Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và thông điệp Lòng Thương Xót Chúa

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và thông điệp Lòng Thương Xót Chúa

Chuacuuthe.com

VRNs (27.4.2014) – Sài Gòn – “Tôi coi thông điệp này là một nhiệm vụ đặc biệt của mình. Đấng Quan Phòng đã chỉ định nó cho tôi trong bối cảnh hiện nay của con người, của Hội Thánh và thế giới.”(Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, ngày 22 tháng Mười Một năm 1981)

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II vào đầu năm 1940 đã biết đến thánh Faustina và những mạc khải được ban cho sơ từ Chúa Giêsu. Khi ấy, ĐTC đang là một sinh viên theo học một cách bí mật tại một chủng viện ở Krakow, để tiến tới chức linh mục.

Đức Gioan Phaolô II trong một lần chủ sự giờ Chầu Thánh Thể. Ảnh communio

Đức Gioan Phaolô II trong một lần chủ sự giờ Chầu Thánh Thể. Ảnh communio

Lần đầu tiên ngài nghe nói về những mạc khải tư này từ một chủng sinh khác tên là Andrew Deskur (Andrzej Maria Deskur), người sau này cũng trở thành một Đức Hồng Y. Andrew đã nói với ngài về thánh Faustina Kowalka, cũng như những thông điệp về Lòng Thương Xót Chúa mà sơ tuyên bố đã nhận được từ Chúa.

Cũng trong khoảng thời gian sơ nhận được những thông điệp từ Chúa, Karol Wojtyla bị buộc phải làm việc như một công nhân tại mỏ đá Zakrzowek và sau đó là tại nhà máy hóa chất Solvay, dưới sự chiếm đóng của các lực lượng Đức Quốc xã. Cả hai địa điểm này đều nằm gần tu viện của dòng Đức Mẹ Nhân Lành, nơi thánh Faustina được chôn cất lần đầu.

Chàng trai trẻ Karol Wojtyla thường đi bộ đến tu viện trong chiếc giày gỗ sau một ngày làm việc chăm chỉ. Sau này, khi trở thành linh mục và sau đó là một giám mục, ngài vẫn thường đến đây để cầu nguyện và tĩnh tâm. Sau khi thánh Faustina qua đời, chính Karol Wojtyla, trong vai trò là Tổng Giám Mục Krakow, là người đầu tiên xem xét việc đệ trình lên Thánh Bộ Tuyên Thánh trường hợp của thánh Faustina, như một nhân vật đáng được tuyên chân phước.

Trong thời gian diễn ra Công Đồng Vatican II, ngài đã tiếp cận với Đức Hồng y Ottaviani để trình bày mong muốn của các tín hữu Ba Lan, về việc nâng nữ tu Faustina lên bàn thờ. Đức Hồng y Ottaviani đã nói với ngài rằng, bước đầu tiên là phải thu thập tất cả các lời khai của những người biết sơ ấy khi họ vẫn còn sống.

Đức Tổng Giám Mục Karol Wojtyla sau đó đã ủy thác cho vị Giám mục phụ tá là Đức cha Julian Groblicki, trách nhiệm thu thập các thông tin để bắt đầu ‘Tiến trình Thông tin’ về đời sống và nhân đức của thánh Faustina. Tháng 9 năm 1967, tiến trình được hoàn tất, và vào tháng Một năm 1968, ‘Tiến trình tuyên Chân phước’ được khởi động. Vì kết quả tích cực từ ‘tiến trình thông tin’, các yêu cầu thông tin từ nhiều nơi, đặc biệt từ Ba Lan và cách riêng là từ Đức Tổng Giám Mục Wojtyla, đã được gửi đến Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin. Họ thắc mắc liệu những điều cấm trong Thông báo 1959 của Bộ vẫn còn hiệu lực hay chăng? Trong gần 20 năm, Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin đã cấm việc lan truyền cuốn nhật ký của vị nữ tu thần bí này. Để trả lời cho những yêu cầu thông tin trên, Bộ đã đưa ra một ‘Thông báo’ mới vào ngày 15 tháng Tư năm 1978, trong đó đề cập: “Thánh Bộ giờ đây đã có trong tay nhiều tài liệu nhiều gốc chưa được biết đến vào năm 1959, và đã xem xét những tình huống thay đổi một cách sâu sắc, cũng như đã cứu xét ý kiến ​​của nhiều Giám mục Ba Lan. Giờ đây Thánh Bộ tuyên bố, những điều cấm chứa trong ‘Thông báo 1959′ không còn mang tính ràng buộc.”

Vào Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, ngày 30 tháng 11 năm 1980, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã công bố thông điệp thứ hai của ngài ‘Dives in Misericordia’ (Đấng Giàu Lòng Thương Xót), trong đó ngài mô tả lòng thương xót của Thiên Chúa như là sự hiện diện của một tình yêu, thứ lớn hơn bất kỳ sự ác nào, cũng như lớn hơn mọi tội lỗi và cả cái chết. Cũng trong thông điệp này, ngài kêu gọi Hội Thánh dâng hiến chính mình trong việc khẩn cầu Lòng thương xót của Thiên Chúa cho toàn thể thế giới.

Việc công bố thông điệp thứ hai này có lẽ là sự kiện quan trọng nhất trong cuộc đời của Đức Thánh Cha, và trong mối liên hệ của ngài với thánh Faustina cũng như với thông điệp Lòng Thương Xót Chúa.

Trong vai trò là Tổng Giám Mục của Krakow, Karol Wojtyla đã bênh vực thánh Faustina khi uy tín của sơ và thông điệp Lòng Thương Xót Chúa bị đặt nghi vấn tại Rôma. Việc này xảy ra là do một bản dịch lỗi ‘cuốn nhật ký của sơ’ bằng tiếng Ý, được gửi đến Thánh Bộ Bảo vệ Đức Tin.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói rằng ngài cảm thấy “rất gần gũi với thánh Faustina và đã nghĩ về sơ, cũng như về thông điệp Lòng Thương Xót Chúa, khi ngài bắt đầu khởi sự thông điệp ‘Đấng Giàu Lòng Thương Xót’ (Dives in Misericordia).” Ngày 22 tháng Mười năm 1981, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã có chuyến tông du bên ngoài Rôma đầu tiên. Và vào ngày Lễ Chúa Kitô Vua, ngài đã viếng thăm trong một vài ngày Đền thánh Tình Yêu Thương Xót tại Collevalenza. Một hội nghị quốc tế cũng đã được tổ chức tại đây để cùng tìm hiểu thông điệp ‘Đấng Giàu Lòng Thương Xót’.

Sau khi cử hành Thánh Lễ, ngài đã tuyên bố công khai một cách mạnh mẽ về tầm quan trọng của thông điệp Lòng thương xót. Ngài nói: “Một năm trước, tôi đã công bố thông điệp ‘Đấng Giàu Lòng Thương Xót’. Điều đó đã khiến tôi đến ngôi Đền Tình yêu Thương xót hôm nay đây. Với sự hiện diện của tôi, tôi muốn xác nhận một lần nữa những thông điệp từ thông điệp đó. Tôi muốn đọc lại nó [cho anh chị em] và chuyển giao nó một lần nữa. Ngay từ ngày khởi đầu sứ vụ tại ngai tòa thánh Phêrô ở Rôma, tôi đã coi thông điệp này là một nhiệm vụ đặc biệt của mình. Đấng Quan Phòng đã chỉ định nó cho tôi trong bối cảnh hiện nay của con người, của Hội Thánh và của thế giới. Có thể nói chính xác rằng, chính bối cảnh này đã chỉ định thông điệp ấy cho tôi như một nhiệm vụ của tôi trước mặt Thiên Chúa.” (Trích từ bài giảng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tại Đền Tình yêu Thương xót tại Collevalenza, Ý, ngày 22 tháng 11 năm 1981)

Vào Chúa Nhật về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, ngày 10 tháng Tư năm 1991, hai năm trước khi Faustina được tuyên Chân phước, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói về thánh Faustina, liên kết thánh nữ với thông điệp của ngài và nhấn mạnh vai trò của thánh nữ trong việc mang thông điệp Lòng thương xót ra toàn thế giới, “Những lời trong thông điệp Đấng Giàu Lòng Thương Xót (Dives in Misericordia) đặc biệt gần gũi với chúng ta. Chúng nhắc lại hình ảnh của một vị Tôi Tớ Chúa, thánh Faustina Kowalka. Vị nữ tu giản dị này đã làm cho thông điệp Phục Sinh của Chúa Kitô Thương xót trở nên gần gũi hơn với toàn thế giới.”

Vào Chúa Nhật Thương Xót, ngày 18 tháng Tư năm 1993, thánh Faustina được ĐTC Gioan Phaolô II tuyên Chân phước tại quảng trường thánh Phêrô. Ngài bắt đầu bài giảng với một trích đoạn từ cuốn nhật ký của vị tân Chân phước: “Tôi cảm thấy sứ mạng của tôi sẽ không chấm dứt sau cái chết của tôi, nhưng đó sẽ là khởi đầu.” Và quả thật đúng như thế! Sứ mạng của chị vẫn tiếp tục và đang sinh hoa kết quả lạ lùng. Thật sự lạ lùng cách mà lòng sùng kính của chị đối với Chúa Giêsu nhân lành đang loan truyền ra khắp thế giới đương đại của chúng ta, và đem về rất nhiều linh hồn!

“Ở nơi nào mà thế giới có thể tìm thấy chỗ nương tựa và ánh sáng của hy vọng, nếu không phải là nơi Lòng Thương Xót Chúa?” đó là một trong những chủ đề của triều Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Trong buổi đọc kinh ‘Lạy Nữ Vương Thiên Đàng’ (Regina Caeli), ngày 23 tháng 4 năm 1995, ngay sau khi kết thúc buổi cử hành Chúa Nhật Lòng Thương Xót tại nhà thờ Thánh Linh, ĐTC Gioan Phaolô II đã khuyến khích các tín hữu đích thân trải nghiệm Lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài nói: “một cách đặc biệt, hôm nay là ngày Chúa nhật tạ ơn, tạ ơn vì sự tốt lành của Thiên Chúa đã thể hiện ra cho con người trong toàn bộ mầu nhiệm Phục Sinh”.

“Đó là lý do tại sao Chúa nhật này còn được gọi là Chúa Nhật về Lòng Thương Xót Chúa của Thiẹn Chúa. Về cơ bản, lòng thương xót của Thiên Chúa, như qua kinh nghiệm thần bí của thánh Faustina Kowalka, người đã được nâng lên bàn thờ vào năm 2000, giúp chúng ta hiểu và tiết lộ một cách chính xác sự thật này: sự thiện chiến thắng trên sự dữ, sự sống mạnh hơn cái chết, và tình yêu của Thiên Chúa thì quyền năng hơn tội lỗi.”

“Tất cả điều này được biểu lộ trong mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô, nơi đó Thiên Chúa xuất hiện trước chúng ta như một người Cha có trái tim nhân hậu, người không bỏ cuộc khi đối diện với sự vô ơn của con cái mình, và luôn sẵn sàng tha thứ.”

“Chúng ta phải đích thân trải nghiệm lòng thương xót này, để đến lượt mình, chúng ta cũng cảm thấy ước muốn có khả năng thương xót. Chúng ta hãy học cách tha thứ! Vòng trôn ốc của hận thù và bạo lực đã làm vấy bẩn vết máu lên hướng đi của rất nhiều cá nhân và quốc gia, cái chỉ có thể được phá vỡ bởi phép mầu của sự tha thứ.”

Khi ĐTC Gioan Phaolô II có chuyến hành hương đến đền Lòng Thương Xót Chúa tại Lagiewniki, Ba Lan, ngày 7 tháng Sáu năm 1997, ngài đã có một bài huấn đức rất cá nhân trước các nữ tu của Dòng Đức Mẹ Nhân Lành (hội dòng của thánh nữ Faustina), trong đó ngài suy niệm về Lòng Thương Xót Chúa, đưa ra một chứng từ cá nhân tuyệt vời của thánh Faustina và thông điệp của chị, “Tôi đến đền thánh này như một khách hành hương, để tham dự vào bài thánh ca bất tận tôn vinh Lòng Thương Xót Chúa. Tác giả thánh vịnh của Thiên Chúa đã xướng bài thánh ca ấy, đã biểu lộ những gì mà mọi thế hệ sẽ lưu giữ và tiếp tục lưu giữ, như hoa quả quý giá nhất của đức tin.”

“Không có gì khiến con người cần hơn là Lòng thương xót Chúa, đó là tình yêu rộng lượng, từ bi, tình yêu nâng con người lên trên sự yếu đuối của họ, để vươn tới chiều cao vô hạn là sự thánh thiện của Thiên Chúa. Tại nơi đây, chúng ta đặc biệt ý thức được điều này. Trên thực tế từ nơi đây, chính Đức Kitô đã chọn để truyền đi thông điệp của Lòng Thương Xót Chúa cho thế hệ chúng ta qua thánh nữ Faustina. Đó là một thông điệp rõ ràng và dễ hiểu đối với mọi người. Bất cứ ai cũng có thể đến đây, nhìn vào bức ảnh Chúa Giêsu đầy lòng thương xót này, trái tim của ngài phát ra tia sáng ân sủng, và thánh nữ Faustina đã nghe trong sâu thẳm linh hồn của Thiên Chúa rằng: “Đừng sợ, Ta ở với con luôn mãi.” (Nhật ký, 586)

“Và nếu người nào đáp trả với một trái tim chân thành, ‘Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa’, người ấy sẽ tìm được sự an ủi giữa những lo âu và sợ hãi. Thông điệp Lòng thương xót Chúa đã luôn luôn gần gũi và trở nên thân thương đối với tôi. Dường như lịch sử đã ghi khắc điều đó trong kinh nghiệm bi thảm của cuộc Thế chiến thứ hai. Trong những năm tháng khó khăn ấy, [thông điệp Lòng thương xót Chúa] là một hỗ trợ đặc biệt và là nguồn hy vọng vô tận, không chỉ cho người dân Krakow nhưng cho toàn thể quốc gia này. Đây cũng là kinh nghiệm cá nhân của tôi, cái mà tôi mang theo mình khi tiến tới ngai tòa thánh Phêrô, và theo một cách nào đó, điều ấy đã khuôn đúc nên hình ảnh của triều đại Giáo Hoàng này.”

Vào Chúa nhật Thương xót ngày 30 tháng Tư năm 2000, trước gần 250.000 khách hành hương và các máy quay của truyền hình thế giới, ĐTC Gioan Phaolô II đã tuyên thánh cho nữ tu Faustina Kowalka, ‘vị Tông Đồ vĩ đại của Lòng Thương Xót Chúa’. Ngài đồng thời cũng chấp thuận thông điệp Lòng Thương Xót Chúa và việc sùng kính này bằng cách tuyên bố, Chúa nhật thứ hai sau lễ Phục Sinh là ‘Chúa Nhật về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa’ cho toàn thể Giáo Hội Hoàn vũ. Trong một bài giảng đặc biệt dưới triều giáo hoàng của mình, ĐTC Gioan Phaolô II đã lặp đi lặp lại ba lần rằng, thánh Faustina là một ‘món quà của Thiên Chúa ban tặng cho thời đại của chúng ta.’ Chị đã biến thông điệp của Lòng Thương Xót Chúa trở thành ‘cầu nối tiến tới thiên niên kỷ thứ ba.’ Sau đó ĐTC nói tiếp, “bởi hành động tuyên thánh cho nữ tu Faustina, tôi muốn truyền đi thông điệp này cho thiên niên kỷ thứ ba. Tôi muốn truyền nó cho tất cả mọi người, để họ có thể học và nhận biết tốt hơn gương mặt đích thực của Thiên Chúa và gương mặt đích thực của người thân cận. Trong thực tế, tình yêu Thiên Chúa và tình yêu dành cho người thân cận là không thể tách rời.”

Cổ vũ mọi người cùng đồng thanh với Đức Maria, Mẹ của Lòng Thương Xót, và với thánh Faustina, “người đã biến đời sống mình thành một bài ca của lòng thương xót”, để “ca tụng tình thương Chúa đến đời đời.” (Tv 89, 2) ĐTC kết thúc bài giảng với những lời sau đây, “Anh chị em thân mến, thánh Faustina là một một món quà của Thiên Chúa dành cho thời đại của chúng ta, một món quà đến từ miền đất Ba Lan dành cho toàn thể Hội Thánh. Ngài đã cho chúng ta biết về chiều sâu của Lòng thương xót Chúa; ngài giúp chúng ta sống kinh nghiệm đó và làm chứng về nó giữa anh chị em của chúng ta. Xin cho thông điệp của ánh sáng và hy vọng này được lan truyền ra khắp thế giới, thúc đẩy những tội nhân hoán cải, làm dịu đi sự kình địch và hận thù, và giúp các cá nhân cũng như các quốc gia thực hành tình huynh đệ.”

Những mạc khải tư cho thấy việc sùng kính Lòng Thương Xót Chúa, là một chỉ thị rõ ràng và mạnh mẽ được trao cho Hội Thánh. Chúng ta đã thấy trong lễ tuyên thánh của thánh nữ Faustina sự hoàn tất của mệnh lệnh này. Bằng việc tuyên thánh cho vị nữ tu, Hội Thánh đã thiết lập việc sùng kính Lòng Thương Xót Chúa cho tất cả mọi người. Vì vậy ngày hôm nay, cùng với Đức Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chúng ta hãy nhìn lên gương mặt của Chúa Kitô Phục sinh, chúng ta hãy cầu nguyện và nói lên với niềm hy vọng vững vàng rằng, Lạy Chúa Giêsu là Đấng Phục Sinh, con tín thác nơi Ngài.

Trong chuyến viếng thăm Ba Lan cuối cùng vào ngày 17 tháng Tám năm 2002, ĐTC Gioan Phaolô II đã cung hiến Vương Cung Thánh Đường Lòng Thương Xót Chúa, tiếp giáp với đền Lòng Thương Xót Chúa. Cũng vào thời điểm đó, ĐTC đã trao phó toàn thế giới cho Lòng Thương Xót Chúa.

Phỏng dịch và thêm một số chi tiết từ bài viết của tác giả Val Conlon

Đức Thiện, VRNs

 

Hạnh phúc vì Tin

Hạnh phúc vì Tin

Chuacuuthe.com

VRNs (26.04.2014) – Biến cố tử nạn của Đức Giêsu chỉ mới diễn ra trong 3 ngày, các môn đệ còn vẫn chưa hết bàng hoàng, hoảng sợ thì đã nhận được tin báo Ngài sống lại. Như vậy, để tin việc phục sinh ấy chẳng dễ chút nào. Nhất là đối với các môn đệ, những người đã tận mắt chứng kiến cuộc bắt bớ của Ngài từ trong vườn Giệtsimani cho đến cái chết đau thương trên núi Sọ. Nỗi tang tóc, ảm đạm vẫn còn chưa ngớt trong các ông, họ tụ họp với nhau mà phải cửa đóng then cài vì rất đỗi hoảng sợ.

Khó tin chẳng phải không thể tin, vì hằng ngày theo chân Đức Giê suđi rao giảng, các ông không ít lần chứng kiến phép lạ của Ngài khi cho người đã qua đời được trở về từ cõi chết. Nhưng có lẽ phần lớn là do quá sợ trước cái chết của Thầy mình, chen lẫn sự tuyệt vọng.

Sự hiện diện của Đức Giêsu trong lúc này giữa các ông thật là một niềm an ủi lớn lao, cả vật chất lẫn tinh thần. Không những được tận mắt chứng kiến, sờ tận tay người mà tưởng rằng đã vĩnh viễn rời xa họ, mà còn được củng cố niềm tin và sức mạnh vào lý tưởng, vào con đường họ đã chọn, đã đi.

Đức Giêsu đã trỗi dậy thật từ cõi chết khẳng định sự toàn thắng của thế giới sự thiện trước bóng tối tội lỗi và sự ác mà thế gian đã cướp mất. Ngài đã trả lại cho con người hạnh phúc nguyên thủy và bình an đích thực, nguồn bình an đến từ Thiên Chúa: “Bình an cho anh em!” (Ga 20, 21a)

Khi đã lãnh nhận được nguồn bình an đích thực từ Thiên Chúa, Đức Giêsu mong muốn chúng ta cũng can đảm ra đi loan báo và làm chứng tin vui cứu độ cho mọi người: “Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em.” (Ga 20, 21b)

Ông Tôma vì vắng mặt nên đã không tin, ông đòi hỏi: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” (Ga 20, 25) Tám ngày sau, Đức Giêsu đã hiện ra cho ông thỏa mãn yêu cầu: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” (Ga 20, 27)

Nỗi hoài nghi, ngờ vực của Tôma cũng chính là tâm trạng của mỗi người chúng ta trong cuộc sống thường nhật. Mỗi khi gặp gian nan, thử thách, đau khổ, thất bại, chúng ta cũng mất niềm tin vào Thiên Chúa và hoài nghi lòng thương xót, tình yêu quan phòng của Ngài. Nhất là trong thời đại ngập chìm sự ác của thế giới ngày nay, người ta như còn không tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa nữa, bởi sức mạnh của đồng tiền và quyền lực đang mỗi ngày xâm chiếm địa cầu. Bóng tối che khuất ánh sáng, ánh trăng “tội lỗi” của thế gian che khuất ánh sáng chân lý của mặt trời. Biết đến khi nào mọi người mới biết cất lên lời tuyên tín: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20, 28)

Chỉ vì đã được thấy nên Tôma mới tin, thật là phúc cho những ai, không thấy nhưng vẫn tin! (x. Ga 20, 29)

Lạy Chúa, không ai có thể lên đến mặt trời vì sức nóng tột độ của nó, con người cũng không thể nào diện đối diện với Ngài vì ánh sáng sự thiện tuyệt hảo nơi Ngài chỉ vì bất toàn, tội lỗi. Biết mình không thể chạm tới nhưng con vẫn tin. Tin vào sự toàn thắng của chân lý. Niếm tin ấy đã cho con sức mạnh tồn tại giữa bóng đêm tội lỗi đầy bất công này. Nhưng niềm tin của con còn yếu kém quá, mỏng manh và leo lắt như ngọn đèn trước gió. Xin giúp con có được nguồn bình an phục sinh đích thực, để con tin rằng Thiên Chúa đã sống lại vì con và cho con. Cho dù ngày sau có phải ra sao, nhưng hôm nay con vẫn là kẻ diễm phúc vì đã tin và can đảm tuyên tín niềm tin!

M. Hoàng Thị Thùy Trang.

Tình yêu cứu rỗi và Tông đồ tân tòng

Tình yêu cứu rỗi và Tông đồ tân tòng

Chuacuuthe.com

VRNs (26.4.2014) – Hà Nội – Một “tân tòng một tuổi”, nghĩa là người này mới theo đạo được một năm, liệu có thể làm tông đồ cho Chúa được không? Xin thưa được! Đó là câu truyện về một cô gái trẻ không Công giáo từ một làng quê lên Sài Gòn kiếm sống. Cô quen một anh chàng tài xế và mang thai. Gia đình cô ở quê nhất định không chấp nhận đứa nhỏ và bảo phá. Còn tay tài xế kia cũng vội bỏ chạy với lời nhắn: “Hãy tự xử!” Nhưng cô gái trẻ đã can đảm giữ lại bào thai. Một ngày mưa gió tối trời, tay ẵm đứa con đỏ hỏn vừa rời khỏi bệnh viện phụ sản (cũng được miễn phí tất cả vì lấy đâu ra tiền trả!), cô gái lê bước trên con đường gần công viên Lê Thị Riêng (Q.10). Cô Chú Mười đang trên đường về nhà bỗng nhận thấy và dừng lại hỏi thăm. Thấy tình cảnh côi cút đáng thươngcủa hai mẹ con, coi như do Chúa gửi đến cho mình nên Cô Chú liền hết lòng giúp đỡ: nào tiền nhà ở, tìm việc, tiền ăn uống, sữa, thuốc, tiền học, nào là trông giữ đứa con cho mẹ đi làm, khi đau ốm,… Gia đình Cô Chú Mười đã thật sự trở thành mái ấm mới cho hai mẹ con. Còn gia đình ruột ở quê và họ hàng gần xa vẫn không hề quan tâm cứu giúp.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Giờ đây, sau năm năm với bao nhiêu truân chuyên không sao tả hết, nhưng nhất là tình thương và sự giúp đỡ không mệt mỏi của Cô Chú Mười, bào thai “chết hụt” kia (mà Cô Mười vẫn gọi là “bị ba người muốn giết”), nay đã là một cô bé gái năm tuổi xinh xắn bụ bẫm như một thiên thần, còn cô gái trẻ kia cũng đã chín chắn hơn rất nhiều. Cảm động tấm lòng vàng của ân nhân cứu mạng, cách đây một năm, hai mẹ con đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy gia nhập Hội Thánh. Tháng năm này, hai mẹ con sẽ mừng “thôi nôi” một năm được làm con Chúa. Hạnh phúc trọn vẹn dù chưa đến với hai mẹ con, vì chưa được gia đình ruột nhìn nhận, nhưng được trở thành con của Chúa đã là một niềm vui rất lớn cho hai mẹ con. Nhờ đức tin vào Chúa, cô gái trẻ tân tòng đã tìm lại được niềm vui và hy vọng hạnh phúc trong cuộc sống. Giờ đây, cô không còn mơ ước gì hơn, chỉ mong mạnh khỏe làm việc kiếm đủ tiền trả tiền phòng trọ cho hai mẹ con.

Tuần Thánh vừa qua, như mọi khi, Cô Chú Mười cũng phải thu xếp để trông con cho cô tân tòng kia đi tham dự đầy đủ các buổi tĩnh tâm ở nhà thờ cũng như các nghi thức của Tuần Thánh. Từ khi theo đạo, cô này rất khao khát được hiểu biết nhiều về Chúa và đạo. Vài lần tôi cũng mua sách đạo cho hai mẹ con và họ rất thích. Cô con gái nhỏ rất sáng dạ, nghe mẹ đọc truyện trong các sách đó đã thuộc hết. Đặc biệt, lòng đạo đức của cô gái tân tòng cũng đã tác động đến người khác. Tuần Thánh vừa qua, khi nhận thấy những người đạo gốc cùng trọ chung nhà không đi lễ nhà thờ, cô gái trẻ này đã can đảm nhắc nhở họ hãy đi xưng tội và rước lễ. Dĩ nhiên, nhóm người đạo gốc kia đã quay lại cười cô gái tân tòng này. Nhưng dù sao, họ cũng phải nhìn nhận và thốt lên rằng cô gái tân tòng này quả thật rất sốt sắng và đạo đức!Đôi khi ta tự hỏi: Tân tòng và đạo gốc, chưa chắc ai hơn ai phải không?

Tôi tự hỏi không biết chuyện gì sẽ xảy ra với cô gái trẻ này nếu cô không được Cô Chú Mười giúp trong một đêm mưa tăm tối cách đây năm năm? Liệu chúng ta hôm nay có thể có một tông đồ tân tòng hay không?

LM. JM. Hà Ngọc Phú CSsR

http://nhomloichuadcct.blogspot.com

 

YÊU CHO ĐẾN CÙNG

YÊU CHO ĐẾN CÙNG

Thánh Gioan viết: “Chúa Giêsu đã thương yêu những kẻ thuộc về Người còn ở thế gian, và Người yêu họ đến cùng”.  “Yêu cho đến cùng” không phải chỉ có nghĩa là yêu cho đến giây phút cuối cùng mà còn có nghĩa là yêu hết mình.  Đức Giêsu đã dùng hết mọi phương thế để biểu lộ tình yêu của Người và của Cha Người cho chúng ta.

1. Tình yêu của Đức Kitô

Phương cách thứ nhất là mầu nhiệm Nhập thể: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, đồng bản tính, đồng quyền năng và đồng vinh quang với Chúa Cha.  Nhưng vì thương yêu loài người, Người đến sống giữa chúng ta.  Người đã mặc lấy thân xác loài người như thế, mục đích là chia sẻ thân phận yếu hèn khổ đau của loài người và đồng thời thông ban cho loài người thần tính của mình, tức địa vị là Con Thiên Chúa, và cùng với thân tính ấy là sự sống đời đời.  Chính Đức Giêsu đã nói với ông Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).  Qua mầu nhiệm nhập thể của Đức Giêsu, chúng ta thấy yêu là đến với loài người, là thông cảm, là chia sẻ.

Phương cách thứ hai mà Đức Giêsu đã dùng để biểu lộ tình yêu của Người, được cụ thể hóa nơi cử chỉ Người quì xuống rửa chân cho các môn đệ.  Rửa chân là công việc của người nô lệ trong nhà đối với chủ mình.  Đó là công việc hèn hạ nhất.  Việc rửa chân mà Đức Giêsu làm đây, là một dụ ngôn bằng hành động.  Nó diễn tả cuộc đời của Đức Giêsu: Người đã đến trong thế gian, không phải như một ông vua, ông quan, nhưng như một người nô lệ.  Chính Đức Giêsu đã nói: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ” (Mc 10, 45).  Thánh Phaolô cũng đã diễn tả rất rõ cuộc đời của Chúa Giêsu: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2, 6-7).

Thánh Phaolô đã dùng một tiếng rất mạnh: “Đã hoàn toàn trút bỏ”, nghĩa là coi mình là hư không; trong cụ thể, Đức Giêsu đã từ khước vinh quang, quyền lực khi còn sống ở trần gian.  Suốt đời Đức Giêsu không bao giờ nghĩ tới bản thân mình: Người đã không bao giờ làm phép lạ để có bánh ăn, có nước uống, hay để tìm danh dự cá nhân…  Người đã hiến tất cả thì giờ và sức lực của Người, để giảng dạy dân chúng, an ủi những kẻ liệt lào, chữa lành những người bệnh tật.  Cao điểm của cuộc đời phục vụ ấy là cái chết trên Thập giá, mà Đức Giêsu đã trình bày như một cái chết để phục vụ và để yêu thương: “Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con!  Này là Máu Thầy sẽ phải đổ ra để chuộc tội nhiều người”.  Hoặc Chúa còn nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn là thí mạng sống mình vì bạn hữu.”  Nhìn cuộc đời của Đức Giêsu, được tượng trưng qua việc rửa chân, chúng ta hiểu ra rằng yêu là phục vụ, phục vụ đến độ hy sinh cả mạng sống mình cho loài người.  Đó là phương cách thứ hai để Đức Giêsu biểu lộ tình yêu của Người cho chúng ta.

Và đây là phương cách thứ ba:  Người đã lập ra Bí tích Thánh Thể để hiện diện mãi với chúng ta.  Khi người ta thương mến nhau, thì người ta muốn sống gần nhau mãi mãi, muốn giữ sự trung tín với nhau mãi mãi.  Chỉ vì muốn ở với chúng ta mãi mãi, mà Đức Giêsu đã lập phép Thánh Thể để hiện diện với chúng ta, để trở nên lương thực cho chúng ta, để tiếp tục đồng hành với loài người, với mọi người trong cuộc hành trình ở chốn sa mạc trần gian này.

Qua Bí tích Thánh Thể, chúng ta hiểu được rằng yêu là hiện diện với kẻ khác, giữ sự trung tín vững vàng với bạn hữu của mình.  Đức Giêsu Kitô đã yêu các bạn hữu của Người “cho đến cùng” là như thế đó

2. Noi gương Đức Kitô

Chúng ta là Kitô hữu, là môn đệ Đức Kitô, chúng ta đã cố gắng nên giống “Thầy và Chúa” của chúng ta hay chưa?  Chính trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh, Chúa Giêsu đã ban giới răn mới cho các môn đệ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34).  Vậy chúng ta phải thực hiện giới răn bác ái huynh đệ theo gương của Đức Giêsu (“Như Thầy đã yêu mến các con”).  Theo gương Đức Giêsu, thì trước hết yêu mến là đến với người đồng loại của mình: Chúng ta hãy tự vấn xem chúng ta đã quan tâm đến những người chung quanh chúng ta chưa?  Chúng ta đã chia sẻ cho họ phần nào hay chưa trên bình diện vật chất và trên bình diện tinh thần?

Tiếp đến, yêu mến và đặt mình trong tư thế tôi tớ để phục vụ.  Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta có chu toàn bổn phận của mình với tinh thần phục vụ hay không?  Trong cách cư xử, nói năng với người khác, chúng ta có khiêm tốn như một người tôi tớ không?  Hay chúng ta tự xem mình như người trên, như kẻ cả?  Sau hết, yêu mến là chấp nhận ở với kẻ khác, hiện diện với kẻ khác, cộng tác với kẻ khác, giữ sự trung tín vững vàng với kẻ khác

Theo khuynh hướng tự nhiên, khi chúng ta gặp một chút khó khăn với kẻ khác, là chúng ta muốn co rút lại, chia rẽ, đoạn tuyệt.  Chính vì chưa thấm nhuần tinh thần này của Đức Kitô, mà bao đôi vợ chồng khi gặp chút khó khăn, là nghĩ ngay tới việc ly thân, ly dị… Tình yêu của Đức Kitô mời gọi chúng ta phải giữ “chữ tín” đến muôn đời, nhất là trong đời sống gia đình, đời sống vợ chồng.

3. Đức Kitô – sức mạnh của chúng ta

Tình yêu của Đức Kitô không phải chỉ là mẫu mực mà còn là sức mạnh cho chúng ta.  Trong dụ ngôn về cây nho, được Chúa kể trong bài diễn từ chia tay, Chúa nói: “Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy.” (Ga 15, 4).  Chúng ta ở lại trong Đức Kitô, như trong thân cây nho, nhờ đức tin và nhờ vào việc tham dự vào Bí tích Thánh Thể.  Chiều hôm nay, khi tiến lên rước lễ, chúng ta hãy ý thức là chúng ta đang được tiếp nhận sức mạnh của Đức Kitô, nhờ đó chúng ta có thể yêu mến anh em chúng ta như chính Đức Kitô đã yêu mến chúng ta.

LM Norberto

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

 

Cha Giám Đốc ơn gọi của Rôma nói: Tất cả chúng ta được kêu gọi nên thánh

Cha Giám Đốc ơn gọi của Rôma nói: Tất cả chúng ta được kêu gọi nên thánh

Chuacuuthe.com

VRNs (24.04.2014)- Sài Gòn- Theo Zenit- Cha Don Fabio Rosini, Giám đốc ơn gọi của điạ phận Rôma đã nhấn mạnh  rằng tất cả mọi người đều có thể nên thánh như các Đức Giáo Hoàng, những người sẽ được phong thánh vào Chúa Nhật này.

Cha Don Fabio Rosini, Giám đốc ơn gọi của điạ phận Rôma

Cha Don Fabio Rosini, Giám đốc ơn gọi của điạ phận Rôma

Ngài nói rằng tất cả chúng ta có thể nên thánh như hai Đức Giáo Hoàng nếu chúng ta đáp lại lời mọi gọi thương xót của Thiên Chúa bằng tình yêu.

Ngài phát biểu như thế tại một cuộc họp mặt với những người trẻ đã diễn ra tại Thánh đường Gioan Laterano do Đức Hồng Y Agostino Vallini, tổng đại diện của địa phận Rôma chủ trì.

Cha Manuel Dorantes là thành viên Ủy Ban Công lý và Hòa bình của Toà Thánh nói với hãng tin Zenit rằng thông điệp này rất “ấn tượng”.

Ngài nói: “Tôi rất ngạc nhiên vì lời phát biểu của cha Don Fabio khi nhắc nhở những người trẻ của Roma rằng cuộc đời của Đức Gioan Phaolô II là thánh nhưng điều đó không quan trọng hơn các bạn …. Chúng ta đều kêu gọi để nên thánh. Ơn gọi nên thánh không phải là đặc quyền của một số người nhưng đúng hơn đó là một lời mời gọi phổ quát cho tất cả chúng ta”

Cha Don Fabio, Cha Giovan Giuseppe Califano và Đức ông Slawomir Oder là cáo thỉnh viên  trong vụ phong thánh cho Chân Phước Gioan XXIII và Gioan Phaolô II.

Khách hành hương đến tham dự  buổi họp mặt này rất vui vẻ khi được nghe những hồi ức cá nhân của Đức ông Oder, đặc biệt là những câu chuyện hài hước liên quan đến Đức Gioan Phaolô II.

Cha Dorantes  nói rằng những người trẻ bị tác động khi nghe nói  ”cuộc sống của Đức Gioan Phaolô II và Đức Gioan XXIII là quan trọng, cuộc sống của các ngài rất đặc biệt và các bạn cũng sẽ làm được như vậy.”

Hoàng Minh

BÀI GIÁO LÝ CỦA ĐTC PHANXICÔ VỀ VIỆC TÌM CHÚA PHỤC SINH

BÀI GIÁO LÝ CỦA ĐTC PHANXICÔ VỀ VIỆC TÌM CHÚA PHỤC SINH

Tác giả: Phaolô Phạm Xuân Khôi (chuyển ngữ)

Lời cảnh báo này, ‘Tại sao anh chị em lại tìm người sống giữa những kẻ chết’ sẽ giúp chúng ta thắng vượt những không gian buồn thảm của mình và mở ra những chân trời của niềm vui và niềm hy vọng.  Niềm hy vọng ấy đẩy các tảng đá ra khỏi các ngôi mộ và khuyến khích chúng ta loan báo Tin Mừng, có khả năng phát sinh ra sự sống mới cho tha nhân.”

Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý ĐTC Phanxicô ban hành ngày 23 tháng 4 năm 2014 trong buổi Triều Yết Chung được tổ chức tại Quảng Trường Thánh Phêrô.  Hôm nay ĐTC nói về việc làm thế nào để tìm thấy Chúa Phục Sinh trong đời mình.

* * *

“Tại sao các bà lại tìm người sống ở giữa những người chết”

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Tuần này là tuần lễ vui mừng: chúng ta cử hành Lễ Phục Sinh của Giêsu.  Đó là một niềm vui đích thực, sâu xa, dựa trên sự chắc chắn rằng Đức Kitô hiện đã sống lại, Người không còn chết nữa, nhưng đang sống cùng hoạt động trong Hội Thánh và trong thế gian.  Chắc chắn Người ngự trong tâm hồn các tín hữu từ buổi sáng Phục Sinh, khi các phụ nữ đi đến ngôi mộ của Chúa Giêsu và thiên sứ bảo họ: “Tại sao các bà lại tìm người sống ở giữa những kẻ chết?” (Lc 24:5 ).  “Tại sao các bà lại tìm người sống ở giữa những kẻ chết?”  Những lời này là một mốc quan trọng trong lịch sử; nhưng cũng còn là một “chướng ngại” nếu chúng ta không mở lòng ra đón nhận tin mừng, nếu chúng ta tin rằng một Chúa Giêsu đã chết gây ra cho chúng ta ít phiền phức hơn một Chúa Giêsu còn sống!  Tuy nhiên, biết bao lần trong cuộc hành trình hàng ngày của mình, chúng ta cần phải nghe:  “Tại sao anh chị em lại tìm người sống ở giữa những kẻ chết?”!  Biết bao lần chúng ta tìm người sống ở giữa những kẻ chết, giữa những điều không thể ban cho chúng ta sự sống, giữa những điều nay còn mai mất, những điều chóng quá… “Tại sao anh chị em lại tìm người sống ở giữa những kẻ chết?”

Chúng ta cần đến câu hỏi này khi chúng ta đóng kín mình trong bất kỳ hình thức ích kỷ hay tự mãn nào; khi chúng ta để cho mình bị quyến rũ bởi những quyền lực thế gian và những gì thuộc về thế gian này, qua việc bỏ quên Thiên Chúa và tha nhân; khi chúng ta đặt niềm tin của mình vào những gì là phù phiếm của thế gian, vào tiền bạc, vào thành công.  Khi ấy Lời Chúa bảo chúng ta: “Tại sao anh chị em lại tìm người sống ở giữa những kẻ chết?”  Tại sao anh chị em lại tìm ở đó?  Điều ấy không thể ban cho anh chị em sự sống!  Vâng, có thể điều ấy ban cho anh chị em một ít vui thích trong một giây phút, một ngày, một tuần, một tháng… nhưng sau đó là gì?  “Tại sao anh chị em lại tìm người sống ở giữa những kẻ chết?”  Câu này phải được nhập vào tâm chúng ta, và chúng ta phải lặp lại nó.  Chúng ta cùng nhau lặp lại ba lần nhé?  Chúng ta cố gắng được không?  Tất cả: “Tại sao anh chị em lại tìm người sống ở giữa những kẻ chết”  [đám đông lặp lại].  Hôm nay, khi chúng ta về nhà, chúng ta hãy nói lời ấy trong lòng, trong im lặng, và chúng ta hãy tự hỏi mình câu hỏi này: tại sao trong đời sống tôi, tôi lại tìm người sống giữa những kẻ chết?  Điều đó sẽ tốt cho chúng ta.

Không phải dễ dàng để mở lòng ra cho Chúa Giêsu.  Chấp nhận sự sống của Đức Kitô Phục Sinh và sự hiện diện của Người giữa chúng ta không phải lả điều đương nhiên.  Tin Mừng cho chúng ta thấy những phản ứng khác nhau: Tông Đồ Tôma, bà Maria Magđalena và hai môn đệ trên đường Emmau: thật tốt cho chúng ta khi so sánh mình với các ngài.  Thánh Tôma đưa ra một điều kiện với đức tin, ngài đòi được sờ mó đến bằng chứng là những vết thương; bà Maria Magdđalena đã khóc, bà nhìn thấy Người nhưng không nhận ra Người, bà chỉ nhận ra đó là Chúa Giêsu khi Người gọi đích danh bà; các môn đệ trên đường Emmau, buồn nản và với một cảm giác thất bại, họ gặp gỡ Chúa Giêsu bằng cách để cho người lữ khách bí ẩn đồng hành với mình.  Mỗi người một đường khác nhau!  Các ngài tìm người sống giữa những kẻ chết, và chính Chúa điều chỉnh lại lộ trình của các ngài.  Còn tôi, tôi phải làm gì?  Tôi phải đi theo đường nào để gặp Đức Kitô hằng sống?  Người sẽ luôn luôn gần gũi chúng ta để chỉnh lại lộ trình nếu chúng ta đi lạc.

“Tại sao anh chị em lại tìm người sống ở giữa những kẻ chết?”  (Lc 24:5).  Câu hỏi này giúp chúng ta thắng vượt cơn cám dỗ nhìn lại phía sau là những gì thuộc ngày hôm qua, và thúc đẩy chúng ta nhìn về phía trước về phía tương lai.  Chúa Giêsu không ở trong mồ, Người là Đấng Phục Sinh!  Người là Đấng Hằng Sống, Đấng luôn luôn canh tân thân thể của Người là Hội Thánh và làm cho Hội Thánh bước đi bằng cách lôi kéo Hội Thánh về phía Người.  “Hôm qua” là ngôi mộ của Chúa Giêsu và của Hội Thánh, ngôi mộ của chân l‎ý và công lý; “hôm nay” là sự sống lại vĩnh cửu mà Chúa Thánh Thần thúc đầy chúng ta tiến về, bằng cách ban cho chúng ta sự tự do trọn vẹn.

Hôm nay câu hỏi này cũng được đặt ra cho chúng ta.  Còn anh (chị), tại sao anh (chị) lại tìm người sống giữa những kẻ chết, bằng cách tự đóng kín trong chính mình sau một thất bại và không còn đủ sức để cầu nguyện nữa?  Tại sao anh (chị) tìm người sống giữa những kẻ chết, anh (chị), người cảm thấy cô đơn, bị bạn bè của mình, và có lẽ ngay cả Thiên Chúa, bỏ rơi?  Tại sao anh (chị) tìm người sống giữa những kẻ chết, anh (chị), người người đã mất hy vọng và cảm thấy bị cầm tù bởi tội lỗi của mình?  Tại sao anh (chị) tìm người sống giữa những kẻ chết, anh (chị), người khao khát vẻ đẹp, sự hoàn thiện tâm linh, công lý, hòa bình?

Chúng ta cần phải lặp lại và nhắc nhở nhau của lời cảnh báo của thiên sứ!  Lời cảnh báo này, “Tại sao anh chị em lại tìm người sống giữa những kẻ chết” sẽ giúp chúng ta thắng vượt những không gian buồn thảm của mình và mở ra những chân trời của niềm vui và niềm hy vọng.  Niềm hy vọng ấy đẩy các tảng đá ra khỏi các ngôi mộ và khuyến khích chúng ta loan báo Tin Mừng, có khả năng phát sinh ra sự sống mới cho tha nhân.  Chúng ta hãy nhắc lại câu này của thiên sứ để nó nhập tâm và nhập trí chúng ta, và sau đó tất cả mọi người đáp lại một cách âm thầm: “Tại sao anh chị em lại tìm người sống giữa những kẻ chết?”  Chúng ta hãy lặp lại! [đám đông lặp lại].  Anh chị em hãy coi kìa, Người đang sống, Người đang ở với chúng ta!  Chúng ta đừng đi về phía tất cả những ngôi mộ ấy, là những gì hôm nay đang hứa hẹn với anh chị em một điều gì đó, vẻ đẹp, và rồi không đem đến cho anh chị em bất cứ điều nào cả!  Người đang sống!  Chúng ta không tìm người sống giữa những kẻ chết!  Cảm ơn anh chị em.

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

http://giaoly.org/vn/


“Dốc hết tình này là trả nợ người,”

“Dốc hết tình này là trả nợ người,”

Dốc hết tình này là trả nợ đời,

Trả hết tình tôi còn nợ không thôi.”

(Tuấn Khanh  – Trả Nợ Tình Xa)

(Rm 13: 8)

Tình xa là thế, mà sao nghệ sĩ nhà mình lại cứ trả? Giả như câu này, ở đây, là câu nói từ đấng bậc chót vót ở trên cao chốn Thánh hội, thì sự thể sẽ ra sao?

Hỏi về sự thể như thế, là hỏi và hát những lời thêm thắt nữa, rồi sẽ nói, những điều rằng:

“Mắt đã mù loà vì đợi tin xa.

Tóc trắng bạc màu vì nợ yêu nhau.

Nào biết ngày sau trả nợ tình nhau.”

(Tuấn Khanh – bđd)

Hát thế rồi, lại nhớ đến lời phát-biểu mới đây không lâu, của đấng bậc vị vọng được coi và được gọi là Đức thánh (rất) Cha hôm rồi mang nặng giòng chảy những kêu gọi mọi người rằng:

“Hỡi, thành viên nam nữ thuộc bè/nhóm Mafia,

xin hãy chuyển-đổi cuộc sống của quý vị.

Xin hãy dừng tay lại mà hoán-cải và đừng làm thế!

Đừng làm những việc dưới áp-lực của ác thần sự dữ, nữa.

Tôi mong mỏi điều này bằng lời nguyện cầu liên lỉ,

để mọi điều tốt đẹp sẽ xảy đến với quý vị.

Bởi, cuộc sống mà quý vị hiện đang có vào lúc này

sẽ không đem lại cho quý vị niềm an vui hoan lạc nào hết,

và cũng chẳng tạo hạnh phúc cho quý vị bao giờ đâu…”

(xem Francis X Rocca, Pope to Mafia: You’re Going to Hell, The Catholic Weekly 06/04/2014 tr. 1)

Lời Đấng Bậc vị vọng ở cấp cao kêu gọi, khác nào lời ới gọi của nghệ sĩ vẫn còn hát:

“Trả hết, trả hết cho người,

Trả luôn mắt môi nụ cười.

Trả xong đời còn hư không.

Nào gió gió bay về trời,

Này hoa sẽ bay về cội.

Còn ta đường nào cho ta?”

(Tuấn Khanh – bđd)

Vâng. Nếu chư vị ở bè/nhóm “Mafia” không chấp-nhận tuân theo lời ới gọi của đấng bậc ở chốn trên cao từng kêu gào hãy dừng lại, rồi “dốc hết tình này”,“trả hết cho người”,“trả luôn mắt môi nụ cười” thì rồi ra cũng chả còn “đường nào cho ta” cho người, ở chốn nợ đời này cả đâu.

Vâng. Chợ đời chốn ấy hôm nay, bạn và tôi cũng như mọi người vẫn còn nhiều thứ cần  phải trả. Và trên hết mọi sự, vẫn là thứ nợ tình yêu như bậc thánh hiền khi xưa từng đoan quyết:

“Anh em đừng mắc nợ gì ai,

ngoài món nợ tương thân tương ái;

vì ai yêu người,

thì đã chu toàn Lề Luật.”

(Rm 13: 8)

À thì ra, ới gọi về chuyện trả nợ “trả hết, trả hết cho người, trả luôn mắt môi nụ cười” có xuất từ người nghệ sĩ hay đấng bậc “lành-thánh rất cha/cố” đi nữa, cũng là ới gọi một kêu mời: hãy dừng đứng lại đừng trả nợ “quỷ thần độc ác”, cho bằng hãy trả mỗi món nợ “tương thân tương ái” mà thôi.

Hôm nay đây, ở xã hội ngoài đời hoặc trong Đạo, vẫn còn đó lời ới gọi hãy “đổi thay” lề lối sống rất “nợ đời”. Để rồi, mọi người ở khắp nơi sẽ chỉ nghĩ đến món nợ “tương thân tương ái” cũng rất cần trong đời người, mà thôi.

Thế đó, là ý/lời đầy ới gọi cả người trong Đạo cũng như ngoài đời, tương tự như ở chốn truyền thông/báo đài nhiều tin tức. Những tin cùng tức, cũng thúc giục mọi người hãy nên có lập trường đúng để mà sống.

Còn nhớ, ngay vào lúc Đức Phanxicô vừa đăng quang trở thành Giáo hoàng đương đại, có tác-giả vội viết trên báo điện mang tên MercatorNet, những lời như sau:

“Đức Giáo Hoàng Phanxicô chỉ còn mỗi con đường độc-đạo là phải đối-đầu với người sầu buồn khổ đau và làm sầu đau/ buồn khổ những kẻ mà ngài phải đối đầu. Ngài làm thế, theo kiểu-cách cũng rất khác, khi ra khỏi khuôn viên Toà Thánh để có cuộc “thăm-dân-cho-biết-sự-tình” nơi ốc-đảo hẻo lánh mạn Nam nước Ý, có tên Lampedusa. Thăm viếng hôm ấy, là buổi kinh-lược mục-vụ khởi đầu triều-đại Giáo-hoàng của ngài, mà giới truyền-thông từng loan-báo cho cư-dân toàn đảo biết trước.

Lời lẽ và ý-lực chính mà thông-điệp đề-cập cốt gửi đến thành-viên cộng-đồng nhân-loại đang kiếm-tìm nơi trú-ngụ an-toàn ở vùng đảo ốc có cuộc sống mới kể từ khi Lampedusa trở thành thứ đảo Ellis cao sang của châu Âu…

Nhưng, thật sự thì thông-điệp ngài muốn gửi là có ý gì?

Có thể nói ngay đây, rằng: đó là thách-thức đem đến cho nhiều người, chứ không là cử-chỉ mang tính chính-trị mà thôi. Hãy nghe Đức Giáo Hoàng Phanxicô phát-biểu những lời như sau: “Cũng giống như xưa, khi Giavê Thiên-Chúa hạch-hỏi Ađam và người em mình là Ca-in cùng một câu hỏi: “người anh/em ngươi đâu?” thì hôm nay, nhiều người trong chúng ta, trong đó có cả tôi nữa, cũng để quên thân-thuộc mình và chẳng bận tâm gì đến chốn miền mình đang sống, không còn bận tâm để ý đến những gì được Chúa tạo-dựng cho tất cả mọi người. Và, ta không còn khả-năng biết trông nom/giùm giúp nhau, nữa. Những người như thế đã không còn biết, không còn chấp-nhận hoặc tìm ra sự kết-đoàn hỗ-trợ nhau nữa...” (xem Sheila Liaugminas, The Globalisation of Indifference, MercatorNet 26/7/2013)

Vấn đề mà người viết nêu ra khi ấy, nay quay lại thách-thức lương-tâm mỗi người và mọi người, vào thời này. Thời hôm nay, là thời để ta nghe nhiều lời vãn than/ới gọi như bài hát trên vẫn được nghệ-sĩ tiếp-tục hát mãi những câu như: 

“Dốc hết tình này là trả nợ người,

Dốc hết tình này là trả nợ đời.

Trả hết tình tôi, còn nợ không thôi…”

(Tuấn Khanh – bđd)

Nơi xã-hội mọi thời, “nợ người”, “nợ đời” hoặc “trả hết tình tôi”, “còn nợ không thôi”, là thứ nợ tình mà người đời vẫn bảo nhau hãy xem mỗi người và mọi người có “trả hết cho người’, “trả luôn mắt môi, nụ cười” nữa, không?

Ở nhà Đạo hôm nay, việc trả hết nợ “tương thân tương ái” không chỉ bằng việc chu-toàn lề-luật lại là ý-tưởng được nhiều người/nhiều vị trong Đạo mình suy-tư cảm-kích do bởi những gì được Đức Giáo Hoàng tỏ bày hôm ấy.

Ngày “N” hôm ấy, Đức Giáo Hoàng Phanxicô, lại cũng mở lời ới gọi cả những người chẳng còn biết “tương thân tương ái” với bất cứ một ai. Bằng vào ví dụ rút từ Tin Mừng về người Samaritanô nhân-hiền có những chi tiết thật da-diết, như sau:

“Thế-giới hôm nay, chẳng ai thấy mình có trách-nhiệm về nhiều thứ nữa. Bởi, con người chúng ta nay để mất ý-thức trách-nhiệm về người anh/người chị của mình, dù họ có ra sao đi nữa, cũng mặc. Chúng ta nay lại rơi vào tình-cảnh của các giáo-sĩ đạo-đức giả tựa như tình-tự của thày Lêvi được Chúa mô-tả ở dụ-ngôn Người Samaritanô nhân-hiền, thời buổi trước. Có thể, như người anh em thuộc nhóm đạo Lêvi tư-tế hôm ấy tuy thấy nạn-nhân nằm chết dần bên vệ đường, cũng chỉ như tự nói với chính mình rằng: “Tội nghiệp cho ông ta!” rồi cứ tiếp tục bỏ đi, chẳng ra tay cứu vớt chút gì, bởi ông cứ nghĩ đó không thuộc phần-hành/trách-nhiệm của ông. Và, ông vẫn nghĩ là mình có lý…”

Nói thế rồi, Đức Giáo Hoàng lại tiếp tục phát-biểu về thứ văn-hoá thời hôm nay, như sau:

“Thứ văn-hoá dửng-dưng/vô-cảm khiến ta chỉ nghĩ đến riêng mình, và làm ta trở thành thứ người lạnh-lùng trước tiếng khóc/than cùng ới/gọi của người khác. Thứ văn-hoá làm ta sống trong cảnh chỉ tỏ bày lòng yêu-thương qua sinh-hoạt đình đám nổi bật thôi, nhưng không có thực-chất. Yêu thương đình-đám/nổi bật chỉ bềnh-bồng trong chốc lát rồi chìm đắm trong hư-không/trống rỗng với ảo-vọng dẫn về tính lạnh-nhạt/dửng dưng đối với người khác; rồi đi dần vào sự-kiện toàn-cầu-hoá tính dửng-dưng/nguội lạnh. Nói cách khác, ta trở nên chai-đá, quen dần với chuyện khổ-đau của người khác mất rồi. Chuyện khổ đau của người khác không còn đánh động ta nữa và ta cũng chẳng bận tâm gì những chuyện như thế, bởi vẫn coi chuyện ấy không thuộc phạm-vi ta quan tâm. Và, việc toàn-cầu-hoá tính dửng-dưng đã biến ta thành những con người không tên tuổi, vô-trách-nhiệm đến độ có thể gọi mình là người không hình-tượng, chẳng có tên và chẳng mang hình-thù gì hết.

Và Đức Giáo Hoàng kết-luận:

“Xã-hội ta sống, nay chẳng còn biết khóc thương người đau khổ và chẳng còn biết cùng đau cùng khổ với bất cứ ai. Tính dửng-dưng nay trải rộng khắp hoàn-cầu khiến con người ngày hôm nay không còn khả năng khóc thương nữa rồi. Khi xưa Hêrôđê đã từng gieo vãi sự chết để bảo vệ tính lạnh-lùng, dửng dưng của ông trong cảnh đình đám mà xã-hội ngoài đời vẫn tiếp tục nằm ẩn trong tâm con người ngày hôm nay.

Giờ đây, xin Chúa gỡ bỏ những gì do Hêrôđê từng gieo vãi để ta biết khóc biết thương cả tính dửng-dưng/lạnh-nhạt ẩn tàng nơi tâm can con người. Xin Ngài ban cho ta ơn sủng-ái biết khóc cho tính lạnh lùng mà mình vẫn có và biết khóc cho tính ác-độc của thế-giới mình đang sống, khóc cho tính độc địa nơi tâm can mọi người và những người vẫn đang tìm cách tác-hại con người bằng hành-động mang tính kinh-tế xã-hội quyết mở rộng cửa cho tình-cảnh bi ai của thế giới.” (Sheila Liaugminas, bđd)

Quả thật, nhận-định của Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tạo làn sóng cảm-nhận từ nhiều người, cả trong Đạo lẫn ngoài đời. Cảm-nhận nhiều, còn là cảm-kích và nhận-xét về công việc Đức đương kim Giáo Hoàng đã từng làm trong năm đầu, khiến biến-cải/đổi-thay rất nhiều thứ. Biến-cải và đổi thay, không chỉ mỗi tâm-tính dám đối đầu với khổ-đau sầu buồn từ nhiều phía, mà cả từ phía tạo nhiều khổ đau cho người khác là bè/nhóm Mafia lẫn người có quyết-định ảnh hưởng lên kinh-tế, xã-hội ở thời này nữa.

Chả thế mà, ngay khi Đức Giáo Hoàng lên tiếng về nền văn-hoá dửng-dưng/vô cảm truớc nỗi khổ của nhiều người, nay đã thấy nhiều phản-ứng từ một số độc giả bày tỏ tình đồng-thuận với ngài nên đã gửi đôi giòng chảy tâm-tư như sau:

“Nếu ta trị được đói/nghèo và bỏ được nhu-cầu của mình để cho người tị-nạn, thì đó cũng là vì con người nay đã giải-quyết được các khó-khăn do tôn-giáo đánh đỗ.” (David Page)

Muốn giảm-thiểu số người chết vì di-dân bất-hợp-pháp, các nước phát-triển phải tạo cơ-hội mỗi năm một lần giúp tặng tài-chánh cho những ai kiếm tìm cuộc sống tốt đẹp hầu cứu vớt và đưa họ vào sống ở quốc gia có lòng thương yêu và cấp quốc-tịch mới cho họ.” (Phyllis Ann James)

“Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã làm tôi tỉnh-thức về chuyện cứ thu vén lợi-nhuận chất đầy túi mình. Dù tôi vẫn còn đó những khó khăn tài-chánh cũng như tài-nguyên vật-chất, vẫn có thứ gì đó tôi có thể làm được để giúp đỡ người nhiều nhu-cầu hơn tôi và khổ cực hơn tôi nhiều.

Tôi nghĩ: mình phải bắt đầu bằng nguyện cầu trải rộng ra bao gồm cả việc xin mọi người có thêm trí-lực và lòng thiêng-liêng đạo-đức cho dân đảo Lampedusa và nơi khác đang chịu cảnh thiếu thốn giống thế. Tôi sẽ dâng mọi khó-khăn tư-riêng của mình để hướng lòng về với người nghèo khổ; và tôi sẽ thu-thập hiểu biết xã-hội để, một ngày nào đó, dạy đám học trò của tôi cho chúng có hy vọng có được tâm-linh đạo-hạnh hầu có tính thừa sai/mục vụ để giáo-dục người nghèo, tật bệnh”. (Regina)

“Riêng tôi, tôi thất đây là bài viết khá hay về vấn-đề tính dửng-dưng mang tính toàn-cầu và thấy được rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhà mình đang nói thẳng, nói thực những chuyện bức bách như thế qua cuộc sống của chính ngài và bằng lời rao giảng cho giới trẻ biết được chuyện ấy”. (Paul Go)

Thế đó, là những phản-ứng khá tốt đẹp về Đức Giáo-chủ. Tuy nhiên, có nhiều vị lại nói theo cung-cách khác hẳn, vì đứng từ tầm nhìn cũng rất khác, như nhận-định của nữ-lưu như bên dưới:

“Tôi nghĩ Đức Thánh Cha nhà mình nói hơi sai. Ngày nay, dân chúng thế-giới đâu có dửng-dưng, vô cảm. Có chăng, chỉ là họ không thể tạo ảnh-hưởng lên tình-cảnh khốn-khổ của người khác, mà thôi. Tôi có thể tự khóc than cuộc đời mình rồi lên giường đi ngủ, hoặc dửng dưng với chuyện của Đại tá Oliver, tôi không thể tiếp-tục ăn cơm tối được nữa và trở thành người ốm yếu bệnh tật về thể xác nếu làm thế, nhưng để đi đến kết cuộc nào?

Hãy tạm lấy ví dụ về gia đình tôi xem sao: năm 2011 tôi đi làm và kiếm được vỏn vẹn $50 ngàn đô một năm. Ngay từ đầu năm 2011, tôi làm cùng một công việc và lãnh được $42 nghìn một năm, đến giữa năm tôi mất việc  và cuối năm ấy, tôi đành phải làm công việc để sống sót qua ngày đến khi nào kiếm được việc gì khác tốt đẹp hơn. Nhưng chuyện ấy chẳng bao giờ xảy đến. Nay thì, chỉ làm có một tuần 15 tiếng kiếm có $800 một tuần không thuế. Nhưng không sao, vì chồng tôi vẫn còn đi làm, chúng tôi chia ra: tôi trả tiền cho bọn trẻ, giúp nhà thờ một ít và cuối cùng mang về nhà chỉ mỗi $25 ngàn đô thôi. Đó là về tài-chánh. Nay nói về chuyện tâm can, linh hồn thì tôi nói thế này:

Tôi có người bạn thân vừa biết mình mắc phải căn bệnh ngặt-nghèo là ung-thư xương. Cũng cô này, cách đây trong cùng một tháng đã mất người mẹ già thân yêu và đứa con trai tự vẫn. Hai người bạn khác của tôi lại cũng vừa tiễn-biệt ông chồng trân quý bị ung-thư, người kia mất việc trong một năm. Một trong hai chị bạn này lại cũng bị mất nhà vì thiên tai. Nên câu hỏi tôi đặt ra là: chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi bỏ những người như thế ở lại, để chạy đi tiếp giúp những người ở nơi xa xôi như đảo nhỏ Lampedusa hoặc miền Nam nước Mỹ nơi có những người cứ liều mình băng ranh giới với Mêxicô nhập lậu để rồi bị chết mất xác ở khu sa mạc nóng cháy ấy?

Kể những chuyện này, ý của tôi là: đa số mọi người vẫn đều làm hết mình, để cuộc đời mọi người nên tốt đẹp. Người di dân lậu liều mình chết trong sa mạc hay ngoài biển cả đều là những tít lớn xuất hiện ở báo đài truyền thông, lại cũng có những người âm thầm sống cuộc đời tuyệt-vọng mà chẳng ai ngó ngàng biết đến mà vẫn bị người đời kết cho tội rất bất công là lười biếng, chẳng chịu làm ăn nuôi thân, thành thử những điều nhiều người nói có khi cũng chẳng đúng sự thật cho lắm. Bởi thế nên, có những vấn-đề rất khác nhau nếu mình đứng nhìn từ góc cạnh khác biệt.” (Claudia Williams)

Và, ý-kiến của người ngoài Công-giáo, cũng táo-bạo như độc-giả có tên hơi lạ:

“Tôi không là người Công-giáo, nhưng các tin/bài về Đức Phanxicô, Giáo-chủ Công-giáo tôi thấy ngài này giảng đạo cũng khá hay. Dĩ nhiên trên đời này vẫn có khá nhiều người làm rất nhiều điều tốt đẹp để săn sóc giúp cho những người đang có nhu-cầu. Thế nhưng, thế-giới hiện nay vẫn còn tình-trạnh thiếu trong-lành khi có quá nhiều kẻ bợ đỡ, chỉ phô trương đánh bóng công việc của mình hay người khác chỉ phù thịnh những người và những giới giàu có, sung túc, tức những người từng được báo chí/truyền-thông nêu tên tuổi, địa vị cùng tài sản kếch sù của họ như giới vua quan lãnh chúa no cơm rửng mỡ, những là khoa-trương quần áo, sắc đẹp cùng con cái của mình cho thiên-hạ thèm thuồng, ngưỡng-mộ rồi cổ-võ những thứ xấu xa vô bổ, khoả lấp các ý-tưởng và lời lẽ tốt đẹp do đấng tối cao trong Đạo từng đưa ra. Hoan hô Giáo chủ Phanxicô. Sự can đảm của ngài khiến tôi khâm phục hết mình. Tôi đang đợi bài giảng kế tiếp của ngài xem có gì là quả cảm nữa không đây.” (Ensnaturae2).

Vâng. Đúng thế. Đấng bậc ở trên cao tít chốn ấy, có làm điều gì hoặc có nói làm sao, thế nào cũng có kẻ khen, người chê cũng dễ thôi. Nhưng khen chê thế nào, đề-nghị bạn đề nghị tôi, ta nghe thêm tin tức về hành-xử của Đấng chủ-quản ở chóp bu Giáo hội mình như sau:

“Tin Vatican- Đức Thánh Cha Phanxicô quyết-định duy trì viện Giáo-vụ (IOR) quen gọi là Ngân-hàng Vatican, đồng thời chỉ-thị Viện này tiếp-tục tuân-hành các qui-luật về sự minh-bạch, về việc chống rửa tiền và tài-trợ khủng-bố.

Trong thông-cáo công-bố ngày 7/4/2014, Đức Thánh Cha phê-chuẩn một đề-nghị về tương-lai Viện Giá-vụ, tái khẳng-định sứ-mạng quan-trọng của Viện này để mưu-ích cho Giáo-hội Công-giáo, Toà Thánh Vatican và Quốc gia thành Vatican. Đề-nghị này do các cơ-quan liên-hệ của Toà thánh đệ-trình trong đó có Ủy-ban Toà Thánh nghiên-cứu và đề ra hướng-đi cho cơ-cấu kinh-tế và quản-trị của Toà Thánh, Ủy Ban Hồng Y về Viện Giáo vụ cũng như Hội-đồng Giám-sát-viện này.

Đức Thánh Cha quyết-định rằng Viện Giáo-vụ sẽ tiếp-tục phục-vụ một cách khôn-ngoan thận-trọng và cung-cấp các dịch-vụ tài-chánh chuyên-biệt cho Giáo hội Công-giáo trên toàn thế-giới, viện này cũng giúp Đức Thánh Cha trong sứ-mạng chủ chăn Giáo hội hoàn-vũ hỗ-trợ các tổ-chức và những người cộng-tác trong sứ-vụ của ngài.

Các hoạt-động của Viện Giáo-vụ sẽ tiếp-tục dưới sự giám-sát thường-xuyên của thẩm-quyền thông-tin tài-chánh (AIF) là cơ-quan thẩm-quyền trong lãnh-vực của Toà Thánh và quốc-gia thành Vatican…” (xem Lm Trần Đức Anh, Đức Thánh Cha duy trì “Ngân-hàng Vatican” www.Vietcatholic.net/News/Html/122407.htm)

Thế đó, là cử-chỉ khá quả cảm của đấng bậc ở trên cao vẫn bận rộn cả giáo-vụ lẫn tài-vụ. Những bận và rộn mà rất ít người ở ngoài biết cảm-thông, cảm-kích và cảm-động. Bởi, chức-vụ của Đức thánh (là) cha của cả Giáo-hội mà chỉ một đấng, một vị cai quản nổi. Thế mới biết, đời người đi Đạo dễ gì có được cảm-xúc lẫn cảm-quan để thông-phần rồi cảm-nghiệm.

Cảm gì thì cảm, vẫn là cảm-động rất tâm động khi nghệ sĩ ngoài đời lại cứ hát như sau:

“Này gió, gió bay về trời
Này hoa sẽ rơi về cội
Còn ta đường nào cho ta?
Em ơi em, anh không thể
Nuôi bao nhiêu yêu thương này
Nhớ mong hoài…
Em ơi em, anh không thể
Nuôi bao nhiêu yêu thương này,
Chờ mong, chờ mong mãi…”

(Tuấn Khanh – bđd)

Nghĩ kỹ, thật cũng kỳ. Kỳ một nỗi, là: nghệ-sĩ ở đời, ngoài Đạo lại cứ nói khác hẳn Đấng bậc trong Đạo, về nền văn hoá dửng dưng, rất vô cảm.

Nghĩ rồi, lại sẽ thấy chẳng có gì lạ, khi người nghệ-sĩ ở ngoài đời lại cứ hát những lời ong bướm những ới gọi một đợi chờ con tim đen có nhữ câu nghe không quen, như: “Em ơi! Em ơi, anh không thể nuôi bao nhiêu yêu thương này”, “chờ mong, chờ mong mãi!…” Chờ mong là chờ mong gì. Thôi đành chịu. Đành hết ý, và cũng không hiểu nổi. Như thế, giống hệt như truyện kể về tâm-tình trẻ nhỏ, nay như “vô cảm” trước cảm-tình và cảm-tính của ông bố rất như sau:

“Ông bố nọ, một hôm hứng chí quay vào với con trai bèn hỏi nhỏ:

-Này con yêu. Giữa ba và mẹ, con thương ai nhiều nhất, thế?

-Dạ thương cả hai người ạ!

Ông bố không cam lòng, đành vặn hỏi:

-Nếu Ba đi Mỹ còn Mẹ đi Pháp, con sẽ đi đâu?

-Dạ, con đi Pháp!

-Tại sao thế?

-Dạ, vì Pháp đẹp hơn Mỹ nhiều lắm cơ bố à!

-Thế, nếu Ba đi Pháp, mẹ đi Mỹ con sẽ đi đâu?

-Dạ, con đi Mỹ đấy bố mình à?

-Sao lại như thế?

-Vì con đã đi Pháp rồi!

Có thể, lời con trẻ vẫn rất tự-nhiên vì đã đi rồi tức đã tìm đến nôi văn hoá rất đa cảm rồi.

Nói đến văn-hoá với văn-minh, không lình xình nhiều chuông mõ để chứng-tỏ mình vẫn còn sống ở đây, chốn nợ đời này, nên cứ hát dù câu hát đó có vô tình, vô bổ, ít/nhiều văn-hoa hay văn-hoá rất nhịp nhàng điệu-bộ, kèm lời ca như sau:

“Em ơi em, anh không thể
Nuôi bao nhiêu yêu thương này
Nhớ mong hoài…
Em ơi em, anh không thể
Nuôi bao nhiêu yêu thương này,
Chờ mong, chờ mong mãi…”

(Tuấn Khanh – bđd)

À thì ra, đời người hôm nay ra như thế. Bởi như thế, nên có đức thày nhà Đạo hôm xưa dám tuyên bố những câu nảy lửa, nên đã bị giới chức của tổ-chức rất nhiều tiền tài, bạo lực quen gọi là Mafia Italia, giết quách đi cho rảnh chuyện. Câu nói của đấng-bậc-lẽ-được-phong-thánh là Lm Giuseppe Pino Puglisi, chánh xứ họ đạo San Gaetano ở Palermo, nước Ý dám nói như sau:

“Chúng tôi từng quả quyết, là: chúng tôi muốn kiến-tạo một thế-giới khác-biệt. Hãy để chúng tôi phấn-đấu hầu tạo nên thế-giới có bầu khí lương-thiện đầy ưu-ái, của sự ngay-thẳng đạo-hạnh, của sự công-bằng chính-trực, nói chung của những gì luôn làm Thiên-Chúa vui lòng, hãnh diện.” (xem Edward Pentin, Murdered by the Mafia, honoured by the Church, MercatorNet 13/7/2012)

Xem thế thì, hỡi những người còn mang danh-nghĩa người Công-giáo rất Kitô, và hỡi bạn cùng tôi, ta cứ hiên ngang đứng dậy theo chân bậc tiền-bối dấn bước vào chốn “nợ đời” để chứng tỏ Đạo mình còn đó nỗi vui của người thiện-tâm thiện-ý, không chối bỏ văn-minh/văn-hoá của sự tốt lành hạnh đạo. Rồi ra, ta sẽ thắng rất không lâu.

Trần Ngọc Mười Hai

Những muốn cho mình và cho người

Giữ mãi nét đẹp văn-hoá

và văn-minh của Đạo mình.

 

Người bó gối nghe phút vừa im lặng

Người bó gối nghe phút vừa im lặng

Chuacưuthe.com

VRNs (23.04.2014) – Úc Đại Lợi – Suy tư Tin Mừng Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh năm A 27.4.2014

“Người bó gối nghe phút vừa im lặng,

Để run theo mạch chuyển trận mưa nguồn.”

(Dẫn từ thơ Vũ Hữu Định)

Ga 20: 19-31

Nhà thơ lâu nay ngồi bó gối để nghe im lặng. Phút lặng im, của mạch chuyển mưa nguồn để run theo. Nhà Đạo đây, không ngồi im lặng có bó gối nhưng vẫn nghe Hội thánh nói về Chúa Sống lại, để còn tin.

Trình thuật nhà Đạo hôm nay có thánh Gioan nói về các ngày lễ Chúa giảng giải sự sống có trỗi dậy để dân con Đạo mình sẽ làm theo lời Ngài mà sống có niềm tin. Niềm tin hôm nay là tin Chúa sống lại như Lời Ngài khi xưa đã hứa.

Sống Lại, thánh I-rê-nê khi xa từng giảng giải, rằng: nơi Đức Giêsu Sống lại, mọi trỗi dậy đem đến cho ta là sự mới lạ sẽ xảy ra. Với mỗi người, điều đó có thể là sự mới mẻ tự bản chất, có loại-hình mới trong lối sống, tức: không có gì giống như trước. Nên, ta phải học rất nhiều điều, và mọi điều trong thế-giới hoàn-toàn mới lạ đối với ta.

Mới lạ, là vì điều Chúa hứa với ta đều thành hiện-thực. Điều Ngài vẫn nói: sẽ không bao giờ bỏ ta lại một mình đơn chiếc. Và, Ngài đã không làm như thế. Nhưng, Ngài lại đã mang đến cho ta niềm an vui tràn đầy. Và Ngài đã làm điều này. Ngài còn nói: Ngài sẽ cùng ta san-sẻ cùng một sứ-vụ Cha giao. Và ta đã được như thế. Được như thế, nhưng xem ra mọi người như ta vẫn có tâm-trạng sầu buồn, chưa trỗi dậy như Ngài mong muốn ta như thế.

Giờ đây, hãy thử dùng trí tưởng-tượng của mình để hiểu rõ về trỗi dậy, Phục Sinh rất quang vinh:

-Hãy tưởng-tượng mình là phi-hành-gia đang trên đường vào vũ trụ để kiếm tìm một hành-tinh mới chưa ai khám phá. Đó là điều mới lạ khiến ta vui nhưng bạn bè lại không tin như thế, vẫn cứ cho rằng: chắc ta có vấn-đề nên mới thế. Tại sao không? Bởi hành tinh địa cầu, nay cổ lỗ, rất chán ngán, đầy ô-nhiễm, tinh-thần thì suy sụp, nên ta phải ra đi tìm hành tinh lạ để sống lại và lại sống.

-Và khi ấy, nhà tổ-chức đã cho ta xem bản-đồ cùng kế-hoạch đề ra, có lộ-trình dành cho con tàu vũ-trụ. Ta tin tưởng họ và hứa sẽ thực thi đúng kế-hoạch.

Tiếp đến là những buổi luyện-tập học hỏi hệ-thống an-toàn mới lạ, như: giữ vệ-sinh trong tàu vũ trụ, không hút thuốc, không mở cửa sổ để ra ngoài. Ta được bảo cho biết mọi qui-định của trò chơi. Ta được chuẩn bị, khởi động rồi tập luyện. Họ phát cho ta quần áo mới theo kiểu phi-hành-gia không-gian rồi dẫn đến hiện-trường để thực-hiện những động-tác cần làm; và ta vẫn làm thế vào mỗi Chúa nhật.

-Chương–trình tập-huấn vẫn tiếp tục và chẳng thấy ngày đặt chân lên bệ phóng để bay đi. Người chủ trương kế-hoạch mới vừa tạ thế. Nên, người mới tới được đưa vào để tiếp-tục công-trình đề ra, nhưng mọi sự xem ra không động-đậy, cũng chẳng tiến-triển. Nên, ta vẫn còn ở lại nơi hành-tinh địa-cầu y như cũ, chẳng có gì mới mẻ, thế mới lạ.

Phải chăng ta có cảm-giác tương-tự như tuần lễ đầu, sau Phục Sinh? Phải chăng Phục Sinh là kịch-bản tuyệt-diệu xảy ra trên sân-khấu hoặc hí-trường, tựa hồ trò chơi “game”, chẳng có gì đổi thay, trên thực tế? Phải chăng điểm mới lạ của Phục Sinh và trỗi dậy chỉ là mớ ngôn-từ không hơn không kém, thực tế chẳng có gì mới mẻ xảy đến, hết?

Trình-thuật Phúc Âm hôm nay, lại cũng kể cho ta nghe biết đồ đệ Chúa thời tiên khởi cũng trải nghiệm một tình-huống chán nản, hệt như thế. Và rồi sau đó, mới khám phá ra những điều không theo kiểu cách mà các ngài trông đợi về Phục Sinh và Chúa Thánh Linh có nghĩa gì với các ngài. Các thánh những tưởng rằng: Đức Giêsu Thày mình sẽ lại đến với ngài theo cung-cách dễ sờ chạm. Nhưng, lại có cảm-giác rất trái ngược, nghĩa là vẫn chẳng thấy Thày mình hiện ở đâu; và cũng chẳng hiểu tại sao Thày mình lại thất hứa, chưa hiện diện.

Trong tuyệt vọng, đồ đệ Chúa lại cảm thấy tâm-thân mình như có thứ gì cứ lâng lâng, nâng-nhấc khác hẳn cảm-xúc vẫn có vào lúc trước. Cuối cùng là thuốc giải-độc cho nỗi tuyệt-vọng đã có ngay đó, ngay bên trong nỗi tuyệt vọng mà chẳng ai thấy được.

Tại mộ phần trống vắng hôm ấy, thần-sứ cũng nói với các ngài rằng: Thày mình KHÔNG có ở đó. Ngài KHÔNG còn hiện-diện như khi trước. Cả đến bà Maria Magdala là người đến để xức thêm dầu cho xác Thày mình, đã tìm cách tiếp cận Thày nhưng được bảo: Đừng sờ vào Thày vì Thày sắp phải ra đi, về với Cha. Khi hai đồ đệ Chúa rong ruổi trên đường Emmaus, cuối cùng cũng nhận ra Ngài vào lúc Ngài bẻ bánh, bởi Thày đã trở thành người không còn hình-tượng như trước và Thày đã biến khỏi tầm nhìn của các thánh rồi.

Ngày Thày về với Chúa Cha, áng mây vần vũ đã quyện bọc lấy mình Ngài và nuốt trọn Thân mình Ngài và đem Ngài rời xa hết mọi người, khiến Ngài không còn hiện diện với cứ một ai. Tiếp sau đó, Ngài lại đã xuất hiện chỉ thoáng chốc, theo hình-dạng của Đấng Thánh Phục Sinh/trỗi dậy; nhưng cuối cùng, Ngài cũng lại biến hình đi khuất xa.

Mừng kính tuần bát nhật Phục Sinh hôm nay, vấn đề đặt ra lại cứ hỏi: ta nghĩ sao về trạng-huống ra như thế? Đó có là trống vắng, mất mát, khiếm diện chăng? Hay vẫn chỉ là: cách xa, hư luống, bất lực? Vấn đề thực sự đặt ra là: làm thế nào để ta có thể đối đầu với hiện-trạng như thế? Làm sao ta hiểu được chuyện đó? Làm sao ta có thể cảm kích những chuyện như thế cách thực sự? Và, cảm kích có là ngôn-từ được sử-dụng cách thoả-đáng, hoặc đúng nghĩa?

Nói cách khác, tất cả chỉ là cái giá cho sự tự do ta có được. Tự-do không bị gò bó, ràng buộc vào với thế-giới toàn những chết chóc, ngã gục. Một thế-giới ta vẫn cứ phải duy-trì để không quên sót những người còn gần cận với ta vì lý do này khác. Nhưng cách tốt nhất, là đi vào với thế-giới ở đó không một ai, kể cả Đức Giêsu, nhưng vẫn thấy gần gũi đủ để có thể đưa làn khí hít thở xuống với thân mình và từ đó tạo nhiều đòi hỏi, nơi ta. Thế giới đó, ta không còn lo lắng cho sự sống cả về mọi thứ; bởi lẽ, nơi thế giới ấy,chẳng có gì ra như thế và cũng chẳng có ai giống như vậy, tức: không có gì là vật chất và cũng không có ai hiện-diện bằng thân xác hoặc thể lý cả.

Xem thế, thì: Phục sinh chỉ có nghĩa là không-gian mở. Không phải là thứ gì khác giống như đang ở đây, ở đó nơi trần thế. Phục sinh vẫn là và chỉ là Tự Do khi mọi sự biến đi hết, và không có Chủ nhật nào đưa tinh thần con người lên cao hoặc xuống thấp, cũng chẳng còn niềm vui hoặc nỗi buồn ngày Chúa sống lại.

Thánh Tôma cũng giống thế. Thánh-nhân không đưa ngón tay mình sờ chạm vào Chúa; bởi thánh-nhân không có nhu-cầu phải làm thế. Và các sách Tin Mừng cũng không kể cho ta biết là thánh-nhân đã trải-nghiệm như vậy. Nhưng thánh Tôma đã đi từ tình-trạng thể-lý để bước vào trạng-huống thần-bí, tức: không còn đòi hỏi phải sờ chạm vào thân-xác Thày mình để tin nhưng lại đã có trải-nghiệm mới về Thày mình. Và kinh-nghiệm độc nhất chỉ một mình thánh-nhân mới xác chứng được Thày mình là Chúa và là Thiên-Chúa, nên mới kêu lên như thế.

Không phải lý trí đã cho thánh nhân có được xác-tín Thày mình là Chúa, mà là niềm tin. Tin tưởng trong tự-do. Bởi lẽ, tin không là hiểu biết sự việc nào đó bằng sờ chạm thể-lý, hoặc ngôn-từ định-nghĩa hoặc thứ gì khác rất thể-chất. Nhưng, tin là tin tưởng vào ai đó, một người nào. Đấng mà ta tin không thể diễn-tả ra bên ngoài bằng ngôn-từ hoặc cử-chỉ, hoặc hiểu-biết trí-thức hoặc bất cứ thứ gì hiện diện như vật-lý ở trần-gian.

Tin, là cung-cách khác-biệt của hữu-thể đối với con người. Tin, thể hiện bằng hành-động, là nghệ-thuật sống một cách khác hẳn. Tin giúp cho người tin tưởng có khả-năng chấp-nhận một thứ trật-tự hiện-hữu khác và làm cho chủ-thể hiện-hữu được sống tự-do cho chính mình và cho cuộc sống đích thị là sự sống.

Có thể nói, tin là thứ ngôn-từ thần-bí mà con người không nghe biết nhưng vẫn hiệu-lực. Người tin tưởng thần-bí nguyện cầu cho ta không bị xa cách khỏi những gì ta không bao giờ có thể tiếp cận. Và, triết-gia Karl Rahner gọi kẻ tin của ngày mai sẽ là thần bí từng trải-nghiệm điều gì đó, hoặc người đó sẽ chẳng là kẻ tin gì hết. Kẻ tin ấy hôm nay đây ta biết tên ông là Tôma thánh-nhân, vẫn rất tin. Tin rằng, Thày mình là Chúa và là Thiên-Chúa của mình, tức mọi người có lòng tin trải-nghiệm như mình.

Trong tâm-tình trải-nghiệm được như thánh Tôma cũng rất tin, tưởng cũng nên ngâm lên lời thơ rằng:

“Người bó gối nghe phút vừa im lặng,

Để run theo mạch chuyển trận mưa nguồn.

Mai mốt đi về đông trắng,

Bay lên núi lũ trâu bò ngơ ngác.”

(Vũ Hữu Định – Thời Tiết)

Mai kia mốt nọ, ai có đi về đông trắng hay chuyển trận mưa nguồn, hãy cứ như nhà thơ xưa không chỉ ngồi nghe im lặng để run theo mạch, nhưng là tin. Tin như thánh Tôma nay xác tín mình rất tin Thày là Chúa và là Thiên-Chúa của mọi loài, rất đáng tin.

Lm Kevin O’Shea, CSsR – Mai Tá lược dịch

 

Vì đâu bạo hành ‘lên ngôi’?

Vì đâu bạo hành ‘lên ngôi’?

Cư dân vây quanh một chiếc xe máy bị cháy thành than trong tỉnh Nghệ An. Dân làng phẫn nộ vì bị trộm chó đã thu giữ xe máy của các tên trộm chó và nổi lửa đốt xe.

Cư dân vây quanh một chiếc xe máy bị cháy thành than trong tỉnh Nghệ An. Dân làng phẫn nộ vì bị trộm chó đã thu giữ xe máy của các tên trộm chó và nổi lửa đốt xe.

Ðoàn Xuân Lộc

22.04.2014

Chuyện con người có lúc dùng đến bạo lực khi hành xử với nhau ở đâu cũng có, thời nào cũng xẩy ra. Nhưng có thể nói ít có quốc gia nào, xã hội nào nạn bạo hành lại phổ biến như ở Việt Nam thời nay.

Một xã hội đầy bạo lực?

Ở Việt Nam – như một số bài viết và dư luận chung nhìn nhận – ‘bạo lực đã lên ngôi’. Tệ nạn này diễn ra gần như mọi lúc, mọi nơi, dưới nhiều hình thức và trong nhiều môi trường khác nhau.

Có nhiều trường hợp, chỉ vì những va chạm, xô xát, xích mích rất nhỏ chuyện ẩu đả, đâm chém, giết hại lẫn nhau đã xẩy ra.

Trong một số hoàn cảnh khác, một phần vì bức xúc, bất lực trước một tệ nạn xã hội, người dân đã dùng bạo lực để hành xử, để tự giải quyết vấn đề. Một ví dụ cụ thể cho trường hợp này – và cũng là một vấn đề gây không ít nhức nhối, thương tâm – là chuyện những người trộm chó bị đánh chết xẩy ra tại nhiều nơi khác nhau ở Việt Nam.

Nhìn những hình ảnh về những người trộm chó bị trói, bị đánh chết nằm tả tơi, nhơ nhuốc trên đường – xuất hiện đầy dẫy trên báo chí và các trang mạng xã hội – chắc có người có cảm giác đâu đó ở Việt Nam vẫn đang có chiến tranh, nội chiến hay thậm chí đang sống thời sơ khai.

Nạn bạo lực và tình trạng tự xử ở Việt Nam đã quá phổ biến và nghiêm trọng. Các quan chức Việt Nam cũng đã lên tiếng báo động về những tệ nạn này.

Chẳng hạn, khi tường thuật về một phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào tháng 9 năm 2013, báo Tuổi Trẻ trích dẫn Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan nói rằng bà ‘rất đau lòng khi nghe tin những vụ xử nhau vì những lý do lãng xẹt’.

Trong khi đó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Ksor Phước đề cập đến chuyện giờ ‘mạng người không bằng mạng chó’ và Phó chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc than phiền về chuyện ‘coi thường tính mạng người khác, bất chấp pháp luật’ vì theo ông ‘Ăn trộm chó thì dù sao cũng là một con người, vậy mà bắt giữ, không thả, đánh đến chết. Mà chuyện đâu chỉ xảy ra ở một nơi’.

Vì vậy, bà Doan bình luận rằng ‘đạo đức xã hội xuống cấp đáng báo động’.

Đáng báo động vì nạn bạo hành đã len lõi vào tất cả mọi ‘ngõ ngách’ của đời sống xã hội – từ gia đình đến học đường tới chốn công quyền.

Đáng bạo động nhất là chuyện công an lộng quyền, hành xử thô bạo với dân.

Cũng giống như chuyện người dân tự hành xử với những người trộm chó, chuyện công an coi thường tính mạng người khác, bất chấp pháp luật, bắt giữ và đánh người đến chết ‘đâu chỉ xảy ra ở một nơi’.

Tệ nạn này rất phổ biến và nghiêm trọng. Một ví dụ điển hình là vụ năm công an dùng dùi cui đánh chết anh Trương Thanh Kiều ở Phú Yên.

Vụ án này – một vụ gây bất bình, phẫn nộ trong dư luận trong thời gian qua – chưa được giải quyết xong và không biết sẽ kết thúc như thế nào dù Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã lên tiếng yêu cầu các cơ quan tư pháp nghiêm minh xử lý – thì chuyện dân ‘đánh’ công an ở xã Bắc Sơn, Hà Tĩnh xẩy ra.

Xem ra, ở Việt Nam mọi thứ đang bị đảo lộn và luật pháp hầu như không còn tồn tại.

Câu hỏi được đặt ra là tại sao nạn bạo hành và tình trạng tự xử nói riêng lại phổ biến như vậy ở Việt Nam.

Mỗi người có thể chỉ ra nhiều nguyên nhân khác nhau của nạn bạo hành (gia đình, học đường, công an và xã hội nói chung) và tình trạng dân tự xử các vấn đề, tệ nạn xã hội.

Bài viết này chỉ gợi lên một vài yếu tố có thể được coi là trực tiếp hay gián tiếp gây nên thực trạng, tệ nạn đó.

Ưa bạo lực, không bao dung?

Cũng theo Tuổi Trẻ, tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nói trên, bà Doan tự hỏi xã hội xuống cấp và tình trạng tự xử trong dân có phải là ‘do các chương trình giảng dạy đạo đức trong nhà trường không được coi trọng hay do tính gương mẫu của cán bộ, đảng viên xuống cấp nên nó tác động xấu đến xã hội’?

Không biết trong phát biểu và suy nghĩ của mình nói chung bà Doan có coi chuyện ‘các chương trình giảng dạy đạo đức trong nhà trường không được coi trọng’ có ‘tác động xấu đến xã hội’ hay không vì không thấy Tuổi Trẻ trích dẫn.

Tuy vậy, những ai am hiểu về tình hình Việt Nam đều có thể nhận ra không chỉ ở học đường mà hầu như trong toàn bộ mọi sinh hoạt, đời sống chính trị, kinh tế và xã hội ở Việt Nam, vấn đề đạo đức ít được coi trọng.

Và có thể nói một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là chủ nghĩa Mác-Lênin mà Đảng Cộng sản Việt Nam chọn làm ‘nền tảng tư tưởng’, làm ‘kim chỉ nam’ cho mọi hoạt động của mình không coi trọng các chuẩn mực, giá trị tinh thần, nhân bản.

Cụ thể học thuyết này hầu như không đề cập gì đến những phạm trù đạo đức xã hội và các giá trị tinh thần, nhân bản – như nhân quyền, nhân phẩm, bác ái, lương tâm hay trách nhiệm.

Tuy vậy, dù được coi là một học thuyết ‘thiếu đạo lý làm người’, chủ nghĩa Mác-Lênin lại được đề cao – thậm chí được tôn thờ – và được áp dụng trong tất cả mọi sinh hoạt, lĩnh vực, môi trường – từ chính trị, kinh tế, đến văn hóa, giáo dục.

Khi tuyệt đối hóa và áp đặt một học thuyết như vậy lên toàn bộ đời sống chính trị, kinh tế, xã hội chuyện con người bị bạo lực và những đòi hỏi vật chất chi phối, lấn lướt và – vì vậy – có những hành xử thiếu tình người hay thô bạo với nhau không có gì là khó hiểu.

Hơn nữa, chuyện tuyệt đối hóa chủ nghĩa Mác-Lênin cũng dẫn đến việc loại bỏ những giá trị của các học thuyết, triết lý khác hay những giá trị truyền thống của Việt Nam – trong đó có những giá trị rất nhân bản, tốt đẹp.

Nếu thay vì cứ mãi được dạy hay được nhắc nhở về đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản và bạo lực cách mạng, học sinh, sinh viên, những người nắm giữ công quyền và người dân nói chung được học hay được khuyến khích sống huynh đệ, từ bi, tương thân tương ái, chắc nạn bạo hành (gia đình, học đường hay công an) ở Việt Nam không phổ biến như vậy.

Đặc biệt khi tuyệt đối hóa chính mình, khi coi mình là người độc quyền chân lý, người ta không còn muốn lắng nghe hay đối thoại với người khác. Thậm chí họ sẵn sàng dùng bạo lực để dập tắt những tiếng nói khác biệt, đối lập.

Cũng giống như những chế độ cộng sản khác trước và nay, chính quyền Việt Nam vẫn chưa chấp nhận đa nguyên, đa đảng và vẫn thường bắt giữ, tù giam những ai có chính kiến, lập trường, đường hướng đối lập với mình.

Khi cả chế độ và hệ thống thiếu sự bao dung như vậy làm sao có thể đòi hỏi mỗi cá nhân, mỗi cá thế sống trong hay dưới chế độ đó bao dung với nhau?

Bạo hành (gia đình, học đường hay công an) xẩy ra có thể một phần vì người ta coi thường đối thoại, không còn biết lắng nghe, tôn trọng lẫn nhau hay không chấp nhận khác biệt.

Phi luật pháp, thiếu gương mẫu?

Khi tự trả lời cho câu hỏi của mình nói trên, bà Nguyễn Thị Doan cho rằng ‘chuyện niềm tin của nhân dân giảm sút vì một bộ phận cán bộ, đảng viên kém phẩm chất’ là nguyên nhân gây nên tội phạm trong xã hội, tự xử trong dân.

Tại phiên họp ấy, ông Ksor Phước cũng được báo Tuổi Trẻ trích dẫn nói rằng có nhiều nguyên nhân gây nên tình trạng tự xử trong dân. Trong đó có ‘việc [những người nắm giữ công quyền] xử lý thiếu nghiêm minh, bao che vi phạm, làm mất lòng tin của nhân dân’.

Những nhận xét như vậy rất đúng nhưng xem ra chưa đủ.

Những vụ công an đánh chết người trong những năm qua – đặc biệt vụ ở Phú Yên – cho thấy ‘cán bộ’, ‘đảng viên’ không chỉ ‘kém phẩm chất’ hành xử thô bạo làm mất lòng tin của dân mà còn rất tàn nhẫn làm người dân bất bình, phẫn nộ.

Trong một bài phỏng vấn đăng trên báo Người Lao Động hôm 07/04, ông Lương Quang, Chánh án Tòa án Nhân dân Thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, cho biết trên người anh Kiều có tới 70 vết thương, trong đó có 11 vết thương trên đầu. Và chính ông Lương cũng ‘thấy kinh’ ngạc về chuyện đó.

Hơn nữa, như nhiều bài viết, nhiều người – trong đó có những người (từng) làm trong ngành tư pháp hay am hiểu luật pháp Việt Nam – chỉ ra rằng việc bắt giam anh Kiều hoàn toàn phi pháp và tiến trình điều tra, xét xử có nhiều sai phạm.

Tuy bắt giữ người trái phép lại dã man đánh chết người như vậy năm công an đó chỉ nhận mức án từ 5 năm tù đến 1 năm án treo về tội ‘Dùng nhục hình’. Một số người liên quan khác – trong đó có ông Lê Đức Hoàn, Phó công an Thành phố Tuy Hòa, người trực tiếp chỉ đạo, phân công người tiến hành bắt giữ anh Kiều – không bị truy tố hay chịu bất cứ trách nhiệm hình sự nào.

Khi chính những người có nhiệm vụ bảo vệ an toàn, tính mạng, cuộc sống của dân, và giữ gìn trật tự, àn toàn xã hội lại đi đánh chết dân và hành xử như giang hồ chuyện xã hội đạo đức xã hội xuống cấp, bạo hành lên ngôi là việc dễ hiểu.

Trong một xã hội mà những người nắm giữ công quyền, cầm cân nảy mực và cán cân công lý vi phạm và chà đạp lẽ phải, luật pháp chuyện người dân mất niềm tin vào hệ thống và tự xử cũng không có gì là quá lạ.

Chắc chắn sẽ không có những vụ dân ‘tự xử’ hay ‘đánh’ công an như vụ Bắc Sơn, Hà Tĩnh nếu như người dân tin vào giới công quyền, tin vào sự nghiêm minh, công bằng của luật pháp hay tin rằng quyền lợi của họ được tôn trọng và tiếng nói của họ được lắng nghe.

Hơn nữa, xem ra ở Việt Nam, không chỉ ‘một bộ phận cán bộ kém phẩm chất’ như bà Doan và ông Phước thừa nhận mà xem ra cả thể chế, chế độ cũng đang đánh mất niềm tin nơi dân.

Chẳng hạn, trong thời gian gần đây mỗi lần có một ‘đại gia’ hay lãnh đạo một tập đoàn nhà nước nào đó bị bắt giam, xét xử thay vì bàn về việc người đó có tội hay không, có tội gì dư luận lại đề cập đến chuyện tranh chấp, đấu đá trong giới lãnh đạo chóp bu hoặc các phe nhóm trong Đảng Cộng sản và coi chuyện đấu đá nội bộ ấy là lý do đằng sau các vụ bắt giữ, xét xử đó.

Thực hư chuyện này như thế nào chỉ những người trong cuộc biết rõ. Nhưng chính những suy đoán như vậy ít hay nhiều cho thấy những người ngoài cuộc và dư luận nói chung không hoàn toàn tin tưởng vào giới lãnh đạo và chế độ.

Vì vậy, để xây dựng một xã hội thực sự văn minh, công bằng, thượng tôn pháp luật như các quan chức Việt Nam thường hay nhấn mạnh và kêu gọi, Việt Nam cần có những thay đổi căn bản, triệt để về tư tưởng, thể chế từ chế độ.

Vẫn biết rằng xã hội yên bình, văn minh hay không ít còn tùy thuộc nhiều vào ý thức, trách nhiệm của từng cá nhân, mỗi gia đình và các tổ chức trong xã hội.

Nhưng thiết nghĩ rất khó – nếu không muốn nói là không thể – xây dựng được một xã hội như thế khi đấu tranh giai cấp và bạo lực cách mạng vẫn được khuyến khích, khi các giá trị nhân bản, tinh thần tiếp tục bị coi thường, khi chế độ thiếu bao dung (với những tiếng nói khác biệt, đối lập), khi giới công quyền lộng hành, hành xử thô bạo với dân hay khi các quan chức, lãnh đạo không gương mẫu trong việc tôn trọng, thực thi luật pháp.

Ðoàn Xuân Lộc

Tiến sĩ về quan hệ quốc tế, hiện là chuyên viên nghiên cứu tại Global Policy Institute, London, Anh quốc.

Nữ sinh viên bán thân để tồn tại

Nữ sinh viên bán thân để tồn tại

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2014-04-21

TTVN04202014.mp3

ATT00043-305.jpg

Một nữ sinh viên làm thêm tại một quán cà phê, hình ảnh chỉ mang tính minh họa.

RFA

Chuyện các cô gái đứng đường giả làm nữ sinh, đeo kính cận, thắt tóc bím và nói năng nhí nhảnh, nhút nhát khi mời khách qua đêm hoặc tạo ra một đường dây cò mồi mà ở đó, các cô gái đóng vai khù khờ để câu tiền khách là chuyện vốn xảy ra rất nhiều khắp Việt Nam. Nhưng chuyện chính các cô đang là sinh viên năm thứ hai, thứ ba đại học làm gái đứng đường để cứu quá trình học tập của mình và để tồn tại là một chuyện hết sức đau lòng hiện nay.

Chi phí quá cao

Một bạn sinh viên đại học sư phạm Đà nẵng chia sẻ, chuyện các bạn sinh viên có điều kiện gia đình khó khăn, sống xa nhà và thiếu tiền nộp học phí cũng như tiền sinh hoạt hằng ngày, phải bươn bả làm đủ công việc nhưng gặp nhiều trở ngại, cuối cùng chấp nhận bán thân nuôi miệng là chuyện xảy ra khá nhiều ở đại học sư phạm Đà Nẵng.

Vì có hai vấn đề hiện nay tại các đại học Đà Nẵng khiến các cô gái dễ dàng sa ngã, đó là thành phố này tuy hiện đại nhưng lại có quá ít cơ hội cho người lao động phổ thông, đặc biệt, số trường đại học khá nhiều nhưng lại không có nhiều cơ hội làm thêm cho sinh viên. Đó là chưa muốn nói đến nhiều trường hợp các sinh viên đi làm thêm, đi dạy thêm vất vả nhưng đến cuối tháng bị chủ nợ lương, nợ kéo dài từ tháng này qua tháng nọ rồi cuối cùng phải bỏ việc.

Chính một phần rất lớn môi trường làm thêm việc quá khắc nghiệt đã đẩy nhiều nữ sinh đi đến lựa chọn hoặc là tìm một bạn trai cùng học, con nhà khá giả, để cả hai cùng sống, cùng nấu chung, cùng chia sẻ mọi khó khăn nhưng trên thực tế là bạn nữ sinh đang ngầm phục vụ cho bạn nam sinh để được ăn cơm, được chia sẻ nhiều khoản chi phí.

Bung-be-_-cac-quan-an-250.jpg

Sinh viên làm thêm tại một quán ăn, hình ảnh minh họa. RFA PHOTO.

Trường hợp khác, các bạn nữ sinh chấp nhận bán thân để trang trải mọi thứ chi phí trong quá trình học tập và dành một ít số dư mang về biếu cho cha mẹ, san sẻ bớt nỗi khó khăn cho cha mẹ. Và cũng theo bạn nữ sinh trên tiết lộ thì phần đông các sinh viên Bắc miền Trung rơi vào hoàn cảnh này. Cứ tối đến, người ta dễ dàng nhận thấy một số nữ sinh viên đại học sư phạm Đà Nẵng đứng trước cổng trường, trên đường Trường Chinh, Đà Nẵng để bắt khách.

Một bạn trẻ khác chia sẻ: “Bây giờ mấy bạn sinh viên sống loạn xà ngầu lên, cũng do nhiều nguyên nhân. Nhưng trong đó không có tiền trang trải học tập, cha mẹ chạy vay chạy mướn để đi học, đến năm thứ ba, năm cuối mà vẫn thấy tương lai mù mịt mà tiền nợ thì thúc vào hông cha mẹ, nghe cha mẹ than phiền, họ buộc phải kiếm việc làm thêm, làm đâu cũng thiếu nợ, đủ thứ hết, thì họ đi đứng đường. Họ đáng thương lắm, có khi trước đây mà hình dung con đường vào đại học như thế, họ đã ở nhà làm nông, có chồng lại bình yên hơn!”..

Theo bạn trẻ này tiết lộ, thường thì các sinh viên ngoại trú có gốc gác từ Quảng Bình, Quảng Trị và các vùng quê hẻo lánh ở Thừa Thiên Huế chiếm số nhiều trong các cô gái đứng đường ở đại học sư phạm Đà Nẵng.

Không tìm thấy lý tưởng trong việc học?

Và không riêng gì đại học sư phạm, hầu như mọi trường đại học ở Đà Nẵng nói riêng và một số thành phố lớn nói chung đều có nhiều nữ sinh viên chọn việc bán dâm bằng nhiều hình thức để cứu quá trình học tập của họ. Và có một vấn đề khá lạ là riêng trường đại học sư phạm là trường được ưu tiên miễn học phí nhưng các nữ sinh viên lại chọn việc bán dâm nhiều nhất.

Giải thích vấn đề trên, cô bạn sinh viên này nói thêm rằng trên thực tế, tuy ngành sư phạm là ngành được ưu tiên miễn giảm học phí nhưng lại là ngành học khắc nghiệt nhất cho cả đâu vào và đầu ra. Về phần đầu vào, nghĩa là thi vào đại học sư phạm, dường như bất kì một sinh viên nào chọn ngành sư phạm đều ý thức được rằng đây là ngành có nhiều tiêu cực thuộc vào bậc nhất và tương lai của sinh viên sư phạm hầu như mịt mù. Cơ hội dành cho sinh viên sư phạm khi ra trường rất thấp, số lượng sinh viên  sư phạm thất nghiệm đang ngày một nhiều thêm.

Cac-n_-sinh-dang-lam-them-250.jpg

Sinh viên làm thêm tại một quán ăn, hình ảnh minh họa. RFA PHOTO.

Chính vì thế, muốn vào được các trường để dạy, cử nhân sư phạm phải chạy vay chạy mướn một khoản tiền lớn để mua chỗ dạy. Và có một điểm tế nhị nữa là có trên 90% sinh viên chọn ngành sư phạm đều là con nhà nghèo, vì không đủ tiền trang trải nên họ chọn ngành sư phạm để nhẹ bớt phần học phí và họ chấp nhận đánh đổi tương lai bằng khoản học phí miễn giảm này.

Một khi nhận thức được tương lai của mình, các nữ sinh viên nhà nghèo buộc phải bán mình để kiếm thêm thu nhập, dành dụm vốn liếng để khi ra trường còn có cái để bôi trơn chỗ làm, để mua một công việc ở các trường. Đó là một thực tế đau lòng của ngành sư phạm Việt Nam hiện tại mà chính bạn nữ sinh viên vừa trình bày cũng nhận ra là tương lai của mình quá mịt mù, việc kiếm con chữ ở trường sư phạm cũng chỉ mang tính chất ghi nhớ những giáo án để sau này truyền đạt, không có yếu tố sáng tạo, giả sử có sự thay đổi lớn về giáo dục, các sinh viên vừa tốt nghiệp sẽ rơi vào lạc hậu ngay tức khắc.

Vào vai một khách làng chơi hạng xoàng, nghĩa là loại khách ăn bánh trả tiền và có một chút tiền típ cho các cô gái nhưng không đáng kể, chúng tôi gặp một nữ sinh tên Hoa, đương nhiên cái tên này không bao giờ thật khi các cô giới thiệu với khách. Hoa cho biết cô người Hướng Hóa, Quảng Trị, cô đang học năm thứ ba khoa lịch sử. Đối với Hoa, việc học lịch sử để dạy sau nay chỉ đơn thuần là ghi chép, thảo luận những gì mình ghi chép và học thuộc lòng để dán nó vào não rồi sau này ra dạy lại học sinh.

Đương nhiên, Hoa vẫn nhìn thấy những điểm phi lý của lịch sử nhưng đây không phải là vấn đề quan trọng, vì nó phi lý hay hợp lý chăng nữa cũng không giúp cho cô thoát khỏi cồn cào bao tử và vấn đề hiện tại của Hoa là vắt óc suy nghĩ làm sao để bán dâm lâu dài mà không bị bắt, để dành dụm một ít vốn và mở một quán nhậu sau khi ra trường, đến một lúc nào đó đủ điều kiện kinh tế, Hoa sẽ dễ dàng xin vào một trường để dạy học, sống cuộc đời của một nhà giáo thanh liêm.

Cái ước mơ sống một cuộc đời nhà giáo thanh liêm sau những sóng gió và đau khổ, vùi dập của cuộc đời được thốt ra từ miệng một cô sinh viên khoa lịch sử và giấc mơ nhà giáo thanh liêm được nuôi nấng bởi những đồng tiền đau khổ, trả giá, thậm chí đôi khi trơ nhục khiến cho chúng tôi giật mình và đau buồn về tương lai đất nước!

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

NIỀM TIN VÀO CHÚA PHỤC SINH

NIỀM TIN VÀO CHÚA PHỤC SINH

TGM Ngô Quang Kiệt

Chúa Kitô đã phục sinh.  Ðó là niềm vui của chúng ta.  Còn hơn thế nữa, đó là đức tin của chúng ta, đó là niềm hi vọng của chúng ta.  Niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh của chúng ta có cơ sở vững chắc ở những bằng chứng khác nhau.

Có bằng chứng tiêu cực của các lính canh mộ.  Khi an táng Chúa Giêsu, các thượng tế đã cẩn thận xin Philatô cho đóng cửa mộ bằng một phiến đá lớn rất nặng rồi cho niêm phong và cắt cử lính canh cẩn thận.  Nhưng khi Chúa sống lại, ánh sáng rực rỡ chiếu lên chói lòa, cửa mộ bật tung, lính canh hoảng sợ chạy trốn.  Sau đó lính canh đi loan tin rằng: Trong khi chúng tôi ngủ, các môn đệ đến lấy trộm xác Chúa.  Ai cũng biết đó là tin giả.  Vì các môn đệ còn đang rất sợ hãi, trốn chạy, làm sao dám lấy trộm xác.  Thánh Augustinô đã bài bác điều này khi nói: Lính canh ngủ hay thức.  Nếu họ thức thì làm sao họ để cho các môn đệ lấy trộm xác Chúa.  Nếu họ ngủ, làm sao họ biết là các môn đệ lấy trộm xác Chúa.

Có những bằng chứng tích cực của các môn đệ.  Sáng sớm, ba người đầu tiên đã đến mộ và không thấy xác Chúa.  Bà Mađalêna hốt hoảng cho rằng người ta đã lấy mất xác Chúa.  Phêrô vào trước nhưng chưa có ý kiến gì.  Gioan vào sau.  Ông đã thấy và đã tin.  Ông thấy gì?  Ông thấy khăn che đầu và khăn liệm xếp đặt gọn gàng trong mộ.  Là người môn đệ được Chúa yêu thương ông có một trực giác đặc biệt.  Hơn nữa ông đã biết rõ thói quen của Chúa.  Nhìn khăn liệm xếp đặt gọn gàng, ông nhận ra thói quen đó.  Tuy nhiên niềm tin ban đầu còn mơ hồ.  Niềm tin chỉ chắc chắn nhờ được củng cố bằng việc trực tiếp nhìn thấy Chúa.

Sau ngày phục sinh, Chúa hiện ra nhiều lần với nhiều người.  Hiện ra với các môn đệ trong căn phòng đóng kín.  Hiện ra với Tôma và cho ông xem các vết thương ở tay, chân và cạnh sườn.  Hiện ra với hai môn đệ đi đường Emmaus.  Hiện ra trên bờ biển và chỉ dẫn cho các môn đệ đánh một mẻ cá lạ lùng.  Nhưng có lẽ cuộc hiện ra có tác động mãnh liệt nhất là với Phaolô.  Thuở ấy Phaolô còn có tên là Saolê, một người Do Thái thù ghét Chúa Giêsu, hăng say đi tìm bắt những người tin Chúa.  Ở Damas, ông bị một làn ánh sáng chói lọi chiếu vào khiến mù mắt.  Con ngựa hất ông ngã lăn xuống đất.  Và có tiếng từ trời phán bảo: “Saolê, Saolê, tại sao ngươi tìm bắt ta”.  Hoảng sợ Saolê thưa: “Thưa ngài, ngài là ai”.  Tiếng từ trời trả lời: “Ta là Giêsu mà ngươi đang tìm bắt”.  Từ đó Saolê tin vào Chúa Kitô Phục sinh, trở thành Phaolô, một tông đồ nhiệt thành đi loan Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người.

Những kết quả của việc Chúa Phục sinh được thấy rõ ràng.  Trước hết là sự đột biến nơi các môn đệ. Ngày Chúa chịu chết, các ông là những người nhút nhát, trốn chạy, thậm chí còn phản bội, chối Chúa. Tại sao chỉ trong một thời gian ngắn, các ngài thay đổi một cách mãnh liệt.  Ðang nhút nhát, ẩn trốn bỗng hiên ngang xuất hiện ở chốn công khai.  Ðang phản bội, chối Chúa bỗng hăng hái ra đi làm chứng cho Chúa.  Ðang sợ hãi bỗng trở nên can đảm lạ thường.  Không những vui mừng được chịu đau khổ vì Chúa mà còn sẵn sàng chịu chết vì Chúa.  Chắc chắn các ngài đã được gặp Chúa nên con người các ngài đã biến đổi tận gốc rễ.  Chắc chắn các ngài đã gặp Chúa nên lời chứng của các ngài có sức thuyết phục.

Thật vậy, làm sao những người tín hữu đầu tiên tin vào lời chứng của các tông đồ đến nỗi sẵn sàng bỏ của cải làm của chung, sẵn sàng chịu sống chui rúc, trốn chạy cuộc bách hại của đế quốc La mã, sẵn sàng chịu chết vì đức tin của mình.  Làm sao Giáo hội có thể tồn tại 2,000 năm, qua biết bao nhiêu khó khăn thử thách do những người muốn tiêu diệt đạo gây nên.  Nếu Chúa không Phục sinh, không thể giải thích được những việc đó.

Chúa Phục sinh, đó là nền tảng của đức tin.  Ðó là sự vững chắc của Giáo hội.  Và đó là chính là niềm hi vọng lớn lao của chúng ta.  Chúa phục sinh biến đổi thân phận chúng ta.  Từ thân phận phải chết sẽ được sống lại với Chúa.  Từ thân phận tội lỗi được trở nên trong sạch.  Từ cát bụi phàm trần được trở lại làm con Chúa.  Từ định mệnh mong manh phù du được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trong nhà Cha trên trời.

Lễ Chúa Phục Sinh đem lại cho ta niềm vui lớn lao.  Vì thế mừng lễ Chúa Phục Sinh mời gọi ta biến đổi đời sống nên tươi mới cho xứng đáng với niềm tin, xứng đáng với phẩm giá của con người được Chúa yêu thương cứu chuộc.

Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, xin cho con được sống lại thật về phần linh hồn. Amen!

TGM Ngô Quang Kiệt

From: langthangchieutim & Anh chị Thụ Mai gởi

NẺO ĐƯỜNG TÌM CHÚA PHỤC SINH

NẺO ĐƯỜNG TÌM CHÚA PHỤC SINH

Hôm nay Lễ Phục Sinh, bài Tin Mừng của Thánh sử Gioan, chỉ có 9 câu ngắn ngủi, nhưng gói ghém thật cô đọng hành trình đi tìm Chúa Phục Sinh của ba người: Bà Maria Mácđala, ông Phêrô và Gioan, Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến.

Nẻo đường của ông Phêrô

Ông Phêrô sau khi chối Chúa ba lần trước khi gà gáy, đã kịp thời ăn năn khóc lóc thảm thiết, ngay khi gặp cái nhìn đầy yêu thương trìu mến và thương xót của Chúa Giêsu (Lc 22, 61). Ông vẫn theo Chúa xa xa.  Vẫn nhận thức vai trò Đá Tảng mà Chúa Giêsu trao phó.  Vẫn hăng hái và nhiệt thành.  Nên nghe bà Mácđala báo tin ngôi mộ trống, bèn cùng ông Gioan, chạy đến ngay.

Sự mau mắn của ông biểu lộ lòng chân thành và tinh thần trách nhiệm cao độ.  Ông vẫn hăng hái hành động, như từng rút kiếm, tấn công quân dữ đến bắt Chúa Giêsu, nhưng lóng ngóng, chỉ dám chém đứt tai người đầy tớ của thượng tế. Đáng tiếc thay, ông Phêrô đã mất thói quen cầu nguyện, nên thay thế vào đó cách xử dụng hung bạo, làm mất cơ trí đi, và lòng nhiết thành của ông trở thành một thứ hăng say trái mùa (ĐGM Fulton Sheen).

Thậm chí, sau khi đã được Chúa Giêsu hiện ra an ủi, chúc bình an, thổi hơi, ban Đức Chúa Thánh Thần, ông vẫn chưa mấy biến chuyển.  Vẫn vô tư rủ bạn chài đi đánh cá.  Nhọc nhằn thâu đêm chẳng được gì, thì tảng sáng Chúa hiện đến, chỉ các ông thả lưới  bên phải mạn thuyền.  Tức thời trúng thật đậm.  Người Môn Đệ Được Chúa Thương Mến mới nhắc ông: “Chúa đó!” (Ga, 21, 7) Ông Phêrô chỉ biến đổi hoàn toàn, sau ngày lễ Ngũ Tuần, sau khi đã được tràn đầy hồng ân Đức Chúa Thánh Thần.

Hành trình tìm Chúa Phục Sinh thật gian nan với ông Phêrô, tuy ông cũng được thấy Chúa hiện ra, nhưng đúng hơn là Chúa chủ động tìm đến với ông, thay vì ngược lại.  Những tấm khăn liệm, băng vải, khăn che đầu đã che khuất tầm nhìn của ông, những hoạt động hăng say quá bận rộn bên ngoài, đã khuấy động tâm hồn ông, vốn rất ngay lành, đâm ra u mê, tăm tối.

Như thế, nếu tôi cũng chỉ nhiệt thành giữ đạo theo thói quen, chỉ hành động xuông như tập quán, kinh sách đọc rổn rảng, vô hồi kỳ trận, mà thiếu mất tâm tình cầu nguyện sốt sắng, mật thiết, và còn thiếu lòng ăn năn thống hối như Phêrô, thiếu ý chí và cố gắng nên tốt lành hơn.  Bởi vì những thứ trên chỉ là phương tiện giúp nên thánh, mà phải có ý chí sửa đổi thì ân sủng Chúa mới hoạt động, ân sủng Chúa chỉ sinh hoa trái, khi có sự hợp tác của linh hồn mà thôi.  Hơn nữa, tôi còn thiếu cả Thánh Thể, Của Ăn Đi Đàng, lẫn thiếu Lời Chúa dẫn dắt, làm sao tìm và gặp được Chúa Sống Lại trong tôi?

Nẻo đường của ông Gioan

Người Môn Đệ Được Chúa Thương Mến trái lại, trẻ trung, mạnh khỏe, nhanh nhẹn, chạy đến ngôi mộ trống trước ông Phêrô.  Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào (Ga 20, 5).   Ông Gioan được cho là chàng thanh niên đã bỏ chạy khi Chúa Giêsu bị bắt (Mc 14, 51).  Nhưng sau đó, vẫn can đảm theo Chúa vào dinh cựu thượng tế Khanan, rồi còn giúp đỡ ông Phêrô lọt vào bên trong (Ga 18, 16).  Cho đến khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh, ông Gioan cũng đứng dưới chân thánh giá cùng với Đức Mẹ Maria, bà Maria vợ ông Cơlopat, và bà Maria Mácđala.

Tuy đến ngôi mộ trước, ông chỉ cúi xuống, nhìn thấy băng vải trong đó, không vào ngay, mà nhẫn nại chờ đợi đại huynh Phêrô đến.  Có nhiều cách giải thích sự chờ đợi này.  Có thể vì kính trọng quyền huynh thế phụ, không dám vô lễ qua mặt ông Phêrô, bậc đàn anh?  Có thể còn nghi ngại sợ hãi, nhát đảm, sợ bóng vía chăng?  Hoặc là sợ đụng chạm vào khăn liệm, băng vải lỗi phạm lề luật chăng?

Nhưng chắc chắn là ông Gioan đã theo cùng ông Phêrô vào mộ. “Thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu.  Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi…  Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20, 7- 8).

Khi nhìn thấy băng vải và khăn che đầu xếp lại gọn ghẽ, tươm tất, đâu đó, cách xa nhau, ông Gioan có lẽ liên tưởng ngay đến thói ngăn nắp thứ tự thường nhật của Đức Giêsu, mà trước đây ông vẫn thường chứng kiến và đã quá quen thuộc.  Ông liền nhận ra dấu chỉ kín đáo đó và đã mạnh dạn tin tưởng Chúa Phục Sinh.

Tuy chưa được gặp Chúa sống lại, nhưng lòng trung thành, tâm hồn tỉnh thức, nhạy bén, đã giúp hành trình ông gặp Chúa Phục Sinh đạt kết quả mỹ mãn.  Ông đã gặp được Chúa ngay trong tâm hồn, mặc dù ông cũng chưa hiểu lời Kinh Thánh đã tiên báo mầu nhiệm này.

Ngày nay, Chúa vẫn ban phát rộng rãi những dấu chỉ, để nhận ra, và hiểu được Thánh Ý Chúa.  Nhưng tôi có biết mở mắt, mở tai, mở lòng ra dón nhận hay không?  Hay chỉ biết chạy theo dư luận, chạy theo những thông tin, những điềm báo kỳ dị, quái gở, ma thuật, có thể đe dọa, lấn át, khuynh đảo đức tin của tôi, vốn đang rất mong manh, yếu đuối?

Nẻo đường của bà Maria Mácđala

Bà Maria Mácđala đã được Chúa Giêsu giải thoát khỏi bảy quỷ dữ (Lc 8, 3).  Sau đó bà theo Chúa Giêsu và dùng tiền của giúp Ngài, cũng như các môn đệ đi truyền giáo.  Bà đã âm thầm, can đảm đi theo Chúa suốt cuộc khổ nạn.  Bà cũng hiện diện dưới chân Thánh Giá cùng với Mẹ Maria và bà Maria, vợ ông Cơlopat, cùng ông Gioan, để chia sẻ nỗi đau khổ tận cùng Chúa Giêsu (Ga 19, 25).  Bà Mácđala cũng tham dự mai táng Chúa Giêsu trong huyệt mộ (Lc 24, 55).

Vào ngày thứ nhất trong tuần, khi trời còn tối, bà đã vội chạy ra mộ Đức Giêsu để xức dầu thơm trên thi thể Ngài.  Nhưng phát hiện ngôi mộ trống, tảng đá chắn mộ đã lăn ra.  Bà hốt hoảng, tức tốc về báo tin ngay cho các môn đệ, ông Phêrô và Gioan.

Thoạt tiên, tưởng chừng tảng đá chặn ngôi mộ đã cản trở bà Mácđala tìm thấy Chúa Phục Sinh.  Nhưng không, bà đã kiên trì đi trở lại ngôi mộ trống lần nữa để nhớ nhung, tiếc thương và than thở khóc lóc. Bà đã cầu nguyện theo cách riêng cũa bà, biểu lộ công khai lòng yêu mến Chúa tột cùng.  Thậm chí bà cũng chẳng để ý hai thiên sứ đột nhiên xuất hiện.  Bà quay lại thấy Chúa Phục Sinh, lại tưởng người làm vườn.  Nhưng khi nghe Chúa thân thương gọi: “Maria!” bà liền nhận ra ngay Chúa Giêsu đã sống lại (Ga 20, 16).

Bà Mácđala được Chúa ủy thác loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông đồ, để các ông đi rao truyền khắp thế gian “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là của Cha của anh em. Lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20, 17).

Bà Mácđala đắm mình vào cầu nguyện, tâm tình với Chúa Giêsu, không còn bận tâm đến môi trường chung quanh, không chia lòng chia trí, dù các thiên thần tận tình hỏi han.  Chính nhờ sự chuyên tâm và khát khao Chúa tột độ, bà là người đầu tiên so với các tông đồ, được diễm phúc thấy Chúa Giêsu Phục Sinh vinh hiển. Nẻo đường tìm Chúa Phục Sinh của bà Macđala rất thực tiễn, viên mãn và hiệu quả nhất, so với hai nẻo đường vòng vo kia.

Người hy vọng là người cầu nguyện.  Đối tượng của lời cầu nguyện cũng là đối tượng của niềm hy vọng.  Người hy vọng là cộng tác viên của Thiên Chúa.  Ngài tìm họ đề hoàn tất việc tạo dựng và cứu chuộc của Ngài (Đường Hy Vọng, 964).

Lạy Chúa, xin dạy con biết tìm kiếm Chúa mọi nơi, mọi lúc, qua những lời cầu nguyện chân thành, để con được sống lại với Ngài.  Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã đồng hành cùng Chúa Giêsu trong mầu nhiệm khổ nạn, xin Mẹ dẫn dắt, chỉ bảo và cầu bầu cho con, cảm nhận được Chúa Sống Lại trong tâm hồn, để con được cứu rỗi, đồng thời trở nên Chứng Nhân, phục vụ mọi người. Amen.

AM Trần Bình An

langthangchieutim & Anh chị Thụ Mai gởi