Thoát Trung”, “thoát Cộng” và “thoát Sợ”, cái “thoát” nào là nền tảng?

Thoát Trung”, “thoát Cộng” và “thoát Sợ”, cái “thoát” nào là nền tảng?

Nguyễn Chính Kết (Danlambao)“…Một trong những khẩu ngôn rất giá trị nói lên bí quyết để “thoát Cộng” là: “Đừng sợ những gì cộng sản làm, hãy làm những gì cộng sản sợ”. Khẩu ngôn này gồm hai vế “Đừng sợ” và “Hãy làm”. “Đừng sợ” là nội dung chính của cả bài này. Còn “Hãy làm” thì chúng ta cần xác định xem cộng sản sợ gì nhất. Thưa: điều cộng sản sợ nhất hiện nay, chính là sợ người dân không còn sợ khủng bố nữa, nghĩa là CSVN rất sợ chính sách khủng bố của mình bị vô hiệu hóa, không còn hữu hiệu hay tác dụng nữa. Cộng sản tồn tại được là nhờ người dân sợ khủng bố. Khi người dân không còn sợ khủng bố nữa, thì đó là lúc nỗi sợ hãi sẽ quay ngược trở lại để trở thành nỗi kinh hoàng cho chính kẻ khủng bố. Và đó là lúc chính thức báo hiệu “hết thời” cho cả một chế độ phi nhân tàn bạo…”

Chuyện “thoát Trung” là điều mà đảng CSVN cần thiết phải làm, có trách nhiệm phải làm và có thể làm được để đất nước thoát khỏi hiểm họa Bắc thuộc lần thứ năm đang có nguy cơ rất lớn trở thành hiện thực. Tuy nhiên, cho tới nay, nhà cầm quyền CSVN chưa hề tỏ một dấu hiệu nào đáng tin tưởng chứng tỏ thiện chí thật sự muốn “thoát Trung” để cứu nguy đất nước cả.

Hiện nay, qua việc bỏ tù những người chống Trung Cộng xâm lược như Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Việt Khang, Bùi Minh Hằng, Phương Uyên, Nguyên Kha, v.v… và qua việc đàn áp mạnh tay những người biểu tình chống Trung Cộng xâm lược, ta thấy rõ ràng rằng những người dân yêu nước, muốn bảo vệ lãnh thổ lãnh hải, chống Trung Cộng xâm lược… đều không chỉ bị Trung cộng mà ngay cả CSVN coi như kẻ thù cần phải tiêu diệt.

Hành động của Trung cộng xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam, bắn giết ngư dân Việt Nam, đặt nhiều giàn khoan dầu vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, rõ ràng là hành động xâm lược Việt Nam cách nghiêm trọng, thế mà CSVN không hề có một hành động nào mạnh mẽ và hữu hiệu ngăn cản hành động xâm lược đó cả. Chính vì thế, hành động xâm lược của Trung cộng có điều kiện để càng ngày càng leo thang. Qua thái độ của CSVN đối với Trung Cộng và đối với người dân yêu nước, ta có thể đoán ngay được rằng CSVN vẫn sẵn sàng làm công cụ cho Trung cộng, tiếp tay với Trung cộng trong mưu đồ thôn tính Việt Nam.

Nếu tình trạng này cứ tiếp diễn, ắt hẳn đất nước Việt sẽ không thoát khỏi tình trạng bị Trung Cộng thôn tính. Đừng chờ khi Việt Nam đã trở thành một tỉnh của Trung cộng rồi, chúng ta mới dám xác định những điều vừa kể.

Ý thức được nguy cơ ấy, chẳng lẽ dân Việt lại phó thác số phận dân tộc mình cho đảng CSVN quyết định ra sao cũng được? Chẳng lẽ cả một dân tộc có lịch sử chống Tàu rất anh hùng lại phó mặc để CSVN dâng đất nước cho Tàu? Chẳng lẽ chúng ta lại sẵn sàng cúi đầu chấp nhận làm thân phận người dân thuộc địa của Trung cộng?

Trong hoàn cảnh này, người dân Việt Nam nếu không tự cứu mình thì chẳng ai có thể cứu mình được. Toàn dân chúng ta phải dành lại quyền quyết định số phận của mình chứ không thể phó thác quyền ấy cho đảng CSVN, vốn đã từng nhiều lần bán đất bán biển của tổ tiên cho kẻ thù dân tộc. Vì thế, vấn đề trước mắt của người dân Việt trong và ngoài nước hiện nay không phải là chuyện “thoát Trung”, mà là “thoát Cộng”. Nghĩa là phải thoát khỏi ách thống trị của chế độ CSVN, không để cho CSVN đè đầu cưỡi cổ và toàn quyền định đoạt số phận cho cả dân tộc nữa. Một khi đã “thoát Cộng” thì việc “thoát Trung” cũng trở nên rất dễ dàng.

Đối với nhà cầm quyền CSVN, “thoát Trung” vốn chỉ là cái ngọn, còn cái gốc của vấn đề này là CSVN có chấp nhận từ bỏ tham vọng muốn “muôn đời trường trị” trên dân tộc Việt Nam hay không, có sẵn sàng từ bỏ quyết tâm bám lấy quyền lực để cưỡi cổ đè đầu người dân Việt Nam hay không, có thật sự từ bỏ ý định làm công cụ cho tham vọng bành trướng của Trung Cộng hay không. Nếu không, việc “thoát Trung” chỉ là ảo tưởng!

Tương tự như vậy đối với người dân Việt Nam, “thoát Cộng” cũng chỉ là cái ngọn, còn cái gốc của vấn đề là người dân Việt có thoát được nỗi sợ hãi mà chế độ CSVN đã gieo vào lòng mỗi người dân từ nhiều thập niên qua hay không. Nếu không, việc “thoát Cộng” cũng chỉ là ảo tưởng! Nỗi sợ hãi này đã trở thành “cố hữu”, đã ngấm vào mạch máu của từng người dân Việt; vì ngay từ khi cướp được chính quyền năm 1945, CSVN đã áp dụng ngay chính sách khủng bố để giết hại, bỏ tù, xách nhiễu, đe dọa bất kỳ người dân nào dám nói hay dám làm điều gì bất lợi cho tham vọng “muôn đời trường trị” của họ. Vụ Nhân Văn Giai Phẩm là một điển hình. Nỗi sợ hãi đối với sự khủng bố của CSVN vẫn luôn luôn đè nặng trên tâm thức của rất nhiều người Việt, kể cả trong nước lẫn hải ngoại, khiến họ không dám làm những gì mà lương tâm, lòng yêu nước hay sự hợp lý đòi hỏi. Đây là thành công rất lớn của cộng sản, nhờ vậy mà chế độ CSVN vẫn tồn tại suốt gần 70 năm qua, dù đảng này từ rất lâu đã trở nên bất xứng trong việc lãnh đạo đất nước, dù đảng này đã làm đất nước tụt hậu hàng trăm năm so với những nước chung quanh, dù dân chúng từ lâu rất căm phẫn trước những hành vi vô cùng tàn bạo của đảng này đối với người dân…

Đừng nói gì đến nỗi sợ của người dân trong nước là những người đang trực tiếp sống dưới sự cai trị hà khắc của CSVN, mà ngay cả người Việt ở hải ngoại, dù sống trong những đất nước tự do, vẫn có rất nhiều người bị nỗi sợ ấy ám ảnh. Thật vậy, nhiều người ở hải ngoại không dám nói gì đụng chạm đến chế độ cộng sản dù điều nói đó là sự thật hay là điều cần thiết phải nói. Hoặc họ không dám công khai đi biểu tình để lên tiếng thay cho người dân trong nước đang bị CSVN bức hại cách bất công và bị bịt miệng không nói lên được nỗi uất ức của mình.

Ở những đất nước tự do như thế, tại sao họ lại sợ CSVN vốn cách xa có khi tới nửa vòng trái đất? họ sợ những gì? − Thưa: họ sợ không được toà đại sứ hay lãnh sự CSVN tại đất nước họ đang sống cấp giấy phép cho họ về Việt Nam; họ sợ khi về thăm quê hương sẽ bị công an CSVN mời làm việc, gây phiền nhiễu cho họ, vân vân và vân vân. Nếu người dân của một đất nước cứ chấp nhận “cúi đầu”, “khom lưng” như vậy, thì dân tộc ấy có bị những chế độ bất lương cưỡi lên đầu lên cổ mình hẳn nhiên không có gì là lạ?!

Nỗi sợ bị CSVN khủng bố khiến rất nhiều người dân không dám phản đối những tội ác của các cán bộ CSVN. Ngay cả những vị rao giảng những tôn giáo có chủ trương chống ác khuyến thiện, cũng vì sợ mà đành phải chấp nhận cái nguỵ biện này: “Từ bản chất, tôn giáo nào cũng có sứ mạng chống ác và khuyến thiện; tuy nhiên chống lại những tội ác do ai làm thì cũng đều tốt, đều nên làm và phải làm; nhưng chống lại tội ác do CSVN gây nên thì không được phép, vì chống ác trong trường hợp này là làm chính trị, mà tôn giáo thì không làm chính trị!” Nhiều vị hùng hồn rao giảng chủ trương “vô úy” hay khuyến khích hành vi “vô úy thí” của Phật, hay cổ võ lời khuyên “Đừng sợ những kẻ chỉ làm hại được thân xác mà không làm hại được linh hồn…!” của Đức Giêsu [1], nhưng chính bản thân họ lại rất sợ bị công an CSVN phiền nhiễu, đến độ không dám nói sự thật, không dám chống bất công, đành chấp nhận nói sai sự thật, sẵn sàng dung dưỡng bất công!

Nhưng rất may cho dân tộc ta là hiện nay xuất hiện càng ngày càng đông những người dân vượt thắng sợ hãi, không sợ khủng bố, nhất là giới trẻ. Họ dám mạnh mẽ lên tiếng tố cáo tội ác của CSVN, kể cả tội của những lãnh đạo cao cấp nhất chế độ, dù biết rằng sau đó họ có thể bị CSVN bỏ tù hoặc mưu hại. Trong số đó có nhiều người rất trẻ tuổi và là phái yếu như Công Nhân, Thanh Nghiên, Thục Vy, Hoàng Vy, Minh Hạnh, Phương Uyên, v.v… Bí quyết gì khiến họ dám “thoát Sợ”, dám lên tiếng cho sự thật, cho công lý, dám làm những hành động mà lòng yêu nước đòi hỏi?

Bí quyết để “thoát Sợ” chính là sẵn sàng chấp nhận chính những gì mà bản năng khiến mình sợ sẽ xảy ra. Thật vậy,

− Ai sẵn sàng chấp nhận chết sẽ không còn sợ chết nữa.

− Ai sẵn sàng chấp nhận vào tù sẽ không còn sợ tù nữa.

− Ai chấp nhận bị công an liên tục mời “làm việc”, bị công an bắt cóc giữa đường, bị công an hành hung… thì sẽ không còn sợ những thứ ấy nữa.

Hiện nay, biết bao người thuộc đủ mọi giới, mọi tầng lớp đã thoát được những nỗi sợ cố hữu ấy, lẽ nào người khác lại không? Nhất là những người tự hào có bản lãnh, những người đáng lẽ phải làm gương về điều này!?

Sống trong một chế độ phi nhân, chủ trương khủng bố như chế độ CSVN, những ai không chấp nhận bị đau, bị khổ, bị phiền nhiễu, bị bạc đãi, bị tù đày, thậm chí bị giết… thì luôn luôn phải triền miên sống trong sợ hãi. Trong đó, có những người rất khổ tâm, bị lương tâm thường xuyên cắn rứt, vì họ bị sợ hãi khống chế nên đã làm nhiều điều hèn nhát, trái với những gì lương tri hay lương tâm đòi hỏi.

Nói chung, do bản năng ham sống sợ khổ, chẳng ai tự nhiên lại chấp nhận cái chết, chấp nhận đau khổ, chấp nhận tù đày, chấp nhận bị phiền nhiễu cả… Người ta chỉ chấp nhận những thứ đáng sợ ấy khi người ta muốn đạt được những giá trị rất lớn, hoặc muốn tránh khỏi những tai họa đáng sợ hơn gấp bội, chỉ lúc ấy người ta mới sẵn sàng trả giá bằng cách chấp nhận những điều đáng sợ kia.

Xin lấy một minh họa cho dễ hiểu. Chẳng hạn, chẳng ai muốn mất tiền, mất của, mất nhà mất cửa cách phi lý, thậm chí mất như thế là một nỗi sợ. Nhiều người đã ngất xỉu khi bị mất một món tiền thật lớn. Nhưng nếu mất tiền để đạt được một điều gì có giá trị lớn gấp bội thì người ta sẵn sàng chấp nhận mất. Thậm chí họ còn vui mừng khi đã đạt được cái giá trị mà mình đã bằng lòng trả giá bằng sự mất mát kia. Người ta cũng sẵn sàng chấp nhận mất một món tiền rất lớn để khỏi mất đi một số tiền lớn hơn, hoặc để tránh được một tai hoạ nào đó.

Tương tự như thế, các nhà đấu tranh dân chủ trong nước sẵn sàng chấp nhận vào tù, chịu thiếu thốn, đau đớn, nhục nhã, thậm chí cả cái chết là để đạt được một giá trị lớn hơn gấp bội, đó là sự tự do và hạnh phúc của cả một dân tộc. Nếu không nhắm cái giá trị cao cả đó, không ai dại gì dấn thân vào con đường nguy hiểm ấy cả.

Chẳng hạn Kỹ sư Đỗ Nam Hải đã tuyên bố: “Tôi sẵn sàng bước vào một nhà tù nhỏ để dân tộc này sớm bước ra khỏi nhà tù lớn. Nhà tù lớn ấy hiện nay mang tên là Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam[2]. Hay như chị Bùi Thị Minh Hằng đã thét lên trong một cuộc biểu tình: “Chúng tôi nằm xuống để dân tộc này đứng lên; chúng tôi chết để dân tộc này được sống[3].

Hoặc có người sẵn sàng chịu đau khổ hay chết đi để các thế hệ con cháu mình được sống yên vui, thoải mái hơn mình, như một người biểu tình ở Bắc Phi đã nói: “Tôi sẵn sàng chết để ngày mai con tôi không phải sống như tôi[4]. Hay để công lý và sự thật được thực hiện, như tinh thần của một câu ví dụ trong một tự điển Pháp nọ: “Tôi không quan tâm chính quyền làm gì mình. Tôi sẵn sàng vào tù miễn là sự thật được phơi bày[5]. Hay để bảo vệ nhân quyền như Voltaire: “Tôi có thể không đồng ý những điều anh nói nhưng tôi sẵn sàng chết để bảo vệ quyền anh được nói những điều đó[6].

Tóm lại, muốn “thoát Trung” thì phải “thoát Cộng”. Muốn “thoát Cộng” thì phải “thoát Sợ”. Muốn “thoát Sợ” thì phải sẵn sàng chấp nhận những điều tệ hại có thể xảy ra. Muốn chấp nhận những điều tệ hại có thể xảy ra thì phải ý thức được một giá trị thật lớn, thật cao cả mà mình cần đạt tới, hay phải ý thức được một hiểm họa khủng khiếp mà mình phải tránh, xứng đáng để đánh đổi bằng cách chấp nhận những điều tệ hại kia xảy đến.

Trường hợp của dân tộc Việt Nam hiện nay, muốn được tự do, muốn thoát khỏi nguy cơ bị Trung cộng thôn tính, muốn cho con cháu mình mai hậu không phải làm thân trâu ngựa cho ngoại bang, người dân phải chấp nhận “tìm cái sống giữa cái chết”. Tương tự như những người vượt biên tìm tự do sau 1975.

Khi chấp nhận vượt biên tìm tự do, người ta đã phải chấp nhận những bất trắc mà họ biết có thể xảy đến hoặc chắc chắn phải xảy đến như:

− bỏ nhà bỏ cửa, bỏ người thân ở lại,

− gia đình bị ly tán,

− bị lường gạt mất vàng, mất của (do bị lừa đảo),

− bị công an bắt và bị tù,

− bị chết ngoài biển làm mồi cho cá, hay chết trong rừng làm mồi cho thú dữ,

− bị cướp biển, phụ nữ bị cướp hãm hiếp,

− phải sống thiếu thốn nhiều năm trong các trại tị nạn,

− v.v…

Những điều bất hạnh đó ai cũng sợ, nhưng những người vượt biên sẵn sàng chấp nhận tất cả chỉ vì mong đạt được một giá trị lớn hơn, đó là TỰ DO. Thật vậy, chỉ vì tự do, người ta sẵn sàng trả giá rất đắt, như tác giả Nam Lộc đã nói lên trong bản nhạc “Xin Đời Một Nụ Cười”:

“Tự do ơi tự do! tôi trả bằng nước mắt

“Tự do hỡi tự do! anh trao bằng máu xương

“Tự do ôi tự do! Em đổi bằng thân xác.

“Vì hai chữ tự do! Ta mang đời lưu vong.” [7]

Người Mỹ có câu nói nổi tiếng: “Freedom is not free” (tạm dịch “Tự do không phải là thứ cho không”). Muốn có tự do thì phải trả giá. Tự do rất xứng đáng được trả giá rất cao vì nó quý giá vô cùng: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đối với cá nhân cũng như đối với cả dân tộc. Nó là thứ quý nhất, không có gì quý hơn, kể cả mạng sống; vì sống mà không có tự do thì “thà chết sướng hơn!” (nhiều người nói như thế!).

Hiện nay, đa số người dân chưa ý thức được nỗi khổ của mình, của con cháu mình, của cả dân tộc mình khi đất nước bị Bắc thuộc lần nữa. Nếu họ ý thức được nỗi đau và nỗi nhục vô hạn mà người dân Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông đang phải chịu kể từ khi đất nước họ trở thành thuộc địa của Trung cộng, nếu người dân Việt ý thức được Trung cộng đã đối xử tàn bạo thế nào đối với các học viên Pháp Luân Công vốn cùng một giòng máu Hán tộc với họ, thì họ sẽ hiểu được nỗi đau và nỗi nhục của mình lớn thế nào khi đất nước mình lọt vào tay Trung cộng. Lúc đó, họ mới có cảm nghĩ và thái độ “không thể ngồi yên” như nhạc sĩ Việt Khang:

“Tôi không thể ngồi yên khi nước Việt Nam đang ngả nghiêng,

Dân tộc tôi sắp phải đắm chìm, một ngàn năm hay triền miên tăm tối!

“Tôi không thể ngồi yên, để đời sau cháu con tôi làm người!

Cội nguồn ở đâu, khi thế giới này đã không còn Việt Nam?”

Lúc ấy họ mới thấy tội ác của CSVN “tày trời” như thế nào khi hiện nay CSVN đang sẵn sàng làm công cụ cho Trung cộng, đồng lõa, tiếp tay giúp Trung cộng xâm lược và thôn tính Việt Nam.

Do đó, chuyện cần thiết phải làm cho kịp thời hiện nay là phải “thoát Sợ” để có thể “thoát Cộng” hầu có thể “thoát Trung”!

Một trong những khẩu ngôn rất giá trị nói lên bí quyết để “thoát Cộng” là: “Đừng sợ những gì cộng sản làm, hãy làm những gì cộng sản sợ”. Khẩu ngôn này gồm hai vế “Đừng sợ” và “Hãy làm”. “Đừng sợ” là nội dung chính của cả bài này. Còn “Hãy làm” thì chúng ta cần xác định xem cộng sản sợ gì nhất. Thưa: điều cộng sản sợ nhất hiện nay, chính là sợ người dân không còn sợ khủng bố nữa, nghĩa là CSVN rất sợ chính sách khủng bố của mình bị vô hiệu hóa, không còn hữu hiệu hay tác dụng nữa. Cộng sản tồn tại được là nhờ người dân sợ khủng bố. Khi người dân không còn sợ khủng bố nữa, thì đó là lúc nỗi sợ hãi sẽ quay ngược trở lại để trở thành nỗi kinh hoàng cho chính kẻ khủng bố. Và đó là lúc chính thức báo hiệu “hết thời” cho cả một chế độ phi nhân tàn bạo.

Houston, ngày 11-7-2014

Nguyễn Chính Kết

danlambaovn.blogspot.com

___________________________________

Chú thích:

[1] Xem Kinh thánh, Mátthêu 10,28.

[2] Xem bài “Phương Nam Ðỗ Nam Hải: Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách”:

(http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/PhuongNamDoNamHaiIAmReadyToGoToJail_Khanh-20070522.html)

[3] Xem bài “Cuộc biểu tình 2/6/2013: 5. Chúng tôi nằm xuống để dân tộc này đứng lên”

(http://nguyentuongthuy2012.wordpress.com/2013/06/06/cuoc-bieu-tinh-262013-5-chung-toi-nam-xuong-de-dan-toc-nay-dung-len-2/)

[4] Xem bài “Tầm vóc các cuộc nổi dậy của nhân dân Bắc Phi: chống tham nhũng, chống độc tài hay gì nữa?”

(http://boxitvn.blogspot.com/2011/03/tam-voc-cac-cuoc-noi-day-cua-nhan-dan.html)

[5] “Je me fichais de ce que les autorités allaient me faire. J’étais prêt à aller en prison le temps qu’il fallait pour faire reconnaître la vérité”

(http://en.glosbe.com/fr/en/aller%20en%20prison)

[6] Khi nghe Voltaire nói như thế, có người bèn dẫn một con sói đến trước mặt Voltaire và nói: “Thưa ông đây là một con cừu.” Voltaire lắc đầu nói: “Đó không phài là con cừu. Đó là con sói. Nhưng tôi sẵn sàng chết để bảo vệ quyền anh được nói rằng đó là một con cừu” (xem

http://daohieu.wordpress.com/2013/03/19/nhat-ky-dan-den/)

[7] Nghe và xem “Xin đời một nụ cười@

(https://www.youtube.com/watch?v=gOcDy4yeuFs; http://lyric.tkaraoke.com/23448/Xin_Doi_Mot_Nu_Cuoi.html)

 

Trung Quốc và Hoa Kỳ nghĩ gì về nhau?

Trung Quốc và Hoa Kỳ nghĩ gì về nhau?
July 05, 2014

Nguoi-viet.com

Wolfgang Hirn

Họ rất thích học đại học ở Hoa Kỳ, họ xem phim từ Hollywood và nghe nhạc từ New York, họ theo dõi các cầu thủ NBA trên truyền hình, và họ uống latte macchiatos đắt tiền trong một của những quán cà phê Starbucks mà hiện nay có tại gần như mỗi một ngã tư trong các thành phố lớn Trung Quốc.

Nhìn sự hâm mộ của người Trung Quốc đối với văn hóa và tiểu văn hóa Mỹ, người ta có thể cho rằng người Trung Quốc có một mối quan hệ thoải mái với người Mỹ.

 

Thế nhưng mối quan hệ của Trung Quốc với Hoa Kỳ là một mối quan hệ mâu thuẫn. Nó là một tình yêu-căm thù. Một mặt, nhiều người Trung Quốc ngưỡng mộ tính sáng tạo và lực cải mới – tuy là đang giảm dần – của người Mỹ, mặt khác, Hoa Kỳ đối với họ là địch thủ lớn tầm chiến lược, người mà theo ý họ đang tìm mọi cách để không cho Trung Quốc trở nên hùng cường. Vì vậy mà trong truyền thông nhà nước, nhưng cả trên nhiều trang mạng cá nhân, Hoa Kỳ được xem như là một mối đe dọa.

“Sự ngờ vực tầm mang tính chiến lược của Trung Quốc đối với Hoa Kỳ có cội rễ rất sâu xa và trong những năm vừa qua dường như còn sâu thêm nữa”, hai nhà chính trị học Kenneth Lieberthal (Hoa Kỳ) và Vương Tập Tư (Trung Quốc) viết chung trong một bài báo.

Nó tất nhiên là một sự ngờ vực lẫn nhau. Cả người Mỹ cũng có khó khăn với người Trung Quốc và trước hết là quy cho họ tất cả mọi điều xấu có thể nghĩ ra được: người Trung Quốc cướp việc làm của họ, đánh cắp công nghệ của họ và dự định tiến hành một cuộc chiến tranh mạng chống lại họ. Tất cả những nỗi lo sợ không rõ nét này đã nổi lên trong lần tranh cử của năm vừa rồi, khi cả Mitt Romney lẫn Barack Obama luôn với tới công cụ China-Bashing [Đánh Trung Quốc].

Cũng như ở Trung Quốc, mối quan hệ với Trung Quốc ở Hoa Kỳ cũng mâu thuẫn. Một mặt, người ta nhìn những thành công hết sức nhanh chóng của Trung Quốc về mặt kinh tế với một sự ngưỡng mộ nào đó, mặt khác, người ta khinh thường hệ thống chính trị độc tài. Đặc biệt giới tinh hoa Mỷ rất chia rẽ trong câu hỏi đất nước của họ phải đối xử như thế nào với Trung Quốc phi dân chủ đang hùng mạnh lên. Hố chia cắt sâu nhất là trong giới trí thức Mỹ, nơi có hai phái đứng đối diện với nhau mà không thể hòa giải được – dragon slayer và panda hugger – hay theo một cách phân chia phổ biến khác – blue team chống red team.

Thuộc đội đỏ, những người hiểu Trung Quốc, ngoài những người khác là cựu Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Henry Kissinger, hai nhà trí thức Kenneth Lieberthal và John Thornton của Brookings, Charles Freeman (Center for Strategic and International Studies, CSIS) và các đại diện của U.S.-China Bunisess Council. Đứng trong đội xanh đối nghịch là cựu sếp Ngân hàng Thế giới Paul Wolfowitz, nhà báo Bill Gertz của Washington Times cũng như giáo sư kinh tế và tác giả (Death by China) Peter Navarro.

Hai phái tiến hành những cuộc tranh luận gay gắt. Đó một phần là những cuộc thảo luận mang nhiều xúc cảm. Nhưng cuối cùng thì cũng là việc hết sức quan trọng. Đó là câu hỏi liệu Hoa Kỳ có vẫn còn là nhà hoạt động toàn cầu quyết định tất cả mọi việc hay sẽ mất vai trò dẫn đầu về tay Trung Quốc.

Khán giả Mỹ theo dõi cuộc đấu tay đôi này như thế nào, thiện cảm của họ nằm ở đâu? Dường như đa số họ ủng hộ cho đội xanh. Vì theo một khảo sát của Gallup, Trung Quốc được xem như là kẻ thù lớn thứ nhì của đất nước. Chỉ về Bắc Triều Tiên là người Mỹ có một ý kiến xấu hơn vậy.

Phan Ba trích dịch từ “Der nächste Kalte Krieg: China gegen den Westen”

 

Báo CSVN ca ngợi cách VNCH ‘thực thi chủ quyền biển đảo’

Báo CSVN ca ngợi cách VNCH ‘thực thi chủ quyền biển đảo’
July 10, 2014

Nguoi-viet.com


HÀ NỘI 10-7 (NV) –
Tờ Tiền Phong , báo của Trung Ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh hôm Thứ Năm có một bài nghiên cứu với tựa đề “Cách Việt Nam Cộng hòa thực thi chủ quyền biển đảo”.

Trang báo có bài nghiên cứu về “Cách Việt Nam Cộng hòa thực thi chủ quyền biển đảo” trên tờ Tiền Phong ngày 10-7-2014. (Hình: NV cắt lại từ báo mạng Tiền Phong)

Từ trước tới giờ và nhất là trước kia, CSVN vẫn dùng nhiều thứ từ ngữ sỉ nhục chính thể miền Nam Việt Nam “chỉ là tay sai đế quốc Mỹ, tiếp tay đế quốc Mỹ đẩy nhân dân miền Nam  vào vòng nô lệ, đói khổ lầm than.” Danh hiệu “Việt Nam Cộng Hòa” suốt nhiều chục năm trời là cái đại kỵ trên hệ thống truyền thông của chế độ.

Mãi tới thời gian rất gần đây, khi cuộc tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày càng gay gắt và khó khăn về tất cả mọi mặt, Hà Nội nới lỏng dần dần với cả cách gọi thể chế miền Nam.

Trong bài viết khảo cứu ngày 10 Tháng Bảy của tờ Tiền Phong, tác giả Trần Nguyễn Anh viết về ngư nghiệp, các nghiên cứu, khảo sát tiến đến khai dầu khí, và các quy định của chính phủ VNCH cho các vùng đặc quyền kinh tế trên biển, vấn đề chủ quyền gắn liền với an ninh, kinh tế biển, gồm cả khu vực các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Về ngư nghiệp của VNCH, tác giả bài viết thuật lời ông Nguyễn Hồng Cẩn so sánh sự phát đạt của ngư nghiệp ở miền nam trước 1975, xuất cảng số lượng lớn thủy sản trong khi ở miền Bắc dưới chế độ Cộng Sản gần như chẳng có gì đáng nói.

Tác giả viết rằng: “Không ai hiểu rõ ngành cá của VNCH hơn chính các đồng nghiệp ở miền Bắc. Nguyên thứ trưởng Bộ Thủy sản, ông Nguyễn Hồng Cẩn, người tiếp quản ngành thủy sản miền Nam sau khi đất nước thống nhất và là thứ trưởng phụ trách phía Nam. Ông kể với tôi rằng khi vào Nam ông thực sự bất ngờ vì hệ thống cơ sở hạ tầng như tàu thuyền, nhà máy, thị trường tại đây. Ông nói: ‘Trong kháng chiến ở miền Bắc chỉ mong ước một năm xuất được $100,000 thủy, hải sản nhưng không bao giờ được. Trong khi đó ở miền Nam năm 1960 họ đã xuất khẩu được $21 triệu rồi.’”

Ông Trần Nguyễn Anh dẫn ra tài liệu của VNCH viết rằng: “Năm 1970, miền Nam có 317,442 ngư dân và 85,000 tàu thuyền, trong đó 42,603 tàu có động cơ và 42,612 thuyền không động cơ. 269 thôn và 700 ấp chuyên về ngư nghiệp. 75 Hợp tác xã ngư nghiệp. 200 tàu hộ tống ngư dân. Xây dựng hệ thống hải cảng: Cảng Sài Gòn được đầu tư $11 triệu, Đà Nẵng $1 triệu, Cần Thơ $10 triệu. Xuất khẩu ngư nghiệp $300 triệu, trong khi các sản phẩm còn lại như trà, lạc, cùi dừa… chỉ $158 triệu.”

Đó là nhờ vào chính sách bảo vệ chủ quyền biển đảo của chính quyền VNCH. Tài liệu của chính quyền VNCH được tác giả bài viết trên Tiền Phong cho biết: “Năm 1959, hải quân Việt Nam đã bắt được 40 ghe đánh cá Trung Quốc đưa về Đà Nẵng lưu giữ 6 tháng,” đồng thời cho biết: “Hãng phân bón Việt Nam được thành lập và chính thức hoạt động từ Tháng Tư, 1959, khai thác được 20,000 tấn phốt phát tại Hoàng Sa, rồi bỏ dở từ năm 1960 do thời tiết và vận chuyển khó khăn.”

“Trong lĩnh vực đánh cá, ngày 26 Tháng Mười Hai, 1972, tổng thống VNCH ban hành sắc luật quy định lãnh hải Việt Nam về phương diện ngư nghiệp có một chiều rộng là 50 hải lý, tính từ hải phận quốc gia trở ra. Trong vùng này cấm các loại ghe tàu, thuyền bè ngoại quốc đến đánh cá, khai thác hoặc mua bán hải sản, trừ khi có giấy phép trước của chính phủ.”

Về vấn đề dầu khí, tác giả bài khảo cứu viết lại rằng: “Theo số liệu thì vào Tháng Tám, 1973 chính phủ VNCH đã cấp quyền đặc nhượng tìm kiếm trên 8 lô với tổng số diện tích là 57,223km2 cho 4 nhóm công ty Pecten, Mobil, Esso và Sunningdale. Trong đợt này các công ty đã trả cho chính phủ một số tiền hoa hồng chữ ký là $16.6 triệu và cam kết một số tiền đầu tư trong 5 năm tổng cộng là $59.25 triệu. Ngoài ra các công ty còn dành một số tiền tổng cộng $300,000 mỗi năm cho việc huấn luyện chuyên viên kỹ thuật ngành dầu hỏa.”

“Tháng Sáu, 1974, chính phủ VNCH lại cấp thêm 5 quyền đặc nhượng tìm kiếm dầu mỏ thêm 5 lô với tổng diện tích 24,380km2 cho 4 tổ hợp là Mobil, Pecten, Union và Marathon. Trong đợt này các công ty cũng trả cho chính phủ VNCH hoa hồng chữ ký là $29.1 triệu và cam kết đầu tư trong 5 năm là $44.5 triệu.”

“Các thông cáo cho thấy hoạt động đào giếng bắt đầu vào ngày 17 Tháng Tám, 1974 với giếng thăm dò Hồng I-X, giếng dầu đầu tiên được đào trong thềm lục địa Việt Nam do công ty Pecten thực hiện. “Kết quả đã tìm thấy dầu ở độ sâu 5,320 feet. Tiếp theo đó là việc đào giếng dầu Dừa I-X với sự phát hiện ra dầu và khí thiên nhiên.”

“Khảo sát các điều khoản trong hợp đồng đặc nhượng của VNCH, chúng ta thấy nó được dựa trên thông lệ quốc tế, tuy nhiên luôn nhấn mạnh đến lợi ích của Việt Nam cũng như quyền chủ động trong khai thác, vận hành.” (TN)

 

Làn gió mới lướt qua Xã hội dân sự VN

Làn gió mới lướt qua Xã hội dân sự VN

Tiến sĩ Phạm Chí Dũng

Gửi cho BBC từ Sài Gòn

Thứ năm, 10 tháng 7, 2014

Nguyễn Tiến Trung nay đã được trả tự do

Những người bạn trẻ mới ra tù như Nguyễn Tiến Trung và Đỗ Thị Minh Hạnh đều thốt lên với gương mặt rạng rỡ đến ngỡ ngàng “Thật không thể tin nổi!”.

Những ráng xuân bị lặng dập trong chốn lao tù cũng là những mùa xuân nở hoa ngoài đời. Sau vài ba năm nằm trong phòng giam kín mít và bị cô lập tuyệt đối với thế giới bên ngoài, người cựu tù nhân lương tâm bước ra cửa trại giam và không thể tin vào mắt mình khi chứng kiến những vòng tay chan chứa rộng mở.

Khác vô cùng những năm trước, giờ đây không một cựu tù nhân lương tâm nào bị cô độc ở Việt Nam. Mối tình đang nở hoa trong lòng họ chính là xã hội dân sự.

Hoài niệm

Hãy hoài niệm.

Từ cuối năm 2012 trở về trước, chưa từng có khung cảnh ấm áp ân tình của số đông những người cùng cảnh và cả những người chưa có cơ hội rơi vào cảnh ngộ tù đày vì bất đồng chính kiến.

Cho đến tháng Chạp năm 2012, luật sư Công giáo Lê Quốc Quân còn bị bắt giam và sau đó bị xử án với tội danh trốn thuế, dù tất cả đều biết rõ anh chính là một cái gai nhọn chống Trung Quốc. Cũng vào thời điểm đó, cuộc đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ bị phía Hoa Kỳ đình hoãn vô thời hạn do “thành tích nhân quyền thụt lùi sâu sắc” của Hà Nội. Bầu không khí khi đó ngột ngạt, u ám và đầy đe dọa.

Còn giờ đây, mùa xuân của xã hội dân sự dường như đang bắt đầu tỏa nắng. Gần hai chục tổ chức dân sự độc lập từ Bắc vào Nam. Vào tháng 5/2014, lần đầu tiên 16 hội đoàn dân sự độc lập ngồi sát bên nhau trong một tinh thần thống nhất rất cao về chủ đề cần kíp phải xây dựng tổ chức công đoàn độc lập.

“Có thể so sánh giai đoạn này ở Việt Nam với thời kỳ bắt đầu xuất hiện Công đoàn đoàn kết ở Ba Lan vào những năm 70…”

Rõ là xã hội dân sự ở Việt Nam đang hình thành những tiền đề của nó. Một cách nào đó, có thể so sánh giai đoạn này ở Việt Nam với thời kỳ bắt đầu xuất hiện Công đoàn đoàn kết ở Ba Lan vào những năm 70, hay phong trào “Hiến chương 77” ở Tiệp Khắc cuối thập kỷ 70, và cuối cùng là con sóng dập dồn ở Liên bang Xô viết với phong trào dân chủ của Viện sĩ Sakharov – người từng hai lần giành giải thưởng Lenin – vào những năm cuối của thập kỷ 80 của thế kỷ 20.

Còn ở Việt Nam, nếu có thể nói về một phong trào dân sự quy tụ tương rộng rãi sự tham gia của các thành phần trong và ngoài nước thì đó chính là Phong trào “Kiến nghị 72” của giới nhân sĩ, trí thức vào đầu năm 2013. Vượt hẳn những biểu hiện cá lẻ của những năm trước, phong trào này đã tập hợp được gần 15.000 chữ ký trên mạng về những vấn đề động trời trong bối cảnh còn nguyên thể chế độc đảng ở Việt Nam, như yêu cầu hủy bỏ điều 4 hiến pháp, quân đội chỉ trung thành với Tổ quốc chứ không phải với đảng…

Mọi chuyện đều có logic diễn biến từ quần thể xã hội sang tâm lý cá nhân. Thật đáng ngạc nhiên, nhưng lại không quá khó hiểu khi một cựu cán bộ tuyên giáo như ông Vi Đức Hồi lại rắn rỏi đến thế ngay sau khi ra tù vào đầu năm 2014. Tâm trạng lạc quan phơi phới ở con người này ngay lập tức làm cho người tiếp xúc hiểu rằng điều luật 88 về “tuyên truyền chống nhà nước” cùng những năm tháng đếm lịch đã chỉ khiến trong ông hun đúc hơn đức tin tìm đến sự thật. Ít nhất, sự thật đó là hình ảnh Hội cựu tù nhân lương tâm Việt Nam đã sẵn lòng đón chờ ông bên ngoài, cánh cửa rỉ sét của trại giam, thay cho khuôn mặt nhàu nát của thể chế cầm quyền.

Không phải cổ tích

Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam thành lập hôm 4/7

Thực ra, câu chuyện đơm hoa kết trái của xã hội dân sự không phải là cổ tích.

Vào tháng 8/2013, lần đầu tiên đã diễn ra một sự kiện làm cho giới đấu tranh dân chủ nhân quyền trong nước và hải ngoại phải bật lên vì kinh ngạc: nữ sinh Phương Uyên được trả tự do ngay tại tòa Long An vào buổi chiều phiên xử phúc thẩm, trong khi vào buổi sáng chính quyền và công an sở tại vẫn còn say sưa trấn áp những người biểu tình đòi trả tự do cho cô. Thật quá ít người có thể tin rằng mức án sơ thẩm đến 6 năm dành cho Phương Uyên lại có thể ra đi nhẹ bẫng đến thế.

Chỉ đến đầu năm 2014, một thông tin mới rò rỉ qua kênh ngoại giao đã lý giải cho câu chuyện lẽ ra đáng gọi là cổ tích trên: Phương Uyên nằm trong danh sách 5 tù nhân chính trị mà phía Hoa Kỳ đề nghị chính quyền Việt Nam thả. Vào thời điểm yêu cầu này được Washington nêu ra, Hà Nội lại quá sốt sắng săn tìm một cái ghế trong Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc cùng một chỗ ngồi trong Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Mọi chuyện trên đời đều có cái giá riêng của nó. Để có được ít giây phút hàn huyên với nhau như giờ đây, xã hội dân sự đã phải câm lặng quá nhiều năm. Nhưng đến lượt giới cầm quyền Việt Nam, họ lại phải trả một cái giá tối thiểu khi ít nhất phải tự hạ thấp thể diện trong con mắt cộng đồng quốc tế. Chính sách thả tù nhân lương tâm cũng vì thế đã bắt đầu có hiệu lực một cách vô cùng kín đáo.

Liên tiếp trong hai tháng Hai và Ba năm 2014, 5 tù nhân lương tâm là Đinh Đăng Định, Nguyễn Hữu Cầu, Vi Đức Hồi, Cù Huy Hà Vũ và Nguyễn Tiến Trung đã tạo nên một sự kiện thả người chưa từng có tiền lệ trong lịch sử chế độ cầm quyền ở Việt Nam từ năm 1975. Trước đó một chút, Văn đoàn độc lập Việt Nam và Hội cựu tù nhân lương tâm Việt Nam đã gần như đồng loạt ra đời. Một hội đoàn khác là Hội nhà báo độc lập Việt Nam cũng bắt đầu được bàn tới.

“Chính vào lúc này, giới dân chủ nhân quyền và cả những người quan tâm đến vận mạng chính trị nước nhà lại có thể cảm nhận về một giai đoạn mới có thể đang hình thành. “

Hẳn là chuyến viếng thăm Hà Nội vào tháng 2/2014 của nữ thứ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ Wendy Sherman đã không hoài phí. Tiếp theo lời hứa hẹn “sẽ giúp đỡ” của Ngoại trưởng John Kerry cũng tại Hà Nội vào tháng 12/2013, bà Sherman thậm chí còn biểu cảm lãng mạn với nhận xét “Xã hội dân sự là một trong những điểm thú vị nhất trong quan hệ giữa hai quốc gia”.

Mọi chuyện quả là khá thú vị, thú vị cho đến khi một trong những nhà hoạt động công đoàn độc lập đầu tiên ở Việt Nam là Đỗ Thị Minh Hạnh đã được đặc cách phóng thích trước thời hạn thụ án tù giam đến gần ba năm. Và cũng không có bất kỳ một điều kiện nào được chính quyền kèm theo. Hay nói cách khác, mọi điều kiện đều bị Minh Hạnh bác bỏ.

Chính vào lúc này, giới dân chủ nhân quyền và cả những người quan tâm đến vận mạng chính trị nước nhà lại có thể cảm nhận về một giai đoạn mới có thể đang hình thành. Có thể một lần nữa sau thời điểm tháng 7/2013 với cuộc tái giao thoa Việt – Mỹ tại Nhà Trắng, xã hội dân sự có cơ hội để nở hoa.

Một làn gió mới của mùa xuân đang mơn man trên mái đầu non trẻ của xã hội dân sự. Vào đúng ngày kỷ niệm Bản tuyên ngôn độc lập Hợp chủng quốc Hoa Kỳ 1776, Hội nhà báo độc lập ra đời.

Chẳng cần nhìn đâu xa xôi và cũng chẳng nên chờ đợi thêm một kích thích tố mới mẻ hơn, đã đến lúc có thể bàn về câu chuyện Công đoàn độc lập và Hội luật gia độc lập tại Việt Nam; và làm thế nào để xã hội dân sự Việt Nam thượng tôn một tinh thần độc lập dân tộc, lồng trong thời buổi phải dấy lên chút ý chí chống ngoại xâm còn sót lại, cho hiện tồn và cho cả những năm tháng mai sau.

Đứa con ngỗ nghịch và đứa con hoang, ai hơn ai?

Đứa con ngỗ nghịch và đứa con hoang, ai hơn ai?

Bình luận của GS Nguyễn Đăng Hưng

Cứ nghĩ Triều Tiên điên rồ cam phận chạy theo chủ nghĩa viễn vông làm tay sai cho Trung Cộng. Triều Tiên hiếu chiến, chỉ lo súng đạn khí giới hạch nhân, hoả tiễn công phá… Các hành động, chủ trương của chính quyền Triều Tiên những năm gần đây chỉ rõ sự xác đáng của những nhận định trên. Bởi vậy, đề xuất mới đây (http://www.kcna.co.jp/top-eng.html) của Triều Tiên thật bất ngờ!

Triều Tiên đã trở thành đứa con ngỗ nghịch!

Tuy nhiên, đối với những ai am tường địa chính trị, việc này đã có chuẩn bị từ một năm nay. Từ khi ông Kim Jong Un trẻ măng lên cầm quyền, ông ta đã tiêu diệt một cách khốc liệt nhóm thân Tàu đại diện không ai khác là cậu mình – ông Jang Song Thaek – một “nguyên lão công thần”, cánh tay phải của cố chủ tịch Kim Jong Il. Chính đám này là nhóm lợi ích, mấy chục năm nay đã bán rẻ tài nguyên thiên nhiên Triều Tiên cho Trung Cộng.

Ông Kim Jong Un đã chuẩn bị cho một sự xoay trục ngoạn mục!

Cứ tưởng Triều Tiên sẽ là nước cuối cùng ý thức được nguy cơ bá quyền Đại Hán, nhưng không, Triều Tiên đang đi trước một nước khác! Sao thấy có gì tương tự ở đâu đây? Một nước mà ngay cả khi giàn khoan của Tàu ô nghịch tặc ngang nhiên xâm phạm hải phận của mình, đâm vỡ tàu kiểm ngư của mình, bắt bớ hành hạ dân mình mà lãnh đạo gần như chưa tỉnh hẳn… Một nước mà lãnh đạo còn đặt quyền lợi phe phái mình lên trên quyền lợi quốc gia dân tộc, một nước mà bọn Tàu ô đã khinh bỉ ra mặt tặng cho danh hiệu là đứa con hoang, mà tỉnh Quảng Đông của chúng dám ra lịnh cho lãnh đạo thủ đô, lãnh đạo thành phố kinh kế lớn nhất phải nhanh chóng gởi cán bộ sang học tập nhận lịnh từ chúng… Ôi nỗi nhục này nước biển Đông Nam Á làm sao rửa cho sạch hỡi trời?! Nước đó là nước nào? Mọi chuyện nay sáng như ban ngày…

Sài Gòn ngày 8/7/2014

N.Đ.H.

Nếu Đảng Cộng sản TQ không còn?

Nếu Đảng Cộng sản TQ không còn?

Nhà thơ Trần Tiến Dũng

Gửi cho BBC từ Sài Gòn

Thứ tư, 9 tháng 7, 2014

Vụ giàn khoan Hải Dương 981 thể hiện sự mạnh hay yếu của Trung Quốc?

Chỉ trong hơn nửa năm 2014, hàng loạt các diễn biến khủng hoảng gần đây ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á cho thấy chiến tranh tất yếu sẽ đến.

Động lực tham vọng tạo ra khủng hoảng, thúc đẩy tiến trình chiến tranh đều có đầu nguồn từ đệ nhị siêu cường Trung Quốc.

Qua thực hiện chiến lược cứng “Giấc mơ Trung Quốc”, việc đầu tiên của ông Tập Cận Bình và giới cầm quyền Trung Nam Hải là thay đổi nguyên trạng cân bằng chiến lược đã tồn tại trước những cửa ngõ sinh tồn của Trung Quốc.

Tranh chấp

Trung Quốc muốn đoạt cửa ngõ sinh tồn và khu vực tranh chấp sinh lợi bằng quyền lực cứng, ngay trong một thời đại mà quyền lực mềm tỏ ra hiệu quả hơn bao giờ hết.

Nước Mỹ và Khối EU dù chưa áp dụng tổng lực quyền lực mềm, nhưng qua sự kiện nước Nga sáp nhập Crimea của Ukraine, chỉ cần sử dụng quyền lực mềm có giới hạn, họ cũng đã làm nguội những cái đầu nóng ở điện Kremli

Với tốc độ và chất lượng từ các cổng thông tin điện tử toàn cầu như hiện nay, có thể nói công dân của từng quốc gia đều có cơ sở thông tin để trở thành nhà bình luận chính trị, quân sự có tầm cỡ.

Một trong những nhận định đáng chú ý nhất tại thời điểm này là Trung Quốc không chỉ đang bị bao vây, cô lập bởi những cánh cửa tự vệ từ các nước láng giềng.

Thực ra, Bắc Kinh đang chống chọi quyết liệt trước tiến trình sụp đổ.

Có nhận định cho rằng, Trung Quốc quyết không rút giàn khoan đang xâm lăng chủ quyền biển của Việt Nam, chính là một trong những bước sửa sai chiến lược cứng.

Và nếu cả khi họ thỏa hiệp để rút giàn khoan thì cũng thuộc sách lược toàn cục nhằm giữ cho Bắc Kinh phần nào đó khỏi thế cô lập để chống chọi, cầm cự giảm thiểu tốc độ tiến trình tan rã.

Mầm mống phát sinh tiến trình sụp đổ của Trung Quốc thuộc về những vấn đề bệnh lý nội tại toàn diện của chính quyền Bắc Kinh và xã hội của Trung Quốc.

 

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình muốn khôi phục ‘Giấc mơ Trung Quốc’

Nhưng chính sự nôn nóng, quá chủ quan thể hiện chiến lược cứng để thực hiện tham vọng “Giấc mơ Trung Quốc”, cụ thể là kéo giàn khoan cùng binh đoàn giàn khoan hùng hậu xuống biển nam đã làm bít cửa sinh tồn của chính họ.

Nếu Bắc Kinh sụp đổ?

Diễn biến chuyện Bắc Kinh sụp đổ cụ thể ra sao?

Có lẽ cộng đồng quốc tế và từng công dân đa quốc gia sẽ đưa những chủ kiến riêng, nhưng ngay lúc này việc xây dựng những kế hoạch dự phòng cho từng dân tộc có chung biên giới với Trung Quốc là việc hết sức thiết thực.

Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên, đồng minh lâu đời của Bắc Kinh, đã chủ động đề nghị Đại Hàn Dân Quốc hình thành một nhà nước liên bang.

Nước Nhật thông qua luật Quyền tự vệ tập thể và có những bước liên minh quân sự, an ninh chiến lược toàn diện kéo dài đến Úc, Tân Tây Lan…

Ngay cả khi chưa có vụ giàn khoan HD 981 xâm lăng chủ quyền biển Việt Nam, Miến Điện cũng đã thức tỉnh trước Trung Quốc.

Chính thể Hà Nội sẽ làm gì? Ngay cả khi Trung Quốc không tiến hành chiến tranh trên bộ với các nước láng giềng, sự sụp đổ của Bắc Kinh đồng thời sẽ có những binh đoàn hùng hậu mất chủ cùng với dân tị nạn tràn qua biên giới thì thể chế Hà Nội sẽ làm gì?

“Nếu chính thể Hà Nội hôm nay không có những quyết sách mạnh mẽ trước cận cảnh sụp đổ của Trung Quốc, thì chính sự sụp đổ của chính quyền Bắc Kinh sẽ biến thể chế Hà Nội thành bạn đồng hành.”

Dư luận cho rằng đó sẽ là cơ hội để Việt Nam thu hồi thực địa chủ quyền Hoàng Sa, Gạc Ma… và các phần đất biên giới bị cướp. Nhưng liệu cơ hội đó có trong tầm suy nghĩ và dũng khí của chính thể Hà Nội không?

Thật khó trả lời cho các tiền đề hệ trọng, như làm cách nào giữ được chủ quyền nếu bùng nổ quá trình Trung Quốc sụp đổ mà họ vẫn nhất quyết không buông Việt Nam?

Làm cách nào ngay cả khi chính quyền cộng sản Bắc Kinh mất hết thực quyền và chạy xuống phía nam nắm chắc Việt Nam? Làm cách nào khi chính thể mới lập ở Bắc Kinh để cho Việt Nam thoát Trung?

Làm cách nào mà khi Trung Quốc tan rã thành nhiều quốc gia nhỏ, trong số những quốc gia đó vẫn ngang nhiên, phi pháp tuyên bố Giàn khoan và binh đoàn giàn khoan đang thực hiện quyền khai thác trên chủ quyền lãnh hải của họ?

Trong suốt quá lịch sử, các chính thể cầm quyền Việt Nam luôn luôn sáng rõ ý thức chủ, khách, bạn, thù của dân tộc Vận mạng dân tộc hiện sinh đến ngày nay đã là minh chứng mạnh mẽ nhất cho ý thức độc lập dân tộc.

Nếu chính thể Hà Nội hôm nay không có những quyết sách mạnh mẽ trước cận cảnh sụp đổ của Trung Quốc, thì chính sự sụp đổ của chính quyền Bắc Kinh sẽ biến thể chế Hà Nội thành bạn đồng hành.

Gieo và Gặt

Gieo và Gặt

(Chúa Nhật XV TN, năm A)

Tác giả: Trầm Thiên Thu

Muốn Gặt thì phải Gieo, trước khi Gieo thì phải có Hạt Giống. Hạt giống là thứ rất quan trọng trong nông nghiệp. Hạt giống phải là những hạt giống mẩy, chắc, có màu sáng. Hầu hết các loại hạt cây lương thực đều gồm ba phần là vỏ, phôi và phôi nhũ. Vỏ có nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho hạt, không để phôi hạt bị hư hỏng, vì phôi là “sinh mệnh” của hạt, có nhiệm vụ nảy mầm để có thể trở thành cây con, còn phôi nhũ là phần chứa dưỡng chất của hạt, là phần nuôi cây con.

Hạt giống tốt mới có thể nảy mầm tốt, lớn thành cây tốt, và sinh hoa trái tốt. Chắc chắn là vậy, có lần chính Chúa Giêsu đã xác định: “Xem quả thì biết cây” (Mt 12:33; Lc 6:44). Cây tốt không thể sinh trái xấu, cây sâu không thể sinh trái ngọt. Về tinh thần cũng cần có “hạt giống tâm hồn”. Tương tự, về tâm linh rất cần “hạt giống Lời Chúa”.

QUẢ và CÂY có hệ lụy với nhau. GIEO và GẶT có hệ lụy với nhau. NÓI và NGHE cũng vậy, vì NÓI là GIEO, NGHE là GẶT. Tương tự, LÒNG và MIỆNG cũng không thể tách rời: “Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra” (Lc 6:45). Một hệ lụy tất yếu: “Vì nhờ lời nói của anh mà anh sẽ được trắng án, và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án” (Mt 12:37). Người Việt chúng ta cũng nói: “Có đầy mới tràn”.

Từ khi gieo và tới lúc gặt (thu hoạch) là một quá trình đầy gian khổ. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126:5-6). Nỗi buồn và niềm vui, đau khổ và sung sướng, nụ cười và nước mắt,… đó là các cặp tương đồng về hai trạng thái trái ngược nhau, cũng như GIEO và GẶT. Gieo là lúc vất vả, gặt là lúc tận hưởng. Thật vậy, không có niềm hạnh phúc nào mà không có ít nhiều nước mắt.

Trong quá trình Gieo và Gặt, vấn đề thời tiết cũng quan trọng. Không mưa thuận gió hòa thì con người cũng “bó tay”. Hoặc đến ngày thu hoạch, nhưng chỉ một cơn bão hoặc lũ lụt thì con người cũng đành chịu trắng tay. Điều đó cho thấy Đấng Vô Hình mới làm chủ mọi thứ, Đấng đó là Thiên Chúa. Vừa kinh ngạc vừa kinh sợ, người ta tự hỏi về Đức Giêsu Kitô: “Ông này là người thế nào mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?” (Mt 8:27; Mc 4:41; Lc 8:25).

Đức Chúa tuyên lời qua miệng ngôn sứ Isaia: “Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó” (Is 55:10-11). Thiên Chúa dùng hình ảnh rất quen thuộc, rất thực tế đời thường. Lời Chúa rất kỳ diệu, rất quan trọng trong đời sống Kitô hữu: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119:105). Không chỉ vậy, Lời Chúa còn có sức mạnh phi thường, không ai có thể cưỡng lại.

Khả dĩ cảm nghiệm Lời Chúa, tác giả Thánh Vịnh chia sẻ: “Thăm trái đất, Ngài tuôn mưa móc, cho ngập tràn phú túc giàu sang, suối trời trữ nước mênh mang, dọn đất sẵn sàng đón lúa trổ bông. Tưới từng luống, san từng mô đất, khiến dầm mưa cho hạt nẩy mầm, bốn mùa Chúa đổ hồng ân, Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi” (Tv 65:10-12). Hồng ân Thiên Chúa chan hòa như mưa móc, Lời Chúa là nguồn giải khát thiết yếu, ước gì chúng ta cũng có thể nói được như tác giả Thánh Vịnh: “Con há miệng và con hớp lấy, vì khát khao mệnh lệnh của Ngài” (Tv 119:131). Hằng ngày ai sống được như vậy thì thật hạnh phúc biết bao!

Thiên nhiên tràn ngập hình ảnh chứng tỏ quyền năng của Thiên Chúa: “Vùng hoang địa xanh rì ngọn cỏ, cảnh núi đồi hớn hở tươi xinh, chiên cừu phủ trắng đồng xanh, lúa vàng dưới lũng rung rinh dạt dào, câu hò tiếng hát trổi cao” (Tv 65:13-14). Khi nhìn ngắm thiên nhiên, người ta có thể nhận biết Thiên Chúa hiện hữu. Ngay cả những người theo chủ nghĩa vô thần cũng không thể chối bỏ Ông Trời, dù họ không muốn công khai xác nhận, vì họ không thể nào “vắt đất ra nước, thay trời làm mưa” như họ muốn.

Hằng ngày, bằng cách này hoặc cách nọ, chúng ta cũng “gieo” nhiều thứ qua ánh mắt, thái độ, cử chỉ, lời nói, hành động,… Có những thứ chúng ta có thể “gặt” ngay lúc đó, nhưng cũng có những thứ cần có thời gian. Dù lâu hay mau, trong khoảng “gieo – gặt” vẫn có một khoảng chờ đợi. Thánh Phaolô nhận xét: “Tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta. Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người” (Rm 8:18-19). Đó là khoảng chờ đợi, khoảng hy vọng, luôn rất cần có sự kiên trì. Thánh Phaolô giải thích: “Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt chịu vậy; tuy nhiên, vẫn còn niềm trông cậy là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự dovinh quang” (Rm 8:20-21).

Được giải thoát là được tự do, có tự do là có hạnh phúc. Thánh Phaolô cho biết thêm: “Cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siếtquằn quại như sắp sinh nở. Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta cũng rên siết trong lòng: chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu, nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc thân xác chúng ta nữa” (Rm 8:22-23). Đó mới là lúc thực sự được giải thoát, được thu hoạch chính những gì chúng ta đã “gieo” trong suốt cuộc đời. Ai gieo giống tốt thì bội thu, ai gieo giống xấu cũng có thu hoạch, nhưng là thu hoạch những cái xấu xa và nguy hại.

Một hôm, Đức Giêsu từ nhà ra ngồi ở ven Biển Hồ. Dân chúng tụ họp bên Ngài rất đông, nên Ngài phải xuống thuyền mà ngồi, còn tất cả dân chúng đứng trên bờ. Ngài dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều, một trong các dụ ngôn đó là “Dụ Ngôn Người Gieo Giống” (Mt 13:1-23; Mc 4:1-20; Lc 8:4-15).

Trong dụ ngôn này có bốn loại hạt: (1) Những hạt rơi xuống vệ đường, bị chim chóc ăn mất; (2) Những hạt rơi trên nơi sỏi đá, đất không nhiều, nó mọc ngay nhưng bị cháy khô khi nắng lên; (3) Những hạt rơi vào bụi gai, nó chết nghẹt vì bị gai mọc đè lên; (4) Những hạt rơi vào đất tốt nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục.

Chúa Giêsu thản nhiên nói: “Ai có tai thì nghe” (Mt 13:9). Một câu nói rất đáng để chúng ta suy nghĩ nhiều. Tại sao Đức Giêsu dùng dụ ngôn mà nói? Chúa Giêsu giải thích: “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không. Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất. Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu. Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ Isaia, rằng: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành” (Mt 13:11-15). Ung thư là dạng xơ cứng cơ phận nào đó, “chai đá” là dạng xơ cứng tâm hồn, chứng ung thư linh hồn. Cứng lòng cũng là tội xúc phạm tới Chúa Thánh Thần, thế nên không đời nào được tha (x. Mc 3:29; Lc 12:10).

Chúa Giêsu đã xác định: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe. Quả thế, Thầy bảo thật anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” (Mt 13:16-17). Chúng ta không diễm phúc như các tông đồ xưa, nhưng chúng ta lại có một mối phúc khác mà chính Chúa Giêsu đã nói: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29).

Trong các dụ ngôn, có lẽ dụ ngôn Người Gieo Giống khó hiểu nhất. Vì thế, Chúa Giêsu đã phải giải thích: “Hễ ai nghe lời rao giảng Nước Trời mà không hiểu, quỷ dữ đến cướp đi điều đã gieo trong lòng người ấy: đó là kẻ đã được gieo bên vệ đường. Còn kẻ được gieo trên nơi sỏi đá, đó là kẻ nghe Lời và liền vui vẻ đón nhận. Nhưng nó không đâm rễ mà là kẻ nhất thời: khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì Lời, nó vấp ngã ngay. Còn kẻ được gieo vào bụi gai, đó là kẻ nghe Lời, nhưng nỗi lo lắng sự đời, và bả vinh hoa phú quý bóp nghẹt, khiến Lời không sinh hoa kết quả gì. Còn kẻ được gieo trên đất tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu, tất nhiên sinh hoa kết quả và làm ra, kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục” (Mt 13:19-23). Lời giải thích của Chúa Giêsu quá chính xác và rõ ràng, chẳng cần chú thích chi nữa!

Có lẽ chúng ta chưa đến nỗi là “hạt gieo bên vệ đường”, nhưng rất có thể chúng ta là “hạt gieo nơi đá sỏi” và “hạt gieo vào bụi gai”, vì chúng ta có nhiều những nỗi sợ hãi và nỗi lo lắng. Vả lại, đôi khi chúng ta còn ảo tưởng, vì chúng ta có vẻ rất “ngoan ngoãn và hiền lành” khi ở trong nhà thờ, nhưng khi ra ngoài nhà thờ thì… “khác hẳn”, y như các ảo thuật gia có thể biến Chiên thành Cọp, thiết tưởng có lẽ chúng ta cũng nên “xem lại”. Sự thật thì vẫn hay phũ phàng thế đấy, nhưng chỉ có thuốc đắng mới “đã” tật!

Công thức là điều cần thiết, và nghi thức hoặc nghi lễ cũng vậy, vấn đề quan trọng là đừng quá câu nệ vào hình thức, chú ý số lượng mà coi thường chất lượng! Hạt giống là hạt đời, có nhiều dạng hạt lép và cũng có nhiều dạng hạt mẩy. Tính từ “mẩy” hoặc “lép” đôi khi còn do chính chúng ta gán ghép cho người khác, chứ không phải tại hạt. Chí Phèo cũng muốn sống tốt mà tại thành kiến của người đời khiến anh ta không thể “ngóc đầu” lên được. Hạt Chí Phèo muốn “mẩy” mà bị người đời làm cho “lép”. Vì thế mà có những dạng “cùi không sợ lở”. Lỗi tại ai? Lỗi tại tôi ba lần đủ chưa? Và chúng ta có thật lòng “đấm ngực” không? Ai thực sự can đảm mới có thể trả lời!

Ước gì mỗi chúng ta đều là “hạt gieo vào đất tốt” và sinh lời, nhiều hay ít cũng được, miễn sao là có sinh lời – cho chính mình và cho tha nhân.

Thánh Phaolô nói: “Ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí là sự sống đời đời. Khi làm điều thiện, chúng ta đừng nản chí, vì đến mùa chúng ta sẽ được gặt, nếu không sờn lòng” (Gl 6:7-9).

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết gieo giống tốt và trở thành những hạt giống gieo nơi đất tốt để chúng con “được hưởng tình thương Chúa và ơn cứu độ theo lời hứa của Ngài” (Tv 119:41). Xin cho chúng con được vui hưởng lòng nhân hậu của Ngài và xin củng cố việc tay chúng con làm (Tv 90:17). Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

 

Tình cứ đuổi theo người như chiếc bóng

Tình cứ đuổi theo người như chiếc bóng

Chuacưuthe.com

VRNs (09.07.2014) – Úc Đại Lợi – Suy tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ 15 mùa Thường niên năm A 13.7.2014

“Tình cứ đuổi theo người như chiếc bóng”

Người thì không bắt bóng được bao giờ.”

(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mt 13: 1-23

Tình nhà thơ, vẫn hững hờ/thờ ơ như chiếc bóng, người đeo đuổi. Tình nhà Đạo, vẫn lân-tuất ở đâu đó chốn thiên-đường, người thụ hưởng. Cuộc tình đời, người người vẫn viện-dẫn thi-ca để diễn-tả. Tình Chúa với con người, nhà Đạo xưa nay lại nhờ dụ-ngôn chuyển-tải để người nguời nhớ mà hiện-thực.

Hiện-thực Tin Mừng, thánh Mác-cô và Mát-thêu có thói quen diễn-tả bằng thể-thức dụ-ngôn để mọi người cảm-kích mà trải rộng tình thương suốt mọi thời.

Tin Mừng các thánh diễn-tả, ta như cảm-nghiệm được cả mùi cát bụi lẫn mồ hôi cùng mùi máu của các thánh tử-đạo khi xưa bị Nêrô giết hại. Tin Mừng còn diễn-tả sinh-hoạt của cộng-đoàn Rôma truyền-tụng từ thời tiên-khởi. Thánh Mác-cô, là tác-giả Tin Mừng từng suy-tư các diễn-biến thời Hội-thánh Chúa bị bách-hại, hầu hỗ-trợ, ủy-lạo cộng đoàn sống khốn-khổ, như thời Chúa.

Hôm nay, người đọc Tin Mừng lại thấy một loạt truyện kể do thánh Mát-thêu ghi, để mọi người biết sinh-hoạt cộng đoàn Hội-thánh sống vào buổi đầu. Đọc dụ-ngôn, nếu người đọc muốn biết ý của tác-giả, cũng phải tìm-hiểu kỹ đại ý nằm ở dưới truyện, rồi phải xét xem Tin Mừng muốn đưa ra điều gì gửi đến với ta và cho ta?

Suy cho kỹ, ta thấy cách viết của thánh Mát-thêu đã dựa trên cốt truyện do thánh Mác-cô viết trước nhất. Làm thế, thánh Mát-thêu mới đưa ý chính vào nội-dung rồi áp-dụng cho mỗi truyện. Nói chung thì, dụ-ngôn là lối kể truyện có lời nói lẫn ảnh-hình được diễn-tả để người đọc thấy “bí kíp” và ý nghĩa cuộc sống được các bậc thày người Do-thái sử-dụng để răn đời.

Nhiều lúc, tác-giả cũng sử-dụng câu đố hoặc ẩn-dụ thật cũng khó. Có khi, câu truyện lại giống trò chơi “ô chữ” cốt để người đọc đoán ý-nghĩa mỗi câu sao cho phù-hợp với lời kể. Nói tóm lại, tất cả là kiểu nói và kể cốt đòi người đọc phải bỏ giờ ra mà suy-tư cho thật kỹ, mới hiểu được.

Thánh Mác-cô là thánh-sử đầu tiên viết Tin Mừng, từng áp-dụng phương-cách này hầu diễn-bày Lời Chúa về các sự-việc tiêu-biểu. Chẳng hạn, khi Chúa nói: “Hãy trở thành hư không/trống rỗng đến độ anh em không còn giữ thứ gì trong mình”. Hoặc đoạn khác, Ngài lại bảo: “Thày ra đi một nơi mà anh em không thể tìm đến được!” Dĩ nhiên, những người nghe Ngài nói, đều không thể hiểu ý Ngài muốn diễn-tả. Thế nên, người bộc-trực như thánh Phêrô đã phải ra mặt phản-đối, nên mới làm phật ý Thày.

Thánh Mát-thêu thì lại khác. Là người sinh sau đẻ muộn những hai thập-niên sau tác-giả Mác-cô, thánh Mát-thêu biết ý của vị tiền-nhiệm và hiểu rõ mục-đích viết dụ-ngôn, hơn ai hết. Thế nhưng, thánh-nhân lại không theo khuôn-phép người đi trước vẫn làm, mà lại đã chỉnh-sửa cốt truyện cũng như ảnh-hình nằm trong đó. Là nhân-sĩ cao niên nhiều kinh-nghiệm, thánh Mát-thêu thêm vào đó cả sự khôn-ngoan lẫn thể-loại khác-biệt vào truyện hầu giúp người đọc hiểu dễ hơn.

Nơi dụ-ngôn người gieo giống, thánh Mát-thêu kể rõ từng loại đất trại, hầu nói lên một hình-thái thế-giới của mình, trong đó có Chúa gieo-vãi hạt giống màu-mỡ để nó dồi-dào, phong-phú hơn. Thánh-nhân còn kể rõ về “cỏ lùng” là loại cỏ dại mọc chen với lúa, vào độ gặt. Thành thử, ý của thánh-nhân muốn căn-dặn người Do-thái hãy kiên-nhẫn với cỏ dại kẻo làm hại vụ mùa đang tươi tốt.

Ở đoạn khác, thánh-nhân lấy ví-dụ về hạt cải tuy nhỏ nhưng vẫn trở-thành thứ gì đó quan-trọng hơn nhiều thứ khác, nếu nhận ra được thứ gì quí giá như viên ngọc quý nằm ẩn trong trai sò ốc hến. Thế nên, đừng loại bỏ thứ gì quí giá ẩn-tàng trong lớp vỏ xù xì, cũ kỹ. Cũng hệt thế, dân chài nào nhiều kinh-nghiệm thường sử-dụng “lưới cào” mắt nhỏ mới bắt được nhiều thứ có giá trị. Kể dụ-ngôn thông-thường, thánh Mát-thêu vẫn đặt vào đó tâm-hồn cao sang, hiền-dịu nên đã đánh động rất nhiều người.

Nói cách khác, thánh Mát-thêu ghi-chép lại rất nhiều điều, từ nội-dung truyện kể do thánh Mác-cô viết trước, và rồi đưa vào đó phong-thái tư-riêng của chính ngài. Thế nên, về người nhỏ bé kể ở dụ-ngôn, thánh-nhân biết họ không thể nắm bắt tại chỗ sứ-điệp thập-giá, cái chết hoặc việc Ngài ra đi về nơi không ai hay biết. Thánh Mát-thêu biết Đức Giêsu đã làm thế và Ngài đã lấy đi khỏi nơi ta nhu-cầu cấp-thiết sống trọn vẹn, đến như thế.

Thánh Mát-thêu cũng đã thấy nơi sự việc Chúa sống lại, là một chúc lành cho mọi đường-lối thông-thường ta vẫn theo. Thánh-nhân còn muốn dạy cho ta biết cách thấy và hiểu rằng ta được biết bao ơn lành từ Đức Giêsu và Thiên Chúa, nên từ đó mới có thể cảm kích biết ơn Ngài cho đủ.

Các dụ-ngôn do thánh Mát-thêu kể, lại vẫn là truyện kể rất hay và rất đẹp từng bộc-lộ “bí kíp” và “bí mật” của cuộc sống thường nhật, ta vẫn sống. Điều bí mật, nằm ở chỗ: cuộc sống của ta có Chúa cùng sống lại đẹp đẽ biết bao. Thiên Chúa rất thích điều đó. Và, thánh Mát-thêu đạt được cung-cách kể truyện dụ-ngôn qua việc tập-trung nơi những người bé nhỏ, trong đời thường.

Sống đời thường, đối với những người bé nhỏ, đòi hỏi phải theo cung-cách bình-thuờng là như thế. Thánh Mát-thêu lại đã khám-phá ra tính thực-tại của Mầu nhiệm Nhập Thể. Chúa không cần nền thần-học đầy khoa-bảng hoặc phương-án hùng-biện đầy kích-bốc để làm những việc Ngài muốn làm. Nhưng, Ngài lại chọn “lối sống bình thường” rất thông thường ở đời, cho mọi người.

Thánh Mát-thêu lại cũng tự thúc-bách chính mình để nói lên sự phong phú nơi quà-tặng Chúa ban cho con người, đẹp dường bao. Thánh-nhân tập-trung ý-nghĩa và hình-ảnh của sự phong-phú ấy nơi “đất màu-mỡ”, chí ít là dụ-ngôn truyện kể về đất đai, gieo vãi hạt giống tốt. Hạt giống gặp đất tốt tươi màu mỡ sẽ cho ra 30, 60 và cả đến trăm lần hơn ta kỳ-vọng hoặc trông ngóng nữa.

Thánh-sử Mát-thêu không chỉ nói về mùa gặt nơi mảnh ruộng. Ông còn nói về các giá-trị đang tăng-trưởng bên trong chúng ta khi ta sống vui tươi cảm kích thì sẽ biết được chiều sâu và các sự việc tốt đẹp trong đời người.

Người người thường vẫn ưa thích lắng nghe Lời của Chúa cả trong những sự việc nhỏ bé và hiểu được chúng rất rõ. Đó, còn là lời lẽ sử dụng trong Tin Mừng, đặc biệt là Tin Mừng theo thánh Luca và Mát-thêu khi các thánh-sử đề cập đến Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Mẹ được diễn-tả là Đấng được chúc phúc hơn các phụ-nữ khác vì Mẹ biết nghe Lời Chúa, hiểu ý-nghĩa Lời Ngài và còn giữ kỹ trong tâm can của Mẹ và biến Lời Ngài thành hiện-thực nữa.

Hãy xin Mẹ dạy ta cung-cách được thánh Mát-thêu áp-dụng sống ân-nghĩa mình nhận lãnh, là thấy được những điều tích-cực nơi sự việc ở trước mắt. Và rồi, mỉm cười chấp-nhận như ta thường làm. Có như thế, ta cũng sẽ thấy nơi lời lẽ thánh-nhân ghi chép, là cả một giòng nhạc êm-ái, rất thương yêu.

Trong tâm tình đón nhận điều hay lẽ đẹp do thánh Mát-thêu ghi, ta cũng nên ngâm lên lời thi-ca vẫn ngân-nga rằng:

Tình cứ đuổi theo người như chiếc bóng”

Người thì không bắt bóng được bao giờ.

Anh muốn khóc trong buổi đầu niên học,

Bởi yêu em nên sầu khổ dịu dàng.”

(Nguyễn Tất Nhiên – Sầu Khổ Dịu Dàng)

Sầu khổ dịu dàng, nhưng không là tình đuổi theo người như chiếc bóng, vẫn yêu thương. Thương người và thương mình, bởi tình Chúa vãi gieo nơi ta nay phong phú, màu-mỡ rất đa dạng. Yêu thương rồi, ta lại dàn trải tình thương ấy nơi mọi người, ở đời. Đó, vẫn là ý chính, thánh-sử viết khi kể truyện dụ-ngôn đầy âm-nhạc cho người bé nhỏ ở trên đời, vẫn ưa thích.

Lm Kevin O’Shea CSsR

Mai Tá lược dịch.

 

Lực lượng công an trong mắt triết gia Trần Đức Thảo

Lực lượng công an trong mắt triết gia Trần Đức Thảo

Bùi Tín

07.07.2014

Sau khi tôi giới thiệu trên VOA cuốn sách Trần Đức Thảo – Những lời trăn trối của nhà báo Tri Vũ, một số bạn trẻ trong nước gửi thư điện tử cho tôi hỏi rằng tôi đã trích ra mấy đoạn ngắn khi tác giả khắc họa chân dung “ông Cụ” – cụ Hồ – rất sống động, chân thực, vậy cuốn sách có chứa đựng chân dung nào khác cũng lý thú, sinh động như vậy không?

Xin thưa là có, có khá nhiều, như chân dung các ông Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Tố Hữu…cũng cô đọng, sinh động không kém.

Đó là những nhân vật đè nặng như ma ám suốt 40 năm ròng trên sinh mệnh của triết gia Trần Đức Thảo, buộc ông phải ngậm đắng nuốt cay, đóng vai kẻ lẩn thẩn dở hơi để tồn tại, để rồi trong gần 6 tháng cuối đời đã để lại cho hậu thế những phán xét sâu sắc được nghiền ngẫm kỹ càng. Qua lời kể của ông, mới vỡ lẽ ra là khi ông phê phán bài “Hãy đi theo bảng chỉ đường của trí tuệ” của nhà dân chủ Hà Sỹ Phu là làm theo lệnh trên, nhằm được yên thân để còn sống được và thổ lộ tư duy tỉnh táo của mình và lúc cuối đời.

Dưới đây xin trích dẫn vài đọan ngắn khi ông Trần Đức Thảo nói về lực lượng công an CS Việt Nam, những người đã theo dõi, rình rập, đe dọa, đấu tố ông trong suốt 40 năm ông phải sống trong nhà tù lớn Việt Nam.

Nhận định về lực lựơng công an chìm và nổi, Trần Đức Thảo cho biết:

“Có một ngành quen dùng dối trá như một phương pháp hành động chính quy, đó là ngành công an, Với những cán bộ chìm và nổi dày đặc trong xã hội, miệng thì nói công an là bạn dân, là bảo vệ dân, nhưng thực tế công an là ngành đã quản thúc, quản chế dân bằng phương pháp khủng bố tinh thần, đe dọa tính mạng, đe dọa tài sán. Công an đáng lẽ là lực lượng giữ gìn, bảo vệ trật tự, kỷ cương cho xã hội, mà lại luôn tận dụng dối trá thủ đoạn để áp đảo, thống trị xã hội như thế thì làm sao duy trì được tính lương thiện trong dân, làm sao giữ được trật tự kỷ cương, được luân thường đạo lý cho xã hội? Các cụ ta đã dạy “thượng bất chánh, hạ tắc loạn”, “gieo gió thì gặt bão”, ngày nay ngành công an dùng quá nhiều hành động bất chính, gieo toàn là thủ đoạn dối trá, hận thù… thì rồi chế độ này sẽ gặt được gì? Các dân tộc từng sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa đã có đủ kinh nghiệm để trả lời! Thực tế là guồng máy công an đã phá hoại lý tưởng, đã bôi đen, bôi bẩn đảng, đã làm ô danh chế độ, làm ung thối cách mạng nhiều nhất. Dư luận vẫn than sự lộng quyền của ngành công an là đã hằng ngày đào sâu mồ chôn chế độ”.

Ở một đoạn khác, ông nói thêm:

“Tôi thấy cái cấp bách là cần phải can đảm bãi bỏ hẳn mọi phương pháp tổ chức. mọi chính sách hành động bất chánh trong toàn thể guồng máy cai trị của đảng và nhà nước, cả về mặt tuyên truyền lẫn mặt hành chính. Đứng đầu là phải thay đổi hẳn cách huấn luyện, phải tổ chức hẳn lại ngành công an. Dùng công an để kiểm soát và đàn áp tư tưởng là việc làm vô ích. Công an không thể bịt miệng dân, không thể kiểm soát những suy tư trong đầu người dân. Chính những người CS lãnh đạo có kinh nghiệm đó hồi bị thực dân, phong kiến đàn áp, cầm tù. Nhà tù, trại cải tạo luôn luôn là lò đào tạo ý chí phản kháng mạnh nhất. Vậy mà nay chính quyền lại hành động thống trị còn tệ hơn cả thời thực dân phong kiến! Dân chúng cứ bị đẩy về phía căm thù chế độ. Chế độ như vậy thì không thể nào sửa sai, sửa lại mà dùng được…”

Rồi ông kết luận đoạn này như sau:

“Tôi chống thủ đoạn gian dối về mọi mặt chứ không chỉ về mặt tuyên truyền hay công an… Tôi chống đây là chống cái gian, cái ác, tức là chống một cách xây dựng. Không lắng nghe tôi là chế độ sẽ ngày càng bị lún sâu vào hư đốn, cho đến khi bị đào thải… Tôi biết những nhận xét ngay thẳng đó là những liều thuốc đắng, nhưng không chịu lắng nghe thì rồi chính lãnh đạo và nhân dân sẽ phải trả giá, có khi là rất đắt. Tôi luôn luôn cố vận dụng sự trong sáng của lương tri trong những ý kiến đối kháng, phản biện… “

Có những hoài nghi rất có cơ sở là chính một vài tên công an nỗi và chìm trong sứ quán VN ở Paris đã được lệnh kết thúc cuộc đời ông khi họ nghi rằng ông đang viết một cuốn sách tâm huyết, bạch hóa hết những thâm cung bí sử mà ông được biết, nhằm đền đáp lại nhân dân, với niềm tin rằng nhân dân sẽ hiểu ra cuộc đời trong sáng của một trí thức chân chính và nhận ra chủ nghĩa Mác và đảng CS VN cũng như “ông Cụ” và các đồng chí của “ ông Cụ” là tai họa thật sự của dân tộc, của nhân dân.

Phải chăng để che dấu cả chuỗi dài tội ác với nhân dân và với cá nhân ông Trần Đức Thảo mà đã có những điều không bình thường xảy ra sau khi ông chết bất ngờ vì “đau bụng”  ngày 23/4 /1993: đó là việc Đại sứ VN Trịnh Ngọc Thái ở Pháp được lệnh đến cơ sở  hỏa táng trong Nghĩa trang Père Lachaise  ngày 29/4/1993 để báo tin ông được truy tặng Huân chương Độc lập (mà không có một lời điếu văn nào); sau đó 7 năm, năm 2000 ông được tặng “Giải thưởng Nhà nước”, mà không ai nói rõ về thành tích và công lao gì.  Hẳn dưới suối vàng ông đã cười to một mình về những điều trái khoáy kỳ quặc như thế trong một chế độ quái dị.

Cả Bộ Chính trị 16 người, 200 ủy viên Trung ương đảng CS, và đặc biệt là hơn 400 viên tướng và hơn 1.000 cán bộ cấp cao khác của riêng ngành Công an hãy đọc kỹ “Những lời trăng trối” của nhà triết gia Trần Đức Thảo và tự vấn lương tâm, rút ra nhiều điều bổ ích.

Đây là việc làm cấp bách, vì khi nhà triết học nói lên những sự thật trên đây từ 21 năm trước đến nay, lực lượng công an còn sa sút thêm nhiều, trượt dài trên quá trình trở thành tai họa thật sự cho nhân dân. Công an bịt mồm linh mục giữa tòa án, đạp giày lên mặt anh đảng viên CS trẻ đang xuống đường chống bành trướng, tra tấn hành hung các cụ ông cụ bà cao tuổi, giết hại nhiều công dân ngay trong trụ sở công an…

Nếu còn sống triết gia Trần Đức Thảo chắc sẽ đau lòng lắm khi thấy những tên móc túi, những ké trộm vặt,  trộm gà, trộm chó thì bị bắt, bị tra khảo, ngồi tù, còn những quan chức, tướng lãnh cướp của nhà nước, của nhân dân hàng triệu, hàng tỷ, hàng trăm ngàn tỷ đồng, kết thành nhóm thành phe  thì vẫn nhởn nhơ thống trị xã hội, còn được phong tướng tá công an, với một ngân sách kinh hoàng là không kém ngân sách quốc phòng.

Chỉ tiếc là triết gia yêu nước thương dân không còn sống để chứng kiến sự rệu rã của một chế độ mục nát phi nhân, đúng như ông đã dự đoán trong những lời trăng trối tâm huyết và những lời cảnh báo nghiêm khắc “Công an đang hằng ngày đào mồ chôn chế độ”.

 

Đức tin và thể thao

Đức tin và thể thao

TRẦM THIÊN THU

Chuacuuthe.com

VRNs (08.08.2014) – Sài Gòn – Đúng 2 giờ sáng (giờ Việt Nam) ngày 14-7-2014, những người hâm mộ túc cầu sẽ được chứng kiến trận tranh tài quyết liệt giữa hai đội túc cầu xứng đáng nhất, và có thể biết được đội nào là đội vô địch giải World Cup 2014, diễn ra tại sân vận động Rio de Janeiro (Brazil).

World Cup (Cúp Thế Giới) là sự kiện thể thao lớn của hành tinh chúng ta. Thể thao và Đức Tin có liên quan gì với nhau?

Đức Tin và Thể thao xem chừng “ngược chiều” nhau, vì một bên là tâm linh và một bên là thể lý. Thế nhưng lại không hề có gì đối lập với nhau. Thật kỳ lạ!

Thể dục là dạng vận động nhẹ. Thể thao là dạng vận động mạnh. Thể dục và thể thao có hai dạng: Thể lý và tinh thần. Với các Kitô hữu, thể thao còn có một dạng khác “cao cấp” hơn, đó là thể thao tâm linh. Dạng nào cũng cần khổ luyện mới có thể đạt được mức cao nhất.

Thể thao là hoạt động thể chất hoặc kỹ năng dành cho mục đích giải trí, thi đấu, mong đạt đến “đỉnh cao”, chủ yếu rèn luyện bản thân, tăng cường sức khỏe. Trong đời sống xã hội hiện đại, thể thao là yếu tố quan trọng không chỉ để giữ gìn sức khỏe mà còn là phục vụ các mục đích hữu ích khác.

Để tăng cường sức khỏe, có một số môn thể thao được nhiều người cho là giúp chống lại các loại bệnh tật, tạo sức chịu đựng dẻo dai. Ví dụ, chạy bộ theo mức độ tăng dần có thể giảm khả năng mắc các bệnh về tim mạch lúc về già. Đối với trẻ em trong độ tuổi đang lớn, thể thao giúp phát triển thể chất và làm tăng chiều cao.

14070800

Ngoài phạm vi sức khỏe, các môn thể thao đồng đội cũng rèn luyện cho tinh thần đoàn kết, kỹ năng hợp tác. Trong bất kỳ môn thể thao đồng đội nào, yếu tố đoàn kết là quan trọng nhất để giành chiến thắng. Ví dụ, trong môn túc cầu (bóng đá), các cầu thủ phải hiểu ý nhau trong lúc chuyền bóng để ghi bàn. Nhược điểm (điểm yếu) của các đội túc cầu dễ bị đối phương lợi dụng là sự thiếu đoàn kết, lo “miếng” riêng cho cá nhân. Trong môn đua xe đạp cũng vậy. Vì thế, một trong các cách rèn luyện tinh thần đồng đội là chơi các môn thể thao đồng đội.

Thế Vận Hội (Olympic, Đại hội Thể thao Thế giới) là cuộc tranh tài trong nhiều môn thể thao giữa các quốc gia trên toàn thế giới. Thế Vận Hội gồm Thế Vận Hội Mùa Hè và Thế Vận Hội Mùa Đông được tổ chức xen kẽ nhau hai năm một lần (vào các năm chẵn). Đây là một đại hội thể thao không chỉ là đua sức về thể lực mà còn mang ý nghĩa biểu trưng cho tinh thần đoàn kết và hòa bình của nhân loại.

Thế Vận Hội bắt nguồn từ các cuộc thi đấu thể thao thời Hy Lạp cổ đại có từ năm 776 trước công nguyên cho đến khi Hoàng đế La Mã là Theodosius I cấm (năm 394 trước công nguyên). Thế Vận Hội hiện đại được Nam tước Pière Frèdy de Coubertin tổ chức lần đầu tiên vào cuối thế kỷ XIX. Ủy Ban Olympic Quốc Tế (IOC – International Olympic Commitee) đã trở thành cơ quan chủ quản của Phong trào Olympic, với Hiến chương Olympic xác định cấu trúc và cơ quan có thẩm quyền.

Thế Vận Hội Mùa Hè được diễn ra (bốn năm một lần) từ năm 1896, trừ những năm xảy ra thế chiến (như thế chiến II). Thế Vận Hội Mùa Đông được thành lập vào năm 1924. Mới đầu nó được tổ chức cùng năm với Thế Vận Hội Mùa Hè, nhưng từ năm 1994, Thế Vận Hội Mùa Đông và Thế Vận Hội Mùa Hè diễn ra xen kẽ nhau hai năm một lần.

Chúng ta còn có Á Vận Hội (Asiad hoặc Asian Games, Đại hội Thể thao Á châu), tổ chức bốn năm một lần, với sự tham dự của các đoàn vận động viên thuộc Á châu. Giải thể thao này do Hội Đồng Olympic Á châu (OCA – Olympic Council of Asia) tổ chức, dưới sự giám sát của Ủy ban Olympic Quốc tế, và được coi là sự kiện thể thao lớn thứ hai trên thế giới, chỉ đứng sau Thế Vận Hội.

Có nhiều môn thể thao (bóng đá, bóng chuyền, bóng rổ, bơi lội, ném dĩa, cử tạ, marathon,…), nhưng có lẽ hấp dẫn nhất vẫn là môn túc cầu, hấp dẫn cả người chơi lẫn người xem – dù là xem qua màn ảnh nhỏ. Có lẽ vì thế mà môn túc cầu được mệnh danh là môn thể thao vua. Ở đây, chúng ta cũng chỉ đề cập môn túc cầu. Thật vậy, túc cầu có nhiều người yêu thích tới mức cuồng nhiệt như các tín đồ tôn giáo, và người ta vui đùa gọi họ là “tín đồ của túc cầu giáo”.

Trong các giải túc cầu, nổi bật nhất là giải World Cup. Brazil là quốc gia tổ chức World Cup lần thứ 20 của FIFA vào mùa hè năm 2014, diễn ra từ 12-6 tới 13-7-2014, với các đội bóng của 32 quốc gia tham dự, trong đó có 13 quốc gia thuộc Âu châu. Tất cả có 64 trận đấu. Brazil cũng là nước đăng cai World Cup năm 2007 sau khi FIFA quyết định tổ chức tại Nam Mỹ lần đầu tiên từ năm 1978 tại Argentina.

Có 12 thành phố được chọn để tổ chức các trận đấu lần này: Belo Horizonte, Brasilia, Cuiaba, Curitiba, Fortaleza, Manuas, Natal, Porto Alegre, Recife, Salvador, Sao Paulo và Rio de Janeiro, nơi trận chung kết sẽ thi đấu tại sân vận động Estádio Mário Filho, thường được gọi là Maracanã. Sân vận động này đã diễn ra trận chung kết World Cup năm 1950. Cả 4 trận chung kết World Cup trước đều diễn ra tại Nam Mỹ – Uruguay năm 1930, Brazil năm 1950, Chile năm 1962, và Argentina năm 1978. Các đội vô địch cũng thuộc châu lục đó.

Nói đến quốc gia Brazil, chắc hẳn chúng ta còn nhớ vua bóng đá Pelé (Edson Arantes do Nascimento, sinh 23-10-1940), một trong những cầu thủ bóng đá nổi tiếng nhất trong lịch sử của bộ môn này, đặc biệt là cú sút lọt lưới “độc nhất vô nhị” từ giữa sân (60m). Được phát hiện từ khi còn rất trẻ, Pelé bắt đầu chơi cho Câu lạc bộ Santos Futebol khi mới 15 tuổi, vào đội tuyển quốc gia khi 16 tuổi và lần đầu đoạt World Cup khi mới ở tuổi 17. Dù có nhiều lời mời từ các câu lạc bộ của Âu châu, Pelé vẫn rất trung thành với câu lạc bộ của mình và đã chơi cho câu lạc bộ này trong suốt hai thập kỷ cho đến năm 1975, khi ông từ giã sân cỏ.

Ông là cầu thủ ghi được nhiều bàn thắng nhất cho Đội tuyển Túc cầu Quốc gia Brasil và ông cũng là người duy nhất trong lịch sử môn thể thao vua giành được 3 World Cup dưới cương vị một cầu thủ. Ông cũng là cầu thủ duy nhất ghi được gần 1300 bàn thắng trong suốt sự nghiệp cầu thủ. Cụ thể là 1281 bàn thắng trong 22 năm thi đấu.

Chiếc áo số 10 nổi tiếng của Pelé đã trở thành chiếc áo truyền thống của các tiền vệ (trung phong) và tiền đạo có lối chơi tấn công kỹ thuật và sáng tạo. Từ đó, đã có không ít cầu thủ ngôi sao của xứ sở Samba khoác lên mình chiếc áo số 10 kỳ diệu.

Thể thao có vài dạng: Thể thao thể lý, thể thao trí tuệ, thể thao tâm linh. Thể thao nào cũng cần có niềm tin mãnh liệt. Có tự tin thì mới khả dĩ chiến thắng. Thể thao (nói chung), túc cầu (nói riêng), quan trọng là có TINH THẦN TẬP THỂ, TINH THẦN THƯỢNG VÕ và TINH THẦN ĐOÀN KẾT. Trong môn túc cầu, mỗi đội có 11 cầu thủ luôn phải chung một nhịp, phải đồng tâm nhất trí, dù mỗi người có bổn phận khác nhau – người tấn công, người phòng thủ, người giữ khung thành. Đó là thể hiện niềm tin lẫn nhau, và cũng cần niềm tin tâm linh nữa.

Nếu để ý, chúng ta có thể nhận thấy rằng, khi ra sân cỏ để thi đấu, một số cầu thủ đã thể hiện Đức Tin Công giáo của mình. Cầu thủ Park Ji Sung (Hàn quốc) đã làm dấu Thánh Giá, còn cầu thủ Wayne Rooney (Anh quốc) đeo chuỗi Mân Côi. Rất tiếc là chẳng thấy cầu thủ người Việt nào có động thái thể hiện Đức Tin như vậy!

Ngay trong thời gian thi đấu, một số cầu thủ vẫn thể hiện niềm tin Kitô, biết tín thác vào Thiên Chúa, thật tuyệt vời biết bao! Đó là những tấm gương sáng để chúng ta noi theo, dù ở nơi đâu và lúc nào thì chúng ta vẫn luôn cần Thiên Chúa, vì Chúa Giêsu đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5).

Có lẽ Kinh Thánh chỉ nhắc tới từ “thể thao” một lần: “Trong cuộc đại hội thể dục thể thao, tổ chức bốn năm một lần ở Tia, có nhà vua hiện diện, ông Gia-xon, một người đê tiện đã cử một phái đoàn khán giả với tư cách là những người phò vua An-ti-ô-khô từ Giê-ru-sa-lem đến mang theo ba trăm quan tiền để dâng lễ kính thần Hê-rắc-lê. Nhưng các người mang tiền xin đừng dùng số bạc ấy để tế lễ, vì việc đó không thích hợp, mà lại xin dùng vào một khoản khác. Vậy số bạc ấy lẽ ra phải được dùng vào vào việc dâng lễ kính thần Hê-rắc-lê, theo ý người gửi, nhưng do lời yêu cầu của những người mang tiền, người ta lại đem dùng vào việc đóng tàu chiến” (Mcb 4:18-20).

Kinh Thánh cho biết Đại hội Thể dục Thể thao được tổ chức bốn năm một lần, phải chăng các giải thể thao ngày nay cũng tổ chức theo cái “khoảng thời gian” đó? Thiết tưởng là rất có thể lắm!

Thánh Phaolô không nói về thể thao trần gian nhưng nói về thể thao tâm linh, dù không nói rõ là thể thao: “Ngày đời tôi trôi nhanh hơn kẻ chạy đua, nó qua mau, mà không thấy hạnh phúc” (G 9:25). “Chạy đua” là một dạng thể thao. Thánh Phaolô còn nói về thể thao theo dạng khác: “Trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một người đoạt giải. Anh em hãy chạy thế nào để chiếm cho được phần thưởng. Phàm là tay đua thì phải kiêng kỵ đủ điều, song họ làm như vậy là để đoạt phần thưởng chóng hư; trái lại chúng ta nhằm phần thưởng không bao giờ hư nát. Vậy tôi đây cũng chạy như thế, chứ không chạy mà không xác tín; tôi đấm như thế, chứ không phải đấm vào không khí. Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại” (1 Cr 9:24-27).

Phàm việc gì cũng cần khổ luyện, đặc biệt là thể thao. Chúng ta thấy các vận động viên có sức dẻo dai, nhưng chúng ta có biết đâu rằng họ phải ngày đêm khổ luyện mới có sức khỏe như vậy. Và Đức Tin cũng vậy, không thể một sớm một chiều mà có được Đức Tin vững mạnh và sâu sắc, mà Đức Tin đó phải được tôi luyện hằng ngày qua nhiều thử thách gay go lắm. Lửa thử vàng, gian nan thử sức. Và Đức Tin cũng vậy, nếu không thì Đức Tin đó sẽ èo uột, dễ bị đuối sức, dễ bị hoang mang, dễ bị rạn nứt,… thậm chí là có thể bị mất Đức Tin!

Chúa Giêsu cũng không hề nói về thể dục hoặc thể thao, nhưng Ngài có cách nói rất đặc biệt, vừa như lời khuyên vừa như mệnh lệnh: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Ngài bảo chúng ta phải “hoàn thiện như Cha” là Ngài bảo chúng ta không ngừng “chạy đua”, là kiên tâm “thi đấu”, để cuối cùng ai cũng phải đạt được chiến thắng là “Giải Trường Sinh”, là “Chiếc Cúp Nước Trời”.

Chúng ta đang thuộc Giáo hội chiến đấu trên cuộc lữ hành trần gian về Thiên Quốc, cuộc chạy marathon này dài hay ngắn tùy mỗi người phải chạy trong bao nhiêu năm theo Thánh Ý Chúa. Có người chỉ chạy 1 ngày, có người chạy vài tháng, có người chạy vài năm, có người chạy vài chục năm, có người chạy cả trăm năm. Nhưng mục đích cuối cùng vẫn chỉ là Siêu Cúp Cứu Độ mà chính Đức Giêsu Kitô trao cho mỗi người.

Ước mong rằng, khi vui mừng giải trí và tận hưởng không khí sôi nổi của World Cup 2014, mỗi chúng ta cũng được nhắc nhớ về cuộc đua tâm linh trên Hành Trình Đức Tin Công giáo. Hãy ngước nhìn lên Biểu Tượng Đức Tin, Biểu Tượng Chiến Thắng và Biểu Tượng Hằng Sinh của chúng ta là Thập Giá Đức Giêsu Kitô, đồng thời có thể xác định như Thánh Phaolô: “Vinh quang của tôi là Thập Giá Đức Kitô – MEA GLORIA EST CRUX CHRISTI (Gl 6:14).

Đây là “nước tăng lực” mà Thánh Phaolô cho chúng ta uống: “Một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời. Vì thế, chúng ta mới không chú tâm đến những sự vật hữu hình, nhưng đến những thực tại vô hình. Quả vậy, những sự vật hữu hình chỉ tạm thời, còn những thực tại vô hình mới tồn tại vĩnh viễn” (2 Cr 4:17-18).

Sân cỏ cũng tương tự sân đời, cam go lắm! Trong một chương trình của Đài Chân Lý Á Châu (Philippines) có phát sóng bài thơ “Bóng đá và Cuộc đời”, trong đó có bốn câu cuối như sau:

Con chạy hàng tiền đạo

Chiến đấu với trần gian

Xin Chúa làm hậu vệ

Che chắn khung-thành-con (*)

Vâng, chúng ta rất cần có Chúa, không chỉ vì chúng ta không biết theo ai nếu chúng ta bỏ Ngài (x. Ga 6:68), mà còn vì chúng ta chẳng làm được gì nếu không có Ngài (x. Ga 15:5).

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết không ngừng trau dồi “sức khỏe Đức Tin” để thi đấu kiên trì và không biết mệt mỏi. Xin Ngài thương giúp chúng con nên thánh hằng ngày để xứng đáng lãnh nhận Phần Thưởng Hằng Sinh. Xin Đức Thánh Maria, Đức Thánh Giuse, chư thánh và các linh hồn cầu thay nguyện giúp. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

(*) Nghe ca khúc “Bóng Đá và Cuộc Đời” của Ns Sơn Vinh tại http://www.baicamoi.com/?p=56856.

 

Tô Hoài & Ba Người Khác

Tô Hoài & Ba Người Khác

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

1920 – 2014

Nhà văn Tô Hoài sinh 27 tháng 9 năm 1920 và vừa từ trần vào ngày 6 tháng 7 năm 2014 vừa qua. Chúng tôi xin ghi lại bài viết dưới đây về tác phẩm cuối cùng (và cũng là cuốn sách gây nhiều tranh cãi nhất) của ông với hy vọng rọi thêm được chút ánh sáng về cuộc đời của tác giả này.

“Một ngày phiên chợ, u tôi mua về đôi gà nhỏ. Hai con gà: một trống, một mái, dáng còn bé tí teo, như vừa mới lìa đàn. Suốt ngày chúng cứ rúc vào một góc sân và kêu chim chíp bằng một giọng ai oán, thảm thương!”

Ðó là một đoạn văn ngắn, trong tập truyện O Chuột, của Tô Hoài mà tôi đã được cô giáo đọc cho nghe – khi còn thơ ấu. Tôi tin rằng mình vừa ghi lại đúng nguyên văn, nếu không hoàn toàn đúng thì chắc cũng gần đúng (y) như thế. Sao tôi cứ thương mãi đôi gà nhỏ côi cút đó, và có cảm tình hoài với tác giả của đoạn văn vừa dẫn.

Tô Hoài (có lẽ) sẽ sướng ngất ngư, khi biết có một độc giả đã nhớ nằm lòng – suốt đời – những điều mình viết. Và chắc sẽ tức điên luôn, nếu biết thêm rằng: tôi chưa bao giờ đọc thêm một dòng chữ nào khác nữa của ông.

Tôi sinh trưởng ở miền Nam, nơi mà trẻ con không đeo khăn quàng đỏ, không thi đua lập chiến công, cũng không có kế hoạch (lớn – nhỏ) nào phải hoàn thành hay vượt chỉ tiêu. Chúng tôi chỉ có việc học với chơi, và chơi mới là chuyện chính. Tôi quá mải chơi nên không có thì giờ để đọc Tô Hoài, hoặc bất cứ ai.

Sau khi cuộc chiến Bắc/Nam chấm dứt, thỉnh thoảng, tôi cũng có ghé vào những hiệu sách quốc doanh nhưng không bao giờ ngó ngàng gì đến Tô Hoài. Dù bắt đầu từ đây, cũng như bao nhiêu người dân miền Nam khác, cuộc đời của tôi (bỗng dưng) hoá rảnh – rất rảnh, và rất … đói!

Tác phẩm duy nhất mà tôi thực sự tâm đắc, vào thời điểm đó, là Hồ Chí Minh Toàn Tập– dù tác giả viết nhiều đoạn hơi (bị) dở. Thí dụ như: “Không có lực lượng gì ngăn trở được mặt trời mọc. Không có lực lượng gì ngăn trở được loài người tiến lên. Cũng không có lực lượng gì ngăn trở được chủ nghĩa xã hội phát triển.” (Giời ạ, mặt trời chứ bộ mặt trận sao mà đòi lấy lực lượng ra ngăn trở. Tương tự, có cái lực lượng mẹ rượt nào mà ngăn trở được loài người tiến lên, cha nội? Viết như thế mà cũng bầy đặt cầm bút).

Ngoài những lỗi lầm nho nhỏ không đáng kể trên – về nội dung – phải nói đây là một công trình đồ sộ, rất đáng đồng tiền bát gạo. Sách rất dầy, giấy in rất tốt, giá rất rẻ, và (rất) được những bà hay những cô bán hàng rong ưa chuộng. Họ cần giấy để gói, hoặc để chùi; còn tôi, tôi cần một phần ăn – nhiều hơn số tiền túi mình có thể mua. Do đó, dù có đói thảm thiết tôi cũng chả bao giờ (dại dột) xà ngay xuống mẹt xôi hay mẹt bánh. Tôi luôn luôn chịu khó đi lòng vòng mua sách, rồi mới mang đổi lấy thức ăn – cho đỡ khổ cái dạ dầy!

Trong hoàn cảnh ấy, nói tình ngay, lỡ mà có thấy những tác phẩm của Tô Hoài chắc tôi cũng ngó lơ. Mắt tôi lúc nào cũng chỉ dáo giác, liếc nhìn ra biển, tìm một đường chui.

Nhờ Trời thương, tôi chui lọt!

Sau khi “đã đi hết biển”, khác với nhiều người, tôi quyết định đi luôn – cho nó chắc ăn. Lưu lạc mãi, có hôm tôi tình cờ gặp lại Tô Hoài, trong một tác phẩm phê bình văn học – có tựa là Cây Bút, Ðời Người – của Vương Trí Nhàn, do công ty Phương Nam xuất bản năm 2002.

Đến lúc này thì tôi đủ tuổi đời, đủ rảnh (và cũng đủ no) để có thể tìm đọc thêm chút đỉnh về một tác giả mà mình đã yêu thích – từ khi còn bé. Và nay thì Tô Hoài đã bước vào tuổi bát tuần.

“Ngay từ năm 1940, khi bắt tay làm quen với giới sáng tác đương thời, thì đồng thời tác giả Dế mèn cũng bước vào hoạt động cách mạng. Lúc đâu ở thời kỳ Mặt trận bình dân, ông hoạt động trong cơ sở Hội ái hữu thợ dệt Hà Ðông. Sau đó lại được tổ chức Ðảng ở Hà Nội bắt liên lạc để hình thành nên lực lượng Văn hoá cứu quốc.”

“Tiếp đó, từ sau 1945, những hoạt động xã hội của nhà văn ngày một đa dạng. Triển khai theo chiều rộng, có lúc ông trở thành cán bộ địa phương, có thời gian đi cải cách ruộng đất, đi học trường Ðảng, nhiều năm làm đối ngoại nhân dân, đồng thời vẫn giữ chân trưởng ban đại biểu dân phố (1956–1972) ở cơ quan văn nghệ trên Trung ương hay ở Hà Nội, hầu như từ năm 1946 tới nay, khoá nào ông cũng được bầu làm bí thư chi bộ, đảng bộ.”

“Mặt khác, ngay trong giới cầm bút, ông cũng luôn luôn có hoạt động xã hội của mình, khi là Phó Tổng thư ký Hội Nhà Văn, khi chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội, từ đó đẻ ra cơ man nào là đầu việc, là họp hành, mà người ta gọi chung là công tác.” (sđd, 264).

Tiểu sử Tô Hoài (như thế) có vẻ lung tung lang tang, ngổn ngang cả đống chức vụ, nhưng không để lại một ấn tượng đậm nét nào về đời người và cây bút của ông. Tô Hoài như luôn bị nhấn chìm vào những đoàn đội hay đoàn thể (vớ vẩn) gì đó, “với cơ man nào là đầu việc”. Thực là một cuộc đời chán ngán và nhạt nhẽo, tôi đoán thế.

Tôi lầm đấy. Ðược thế thì đã phúc.

Cuộc đời của Tô Hoài chán ngán hẳn có thừa nhưng nhạt nhẽo thì chưa chắc, và đắng chát với tủi nhục (xem ra) không thiếu – nếu vẫn theo như ghi nhận của nhà phê bình văn học Vuơng Trí Nhàn:

… bao nhiêu từng trải, như còn in dấu vào cách sống, cách chuyện trò của Tô Hoài hôm nay, bên cạnh cái nhũn nhặn lảng tránh, con người ấy thật cũng đã nhiều phen phải dàn mặt, phải chịu trận, nói chung là phải đối chọi với đời và nếu như có lúc phải đầu hàng thì đó cũng là bước đường cùng, rồi, nín nhịn chẳng qua để tồn tại, và sau hết, để được viết”.

“Ấy là cái điều không chỉ Tô Hoài biết mà nhiều người cũng biết…”
Ðại khái có thể hình dung như cái cảnh đứa bé bị qùy, thì cũng quỳ đấy, song mắt vẫn liếc về phía mọi người đùa bỡn. Xá gì chuyện này, qùy cho xong nợ, tí nữa lại tha hồ tung tẩy.” (sđd 266).

Dù chỉ là một thường dân – chứ chả cần phải nhà văn, hay nhà báo gì ráo trọi – tôi cũng muốn ứa nước mắt xót xa cho “cây bút” và “đời người” của Tô Hoài, khi biết rằng (đôi lúc) ông vẫn phải qùi như thế. Tôi còn e rằng Vuơng Trí Nhàn cũng chỉ khéo miệng mà nói thế (để đỡ tủi cho nhau) chứ chuyện “đùa bỡn” và “tha hồ tung tẩy” làm sao tìm được trong “cây bút” và “đời người” của Tô Hoài!

Tất cả những đoạn văn thượng dẫn, tôi viết trong những trang sổ tay trước – cách đây đã vài năm. Hôm nay, đọc lại tôi thấy ngượng. Tôi trật! Tôi thành thật xin lỗi vì đã quyết đoán một cách hấp tấp về văn nghiệp, cũng như tư cách, của Tô Hoài. Ông ấy quả là có “tròn” nhưng không “tròn mãi,” như tôi đã tưởng. Tưởng như thế là tưởng … năng thối!

Đúng như nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn đã ví von, có thể hình dung Tô Hoài “… như cái cảnh đứa bé bị qùy, thì cũng quỳ đấy, song mắt vẫn liếc về phía mọi người đùa bỡn. Xá gì chuyện này, qùy cho xong nợ, tí nữa lại tha hồ tung tẩy.”

Ảnh:VNN

Tô Hoài đã “tung tẩy” như thế trong cuốn Ba Người Khác. Talawas đã có lời giới thiệu về tác phẩm này, như sau:

“Cuốn tiểu thuyết 250 trang của nhà văn Tô Hoài (NXB Đà Nẵng vừa ấn hành) đang làm xôn xao dư luận trong và ngoài giới văn học. Cuộc toạ đàm về tiểu thuyết này do Hội Nhà văn Hà Nội tổ chức tại trụ sở Viện Văn học sáng ngày 22 tháng 12 năm 2006 đã hầu như một cuộc vinh danh lão tướng văn chương 87 tuổi…

Trong cuộc tọa đàm này, Hoàng Minh Tường nói: “Cuốn sách thể hiện sự dũng cảm và tư cách công dân của nhà văn Tô Hoài.” Trong một xã hội mà chuyện thể hiện “tư cách công dân” (rất) có thể khiến người ta … mất mạng – hay rẻ ra là mất việc, hoặc ngồi tù – thì lời phát biểu vừa rồi đích thị là một cách vinh danh, chứ chả còn phải là “hầu như” hay “dường như” gì nữa ráo.

Nguyên Ngọc khen: “Cách viết hay, độc đáo về CCRĐ. Không viết về nông dân mà viết về ba anh đội. Hoá ra cái thảm kịch của đất nước, xã hội, là do ba cái anh lăng nhăng. Những cuốn khác viết về nông dân là nạn nhân, nhưng đây là lại là thủ phạm. Ba kẻ chẳng có kiến thức gì cả, tự nhiên làm đảo lộn hết cả xã hội…”

Không hiểu sao ý kiến của Nguyên Ngọc về ba anh đội, ba nhân vật chính trong tác phẩm của Tô Hoài, lại khiến tôi nhớ đến những nhân vật chính khác – những người đã có thời mà quyền lực nhất họ nhì trời – trên sân khấu chính trường ở Việt Nam: Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Đỗ Mười…

Thì cũng đều là cái thứ “lăng nhăng” và cũng chính là “thủ phạm” đã làm “đảo lộn hết cả xã hội” bằng nhiều chuyện kinh thiên động địa khác: Hợp Tác Hoá Nông Nghiệp, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Học Tập Cải Tạo, Kinh Tế Mới … Toàn là những “cơn điên tập thể,” theo như cách nhìn của Phạm Xuân Nguyên.

Cũng với cách nhìn này thì (cái được mệnh danh là) cuộc chiến Chống Đế Quốc Mỹ Xâm Lược hay Giải Phóng Miền Nam chỉ là một cơn điên vĩ đại, trong đó bao gồm rất nhiều những cơn điên nho nhỏ – chả hạn như cái cơn thảm sát, cả chục ngàn người, hồi Tết Mậu Thân.

(Tôi xin lỗi đã nổi nóng, và đi hơi xa vấn đề chút đỉnh. Nghĩ đến tình trạng đất nước – hơn nửa thế kỷ qua – chắc Bụt cũng phải nổi khùng chứ đừng nói chi đến cái thứ thường dân rất dễ sân si và dấm dớ, cỡ như tôi. Dù vậy, tôi vẫn xin được mọi người lượng thứ vì sự thiếu tự chế của mình và xin trở lại ngay vấn đề – trước khi trời sáng!)

Riêng Nguyễn Xuân Khánh – trong bài tham luận Đọc ‘Ba Người Khác’ Của Tô Hoài – đã có ý kiến rất độc đáo, xin được tóm gọn:

“Cuốn sách đã chạm tới một vấn đề rất nhạy cảm là Cải cách ruộng đất (CCRĐ)… Cuốn Ba người khác đã nói đến vấn đề to lớn ấy bằng một giọng điệu rất bình tĩnh, dung dị, không hề lên gân, hầu như rất thản nhiên mà lại ám ảnh chúng ta vô cùng. Anh em nhà văn thường bảo ông Tô Hoài khôn, hay tránh né. Cuốn sách này bác Tô Hoài chẳng hề né tránh…

Trong mỗi con người đều có cả cái ác lẫn cái thiện, cả những bản năng hung bạo và tính văn hoá. Phải giải quyết vấn đề nông thôn bằng văn hoá và nhân nghĩa chứ không thể bằng bạo lực. Năm mươi năm đã trôi qua nhưng vẫn còn quá ít tác phẩm hay nói về vấn đề to lớn đó. Vấn đề vẫn còn đó, nó nằm trong vô thức của cộng đồng. Nhiều người chứng kiến nhưng không ai nói cho rõ được vấn đề. Trong khi đó tôi nghĩ văn học là giải toả, văn học là chữa bệnh.

Tôi chợt liên tưởng tới cách chữa bệnh về tinh thần cho con người. Người thầy thuốc, bằngnhững biện pháp tâm lý, tìm cho ra cái nguyên cớ sinh ra bệnh tật. Tức là làm cho nguyên nhân bệnh từ vô thức chồi lên ý thức. Ở một khía cạnh nào đó, tác phẩm văn học cũng có giá trị như vậy.Cộng đồng người cũng như một con người. Cộng đồng cũng có những ẩn ức. Đưa những ẩn ức nằm trong vô thức của tập thể trở thành minh bạch trong ý thức sẽ giúp cho cộng đồng phòng ngừa được những điều không lành mạnh trong tương lai.”

Lại Nguyên Ân cũng có nhận định (gần) tương tự:

“Tôi nghĩ, đối với xã hội ta, sự xuất hiện nhữngcuốn sách như cuốn này là một cách giải toả cho một trong những chấn thương của xã hội ta. Sự kiện CCRĐ để lại một chấn thương trầm trọng ai cũng biết, nhưng những người giữ quyền ăn quyền nói ở xã hội ta lại muốn xoá đi bằng cách cấm mọi người nhắc đến. Và đó là một giảipháp sai lầm hiển nhiên, vì các chấn thương tinh thần không thể được chữa khỏi bằng bắt buộc người ta im lặng; ngược lại, chỉ bằng việc thường xuyên nhắc nhớ, ôn lại, phân tích nguồn cơn, tính đếm thiệt hại, v.v… mới là phương cách tốt, chẳng những làm nguôi chấn thương mà còn đề phòng khả năng lặp lại những tai hoạ tương tự cho cộng đồng.”

Tôi có giấy phép hành nghề tâm lý trị liệu, và kiếm cơm nhờ đó. Có lẽ vì méo mó nghề nghiệp, tôi “chịu” quá nhận định của nhà phê bình Lại Nguyên Ân, và vô cùng thích thú với cái nhìn – rất Jungian và Freudian – của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, về nội dung cuốn Ba Người Khác của Tô Hoài.

Dù vậy, tôi vẫn không tin rằng một (hay nhiều) tác phẩm văn học – cho dù là kiệt tác, như cuốn Ba Người Khác chăng nữa – có thể “giải toả” những “chấn thương xã hội” do cuộc C.C.R.Đ. gây ra.

“Do pháp trị thiếu sót mà Cải cách Ruộng đất đã hỏng to đến thế.” Nguyễn Hữu Đang đã viết (như thế) trên báo Nhân Văn số 4, phát hành ngày 5 tháng 11 năm 1956. Dù chậm, chúng ta cần phải nhìn vấn đề cho minh bạch và “chính qui” như vậy – theo như yêu cầu của Nguyễn Hữu Đang, từ hơn nửa thế kỷ trước.

Hoạ cộng sản sẽ qua, và sắp qua. Ngoài C.C.R. Đ., còn nhiều “vụ động trời” khác nữa – như Nhân Văn, Xét Lại, Đổi Tiền, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Mười Ngày Học Tập, Thu Vàng Bán Bãi Vuợt Biên … – chưa xử và bắt buộc phải xử, trong tương lai gần.

Vấn đề không phải là để truy thù hay báo oán. Truyền thống văn hoá bao dung dân tộc Việt không cho phép bất cứ ai thực hiện điều đó. Tuy nhiên, quá khứ cần phải được thanh thoả – và không thể thanh thỏa bằng một (hay vài) cuốn truyện– để chúng ta đều cảm thấy được nhẹ lòng, và an tâm hơn khi hướng đến tương lai.

 

“Thế giới đại đồng” và độc đảng đang đẩy Hà nội làm trò hề cho Bắc kinh !

“Thế giới đại đồng” và độc đảng đang đẩy Hà nội làm trò hề cho Bắc kinh !

Chuacuuthe.com

VRNs (06.07.2014) – Sài Gòn – Bắc kinh đang ngang ngược lấn chiếm biển, đảo, tài nguyên và đe dọa độc lập thì Hà nội vẫn loay hoay không biết chọn cách nào, cô đơn không có đồng minh tin cậy và đủ mạnh.

Liên minh không phải là gây chiến tranh mà chính là làm chiến tranh không thể xẩy ra, làm cho kẻ thù không dám phiêu lưu. Hòa bình theo kiểu cúi đầu nhượng bộ từng bước trong suốt hơn 20 năm qua là hòa bình trong nô lệ.

Nhưng một liên minh vững vàng và tin cậy chỉ diễn ra dưới điều kiện giữa các nước cùng theo đuổi những giá trị xã hội chung. Muốn liên minh với các nước dân chủ mà lại đòi giữ nguyên chế độ độc tài thì chỉ là nuôi ảo tưởng với chính mình và đánh lừa nhân dân!

14070600

Từ đầu tháng 5. 2014 Bắc kinh đã sử dụng cả trăm tầu chiến, phi cơ, tầu hải giám và kiểm ngư hộ tống giàn khoan HD 981 xâm nhập hải phận VN và dựng giàn khoan khủng này ngay trong thềm lục địa VN. Trong những ngày vừa qua Bắc kinh còn dựng thêm hai giàn khoan khác ở vịnh Bắc bộ trong vùng đang còn tranh chấp giữa VN-Trung quốc và tự ý công bố bản đồ mới thay vì 9 khúc thành 10 khúc mở rộng thêm quyền kiểm soát trên biển Đông. Để bảo vệ các hành động xâm lấn của mình, Bắc kinh đang cho tăng cường các tầu chiến, máy bay quân sự  trong các khu vực họ vừa dựng các giàn khoan, đồng thời sử dụng các tầu bọc thép ngăn cản và đâm nát nhiều tầu hải giám VN đang làm công tác tuần tra trên phần lãnh hải của VN.

Các hành động xâm lấn ngang ngược và nguy hiểm trên đây đã chứng tỏ chính sách xâm lược công khai của tân đế quốc Bắc kinh vào đầu Thế kỉ 21. Nó chứng minh chủ nghĩa đế quốc bành trướng thực dân kiểu mới của Bắc kinh đang là kẻ thù nguy hiểm trực tiếp của toàn dân tộc ta.

Nhưng trước những phẫn uất của nhân dân và cả một phần trong Đảng, người cầm đầu chế độ toàn trị đã trả lời như thế nào?

Ngày 1.7 trước sự bức xúc và lo ngại của nhân dân, nhiều cử tri ở Tây hồ, Hoàn kiếm Hà nội đã đặt câu hỏi với người cầm đầu chế độ toàn trị  về thái độ và cách đối phó trước các hành động xâm lấn ngang ngược của Bắc kinh từ khi họ dựng giàn khoan ngay trên thềm lục địa của VN từ đầu tháng 5. Sau khi rào trước đón sau Nguyễn Phú Trọng đã trả lời: “Đặc biệt là phải tập trung bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.” [i]

Khi nói câu này người cầm đầu chế độ toàn trị và từng là lí thuyết gia chiến lược của chế độ độc tài đã bộc lộ một số chủ trương căn bản trong việc đối phó với Bắc kinh: 1. Mục tiêu ưu tiên hàng đầu là “bảo vệ Đảng”“bảo vệ chế độ” toàn trị. 2. Vì thế đối với Bắc kinh, vẫn muốn “giữ vững môi trường hòa bình” dù họ đang xâm lấn ngang ngược. 3. Đối với sự chống đối của nhân VN thì Đảng sẵn sàng cho bộ máy công an đàn áp để giữ gìn “an ninh chính trị”. Gói ghém trong ba điểm chính trên ông Trọng đã bộc lộ chủ trương là sẽ không dám động đến chân lông “Bạn” „bốn tốt“ và lường trước là, như thế sẽ gặp phải sự chống đối càng mạnh của nhân dân, đi đầu là trí thức và thanh niên, cho nên bộ máy an ninh đàn áp sẽ phải ra tay mạnh hơn, chỉ như vậy mới tiếp tục bảo vệ được sự độc quyền của Đảng. Tóm lại, ở đây ông Trọng vẫn lập lại chủ trương mà nhân dân đang nguyền rủa kết án “hèn với giặc, ác với dân”, “đảng trước nước sau”của những người cầm đầu chế độ toàn trị!

Nhưng vì sao vài người có quyền lực nhất trong Bộ chính tri  ĐCSVN lại rất lo sợ trước Bắc kinh, lúng túng không biết chọn giải pháp nào và đang rơi vào cảnh trống đánh xuôi kèn thổi ngược ? Tại sao thay vì một chính sách đại đoàn kết chống ngoại xâm phương Bắc, nhưng cũng chính những người này lại vẫn tiếp tục thẳng tay đàn áp các trí thức và thanh niên và chia rẽ các tầng lớp nhân dân chỉ vì chống Bắc kinh xâm lược? Nắm vững được tình hình và nguyên nhân sẽ thấy rõ con đường đi mới của VN và sứ mệnh lịch sử của nhân dân ta, đi đầu là trí thức và thanh niên, kể cả những người CS tiến bộ biết quí tự trọng!

Chế độ độc đảng lấy „thế giới đại đồng“ coi mộng làm thực

là hai nguyên nhân chính giúp Bắc kinh trở thành kẻ thù nguy hiểm trực tiếp của VN

Trong khuôn khổ giới hạn của bài, ở đây chỉ dẫn chứng một số sự kiện quan trọng tiêu biểu về việc những người cầm đầu CSVN, qua nhiều thế hệ lãnh đạo, đã tôn thờ tư tưởng về „thế giới đại đồng“ từ Marx-Lenin đến Mao là „tiến bộ“, “khoa học”, „chân lí“ và còn khẳng định, chỉ có duy trì sự độc tôn toàn trị của ĐCS mới thực hiện được mục tiêu tiến tới „thế giới đại đồng”! Chính vì thế người sáng lập ĐCSVN đã công khai coi chủ nghĩa Marx-Lenin như là những cây đũa thần và từ khi Mao Trạch Đông giải phóng lục địa Trung quốc và viện trợ súng đạn và cố vấn thì ông Hồ chọn thêm tư tưởng Mao làm thần tượng!

Mặc dầu tư tưởng „thế giới đại đồng“ chỉ là một huyền thoại viển vông, nhưng họ lại tin tưởng tuyệt đối vào nó và coi tình anh em giữa các ĐCS cao  hơn quyền lợi  chính đáng và lâu dài của dân tộc.Trong khi đó, đối với chính nhân dân, đồng bào của mình, vì chủ trương giai cấp đấu tranh và tôn thờ tuyệt đối vào bạo lực nên đã bao nhiêu lần họ đã thẳng tay tiêu giệt những người dân chủ, đàn áp nông dân, trí thức và các tôn giáo.

Nhiều thế hệ lãnh đạo CSVN đã lẫn lộn giữa mục tiêu và phương tiện, thậm chí lấy phương tiện làm mục tiêu. Như Hồ Chí Minh lúc đầu dùng học thuyết Marx và phương pháp cướp chính quyền của Lenin (phương tiện) để giải phóng đất nước, giành độc lập cho VN (mục tiêu). Nhưng sau khi cướp được chính quyền lại bắt dân phải tuyệt đối tuân theo chủ nghĩa Marx-Lenin, tôn thờ lí tưởng không tưởng “thế giới đại đồng”, xua bao nhiêu triệu người vào 30 năm chiến tranh làm nghĩa vụ quốc tế cho các đảng “anh em”. Quan điểm cực kì sai lầm này đã được một số chuyên viên cao cấp của chế độ cảnh báo ngay từ cuối thập niên 80 trong một số cuộc hội thảo do chính Tạp chí CS khi ấy tổ chức. Vì chính khi đó phe giáo điều bảo thủ trong Bộ chính tri đang tìm cách giành lại tay lái và chuẩn bị quay đầu sang chầu Bắc kinh.[ii]

Có nắm vững được hai chủ trương “thế giới đại đồng” và độc đảng theo “chuyên chính vô sản” của nhóm cầm đầu CSVN khi ấy mới hiểu được, vì sao đã có Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gởi Thủ trướng Trung quốc Chu Ân Lai 14.9.1958 nhìn nhận chủ quyền của Trung quốc trên biển Đông; đồng thời hoàn toàn im lặng trước việc Bắc kinh dùng hải quân đánh chiếm Hoàng sa của VN 1.1974, khi ấy đang dưới sự quản trị của Việt Nam Cộng hòa. Nhưng chính khi đó lại  cho đổ toàn bộ quân đội từ miền Bắc vào miền Nam để giết hại đồng bào mình! Và trong các sách giáo khoa của CSVN giảng dậy trẻ em VN trước 1974 cũng đã từng coi các đảo Hoàng sa-Trường sa là thuộc Trung quốc. Chính vì vậy trong Văn thư gởi Liên hiệp quốc 8.6.2014 nhà cầm quyền Bắc kinh đã dẫn chứng các văn kiện chính thức này của CSVN đối với các quần đảo tranh chấp để chứng minh lí lẽ của họ.[iii] Nghĩa là nhóm cầm đầu Bắc kinh hiện nay đã lợi dụng sự mơ tưởng hão huyền đến độ cực kì ngây thơ của nhà cầm quyền Hà nội để làm bằng chứng cho việc họ chiếm đóng Hoàng sa-Trường sa của VN!

Sau sự sụp đổ của các nước CS Đông Âu và Liên xô vào cuối thập niên 80 những người cầm đầu CSVN khi ấy (Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Lê Đức Anh…) vẫn theo tiêu chí giá trị Đảng trước nước sau, vì sợ chế độ toàn trị bị tiêu vong, hay ít nhất sẽ bị mất độc quyền; nên họ đã tin rằng nếu CS Trung quốc trụ được thì CSVN cũng trụ được; nghĩa là trong tình hình đen tối chung thì Bắc kinh cũng sẽ mở vòng tay cứu vớt Hà nội! Vì thế nhóm cầm đầu CSVN khi ấy đã cúi đầu thần phục, do đó mới có cuộc họp bí mật ở Thành Đô, Trung quốc vào đầu tháng 9.1990. Từ đó không chỉ “hợp tác chiến lược toàn diện” trên các bình diện đảng, nhà nước giữa hai bên trong chính trị, ngoại giao, quốc phòng, an ninh. Độc hại nữa là, hi vọng Bắc kinh sẽ vực dậy nền kinh tế đang phá sản của chế độ độc đảng ở VN, Hà nội còn mở toang cửa kinh tế cho Bắc kinh thả cửa làm ăn ở VN. Vì thế chỉ mới trên hai thập niên qua nền kinh tế VN đã gần như bị buộc chặt vào thị trường Trung quốc (từ nông sản, khoáng sản, nguyên liệu đều phụ thuộc vào thị trường Trung quốc; đại đa số các công trình hạ tầng đều nằm trong tay các công ti Trung quốc; kim ngạch nhập siêu từ Trung quốc từ 200 triệu USD (2001) lên tới gần 24 tỉ USD (2013).[iv]  Sự lệ thuộc vào kinh tế Trung quốc đã tới mức nguy hiểm, nên chính Trương Tấn Sang đã phải nhìn nhận: “Chỉ còn hơn một năm rưỡi thì đến ngày 1.1.2016 về thương mại hóa tự do Trung Quốc – ASEAN, nếu cứ lình sình như thế này thì đến ngày 1.1.2016, hàng hóa các loại của Trung quốc sẽ tràn ngập lãnh thổ Việt Nam”.[v]

Lệ thuộc kinh tế đã là nguy hiểm, nhưng nô lệ trong tư tưởng trong tâm lí với Bắc kinh của những người cầm đầu chế độ toàn trị Hà nội còn cực kì nguy hiểm hơn! Vài năm trước ngay tại Quốc hội Nguyễn Phú Trọng đã từng tuyên bố “Tình hình biển Đông không có gí mới”, rồi trước các Hội nghị Trung ương người cầm đầu chế độ còn gọi những lãnh tụ Bắc kinh, những kẻ đang xâm lấn biển đảo VN, là “Bạn“. Tới giữa tháng 6 sau khi giàn khoan HD 981 đã dựng chỗm trệ trong thềm lục địa VN, nhưng khi tiếp Dương Khiết Trì Nguyễn Phú Trọng vẫn xưng hô là “đồng chí”.[vi] Có hiểu như thế mới thấy được động cơ nào và nhằm mục tiêu gì trong tuyên bố của Nguyễn Phú Trọng ngày 1.7: “Đặc biệt là phải tập trung bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.”!

Những tuyên bố cực kì sai trái như trên của người cầm đầu chế độ toàn trị đã làm tê liệt ý chí cảnh giác của đảng viên cũng như nhân dân trước ý đồ của Bắc kinh, đồng thời đánh lạc toàn bộ sự theo dõi của dư luận quốc tế; không có cường quốc nào tin tưởng chế độ Hà nội dám đứng thẳng trước Bắc kinh! Chính chế độ độc tài suốt trên 60 năm khiến cho những người cầm đầu mới có thể làm mưa làm gió, đưa ra các tuyên bố vô trách nhiệm và các quyết định cực kì sai lầm, đồng thời ngăn cấm những quan điểm đúng đắn, đàn áp những tiếng nói trung thực, trong khi đó lại ca tụng những chuyện không tưởng viển vông và lấy thù làm bạn. Vì thế họ đang đẩy đất nước vào hoàn cảnh cực kì nguy hiểm như hiện nay!

Trong các nước Dân chủ đa nguyên đảng cầm quyền thường xuyên bị các chính đảng đối lập, các tổ chức dân sự và các báo chí độc lập theo dõi và kiểm soát các hoạt động. Vì thế các cuộc tranh luận công khai và thẳng thắn ngay tại quốc hội và trên các cơ quan báo chí làm cho đảng cầm quyền phải thận trọng và cân nhắc trước các quyết định ảnh hưởng trực tiếp tới vân mạng dân tộc và quyền lợi thiết thực của nhân dân. Nếu không thì đảng cầm quyền sẽ mất chính quyền khi đa số cử tri bỏ phiếu chống lại trong các cuộc bầu cử dân chủ tự do.

Dưới chế độ độc đảng toàn trị của ĐCSVN đã hoàn toàn không có các điều kiện trên. ĐCS một mình một chiếu, độc thoại, độc quyền, Quốc hội theo lối đảng cử dân bầu, trong đảng thì làm việc theo tập trung dân chủ khiến cho chỉ vài ông vua tập thể trong Bộ chính tri làm mưa làm gió, nhưng lại không phải chịu trách nhiệm cá nhân. Chính cơ chế sinh hoạt của chế độ độc đảng là mụ đỡ cho các tệ trạng xã hội như tham nhũng, gia đình trị, nhóm lợi ích. Nó cũng là thủ phạm gây ra những sai lầm nguy hiểm và kéo dài trong chính sách an ninh đối ngoại; vì không được nhân dân ủng hộ nên những người có quyền lực phải nhờ các thế lực bên ngoài che chở. Đây chính là hoàn cảnh của VN hiện nay dưới chế độ độc đảng. Nguy hiểm rõ ràng là, hiện nay những người cầm đầu chế độ toàn trị Hà nội đã bị biến thành những anh hề làm trò xiệc để Bắc kinh ngang ngược lấn biển, chiếm đảo và đang đe dọa nghiêm trọng chủ quyền và độc lập của VN!

Lúng túng với kẻ thù, ông nói gà bà nói vịt trong Bộ chính trị

Từ lệ thuộc tư tưởng và chính trị tới lệ thuộc kinh tế, thương mại ngày càng trầm trọng, khiến cho tứ trụ triều đình CS ở Hà nội đang rơi vào thế bị động và vô cùng lúng túng đặc biệt từ khi Bắc kinh đặt giàn khoan HD 981:

– Hội nghị Trung ương 9 của CSVN diễn ra đúng vào dịp Bắc kinh đặt giàn khoan HD 981, nhân dân cả nước lo ngại và phẫn uất, dư luận quốc tế rất quan tâm. Là đảng độc quyền và khẳng định là lực lượng lãnh đạo dân tộc, nhưng Bộ chính tri đã không cho Trung ương đảng thảo luận mà chỉ thông tin nhỏ giọt những gì họ cho phép. Vì vậy Hội nghị Trung ương 9 đã không có tuyên bố chung kết án các hành động xâm lấn ngang ngược của Bắc kinh.Mặc dầu theo Điều lệ Đảng Trung ương đảng là cơ quan cao nhất. Như thế cho thấy họ đòi lãnh đạo dân tộc, nhưng lại vô cảm và vô trách nhiệm với vận mệnh dân tộc! [vii]

– Cũng vào thời gian này Quốc hội khóa 13 đang họp kì 7 suốt 5 tuần cũng không giành ưu tiên một buổi họp đặc biệt về tình hình căng thẳng trên biển Đông sau khi Bắc kinh dựng giàn khoan HD 981. Cho nên cuối cùng Quốc hội cũng không ra được một tuyên bố hay nghị quyết kết án hành động xâm lấn ngang ngược của Bắc kinh. Mặc dầu theo Hiến pháp thì Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất! Khi Quốc hội bế mạc, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã không dám ra trước báo chí trả lời tại sao Quốc hội lại vô cảm trước bức xúc của nhân dân, nên đã giao cho Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc trả lời ấp úng và lúng túng về việc tại sao Quốc hội không ra được một tuyên bố kết án Bắc kinh xâm lấn.[viii] Trong khi đó một nhân vật thân cận của Nguyễn Phú Trọng,Trần Quốc Thuận, cựu Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, đã nói thẳng“Quốc hội Việt Nam chưa ra nghị quyết riêng về Biển Đông vì tình hình chưa ‘đặc biệt nghiêm trọng’ ” !!![ix]Nhận định này của ông Thuận phản ảnh quan điểm của Nguyễn Phú Trọng khi còn là Chủ tịch Quốc hội: „Tình hình biển Đông không có gì mới!“

– Giữa tháng 6 sau 6 tuần ngang ngược dựng giàn khoan HD 981 trong thềm lục địa VN và đánh phá các tầu tuần tra của VN Bắc kinh đã cử Dương Khiết Trì, người đứng đầu ngành ngoại giao Trung quốc, sang dọa dẫm VN và ra lệnh: „Điều bức xúc nhất hiện nay là Việt Nam cần phải đình chỉ quấy nhiễu đối với sự tác nghiệp của Trung Quốc“.[x] Nhưng thật là quái đản, ngày 18.6 Nguyễn Phú Trọng, người cầm đầu chế độ toàn trị vẫn gọi Dương Khiết Trì là „đồng chí“![xi] Không những thế vì sợ Bắc kinh nên Bộ chính tri lại cản không cho PhóThủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh sang Washington thảo luận với Mĩ về tranh chấp biển Đông với Bắc kinh theo lời mời cùa ngoại trưởng Kerry. Nhưng lại cho Tôn Nữ Thị Ninh, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, thúc giục Liên minh Âu châu (EU) lên tiếng kết án Trung quốc. Thật là lúng túng, mâu thuẫn cùng cực! [xii]

– Trong các tuần gần đây Nguyễn Tấn Dũng lại đóng vai anh hùng rơm, mượn cơ hội tuyên bố rất nổ trong một số dịp liên quan tới giàn khoan HD 981. Nhưng khi cần có tiếng nói của người cầm đầu chính phủ thì ông lại tránh né. Như việc ông Dũng không dám ra trước Quốc hội tuyên bố kết án Bắc kinh bành trướng trên biển Đông. Từ lâu mọi người đầu biết là anh Ba Dũng hay „Đồng chí X“  trước sau vẫn chỉ là người „đón gió“ nhưng không dám „đổi cờ! Mỗi khi xẩy ra những bức xúc trong dư luận thì Nguyễn Tấn Dũng lại dùng ngôn ngữ rất nổ và hô hoán lớn, nhưng sau khi đánh trống xong thì quẳng dùi đi, chỉ muốn mượn gió bẻ măng mà thôi! Mới đầu năm nay Nguyễn Tấn Dũng đã từng quả quyết „phải làm lễ kỉ niệm 19.1 và 17.2“ và phất cao „ngọn cờ dân chủ“.[xiii] Nhưng sau khi Tập Cận Bình ra lệnh qua đường giây nóng thì ông Dũng lại im thin thít. 8 năm dưới thời Nguyễn Tấn Dũng làm thủ tướng cũng là thời kì kinh tế VN càng lệ thuộc Trung quốc, những người dân chủ bị giam cầm và đàn áp thô bạo nhất; chính ông ra lệnh cấm biểu tình chống Bắc kinh xâm lấn và cấm chuyên viên, trí thức được phản biện công khai và cũng là thời kì tham nhũng trắng trợn nhất! [xiv]

***

Sự phá sản của chủ nghĩa Marx-Lenin vào cuối thập niên 80 với sự tan rã của Liên xô và các nước CS Đông Âu như trận động đất chính trị, nhưng đã không làm những người CSVN độc tài bảo thủ thức tỉnh. Trái lại vì đặt quyền lợi “đảng trước nước sau” nên họ đã hốt hoảng chạy sang Thành Đô cúi đầu xin bao bọc của phương Bắc. Hành động hốt hoảng này của họ cũng giống như triều đình nhà Nguyễn trước đây. Khi ấy tiếng súng đại bác của phương Tây cũng không đánh thức được các vua quan bạc nhược nhà Nguyễn thức tỉnh để canh tân đất nước kịp thời như Minh trị thiên hoàng ở Nhật. Triều đình nhà Nguyễn cũng đã hốt hoảng chạy sang Bắc kinh cầu viện, nhưng khi ấy chế độ phong kiến ở Trung quốc cũng không khá hơn, nên cuối cùng Triều đình Nguyễn không tránh khỏi tan rã.

Ngày nay với chủ trương đảng trước nước sau và đàn áp nhân dân nên chế độ toàn trị CSVN không dám đụng đến chân lông „Bạn bốn tốt“, mặc dù Bắc kinh đang ngang ngược xâm lấn biển, đảo của VN. Đây là lập trường và thái độ thực sự của Bộ chính tri và đã được người cầm đầu tuyên bố ngày 1.7 đã nói ở trên!

Nhưng thái độ ươn hèn này đang đẩy VN vào lệ thuộc phương Bắc và đế quốc kiểu mới của Bắc kinh đang trở thành kẻ thù nguy hiểm trực tiếp của dân tộc ta. Vì thế chế độ toàn trị CSVN sẽ không có lối thoát! Hoàn cảnh của nhóm cầm đầu CSVN hiện nay rõ ràng như „Cá cắn câu biết đâu mà gỡ, chim vào lồng biết thuở nào ra“ !

Nhân dân VN – đi đầu là trí thức, thanh niên, kể cả những đảng viên CS tiến bộ- quyết không nuôi ảo tưởng, quyết không để „trái tim nhầm chỗ để trên đầu“. Một số nhân sĩ trong nước đã cảnh báo là, những người dân chủ chúng ta không được để cảm tính thay cho lí trí, chỉ như vậy mới không bị đánh lừa của bất cứ ai chỉ „đón gió“ nhưng lại không dám „đổi cờ“ trong việc đấu tranh chống độc tài và bảo vệ đất nước![xv]

ÂU DƯƠNG THỆ

Ghi chú:

[i] . Quân đội Nhân dân điện tử 1.7

[ii] . Sách nghiên cứu của tác giả sẽ được xuất bản.

[iii] . Đài Bắc kinh 9.6

[iv] . Thụy My/Phạm Chí Dũng “Vì sao Kinh tế VN quá khó để thoát Trung”, RFI 26.6.14.

[v] . Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nói trước cử tri tại Sài gòn ngày 28.6, Lao động 28.6

[vi] . Cộng sản 18.6

[vii] . Xem cùng tác giả „Sự phá sản trong chính sách Trung quốc chứng minh sự sai lầm cực kì nguy hiểm của nhóm cầm đầu chế độ toàn trị“, trong http://www.dcpt.org/thoisu/baithoisu2014/adt175.htm

[viii] . VN Economy 24.6

[ix] . Trần Quốc Thuận, cựu Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội trả lời phỏng vấn của BBC 24.6.

[x] . Đài Bắc kinh 18.6.

[xi] . Cộng sản 18.6

[xii] . Song Chi, „VN –tâm lí „chờ sung rụng“ và trạng thái „bị lờn thuốc““, RFA 25.6

[xiii] . Xem cùng tác giả: „Thông điệp năm mới 2014:Nguyễn Tấn Dũng đóng đúng vai anh „treo đầu dê bán thịt chó“ ! Trong: http://www.dcpt.org/thoisu/baithoisu2014/thongdiep.htm

[xiv] . Các hành động „đón gió nhưng không dám đổi cờ“ của ông Dũng trong thời gian làm Thủ tướng xem….“Quốc hội nhảy múa theo đồng chí mếu và đống chí X:„Nguyễn Như Vân“ muôn năm !“ http://www.dcpt.org/thoisu/baithoisu2012/qh2811.htm

„Trọng ngố, Dũng hèn đang đưa đất nước tới vực thẳm !Và con đường của chúng ta“ trong http://www.dcpt.org/thoisu/baithoisu2012/hntu6.htm

[xv] . Nguyễn Quang A, „Trái tim nhầm chỗ để trên đầu!“ , Dân quyền 26.5. Hà Sĩ Phu,Muốn thoát Hán phải thoát Cộng!“, Dân quyền 26.5