Hướng tới tự do thông tin tại Việt Nam

Hướng tới tự do thông tin tại Việt Nam

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-05-01

20140501_125650_1-600.jpg

Từ trái sang: Nhà báo độc lập Ngô Nhật Đăng, nghệ sĩ Kim Chi, blogger Nguyễn Tường Thụy, blogger Nguyễn Đình Hà, nhà báo tự do Tô Oanh, ông Lê Thanh Tùng (DCCT) đến từ Việt Nam tham gia hội thảo mang tên ‘Hướng đến một nền tự do thông tin tại Việt Nam’ tổ chức tại trụ sở đài RFA chiều 01/5/2014

RFA photo

Nghe bài này

Ngày 1/5/2014, tại trụ sở đài RFA ở thủ đô Washington diễn ra cuộc hội thảo mang tên ‘Hướng đến một nền tự do thông tin tại Việt Nam’. Hội thảo có sự tham dự của các bloggers và nhà báo tự do đến từ Việt Nam. Ngoài ra còn có những đại diện các công ty cung cấp dịch vụ internet là Google và Access, cũng như ông trợ lý ngoại trưởng Hoa kỳ phụ trách các vấn đề nhân quyền và lao động.

Trước khi buổi hội thảo bắt đầu, nghệ sĩ Kim Chi, một trong những khách mời từ Việt Nam cho chúng tôi biết lý do tại sao một nghệ sĩ như bà lại dấn thân vào công cuộc đấu tranh cho tự do truyền thông:

Tôi thì đơn giản tôi thấy bất công ở Việt nam nó nhiều quá, nhân quyền bị vi phạm tất cả mọi thứ khiến tôi bức xúc. Tôi bức xúc thì tôi thấy mình phải lên tiếng phản đối, bởi vì mình là người nghệ sĩ, người của công chúng, của nhân dân, mà không bày tỏ chính kiến của mình thì rất là kỳ, lương tâm tôi không cho phép. Khi đó các đài xúm lại phỏng vấn tôi thì tôi trả lời, đơn giản vậy thôi. Tới một lúc thì tôi hóa ra phương tiện truyền thông nó tuyệt vời, những việc mình làm, mình yêu ghét được ủng hộ.

Nhà báo tự do Tô Oanh đến từ Việt Nam trình bày sự vận hành của ngành truyền thông do nhà nước kiểm soát tại Việt Nam. Theo đó thì một bài báo phải qua nhiều lần kiểm duyệt, các Tổng biên tập của các tờ báo phải định kỳ họp giao ban với ban tuyên giáo trung ương, và đây chính là nơi định hướng cho các bài viết phải chứa đựng nội dung như thế nào. Theo ông Tô Oanh thì các vấn đề nhạy cảm sẽ được các buổi định hướng này tránh đi.

Blogger nổi tiếng Nguyễn Tường Thụy thì nói rằng ở Việt Nam nhà nước kiểm soát truyền thông từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thành lập hồi năm 1945 đến nay. Nhưng hiện nay thì Internet là một điều kỳ diệu giúp đỡ mọi người chống lại sự độc quyền truyền thông của nhà nước. Ông Thụy cũng cho biết là những người dấn thân hoạt động truyền thông như là blogger hay nhà báo tự do vì thách thức sự độc quyền đó của nhà nước sẽ gặp rất nhiều nguy hiểm, phải trả giá. Nhưng ông Thụy vẫn hy vọng là truyền thông qua Internet sẽ vẫn liên tục phát triển.

Tiếp lời ông Nguyễn Tường Thụy, ông Lê Thanh Tùng hoạt động truyền thông của dòng Chúa Cứu thế tại Việt Nam nêu ra các trường hợp những bloggers và nhà báo độc lập bạn bè ông bị bỏ tù, như các bloggers Điếu Cày và Tạ Phong Tần, ngoài ra còn bị sách nhiễu trong tù.

20140501_132004-250.jpg

Đại diện các công ty cung cấp dịch vụ internet là Google và Access và trợ lý ngoại trưởng Hoa kỳ tại trụ sở đài RFA chiều 01/5/2014. RFA photo

Blogger trẻ tuổi Nguyễn Đình Hà thì trình bày về nghị định 72 được chính phủ Việt Nam đưa ra hồi năm ngoái nhằm kiểm soát thông tin internet, đồng thời yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ Internet cung cấp thông tin về các nhà hoạt động nhân quyền trên Internet. Theo anh Nguyễn Đình Hà thì các bloggers đã thực hiện những hành động bất tuân dân sự chống lại nghị định 72 và các công ty như Google cũng có vẻ không hợp tác.

Nhà báo độc lập Ngô Nhật Đăng kết thức phần trình bày của các bloggers đến từ Việt Nam rằng do hệ thống chính trị Việt Nam dựa trên sự dối trá nên những nhà cầm quyền rất sợ sự thực. Nhưng ông hy vọng rằng nhu cầu nói lên sự thực của các công dân và nhà báo nên hệ thống truyền thông tự do sẽ vẫn phát triển và ông hy vọng Việt Nam sẽ có báo chí độc lập trong tương lai.

Những người tham gia hội thảo cũng được nghe các bloggers bị giữ lại Việt Nam, không được phép xuất cảnh, trình bày ý kiến của họ qua những đoạn video.

Tiếp nối chương trình, ông Scott Busby nói rằng ông quan ngại về nghị định 72 và các trường hợp bloggers bị giam giữ. Ông nói với các diễn giả từ Việt Nam tham dự hội thảo này khi về nước nên thiết lập và duy trì mối quan hệ với đại sứ quán Hoa kỳ tại Việt Nam để có thể góp phần bảo vệ họ không bị sách nhiễu.

Các vị đại diện cho các công ty Access và Google nói về những khả năng trợ giúp của họ cho những người sử dụng internet những vấn đề kỹ thuật. Ông Jonathan Fox cũng nhận thấy có những vụ tấn công những nhà hoạt động nhân quyền trên bằng các mã độc, hay ngăn cản tự do bằng tường lửa. Ông nói thêm là những doanh nghiệp phải có trách nhiệm trong sự thúc đẩy tự do nhân quyền.

Ông Đỗ Hoàng Điềm, đại diện của tổ chức Việt Tân cũng đồng ý với việc cung cấp những giải pháp kỹ thuật để tránh các ngăn trở của nhà cầm quyền.
Ông Scott Busby cũng cho biết rằng cuối tháng năm 2014 hai chính phủ Hoa kỳ và Việt Nam lại sẽ có cuộc đối thoại về nhân quyền và ông cho biết sẽ đưa những vấn đề được nêu lên trong buổi hội thảo hôm nay cho phía Việt Nam.

Kết thúc buổi hội thảo, bà Libby Liu, Tổng giám đốc đài Á Châu tự do nói rằng bà cám ơn các bloggers đến từ Việt Nam, và nhắn lời với họ rằng họ không đơn độc trong cuộc dấn thân của họ vì tôn chỉ tự do thông tin của họ cũng là của đài Á Châu Tự Do.

Những câu chuyện về ngày 30 tháng 4

Những câu chuyện về ngày 30 tháng 4

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2014-04-29

000_Hkg2309681-305.jpg

Tranh ảnh cổ động cho ngày 30 tháng 4 diễn ra hàng năm trên khắp nước Việt Nam.

AFP photo

Sau 39 năm, thời gian đủ để một đứa bé ra đời, lớn lên, có vợ và sinh con, và đó cũng là thời gian đủ để một đứa bé từ chỗ vô tư, hồn nhiên, ngây thơ đến chỗ trưởng thành, biết suy tư về thân phận con người cũng như thân phận một quốc gia. Hơn nữa, thời gian 39 năm đủ để làm lành mọi vết thương nếu như thịt da trên cơ thể lành tính, ngược lại, đó cũng là thời gian quá đủ để một vết thương cắn xé làm đau nhức và dẫn đến hoại thư. Câu chuyện sau 39 năm của một đời người, một dân tộc cùng những nỗ lực hòa giải, hòa hợp cũng chính là câu chuyện làm lành vết thương trên cơ thể Việt Nam.

Những thế hệ lớn lên

Một người bạn yêu cầu giấu tên, sinh đúng vào ngày 30 tháng Tư năm 1975, anh ra đời trong lúc mẹ anh đang trên đường di chạy từ Xuân Lộc vào Sài Gòn, chia sẻ: “Nói chung là mình chưa thấy đó là một thiện ý thật sự cho những người muốn đặt ra vấn đề hòa hợp hòa giải, tức là đặt vấn đề với những người có quyền lực ấy. Mà mình thấy cái thiện ý đó chưa chân thành, người ta chỉ nói cái gì đó để tuyên truyền là chính thôi. Mình cứ nghe ti vi, đài ra rả đó, đại khái là những vết tích xưa cũ như là tự hào ấy. Cái đó mình cho rằng hòa hợp hòa giải khó mà đạt được, người ta chưa tin. Với những người Sài Gòn cũ thì còn lâu mới đạt được, nói nôm na ví dụ như Sài Gòn, hãy đổi hãy trả lại cái tên Sài Gòn đi sẽ thấy hòa hợp hòa giải liền.”

Theo người bạn này, sau ba mươi chín năm, sau một quá trình gia đình anh vất vả để cưu mang người cha bệnh tật sau khi rời trại cải tạo và sau đó không lâu ông qua đời, anh nhận ra rằng cuộc đời anh buồn nhiều hơn vui. Và khái niệm quê hương, đất nước gắn trong ký ức anh cùng với mùi khoai mì, mùi hạt kê độn và bánh tráng sắn thời thơ ấu. Tuổi thơ của anh bị ám ảnh bởi tiếng kẻng họp đội, tiếng loa phát thanh ngoài đầu xóm và tiếng gõ mõ liên hồi báo động an ninh… Dường như tất cả những ký ức tuổi thơ của anh đều mang mang một thanh âm đượm buồn trong sắc màu trầm, nặng của nó.

Khi lớn lên, anh phải bỏ học sớm và bươn bả ngoài cuộc đời với cái lý lịch không được tốt cho mấy bởi vì cha của anh là “ngụy quyền”. Mặc dù anh học rất giỏi và ước mơ được học đại học như bao bạn khác nhưng hoàn cảnh nghèo túng của gia đình đã khiến anh phải bỏ học, theo làm bốc vác ở bến xe, sau đó sắm xe ba gác để chở hàng và hiện tại, anh đã có xe tải để chở rau cho chợ đầu mối nhưng anh vẫn thấy tiếc nuối thời đi học của mình. Bởi ngày từ nhỏ, anh luôn tâm niệm rằng không có vốn liếng nào tốt hơn vốn liếng tri thức.

Và anh cũng cay đắng nhận ra rằng nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam, trong đó có thế hệ của anh đã không có được thứ vốn liếng quí giá của tri thức mà có chăng chỉ là cơ hội để làm việc cật lực và tích lũy tiền bạc. Nhưng rất tiếc, một khi nền tảng tri thức của con người bị hạn chế thì kéo theo vốn văn hóa cũng có nguy cơ bị hạn chế. Có nhiều tiền trên tay nhưng hạn chế về văn hóa là một tai họa. Anh đã nhìn thấy tai họa đó ngay trong thế hệ của anh cũng như nhiều thế hệ khác khi con người, xã hội mỗi ngày thêm lạnh lùng, vô cảm và tham lam.

Anh nói rằng nếu như có một cơ hội làm trẻ thơ trở lại, anh sẽ tìm đến một chân trời khác để trưởng thành, bởi vì sự trường thành mà mẹ anh đã dạy chính là phải tích lũy văn hóa, phải biết chia sẻ cùng đồng loại và phải tôn trọng quyền con người. Anh luôn dạy cho con cái mình điều này nhưng anh cũng luôn lo lắng trước môi trường giáo dục quá ư thực dụng hiện tại. Đó là anh chưa muốn nghĩ đến một xã hội đầy rẫy thù hận, tham lam, tranh giành… Như vậy, ít có sự hòa hợp hay hòa giải nào giữa con người với con người một khi quyền làm người không được tôn trọng đúng mức.

Chuyện hòa giải, hòa hợp dân tộc

Một bạn trẻ khác, tên Dũng, có người thân là thuyền nhân của những năm 1980 thế kỉ trước, chia sẻ: “Sau năm 1975 có sự sai lầm là người Việt với người Việt đối xử tàn khốc với nhau, rồi từ đó sinh ra những người trung lập, họ yêu đất nước, họ muốn hòa bình không muốn có chiến tranh gì nữa. Nhưng sự thật là người Việt với người Việt đối xử quá tàn khốc sau chiến tranh. Sau ba mươi tháng tư năm bảy lăm thì có sự thay đổi về văn hóa, chính trị… Tức nước thì vỡ bờ thôi!”

000_HKG2005042754750-305.jpg

Bộ đội cộng sản Việt Nam dẫn giải lính VNCH trên đường phố Saigon sau ngày 30 Tháng Tư năm 1975.

Theo Dũng, vấn đề hòa giải hòa hợp giữa người Việt trong nước và người Việt hải ngoại là cả một câu chuyện dài không có hồi kết thúc. Vì lẽ, sự khác nhau về phông văn hóa và ý thức hệ cũng như hằng ngàn mối trở ngại xuất phát từ ý thức hệ đã dẫn đến hệ quả nếu có chăng hòa giải hòa hợp thì cũng chỉ trên hình thức chứ khó mà có sự hòa hợp về mặt nội tâm.

Giải thích thêm, Dũng cho rằng mọi sự hòa hợp đều phải có qui trình hòa giải của nó, mà muốn có hòa giải, người ta phải biết lắng nghe nhau và phải biết tôn trọng giá trị cũng như quyền lợi của nhau. Hiện tại, chỉ riêng những ngôi mộ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa với thành quách xiêu vẹo, tượng đài bị giật sập, bảng ghi công bị đập nham nhở. Điều này cho thấy có sự phân biệt quá lớn giữa ta và thù, kẻ chiến thắng và người chiến bại cũng như sự tồn tại mọi biểu tượng của đối phương đều không được chấp nhận.

Nhưng, riêng vấn đề người đã khuất, mọi biểu tượng ghi công, nhớ ơn chỉ đóng vai trò thể hiện và biểu cảm những giá trị văn hóa đương đại dành cho người đã khuất, điều này không mảy may đụng chạm đến sự tồn vong của một chế độ nào nếu không muốn nói là là còn nâng tầm cho chế độ hiện tại bởi nét nhân văn và tính tôn trọng quá khứ của họ. Nhưng rất tiếc, điều này thật là khó khăn. Và đáng nói hơn là chính những đồng đội, những cha anh trong chế độ cũ không được mồ yên mả đẹp trong hiện tại sẽ là một bức rào cản rất lớn đối với tiến trình hòa giải để đi đến hòa hợp.

Một bạn trẻ khác, yêu cầu giấu tên, chia sẻ, sự hòa giải, hòa hợp dân tộc như bạn vẫn thường thảo luận với bạn đồng lứa phải đến từ hai hướng, hòa giải giữa người trong nước với nhau và hòa giải giữa người trong nước với người Việt ở nước ngoài. Trục chính của hòa giải gồm những ai? Cũng theo nhận định của bạn trẻ này, ranh giới hòa giải ở đây không phải là đường biên giới quốc gia mà là đường biên ý thức hệ và đường biên quyền lợi.

Về đường biên ý thức hệ, chỉ cần trả lời được câu hỏi rằng liệu mọi đảng viên đảng Cộng sản có thể cùng “người phía bên kia” ngồi chơi, cùng làm việc và cùng chia sẻ trách nhiệm cũng như quyền lợi về quốc gia, dân tộc với nhau hay không? Nếu câu trả lời là có thì mọi việc sẽ dễ dàng đi đến hòa hợp. Về đường biên quyền lợi, chỉ cần trả lời rằng mọi người dân Việt Nam có ai không bị oan, có ai bị ức chế, uất ức hay không? Nếu câu trả lời là không thì vấn đề hòa hợp dân tộc sẽ diễn ra nhanh chóng bởi vì lúc đó, mọi quyền lợi đã được chia đều trên toàn cõi, con người không bị chặn đứng nếp nghĩ trong biên kiến quyền lợi phe nhóm và nhân dân thấp cổ bé miệng.

Một bạn khác tên Ngọc, hiện là giảng viên đại học kinh tế Đà Nẵng thì tỏ ra lạc quan hơn khi bạn nói rằng sau 39 năm, con người đủ trưởng thành và chín chắn hơn để vượt qua mọi định kiến, đi đến hòa giải, hoàn hợp dân tộc. Và đương nhiên, muốn có điều này, mọi nỗ lực phải xoay quanh trục con người và quyền của con người!

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

Nhìn lại lần nữa hậu quả của ngày 30-4-1975

Nhìn lại lần nữa hậu quả của ngày 30-4-1975

Hồng Trung, gửi RFA từ VN
2014-04-27

Bộ đội Bắc Việt tiến vào Sài Gòn ngày 30 tháng Tư, 1975

Bộ đội Bắc Việt tiến vào Sài Gòn ngày 30 tháng Tư, 1975

Files photos

30-4-1975 ghi dấu ngày chấm dứt cuộc nội chiến vũ trang, huynh đệ tương tàn của hai miền Nam – Bắc sau hơn 20 năm chia cắt bởi hiệp định Giơ-Ne-Vơ 1954. Nhưng thời điểm này cũng là một trang lịch sử tang thương đau buồn và mất mát chung cho cả dân tộc Việt Nam.

Triệu người vui, triệu kẻ buồn

Khi ông Lê Duẩn đã nói: “Chúng ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô và Trung Quốc.” thì rõ ràng danh nghĩa phát động chiến tranh giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước chỉ là phụ, mà mục đích chính là để thỏa vọng quốc tế hóa CS thế giới của Liên Xô, Trung Cộng. Hậu quả là dân tộc đã phải trả giá cho cuộc chiến tranh bằng xương máu của hơn 3 triệu sinh linh và sự tàn phá của bom đạn trên đất mẹ.

Như lời của cố thủ tướng Võ Văn Kiệt nói về ngày 30-4-75: “là ngày có triệu người vui, triệu kẻ buồn”. Bên Cộng sản Miền Bắc vui vì thắng cuộc, thống lĩnh sự cai trị và được thu lợi những khối tài sản vật chất từ nền văn minh tư bản của chế độ VNCH. Bên Quốc gia ở Miền Nam buồn vì thua cuộc, phải chịu chính sách hà khắc của chế độ mới dưới các mỹ từ “cải tạo, chính sách kinh tế mới, cải tạo công thương nghiệp, quốc hữu hóa. ..” khiến bao nhiêu người không chịu nổi phải tìm đường vượt biên, liều mình trên biển, bỏ xứ ra đi bằng sự đánh đổi mạng sống với tỷ lệ sinh tồn rất thấp.

Ba mươi chín năm trôi qua, cứ mỗi tháng tư về là báo chí truyền thông lề phải trong nước được chỉ đạo ca ngợi tiếp tục sự tài tình của Đảng CS trong chiến dịch HCM giải phóng miền Nam song trong thực tế, chữ “giải phóng” đó có quá nhiều mâu thuẫn và cay đắng.

Xin trích lời thơ của anh Trần Trung Đạo viết tặng em gái tù nhân chính trị Đỗ Thị Minh Hạnh:

“Bom đạn đã thôi rơi nhưng tiếng khóc vẫn không ngừng,

Câu hát hòa bình nhưng nước mắt vẫn cứ rưng rưng.”

Chiến tranh vũ trang đã chấm dứt nhưng hòa bình vẫn chưa thực sự trọn vẹn. Vẫn còn đó một mặt trận tranh đấu giằng co quyết liệt từng ngày của những con người đi đòi công lý, nhân quyền, tự do dân chủ. Vẫn còn đó trên khắp ba miền Trung – Nam- Bắc phong trào đấu tranh của những người nông dân biểu tình, khiếu kiện tập thể đòi đất. Và vẫn còn đó những làn sóng bất mãn của giáo dân, tín hữu, đạo hữu của các hội đoàn tôn giáo đòi quyền tự do tôn giáo tín ngưỡng. Nhà nước CSVN đã dùng vũ lực để trấn áp và qui kết bỏ tù rất nhiều người trong thời gian qua: bằng chứng sống động của sự bất ổn chính trị đương thời. Nhưng công cụ bạo lực của bất cứ nhà cầm quyền nào cũng chỉ là biện pháp trấn áp, đè nén người dân tạm thời chứ không phải là giải pháp chính trị ưu việt để tháo gỡ các bế tắc to lớn của một đất nước.

DSC00315-250.jpg

Băng rôn cho ngày 30 tháng 4 và 1 tháng 5 tại Hà Nội. RFA photo

Ba mươi chín năm là khoảng thời gian dài đủ để Việt Nam có thể tái thiết, khôi phục đất nước, phát triển phồn vinh ngang hàng với các nước Nam Hàn, Thái Lan, Đài Loan, Singapore sau chiến tranh. Nhưng dưới sự lãnh đạo của đảng CSVN, đất nước vẫn trong tình trạng chậm tiến, suy thoái kinh tế mặc dù đã vắt cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên. Nhà nước cũng đã thâm lạm, lãng phí vô số viện trợ nhân đạo, kinh tế của nước ngoài, chưa kể mấy trăm tỷ đô la kiều hối từ cộng đồng người Việt ở ngoài nước gửi về nước trong bốn thập niên qua.

Sự tham nhũng, lãng phí trong đầu tư công vẫn tung hoành gây nhức nhối cho toàn xã hội, làm nóng trên diễn đàn Quốc hội và căn bệnh ấy như trở thành thứ bệnh nan y bất trị. Hậu quả là sự nghèo khó cùng với món nợ quốc gia khổng lồ mà “dân chịu” như lời chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng phát biểu. Theo ước tính của các chuyên gia, nợ công của Việt Nam đang ở mức trên 80,070 tỷ USD; bình quân nợ công theo đầu người là 886,36 USD (gần 20 triệu VND/người. Vẫn còn bỏ ngõ một nền công nghiệp hóa dang dở, đang trên đà phá sản. Việt Nam phải nhập siêu các trang thiết bị, nguyên vật liệu trong công nghệ lắp ráp ô tô và trong ngành xây dựng từ các nhà thầu nước ngoài nên tỉ lệ nội địa hóa rất thấp; trong khi đó Cam-Pu-Chia đã qua mặt Việt Nam trong ngành sản xuất ô tô và cho ra đời dòng sản phẩm AngKor EV 2014 khiến các tiến sĩ giấy của VN phải ngượng ngùng

Dậm chân tại chỗ?

Cùng lúc đó, đến hôm nay nền giáo dục vẫn phải còn loay hoay trong nhu cầu cải cách hầu như toàn bộ với số tiền 34.000 tỷ đồng khiến mọi người dân nghe phải giật mình. Việt Nam có con số hơn 24 ngàn tiến sĩ (đông bậc nhất thế giới) nhưng lại là nước nghèo đội sổ trên thế giới. Những phát minh khoa học, những tác phẩm văn học lớn cũng rất ít có trên đăng ký bản quyền trong nước và quốc tế. Chất lượng đào tạo Đại học kém nên hầu hết các sinh viên thất nghiệp hay làm việc trái ngành chuyên môn. Đáng ưu tư nhất là ngành y tế, với vô số đề tài sôi nổi trên mặt báo, truyền thông trong suốt thời gian qua, đặc biệt là trong tháng tư này. Nạn dịch sởi đã lan tràn trên khắp cả nước cướp đi 118 sinh mạng trẻ em và gây quá tải trong các bệnh viện nhi trung ương ở Sàigòn, Hà Nội cũng chỉ vì một thứ văc-xin. Vì muốn giấu nhẹm những yếu kém, tắc trách trong ngành y tế mà bà bộ trưởng Tiến không dám công bố dịch và ngăn cấm các phóng viên nhà báo vào bệnh viện tác nghiệp.

Song song với những vấn nạn xã hội quốc nội là ngoài biên ải là sự hiểm họa đe dọa xâm lăng của Trung Quốc. Biển đảo, lãnh hải đang nguy cơ mất dần vào tay của “người bạn láng giềng 4 tốt –16 chữ vàng” bởi sự dung túng yếu hèn của đảng cầm quyền. Những dự án lớn trong ngành khai thác xây dựng là những nhịp cầu để đưa người và hàng hóa Trung Quốc vào sâu trong lãnh thổ VN một cách hợp pháp. Từ Cà Mau, Tây Nguyên, Miền Trung (Vũng Áng), Đà Nẳng đến Quảng Ninh đi đâu cũng gặp người Tàu cùng với những khu phố mang bảng hiệu chữ Tàu như một điềm báo nguy cơ cho cả dân tộc.

Lịch sử dựng nước và giữ nước là khoảng dài thời gian trước và sau công nguyên gần 4 ngàn năm, chứa đựng biết bao nhiêu công lao của các bậc tiền nhân anh hùng qua các triều đại của Việt Nam. Triều đại này suy vong, buộc phải nhường chỗ cho triều đại khác thay thế để nối tiếp sứ mạng bảo vệ và xây dựng tổ quốc. Ngày 30-4-1795 chỉ là một cái mốc lịch sử. Đảng CS cũng chỉ được xem như là một triều đại trong nhiều triều đại trước đây. Đảng CSVN không phải là tổ quốc VN. Vì vậy, không thể bắt buộc QĐND, CAND và ND phải trung thành với đảng CSVN. Công hay tội chỉ có lịch sử mới có quyền phán xét, và chắc chắn sẽ được phán xét công bằng trong một thời gian không xa.

Đảng CS VN cần dừng lại ngay hành động tung hô quá khứ để tự tôn vinh chính mình, và hãy nhìn vào thực trạng hiện tại của đất nước. Đảng CSVN có khả năng gây chiến tranh để chiến thắng miền Nam nhưng đã không chứng tỏ được khả năng xây dựng nên hòa bình trong lòng dân tộc, và ổn định, phát triển đất nước trong suốt bốn thập niên qua. Hãy nhìn kỹ những vấn nạn của đất nước để trả lại quyền lãnh đạo cho dân tộc.

Viết từ Gia Lai (VN) ngày 26-4-2014

Hồng Trung

 

ĐƯỜNG EMMAUS

ĐƯỜNG EMMAUS

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Đường Emmaus thật lạ kỳ.  Cùng một con đường, cùng một buổi chiều mà hai môn đệ đi lại hai lần, mỗi lần lại mỗi dáng vẻ hoàn toàn khác nhau.  Khi đi thì đường xa vời vợi, mãi không thấy đến.  Lúc về thì sao chóng vánh, chưa đi đã đến.  Khi đi thì ảo não u sầu.  Lúc về lại phấn khởi hân hoan. Khi đi trời còn sáng mà tưởng như đi trong đêm đen.  Lúc về trời đã tối mịt mà tưởng đi giữa ban ngày.  Khi đi tuyệt vọng chán chường.  Lúc về tràn đầy hi vọng.  Chắc hẳn ai cũng hiểu, lúc về có kết quả tốt đẹp như thế là vì hai môn đệ đã gặp được Chúa Kitô Phục Sinh.  Chính Chúa Kitô Phục Sinh làm nên khác biệt.  Gặp Chúa Kitô Phục Sinh là bí quyết giúp thay đổi cuộc đời, giúp cuộc đời có ý nghĩa, có niềm vui, có hi vọng và có lẽ sống.

Nhưng làm thế nào để gặp được Chúa Kitô Phục Sinh?  Thực ra sau khi phục sinh, Chúa không còn bị giới hạn trong không gian.  Chúa ở khắp mọi nơi.  Chúa ở ngay bên ta.  Nhưng ta không thấy được Ngài và có khi thấy nhưng không nhận ra Ngài.  Muốn gặp Ngài và nhận ra Ngài, ta hãy học hỏi bí quyết của hai môn đệ Emmaus: bí quyết đó là xây dựng những cộng đoàn chia sẻ.

Trước hết là chia sẻ Lời Chúa.  Hai môn đệ không đi một mình nhưng lúc nào cũng bên nhau.  Hai môn đệ không nói chuyện vu vơ, nhưng cùng nhau nhớ đến Chúa, nói chuyện về Chúa, chia sẻ tâm tư về Chúa.  Các ngài đã thực hành Lời Chúa: “Ở đâu có hai ba người tụ họp nhân danh Thày thì Thày ở giữa họ.”  Chúa đã thực hiện lời hứa nên đã đến đồng hành với các môn đệ.  Hơn nữa, Chúa còn chia sẻ Lời Chúa giúp các ngài hiểu biết và yêu mến Lời Chúa.

Tiếp đến là chia sẻ bác ái. Chúa giả vờ muốn đi xa hơn.  Nhưng các môn đệ van nài: “Xin ở lại với chúng tôi vì trời đã chiều và ngày sắp tàn.”  Thật cảm động khi lỡ đường mà được mời chia sẻ một mái nhà, dù chỉ là quán trọ.  Và chia sẻ một bữa ăn dù đơn sơ đạm bạc.  Nếu các môn đệ không có lòng bác ái chia sẻ như thế, có lẽ Chúa đã bỏ đi.  Cảm động trước tấm lòng chia sẻ chân thành nên Chúa đã ở lại.  Các môn đệ đã thực hành Lời Chúa: “Mỗi lần các con làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40).  Nhờ chia sẻ bác ái, các ngài đã được gặp Chúa.  Và chính Chúa đã ở lại để chia sẻ tâm tình với các ngài.

Sau cùng là chia sẻ Thánh Thể. Ngồi vào bàn, Chúa Giêsu “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ.”  Đúng như cử chỉ Chúa làm khi lập phép bí tích Thánh Thể.  Mắt các môn đệ mở ra và nhận ra Chúa.  Phép Thánh Thể cho các ngài bảo chứng về sự hiện diện của Chúa.  Phép Thánh Thể ban cho các ngài niềm vui được gặp gỡ Chúa.  Phép Thánh Thể ban cho các ngài sức sống mới để tiếp tục xây dựng các cộng đoàn chia sẻ rộng lớn hơn.  Từ đó nhân lên các cộng đoàn chia sẻ Lời Chúa, chia sẻ bác ái và chia sẻ Thánh Thể đi khắp thế giới.

Tôi rất vui mừng vì giáo xứ nhà thờ chính tòa chúng ta đang phấn đấu xây dựng thành một cộng đoàn theo gương các môn đệ.  Cha Xứ và Anh chị em đang tích cực khuyến khích nhau học hỏi, chia sẻ và thực hành Lời Chúa, khuyến khích tổ chức các nhóm họat động từ thiện bác ái, và khuyến khích mọi người đến tham dự thánh lễ ngày càng đông đảo.  Đó là dấu hiệu Chúa đang ở giữa chúng ta.  Có Chúa hiện diện tôi tin chắc cộng đoàn giáo xứ chúng ta sẽ được ơn biến đổi, sẽ tràn đầy niềm vui, niềm bình an, sẽ ngày càng thêm đoàn kết yêu thương và sẽ hăng hái đi loan Tin Mừng.  Xin Chúa cho con đường cộng đoàn chúng ta đang đi trở nên con đường Emmaus, khi đi dù có khó khăn vất vả, nhưng với sự phấn đấu ta sẽ gặp Chúa và đường về sẽ tràn ngập niềm vui.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh xin cho chúng con được sống lại thật về phần linh hồn.  Amen!

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

From: langthangchieutim & Anh chị Thụ Mai gởi

 

Hãy thong thả Sống

Hãy thong thả Sống

Trần Mộng Tú

“Thượng Đế khi đem mình vào đời, có hỏi ý kiến mình đâu. Nên chắc chắn là khi Ngài gọi mình đi cũng chẳng cần thông báo trước.”

Nhiều khi chúng ta sống mà quên bẵng đi là mình có thể chết bất cứ lúc nào. Ta hối hả sống, vui, buồn, khỏe, yếu, ta cứ lướt qua rồi không ngoái đầu lại nhìn chuỗi ngày tháng ta đã tiêu hao của một đời người.

Cho đến khi có một người bạn vừa ngã bệnh, bệnh nặng, không biết sẽ mất đi lúc nào, lúc đó ta mới xa, gần, hốt hoảng gọi nhau. Tưởng như chưa từng có người bạn nào “Chết” bao giờ. Hay ta có một người thân trong gia đình, đang rất khỏe vừa báo tin bị bệnh hiểm nghèo. Gia đình, họ hàng cuống lên, sợ hãi như chưa nghe đến ai nói về cái chết bao giờ, chưa chứng kiến cảnh vào bệnh viện, cảnh tang ma bao giờ.

Cả hai người trên có thể đã ngoài 70 tuổi. Lạ thật! Cái tuổi nếu có chết thì cũng đã sống khá lâu trên đời rồi, sao những người chung quanh còn hoảng hốt thế. Hóa ra người ta, không ai muốn nghe đến chữ “Chết” dù chữ đó đến với mình hay với người thân của mình.

Hình như không ai để ý đến mỗi sáng chúng ta thức dậy, nhìn thấy mặt trời mọc (nếu còn để ý đến mặt trời mọc) là chúng ta đã tiêu dùng cái ngày hôm qua của đời sống mình. Có người vì công việc làm ăn, cả tuần mới có thời giờ ngửng mặt nhìn lên mặt trời. Buổi sáng còn tối đất đã hấp tấp ra đi, buổi chiều vội vã trở về lúc thành phố đã lên đèn, làm gì nhìn thấy mặt trời. Nhưng mặt trời vẫn nhìn thấy họ, vẫn đếm mỗi ngày trong đời họ. Họ tiêu mất cái vốn thời gian của mình lúc nào không biết. Tiêu dần dần vào cái vốn Trời cho mà đâu có hay. Rồi một hôm nào đó bỗng nhìn kỹ trong gương, thấy mình trắng tóc. Hốt hoảng, tiếc thời gian quá! Khi nghe tin những người bạn bằng tuổi mình, bệnh tật đến, từ từ theo nhau rơi xuống nhanh như mặt trời rơi xuống nước, họ vừa thương tiếc bạn vừa nghĩ đến phiên mình.

Thật ra, nếu chúng ta bình tâm nghĩ lại một chút, sẽ thấy “Cái chết” nó cũng đến tự nhiên như “Cái sống” . Đơn giản, mình phải hiểu giữa sống và chết là một sự liên hệ mật thiết, vì lúc nào cái chết cũng đi song song từng ngày với cái sống.

Dẫu biết rằng, đôi khi có những cái chết đến quá sớm, nhưng ta cũng đâu có quyền từ khước chết.

Tôi biết có người mẹ trẻ, con của bạn thân tôi. Chị bị ung thư, chị cầu xin Thượng Đế cho sống đến khi đứa con duy nhất của mình vào Đại Học. Chị không cưỡng lại cái chết, chị chỉ mặc cả với Thượng Đế về thời gian vì con chị lúc đó mới lên 3 tuổi. Thượng Đế đã nhận lời chị. Ngày con chị tốt nghiệp Trung Học, chị ngồi xe lăn đi dự lễ ra trường của con và tuần lễ sau chị qua đời. Trong suốt mười mấy năm trị bệnh, chị vẫn làm đủ mọi việc: chị đội tóc giả đi làm, đến sở đều đặn, lấy ngày nghỉ hè và ngày nghỉ bệnh đi trị liệu.

Những bạn làm chung không ai biết chị bị ung thư, ngay cả xếp của chị. Khi họ biết ra, thì là lúc chị không đứng được trên đôi chân mình nữa. Chị sửa soạn từng ngày cho cái chết với nụ cười trên môi. Vẫn vừa đi làm, vừa cơm nước cho chồng con, ân cần săn sóc cha mẹ, hiền hòa giúp đỡ anh em trong nhà, chị mang niềm tin đến cho tất cả những người thân yêu của mình. Sau ba năm chị mất, cậu con trai mỗi năm vẫn nhận được một tấm thiệp sinh nhật mẹ viết cho mình (Mẹ đã nhờ qua người dì gửi hộ). Hôm sinh nhật 21 tuổi của cậu cũng vào ngày giỗ năm thứ ba của Mẹ, cậu nhận được tấm thiệp mừng sinh nhật mình, với dòng chữ nguệch ngoạc, chị viết cho con: Mừng sinh nhật thứ 21 của con. Hãy bước vui trong đời sống và nhớ rằng mẹ luôn luôn bên cạnh con. Tôi đọc những dòng chữ mà ứa nước mắt.

Tôi nghĩ đến chị với tất cả lòng cảm phục. Chị là người biết sống trong nỗi chết. Khi không thắng được bệnh tật, chị biết hòa giải với nó để sống chậm lại với nó từng ngày cho con mình. Chắc “Cái chết” cũng nhân nhượng với chị, thông cảm với chị như một người bạn.

Một chị bạn kể cho nghe về một bà bạn khác. Bà này mới ngoài sáu mươi, nhanh nhẹn, khỏe mạnh và tính nết vui vẻ, yêu đời. Nhưng khi nào đi ra khỏi nhà bà cũng mang theo một bộ quần áo đặc biệt, đủ cả giầy vớ bỏ vào một cái túi nhỏ riêng trong va-li. Hỏi bà, sao lại để bộ này ra riêng một gói vậy, bà thản nhiên nói:“Nếu tôi chết bất thình lình ở đâu, tôi có sẵn quần áo liệm, không phiền đến ai phải lo cho mình.” Bà mang theo như thế lâu lắm rồi, tôi không biết có khi nào bà ngắm nghía mãi, thấy chưa dùng tới, bà lại đổi một bộ mới khác cho ưng ý không? Giống như người phụ nữ sắp đi dự tiệc hay cầm lên, để xuống, thay đổi áo quần sao cho đẹp. Đi vào cái chết cũng có thể coi như đi dự một đám tiệc.

Tôi nghĩ đây là một người khôn ngoan, sẵn sàng cho cái chết mà bà biết nó sẽ đến bất cứ lúc nào. Bà đón nhận cái chết tự nhiên, giản dị như đi dự tiệc, hay một chuyến đi xa, đi gần, nào đó của mình.

Nhưng không phải ai cũng nghĩ về cái chết giản dị như vậy. Phần đông muốn được sống lâu, nên bao giờ gặp nhau cũng thích chúc cho nhau tuổi thọ. Thích hỏi nhau ăn gì, uống gì cho trẻ trung mãi. Loài người nói chung, càng ngày càng thích sống hơn chết. Họ tìm kiếm đủ mọi phương thuốc để kéo dài tuổi thọ. Người ta ức đoán, trong một tương lai rất gần, loài người có thể sống đến 120 tuổi dễ dàng với những môn thuốc ngăn ngừa bệnh tật và bồi dưỡng sức khỏe.

Rồi người ta sẽ còn tạo ra những bộ phận mới của nội tạng để thay thế cho những bộ phận gốc bị nhiễm bệnh. Gan, ruột, bao tử v.v, sẽ được thay như ta thay những phần máy móc của một cái xe cũ. Chúng ta, rồi sẽ sống chen chúc nhau trên mặt đất này.

Chỉ tiếc một điều là song song với việc khám phá ra thuốc trường thọ người ta cũng phải phát minh ra những người máy (robot) để chăm sóc những người già này, vì con cháu quá bận (chắc đang chúi đầu tìm thuốc trường sinh) không ai có thời giờ chăm sóc cha mẹ già. Theo tôi, ngắm nhìn hình ảnh một cụ ông hay một cụ bà lưng còng, tóc bạc, đang cô đơn ngồi trong một căn buồng trống vắng, được một người máy đút cơm vào miệng, thật khó mà cảm động, đôi khi còn cho ta cái cảm giác tủi thân nữa.

Nhưng sống như vậy mà có người vẫn thích sống. Một người đàn ông ngoài bẩy mươi, bị bệnh tim nặng, đang nằm trong phòng đặc biệt (ICU) lúc mơ màng tỉnh dậy, nhắn với các con cháu là khi nào vào thăm không ai được mặc áo mầu đen. Ông kiêng cữ mầu của thần chết. Ông quên rằng thần chết, đôi khi, có thể đến với chiếc áo mầu hồng.

Thật ra, chính nhờ “cái chết” cho ta nhận biết là “cái sống” đẹp hơn và có giá trị hơn, dù có người sống rất cơ cực vẫn thấy cuộc đời là đẹp.

Những bậc thiên tài, những nhà văn lớn đã tự tìm về cái chết khi họ bắt đầu nhìn thấy cái vô vị trong đời sống như nhà văn Ernest Hemingway, Yasunari Kawabata và họa sĩ Vincent van Gogh, v.v… Chắc họ không muốn sống vì thấy mình không còn khả năng hưởng hết vẻ đẹp của “cái sống” nữa. Họ là một vài người trong số nhỏ trên mặt đất này sau khi chết để lại tên tuổi trên những trang sử, lưu lại hậu thế, còn phần đông nhân loại, sau khi chết một thời gian, không để lại một di tích nào. Con cháu có thờ cúng được một hai thế hệ, sau đó tên tuổi mờ dần, mất hẳn theo ngày tháng, vì chính những kẻ thờ phụng đó lại tiếp theo nằm xuống cùng cát bụi.

Ðời sống con người chóng qua như cỏ, như bông hoa nở trong cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích.(Thánh Vịnh)

Thượng Đế khi đem mình vào đời, có hỏi ý kiến mình đâu. Nên chắc chắn là khi Ngài gọi mình đi cũng chẳng cần thông báo trước.

Chúng ta cứ thong thả sống từng ngày, khi nào chết thì chết, mặt trời mọc rồi mặt trời lặn, bông hoa nở rồi bông hoa tàn, thế thôi.

Tại sao ta phải cay cú với cái chết? Hãy dùng trí tưởng tượng của mình, thử hình dung ra một thế giới không có cái chết(*)

Chắc lúc đó chúng ta sẽ không còn không khí mà thở chứ đừng nghĩ đến có một phiến đất cho bàn chân đứng.

Trần Mộng Tú

Anh chị Thụ Mai gởi

Sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản tại Việt Nam

Sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản tại Việt Nam

Nguyễn Hưng Quốc

30.04.2014

Trước đây, trên thế giới, có 15 quốc gia chính thức theo chủ nghĩa cộng sản và 11 quốc gia tự nhận là cộng sản hoặc theo khuynh hướng cộng sản. Mười lăm quốc gia ở trên là: Albania, Bulgaria, Czechoslovakia, Đông Đức, Hungary, Mông Cổ, Ba Lan, Romania, Liên Xô, Yugoslavia, Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào và Việt Nam. Mười một quốc gia ở dưới là: Angola, Benin, Congo, Ethiopia, Mozambique, Zimbabwe, Grenada, Nicaragua, Campuchia, Afghanistan và Nam Yemen. Tổng cộng, từ hai bảng danh sách ấy, có cả thảy 26 nước cộng sản hoặc có khuynh hướng theo cộng sản. Từ đầu thập niên 1990, tất cả các chế độ cộng sản ấy đều lần lượt sụp đổ. Hiện nay, trên cả thế giới, chỉ còn năm nước mang nhãn hiệu cộng sản: Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào và Việt Nam.

Chưa có dấu hiệu nào cho thấy chủ nghĩa cộng sản ở năm quốc gia này sẽ sụp đổ sớm. Trong năm nước, có ba nước có quan hệ chặt chẽ với nhau: Trung Quốc, Việt Nam và Lào. Có lẽ Lào chỉ thay đổi được thể chế chính trị nếu, trước đó, Việt Nam cũng thay đổi; và Việt Nam có lẽ chỉ thay đổi nếu trước đó Trung Quốc cũng thay đổi. Như vậy, quốc gia có khả năng châm ngòi cho bất cứ sự thay đổi lớn lao nào là Trung Quốc.

Tuy nhiên, ngay cả khi Trung Quốc và Việt Nam chưa thay đổi và chưa từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, giới nghiên cứu cũng phát hiện những dấu hiệu suy tàn âm thầm của chủ nghĩa cộng sản bên trong hai quốc gia này.

Ở đây, tôi chỉ tập trung vào Việt Nam.

Nhìn bề ngoài, chế độ cộng sản tại Việt Nam vẫn mạnh. Hai lực lượng nòng cốt nhất vẫn bảo vệ nó: công an và quân đội. Dân chúng khắp nơi bất mãn nhưng bất mãn nhất là nông dân, những người bị cướp đất hoặc quá nghèo khổ. Có điều nông dân chưa bao giờ đóng được vai trò gì trong các cuộc cách mạng dân chủ cả. Họ có thể thành công trong một số cuộc nổi dậy nhưng chỉ với một điều kiện: được lãnh đạo. Trong tình hình Việt Nam hiện nay, chưa có một tổ chức đối kháng nào ra đời, hy vọng nông dân làm được gì to lớn chỉ là một con số không. Ở thành thị, một số thanh niên và trí thức bắt đầu lên tiếng phê phán chính phủ nhưng, một, số này chưa đông; và hai, còn rất phân tán. Nói chung, trước mắt, đảng Cộng sản vẫn chưa gặp một sự nguy hiểm nào thật lớn.

Thế nhưng, nhìn sâu vào bên trong, chúng ta sẽ thấy quá trình mục rữa của chủ nghĩa cộng sản đã bắt đầu và càng ngày càng lớn. Như một căn bệnh ung thư bên trong một dáng người ngỡ chừng còn khỏe mạnh.

Sự mục rữa quan trọng nhất là về ý thức hệ.

Khác với tất cả các hình thức độc tài khác, chủ nghĩa cộng sản là một thứ độc tài có… lý thuyết, gắn liền với một ý thức hệ được xây dựng một cách có hệ thống và đầy vẻ khoa học. Thật ra, chủ nghĩa phát xít cũng có lý thuyết, chủ yếu dựa trên sức mạnh và tinh thần quốc gia, nhưng không phát triển thành một hệ thống chặt chẽ và có ảnh hưởng sâu rộng như chủ nghĩa cộng sản. Còn các chế độ độc tài ở Trung Đông chủ yếu gắn liền với tôn giáo cộng với truyền thống quân chủ kéo dài (thường được gọi là độc tài quốc vương, sultanistic authoritarianism) hơn là lý thuyết. Nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh: các chế độ cộng sản không thể tồn tại nếu không có nền tảng ý thức hệ đằng sau.

Ý thức hệ cộng sản một thời được xem là rất quyến rũ vì nó bao gồm cả hai kích thước: quốc gia và quốc tế. Ở bình diện quốc gia, nó hứa hẹn giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân; ở bình diện quốc tế, nó hứa hẹn giải phóng giai cấp vô sản và tạo nên sự bình đẳng và thịnh vượng chung cho toàn nhân loại. Ở bình diện thứ hai, chủ nghĩa cộng sản, gắn liền với một ước mơ không tưởng, rất gần với tôn giáo; ở bình diện thứ nhất, đối lập với chủ nghĩa thực dân, nó rất gần với chủ nghĩa quốc gia. Trên thực tế, hầu hết các nước cộng sản trước đây đều cổ vũ và khai thác tối đa tinh thần quốc gia trong cả quá trình giành chính quyền lẫn quá trình duy trí chế độ. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa quốc gia dễ thấy nhất là ở các nước thuộc địa và cựu thuộc địa như Việt Nam.

Sau năm 1991, tức sau khi chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, ý thức hệ cộng sản cũng bị phá sản theo. Thực trạng nghèo đói, bất công và áp bức dưới các chế độ cộng sản ấy đều bị vạch trần và phơi bày trước công luận. Sự hứa hẹn về một thiên đường trong tương lai không còn được ai tin nữa. Tính hệ thống trong chủ nghĩa Marx-Lenin cũng bị đổ vỡ. Nền tảng ý thức hệ của các chế độ cộng sản bị tan rã tạo thành một khoảng trống dưới chân chế độ.

Để khỏa lấp cái khoảng trống ấy, Trung Quốc sử dụng hai sự thay thế: chủ nghĩa Mao và Nho giáo (trong chủ trương tạo nên một xã hội hài hòa, dựa trên lòng trung thành). Việt Nam, vốn luôn luôn bắt chước Trung Quốc, không thể đi theo con đường ấy. Lý do đơn giản: Đề cao chủ nghĩa Mao là một điều nguy hiểm cả về phương diện đối nội lẫn đối ngoại; còn với Nho giáo, một là Việt Nam không am hiểu sâu; hai là, nó đầy vẻ… Tàu, rất dễ gây phản cảm trong quần chúng. Bế tắc, Việt Nam bèn tạo nên cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng ông Hồ Chí Minh lại không phải là một nhà lý thuyết. Ông chỉ là một người hành động. Ông viết nhiều, nhưng tất cả đều rất thô phác và đơn giản. Hơn nữa, ở Việt Nam hiện nay, cũng không có một người nào giỏi lý thuyết để từ những phát biểu sơ sài của Hồ Chí Minh xây dựng thành một hệ thống sâu sắc đủ để thuyết phục mọi người. Thành ra, cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh hoàn toàn không trám được khoảng trống do sự sụp đổ của ý thức hệ Marx-Lenin gây ra. So với Trung Quốc, khoảng trống này ở Việt Nam lớn hơn gấp bội.

Mất ý thức hệ cộng sản, chính quyền Việt Nam chỉ còn đứng trên một chân: chủ nghĩa quốc gia.

Nhưng cái chân này cũng rất èo uột nếu không muốn nói là đã lung lay, thậm chí, gãy đổ.

Trên nguyên tắc, Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước rất cao. Bao nhiêu chế độ ra đời từ giữa thế kỷ 20 đến nay đều muốn khai thác và tận dụng lòng yêu nước ấy. Tuy nhiên, với chế độ cộng sản hiện nay, việc khai thác vốn tài sản này gặp rất nhiều khó khăn. Lý do là lòng yêu nước bao giờ cũng gắn liền với sự căm thù. Không ai có thể thấy rõ được lòng yêu nước trừ phi đối diện với một kẻ thù nào đó của đất nước. Hai kẻ thù chính của Việt Nam, trong lịch sử mấy ngàn năm, là Trung Quốc; và gần đây nhất, là Mỹ. Nhưng Việt Nam lại không dám nói quá nhiều về hai kẻ thù này. Với Mỹ, họ cần cả về phương diện kinh tế lẫn phương diện chiến lược. Đề cao truyền thống chống Mỹ, do đó, là điều rất nguy hiểm. Đề cao truyền thống chống Trung Quốc lại càng nguy hiểm hơn: Trung Quốc có thể đánh hoặc ít nhất đe dọa VIệt Nam bất cứ lúc nào.

Bởi vậy, Việt Nam, một mặt, phải hạ giọng khi nói về truyền thống chống Mỹ và phải né tránh việc nhắc nhở đến truyền thống chống Trung Quốc. Hai hành động này có lợi về phương diện đối ngoại nhưng lại có tác hại nghiêm trọng về phương diện đối nội: chính quyền hiện ra, dưới mắt dân chúng, như những kẻ hèn, hèn nhát và hèn hạ. Từ một chế độ được xây dựng trên thành tích chống ngoại xâm, chế độ cộng sản tại Việt Nam lại bị xem như những kẻ bán nước, hoặc bán nước dần dần bằng cách hết nhượng bộ điều này sang nhượng bộ điều khác trước sự uy hiếp của Trung Quốc.

Trước sự sụp đổ của cả hai nền móng, ý thức hệ cộng sản và chủ nghĩa quốc gia, đảng Cộng sản Việt Nam bèn chuyển sang một nền tảng khác: kinh tế với phương châm ổn định và phát triển. Nội dung chính của phương châm này là: Điều cần nhất đối với Việt Nam hiện nay là phát triển để theo kịp các quốc gia khác trong khu vực cũng như, một cách gián tiếp (không được nói công khai), đủ sức để đương đầu với Trung Quốc. Nhưng để phát triển, cần nhất là phải ổn định về chính trị, nghĩa là sẽ không có thay đổi về thể chế và cũng không chấp nhận đa đảng.

Phương châm ấy, thật ra, là một sự bịp bợm: Nó chuyển vấn đề từ chính trị sang kinh tế với lý luận: nếu vấn đề quan trọng nhất của Việt Nam hiện nay là vấn đề kinh tế thì mọi biện pháp sửa đổi sẽ chỉ giới hạn trong phạm vi kinh tế. Với lập luận này, chính quyền có thể trì hoãn mọi yêu cầu cải cách chính trị.

Tuy nhiên, nó hoàn toàn không thuyết phục, bởi, ai cũng thấy, lãnh vực kinh tế là mặt mạnh nhất của chủ nghĩa tư bản và cũng là mặt yếu nhất của chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản. Tất cả các quốc gia dân chủ ở Tây phương đều có hai đặc điểm nổi bật: về chính trị, rất ổn định và hai, về kinh tế, rất phát triển. Ở Việt Nam, người ta cố thu hẹp phạm vi so sánh: các cơ quan truyền thông chính thống chủ yếu tập trung vào các nước Đông Nam Á, đặc biệt Thái Lan với một thông điệp chính: đa đảng như Thái Lan thì lúc nào cũng bị khủng hoảng. Nhưng ở đây lại có hai vấn đề: Một, dù liên tục khủng hoảng về chính trị, nền kinh tế của Thái Lan vẫn tiếp tục phát triển, hơn hẳn Việt Nam; hai, ngày nay, do xu hướng toàn cầu hóa, tầm nhìn của dân chúng rộng rãi hơn nhiều; chính quyền không thể thu hẹp mãi tầm nhìn của họ vào tấm gương của Thái Lan được.

Về phương diện lý luận, chiêu bài ổn định và phát triển, do đó, không đứng vững. Về phương diện thực tế, những sự phá sản của các đại công ty quốc doanh và đặc biệt, khối nợ nần chồng chất của Việt Nam khiến dân chúng càng ngày càng thấy rõ vấn đề: các chính sách kinh tế của Việt Nam không hứa hẹn một sự phát triển nào cả, nếu không muốn nói, ngược lại, chỉ lún sâu vào chỗ bế tắc.

Thành ra, có thể nói, tất cả các nền tảng chế độ cộng sản Việt Nam muốn nương tựa, từ chủ nghĩa Marx-Lenin đến chủ nghĩa quốc gia và lập luận ổn định để phát triển, đều lần lượt sụp đổ. Chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay như một đám lục bình chỉ nổi bập bềnh trên mặt nước. Sự tồn tại của nó chỉ dựa vào sự trung thành của công an. Do đó, một mặt, đảng cộng sản đưa ra sự khuyến dụ đối với công an: “Còn đảng, còn mình”; mặt khác, họ ngoảnh mặt làm ngơ trước hai tệ nạn do công an gây ra: tham nhũng và trấn áp dân chúng một cách dã man. Nhưng chính sách này chỉ càng ngày càng biến công an thành một đám kiêu binh và càng ngày càng đẩy công an cũng như chính quyền trở thành xa lạ với dân chúng. Sự xa lạ này càng kéo dài và càng trầm trọng, đến một lúc nào đó, trở thành đối nghịch với quần chúng.

Một nhà nước được xây dựng trên một đám kiêu binh, trong thời đại ngày nay, không hứa hẹn bất cứ một tương lai nào cả.

 

Chuyện Quanh Lòng Chảo Điện Biên

Chuyện Quanh Lòng Chảo Điện Biên

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Với tôi, cái lòng chảo Điện Biên chỉ là một vạc dầu oan nghiệt u mê, ấu trĩ, cuồng tín.

Trần Hồng Tâm

Trận Điện Biên Phủ kết thúc vào hôm 7 tháng 5 năm 1954. Sáu mươi năm đã qua  nhưng dư âm chiến thắng, nghe chừng, vẫn còn âm vang khắp chốn. Tại một góc phố, ở Hà Nội, có bảng tên đường Điện Biên Phủ – cùng với đôi dòng chú thích đính kèm – ghi rõ nét tự hào và hãnh diện:

Niềm tự hào và hãnh diện này, tiếc thay, đã không nhận được sự đồng tình chia sẻ bởi tất cả mọi người. Nguyễn Khải là một trong những người như thế: “Một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng long rom như một kẻ bại trận.”

Ông nhà văn nói đúng nhưng (tưởng) cũng nên nói thêm là những kẻ bại trận sau Thế Chiến Thứ II, ở khắp mọi nơi – chắc chắn – không đâu và không ai phải trải qua một cuộc sống thảm hại, khốn cùng như người dân ở Điện Biên hiện tại:

– Báo Hà Nội Mới, 13 tháng 4 năm 2014: Lội sông đến trường, 7 học sinh ở Lai Châu bị nước cuốn trôi.

– Báo Tuổi Trẻ, 17 tháng 3 năm 2014: Vào mùa lũ, các thầy cô giáo, học sinh ở bản Sam Lang (Điện Biên) phải                chui vào túi nilông và nhờ người biết bơi kéo qua suối.

Soha News: Ngày hôm nay (3/4) trên mạng xã hội đã xuất hiện một bức ảnh rất cảm động về một em                           bé được cho là ở Điện Biên. Bức ảnh đã lột tả rất chân thực về nỗi kham khổ của trẻ em nghèo. Tuy tuổi đời                 còn rất nhỏ (khoảng 3,4 tuổi – PV) nhưng đứa bé đã sớm phải xuống ruộng để mò cua bắt ốc…

Em bé Điện Biên. Ảnh: Soha News

Tuổi thơ là một thành quả đặc thù thế kỷ XX. Trước đó, nhân loại phải dồn hết nỗ lực vào việc mưu sinh nên trẻ con chỉ là một người lớn thu nhỏ (miniature adult) với trách nhiệm đè nặng lên vai gần như bố mẹ. Nhân loại đã bước vào thế kỷ 21 nhưng một số người dân ở Điện Biên thì dường như đang đi thụt lùi. Một số khác, tuy đang bước tới nhưng lại nắm bắt những “phó sản văn minh” của thời đại mới – theo Điện Biên TV, xem được hôm 6 tháng 9 năm 2013:

“Trong những năm qua, Điện Biên luôn được xác định là địa bàn trọng điểm, phức tạp về ma túy ở cả 3 khía cạnh: mua bán, vận chuyển và tàng trữ trái phép chất ma túy… Theo số liệu thống kê, trong năm 2012 và 8 tháng năm 2013, lực lượng chức năng Công an tỉnh đã phát hiện, bắt giữ 962 vụ với 1.158 đối tượng. Tang vật thu giữ 79,625kg thuốc phiện, 13.379 viên + 71,5g ma túy tổng hợp, 77,98g cần sa, 8,9kg quả thuốc phiện, hơn 9 tỉ đồng, 141.500 USD, 04 xe ô tô, 417 xe máy, 729 điện thoại cùng nhiều tang vật khác.”

Báo Điện Biên Phủ, số ra ngày 1 tháng 6 năm 2013, còn trích dẫn lời của quan chức bầy tỏ sự âu lo về sợ nghèo đói ở địa phương này vì tính lười biếng của người dân:

“Bên cạnh những giải pháp cốt lõi mang tính xuyên suốt, lâu dài để thực hiện hiệu quả các chính sách giúp người dân xóa đói giảm nghèo, cấp ủy, chính quyền các cấp tỉnh Điện Biên còn đặc biệt quan tâm đến việc tìm ‘thuốc’ cho ‘bệnh lười’ đang tồn tại trong không ít người dân.”

Không chỉ lười mà dân chúng nơi đây còn “ẩu” nữa nha. Trong khi qúi vị lãnh đạo đang tìm “những giải pháp cốt lõi mang tính xuyên suốt, lâu dài để thực hiện hiệu quả các chính sách giúp người dân xóa đói giảm nghèo” (nên chưa kịp làm cầu) thì họ đã liều lĩnh chui vào bao ni lông hay bơi qua sông để đến trường nên mới bị nước cuốn trôi oan mạng!

Tên tuổi một danh nhân rất tăm tiếng (và tai tiếng) được găn liền với địa danh Điện Biên là tướng Võ Nguyên Giáp, người vừa từ trần vào hôm 4 tháng 10 năm 2013. Trong một cuộc phỏng vẫn dành cho báo Tin Nhanh Việt Nam, khi được hỏi về việc “về việc chọn con đường mang tên Đại tướng,” nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết:

“Có người đặt vấn đề, đổi tên những con đường đã có tên thành tên Đại tướng. Điều này nên hết sức tránh, nhất là việc những tên phố cũ cũng rất ý nghĩa, đáng lưu danh. Còn nếu là đường mới thì cũng phải xứng tầm với Đại tướng. Đây cũng là bài toán không dễ vì trên thực tế chúng ta chưa chuẩn bị gì cả.”

Nói nào ngay thì dù có “chuẩn bị” chăng nữa cũng rất khó mà chọn một con đường để “xứng tầm với Đại tướng” vì mọi nẻo đường ở Việt Nam, hôm nay, đều nhan nhản tội ác cùng với tệ đoan xã hội và sự bất an:

– “Xôn Xao Chợ  Mãi Dâm đường Điện Biên Phủ” – báo Tiền Phong.

– “Cướp Giật Có Súng trên phố Điện Biên Phủ” – báo An Ninh Hải Phòng.

– “Quét Gái Mãi Dâm Trên Đường Nguyễn Chí Thanh” – báo An Ninh Thủ Đô

– “Đột Nhập Động Mãi Dâm Trên Đường Phạm Văn Đồng” – báo Người Đưa Tin

– “Bắt Kẻ Giao Hàng Trắng Dọc Đường Trường Chinh” – báo An Ninh Thủ Đô

– “Trộm Vàng Táo Tợn Trên Đường Xuân Thuỷ” – báo VietNamNet

– “Phóng Viên Truy Đuổi Đối Tượng Trộm Cắp Trên Đường Phạm Hùng”    báo An Ninh Thủ Đô

– “Xe Buýt Lại Tông Người Trên Đường Lê Duẩn” – báo Người Lao Động

– “Xuất Hiện Hố Tử Thần Trên Đường Trần Quốc Hoàn” – báo Lao Động

– “Dàn Cảnh Cướp Xe Trên Đường Hồ Chí Minh” – báo Dân Trí

Thiệt là ớn chè đậu. Biết còn chỗ nào “xứng tầm” với ông Đại Tướng Điện Biên đây, Trời? Thôi thì đành chọn đường Điện Biên Phủ, thuộc phường Đa Kao, Sài Gòn – nơi vừa cắt băng khánh thành khai mạc quán ăn McDonald’s đầu tiên ở Việt Nam.

Nó không những đắc địa mà còn mang nhiều ý nghĩa lịch sử lớn nữa. Tập đoàn hàng ăn McDonald’s giữa thành phố H.C.M quang vinh, nằm trên một con đường mang tên V.N.G, sẽ nhắc nhở mọi người không bao giờ quên được máu xương của hàng triệu binh sĩ (dưới quyền) mà Đại Tướng đã “hy sinh” cho công cuộc cuộc chống đế quốc Mỹ xâm lược vừa qua.

Theo Báo Mới , số ra ngày 8 tháng 2 năm 2014, ghi nhận (và in đậm) như sau:

“Giá một chiếc burger cỡ lớn làm nên thương hiệu của McDonald’s có tên là Big Mac sẽ có giá 85.000 đồng. Mức giá này tương đương với gần 4 USD, thấp hơn so với tại Mỹ tuy nhiên lại cao hơn so với nhiều nước trong khu vực như Singapore, Indonesia, Philippines hay Malaysia.”

Em bé Điện Biên, hôm nay, chắc phải mò cua bắt ốc nguyên tháng mới đủ tiền để mua một cái Bic Mac của McDonald’s. Thảo nào mà giữa kèn trống trong “quốc tang” dành cho Đại Tướng, vẫn xen lẫn những tiếng đời dị nghị: “Năm triệu người thiệt mạng để Ông khai sinh ra một chính quyền. Nhưng chính quyền của Ông lại tồi tệ hơn những chính quyền mà Ông đã khai tử.”

 

LÀ MỘT NGƯỜI VIỆT, KHÓ LẮM ! THẬT VẬY SAO ?

LÀ MỘT NGƯỜI VIỆT, KHÓ LẮM ! THẬT VẬY SAO ?

Trích Ephata 607

Cách đây không lâu, một lá thư được phổ biến từ Việt Nam và nói rằng tác giả là một “du học sinh người Nhật” đưa ra những nhận xét ngay thẳng về đất nước và con người Việt Nam ngày nay. Lá thư không dài, với nội dung như sau:

Tôi đang là một du học sinh Nhật, có hơn 4 năm sinh sống tại Việt Nam. Với ngần ấy thời gian, tôi đã kịp hiểu một đạo lý giản đơn của người Việt: “Sự thật mất lòng”. Song không vì thế mà tôi sẽ ngoảnh ngơ trước những điều chưa hay, chưa đẹp ở đây. Hy vọng những gì mình viết ra, không gì ngoài sự thật, như một ly cà phê ngon tặng cho mảnh đất này, tuy đắng nhưng sẽ giúp người ta thoát khỏi cơn ngủ gục – ngủ gật trước những giá trị ảo và vô tình để những giá trị thật bị mai một.

Tôi có một nước Nhật để tự hào

Tôi tự hào vì nơi tôi lớn lên, không có rừng vàng biển bạc. Song, “trong đêm tối nhất, người ta mới thấy được, đâu là ngôi sao sáng nhất”. Thế đấy, với một xứ sở thua thiệt về mọi mặt, nghèo tài nguyên, hàng năm gánh chịu sự đe dọa của hàng trăm trận động đất lớn nhỏ lại oằn mình gánh chịu vết thương chiến tranh nặng nề, vươn lên là cách duy nhất để nhân dân Nhật tồn tại và cho cả thế giới biết “có một nước Nhật như thế”.

Tôi tự hào vì đất nước tôi không có bề dày văn hiến lâu đời nên chúng tôi sẵn sàng học hỏi và tiếp nhận tinh hoa mà các dân tộc khác “chia sẻ”. Từ trong trứng nước, mỗi đứa trẻ đã được học cách cúi chào trước người khác. Cái cúi chào ấy là đại diện cho hệ tư tưởng của cả một dân tộc biết trọng thị, khiêm nhường nhưng tự trọng cao ngời.

Tôi tự hào vì đất nước tôi được thử thách nhiều hơn bất kỳ ai. Khi thảm họa động đất sóng thần kép diễn ra, cả thế giới gần như “chấn động”. Chấn động vì giữa hoang tàn, đổ nát, đói khổ và biệt lập, người ta chỉ nhìn thấy từng dòng người kiên nhẫn xếp hàng nhận cứu trợ và cúi đầu từ tốn cảm ơn. Không có cảnh hôi của, lên giá, cướp bóc, bạo lực nào diễn ra giữa sự cùng khổ.

Chỉ chưa đầy một năm sau khi hàng loạt thành phố bị xóa sổ hoàn toàn, sự sống lại bắt đầu hồi sinh như chưa từng có biến cố nào đã xảy ra. Thế đấy, không có những thành tích to lớn để nói về nước Nhật nhưng thương hiệu “made in Japan”, là thương hiệu uy tín vượt trên mọi khuôn khổ, tiêu chuẩn khắt khe, được toàn cầu tôn trọng nhất mà tôi từng biết.

Bạn cũng có một nước Việt để tự hào

Nói Việt Nam là một “nhà giàu”, quả là không ngoa. Giàu tài nguyên, giàu truyền thống, giàu văn hóa… Nhưng con cháu của nhà giàu, sẽ phải đối mặt với những vấn đề nan giải của nhà giàu. Và không phải ai cũng biết cách sống có trách nhiệm trong sự giàu có ấy.

Thật đáng tự hào nếu bạn được lớn lên ở một đất nước được thiên nhiên ưu đãi với rừng vàng biển bạc. Đáng xấu hổ nếu xem đó là khoản thừa kế kếch xù, không bao giờ cạn. Thật tiếc đó lại là những gì tôi thấy. Tại các thành phố, chỉ cần nhà mình sạch sẽ là được, ngoài phạm vi ngôi nhà, bẩn đến đâu, không ai quan tâm. Ở các nhà máy, nếu không biết dồn rác thải ở đâu, họ sẽ cho chúng ra ngoài đường, sông suối, biển cả vì đó là “tài sản quốc gia” – đã có quốc gia lo, không phải việc của mỗi người dân.

Tại một đất nước mà 80% dân số sống bằng nghề nông, đất đai, nước ngầm hầu như đã bị nhiễm độc, đến nỗi, người ta nói vui trong năm nữa thôi sẽ là thời đại của ung thư vì ăn gì cũng độc, không ít thì nhiều, không thể khác. Vì sao nên nỗi ?

Thật đáng tự hào vì Việt Nam có 4.000 năm văn hiến. Thật xấu hổ nếu 4.000 năm văn hiến chỉ là một chương trong sách lịch sử chứ không được thể hiện trong cách hành xử đời thường. Thật buồn vì đó cũng là điều tôi thấy mỗi ngày.

Hãy chỉ cho tôi thấy rằng tôi đã sai nếu nói: Người Việt không biết xếp hàng, xếp hàng chỉ dành cho học sinh tiểu học; người Việt không biết tự hào về người Việt, nếu không thì Flappy Bird đã không phải chết yểu đau đớn; người Việt chửi hay còn hơn hát, cứ xách balô ra tới thủ đô một chuyến thì sẽ được mục sở thị; người Việt vẫn còn luyến tiếc văn hóa làng xã, giai cấp nếu không phải thế thì họ đã không đứng thẳng người chửi đổng và cúi rạp mình trước quyền lực bất công mà chẳng dám lên tiếng; người Việt có đôi mắt siêu hạng nhất vì nhìn đâu cũng thấy cơ hội để mánh mung, lọc lừa.

Tôi chưa từng thấy đất nước nào mà các bậc mẹ cha dạy dỗ con cháu cố gắng học hành để sau này là bác sĩ, phi công, thuyền trưởng… mà xuất phát không vì đam mê mà vì phong bì nhiều, đút lót dễ, giàu sang mấy hồi… Vì đâu nên nỗi ?

Người Việt có một nền di sản độc đáo, một nguồn sức mạnh vô cùng to lớn, ai cũng nhìn thấy, chỉ có người Việt là không thấy hoặc từ chối nhìn thấy. Vì sao nên nỗi ?

Tôi đang nhìn thấy một thế hệ, họ không còn biết phải tin vào điều gì, thậm chí còn không dám tin vào chính mình. Là một người Việt – khó lắm ! Thật vậy sao ?”

Một du học sinh người Nhật ( ? )

LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT THẬT BẤT CÔNG ?

LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT THẬT BẤT CÔNG ?

PM. CAO HUY HOÀNG

Trích Ephata 607

“Em Đạo dòng. Đạo từ đời ông cố, ông sơ. Ông nội em là ông trùm cả 20 năm liền. Bà nội em không từ nan một việc gì khi giúp các Đấng. Đến thời cha mẹ em cũng đóng góp không biết bao nhiêu là thời gian cho việc Nhà Chúa. Vợ chồng em cũng theo gương ấy mà cộng tác đủ các việc Nhà Thờ…. Nhưng, lắm lúc buồn lắm anh ạ. Nhìn lại cái cảnh nhà mình, không giống ai. Ông xã em với chiếc xe cánh én hơn 20 năm rồi, cọc ca cọc cạch đi Lễ đi làm việc Nhà Thờ. Có mấy lần bị “thiên hạ” mời đến trụ sở để “làm việc” và bị hỏi: “Làm ở Nhà Thờ lương tháng bao nhiêu mà hăng vậy ?” Thấy mà thương ! Mấy đứa nhỏ đi học ở Sàigòn, đứa nào cũng phải tự bươn trải, vừa học vừa làm kiếm tiền học phí, tiền ăn, tiền nhà trọ… Tội nghiệp !

Mấy hôm nay chuẩn bị Lễ Lòng Chúa Thương Xót, có vài người đến nói với chồng em xin cho họ được làm chứng về Lòng Chúa Thương Xót trong Đại Hội. Nghe chuyện vài người kể với nhà em, người thì được ơn chữa lành, người trúng đất, người mới mua được đất, người mua được xe…, đủ các thứ mà người ta cho là Lòng Chúa Thương Xót đã… thương xót họ ! Hầu hết đó là những người mà trong con mắt em, họ chẳng ra chi, hoặc là người tân tòng mới theo Đạo vài năm mà ra vẻ, hoặc là người đã từng tội lỗi công khai, giang hồ, tai tiếng, mà nay đi đâu cũng bô bô Chúa Xót Thương, Chúa Thương Xót…

Trong số những người xin làm chứng, đáng kể nhất là một người tân tòng: một chị, lấy chồng Đạo được 9 năm nay, kể rằng: Ban đầu, chị đến với Lòng Chúa Thương Xót nhờ mấy chị bạn rủ đi đọc kinh và chị đã kêu cầu Chúa như vái tứ phương, cầu may, hên xui. Không ngờ Chúa đã ban cho chị được như ý. Ông bố của chị, vốn là người vô thần, ghét đạo kinh khủng, đến mức đã không cho chị theo đạo, rồi khi chị có đứa con trai là thằng cu Bin, vợ chồng chị đem con đi rửa tội và mời ông ngoại sang ăn đầy tháng. Ổng không đến, không cho bà ngoại đến, cấm các cậu các dì đến, còn chửi em thậm tệ: “Mới đẻ, nó có tội gì mà đè nó ra xối nước rửa ?” Từ đó, ổng từ chị luôn. Đến với Lòng Chúa Thương Xót, chị chỉ xin là “Nếu bố con có ghét Chúa thì kệ ổng, chỉ ráng xin cho ổng đừng ghét con thôi”.

Thế rồi hơn sáu tháng chị van vái cầu may, chị thấy bố thay đổi. Chiều Thứ Năm Tuần Thánh năm ấy, tự động ổng đến thăm Cu Bin, nay đã 7 tuổi rồi, cho cu Bin 100 ngàn. Ổng nói: “Mai là ngày Chúa tụi mày chết, rồi nghe nói được vài hôm thì ổng sống lại. Tao qua thăm tụi mày. Cho Cu Bin 100 ngàn nè. Nói với ổng nếu tao có chết, thì cho tao sống lại với nghen”. Thế là chị nghĩ Lòng Chúa Thương Xót đã thương xót chị. Chuyện ba với Chúa thì chưa biết, nhưng ít là ba của chị đã đến thăm con, thăm cháu…

Anh nghĩ xem, có phải thấy mà phát ghét, nghe mà phát ganh, nhìn mà phát điên tiết không ! ? ! Chúa có Lòng Thương Xót như vậy sao ? Thiệt bất công quá đi ! Em Đạo dòng… Xin Chúa hoài mà chẳng thấy Chúa ban cho điều gì. Còn mấy cái thứ người kia…”

Vậy đó, chợt nghĩ, trong chúng ta không ít người có lòng ganh tỵ như người kể chuyện trên đây. Có khi phản ứng bất bình với Chúa còn hơn như vậy nữa. Phát ghét, còn đỡ hơn là không ít kẻ thấy người khác được Chúa xót thương mà đâm ra thù hận, tìm cách hại người ta mới ghê !

Ước gì mỗi chúng ta đều nhận ra Lòng Chúa đang thương xót từng người, và ban ân lộc cho từng người, “như mưa xuống trên ruộng người lành, lẫn ruộng kẻ dữ”. Thiên Chúa không bất công nhưng Ngài khôn ngoan và cân nhắc cho con cái Ngài từng chút một, từng việc nhỏ. Ngài luôn dành cho chúng ta những gì tốt nhất theo ý Ngài, không phải tốt nhất theo ý của chúng ta. Mà, ý tốt nhất của Thiên Chúa là “để chúng ta được cứu rỗi”, “để chúng ta được sống đời đời”, kẻo uổng công trình trút hết đến giọt máu, đến giọt nước cuối cùng để chết đi vì yêu, rồi sống lại vì yêu, sống lại để người mình yêu được sống lại.

Trở lại câu chuyện của chị Đạo dòng, thiết tưởng, chị phải nhận ra rằng Chúa đã ban cho cả họ tộc của chị, và cho chồng chị nữa một ơn đặc biệt là sống nghèo hèn thanh thoát trước của cải phù vân, sống cho Danh Thiên Chúa cả sáng, cho Nước Thiên Chúa trị đến… là đã sống trước cuộc sống phục sinh ngay trên dương thế này rồi. Như vậy, chắc hẳn sẽ khác với những người đang sống ở trần gian mà không tin có đời sau, không tin sự sống lại, không dám chắc một cuộc sống mai hậu chứ ? Hơn nữa, của cải vật chất Chúa ban cho là để chúng ta sử dụng trong việc tìm kiếm Nước Trời, để được sống đời đời, chứ nào phải để chúng ta hưởng dùng cho thoải mái ở đời này đâu !

Tôi không dám giải thích gì cho chị, người kể chuyện ấy. Nhưng bất ngờ, qua một chị bạn của chị, tôi mới hiểu một nguyên nhân vui vui là: “Người ta lên đời cả rồi, bạn chị, đứa thì Air Blade, đứa thì Atila, đứa còn có chiếc xe con 7 chỗ, còn chị, ngồi sau chiếc Honda cánh én cũ rích mà mắc cỡ…”

Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng có thể giống như chị kia, luôn than thở trách móc Lòng Chúa Thương Xót bất công quá. Xin cho chúng con nhận ra lòng Chúa Xót Thương không bao giờ bất công cả, vì Chúa là Đấng Khôn Ngoan, luôn dành cho mỗi chúng con điều tốt nhất là cho chúng con được phục sinh trong Nước Thiên Chúa. Amen.

PM. CAO HUY HOÀNG

 

Nỗi buồn không thể gọi tên

Nỗi buồn không thể gọi tên

Chuacuuthe.com

VRNs (30.4.2014) – Sài Gòn – Có một nỗi buồn không thể gọi tên, có những nỗi đau không thể nói thành lời. Trước tiên, xin kính cẩn nghiêng mình trước anh linh của những người lính và những người dân vô tội đã chết trong cuộc chiến phi nghĩa giai đoạn 1954-1975.

Nỗi buồn không thể gọi tên là khi tôi tận mắt nhìn thấy những Thương Phế Binh (TPB), cho tôi được phép viết hoa danh xưng đó vì tôi dành cho họ một tình thương cảm khác.
Tôi đứng đó, nhìn thấy họ từng con người, từng hoàn cảnh cứ xuất hiện dần trong tôi như một màu sắc khác của cuộc sống mà đến giờ tôi mới biết nó tồn tại.
Họ chưa bao giờ xuất hiện hay tồn tại trong ký ức tôi. Vì sao thế? Không phải tôi không học hỏi mà những điều đó tôi không được học. Nếu có thì những điều người ta cho tôi biết về họ là những người nhu nhược, sống bám bằng đồng đô la Mỹ, là đội quân hèn nhát…
Với tôi họ mờ nhạt, rất rất mờ nhạt, để rồi hôm nay đây tôi phải nghẹn đắng và sống mũi cay cay. Tôi khóc. Khi nhìn thấy họ- những người TPB ở chính mảnh đất họ chiến đấu.
Tôi chỉ biết đến sự hi sinh nhiều vô kể của hàng triệu lính Bắc Việt mà không hề biết đến sự hi sinh của những người lính Việt Nam Cộng Hoà.
Tôi chỉ biết đến những người thương binh của miền Bắc cũng có những hoàn cảnh khó khăn được trao ít quà mỗi dịp nào đó. Nhưng những đồng tiền hay món quà đó đã bị chặn đầu chặn đuôi rất nhiều. Và họ cũng khổ, nhưng chí ít họ được nhắc nhớ.
Còn rất nhiều điều tôi biết mà hoá ra không biết để rồi ngày hôm đó (28/4/2014) tôi mới hiểu thêm được một trang sử khác, khác rất nhiều những trang sử tôi được đọc, được học.
Chiến tranh phút này còn, giây của phút sau đã mất. Sự tàn khốc của chiến tranh là điều không ai phủ nhận. Vậy tại sao lại phủ nhận rất nhiều nhân chứng lịch sử của cuộc chiến tranh ấy?
Không có sự thật lịch sử nhưng có những dữ kiện lịch sử mới làm nên bức tranh lịch sử chân thực. Cộng sản Việt Nam đã viết một trang lịch sử bằng máu đỏ. Màu đỏ ấy đã chiếm hết lịch sử để rồi giờ đây không chỉ tôi mà có rất nhiều người trẻ không biết đến một màu cờ vàng từng tồn tại phồn vinh và tự do trên mảnh đất hình chữ S.
Tôi đứng đó chết lặng khi nhìn thấy những người mất hết tay chân, đi trên đôi nạng gỗ, những người mù mắt vì xác pháo bắn vào, đa số họ đã mất khả năng lao động nhưng vẫn phải mưu sinh vì miếng cơm manh áo hàng ngày.
Họ đã một thời là những thanh niên khoẻ mạnh dũng cảm. Họ là những người lính có những phút giây lãng mạn của thời thanh niên trai tráng, có những mẹ già, em thơ hay một hình bóng người con gái… Tôi chợt nhận ra họ rất người nhưng sao họ không được đối xử công bằng? Họ phải đi tù cải tạo, bị đối xử rất tồi tệ có thể điều đó cũng khiến họ buồn, nhưng điều đáng buồn hơn cả là họ bị lãng quên.

Một ông thương phế binh VNCH thới tham dự ngày họp mặt Tri ân các thương phế binh hôm 28.4 vừa qua. Ảnh Đức Hiệp

Một ông thương phế binh VNCH thới tham dự ngày họp mặt Tri ân các thương phế binh hôm 28.4 vừa qua. Ảnh Đức Hiệp

Tôi hiểu vì sao 30/4 lại là ngày quốc hận.

Hình ảnh thứ hai tôi xúc động là giọt nước mắt của Cha Giám tỉnh Vinh Sơn. Tôi không nghĩ một người như Ngài có thể khóc, bởi tôi gặp người lần nào cũng là sự vui vẻ và những câu chuyện khiến tôi cười không dứt. Những người anh em cùng thời với Cha, người còn, người mất và bị xã hội này cố tình lãng quên. Để hôm nay đây, bất chấp sự độc ác của chế độ này lần thứ hai Dòng Chúa Cứu Thế tổ chức gặp mặt để họ ôn lại những điều đáng nhớ.
Tôi thấy họ hào hùng hơn bao giờ hết khi họ hát lên bài “Việt Nam quê hương ngạo nghễ”. Tôi thấy được hình ảnh của họ thời đó, một chút gì đó trong họ sống lại. Tôi thấy giọt nước mắt xúc động của không chỉ một mà rất nhiều các ông, các bác và các chú TPB hôm nay.
Chỉ trong khoảng bốn tiếng đồng hồ tôi được nhìn thấy một bức tranh khác về lịch sử. Tôi tự hỏi những người thương binh Bắc Việt có biết có những người giống hệt hoàn cảnh của họ.
Tôi đã thấy hình ảnh khác của người lính không phải “ba lô, súng, mũ tai bèo” nữa.
Tôi thương cảm cho những anh linh của những người lính đã ngã xuống ở hai phía. Nhưng đôi khi cái chết đó có khi còn may mắn hơn là sống dưới chế độ này, họ bị coi rẻ, họ bị tâm lý của “bên thua cuộc”, song có một sự thật khác họ cũng không hơn gì những người thương binh của “bên thắng cuộc”.
Cuộc chiến phi nghĩa ấy đã khiến cho mảnh đất hình chữ S một trang sử đen tối. Nếu thực sự muốn hoà giải, cộng sản nên hoà giải với người sống trước, đừng chỉ hoà giải với người đã chết.
Cộng sản luôn nói đến hoà giải nhưng tôi chưa thấy họ làm được điều gì đáng cho 1 điểm trong việc này. Đừng nhắc đến chữ hoà giải khi những ngày này vẫn còn nói về sự “chiến thắng”.

Vân Hà, cộng tác viên VRNs

 

Nắng sao như nắng đời xưa ấy

Nắng sao như nắng đời xưa ấy

Chuacuuthe.com

VRNs (30.04.2014) – Úc Đại Lợi – Suy tư Tin Mừng Chúa nhật thứ Ba năm A 04-5-2014

“Nắng sao như nắng đời xưa ấy,

Nắng vàng con mắt thấy duyên đâu.”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Lc 24: 13-35

Nhà thơ vẫn thấy nắng đời xưa ấy cứ như nắng vàng con mắt chẳng thấy duyên. Nhà Đạo có theo chân đồ-đệ Chúa trên đường Emmaus, cũng chẳng thấy được nắng “thủy tinh” vàng rực cả tâm hồn, mà không biết

Truyện kể hôm nay về đồ-đệ rong ruổi “trên đường Em-maus” đã thành văn bản song hành so với bản văn Tân Ước chứa đựng nội dung ta cử hành Tiệc Thánh Thể mỗi tuần. Điều này có lẽ sẽ khiến nhiều người ngạc nhiên, khi nghĩ: Tiệc Tạ Từ của Chúa đâu giống thế. Nhưng ở trình thuật hôm nay, thánh Luca nhắc nhở cộng đoàn lúc ấy cũng như bây giờ, rằng: họ cũng bị cản ngăn không gặp được Chúa, nhưng mọi người vẫn có kinh nghiệm sống đích thực là Ngài đang hiện diện quanh ta và với ta.

Trong hành trình tin-yêu, môn đệ đã gặp gỡ Chúa như họ từng có kinh nghiệm. Đây là chi tiết sống động trong trình thuật hôm nay. Quả vậy, nơi trình thuật, Đức Giê-su đã lắng nghe những gì họ mong mỏi, hy vọng và cả những chán chường tuyệt vọng cho đến khi họ bộc lộ thực trạng, Đức Kitô mới tỏ lộ Kinh thánh, để họ nhớ. Làm thế, Ngài lấy đi các huyễn hoặc và giúp họ thấy được mối nối kết dẫn đưa vào trình thuật cứu độ. Và, điều này dẫn họ vào hy vọng. Cả vào lúc đó, họ mới nhận ra Ngài. Nhận ra được Ngài, vào lúc Ngài bẻ bánh. Và bằng vào bẻ bánh, Ngài tỏ cho họ biết Ngài là Đấng, họ ngóng trông. Và, kinh nghiệm ấy đã dẫn họ về lại Giê-ru-sa-lem, làm chứng cho việc Ngài thật sự đã Phục Sinh.

Mỗi Chúa nhật, thành phần của hành trình tin-yêu ta dấn bước trên đường đến Em-mau, có Chúa. Có chi tiết nào đưa ta đến đây, để tự hào mà nói: ta khác nhiều với những gì mình thực sự cảm nghiệm. Khác nhiều với những gì mình thực sự đang sống niềm tin ấy. Đức Chúa thấy được tâm can và tâm trí của mỗi người. Ngài gặp gỡ mỗi người chúng ta qua lớp bụi lẩn vẩn của cuộc sống, dù những thứ ấy có mang mặc hình hài khác lạ. Truyện kể về “Con đường Em-mau” dạy cho ta biết Đức Giê-su, trước nhất, muốn lắng nghe ý lòng chúng ta trước khi Ngài muốn ta lắng nghe Lời Ngài.

Tuy vậy, truyện “Con đường Em-mau” không chỉ nói về đồ đệ Chúa và cuộc sống của các thánh, thôi. Hệt một kiểu như thế, Tiệc Thánh Thể cũng không chỉ diễn tả cuộc sống của ta một cách đơn thuần mà Đức Kitô đã mở Kinh thánh cho ta thấy mỗi tuần, để ta có thể tạo cho kinh nghiệm sống của ta có được ý nghĩa. Để ta thấy được con đường Chúa hiện diện, cũng như vắng mặt. Và như thế, mới thấy được sự khùng điên của mỗi người, trong ta. Cũng giống môn đệ trên đường Em-mau, ta được chào đón. Được ngồi vào cùng bàn tiệc của Đức Chúa. Ở bàn tiệc ấy, ta nhận ra Ngài qua việc bẻ bánh. Và nhận ra chén cứu chuộc. Tiệc Thánh Thể, vẫn giúp ta sau khi rời khỏi nơi đây vào cuối bữa, để ra đi rao báo cho mọi người biết rằng ta đã gặp Đức Kitô. Ngài đã thực sự sống lại và Ngài sống lại rồi.

Một trong những điều mà Hội thánh ngày nay rất trân trọng, là: việc nối kết với các kinh nghiệm sống của Hội thánh thời ban sơ. Đích thực là như thế và thật là vinh dự. Vinh dự, nhắc nhớ những gì ta thường làm ở đây, mỗi Chúa Nhật. Nhắc để ta nhớ những gì có khả năng vun đắp niềm tin yêu nơi ta. Những gì ta đang cử hành và tiếp tục làm thế, qua nhiều thế hệ, là điều hệ trọng. Giống “Em-mau.

Cho dù, nhiều điều diễn ra, có thể rất khác. Khác vì văn hoá sắc tộc mỗi người khác nhau. Nhưng, khi thực hiện Tiệc Lòng Mến ở khắp nơi, vẫn có những điều giống hệt nhau. Những điều vẫn được lưu giữ, ở lại. Chính Đức Kitô Phục Sinh, Đấng vẫn tháp tùng cùng đi với ta đi bên ta, trong hành trình của cuộc sống. Ngài vẫn lắng nghe mỗi người. Ngài vẫn mở rộng lòng trí của mỗi người, để nhớ lại những điều nói trong Kinh thánh. Ngài vẫn mời ta ngồi vào bàn tiệc của Ngài. Vẫn gửi ta ra đi về với thế giới nhân trần, cho họ biết: Ngài đích thực đã sống lại từ cõi chết.

Đây là cách hay nhất để ta hiểu được chính mình theo “truyền thống của người Công Giáo” ở khắp nơi. Như thế, ta sẽ chia sẻ với các thế hệ ngàn năm trước/sau, cũng một lửa ngọn của tình yêu của Đức Chúa đang bừng bừng, làm cháy nóng tâm can ta, khi ta được chào đón mỗi tuần ở đây nơi Tiệc Lòng Mến mỗi tuần. Nơi, ta được lắng nghe, được giáo huấn, nuôi dưỡng và gửi đi để làm một chút gì rút từ chính con người mình hầu biến Vương Quốc Nước Trời của Đức Chúa thành hiện thực.

Đó chính là ý nghĩa của trình thuật “Trên đường Em-mau”. Của Tiệc Thánh Thể, rất hôm nay.

“Nắng sao như nắng đời xưa ấy,

Nắng vàng con mắt thấy duyên đâu

Muốn gửi thương về người cổ độ,

Mà sao tình chẳng nói cho đau.”

(Hàn Mặc Tử – Buồn ở đây)

Nhà thơ “buồn ở đây” vì “tình chẳng nói cho đau”. Con dân nhà Đạo cũng chẳng cần nói đến Tình bởi có nói vẫn cứ đau, vì người người đã có tình. Tình yêu-thương, giùm giúp chí ít là người trong Đạo, vẫn giữ đạo suốt đời mình.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

TÂM LÝ ĐỘC TÀI

TÂM LÝ ĐỘC TÀI

Tôi nghe, không phải một lần, mà là khá nhiều lần; từ không phải một người, mà là khá nhiều người, chủ yếu là những Việt kiều, vì thiện chí, về Việt Nam làm việc và có cơ hội tiếp xúc với nhiều người trong giới lãnh đạo, than thở: “Nói chuyện với giới lãnh đạo Việt Nam khó lắm. Khen thì mấy ổng cười toe toét. Nhưng chê, dù là chê những chuyện có vẻ hiển nhiên và với giọng điệu nhẹ nhàng nhất, mấy ổng cũng sầm mặt xuống ngay tức khắc. Sau đó muốn gặp lại cũng khó. Khó lắm!”

Khi tôi kể lại những lời than thở trên cho một số bạn bè từ Việt Nam sang; mọi người – tất cả đều thuộc giới trí thức khá cao cấp, có người còn nắm giữ những chức vụ khá cao trong guồng máy hành chính – đều xác nhận. Họ thừa nhận, là, họ, chính họ, các trí thức và cán bộ trong nước, cũng không thể nói thẳng và nói thực với cấp trên: Không ai muốn nghe cả. Không những không muốn nghe, người ta còn giận. Nghĩ là mình lập trường không vững hay có ý đồ gì không tốt.

Nhưng, tôi để ý là, sau khi than thở hoặc thừa nhận như thế, tất cả, từ Việt kiều đến những người trong nước, đều cố biện minh: “Cũng tại mấy ổng già quá rồi. Người già thường khó tính.”

Tôi không tin và cũng không thích những lời biện hộ kiểu đó. Tôi cho đó chỉ là một nguỵ biện. Lại là thứ nguỵ biện nguy hiểm. Nguỵ biện: Không phải người già nào cũng không thích nghe sự thực. Vả lại, phần lớn giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay cũng không thực quá già. Trên thế giới có vô số nhà lãnh đạo lớn tuổi mà vẫn thoải mái tiếp nhận những sự phê phán từ người khác. Nguy hiểm: Chính những sự nguỵ biện kiểu như thế đã dung dưỡng cho thái độ nhắm mắt và bịt tai của những người đang cần được nghe nói thực nhất.

Tôi muốn gọi đúng tên cái chứng không thích nghe về cái xấu, cái dở ấy: độc tài.

Lâu nay, nói đến độc tài (authoritarianism), chuyên chế (dictatorship) hay toàn trị (totalitarianism), chúng ta thường nghĩ ngay đến cơ chế (mechanism), đến bộ máy khép kín và nặng nề của đảng và nhà nước. Đành là đúng. Độc tài (hay những thứ cùng loại đã kể), trước hết, là một cơ cấu quyền lực chỉ cho phép một người, hoặc một nhóm nhỏ, được quyền quyết định tất cả. Không có đối lập. Thậm chí, không có gì được độc lập, kể cả hai thành phần cần được độc lập nhất: tư pháp và truyền thông.

Tuy nhiên, độc tài không phải chỉ là vấn đề cơ chế.

Độc tài còn là vấn đề tâm lý. Tâm lý độc tài là tâm lý chỉ tin vào chính mình, chỉ muốn sử dụng quyền lực để bảo vệ niềm tin của mình, và từ chối nghe bất cứ một ý kiến gì khác với mình. Người độc tài, như thế, ở một trạng thái khá mâu thuẫn: một mặt, họ tự tôn, cho mình, chỉ có một mình mình, là đúng; nhưng mặt khác, lại thiếu tự tin: họ sợ những thách thức đến từ người khác; họ tránh đương đầu; họ không muốn hoặc không dám sử dụng lý trí để thuyết phục người khác và bênh vực cho quan điểm của mình.

Người độc tài, do đó, không phải là những người mạnh mẽ. Và họ cũng biết họ không mạnh mẽ. Biết, nên họ thích sử dụng những biện pháp phi-lý trí để áp đặt và cưỡng chế người khác bằng cách xây dựng những cơ chế bảo vệ cái quyền không dùng lý trí của mình. Cái cơ chế ấy không cần lý lẽ, hơn nữa, nhằm loại trừ mọi lý lẽ. Trong cơ chế ấy, chỉ có một nguyên tắc được vận hành: bạo lực.

Tâm lý độc tài, do đó, là tâm lý sùng bái bạo lực. Tâm lý độc tài nào cũng tìm kiếm và cố duy trì một cơ chế độc tài: với người chồng hoặc người bố có tâm lý độc tài, cơ chế ấy là quyền gia trưởng; với người lãnh đạo một quốc gia, đó là tính chất độc quyền. Cơ chế thuộc chính trị. Tâm lý thuộc văn hoá. Thay đổi cơ chế độc tài cần có những vận động chính trị mạnh mẽ và quyết liệt. Thay đổi tâm lý độc tài cần những cuộc vận động lâu dài và sâu sắc nhằm thay đổi cách nhìn và cách nghĩ. Trong cái gọi là cách nhìn và cách nghĩ ấy, có hai điều quan trọng nhất: chấp nhận sự khác biệt và chấp nhận đối thoại.

Đối thoại chứ không phải độc thoại.