong đêm tối, không biết đường biết hướng về đâu.  Lửa Chúa Thánh Thần đến soi sáng trí khôn biến những bác ngư phủ quê mùa trở nên sáng suốt thông minh, hiểu biết Lời Chúa.  Lửa Chúa Thánh Thần soi sáng đường đi, biến những môn đệ mất Thầy như bầy ong vỡ tổ trở nên những người lãnh đạo dẫn đường cho một đoàn dân mới tiến về Quê Trời.

Chúa Thánh Thần là ngọn lửa sự sống.

Sau ngày Chúa Giêsu chịu chết, các Tông đồ sợ hãi tản lạc tứ phía.  Các ngài phải trốn chạy.  Các ngài phải ẩn nấp, Các ngài sống trong sợ sệt lo âu.  Các ngài phải đóng kín cửa nhà vì sợ người Do thái.  Các ngài sống như tựa như đã chết.  Các ngài giống như cái xác không hồn.  Nhưng sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các ngài nhận được nguồn sống.  Các ngài bừng tỉnh như sau một giấc ngủ.  Các ngài mạnh mẽ như người hồi phục sau cơn trọng bệnh.  Sự sống mãnh liệt trào tuôn khiến các ngài không còn có thể bó gối ngồi một chỗ, nhưng mạnh mẽ mở cửa ra đi rao giảng Lời Chúa.  Sự sống mãnh liệt trào tuôn khiến các cộng đoàn phát triển mau chóng.  Ngọn lửa Chúa Thánh Thần đã đem lại sự sống, sự sống lại và là sự sống mới cho các Tông đồ, cho các tín hữu.

Ngày nay chúng ta cảm ơn Chúa Thánh Thần hơn bao giờ hết.  Trong bản thân cũng như trong cộng đoàn chúng ta có nhiều tì tích hoen ố.  Chỉ có ngọn lửa của Chúa Thánh Thần mới có thể thanh luyện tâm hồn chúng ta.  Thế giới hôm nay đầy những bóng tối.  Chỉ có ngọn lửa Chúa Thánh Thần mới có thể soi sáng cho chúng ta biết đường lối mà đi.  Thế giới hôm nay chứa đầy văn minh sự chết, đưa con người tới huỷ diệt.  Chỉ có ngọn lửa Chúa Thánh Thần mới hồi phục, đưa ta vào sự sống mới trong Đức Kitô.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.  Amen!

TGM Ngô Quang Kiệt

From: suyniemhangngay1 & Anh chị Thụ Mai gởi

“Em gắng chờ khi nào anh về,”

“Em gắng chờ khi nào anh về,”

Dù cho bao năm bao tháng có lê thê.

Xuân đến Hè sang rồi Thu lạnh lùng,

Vẫn bên lòng một nỗi nhớ nhung.”

(Văn Phụng – Chung Thuỷ)

(RTm 12: 12-13)

Kể ra thì cũng lạ. Lạ ở chỗ, là: tác giả viết lên nhạc bản ở trên lại cứ nhắn với người “em” của mình: hãy “gắng chờ khi nào anh về”, dù đời người có lê thê, hay gì gì đi nữa, người vẫn “bên lòng một nỗi nhớ nhung”. Nhớ nhung đây, chỉ một nỗi mà thôi, chứ không đếm tới hai, ba bao giờ. Chao ôi là âm nhạc! Ối dào, là thi ca! Những là, tình tứ, mong chờ nhiều nỗi nhớ.

Hát thế vẫn chưa xong, người anh của đàn “em” trong làng nhạc lại cứ hát thêm:

“Em vẫn chờ khi nào anh về,

Về thôn xưa nghe tiếng sáo đê mê.

Bên mái nhà tranh hàng cau thơm vàng,

Vui êm đềm đời sống mơ màng.”

(Văn Phụng – bđd)

Thế đó, là thuỷ chung/chung thủy, ở thời trước. Còn hôm nay, nếu có ai hỏi rằng: còn chăng những người anh và “em” như thế nữa không? Thì đây, câu trả lời xin dành cho bạn và cho tôi, là bầu bạn đang nghe ý-kiến rất phản hồi này như câu tiếp “phê” hơn, vẫn bảo rằng:

“Nhớ chăng bên giàn hoa?

Vẫn còn chim yến vẫn còn sơn-ca.

Nhớ chăng bên bờ ao?

Vẫn hòn đá cũ vẫn hàng cây cao.”

(Văn Phụng – bđd)

Hôm nay đây, bần đạo sẽ thôi không còn hỏi câu tương-tự, với ai hết. Nhưng, chỉ dám thưa với bạn đọc và bạn nghe đọc ở đây rằng: ta nên đi dần vào chốn lan-man tình-tứ, cũng rất “phiếm”. Phiếm nhiều điều, cả về đạo lẫn đời, để cho qua đi những tháng ngày vất vả vật-lộn với giòng tư-tưởng những là thần-học và học rất thần (sầu) mãi về sau.

Hôm nay nữa, sau những ngày rong chơi tản-mạn rất nhiều chốn miền xa xôi có nền văn-minh gần gũi với người mình, bần đạo thấy mình thật nhỏ bé cả về hình tượng lẫn tâm-thân, đành im hơi lặng tiếng, không còn dám hứa hẹn viết lách gì nhiều về các cuộc rong chơi với bất cứ ai.

Cảm tạ Ơn Trên, bần đạo được đi đây đó cũng khá nhiều, không những chỉ biết được nhiều thứ của xứ người, lại còn thưởng-thức cái hay cái đẹp cũng như những cái còn chưa đẹp của người ở xứ khác. Tuy nhiên bần đạo lại chẳng có được năng-khiếu ghi chép thành ký-sự, nên chỉ dám mời bạn/mời tôi, ta vào xem các bài tường-thuật do cây viết có tên là Anthony Trần ở “Duc in Altum” trên trang mạng Gia Đình An Phong, sẽ biết về các chuyến đi xa của bần đạo, rất nhộn-nhạo. Ở đó, bầu bạn sẽ gặp thấy các thiên phóng-sự “nóng hổi” của cây viết rất trẻ này.

Nói thế rồi, nay bần đạo bầy tôi lại xin “đổi đề tài”, để mời bà con ta đi xa hơn chút nữa mà vào vườn cây khô khan những học thần/thần học quả thật sơ-cứng. Vườn này, bạn và tôi ta sẽ thấy toàn những cây khô đét-đèn-đẹt được gọi là “triết-thần”, hoặc học về thần cho lắm rồi chỉ nói toàn chuyện triết-lý viển vông, lông ngông không bông đùa.

Quả thật rất đúng. Trong lúc bần đạo thấy “lúng túng” đặt mãi vấn đề cốt lõi là: làm sao ta đi Đạo cho vui tươi, sung sướng, nhẹ nhàng, lại đã bắt gặp ngay câu dặn dò của chàng trai nào đó có kinh-nghiệm yêu-thương vợ hiền mình đến độ ly-dị vợ rồi mới thấy cần thiết thương-yêu “bà xã” mình nhiều hơn nữa. Biết rồi, chàng mới có câu nói mà bần đạo đây thấy có thể áp-dụng chuyện đạo rất triết/thần như sau:

“Đừng có mà khùng điên/dại khờ mà tự hành-hạ mình một cách quá ư là nghiêm-khắc. Hãy cười cho thật nhiều và hãy làm mọi cách để người-mình-yêu-dấu cũng cười thành tiếng, giống như mình. Bông đùa/cười vui, sẽ khiến mọi việc trở nên nhẹ nhõm, dễ chịu.”

Dĩ nhiên, những người hoặc những điều mình thương-yêu hôm nay không hẳn là chuyện đạo những triết/thần rất “thần-học”, mà học mãi vẫn chỉ thấy vẩn vơ lưng chừng, mà thôi. Nói cách khác, nếu đi vào địa hạt thần-học rất Thánh-kinh mà không mang tính vui tươi/bông đùa chút nào, hẳn người học thần và triết sẽ không bị khùng điên/dại khờ là may lắm rồi.

Nay, bần đạo mời bạn và tôi, ta đi vào địa-hạt thần-học và triết-lý hoặc thánh kinh với một đề-nghị đừng dở khùng dở điên nữa, nhưng hãy vui tươi, nhẹ nhàng một khẳng-định đầy quyết tâm, như khẳng-định mới đây của vị cựu Giám-tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Úc từng viết như sau:

“Đức Giáo Hoàng Phanxicô vừa tạo một tầm nhìn mới cho Giáo hội mình. Ngài muốn tặng cho Giáo-hội một thứ “đổi-thay dáng vẻ bề ngoài” cho dễ nhận. Dễ nhận diện, ở chỗ: nay ta phải ra khỏi tính nghiêm-khắc khó lay-chuyển để về với Đạo Chúa từng biết tự kỷ, ngõ hầu chuyển lay/thay đổi cho đúng nghĩa. Đức Giáo-hoàng Phanxicô muốn Giáo hội mình trở-thành “hiền-thê” mang dáng vẻ trong sáng, nổi bật, nhiều sắc mầu tươi vui hơn trước. Dáng vẻ này, không chỉ là vẻ là dáng có thoáng chốc hiện-diện trước ống-kính máy hình, có đèn nháy chỉ một chốc lát để bắt mắt thiên-hạ thôi. Nhưng, một Giáo-hội được thêu-đan cẩn-thận bằng đường nét tinh-tế mà Đức Kitô muốn Giáo hội phải như thế, với thế-giới thời hậu-cận-đại.

Bằng vào tông-thư “Niềm vui Tin Mừng”, Đức Phanxicô đã phác-hoạ nên chiến-lược cho Giáo hội tương-lai mai ngày. Chiến-lược đây, không để chinh-chiến hoặc đấu-tranh giành lợi-lộc mà đưa ra lời chỉ-dẫn để Giáo-hội sống Phúc Âm giữa thế kỷ 21 đầy thách-thức. Đức Giáo Hoàng Phanxicô còn căn-dặn Giáo-Hội ta phải mãi mãi đi vào trạng-thái thừa-sai/mục-vụ rất phục-vụ. Là Kitô-hữu, mỗi người và mọi người sẽ quyết-tâm ra ngoài để đến với những người từng xa rời Giáo-hội và cả những người bị xã-hội bỏ bê, chê-bai, vùi dập. Không ai được phép loại-trừ bất cứ người nào khỏi Giáo-hội, tức: cộng-đoàn tình-thương của muôn người. Mỗi người và mọi người có bổn-phận tỏ-bày với tất cả chúng-dân gần xa niềm thương-yêu xót xa, đầy trìu mến. Và, cho phép mình tự-do trở thành người cận thân và cận lân với tất cả mọi chúng-dân. Ta làm thế, vì Chúa đã và đang hướng-dẫn ta mang Tin Mừng vui-tươi hạnh-đạo đến với mọi loài. Ta làm thế với xác-tín rằng: Tin Mừng lành thánh, vẫn cống-hiến cho nhân-loại cung-cách lành-đẹp để cùng sống. Và, Tin Mừng đối với ta là những kẻ rất tin-tưởng chuyện ấy, đã và sẽ là nguồn hoàn-thành chức-năng lớn của con người” (Xem Lm Michael Gilbert, A Joyful Church, The Majellan Family, April-June 2014, tr. 1-5).

Chính đó là vấn đề của thế hệ ngày hôm nay. Thế đấy, là bận tâm của con người hiện tại, cả ở trong Đạo lẫn ngoài đời. Bận-tâm chính, là: làm sao “đem vui tươi vào chốn sầu buồn”, cả đời người. Nghĩ thế rồi, nay mời bạn/mời tôi ta đi thêm vài bước nữa mà phiếm cho sâu cho sát, để rồi ở cuối con đường tăm tăm-tối, sẽ thấy loáng thoáng ngọn đèn suy-tư,hầu tìm ra chút ánh sáng của niềm vui.

Suy tư, là suy-nghĩ rất tư-lự bằng vào ý-kiến của nhiều người như tôi, như bạn trong cõi đời đầy những “phiếm”. Nhưng, trước khi “phiếm loạn” điều gì, lại cũng xin đề-nghị bạn và tôi, ta nghe câu tiếp ở nhạc-bản về những đợi chờ, thuỷ chung, lung linh tình tứ như sau:

“Khi nắng chiều hôm ngả chân đồi

Lòng bâng khuâng em trông ngóng xa xôi

Mơ thấy nhạc vang lừng khúc khải hoàn

Tim rộn ràng tưởng bóng anh về (anh đã về).”

(Văn Phụng – bđd)

Hát thế rồi, nay ta dõi-theo ý-kiến của một đấng-bậc khác từng có vai vế, nay chỉ muốn những vế và vai kéo dài đến mọi người bằng cảm-kích viết thành lời, rằng:

“Bạn Homer Simpson thân mến,

Tôi vẫn nghĩ là bạn sẽ chẳng nề-hà gì khi tôi viết cho bạn những giòng chữ sau đây với tư-cách một người cha gửi đến một người cha khác, để trao-đổi.

Trước tiên, phải nói ngay ở đây rằng: tôi cần ý-kiến bạn để tư-vấn. Bởi, con cháu tôi chúng bỏ quá nhiều giờ ra nghe bạn nói chuyện hơn ngồi nghe cha mẹ chúng dạy dỗ. Cả tôi nữa, tôi từng chào thua và nhận ra được là: bạn có nhiều cái mà tôi không thể nào tạo ra cho mình được. Tôi cũng có máy truyền-hình và ghế bành để ngả dài ra mà thưởng ngoạn chương-trình cười vui của bạn. Nhưng, chỉ có bạn mới là người khiến nhiều kẻ giống như tôi đã xài tối-đa hai thứ đó, mà không tiếc tiền. Bạn từng bảo với người nghe, rằng: “Thật khó đánh lừa được các bà bầu hoặc các đứa trẻ đang gặp rắc rối với nhiều nhiều chuyện; nhưng, tôi có thể lấp kín 8 tiếng đồng hồ một ngày dài bằng chuyện tiếu-lâm trên truyền-hình!” Thêm vào đó, nếu bạn không ngại để cho tôi nói thêm đôi lời, thì: tôi sẽ bảo với bạn rằng: bạn không là người để lại ấn-tượng của kẻ lanh-lợi nhất hành-tinh này từng sống hoặc không sống giống tôi hoặc làm bất cứ thứ gì thích-hợp để vẽ lên cá-tính của nhân-vật trong hoạt-hình. Tôi nhớ cái lần gặp tình-trạng khẩn-cấp hôm ấy, bạn cứ ới gọi người quay phim mà hét lên rằng: “Ấy ông thu hình ơi, gọi gấp cho tôi số điện-thoại khẩn-cấp 911 ngay được không?”…

Đa số các bậc cha mẹ sống thực trên đời, đang phải sống khổ sở vì chứng căng-thẳng thần-kinh mình gặp phải và cứ mong đợi mãi mà chẳng thấy được cái ngày giờ họ ở vào địa-vị thực để mà sống. Trong khi đó, thì bạn lại quay về hướng đối nghịch với họ, để rồi cứ khơi khơi nói rằng: chẳng cần phải làm như thế mới sống vui, sống khoẻ.  Bạn thuộc loại bậc thày chuyên đi đường tắt, vẫn không ngừng khai-thác chỗ nước cạn của đời sống để biết được đâu là chiều sâu của đời sống. Biếng nhác như bạn là thế, mà bạn cũng sản-sinh được đến hơn 500 phim tập. Mỗi tập phim Simpsons đưa ra là để bạn có thể giảng và dạy dỗ rất sâu rất sát, cả chuyện đạo đức của tôn-giáo nữa, cũng không gờm.

Homer bạn hiền quí mến,

Tôi đây rất thích cung-cách làm cha làm mẹ của bạn khi bạn ứng-xử với bọn trẻ con trong xóm. Bạn chẳng bao giờ thiếu lời khuyên-nhủ dành cho chúng, thế mà một số nhỏ trong bọn chúng lại toả ánh vượt xa cả gia đình chúng nữa, là khác. Có lần bạn có nói với Lara, con gái yêu của bạn, rằng: “Nếu con không thích các công-việc mình làm, thì đừng phấn-đấu nữa mà làm gì. Hãy cứ bước vào đó mỗi ngày, rồi chỉ cần làm phân nửa công việc thôi, là được rồi. Và, đó là cung-cách mà người ở Mỹ vẫn làm thế đấy”.

Tôi dám cá rằng: người từng dàn dựng nên chương-trình này thường vẫn sử-dụng lời tư-vấn của bạn để châm-chích cung-cách làm cha làm mẹ cách tuyệt-hảo mà lâu nay vẫn được cổ-suý. Điều này khiến một số cha mẹ đâm nghi-ngờ và lo-ngại cho khả-năng của họ nữa, ít ra, thì bạn cũng từng làm mẫu cho một ông bố tồi-tệ đến là thế. Bọn tôi đây vẫn thấy mình ở “trên cơ” của bạn rất nhiều. Còn nhớ, có lần bạn còn nói với vợ mình rằng: “Em à, em đừng làm thằng bé nhà mình nó nản-chí nam-nhi đấy nhé! Như như con chồn chui ống với những việc quan trọng hơn cả chuyện học hành, nữa là khác. Đó là điều tách bọn mình ra khỏi giống vật, ngoại trừ con chồn chui ống, thôi.”

Dưới đây, còn nhen-nhúm cả một chỉ-dẫn rất “bá-đạo” hơn thế nhiều, như câu nói mà bạn từng bảo với con mình: “Con à, nếu con thật sự muốn có thứ gì trên đời này, thì phải làm việc cho cật-lực để đạt được điều con muốn. Nay, thì hãy câm mồm lại! Kìa, họ đang công bố số lô-tô trúng giải độc-đắc kia kìa!…”

“Này bọn con trẻ, phải chăng bọn con vẫn muốn làm tốt hết mọi sự, chứ? Nhưng, tất cả sẽ thất-bại một cách thảm não, cho mà coi! Hãy học nơi đây bài học này, là: đừng bao giờ thử thời-vận như thế hết.”

“Nay ta muốn truyền cho các con ba điều ngắn ngủi, con cần phải giữ suốt đời mình. Thứ nhất, là: Hãy bảo vệ lấy chính mình! Thứ hai, là: Ý-kiến hay đấy, ông chủ à! Và, thứ ba, là: Cái đó giống như khi ta tới đó, rồi cũng biết thôi.”

“Này Bart, với 10 ngàn đô-la, ta sẽ trở-thành triệu-phú chỉ mấy hồi! Nghĩa là, ta có thể mua tất cả mọi thứ rất hữu sự, như: tình yêu! Đấy à nghen”

“Sách vở là những thứ vô-tích-sự, chẳng lợi lộc. Ta đây, lâu rày, chỉ đọc mỗi cuốn: “Hãy giết con chim nhại tiếng người! mà thôi; nhưng rồi sách-vở cũng chẳng mang đến cho ta ý-tưởng gì để giết những con chim nhại tiếng người kia ấy. Đúng rồi. Nó dạy ta, không chỉ có mỗi cách-thức phê-bình người khác qua màu da của họ…, nhưng bằng những gì tốt đẹp mà người ấy đem đến cho ta, thôi.”

Homer à,

Đôi khi tôi đây lại cũng nghĩ, rằng: lý do khiến con cháu của tôi chúng thích nghe lời bạn hơn cả tôi nữa, chỉ vì bạn chuyên môn tìm phương-cách nào dễ chịu để mọi người thực hiện, cho thoải mái. Trong khi đó, bọn tôi cứ buộc phải nói,đó cũng là thách-thức không nhỏ, đối với bọn trẻ. Thế đó, là công việc tôi phải làm. Và tôi đây, sẽ khiến bọn trẻ chúng nó chán ngấy cả tôi nữa, khi tôi chỉ thích dán mũi vào màn ảnh truyền hình hơn là lo chuyện giáo-dục bọn trẻ con. Nhưng tôi chẳng nề-hà gì khi phải cho chúng biết là: đi học về đến nhà, là phải bỏ bao bị xuống, sắn tay áo ra mà rửa bát dĩa, rồi tự tổ-chức sắp xếp hầu chuẩn-bị cho ngày mai lại lên trường, và làm bài tập ở nhà cho xong rồi cả nhà mới được xem chương-trình “The Simpsons” nửa tiếng, cũng không sao…” (xem Michael McGirr, A Letter to Homer Simpson, Australian Catholics số Summer 2014, tr. 8).

Điều mà nhà mô-phạm Michael McGirr muốn nói với tay hài thời đại là Homer ở phim hoạt hoạ nhiều tập The Simpsons mỗi điều này: không biết tại sao nhà-giáo chúng tôi học bao nhiêu thứ trên đời, để rồi cố truyền lại cho đám trẻ nhà mình, mà sao bọn chúng chẳng thích thứ nào do bọn tôi đưa ra hết. Phải chăng: bọn tôi vẫn còn thiếu chất “hài” là cái hấp-dẫn nhất trên đời? Phải chăng đó là món thời-thượng cho mọi người được dễ sống chuỗi ngày đáng nản?

Hỏi thế, khác nào trở về với câu của con trẻ từng đưa ra với cha cố bé ở nhà thờ hôm đó, rằng: Thưa cha/thưa cố, giữ đạo Chúa và đi nhà thờ hôm nay cũng là một thứ, phải không ạ? Và hôm nay đi nhà thờ có gì vui không mà sao người lớn cứ bắt con đi như thế tối ngày, vậy?

Thật ra thì, câu hỏi của trẻ bé nghe qua cứ tưởng chỉ là chuyện của con trẻ, chẳng cần suy-nghĩ làm gì cho bận trí óc với tâm-can. Nhưng, thời đại hôm nay, nếu diễn rộng, có thể đó cũng là câu để đời, khiến ta suy-tư mà tự cật vấn. Cật và vấn, để rồi tự mình tìm ra câu trả lời cho thoả-đáng, rất hữu-dụng.

Hỏi thế, có là hỏi nhau những câu hỏi rất thường-thức, trong Đạo/ngoài đời rất như sau:

-Danh hài nào là người mà bạn thích nhất, trên sân khấu cuộc đời?

-Những gì trong đời làm ta cười vui, nhiều nhất? Bạn có giống thế không?

-Tại sao cứ bảo: vui tươi/cười đùa là quà tặng mình tạo cho đời?

-Cười vào chính mình có là chuyện dễ làm hơn cười vào người khác?

-Hãy thử lấy ví-dụ thế nào là vui tươi/cười đùa dù xấu/tốt?

-Có bao giờ ta nghĩ: Chúa cũng hóm hỉnh, cười vui như con người?

Trả lời cho các câu hỏi này, nhiều vị cũng không ngại đưa ra thêm câu trả lời, rất để đời. Như, Đức Bênêđíchtô thứ 16 có lần nói: “Tôi tin một cách chắc-chắn rằng Thiên-Chúa của ta cũng đầy tính hóm-hỉnh, cười vui như mọi người. Ngài vẫn muốn mọi người coi mọi sự nhẹ nhàng, dễ chịu để còn sống” (x. Anne Rennie, The Life of the party, Australian Catholics số Summer 2014, tr. 15).

Nhìn vào Kinh Sách, hẳn người người đều thấy rõ: Đức Giêsu cũng từng lân-la ăn uống với tất cả mọi hạng người, từ giới bê tha, thấp hèn, phường đĩ điếm, cũng đâu sao! Ngài chắc cũng là nghệ-sĩ rất đáng kể mới lôi cuốn cả ngàn người đến nghe Ngài giảng dạy đến độ bụng đói cồn cào mà vẫn cứ đi theo. Ngài còn có tài kể chuyện ngụ ngôn, nhẹ nhàng, dễ nghe khiến giới “mày râu nhẵn nhụi” như Kinh Sư Biệt Phái, phải khó chịu?

Đức Giêsu phải là người vui vẻ hết mình mới dám “khuyến mại” về Vương Quốc Nước Trời của Ngài đã gần kề? Mới khuyên bảo được mọi người hãy hối cải, đổi đời và trỗi dậy làm cuộc sống mới. Ngài phải là Đấng có tài ăn nói cuốn hút mọi người quyết tâm đi vào cuộc sống triệt-để có hồi tâm, canh cải để “chui qua lỗ kim nhỏ” của Nước Chúa, đầy vui tươi?

Trả lời được các câu vấn-nạn cho đời mình như thế, ắt hẳn người người sẽ hồi-tâm biến đời mình thành những chuỗi ngày vui có bạn bè vây quanh, mỗi ngày đều là ngày của Chúa, chứ?

Và, khi người người đi Đạo đã có thể biến cuộc sống mỗi ngày của mình thành những ngày vui có Chúa, có anh có em ở với mình rồi, thì khi ấy tha hồ mà kể cho nhau nghe những câu truyện tưởng rằng đứng-đắn, khó khăn, nhưng dễ cười như truyện đời được kể, như sau:

“Tôi và bạn gái tôi đã hẹn hò được hơn một năm. Và, chúng tôi đã quyết-định đi đến hôn-nhân trong thời-gian tới. Mọi thứ đều tươi đẹp đối với tôi trong thời-gian này, chỉ duy có một điều làm tôi phân tâm, đó là… cô em gái dịu dàng, xinh đẹp của vị hôn-thê của tôi.

Cô em vợ tương lai của tôi năm nay 22 tuổi, có “gu” ăn mặc gọn gàng, lại rất “chuẩn” về tính đài-các, nết na, lẫn sắc đẹp. Ngoài những điều ấy ra, cô còn tỏ ra rất dễ chịu với mọi người kể cả những vị rắp ranh làm anh rể của cô nữa.

Một ngày đẹp trời nọ, cô em vợ tương-lai bé bỏng đẹp xinh của tôi đã gọi điện-thoại cho riêng tôi và mời tôi đến nhà để kiểm-tra giấy mời và thiệp báo hỷ cho đám cưới của tôi và chị cô. Khi tôi đến, thấy chỉ có mình cô ở nhà. Cô đến gần bên tôi rồi thì thầm đôi điều rằng: chính ra cô cũng rất yêu tôi và không thể cưỡng lại được tình-cảm riêng-tư của mình… Cô còn nói: cô muốn gần-gũi tôi dù chỉ một vài phút phù-du trong đời, trước khi tôi làm đám cưới với người chị của cô.

Lúc ấy, tôi không thốt ra được lời nào và càng lung-túng hơn nữa, khi cô nói: “Bây giờ em lên phòng riêng của em trên gác, nếu anh không ngại thì hãy lên đó với em một chốc lát, nhé.

Tôi đứng im như pho tượng gỗ và nhìn cô thoăn thoắt bước lên gác, trước một mình. Tôi cứ đứng đó một lúc, không biết phải làm gì cho xứng hợp với thân-phận mình. Cuối cùng, tôi quyết-định thẳng bước tiến ra cửa trước. Tôi mở cửa và đi thẳng đến chiếc xe của mình, dự tính lấy cái gì đó làm bằng, cho xong.

Vừa quay lại, thì lạ chưa, trước mắt tôi là cả gia đình nhà vợ chưa cưới của tôi đang đứng đó vỗ tay cười. Với đôi mắt hơi rơm rớm nước mắt và bằng một giọng nói xúc động, bố vợ tương-lai của tôi bảo với tôi, rằng: “Gia đình ta cảm-thấy rất vui khi con đã vượt qua được bài kiểm-tra nhỏ của ta. Ta sẽ không thể tìm đâu ra được một người rể tốt lành và xứng-đáng hơn cho con gái ta. Chào mừng con đến với gia-đình!” Tôi đã vượt qua được bài “kiểm” trước đám cưới. Thật hú vía và … tôi quả là người may mắn nhất trong đời. Đời của con người cố sống tốt lành với… nhà vợ!” (trích bài chia-sẻ tâm-tình của một người trong buổi “Thăng Tiến Hôn-Nhân”, rất tận tình).

Truyện kể ở trên cũng “tếu”, cũng “buồn cười” và cũng “bé cái lầm” nhưng không “buồn” và “cứng” như bao câu truyện kể của đấng bậc giảng dạy vào các Tiệc Thánh Thể ở nhà Đạo.

Nói cho cùng, suốt đời đi Đạo nghe giảng dạy mà không vui tươi, cười đùa thì cũng chưa hẳn là đã tuân theo lời dặn dò của bậc thánh-hiền cho đúng cách, khi thánh-nhân từng bảo ban:

“Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng,

cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân,

và chuyên cần cầu nguyện.

Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh

đang lâm cảnh thiếu thốn,

và ân cần tiếp đãi khách đến nhà.”

(Rm 12: 12-13)

Nói cho cùng, thì: để ra một đời đi đạo, mà chẳng có được giây phút vui tươi, bông đùa, cười giỡn thì cũng uổng. Uổng, cho những tháng ngày có cầu mà không nguyện, cũng không biết. Vậy thì, hỡi bạn và tôi, ta hãy vùng đứng, trỗi dậy mà hát lên những câu ca nhè nhẹ, ngăn ngắn có chút vui, như sau:

“Khi nắng chiều hôm ngả chân đồi

Lòng bâng khuâng em trông ngóng xa xôi

Mơ thấy nhạc vang lừng khúc khải hoàn

Tim rộn ràng tưởng bóng anh về (anh đã về).”

(Văn Phụng – bđd)

Hát thế rồi, bạn và tôi, ta cứ ra đi mà truyền-bá những điều vui đi Đạo, để người người mãi rồi sẽ phấn-chấn với tháng ngày nguyện cầu rất chuyên-chăm. Hạnh đạo.

Trần Ngọc Mười Hai

Và một quyết-tâm

Cũng nhẹ nhàng như thế.

Để sống đạo.

 

“Chiều nay lạnh, có nhiều sương rơi quá,”

“Chiều nay lạnh, có nhiều sương rơi quá,”

“Nhưng lòng anh đã bình thản lại rồi.”

(Dẫn từ thơ Thâm Tâm)

Ga 3: 16-18

Sương rơi quá, nhưng lòng anh nay bình-thản lại rồi, và tâm-tư anh nay cũng đã khác. Lòng nhà Đạo, lại không thế. Vẫn không khác và không đổi, vì Ba Ngôi Đức Chúa vẫn diễn tả một tình thương tuy suộc sống nhiều diễn biến.

Trình-thuật tác giả thánh hôm nay cũng ghi lại một diễn biến rất sinh động trong cuộc sống thường nhật. Sống thường nhật, nhiều lúc con người vẫn hiểu rằng ngôn ngữ và biểu tượng không thể diễn tả được các chân lý sâu thẳm của con người, cho đúng đắn. Nhất thứ, là khi chân lý ấy lại thuộc địa hạt tín lý, thần học.

Nhiều năm trước, tôi đã có dịp đến với các em học sinh lớp nhỏ thuộc trường tiểu học công lập, ở Tiểu bang. Đến, để rút kinh nghiệm giảng dạy môn giáo lý cơ bản cho các em trong/ngoài nhà Đạo. Hôm ấy, tôi bắt đầu giờ dạy bằng một câu hỏi rất ngắn để xem các em có tiếp cận được các kiến thức sơ đẳng, hay không. Câu hỏi tôi chọn, chỉ đơn giản có thế này: “Mỗi khi làm dấu thánh giá, các em đọc gì?” Cả lớp nhao lên: “Thưa, nhân danh Cha, Con và Thánh Thần!”

Cũng khá! Sẵn đà, tôi hỏi luôn: “Các em tuyên xưng: Cha, Con và Thánh Thần. Thế thì, ý nghĩa của lời tuyên xưng ấy, như thế nào?” Cả lớp đều lặng thinh. Tôi bèn thay đổi, bằng câu khác dễ hiểu hơn: “Mỗi lần làm dấu thánh giá, các em nghĩ gì?” Cả lớp lại im lặng. Thứ im lặng dễ sợ, tôi hằng ngao ngán.

Bỗng một chú bé con, xem ra có vẻ thông minh, giơ tay nói: “Dạ thưa, cũng giống như một cụ già, một tay hảo hán và con chim trắng!” Tôi cảm thấy hỡi ôi khi nghe em nói, nhưng không dám trách móc ai, vì biết chắc có người lớn nào đó đã nhét vào đầu em, hình ảnh Ba Ngôi Đức Chúa, thật thiếu xót. Thật nghèo nàn.

Nhiều người lớn, lâu nay vẫn mang trong đầu những hình ảnh sai lạc, có được từ tranh vẽ hoặc ảnh tượng, do nghệ nhân nào đó, nghĩ ra. Sự huyền nhiệm về Ba Ngôi Đức Chúa -còn gọi là Nhiệm tích Đức Chúa Trời Ba ngôi – hàm ngụ trong câu nói của em bé, chứng tỏ là ta đã hình-tượng-hóa Cha, ConThánh Thần Chúa theo kiểu cách không xứng hợp, và không diễn tả đủ ý nghĩa của nhiệm tích.

Không ai hình dung ra được một ảnh hình chính xác, về Đức Kitô. Các bức ảnh ta có, cũng như ngôn từ ta sử dụng để nói về Ba Ngôi Đức Chúa, phần lớn đều do những suy nghĩ rút từ sự tin tưởng, mà ta hằng bồi đắp; hơn là, chân lý chung cuộc, về Đức Chúa.

Sự thật về Ba Ngôi Đức Chúa, lúc nào cũng đầy tràn sự sung mãn vượt trên các danh xưng ta đặt cho Ngài; và, siêu thăng ở trên mọi ý niệm triết học, ta suy diễn. Nhận thức đặc biệt, mà ta tập trung mừng kính hôm nay để mừng Chúa Ba Ngôi, là trọng tâm ý thức giúp ta nhận biết Đức Chúa là ai? Ba Ngôi là gì?

Các tín hữu Hội thánh tiên khởi, phải mất 400 năm mới nhận biết được lý lẽ: tại sao Đức Giê-su luôn đề cập đến tương quan Ngài vẫn có, với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Các tín hữu phấn đấu lắm, mới hiểu được lý do tại saotheo cung cách nào Đức Chúa có tới 3 diện mạo, mà lại hiện hữu trong cùng chỉ một hữu thể.

Ba Ngôi yêu thương sống động chỉ như Một. Ba Ngôi vẫn hành xử như Một. Và, cộng đoàn Dân Chúa, đã cảm nhận được bản chất của Ba Ngôi Đức Chúa, qua các chỉ dẫn cho ta biết ngôi vị của Đức Chúa rõ ràng “cùng đồng đều”, “cùng thực tiễn” “cùng vĩnh hằng”, như nhau.

Các tín hữu tiên khởi, đã thẩm định được “tại sao” Đức Chúa lại có đến Ba Ngôi. Định được như thế, là nhờ có suy tư và kinh nghiệm, rằng: tương quan giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là một thách thức của Tình thương. Cộng đoàn tiên khởi nhận thức rất rõ bản chất nòng cốt của Đức Chúa, không phải là một ý niệm suông; hoặc, một nguyên tắc cứng ngắc; nhưng là tương quan sống động. Và, các tín hữu hiểu ra rằng: họ được mời gọi để tháp nhập vào tương quan này.

Những gì là sự thật đối với tín hữu tiên khởi, cũng là chân lý cho chúng ta, hôm nay. Và chân lý ấy, là như thế này: Đức Chúa đã tạo dựng, cứu độ và bảo bọc thế giới con người. Ngài luôn tìm cách gặp gỡ chúng ta để kêu mời chúng ta tháp nhập vào tương quan sinh động của Ngài. Tức là kết hợp với tình yêu thương của Ngài.

Làm như thế, Ngài đem đến cho ta giá trị cao quý nhất. Đồng thời, hành động của Ngài hối thúc chúng ta san xẻ lời mời gọi gửi đến những người mà ta vẫn gặp gỡ trong cuộc đời. Thử hỏi, còn gì ưu ái hơn? Có gì quý trọng hơn lời mời gọi ấy? Có vị thần linh nào như Đức Chúa không?

Cũng nên thêm một điều: nếu các tương quan trong đời người, được đưa vào trọng tâm tương quan giữa Ba Ngôi Đức Chúa; và, nếu chúng ta biết chấp nhận lời mời tháp nhập vào tương quan của Ba Ngôi Đức Chúa, thì mọi tương quan ta có với mọi người, cũng sẽ mang ý nghĩa của tình thương yêu, nòng cốt. Có như thế, chúng ta sẽ không bị tách lìa khỏi tương quan lòng mến của Đức Chúa, nhờ vào niềm tin yêu ta có. Và nhờ vậy, chúng ta mới trở thành người con ngoan, mới được làm môn đệ dấu yêu, của Ba Ngôi Đức Chúa.

Cuối cùng, có am hiểu thấu đáo ý nghĩa của lễ hội mừng kính Ba Ngôi Đức Chúa hay không; và, am hiểu đến mức độ nào, điều này còn tùy thái độ của ta, có quan tâm bày tỏ tương quan mật thiết với người khác không. Và, cũng tùy theo tương quan ta thực hiện, có mang tính xã hội, thân mật và chuyên môn, không? Có đượm mầu sắc dân gian, hoặc quốc tế hay không?

Mỗi khi làm bất cứ việc gì, để thiết lập tương quan mới cho tốt đẹp, hãy nhớ đến những tương quan lâu nay gãy đổ. Hãy tiếp tay, hàn gắn giúp đỡ họ. Hãy tái tạo, tình yêu sâu thẳm và dồi dào cho họ.

Một cách chí tình hơn, hãy vui hưởng các tương quan tốt đẹp, ta đang có. Bởi, ta vừa khám phá ra chân lý nền tảng này, là: lễ Ba Ngôi Đức Chúa là lễ hội đem lại cho ta những tâm tình thân thương, đầy khích lệ. Tâm tình này, các thánh đã hơn một lần khẳng định:

“Đức Chúa đã thương yêu loài người đến độ Ngài phú ban Con Một Ngài, cho ta. Ngài không chỉ ban Con Một Ngài mà thôi, nhưng cả Thánh Thần của Con Một Ngài, đã được kết thành nơi hình hài Đức Kitô. Thánh Thần Chúa ở trong ta, để ta kêu lên:“Abba! Lạy Cha! để biểu tỏ tương quan Ba Ngôi Đức Chúa, là: Cha, Con và Thánh Linh.”

Chúng ta có hiểu được điều ấy không? Chúng ta có cổ vũ tương quan này không? Và, chúng ta có trân trọng lẫn nhau không? Đó chính là tinh thần của lễ hội hôm nay.

Trong tâm tình cảm và thong những điều vừa diễn-tả, cũng nên ngâm nga lời thi-ca, rằng:

“Chiều nay lạnh, có nhiều sương rơi quá,

Nhưng lòng anh đã bình thản lại rồi.

Hết đau buồn và cảm thấy sục sôi,

Niềm uất hận của một thời lưu-lạc.”

(Thâm Tâm – Dang Dở)

Sương có rơi, trời có lạnh, nay lòng anh đã bình-thản lại rồi. Bình thản hơn, khi anh lại nhận ra được tình Chúa thương-yêu hết mọi người, như Ba Ngôi Đức Chúa vẫn yêu-thương nhau suốt mọi thời, thật vĩnh cửu. Và, tình thương nơi Ba Ngôi sẽ còn dàn trải mãi đến muôn người, trong mọi chiều.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch.

CHÚA THÁNH THẦN VỚI NGƯỜI CHƯA BIẾT CHÚA

CHÚA THÁNH THẦN VỚI NGƯỜI CHƯA BIẾT CHÚA

Lm Fx Nguyễn hùng Oánh

Thánh Phaolô dạy : Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ. Thật vậy,

Chỉ có một Thiên Chúa,

Chỉ có một Đấng trung gian

Giữa Thiên Chúa và loài người,

Và cũng là người thật, Đức Giêsu Kitô,

Đấng đã thí mình làm giá chuộc thay cho mọi người.

(I Tm 2,4-6)

như vậy, mạc khải đã khẳng định tuyệt đối : mọi người được ơn cứu độ là nhờ Đức Giêsu Kitô mà thôi, không có ơn được cứu độ ngoài trung gian duy nhất là Đức Giêsu Kitô, Đáng Cứu độ nhân loại . Ta tin vào Chúa Kytô , ta tin mình đươc cứu độ , còn số phận dân ngoại ?

Giáo lý của Công đồng Vatican II nói về dân ngoại :

Sau cùng, những ai chưa lãnh nhận Phúc âm cũng được an bài bằng nhiều cách để thuộc về dân Thiên Chúa” (Lumen gentium, số 16)

Điều nói trên (hoạt động của Thánh Thần và ơn Phục Sinh) không phải chỉ có giá trị cho các tín hữu nhưng cho tất cả những ai có thiện chí được ơn thánh hoạt động một cách vô hình trong tâm hồn. Thưc vậy, Chúa Kitô đã chết cho mọi người và vì ơn gọi cuối cùng của con người thực sự là duy nhất, nghĩa là do Thiên Chúa, cho nên ta phải tin chắc rằng Chúa Thánh Thần ban cho mọi người khả năng tham dự vào Mầu nhiệm Phục Sinh ấy, cách nào đó chỉ có Chúa biết thôi” (Gaudium et Spes, số 22, Bản dịch của Giáo Hoàng học viện).

Rõ ràng Chúa Thánh Thần hoạt động nơi người Kitô hữu thì Chúa Thánh Thần cũng hoạt động nơi người chưa biết Chúa Kitô để họ có khả năng tham dự Mầu Nhiệm Phục Sinh, để họ được ơn cứu độ.

Cũng vậy, đối với các  tôn giáo ngoài Kitô Giáo

Những kẻ đang tìm kiếm Chúa trong bóng tối và qua ngẫu tượng, Thiên Chúa mà họ không biết, cả những kẻ ấy, Ngài cũng không xa họ, bời vì chính Ngài ban cho họ sự sống, hơi thở và tất cả mọi sự (x. CvTđ 17,25-28), và vì là Đấng Cứu Thế, Ngài muốn mọi người đều được cứu rỗi (x 1 Tm 2,4). Thực thế, những kẻ vô tình không nhận biết Phúc âm  của Chúa Kitô và Giáo Hội Người, nhưng nếu thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ơn thánh, họ cố gắng chu toàn thánh ý Thiên Chúa trong công việc mình theo sự hướng dẫn của lương tâm, thì họ có thể được cứu độ” (Lumen Gentium, số 16).

Từ xưa tới nay, người ta nhận thấy nơi nhiều dân tộc khác nhau một cảm thức về quyền lực tiềm ẩn trong vòng chuyển biến của sự vật và trong những biến cố của đời người, đôi khi cảm thấy cả sự nhìn nhận một vị thần Linh Tối Cao hay một Người Cha. Cảm thức và sự nhìn nhận đó làm cho cuộc sống họ thấm nhuần ý nghĩa tôn giáo. Phần các tôn giáo có liên quan mật thiết với tiến bộ văn hóa thì cố gắng giải đáp những vấn đề trên bằng những ý niệm cao siêu và bằng thứ ngôn ngữ ngày càng tinh tế… Giáo hội công Giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó. Với lòng kính trọng chân thành, giáo hội xét thấy những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết kia, tuy rằng có nhiếu điểm khác nhau với chủ trương mà giáo Hội duy trì, nhưng cũng đem lại ánh sáng của chân lý, chân lý chiếu soi mọi người” (Tuyên ngôn Nostra Aetate. Số 2, Bản dịch của Giáo Hoàng học viện).

Rõ ràng Giáo Hội Chúa Kitô rất tôn trọng các tôn giáo ngoài Kitô Giáo. Ơn Chúa hoạt động trong các tôn giáo đó. Đối với các tín hữu theo các tôn giáo đó, trước Công Đồng vatican II, thần học  vẫn nghĩ rằng nếu họ sống tốt lành theo tiếng nói lương tâm ngay thật của họ, họ được ơn cứu độ vì vô tri bất khả thắng, Công Đồng vatican II xem những người thuộc tôn giáo đa thần là “kẻ tìm kiếm Thiên Chúa qua ngẫu tượng” (Lumen Gentium, số 16), Thiên Chúa hiện diện nơi họ.

Công Đồng không giải thích ơn cứu độ làm sao có trong các tôn giáo ngoài Kitô Giáo.

một số thần học gia đưa ra lý thuyết Đức Kitô hiện diện trong các tôn giáo (théorie de la présence du Christ dans les religions) do Chúa Thánh Thần hoạt động .

Dĩ nhiên các truyền thống tôn giáo của nhân loại là hiện tượng xã hội và đâm rễ sâu trong xã hội,  ảnh hưởng tới xã hội và đã tạo ra những hình thức xã hội nữa, tạo ra thể chế xã hội.  Tôn giáo  lấy con người làm cứu cánh, giúp con người sống tốt dẹp  trừ ra có tôn giáo  tạo ra giai cấp , một thứ định mệnh khắc nghiệt cho con người.

Nhờ sự hiện diện của Chúa Kytô và hoạt động của Chúa Thánh Thần  các tôn giáo có giá trị cứu độ  nghĩa là Chúa Kitô hoạt động, Chúa Thánh  Thần ban ơn mặc dầu họ không có kinh thánh mạc khải, không có Tin Mừng của Chúa Kitô. Đây là các tôn giáo (ngoài Kitô Giáo) có ơn cứu độ không có Phúc Âm. Không thể nói các tôn giáo đó có ơn cứu độ không cần Chúa Kitô. Nhà thần học Karl Rahner gọi là “Kitô giáo vô danh” (Christianisme anonyme).

Như vậy, Chúa Kitô thật  là Đấng cứu độ cho mọi người. Ngài chết cho mọi người và sống lại để ban phát ơn cứu độ cho mọi người.

Nhờ mầu nhiệm nhập thể, Chúa Kitô mang lấy vật chất, Ngài “thần linh hóa vũ trụ”, Ngài mang lấy bản tính nhân loại, Ngài thu hút tất cả mọi người. Trong Mầu nhiệm Phục Sinh, cường độ nhập thể và nhập thế của Ngài không còn bị cản trở. Dầu mầu nhiệm Nhập thể và Phục Sinh mới được thực hiện sau này, nhưng đã ảnh hưởng tới tất cả trong quá khứ của vũ trụ và đã hướng tất cả về mầu nhiệm đó. Do đó, chỉ có một lịch sử do Thiên Chúa và cũng do con người tạo ra.

Chúa Kitô mạc khải về Chúa Thánh Thần như là Đấng Bảo Trợ (Paraklêtos) khác ( x. Gioan  14,16) , từ Chúa Cha gửi đến  (Gioan  14,16) và chính Chúa Kytô cũng là Đấng Bảo trợ  (I Gioan 2,1) trước tòa Thiên Chúa. Chính Ngài dạy các môn đệ ở lại thành cho đến khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần  (x. Lc 24,49 ; CvTđ  1,8) rồi hãy thi hành lời Ngài dạy :” Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy, làm phép Rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt  28,19-20) .

Sách Tông đồ Công vụ đã cho ta thấy hoạt động của Chúa Thánh Thẩn khi hiện xuống : biến đổi các Tông đồ thành người  học thức (nói tiếng lạ),  giảng dạy có khả năng thu hút lòng người , can đảm. làm phép lạ .

Thành công đầu tiên đưa khoảng ba nghìn người Do Thái vào Đạo Chúa, rồi đến người Samaria,  và các dân ngoại .  Ngày nay, sứ vụ truyền giáo cho dân ngoại vẩn còn đó, nhất là giúp cho người có Đạo sống Đạo :  phải trung thành với lời Chúa Kytô dạy tức lá  nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn .

Lời nguyện trong tháng sáu nầy : Giáo Hội cầu nguyện cho những người thất nghiệp và cầu cho lòng tin ở Âu châu(Xin cho châu Âu  tìm lại được nguồn cội  Kitô giáo của mình nhở chứng từ Đức tin của người tín hữu ). Cụ thể, người Âu châu vẫn tin Chúa nhưng họ không tới nhà thờ ….Xem đá banh thì khán già chật ních sân trường , năm nào cũng vậy , thế mà đến nhà thờ thì không ! Giá mà không có n.t để các linh mục coi xứ phải làm tạm thời một nhà gần sân banh rồi dùng loa mời người  ta đến sân banh hãy đến dự lễ , trước giờ vào sân ……Gương của các nhà truyền giáo cầu nguyện cho công việc truyền giáo rồi đi đến nơi giúp người ta hiểu Chúa , Không đến với họ, chác chắn chẳng có ai trở lại ?  Xin Chúa Thánh Thần giúp chúng con đang ở Việt Nam giáo dân đến nhà thờ ngày Chúa nhật có nơi đật tới 120% (có người đi hai lễ) đừng rơi vào cảnh ngày Chúa nhật ở Âu châu .

Lm Fx Nguyễn hùng Oánh

 

Nỗi sợ hãi của Đảng và Nhà nước Việt Nam

Nỗi sợ hãi của Đảng và Nhà nước Việt Nam

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-06-06

namnguyen06062014.mp3

thien-an-mon-vne-305B.jpg

Bài báo đánh dấu 25 năm sự kiện Thiên An Môn trên báo mạng VNExpress trước khi bị gỡ xuống hôm 4/6/2014.

RFA Screen Capture

Trong bối cảnh Trung Quốc xâm lấn chủ quyền Việt Nam hạ đặt giàn khoan HD 981 đã hơn một tháng, ngày 4/6/2014 hàng loạt thông tin và hình ảnh kinh hoàng đánh dấu 25 năm sự kiện Thiên An Môn trên các báo mạng đã đồng loạt bị gỡ xuống.

Nhận định về sự kiện này, TS Nguyễn Quang A thuộc nhóm chủ trương Diễn đàn Xã hội dân sự phát biểu:

“Rất ngạc nhiên trong việc báo chí đưa tin về một sự thực đã xảy ra đúng một phần tư thế kỷ và người ta không bịa đặt bất kể cái gì, mà cảnh sát tư tưởng ở Việt Nam, tức bên tuyên giáo của đảng cộng sản lệnh cho các báo đã đăng phải rút bài đó xuống. Điều đó chứng tỏ rằng những thế lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam còn gắn rất chặt với Trung Quốc. Tôi tin chắc chắn là họ nghe theo lệnh của Bắc Kinh để họ làm như vậy.”

Thái độ của nhà cầm quyền VN

Tin ghi nhận các báo điện tử như VnExpress, Thanh Niên, Người Lao Động, Tiền Phong, Giáo Dục và nhiều trang mạng khác đã phải gỡ bỏ những bài về vụ thảm sát Thiên An Môn 4/6/1989. Bức ảnh 200.000 người biểu tình đòi dân chủ ở Quảng trường Thiên An Môn đầy ấn tượng, hoặc hình ảnh hàng trăm xe tăng mở trận càn giải tán người biểu tình, hình ảnh xác người chết chồng chất trên xe tải, xe kéo, trên đường phố dường như đã chỉ xuất hiện được trong một khoảng thời gian ngắn, sau đó người đọc không còn truy cập được nữa.

Nhận định về sự kiện báo chí Việt Nam bị gỡ bài và hình ảnh vụ thảm sát Thiên An Môn, nhà báo Nguyễn Quốc Thái nguyên Tổng Thư Ký báo Doanh Nghiệp từ Saigon phát biểu:

“Sự kiện Thiên An Môn sau 25 năm được nhớ lại, nhắc lại và đưa trên báo chí và bị gỡ xuống là một điều cần phải suy nghĩ về sự chọn lựa và thái độ của nhà cầm quyền VN trong quan hệ với TQ.
-Nguyễn Quốc Thái”

“Vụ Thiên An Môn là một vết nhơ trong lịch sử của Trung Quốc. Những người Trung Quốc tử tế và có lương tâm khi nhớ lại sự kiện này họ đều xấu hổ. Xấu hổ vì văn minh của loài người bị chà đạp, tự do của con người đã bị phỉ nhổ một cách tàn tệ. Việc báo chí Việt Nam mà không đưa được lâu dài thời lượng về vụ Thiên An Môn, tôi nghĩ rằng có thể vì nhà cầm quyền Việt Nam vẫn nói đó là tình hữu nghị giữa hai nước. Nhưng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói là không thể có sự hữu nghị viển vông. Sự kiện Thiên An Môn sau 25 năm được nhớ lại, nhắc lại và đưa trên báo chí và bị gỡ xuống là một điều cần phải suy nghĩ về sự chọn lựa và thái độ của nhà cầm quyền Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc.”

Bên cạnh việc sợ mất lòng Trung Quốc, có những ý kiến cho rằng Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam lo ngại hình ảnh hàng trăm ngàn người biểu tình đòi dân chủ ở Thiên An Môn và bị đập tan bằng vũ lực, còn có thể tác động lên phong trào biểu tình vừa phản kháng Trung Quốc vừa đòi dân quyền ở Việt Nam. Nhà báo Nguyễn Quốc Thái nhận định:

“Ông nghĩ là những hình ảnh đó che dấu được nhân dân Việt Nam sao? Không một tờ báo, không một mạng truyền thông nào đưa hình ảnh đó lên thì từ 25 năm qua những hình ảnh đó vẫn không rời khỏi tâm trí người Việt Nam yêu tự do và dân chủ. Tôi không nghĩ đưa hình ảnh đó lên hay không đưa hình ảnh đó lên là một sự lựa chọn khôn khéo của nhà cầm quyền. Bởi vì nhà cầm quyền biết rằng không thể nào che dấu được hình ảnh bi tráng đó ở quảng trường Thiên An Môn cách đây 25 năm, nghĩ rằng những hình ảnh đó được chuyển tải lại trong lúc này thì không thích hợp với tình hình ở Việt Nam. Tôi nghĩ suy nghĩ đó là một suy nghĩ non nớt.”

Không tuân thủ hiến pháp?

thien-an-mon-vne-250B.jpg

Màn hình sau khi chính quyền Việt Nam cho gỡ Bài báo đánh dấu 25 năm sự kiện Thiên An Môn trên báo mạng VNExpress hôm 4/6/2014. RFA Screen Capture.

Một ngày sau thời điểm 25 năm sự kiện Thiên An Môn mà báo chí bị gỡ bài, chiều 5/6/2014 Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức họp báo quốc tế ở Hà Nội để cập nhật tình hình Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa Việt Nam kéo dài đã hơn 1 tháng. Người phát ngôn Lê hải Bình cho biết phía Trung Quốc vẫn tiếp tục và có hành vi hung hăng hơn và cũng đưa ra những luận điệu sai trái về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.

Tại cuộc họp báo, các giới chức Việt Nam đã trả lời vòng vo câu hỏi của các nhà báo nước ngoài, về việc chính quyền ngăn cản người dân biểu tình phản kháng Trung Quốc. Ông Lê Hải Bình phủ nhận việc này và nói rằng người dân Việt Nam hoàn toàn có quyền biểu thị lòng yêu nước của mình theo đúng qui định pháp luật. Khi được hỏi thế nào là biểu tình đúng pháp luật ông Lê Hải Bình nói rằng Việt Nam có những qui định pháp luật về biểu tình.

Nhận định về vấn đề vừa nêu TS Nguyễn Quang A từ Hà Nội phát biểu:

“Sở dĩ mà họ phải nói lắt léo như vậy là vì họ không dám thừa nhận rằng họ không muốn có bất kể một cuộc biểu tình nào. Trong khi quyền biểu tình được hiến định rành rành từ các Hiến pháp trước chứ không phải chỉ từ Hiến pháp bây giờ. Thay vì họ phải ra Luật để tạo điều kiện cho người dân được biểu tình một cách văn minh thì họ không làm như vậy. Họ ra một Nghị định mà Nghị định ấy thực sự là cấm biểu tình, họ gọi là tụ tập đông người. Như vậy lỗi hoàn toàn thuộc về nhà cầm quyền họ đã coi thường người dân, coi thường quyền của người dân. Họ đã không làm được chức năng chính của họ là tuân thủ Hiến pháp tuy rằng còn chưa ra gì do chính họ thông qua.”

Đáp câu hỏi của chúng tôi, nghĩ gì về những lời tuyên bố của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình xác định là nhà nước không cấm dân chúng biểu tình, khi mà cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc dự kiến vào ngày 18/12014 đã bị dẹp từ trong trứng nước. Nhà báo Nguyễn Quốc Thái thuộc nhóm nhân sĩ trí thức TP.HCM, người từng tham gia nhiều cuộc biểu tình phản kháng Trung Quốc và bị trấn áp phát biểu:

“Tôi không nhắc đến ngày 18/1/2014 hôm đó không có một cuộc biểu tình nào xảy ra ở Việt Nam, bởi vì trước đó nhà nước đã dùng tất cả các phương tiện truyền thông sẵn có trong tay và cơ quan an ninh khuyến cáo nhân dân không xuống đường vào ngày đó. Nhưng những cuộc xuống đường trước ngày 18/1/2014 và trong ba năm trở lại đây không có một cuộc biểu tình chống Trung Quốc nào được lực lượng an ninh của Việt Nam yểm trợ cả. Chắc ông có thể nhìn thấy cảnh những người biểu tình bị đàn áp đánh đập, thậm chí chưa đi biểu tình cũng bị đàn áp đánh đập như cá nhân tôi chẳng hạn. Như vậy nói không có đàn áp người biểu tình là nói dối nhân dân. Bởi nhân dân họ chứng kiến những người xuống đường bị đàn áp, bị đánh đậy bị bắt giữ, hà cớ gì phải chối những điều mình đã dám làm, thiếu một sự dũng cảm đó là điều đáng khinh.”

” Họ đã coi thường người dân, coi thường quyền của người dân. Họ đã không làm được chức năng chính của họ là tuân thủ Hiến pháp tuy rằng còn chưa ra gì do chính họ thông qua.
-TS Nguyễn Quang A “

Tại cuộc họp báo ngày 5/6 tại Hà Nội, trả lời câu hỏi của hãng thông tấn nước ngoài là phía Việt Nam có kỳ vọng vào Mỹ sẽ đóng vai trò hỗ trợ Việt Nam bảo vệ chủ quyền của mình. Người phát ngôn Lê Hải Bình đáp lời rằng: “Việc duy trì ổn định, an ninh và an toàn hàng hải của khu vực là lợi ích, là nghĩa vụ của tất cả quốc gia liên quan trong và ngoài khu vực.

Mỹ là cường quốc của thế giới, cùng với cộng đồng quốc tế, Mỹ cũng có tiếng nói nhằm ổn định an ninh khu vực. Chúng tôi mong muốn Mỹ có hành động mạnh mẽ hơn, đóng góp vào an ninh, an toàn hàng hải khu vực, giải quyết tranh chấp của khu vực thông qua luật pháp quốc tế.”

Có mặt trong cuộc họp báo ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia khi trả lời bao chí đã hàm ý cho thấy ít có khả năng Việt Nam khởi động biện pháp lý đối với Trung Quốc. Ông Hải nói các vụ kiện quốc tế đều rất phức tạp, nếu chủ tàu Đà Nẵng kiện Trung Quốc là vụ án dân sự. Nhưng vụ giàn khoan liên quan đến chủ quyền, cần chọn phương án nào tối ưu nhất bảo vệ quyền lợi đất nước.

Nhận định về vấn đề vừa nêu, TS Nguyễn Quang A từ Hà Nội phát biểu:

“Cũng tương tự như chuyện về Thiên An Môn, tôi nghĩ rằng chắc chắn phải có ý kiến của Bắc Kinh thì người ta mới run sợ và người ta bảo báo chí phải rút xuống. Có lẽ cũng tương tự như thế Bắc Kinh như ông tướng Vịnh đã nói, Bắc Kinh nhiều lần yêu cầu Việt Nam là không được đưa ra kiện. Tôi không hiểu giữa Bắc Kinh và Hà Nội có những điều gì ngầm với nhau hay không và có thể có cái gì đó mà họ dọa là họ sẽ đưa ra, thì có thể rất là mất mặt…Và chần chừ ngày nào về việc khởi kiện Trung Quốc thì Việt nam thực sự đầu hàng từ ngày đó.”

Công luận Việt Nam đang đặt câu hỏi với đảng Cộng sản và nhà nước về các biện pháp tiếp theo mà cho đến nay chưa hé lộ. Vì đã hơn 5 tuần lễ, Trung Quốc vẫn duy trì giàn khoan trong vùng biển chủ quyền Việt Nam, đã khoan thăm dò và dịch chuyển đến vị trí khác vẫn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Người dân lo ngại nhịn nhục mãi, coi chừng chẳng còn tàu kiểm ngư, tàu cảnh sát biển nào lành lặn mà chấp pháp trên biển.

Giới học giả và trí thức nói rằng, những biện pháp tiếp theo có gì bí mật đâu mà không thể công bố, hay nó cũng bí mật như thỏa thuận Thành Đô 1990 giữa hai Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc. Bí mật gì ghê gớm đến vậy, khiến Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch lúc đó từng phải thốt lên: “Một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã khởi sự.”

Gặp gỡ với ĐTC: Ơn Đạo Đức

Gặp gỡ với ĐTC: Ơn Đạo Đức

Chuacuuthe.com


VRNs (05.06.2014) – Sài Gòn – Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi tiếp kiến chung hôm qua (04.06), ngài tiếp tục bài giáo về bảy ơn ban của Chúa Thánh Thần. Tuần trước vì vừa kết thúc chuyến hành hương Đất Thánh nên ĐTC ôn lại chuyến đi của Ngài đến Đất Thánh. Tuần này ngài trở lại bài giáo lý về ơn Đạo Đức trong bảy ơn ban của Chúa Thánh Thần.

Dưới đây là bài giáo lý đầy đủ của ĐTC

1

Anh Chị em thân mến,

Hôm nay tôi muốn dừng lại ở ơn Đạo Đức là một trong bảy ơn ban của Chúa Thánh Thần mà thường bị hiểu sai và bị xem một cách hời hợt; thay vì nó đụng chạm đến tâm hồn và cuộc sống Kitô hữu của chúng ta.

Là điều cần thiết để làm rõ hơn về ý nghĩa của Ơn ban này, nó không phải là việc có chút lòng lòng từ bi đối với một ai đó, có lòng trắc ẩn với người hàng xóm chẳng hạn, nhưng nó cho thấy chúng ta thuộc về Thiên Chúa và sự gắn kết sâu thẳm của chúng ta với Ngài, một sự gắn kết mang lại ý nghĩa cho toàn bộ cuộc sống của chúng ta và giữ chúng ta trong sự kiên định, trong sự hiệp thông với Ngài, cũng như trong những lúc khó khăn nhất.

1. Sự gắn kết này với Chúa không phải là một nhiệm vụ hay một sự áp đặt. Nó là một sự gắn kết đến từ bên trong. Đó là một mối liên hệ sống động trong tâm hồn: đó là tình bạn với Thiên Chúa, ban cho chúng ta Chúa Giêsu; một tình bạn mà thay đổi cuộc sống của chúng ta và đổ đầy nơi chúng ta sự nhiệt tình và niềm vui. Vì vậy, ơn Đạo Đức gợi lên trong chúng ta, trước hết, lòng biết ơn và ca khen. Thực ra động lực và ý nghĩa đích thực nhất của hành vi chúng ta là thờ phượng Thiên Chúa. Khi Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta cảm nhận được sự hiện diện của Chúa và tình yêu của Ngài dành cho chúng ta, Ngài sưởi ấm tâm hồn chúng ta và đưa dẫn chúng ta gần hơn đến việc cầu nguyện và ca tụng Chúa một cách rất tự nhiên. Do vậy Ơn Đạo đức đồng nghĩa với tinh thần tôn giáo đích thực, là lòng con thảo đặt hoàn toàn tin tưởng nơi Chúa, là khả năng để cầu nguyện với Ngài bằng tình yêu và sự đơn sơ mà chỉ có nơi những ai khiêm tốn trong lòng.

2. Ơn Đạo Đức làm cho chúng ta phát triển trong mối liên hệ và hiệp thông với Thiên Chúa và dẫn đưa chúng ta sống như con thảo của Ngài, đồng thời nó giúp chúng ta trao ban tình yêu cho tha nhân và nhận ra họ là anh chị em với mình. Chúng ta được thúc đẩy bởi lòng đạo đức – không phải là chủ thuyết duy đạo đức – trong việc cư xử với những người xung quanh và những ai chúng ta gặp mỗi ngày. Tại sao tôi nói là lòng đạo đức chứ không phải chủ thuyết duy đạo đức?

Bởi vì một số người nghĩ rằng để có sự đạo đức là nhắm mắt lại, nghiền ngẫm và làm cho khuôn mặt mình trở nên siêu thoát như một vị thánh. Trong một tác phẩm nào đó mô tả đạo đức như thể là nhắm mắt lại, đầu lắc lư như lên đồng. Đó không phải là ơn Đạo Đức của Chúa Thánh Thần. Ơn Đạo Đức có nghĩa là có khả năng vui với những người vui, khóc với người khóc, để giúp đỡ những người cần trợ giúp. Có một mối liên hệ chặt chẽ giữa ơn đạo đức và sự hiền lành. Ơn Đạo Đức mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta làm cho chúng ta trở nên nhu mì, điềm tĩnh, kiên nhẫn, bình an trong Thiên Chúa, và phục vụ người khác bằng sự hiền lành.

Anh chị em thân mến, trong Thư gửi tín hữu Rôma, Thánh Tông Đồ Phaolô khẳng định: “Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa. Vì Thần Khí mà anh em đã lãnh nhận được, đâu là tinh thần nô lệ, khiến anh em phải sợ sệt như xưa; nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên: “Ápba! Cha ơi!”(Rm 8:14-15).

Chúng ta hãy cầu xin với Chúa xin Chúa Thánh Thần ban ơn Đạo Đức để chúng ta có thể khuất phục nỗi sợ hãi, sự không chắc chắn, nỗi bồn chồn, tinh thần thiếu kiên nhẫn và làm cho chúng ta diễn tả ​​niềm vui của Thiên Chúa và tình yêu của chính mình, cùng tôn thờ Chúa trong sự thật và trong việc phục vụ tha nhân, với sự hiền lành và nụ cười trên môi. Nguyện xin Chúa Thánh Thần ban cho tất cả chúng ta ơn Đạo Đức.

Hoàng Minh

 

Hoa Kỳ cần có vai trò tích cực hơn tại Đông Nam Á

Hoa Kỳ cần có vai trò tích cực hơn tại Đông Nam Á

Việt Hà, phóng viên RFA
2014-06-04

vietha06042014.mp3

IMG_6460-305.jpg

Các đại biểu tại Hội thảo Philippines, Việt Nam và những tranh chấp về lãnh thổ ở Biển Đông được tổ chức tại Trung tâm Wilson ở Washington DC vào sáng ngày 3 tháng 6 năm 2014.

RFA

Một cuộc hội thảo có tên Philippines, Việt Nam và những tranh chấp về lãnh thổ ở Biển Đông vừa được tổ chức tại Trung tâm Wilson ở Washington DC vào sáng ngày 3 tháng 6. Cuộc hội thảo có sự tham dự của những diễn giả đến từ Philippines, Việt Nam, Trung Quốc và Hoa Kỳ.

Bất đồng giữa Mỹ và Trung Quốc

Căng thẳng gần đây ở biển Đông giữa Trung Quốc và nước láng giềng Việt Nam xung quanh vụ giàn khoan HD 981 cho thấy sự bất đồng ngày càng lớn giữa hai cường quốc là Mỹ và Trung Quốc. Đó là nhận định mở đầu buổi hội thảo của ông Robert Daly, Giám đốc Viện Kissinger về Trung Quốc và Mỹ thuộc Trung Tâm Quốc tế Woodrow Wilson:

“Trong vài tuần qua chúng ta đã chứng kiến tranh chấp lâu nay đe dọa trở thành một khủng hoảng quốc tế. Những lo lắng của vụ tranh chấp, tương đương như những lo lắng về sự triển khai rầm rộ các loại tàu và sự kiên quyết trong khẳng định chủ quyền cũng tương đương như nỗi lo về một thực tế  là hai nước lớn Mỹ, Trung Quốc không thể đồng ý với nhau về những điểm bất đồng. Chúng ta thậm chí cũng chưa bắt đầu thảo luận đến việc điều hòa những bất đồng này một cách hòa bình. Hai bên cũng chưa có được thống nhất về điểm nào bao gồm một thực tế, đâu là quy định chung về dẫn chứng, và cái gì bao gồm trong một lập luận hợp lý, và vai trò của luật quốc tế ra sao….”

Theo chuyên gia Robert Daly, Hoa Kỳ liên tục đưa ra những lập luận hợp lý mang tính xây dựng nhưng đều bị khước từ trong khi Trung Quốc tin là những lập luật của họ xung quanh cái gọi là chủ quyền mang tính lịch sử không thể chối cãi đã bị lờ đi.

Trong vài tuần qua chúng ta đã chứng kiến tranh chấp lâu nay đe dọa trở thành một khủng hoảng quốc tế.
-Ông Robert Daly

Sau khi Trung Quốc đặt giàn khoan HD 981 gần quần đảo Hoàng Sa đang tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc hồi đầu tháng năm vừa qua, giới chức Hoa Kỳ đã nhiều lần lên tiếng cáo buộc đây là hành động gây hấn đơn phương từ phía Trung Quốc gây bất ổn cho khu vực. Để đáp lại những lên án từ Hoa Kỳ, tại đối thoại Shangri-la, diễn ra cuối tháng 5 đầu tháng 6 tại Singapore, bà Phó Oánh, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Trung Quốc đã cảnh báo Hoa Kỳ không nên can thiệp vào tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam.

Tiến sĩ Aileen San Pablo-Baviera, thuộc trường đại học Philippines, trong bài phát biểu tại hội thảo thì cho rằng những căng thẳng gần đây tại biển Đông cho thấy rõ hơn những thách thức về an ninh trong khu vực. Bên cạnh những thách thức liên quan đến các tranh chấp về chủ quyền là thách thức về sự đối đầu giữa các cường quốc, nổi bật là Mỹ và Trung QUốc. Tiến sĩ Braviera cáo buộc các hành động đơn phương gần đây của Trung Quốc đã gây căng thẳng cho khu vực.

Tiến sĩ Baviera nói Trung Quốc đã gia tăng đòi hỏi chủ quyền trong khu vực đường 9 đoạn với việc sử dụng đông đảo các tàu bán quân sự, trong khi các tàu quân sự sẵn sàng đáp ứng khi cần thiết. Tiến sĩ Baviera cũng nhìn nhận Hoa Kỳ đã đưa ra lập trường rõ ràng và mạnh mẽ hơn liên quan đến những hành động gần đây của Trung Quốc và bảy tỏ quyền lợi của Mỹ ở khu vực, cũng như khẳng định cam kết hỗ trợ cho đồng minh của mình tại khu vực, mà cụ thể là Philippines, trước những thách thức từ Trung Quốc.

Trung Quốc gây bất ngờ với ASEAN

Đến từ Việt Nam, diễn giả Hoàng Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Ngoại giao cho rằng Việt Nam và các nước ASEAN đã hoàn toàn bất ngờ trước hành động mới của Trung Quốc tại biển Đông:

“Hành động của Trung quốc làm ASEAN bất ngờ. Một mặt chúng tôi nhìn thấy hy vọng, tương lai phát triển quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc, nhưng thật bất ngờ khi quan hệ giữa hai phía bị chuyển sang một hướng khác mà không một ai đoán trước…”

IMG_6473-250.jpg

Tiến sĩ Aileen San Pablo-Baviera, thuộc trường đại học Philippines (trái) và diễn giả Hoàng Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Ngoại giao Việt Nam tại Hội thảo Philippines, Việt Nam và những tranh chấp về lãnh thổ ở Biển Đông được tổ chức tại Trung tâm Wilson ở Washington DC vào sáng ngày 3 tháng 6 năm 2014. RFA PHOTO.

Học giả Việt Nam đưa ra những bằng chứng về cơ hội cho sự phát triển quan hệ hai phía thời gian qua. Theo ông Tuấn, với một thị trường hơn 600 triệu dân và GDP hơn 2 ngàn 300 tỷ đô la, ASEAN có thể trở thành một thị trường lớn trên thế giới và là  nền tảng cho sự phát triển quan hệ với Trung Quốc. Đó là chưa kể tiềm năng kim ngạch hai chiều giữa ASEAN và Trung Quốc ước tính ở mức 400 tỷ đô la có thể được đưa lên mức 1.000 tỷ đô la vào năm 2020. Mặt khác, học giả Việt Nam cũng nhìn nhận những tín hiệu tích cực từ những lãnh đạo mới của Trung Quốc thể hiện bằng các chuyến viếng thăm các nước ASEAN sau khi nhậm chức vào cuối năm 2012. Ông Hoàng Anh Tuấn cũng cho rằng những lời hứa về hợp tác giữa Trung Quốc và Việt Nam, hay đường dây nóng đã trở thành vô nghĩa khi nó không thể được thực hiện như mục đích ban đầu được đặt ra.

Theo Tiến sĩ Hoàng Anh Tuấn, Trung Quốc sẽ không chỉ dừng lại ở việc đặt giàn khoan tại khu vực thềm lục địa của Việt Nam mà có thể dịch chuyển tới các vùng nước đang tranh chấp với các nước láng giềng khác. Học giả Việt Nam cho rằng vấn đề tranh chấp tại khu vực quần đảo Hoàng Sa bây giờ không còn là vấn đề song phương mà là đa phương vì nó đe dọa đến an ninh chung của toàn khu vực.

Tại sao TQ hành động đơn phương?

Một mặt chúng tôi nhìn thấy hy vọng, tương lai phát triển quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc, nhưng thật bất ngờ khi quan hệ giữa hai phía bị chuyển sang một hướng khác.
-Ô. Hoàng Anh Tuấn

Lý giải về những hành động gần đây của Trung Quốc tại biển Đông, đặc biệt là vụ giàn khoan HD 981, học giả Yun Sun, thuộc Trung tâm Stimson nói rằng Trung Quốc quyết định đưa ra các hành động bị các nước gọi là đơn phương và gây hấn là do Trung Quốc nhìn thấy việc kiềm chế hành động đơn phương trong quá khứ đã không cải thiện được vị thế của Trung quốc trong đòi hỏi chủ quyền của mình và với việc Trung Quốc không hành động gì chỉ khiến các nước khác trong khu vực có các hành động gia tăng chủ quyền của mình. Vì vậy đây là hành động nhằm cải thiện vị thế của Trung Quốc trong cuộc chơi và trong các đàm phán tương lai.

Ngoài ra còn có một số lý do khác được học giả Yun Sun đưa ra là chiến lược xây dựng cường quốc biển của  Trung Quốc được đưa ra từ nhiều năm trước. Trong khi việc mở rộng tầm hoạt động của hải quân Trung Quốc gặp trở ngại tại biển Hoa Đông từ phía Nhật Bản, biển Đông là một khu vực được cho là thuận lợi hơn để Trung Quốc thực hiện tham vọng này. Vấn đề tranh chấp biển đảo cũng liên quan đến vấn đề chính trị nội bộ của Trung Quốc khi Chủ tịch Tập Cận Bình muốn sử dụng chính sách ngoại giao để làm cải thiện hơn nữa hình ảnh của mình khi những chính sách cải tổ kinh tế và chống tham nhũng trong nước của ông gặp những trở ngại. Lý do cuổi cùng được đưa ra lý giải cho những hành động gần đây của Trung Quốc là việc Mỹ khó có khả năng can thiệp về mặt quân sự với dẫn chứng về cuộc khủng hoảng Ukraine gần đây và nhất là vụ tranh chấp bãi Scarborough Shoal với Philippines vào năm 2012. Theo học giả Yun Sun, Trung Quốc cho rằng họ có khả năng thực hiện một khủng hoảng có thể kiểm soát được mà không phải đối đầu trực tiếp với Mỹ. Với vụ giàn khoan dầu, Trung Quốc càng có thể làm mạnh khi Việt Nam cũng không phải là đồng minh của Mỹ.

Theo học giả Yun Sun, Trung Quốc đã cân đong những mặt thiệt và hơn trong những hành động gần đây và họ cho rằng mặt lợi đã vượt hơn nhiều so với những thiệt thòi mà họ có thể gánh chịu.

Kêu gọi Mỹ tham gia tích cực hơn

Học giả Philippines và Việt nam cho rằng Mỹ cần đóng một vai trò tích cực hơn trong khu vực. Theo Tiến sĩ Braviera, ASEAN hiện vẫn còn chia rẽ về vai trò của Mỹ ở khu vực. Một số nước hoan nghênh Mỹ, một số thì lo ngại sự tham gia của Mỹ trong khu vực có thể làm tình hình thêm phức tạp.

Tiến sĩ Braviera cho rằng, Mỹ cần cho các nước ASEAN thấy vai trò tích cực của mình trên nhiều mặt bao gồm ngoại giao, kinh tế, môi trường, biến đổi khí hậu và quân sự, qua các diễn đàn đa phương, nhất là cần phải tỏ rõ lập trường của mình qua việc thông qua Công ước về luật biển 1982.

Tiến sĩ Hoàng Anh Tuấn đề nghị Hoa Kỳ giúp đoàn kết ASEAN hơn nữa và khuyến khích Trung Quốc tham gia đàm phán tích cực với ASEAN để giải quyết các vấn đề một cách hòa bình.

httpv://www.youtube.com/watch?v=OFGanVY_AmM

Tinh thần quốc tế cộng sản và xung đột lợi ích quốc gia

Tinh thần quốc tế cộng sản và xung đột lợi ích quốc gia

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-06-02

06022014-kinhhoa.mp3

000_Hkg9833728-600.jpg

TBT Đảng cộng sản VN Nguyễn Phú Trọng (T) và ông Võ Kim Cự, Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh, nói chuyện với nhau trước phiên khai mạc kỳ họp Quốc hội tại Hà Nội vào ngày 19/5/2014.

AFP photo

Một trong những ý tưởng hấp dẫn nhất của học thuyết cộng sản là tinh thần quốc tế của học thuyết này. Theo lý tưởng ấy thì các tầng lớp lao động là công nhân và nông dân khắp nơi trên thế giới đoàn kết lại chống những kẻ tư bản bóc lột, vì thế những người cộng sản từ những quốc gia khác nhau sẽ không phân biệt nhau, bỏ qua lợi ích của quốc gia nhỏ hẹp mà hướng tới một thế giới đại đồng, một quốc tế vô sản, một quốc tế cộng sản. Và dĩ nhiên các đảng cộng sản trên thế giới đều có biểu tượng chung là hình ảnh búa liềm trên nền đỏ.

Trong suốt thời gian tồn tại của phong trào cộng sản, lý tưởng quốc tế cộng sản đã được diễn dịch qua nhiều hành động khác nhau. Đầu tiên có lẽ đó là sự thành lập Đệ tam quốc tế thống lĩnh tất cả các đảng cộng sản trên thế giới. Sau đó là những cuộc chiến tranh, đối đầu, can thiệp, … nhân danh tinh thần quốc tế cộng sản như vụ can thiệp vào Hungary năm 1956, cuộc can thiệp của Quân giải phóng nhân dân Trung hoa vào Triều tiên, các cuộc phiêu lưu quân sự của Cuba ở châu Phi,…

Nhưng ngay cả trong thời kỳ thịnh vượng nhất của khối các quốc gia cộng sản, người ta cũng thấy rằng tinh thần quốc tế của những người cộng sản đôi khi không vượt qua được những ích lợi dân tộc. Một giáo viên người Việt học tập ở Ba Lan nói với chúng tôi rằng người Ba Lan vẫn bực tức về việc miền Đông của nước này bị Hồng quân Liên Xô đánh chiếm hồi năm 1939 và không hề được trả lại. Năm 1969 một cuộc xung đột ngắn nhưng cũng đẫm máu bùng nổ giữa hai nước lớn nhất khối cộng sản là Liên Xô và Trung Quốc, xung đột Việt Nam Trung quốc đến ngày hôm nay vẫn chưa có dấu hiệu kết thúc…

Song thực nghiệm cộng sản đã thất bại, với sự kiện bức tường Berlin sụp đổ cách đây 25 năm. Cốt lõi chính trị công nông của nó thất bại, và các đảng cộng sản được cho là đã không bảo vệ được những người thợ và nông dân khi họ lên cầm quyền. Tiến sĩ Hà Sĩ Phu, một nhà bất đồng chính kiến nói về sự thất bại này một cách châm biếm:

“Đảng cộng sản cứ mà nhân danh cái gì đó thì cái đó chết, nhân danh công nhân là giai cấp tiền phong lãnh đạo thì bây giờ khổ nhất là công nhân. Lại nhân danh công nông, trong đó có nông dân thì nông dân bây giờ mất hết cả ruộng đất phải đi làm thuê.”

Đảng cộng sản cứ mà nhân danh cái gì đó thì cái đó chết, nhân danh công nhân là giai cấp tiền phong lãnh đạo thì bây giờ khổ nhất là công nhân.
– Tiến sĩ Hà Sĩ Phu

Một trí thức trẻ rời bỏ đảng cộng sản hồi năm 2013 cũng nói rằng ông cảm thấy những lý luận của đảng cộng sản cầm quyền là không ổn để điều hành quốc gia. Việc điều hành này bao gồm cả những chính sách đối ngoại trong thời đại mới mà Tiến Sĩ Hà Sĩ Phu cho rằng không thể được thực hiện bởi hai đảng cộng sản với nhau được.

Ông Robert Kaplan viết trong quyển Biển Nam Trung hoa (Biển Đông) nồi thuốc súng của châu Á, rằng những xung đột về địa chính trị và lợi ích quốc gia vẫn đang ngự trị nền chính trị của thế giới trong thế kỷ 21 này. Ông đặc biệt phân tích cách tiếp cận của nước Trung Quốc hiện đại về vai trò đế quốc của mình. Theo ông, nước Trung Quốc được dẫn dắt bởi đảng cộng sản hình dung trật tự mới trong vùng châu Á là một nơi mà Trung Quốc là trung tâm còn xung quanh là các quốc gia lệ thuộc. Một triết lý không khác mấy với đế chế Trung Hoa ngày xưa.

Trật tự này rõ ràng không phải là trong một tinh thần quốc tế cộng sản như lý thuyết cộng sản đề cao.

Nhưng có vẻ như đảng cộng sản Việt Nam vẫn còn nghĩ tới tinh thần quốc tế vô sản ấy với những khẩu hiệu như Nghĩ tới đại cục mà bỏ qua những bất đồng, khi nói về quan hệ Việt Nam Trung Quốc.

Từ khi quan hệ Trung Quốc Việt Nam được bình thường hóa sau cuộc chiến đẫm máu 1979 đến nay, quan hệ hai đảng cộng sản Việt Trung thường xuyên được ca ngợi và dường như nó chỉ đạo mọi hoạt động đối ngoại của Việt nam.

Mâu thuẫn với lợi ích quốc gia

Sự kiện giàn khoan nước sâu của Trung Quốc kéo vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đang đẩy những mâu thuẫn giữa lợi ích quốc gia và cái gọi là tinh thần quốc tế cộng sản lên cao nhất. Một nguồn tin được các cơ quan truyền thông lớn trích dẫn nói rằng ông Nguyễn Phú Trọng đã bị những người đồng lý tưởng cộng sản với ông ở Bắc Kinh từ chối gặp gỡ. Đây không phải là một tuyên bố chính thức, nhưng điều chắc chắn là từ khi cuộc khủng hoảng giàn khoan bùng nổ đúng một tháng trước đây, ông Trọng giữ một sự im lặng đáng ngạc nhiên.

Trong khi đó nhiều tiếng nói cất lên yêu cầu từ bỏ những lý tưởng cộng sản và quan niệm quốc tế cộng sản ấy để tìm kiếm một sự cân bằng quyền lực mà đối chọi với Trung quốc. Tiêu biểu cho những ý kiến đó là ông Cù huy Hà Vũ. Ông phát biểu với chúng tôi từ Washington DC rằng trong tình hình hiện nay chỉ có thể liên minh quân sự với Hoa Kỳ mới đương đầu được với Trung Quốc. Ông Nguyễn Thanh Giang, một nhà địa chất lâu năm rất quan ngại về việc bảo vệ các nguồn tài nguyên cho Việt Nam trong lòng biển Đông cũng cùng quan điểm này với ông Vũ.

Nhà bất đồng chính kiến Hà Sĩ Phu và Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, một trong những người chủ xướng trang Bauxite Việt Nam chống việc khai thác bauxite có liên quan đến các công ty Trung Quốc thì cho rằng ngay trong đảng cộng sản Việt Nam cũng có những người muốn thoát ra khỏi sự kiềm chế của Trung Quốc dưới lý tưởng quốc tế cộng sản

Cựu đại tá Bùi Tín của Quân đội nhân dân Việt Nam, trong một cuộc phỏng vấn gần đây với chúng tôi thì nói rằng ông rất nghi ngại về việc đảng cầm quyền ở Việt nam vẫn đang kiên trì đường lối Mác Lê nin trong cuộc khủng hoảng giàn khoan đang diễn ra ngoài biển Đông:

Tôi hoài nghi lắm! Bởi vì cái gánh nặng về giáo điều nó nặng quá. Muốn như vậy thì anh phải bỏ cái Mác-Lê Nin đi chứ

Dĩ nhiên đường lối đối ngoại của một quốc gia sẽ bị chi phối bởi chính sách của đảng cầm quyền. Nhưng liệu xung đột lợi ích quốc gia có được giải quyết bằng tinh thần quốc tế vô sản xưa cũ đã được các nhà triết lý cộng sản nêu lên cách nay hơn 100 năm hay không? Nội dung này đã được ông Bùi Tín đề cập trong cuộc phỏng vấn dành cho chúng tôi và cũng là câu hỏi lớn mà nhiều người dân đang mong đợi câu trả lời từ đảng cầm quyền, và sẽ được minh chứng bằng những gì đang và sẽ diễn ra ngoài biển Đông.

Những người xứ miệt vườn đi bán thận

Những người xứ miệt vườn đi bán thận

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2014-06-03

RFA

mien-tay-305.jpg

Một người lao động thu nhập thấp ở miền Tây.

RFA

Chuyện bán thận của những người nghèo ở miệt vườn Tây Nam Bộ không phải là chuyện mới mẽ gì, nó đã diễn ra gần mười năm nay nhưng mới được phát hiện và báo chí vào cuộc trong vài tháng trở lại đây. Khi báo chí đánh động cũng là lúc mà hậu quả kinh hoàng của nó đã ập lên nhiều số phận, nhiều gia đình ở đây. Hầu như những ai từng bán thận đều có cuộc đời nghèo khổ, trái ngang, mong cứu được sự xuống dốc của gia đình bằng một phần thân thể quan trọng của mình nhưng rồi sau khi bán thận, mọi bi kịch lại ập xuống theo một lối khác.

Bán thân và bán thận

Một người tên Mỹ, ở thành phố Cần Thơ, chia sẻ: “Giống như người ta thiếu nợ, họ bán một của thận khoảng một trăm, nó mua vô một trăm, một trăm mấy nhưng nó mua của người ta năm, bảy chục triệu gì đó! Nhưng bán quả thận rồi thì đâu có còn sức lao động đâu. Như có một ông, ổng nghĩ ổng có sức khỏe đầy đủ, thấy vợ con, gia đình khổ quá, nợ nần nên bán bớt một trái, cuối cùng về mất sức lao động luôn, đâu có làm nổi. Có một số thì chồng đi làm, vợ ở nhà, ở không nên sinh ra cờ bạc, nợ nần, một phần con cái bệnh, nhưng con cái bệnh thì ít, nặng vì vợ thì nhiều, ở không không biết làm gì nên gây ra nợ nần.”

Như có một ông, ổng nghĩ ổng có sức khỏe đầy đủ, thấy vợ con, gia đình khổ quá, nợ nần nên bán bớt một trái, cuối cùng về mất sức lao động luôn, đâu có làm nổi.
-Ông Mỹ

Theo ông Mỹ, cho đến thời điểm hiện tại, vấn đề người nghèo đi bán thận để cứu gia đình đã trở thành một đại nạn của người dân nơi đây. Và đối tượng đi bán thận thường là người lâm vào tình trạng khốn cùng, có nghĩa là nông dân quá nghèo hoặc những người từng giàu có nhưng vì một nguyên nhân nào đó dẫn đến trắng tay, cuối cùng, để cứu gia đình họ thoát khỏi cái nghèo, họ quyết định đi bán thận, họ cứ nghĩ chuyện đi bán thận cũng giống như đi bán máu ở các bệnh viện nhưng lại có mức thu nhập cao hơn chứ chưa hình dung được mức độ nguy hiểm và rủi ro của nó.

Có một đặc điểm là đa phần những người đi bán thận đều có tiền sử đi bán máu ở các bệnh viện thành phố. Nhiều gia đình có hai, ba người lên các bệnh viện bán máu theo định kì. Tuy phải cật lực làm việc, phải bán máu định kì nhưng cái nghèo vẫn cứ ám lấy họ, làm thuê cuốc mướn, gặt lúa thuê, làm đủ các nghề mà nghèo vẫn cứ nghèo.

mien-tay-2-250.jpg

Một xóm có nhiều người bán thận ở Cần Thơ. RFA PHOTO.

Thời gian mười năm trở lại đây, khi người Trung Quốc sang miền Tây ngày càng nhiều thì cũng là lúc mà người dân nghe được một món hàng mới có thể bán kiếm được nhiều tiền. Cô Út Thủy, một người từng bán thận, buồn bã nói với chúng tôi rằng ở xứ của cô, nếu không may rơi phải cảnh nghèo khổ thì chỉ có con đường duy nhất là bán thân, nếu không bán thân thì khổ tới khi xuống mồ. Bây giờ, nghe tin bán thận, cô thấy dù sao bán thận cũng hay hơn bán thân vì bán thận chỉ đau một lần, nó khác xa với việc bán thân phải chịu đau khổ dai dẵng suốt cuộc đời.

Có lẽ chính vì thế mà không ít phụ nữ Tây Nam Bộ ở lứa tuổi còn rất trẻ đã chấp nhận đi bán thận để cứu gia đình. Nhưng rất tiếc là họ đã gặp những tay cò để bán với giá rẻ bèo, số tiền từ sáu chục đến bảy chục triệu đồng, trên thực tế, giá của nó cao gấp nhiều lần so với giá họ bán. Và thường thì họ gặp những tay cò người Trung Quốc biết nói tiếng Việt hoặc thông qua những phiên dịch người Việt, và gặp cả hai loại người này, đều phải bán với giá rẻ bèo vì đây là những tay cò cấp hai, cấp ba và giữa họ có sự thống nhất với nhau về chia chác, giá cả thị trường, nên người chịu thiệt bao giờ cũng là dân nghèo, vừa bị ăn chặn nhiều hướng lại phải lãnh hậu quả lâu dài.

Bị người Trung Quốc lừa đảo?

Một người tên Khải, ở Long Xuyên, An Giang, chia sẻ thêm:“Có một số thì họ bán thận, nghe Trung Quốc hô giá cao quá đó… Có người thì kinh tế khó khăn, nợ nần, đủ thứ việc hết, cho nên sao? Người ta phải bán thận, có người bán một trái, có người bán hai trái, vẫn sống nhưng không lao động được. Gia đình giàu có mà lâm vào cảnh nợ nần mới bán, còn gia đình nghèo thì họ sống rất hạnh phúc, khổ tâm thế! Còn gia đình hồi trước rất giàu nhưng giờ đi bán thận, một là cờ bạc, bài số lâm vào cảnh vợ con, tan nhà nát cửa, buộc phải bán cái quả thận để giải quyết một số nợ, bế tắc.”

Theo anh Khải, những trường hợp bán thận trong hai năm trở lại đây có thân thế khá phức tạp. Nghĩa là không giống như nhiều người bán thận ở Tây Nam Bộ trước đây, đa phần họ là những người từng giàu có, khá giả, nhưng do chơi thân với người Trung Quốc, thậm chí có mối quan hệ làm ăn, dây mơ rễ má với những nhà buôn Trung Quốc, về lâu về dài, làm ăn cẩu thả, đề đóm liên miên đâm ra sự nghiệp tan nát, nợ nần chồng chất, đến đường cùng, chọn giải pháp bán thận để thoát nợ nhưng lại rơi vào bi kịch khác.

mien-tay-3-250.jpg

Nhà sàn ở ngoại ô Cần Thơ. RFA PHOTO.

Vì đa phần những người bán thận xong, khi về nhà thì sức khỏe bị tuột dốc hẳn, không thể làm những công việc trước đây, thậm chí có người đi đứng còn không được bình thường nữa chứ đừng nói gì đến chuyện lao động, làm ăn. Và từ chỗ một người khỏe mạnh, họ trở thành bệnh nhân, thành gánh nặng của gia đình. Số tiền sáu, bảy chục triệu có được nhờ bán thận không những không giúp gia đình trả được nợ mà còn không đủ để chạy chữa bệnh tật sau khi mất đi một phần quan trọng trong cơ thể.

Anh Khải cho biết thêm, sở dĩ đa phần người bán thận phải ra nông nổi như thế là do họ bị mắc vào cái bẫy tiền tài do người Trung Quốc sắp đặt trước đó. Anh cũng thừa nhận là người Trung Quốc quá thâm hiểm và tính toán rất kĩ lưỡng, trong khi đó người Tây Nam Bộ thì tính tình hồn nhiên, thẳng ruột ngựa và sẵn sàng chơi hết mình một khi đã thân thiết, tin tưởng. Lợi dụng sự tin cẩn của bà con, các tay cò người Trung Quốc đã sắp đặt một kịch bản, đầu tiên là sang làm ăn, buôn bán các loại nông sản, hải sản, sau đó rủ rê một số người nhẹ dạ đưa con gái sang Trung Quốc lấy chồng, nếu không có con gái thì rủ con cháu bà con, hàng xóm láng giềng cũng được.

Chính vì khoản tiền kiếm được rất dễ dãi từ chỗ cò người nhà, họ hàng lấy chồng Trung Quốc, dần dà, người Tây Nam Bộ hiền lành lún sâu vào tham vọng kiếm tiền bằng nhiều cách, trong đó có đầu tư lâu dài vào dịch vụ mai mối chồng nước ngoài. Và đây là giai đoạn bao nhiêu tiền kiếm được của họ mang đổ sông đổ bể. Chỉ cần hai lần làm ăn thất bại vì lý do này, lý do nọ, coi như sạch vốn, phải thế chấp nhà cửa để lao theo sự nghiệp cò hôn nhân này. Khi mọi sự đã đến đường cùng, phá sản và nợ nần chồng chất, hết đường, người bạn Trung Quốc kia sẽ khuyên người bạn Việt Nam đi bán thận để trừ nợ.

Lần bán thận cũng là lần cuối người Trung Quốc chơi với người Việt ở đây và là cú hốt hụi chót của họ. Một khi gom được mối từ ba người trở lên chấp nhận bán thận, họ kiếm lãi ít nhất cũng được sáu chục ngàn đô la tiền lãi. Như vậy, coi như khoản lãi ròng đã nhận được, họ quất ngựa truy phong.

Với những người nghèo miệt Tây Nam Bộ, việc bán thận cứ ngỡ là cứu rỗi, là sự vớt vát họ thoát khỏi dòng xoáy của nghèo đói. Thế nhưng họ không hề hay biết là lựa chọn này đã dắt gia đình họ đến chỗ bi kịch không lối thoát và biến họ thành những bệnh nhân, người tàn tật!

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

httpv://www.youtube.com/watch?v=PYYGvYaBsbM

Ưu tiên hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng

Ưu tiên hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-06-04

namnguyen06042014.mp3

Công hàm ông Phạm Văn Đồng gửi Trung Quốc

Công hàm ông Phạm Văn Đồng gửi Trung Quốc

RFA file

Trước khả năng chính quyền Việt Nam khởi kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế về vụ giàn khoan HD 981 xâm phạm vùng biển Việt Nam, nhiều ý kiến từ giới học giả trí thức cho rằng nhà nước phải nhanh chóng  hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng 1958 về việc công nhận lãnh hải Trung Quốc.

Khúc xương mắc nghẹn

Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 từng được coi là một khúc xương mắc nghẹn của Việt Nam. Lúc đó Trung Quốc tuyên bố chủ quyền lãnh hải 12 hải lý tính từ đất liền, kể cả các hải đảo như Tây Sa và Nam Sa tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Ngày 14/9/1958, ông Phạm Văn Đồng Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã gởi công hàm ngoại giao tán thành tuyên bố đó của Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai. Sau này Phía Trung Quốc đã sử dụng công hàm Phạm Văn Đồng như một lợi thế trong mọi tranh chấp chủ quyền biển đảo với Việt Nam.

Qua vụ Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD 981 bất hợp pháp xâm phạm chủ quyền Việt Nam ở ngoài khơi tỉnh Quảng Ngãi, hôm 23/5/2014 lần đầu tiên Bộ Ngoại giao Việt Nam họp báo chính thức ở Hà Nội để biện giải công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị. Công luận Việt Nam đưa ra rất nhiều ý kiến tranh cãi phản biện về nội dung công hàm Phạm Văn Đồng và về cách thức làm thế nào để vô hiệu hóa giá trị của nó.

Chúng tôi ghi nhận ý kiến mới nhất của học giả Đinh Kim Phúc, một nhà nghiên cứu biển Đông hiện sống và làm việc ở Sài Gòn. Ông nói:

Hiệp định Geneve 1954 chia đôi hai miền Nam Bắc, rõ ràng là một bên từ vĩ tuyến 17 trở ra là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa; một bên từ vĩ tuyến 17 trở vào là Việt Nam Cộng Hòa. Rõ ràng hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa thuộc về Việt Nam Cộng Hòa còn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì có tư cách gì mà nói đến.
-Thạc sĩ Hoàng Việt

“Dù là người phát ngôn Bộ Ngoại giao hay là Thứ trưởng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao thì đều không có giá trị, phải có một Nghị quyết của Quốc hội phủ nhận hoàn toàn công hàm Phạm Văn Đồng thì mới có thể đấu lại Trung Quốc. Còn công hàm Phạm Văn Đồng đúng hay sai thì kiện ra tòa các nhà luật học sẽ chứng minh công hàm đó đúng hay sai ở mức độ nào trong từng thời điểm của lịch sử. Tôi nghĩ rằng tôi không bênh Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhưng như tôi đã thường nói cái ý thức hệ đồng chí anh em nó đã khiến cho những người lãnh đạo Việt Nam đã phải ký cái công hàm này thì đó là cái giá phải trả rất lớn mà đến ngày hôm nay không rút được kinh nghiệm thì Việt Nam sẽ còn trả những cái giá lớn hơn mất trọn biển Đông.”

Một trong các luận điểm được nhiều học giả Việt Nam và nay cũng là luận điểm của giới chức chính phủ Việt Nam để hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng 1958.  Đó là miền Bắc vào thời điểm 1954-1975 không có thẩm quyền gì đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa do miền Nam tức quốc gia Việt Nam Cộng Hòa quản lý và không thể cho người khác cái gì mà bạn chưa có được. Thạc sĩ Hoàng Việt, giảng viên luật quốc tế Đại học Luật TP.HCM, thành viên Quỹ nghiên cứu biển Đông đã kiên trì với lập luận của mình:

“Không có ông nào ở miền Bắc lúc đó có quyền nói về công nhận Hoàng Sa Trường Sa được cả. Bởi vì lúc đó theo Hiệp định Geneve 1954 chia đôi hai miền Nam Bắc, rõ ràng là một bên từ vĩ tuyến 17 trở ra là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa; một bên từ vĩ tuyến 17 trở vào là Việt Nam Cộng Hòa. Rõ ràng hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa thuộc về Việt Nam Cộng Hòa còn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì có tư cách gì mà nói đến.”

Đề nghị vô hiệu hóa công hàm PVĐ

Untitled-2.jpg

Công hàm Phạm Văn Đồng 1958

Ngày 26/5/2014 ông Trương Nhân Tuấn, một người Việt Nam cư trú ở Pháp đã gởi thư không niêm cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Phó Thủ tướng Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh để góp ý là, các luận cứ của giới chức chính phủ và nhiều học giả khác có thể bất lợi và khó thuyết phục về việc công hàm Phạm Văn Đồng 1958 không có giá trị. Ông Tuấn viện dẫn Hiệp định Geneve 1954 xác nhận Việt Nam là nhà nước độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, có chủ quyền và thống nhất và được tái xác nhận theo Hiệp định Paris 1973. Theo Hiệp định Geneve 1954, Việt Nam là một quốc gia nhưng tạm thời bị phân chia, trong khi chờ tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Từ quan điểm này, ông Trương Nhân Tuấn đề nghị vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng.

Trong dịp trả lời Gia Minh đài ACTD, ông Trương Nhân Tuấn phát biểu:

“Trên tinh thần một nước Việt Nam “độc lập, có chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ” của các hiệp ước 1954 và 1973, thì bất kỳ các tuyên bố, các hành vi đơn phương của một bên (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa), nếu có làm tổn hại đến việc toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chúng đều không có giá trị.

Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng viết trong khoảng thời gian 1954-1973, có liên quan đến chủ quyền và đe dọa toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đi ngược lại tinh thần hai Hiệp định 1954 và 1973, do đó không có giá trị pháp lý ràng buộc.”

Rất khác biệt với ý kiến của ông Trương Nhân Tuấn, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng một nhà hoạt động xã hội dân sự từ Đà Nẵng nhận định:

“Lẽ ra mình phải làm ngay chuyện này trước, tức là hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng. Thứ hai là phải thừa nhận Việt Nam Cộng Hòa để chúng ta có tuyên bố chủ quyền liên tục từ 1954 tới 1975 vì chủ quyền Hoàng Sa từ 1954 tới 1975 Việt Nam Dân Chủ Công Hòa ở phía Bắc không có tuyên bố chủ quyền. Cho nên hai điều quan trọng nhất là phải hóa giải cho được công hàm Phạm Văn Đồng, tức là phải tuyên bố rõ với thế giới là công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị, thứ nhất là không được Quốc hội thông qua. Thứ hai là trong hoàn cảnh VNDCCH phía Bắc đã không sở hữu quần đảo Hoàng Sa này. Và thứ ba để có một tuyên bố chủ quyền liên tục, để tiến tới kiện thì phải có tuyên bố với thế giới, có văn bản thừa nhận chính quyền VNCH. Phải có những tiền đề rồi sau đó cùng với các nước ASEAN, cụ thể là những nước có tranh chấp như Philippines, Malaysia, Indonesia. Những chuyện về các hòn đảo thì mình bàn trước đi để thống nhất tạo một cái luật chơi.”

Công luận Việt Nam, từ báo chí chính thức đến các diễn đàn xã hội đều cho thấy nhà nước Việt Nam phải đặt ưu tiên số một về việc hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng, còn làm thế nào để vô hiệu hóa nó thì sự tranh cãi vẫn đang tiếp tục. Liệu Việt Nam có thể khởi kiện Trung Quốc hay không trước khi thực sự hóa giải được công hàm Phạm Văn Đồng 1958.

Bàn về hai cách thoát khỏi Công hàm 1958

Bàn về hai cách thoát khỏi Công hàm 1958

Chuacuuthe.com


VRNs (04.06.2014) – Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai đã “đóng đanh” bức Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 bằng những chứng cứ trên giấy trắng mực đen như sau:

– Thực chất của công hàm đó là “công khai tuyên bố thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, là “rất tai hại, rất phản động”, “là một tai họa cho Việt Nam”, là “có tác hại phản quốc phải hủy bỏ”.

140604-CH PVD

4- Đó là một CÔNG HÀM cấp nhà nước (xem hình bên), giữa hai đại diện cao nhất của hai chính phủ, vì thế không thể tùy tiện hạ thấp tầm quan trọng của công hàm này thành một “công thư”, coi văn bản này “không có giá trị, vì anh không thể đem cho cái không phải quyền của anh”. Tác giả cho thấy cách lập luận nhằm hủy bỏ tầm quan trọng của một Công hàm như vậy là “hời hợt”, chỉ là “cãi chày cãi cối”, là “vô trách nhiệm”!

– Vì vậy. để hủy bỏ được công hàm tai hại ấy, tác giả thấy phải đưa ra một giải pháp khác là “Quốc Hội mới của CHXHCN VN phải phủ quyết cái công thư phản động ấy”.

Đấy là những kết luận dứt khoát dựa trên những chứng cứ không thể chối cãi. Nhưng một khi đã công nhận những kết luận ấy không thể không tiếp tục đặt ra những câu hỏi khác và bàn thêm về hai cách giải thoát khỏi Công hàm 1958 ấy cho thật cặn kẽ.

1/ Một Công hàm đã bán chủ quyền, đã “phản động, phản quốc” như vậy thì tác giả của Công hàm ấy, cá nhân cũng như tập thể, cần được phán xét ra sao, chịu trách nhiệm thế nào với hậu thế, với sự tồn vong của đất nước? Bài học rút ra là gì?

2/ Thoát khỏi Công hàm 1958 bằng cách nào?

Mọi người đều thấy Công hàm 1958 là sự ràng buộc nguy hiểm nên đều thấy phải tìm cách thoát khỏi Công hàm đó. Nhưng tùy thuộc mục đích ưu tiên bảo vệ đất nước hay ưu tiên bảo vệ chế độ mà phát sinh hai kiểu thoát hiểm.

– Muốn bảo vệ cái nền móng, bảo vệ thể chế, sợ dứt dây động rừng thì lái cho thiên hạ quên đi tầm quan trọng của Công hàm đó, hạ thấp tính chính thống và tính pháp lý của Công hàm, coi Công hàm là thứ chẳng đáng quan tâm. Song ngụy biện kiểu này chỉ để tự che mắt mình và che mắt dân, chứ không thể cãi được với kẻ xâm lược tinh quái đã “nắm đằng chuôi”, và cũng không thuyết phục được công lý quốc tế khách quan. Thật vậy, ai có thể tưởng tượng một Thủ tướng lại dễ dãi đến mức quyết định “cho” nước láng giềng một phần lãnh thổ của Tổ quốc chỉ vì nghĩ rằng phần lãnh thổ ấy đang thuộc phần quản lý của đồng bào mình ở miền Nam thì cứ việc “cho” cũng chẳng hại gì? Trong khi vị Thủ tướng này luôn nhắc lời Chủ tịch Hồ Chí Minh, người chịu trách nhiệm cao nhất bấy giờ, rằng “Tổ quốc Việt Nam là một,… chân lý ấy không bao giờ thay đổi” kia mà? Thêm nữa, đã tâm niệm “Tổ quốc Việt Nam là một” thì khi Trung Quốc chiếm mất Hoàng Sa năm 1974 phải hiểu là một phần Tổ quốc của mình bị xâm lược (dù đồng bào nửa nước bên kia đang quản lý), sao không có một lời phản đối bọn xâm lược. lại phấn khởi vui mừng vì một vùng biển đảo của Tổ quốc đã vào tay nước bạn để nước bạn giữ cho? Thật tiếu lâm, khôi hài đến chảy nước mắt.

– Tóm lại là cố gắng vô hiệu Công hàm 1958 kiểu này không có giá trị thực tế gì, rất dễ bị đối phương bẻ gãy. Nếu kiện ra Liên Hiệp Quốc, chỉ một Công hàm Phạm Văn Đồng đủ làm cho Việt Nam đuối lý (chưa cần đến những hiệp ước nhượng bộ, đầu hàng về sau mà Trung Quốc đã thủ sẵn trong tay). Khi Trung Quốc đã chốt được tính pháp lý chính danh của Công hàm 1958 thì mặc nhiên đã vô hiệu được tất cả những chứng cứ lịch sử trước 1958 và cả những tranh cãi sau 1958 đến nay. Chính phủ Việt Nam cũng biết vậy nên cứ trì hoãn không dám kiện Trung Quốc, viện lý do rất “đạo đức” là sợ làm đổ mất “bát nước đầy” (cái bát nước hữu nghị mà phía Trung Quốc đã phóng uế vào!). Kiểu chống đỡ này lúng túng bởi vì ưu tiên bảo vệ chế độ, bắt Tổ quốc phải hy sinh cho chế độ, vô tình hay hữu ý tránh né việc phê phán sai lầm của chế độ.

– Vậy phải thoát khỏi Công hàm 1958 bằng cách khác, “bằng một tuyên bố công khai có giá trị pháp lý cao hơn” ví dụ “Quốc hội mới của CHXHCN VN phải phủ quyết cái công thư phản động ấy” như bác Nguyễn Khắc Mai đề xuất. Nhưng giải pháp này có hiệu quả đến đâu? Vấn đề là một chính phủ với tư cách hậu duệ kế tục của chính phủ Phạm Văn Đồng – Hồ Chí Minh thì đương nhiên có trách nhiệm thi hành những tuyên bố của chính phủ hợp pháp trước đây đã ký, Trung Quốc có quyền đòi hỏi theo luật như vậy, điều Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký thì Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có trách nhiệm thực hiện, một khi ông Thủ tướng sau đã nguyện kế tục sự nghiệp của ông Thủ tướng trước. Chỉ còn một cách: Muốn khước từ thi hành Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 buộc Chính quyền Việt Nam hiện nay phải nhân danh nhân dân Việt Nam tuyên bố khước từ và tẩy chay những sai lầm “phản động, phản quốc” của chế độ cũ, lập chế độ mới. Liệu cái Quốc hội Cộng sản hiện nay có dám cắt đứt cái mạch máu huyết thống này để kiến tạo một quyết định thoát Cựu, thoát Trung, ích nước lợi nhà như vậy không?

Khó khăn cốt lõi vẫn ở chỗ: Muốn thoát Hán, mà bước một là thoát khỏi Công hàm phản quốc 1958, chỉ có cách phải giải Cộng, thoát Cộng! Chỉ có nhân dân đứng lên, trong một thể chế của nhân dân, mới vô hiệu hóa được mọi ký kết phản quốc, vi hiến, đã ký kết sau lưng nhân dân như Công hàm PVĐ!

3/ Thoát Cộng được lợi những gì?

Trong thực tiễn Việt Nam hiện nay nói thoát Cựu, thoát Cộng hay “vượt qua chính mình” thực ra cùng một nghĩa, tuy “vượt qua chính mình” là cách nói dễ nghe hơn, nhưng tôi xin được dùng chữ thoát Cộng vì đúng thực chất nhất.

Nếu giữ chủ nghĩa Cộng sản thì phải gánh chịu những tai hại gì?

Toàn bộ kế hoạch “đô hộ Việt Nam kiểu mới” mấy chục năm nay của Trung Cộng được thiết kế trên hai chữ Cộng sản, giữ cái nền Cộng sản là giúp cho mưu đồ Hán hóa có một ưu thế ở tầm chiến lược.

– Giữ Cộng sản thì Việt Nam bị ràng buộc bởi quá khứ đầy nợ nần và lầm lỡ, khó thoát ra, chẳng hạn như công hàm 1958, cam kết Thành Đô, các ký kết thời Lê Khả Phiêu, thời Nông Đức Mạnh, thời Nguyễn Phú Trọng…

– Còn giữ Cộng sản thì quan hệ ràng buộc Trung-Việt như quan hệ giữa “thú dữ và con mồi” cứ thít chặt lại, trong khi các khối đoàn kết để kháng cự thì bị lỏng ra, ví dụ giới lãnh đạo thì bị chia thành phái thân Tàu và nhóm lợi ích, lãnh đạo thì ngày càng đối lập với dân, quốc nội với hải ngoại vẫn còn cách biệt, các liên kết Việt Mỹ, Việt Âu, Việt ASEAN… đều bị yếu tố Cộng sản hạn chế một phần, không thể thanh thoát… Như thế lấy đâu ra sức mạnh? Giữ được nước hay không chủ yếu là do có sức mạnh hay không, đừng trông chờ quá nhiều ở công pháp quốc tế.

Trái lại, chỉ cần thoát Cộng thì tất cả những trở ngại trên sẽ được giải tỏa, đặc biệt là toàn bộ dân Việt khắp nơi khắp chốn tự nhiên sẽ ôm lấy nhau mà reo hò, không cần bất cứ một nghị quyết “hòa hợp hòa giải” nào hết, niềm mơ ước một hội nghị Diên Hồng từ đó mới có cơ sở để mở ra, nếu không thì Diên Hồng mãi mãi chỉ là một lời hô hào suông, không có thực chất.

4/ Thoát Cộng dễ hay khó?

– Sẽ quá khó, quá gay go, nếu Đảng Cộng sản cứ ôm lấy vinh quang quá khứ và lợi quyền hiện tại khiến cho Đảng ngày càng xa dân, đối lập với dân, mỗi động tác dân chủ hóa, dẫu còn ở mức độ “cải lương” thôi cũng đã là một cuộc cọ xát nảy lửa, đã xảy ra bắt bớ cầm tù, nói gì đến sự đổi mới thể chế, đổi mới hệ thống?

– Nhưng không, sẽ vô cùng dễ dàng nếu Đảng biết “tự vượt qua mình”, lấy lợi ích dân tộc trên hết mà vượt trên quá khứ, chuyển sang nền dân chủ đa nguyên như các nước tiên tiến thì Đảng có mất chỉ mất cái danh hão mà được tất cả. Chẳng những không ai chỉ trích quá khứ nữa làm gì, mà các vị cầm quyền còn được nhân dân yêu quý và biết ơn thật sự, không còn tình trạng “thấy mặt là tắt tivi” như bấy lâu nay. Về tinh thần đã thanh thỏa như vậy, về vật chất cũng cơ bản được đảm bảo; có phải nhân dân đã từng bắn tiếng rằng nếu người lãnh đạo biết đổi mới để cứu nước, thoát Hán thì dân sẵn sàng độ lượng cho tận hưởng bổng lộc đấy thôi? Triển vọng xán lạn ấy có thể lắm chứ, sao lại không?

Quả bóng cứu dân cứu nước hiện đang trong chân người cầm quyền, dân rất mong mỏi những người cầm quyền biết xử lý thông minh, khôn ngoan, ích nước lợi nhà. Chỉ trừ trường hợp chẳng may, đợi mãi, vô vọng (chẳng hạn như tiền đạo họ Phùng cứ sút mãi bóng vào lưới nhà) thì tất nhiên dân phải đứng dậy giành quả bóng về chân mình mà xử lý theo đúng ý nguyện của dân, để “nâng thuyền hay lật thuyền” như quy luật của muôn đời mà Nguyễn Trãi đã diễn tả bằng một hình ảnh lưu danh bất hủ…

H.S.P. (2-6-2014)

Hà Sĩ Phu

Nguồn: http://www.boxitvn.net/bai/26882

Nếu biến cố Thiên An Môn xảy ra hôm nay

Nếu biến cố Thiên An Môn xảy ra hôm nay

Trần Trung Đạo (Danlambao) – Một sinh viên đứng trên bục cao trong tang lễ Hồ Diệu Bang ngày 24 tháng Tư 1989, phát biểu: Đồng chí Hồ Diệu Bang vừa qua đời. Ông là một lãnh đạo trong sạch. Ông không có một chương mục ngân hàng ở nước ngoài. Con cái ông không thăng quan tiến chức chỉ vì cha là lãnh đạo đảng Cộng Sản. Hôm qua chúng ta nói về minzhu, dân chủ. Vậy minzhu nghĩa là gì? Min là “nhân dân” và Zhu là “làm chủ”. Chúng tôi muốn nhận trách nhiệm làm chủ!

Lời phát biểu của anh được đáp lại bằng những tràng pháo tay nồng nhiệt của hàng trăm ngàn người như được ghi lại trong cuốn phim tài liệu nổi tiếng The Gate of Heavenly Peace của Long Bow Group.

Và đó cũng là một trong hàng loạt các hoạt động của phong trào dân chủ Trung Quốc đã kéo dài suốt bảy tuần lễ tại quảng trường Thiên An Môn. Kết quả, một thiên hùng ca được viết bằng máu của nhiều ngàn sinh viên Trung Quốc yêu dân chủ và được thế giới biết đến hôm nay và mãi mãi về sau như Tàn Sát Thiên An Môn. Một điều cần lưu ý, nguyện vọng của nhân dân bị đáp lại bằng máu chẳng phải chỉ phát xuất từ quan điểm Cộng Sản cứu cánh biện minh phương tiện thôi mà còn là đặc tính riêng của văn hóa Trung Quốc. Ngay từ 1926, Lỗ Tấn đã phát biểu “Thỉnh nguyện lên chính phủ xảy ra tại mọi nước. Điều đó không cần thiết phải kết quả bằng cái chết, ngoại trừ, dĩ nhiên tại Trung Quốc”.

Lý tưởng Cộng Sản được Marx, Engel và các môn đệ ở Trung Quốc điểm tô như một thiên đàng tuyệt hảo, có khả năng thỏa mãn mọi nhu cầu của loài người tự giác. Lý thuyết đó cuốn hút hàng triệu nông dân Trung Quốc nghèo khó bỏ gia đình, vợ con, ruộng vườn, đi theo Mao Trạch Đông tìm chân lý. Từ vỏn vẹn 12 đại biểu đại diện cho 57 đảng viên cả nước trong đại hội thành lập đảng 1921 tại Thượng Hải, đảng Cộng Sản Trung Quốc có trên 10 triệu trong đại hội lần thứ Tám vào 1956, chưa tính số đảng viên bị giết trong thời kỳ nội chiến và trong chiến tranh chống Nhật.

Tuy nhiên, sau khi tóm thâu toàn lục địa Trung Hoa, đảng Cộng Sản Trung Quốc đã lộ nguyên hình là một đảng độc tài toàn trị, chăn dân chẳng khác gì chăn trâu ngựa. Thiên đàng đâu không thấy, chỉ có một chế độ nô lệ mới ra đời trong địa ngục trần gian Trung Quốc. Giới lãnh đạo Cộng Sản Trung Quốc đã phản bội khát vọng của nhân dân, bỏ chết đói nhiều chục triệu người qua các chính sách kinh tế vô cùng ngu xuẩn trong những năm từ 1958 đến 1961, và sáng sớm ngày 5 tháng Sáu 1989 đã tàn sát thêm nhiều ngàn thanh niên Trung Quốc vô tội.

Trong lúc phong trào Thiên An Môn 1989 là một thiên hùng ca về khát vọng dân chủ tự do của con người sẽ mãi mãi được hát lên trên khắp địa cầu, nguyên nhân, diễn tiến và hậu quả thảm khốc của biến cố đã để lại những bài học hữu ích cho các phong trào sinh viên dân chủ thế giới, đặc biệt đối với các phong trào sinh viên dân chủ tại các quốc gia có hoàn cảnh chính trị tương tự như Trung Quốc trong những ngày trước mắt.

Trước hết cần sơ lược những diễn biến chính của phong trào Thiên An Môn. Tại Trung Quốc, các buổi tập hợp nhằm mục đích biểu dương sức mạnh quần chúng đã trở thành một tập quán lâu đời. Có thể vì nhiều lần và có nội dung trùng hợp, nhất là trong thời “Cách Mạng Văn Hóa” nên các biến cố thường được gọi bằng ngày tháng mà biến cố đó phát sinh thay vì nguyên nhân tạo nên biến cố. Ví dụ, Phong Trào 4 tháng Năm để nhắc nhở cuộc nổi dậy chống đế quốc qua các hiệp ước bất bình đẳng do sinh viên Bắc Kinh phát động ngày 4 tháng Năm 1919 hay biến cố 5 tháng Tư với hàng trăm ngàn người tập trung để kỷ niệm một năm ngày cố Thủ Tương Chu Ân Lai qua đời. Biến cố 4 tháng Sáu, hay còn được báo chí quốc tế gọi là biến cố Thiên An Môn, diễn ra từ 14 tháng Tư đến 5 tháng Sáu 1989, được quan tâm nhiều nhất, không những vì phong trào kéo dài nhiều tuần lễ, số người chết cao, được hàng ngàn nhà báo quốc tế theo dõi mà còn gây tác dụng mạnh mẽ đối với vị thế chính trị của Trung Quốc trong bang giao quốc tế.

Biến cố Thiên An Môn phát sinh sau khi cựu Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Trung Quốc Hồ Diệu Bang, nguyên là một lãnh tụ Cộng Sản có khuynh hướng cải cách ôn hòa, qua đời sáng sớm 15 tháng Tư 1989. Sáng hôm đó, hàng trăm ngàn người thuộc nhiều giới, trong đó có các đảng viên Cộng Sản trẻ, các nhóm Cộng Sản có khuynh hướng cải cách, các nhóm Cộng Sản thuộc phe đệ tứ tập trung để thương tiếc cựu tổng bí thư và phản đối chính sách trung ương tập quyền của đảng, đòi hỏi các cải cách chính trị, kinh tế. Trong những ngày đầu này sinh viên chưa thực sự tham gia mặc dầu có một số đã có mặt, trong đó có Chai Ling, người sẽ đóng vai trò quan trọng trong nhiều tuần sau đó. Ngày 15 tháng Tư cũng là ngày sinh nhật của cô sinh viên 23 tuổi này và như cô ta nhìn lại sau này: “Phong trào là một biểu lộ ý thức dân chủ tự nhiên của người dân và sinh viên”.

Sau tuần lễ đầu không có một lãnh tụ nào nổi bật và cũng không có mục đích cụ thể, sáng 17 tháng Tư, ba ngàn sinh viên từ Đại Học Bắc Kinh tiến về quảng trường Thiên An Môn, và tiếp theo sau, nhiều ngàn sinh viên khác từ Đại Học Thanh Hoa (Tsinghua) nỗi tiếng cũng tham gia cuộc biểu dương lực lượng. Cuộc biểu tình nhận được sự ủng hộ của các trường đại học khác ở Bắc Kinh và bắt đầu lan tràn sang các thành phố khác.

Ngày 19 tháng Tư, một liên hiệp sinh viên các trường đại học tại Bắc Kinh ra đời. Ba ngày sau, sinh viên tham dự lễ tưởng niệm cựu Tổng Bí Thư Hồ Diệu Bang tại Nhân Dân Đại Sảnh. Vào thời điểm này, một bản thỉnh nguyện bảy điểm được sinh viên công bố, gồm (1) Khẳng định quan điểm dân chủ và tự do của cố Tổng Bí Thư Hồ Diệu Bang; (2) thừa nhận chiến dịch chống sa đọa tinh thần và giải phóng tư sản là sai lầm; (3) công khai hóa lợi tức của các lãnh đạo nhà nước và gia đình họ; (4) chấm dứt việc ngăn cấm báo chí tư nhân và cho phép tự do ngôn luận; (5) tăng ngân sách giáo dục và tăng lương cho trí thức; (6) chấm dứt hạn chế biểu tình tại Bắc Kinh; (7) tổ chức các cuộc tuyển cử dân chủ để thay thế các viên chức chính phủ đã thực hiện các quyết định sai lầm. Ngoài ra, các lãnh tụ phong trào Thiên An Môn còn đòi hỏi các phương tiện truyền thông nhà nước phải công bố các yêu sách của họ cho dân chúng biết.

Ngày 26 tháng Tư, tờ Nhân Dân Nhật Báo trong bài bình luận đã tố cáo “một nhóm nhỏ âm mưu” tạo sự xáo động nhằm lật đổ đảng Cộng Sản và hệ thống xã hội chủ nghĩa. Sinh viên đã phản ứng bằng một cuộc biểu dương lực lượng của 40 trường đại học để phản đối nội dung của bài bình luận trên báo Nhân Dân. Ngày 13 tháng Năm sinh viên bắt đầu cuộc tuyệt thực trước Nhân Dân Đại Sảnh, trụ sở của Ủy Ban Thường Trực Hội Đồng Đại Biểu Nhân Dân. Hơn một ngàn người tham gia chiến dịch này. Trong lúc đó, nhiều ngàn sinh viên khác bao vây khu Trung Nam Hải, trụ sở của các cơ quan nhà nước. Tại cả hai nơi, các lãnh tụ sinh viên yêu cầu chính phủ phải công bố bản thỉnh nguyện bảy điểm. Các lực lượng công an phòng vệ giải tán bằng gậy gộc. Sinh viên phản ứng bằng cách kêu gọi đình công, bãi trường. Cả Tổng Bí Thư Triệu Tử Dương lẫn Thủ Tướng Lý Bằng đều có gặp sinh viên để tìm cách chấm dứt cuộc tuyệt thực nhưng không có kết quả. Trong các lãnh đạo đảng, Triệu Tử Dương có khuynh hướng mềm dẻo, trong lúc Lý Bằng và Đặng Tiểu Bình thiên về các phương pháp cứng rắn. Đặng Tiểu Bình trong một phiên họp mật của trung ương đảng đã cảnh giác một mối đe dọa thực sự đang xảy ra. Mặc dù vị trí nhà nước của họ Đặng tương đối thấp so với các lãnh đạo khác, y lại là Chủ Tịch Quân Ủy Trung Ương và là người có quyết định ban hành luật quân sự nhân danh các lãnh đạo nhà nước, phần lớn chỉ có tính cách lễ nghi.

Trong lúc cuộc tuyệt thực đang tiến hành, ngày 15 tháng Năm, Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Liên Xô Mikhail Gorbachev đến Bắc Kinh trong ngày đầu của chuyến viếng thăm cực kỳ quan trọng giữa hai nước. Đây là chuyến viếng thăm chính thức đầu tiên trong 30 năm và hy vọng sẽ tái lập mối quan hệ ngoại giao vốn bị rạn nứt từ thời Nikita Khrushchev. Hơn một ngàn đại diện báo chí quốc tế, trong đó rất đông do chính nhà nước Trung Quốc mời, để tường thuật chuyến viếng thăm của Mikhail Gorbachev. Luật quân sự được ban hành ngày 20 tháng Năm. Ngày 24 tháng Năm, Tổng Hành Dinh Bảo Vệ Quảng Trường Thiên An Môn được thành lập và sinh viên bậc cao học Chai Ling được bầu làm Tổng Chỉ Huy. Một bức tượng Nữ Thần Tự Do cao mười mét được dựng lên vào tuần lễ sau đó.

Lúc 5 giờ chiều ngày 2 tháng Sáu, Lưu Hiểu Ba và hai người khác bắt đầu tuyệt thực. Trường hợp Lưu Hiểu Ba rất đặc biệt vì khi mới bắt đầu xảy ra vụ Thiên An Môn ông còn ở New York. Như ông trả lời trong một cuộc phỏng vấn truyền hình sau đó, các hình ảnh trên TV Mỹ đã có tác dụng sâu sắc vào nhận thức của ông và ngày 26 tháng Tư, ông quyết định trở lại Trung Quốc qua ngả Tokyo. Ngày 2 tháng Sáu, Trung Ương Đảng dứt khoát đồng ý dọn sạch quảng đường Thiên An Môn bằng võ lực. Ngày 3 tháng Sáu, các đơn vị Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc bắt đầu tấn công vào quảng trường. Binh đoàn 27 được báo chí ghi nhận là chủ chốt gây thương vong cho sinh viên và dân chúng. Vào lúc 5 giờ 40 sáng 4 tháng Sáu, quảng trường Thiên An Môn nằm trong tay kiểm soát của quân đội. Số người bị giết được ước tính khác nhau tuy theo nguồn tin. Tình báo của NATO ước lượng 7 ngàn người bị giết trong lúc tin của Liên Xô có khoảng 10 ngàn và theo tin của cơ quan Hồng Thập Tự Trung Quốc có 5 ngàn người bị giết và 30 ngàn bị thương.

Dưới các chế độ Cộng Sản những cuộc thảm sát thường không được tiết lộ ra ngoài. Các chính sách kinh tế sai lầm tệ hại của Mao dẫn đến hàng nhiều chục triệu người dân vô tội chết oan, chết đói cũng không được thế giới biết đến một cách chi tiết. Cuộc Tàn Sát Thiên An Môn là biến cố được các hãng truyền hình ghi nhận nhiều nhất và đã có tác hại trầm trọng đến uy tín chính trị của đảng và nhà nước Cộng Sản Trung Quốc trong bang giao quốc tế một thời gian khá dài vì hai lý do. (1) Các cơ sở truyền thông quốc tế đến Trung Quốc như một trùng hợp ngẫu nhiên để đưa tin về chuyến viếng thăm Trung Quốc của Tổng Bí Thư Liên Xô Michail Gorbachev nhưng lại có cơ hội hiếm hoi ghi nhận các hậu quả của biến cố Thiên An Môn, và (2) các hãng truyền thông truyền hình của đảng trong lúc chỉ trích cuộc biểu tình qua các tin tức, phóng sự truyền hình đã vô tình tiếp tay giúp loan tin đến các tầng lớp quần chúng và kích động quần chúng tham gia biểu tình.

Dù gây một tiếng vang lớn, phong trào Thiên An Môn của sinh viên Trung Quốc đã không đạt được mục đích như đã đề ra trong tuyên bố bảy điểm và để lại cho các phong trào dân chủ trẻ thế giới nói chung và tại các quốc gia Cộng Sản nói riêng những bài học cần thiết:

1. Đoàn kết nội bộ: Theo ký giả Robert Gifford của đài BBC nhận xét nhân dịp đánh dấu 10 năm Tàn Sát Thiên An Môn, một trong những lý do dẫn đến sự thất bại của phong trào Thiên An Môn là sự thiếu đoàn kết trong lãnh đạo phong trào sinh viên. Phần lớn các lãnh tụ sinh viên tham gia một cách tự phát cuộc biểu tình chỉ vì bất mãn trước tình trạng lạc hậu kinh tế, tham nhũng xã hội và độc tài chính trị nhưng không có một nghị trình rõ ràng cần phải làm gì để chuyển hóa một tập thể đầy cảm tính sang một phong trào có tổ chức. Sự chia rẽ không những vì quan điểm mà còn cục bộ đến mức theo mỗi trường, mỗi khoa, mỗi nhóm đã diễn ra rất sâu sắc trong hàng ngũ lãnh đạo phong trào.

2. Ý thức về dân chủ: Tất cả sinh viên Trung Quốc trong lứa tuổi hai mươi trưởng thành dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, ở đó các lý thuyết dân chủ hoàn toàn không được giảng dạy đừng nói chi đến việc ứng dụng vào một hoàn cảnh xã hội đa văn hóa vô cùng phức tạp như Trung Quốc. Bản thân của những lãnh tụ sinh viên chẳng những không phải phát xuất từ thành phần chống đảng mà còn được rèn huấn bằng lý luận Cộng Sản. Cha mẹ của Chai Ling, lãnh tụ hàng đầu của phong trào là đảng viên Cộng Sản và bản thân cô là thành viên của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Trung Ương.

3. Phong trào kéo dài quá lâu nhưng không thực hiện các biện pháp có tính quyết định: Các lãnh tụ sinh viên lẽ ra ngay từ đầu phải đặt chỗ dựa vững chắc trong lòng nhân dân, tìm mọi cách nối kết với các phong trào lao động, nhưng theo nhiều nguồn tin quốc tế, họ đã tỏ ra do dự không chịu sự hợp tác đấu tranh với tầng lớp công nhân. Thái độ thiếu dứt khoát và tầm nhìn chiến lược quá giới hạn của sinh viên đã dẫn phong trào đến chỗ bế tắc. Căn cứ vào lời phát biểu của các lãnh tụ sinh viên, dù vụ tàn sát Thiên An Môn không diễn ra, phong trào Thiên An Môn sớm muộn cũng tự giải tán. Tác giả Eddie Chang trong tác phẩm Standoff at Tiananmen mô tả tâm trạng tuyệt vọng của các lãnh tụ sinh viên trong những ngày cuối trước khi cuộc tàn sát xảy ra như trường hợp Chai Ling: “Ngoại trừ những khi thật cần để phát biểu để sinh viên lên tinh thần, Chai Ling ít khi xuất hiện và giao phó hết công việc cho phụ tá của cô”.

Đó là chưa kể các khó khăn về thông tin, vệ sinh, thực phẩm, nước uống, y tế, trật tự trong quảng trường bao la với nhiều trăm ngàn người tập trung suốt nhiều tuần lễ.

Vào thời điểm 1989, phần lớn những khó khăn đó là những khó khăn khách quan bị quy định bởi hoàn cảnh xã hội, ý thức chính trị và giới hạn thông tin tại Trung Quốc.

Nếu biến cố Thiên An Môn xảy ra hôm nay, những khó khăn đó chắc chắn sẽ được vượt qua khá dễ dàng bởi vì, về mặt chủ quan thế hệ trẻ ngày nay có một nhận thức dân chủ rõ ràng và vững chắc, và về mặt khách quan thế giới đã chuyển mình sang một thời đại thông tin rộng mở mà không nhà nước nào, không một kỹ thuật nào có khả năng bưng bít được hoàn toàn, kể cả tại Trung Quốc. Cuộc cách mạng tin học bùng nổ đầu thập niên 1990 đã giúp mang con người không phân biệt giàu, nghèo, sang, hèn, khác biệt về tôn giáo đến gần nhau trong một căn nhà. Trái đất mỗi ngày một nhỏ dần. Những hàng rào ngăn cách giữa người và người đã bị giới hạn nhiều. Nhân loại ngày nay cần được sống trong một xã hội mở, không bị bao bọc trong bốn bức tường độc tôn hay độc tài.

Một số nhà phân tích tình hình Trung Quốc cho rằng những gì đang xảy ra tại Quảng Trường Tahrir ở Cairo không thể xảy tại Quảng Trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh như giới lãnh đạo Trung Quốc đang lo lắng quá xa. Xin đừng quên, trước ngày Thiên An Môn bùng nổ 1989 không ai nghĩ biến cố đó có thể xảy ra. Các lãnh đạo nhà nước Trung Quốc được Đặng Tiểu Bình đưa lên trong giai đoạn đó như Triệu Tử Dương, Lý Bằng là những chuyên viên có đầu óc thực dụng. Chính sách bốn hiện đại hóa đang chứng tỏ thành công. Nền kinh tế Trung Quốc đang bước vào thời kỳ phát triển thứ hai với các kết quả vượt kế hoạch dự trù. Hệ thống tập thể hóa nông nghiệp đã bị xóa bỏ. Công nghiệp tư doanh phát triển một cách nhanh chóng. Giá cả hàng hóa không còn bị quy định bởi nhà nước mà theo nhu cầu thị trường. Nhưng tất cả những phát triển đó đã không đáp ứng được đòi hỏi của thế hệ thanh niên đã tiến xa hơn thực tế xã hội.

Sau ngày thảm sát Thiên An Môn tháng Sáu 1989, một nhà văn Trung Quốc dấu tên đã viết những lời tưởng niệm và dán lên bức tường Thiên An Môn chưa khô hết máu, trong đó có đoạn: “Chúng tôi vững tin tưởng rằng, sẽ có một ngày khi chúng tôi có thể hát bài hát vui mừng và chiến thắng cho những người đã chết hôm qua, cho những người đang chết hôm nay, và sẽ chết ngày mai, và cho những người gặp nhau đây rồi vĩnh biệt hôm sau.”

Đúng vậy, phong trào Thiên An Môn bùng nổ và đã bị dập tắt nhưng chắc chắn một Thiên An Môn khác đang được hình thành tại Trung Quốc bởi vì khát vọng tự do dân chủ là ngọn lửa thiêng âm thầm cháy trong lòng người dù đang sống ở đâu trên mặt đất này. Nơi nào có độc tài đảng trị nơi đó sẽ có cách mạng dân chủ. Không ai biết thời điểm nào một cách mạng sẽ diễn ra nhưng không thể phủ nhận hay trốn tránh quy luật xã hội đó.

Nếu biến cố Thiên An Môn xảy ra hôm nay, ý thức dân chủ trong thệ hệ trẻ Trung Quốc đã trưởng thành cộng với các phương tiên thông tin đang có, cuộc tranh đấu sẽ không dừng lại ở những điều thỉnh nguyện suông mà có thể dẫn đến sự sụp đổ toàn bộ hay ít nhất làm thay đổi căn bản cơ chế chính trị tại Trung Quốc. Bắc Kinh sẽ ngăn chận Internet như họ đã ngăn chận Twitter, Facebook, Flickr, Youtube, Blogspot v.v. nhân dịp kỷ niệm 20 năm Tàn Sát Thiên An Môn cách đây hai năm, nhưng phe dân chủ vẫn còn rất nhiều cách để thông tin trong nội địa cũng như chuyển và nhận tin từ nước ngoài. Một chuyên viên kỹ thuật Trung Quốc dấu tên khi được hỏi những gì sẽ xảy ra nếu biến cố Thiên An Môn đang diễn tiến hôm nay, đã thừa nhận rằng với số lượng người được nối kết vào Internet mỗi ngày tăng hàng triệu, việc chận đứng toàn bộ và lâu dài không phải là chuyện dễ dàng.

Mộtbằng chứng điển hình, theo The Wall Street Journal Asia phát hành hôm 31 tháng Giêng 2011, chính phủ Trung Quốc chặn hai chữ Egypt và Cairo từ các nguồn tìm kiếm internet. Hành động trẻ con đó của giới lãnh đạo đảng Cộng Sản Trung Quốc cho thấy họ luôn sống trong bất an, bị động và luôn nằm trong thế thủ hơn là thế công. Hơn ai hết, giới lãnh đạo Trung Quốc biết vị trí của họ là vị trí của một quốc gia bị bao vây, bởi vì chung quanh họ hầu hết là kẻ thù, không chỉ thù kinh tế, chính trị mà cả về văn hóa, lịch sử, địa lý. Ngoài ra, Trung Quốc ngày nay không phải là một quốc gia đang phát triển, không có gì để mất như hai chục năm trước mà là một cường quốc, dù muốn hay không, họ cũng phải đóng vai trò cường quốc với tất cả trách nhiệm quốc tế để bảo vệ quyền lợi của Trung Quốc. Nếu không, một khi phong trào dân chủ thế giới qua đi, Mỹ sẽ xuất hiện trên trường quốc tế như một cường quốc có lợi nhất, ngay cả còn mạnh hơn một nước Mỹ sau thế chiến thứ hai.

Và cho dù chế độ có thể ngăn chận được thông tin trong lục địa Trung Quốc, Bắc Kinh cũng không thể làm gì được để ngăn chận thông tin quốc tế được truyền đi qua hàng trăm phương tiện internet nhanh nhất và có tác dụng tạo nên một làn sóng công phẫn trên phạm vi toàn thế giới. Sinh viên Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc sẽ không cô đơn như 1989 mà cả nhân loại sẽ đứng về phía họ. Hàng trăm cuộc biểu tình trước các tòa đại sứ Trung Quốc ở nước ngoài sẽ tạo nên một áp lực quốc tế thường trực không kém gì tại lục địa Trung Hoa. Thượng Nghị Sĩ John McCain phát biểu trên CNN tuần này “Chúng ta không thể chấp nhận một Tiananmen Square xảy ra tại Cairo”. Điều đó có nghĩa nếu Thiên An Môn xảy ra hôm nay, giới lãnh đạo Mỹ, vì cả hai lý do nhân đạo cũng như kinh tế, sẽ không đứng bàng quan nhìn hàng ngàn thanh niên vô tội bị nghiền nát dưới lằn xích sắt như đã diễn ra trong 1989.

Giống như cơ chế nhà nước tư bản là hệ quả khoa học của cuộc cách mạng kỹ nghệ vào thế kỷ 18, các chế độ dân chủ mở rộng ngày nay là hệ quả khoa học của một nền kinh tế đang được toàn cầu hóa. Ánh sáng tự do đang rọi vào những nơi mà trước đây không mấy ai quan tâm đến như Tunisia, Sudan, Yemen, Morocco và lần lượt sẽ đến nhiều nơi khác đang sống dưới chế độ độc tài.

Trần Trung Đạo

danlambaovn.blogspot.com