AI LÀ NGƯỜI YÊU CHÚA HƠN (phần 2) ?

AI LÀ NGƯỜI YÊU CHÚA HƠN (phần 2) ?

Phan Sinh Trần

Trong những ngày tháng u tối của nước Trung Hoa , khi mà cách mạng văn hóa còn đang ảnh hưởng , trong cả nước , không tìm ra 1 quyển Kinh Thánh vì tất cả sách báo cũ đã bị thiêu đốt công khai theo lệnh của Đảng Cộng Sản, các nhà truyền đạo đều bị bách hại rũ tù. Người ta còn nhớ vào năm 1970, khi một đoàn đại biểu Ki tô giáo đến thăm Trung Hoa, quay về lại Mỹ, họ đã báo cáo rằng , “ Không còn lại dù chỉ một người có Đạo ở Trung Hoa”.

  • Có thực là cuộc cứu độ của Chúa Giê Su đã hoàn toàn thất bại ở Trung Cộng không ?
  • Chúa có quên dân Trung Hoa và bị Bà Giang Thanh của Cách Mạng văn hóa xóa tên của Chúa trên toàn nước Trung Hoa không ?

Ông Lưu Chấn Dinh kể, trong một làng quê hẻo lánh đói nghèo , rách rưới cùng cực , lúc đó là vào năm 1972, Dinh ở tuổi 16, Cha ông bị bệnh ung thư và đang hấp hối, Mẹ con ông Dinh đang quýnh quáng kêu gào một thần linh nào đó có thể đến để cứu Bố của Dinh trong giờ khắc cuối , ông Bố đã bị Bệnh Viện trả về vì  hết cách chữa. Hàng xóm đều biết Bố của Dinh sẽ chết nay mai nhưng họ không thể cứu giúp gì. Cả gia đình còn đang khóc, chợt có tiếng nói trong tâm linh của Bà Mẹ , “ hãy kêu cầu danh Jesus” thế là Bà nói ra và cả nhà tiếp tục kêu gào “Lạy Giê Su , xin Ngài cứu bố con” . Mấy đứa con vốn không biết Đức Giê Su là ai , nhưng mà họ cứ danh ấy kêu gào hàng giờ đồng hồ bên cạnh người Cha đang cạn thở dần . Và… Chúa không bao giờ quên những người dân khốn khổ này,  Ngài ra tay cứu người Bố , bệnh thuyên giảm ngay lúc đó , ông đã có thể thở được trỏ lại và mấy ngày sau thì khỏi hẳn. Tuần lễ sau, cả nhà mời hàng xóm lại , trong đêm khuya, họ đóng cửa vì sợ công an thôn rình rập và bắt bớ. Cả nhà làm chứng về Chúa bằng cách kể lại sự việc và làm cho hàng xóm cùng tin vào Chúa Giê Su và dâng đời mình theo Chúa. Tới đây thì cả chủ nhà và hàng xóm gặp một bế tắc , Ngoại trừ Bà Mẹ võ vẽ nhớ lại vài câu Kinh Thánh , còn chả ai biết Chúa Giê Su là người như thế nào ,  tính cách Ngài ra sao ? Chúa Giê Su dậy bảo những gì ?  Làm sao mà theo Ngài đây? Bà Mẹ nói , Chúa dậy hết về Ngài và về vạn vật trong Kinh Thánh, “Chúa và Lời của Chúa ở trong đó”, nhưng mà làm sao có Kinh Thánh bây giờ ?

Túng kế , Anh Dinh , chạy qua làng bên cạnh , hỏi một cụ già , cụ vốn là một nhà truyền đạo , bị cầm tù 30 năm vì bị nhà Nước kết cho tội “truyền bá đạo ngoại lai, mê tín dị đoan”,

Cụ lấm lét dòm trước , ngó sau và nói nhỏ với cháu Dinh , “ con về cầu xin bền lòng , Chúa sẽ đáp lại lời cầu xin ” . Anh Dinh hăng hái về nhà , tìm ngoài vườn , anh tha một tảng đá xù xì vào cạnh gường, mỗi đêm anh quì lên tảng đá hàng giờ , anh xin Chúa cho mình một quyển Kinh Thánh “vì Chúa và Lời của Chúa ở trong đó”. Cầu xin 30 đêm như vậy , nhưng mà chả có chuyện gì xảy ra . Không hề nản , Dinh lại chạy qua cụ già ở làng bên, hỏi cụ:

–      Con cần cầu nguyện làm sao để có được kinh thánh ?

Cụ lại len lén , nói khẽ :

–      Cầu nguyện và ăn chay sẽ được Chúa nhận lời.

Anh Dinh hăng hái hơn nữa , anh tăng giờ cầu nguyện đêm và dù đói khó quanh năm, anh chỉ ăn hai bữa , một chén cơm vào buối sáng , một tô cơm vào buổi chiều sau khi làm việc ngoài cánh đồng. Về nhà , đêm nào anh cũng cầu xin Chúa cho một quyển Kinh Thánh “vì Chúa và Lời của Chúa ở trong đó”, được mấy tháng thì anh bắt đầu cảm thấy khó lòng, anh than khóc với Chúa rằng anh và mọi người cần Kinh Thánh “vì Chúa và Lời của Chúa ở trong đó” . Một đêm, khóc chán anh thiếp đi, trong giác ngủ anh mơ thấy một Lão trượng, tóc bạch kim sai hai người nhà mang Kinh Thánh cho Dinh, một người mặc áo khoác màu đỏ, một người mặc áo khoác xám. Bừng tỉnh dậy, anh kể cho Mẹ nghe, cả nhà càng hoảng hồn vì tin rằng Dinh đã mất trí, nhưng chỉ có mấy hôm sau thì trong đêm khuya có hai người , một mặc áo khoác đỏ , một mặc áo khoác xám,  gõ cửa nhà và giao cho Dinh quyển Kinh Thánh, họ giao xong thì vội vã đi ngay , đây là quyến Kinh Thánh cổ , do vị trưởng lão ở một làng xa xôi đem giấu trong một lon thiếc và chôn xuống đất đã nhiều năm, họ được thị kiến của Chúa và được Chúa thôi thúc trong lòng ngày đêm, vị trưởng lão đã sai hai người thân cận đêm khuya , đi giao Kinh Thánh cho Dinh theo địa chỉ mà Trưởng Lão đã nói.

Từ khi có được Kinh Thánh, “ Chúa và Lời của Chúa ở trong đó”, Anh Dinh học thuộc lòng và đi khắp các làng, đến nơi, ông liên lạc với 1 Tín hữu nhờ tụ họp người làng, trong đêm khuya, từ 12 giờ trỏ đi , khi dân làng bí mật tụ lại, Dinh  đọc nằm lòng các chương của Tin Mừng Tân Ước , Công Vụ Tông Đồ cho họ nghe. Làm chứng về Chúa và mời họ tin nhận Chúa làm đáng cứu độ cho cuộc đời mình. Khi bắt đầu hành động là lúc anh Dinh chỉ mới 16 tuổi đầu , nhưng Dinh đi đến đâu thì Lời của Chúa đánh động lòng dân làng quê tới đó , họ đàu phục Chúa Giê Su và nhờ Ngài chữa lành bệnh, tật nguyền. Niềm vui trong Chúa là sức mạnh của Dinh, nụ cười rạng rỡ kéo dài từ mang tai này qua mang tai kia của anh có sức thu hút và truyền cảm hứng. Chỉ trong vẻn vẹn mấy năm , đã có 2000 nông dân tin Chúa. Nhà cầm quyền truy nã Lưu Chấn Dinh khắp các nơi, lệnh truy nã dán đầy các bến ga xe lửa. Ông phải ngủ ngoài đồng , trốn trong hang động, từ làng này qua quận lỵ khác , đêm thì Ông đọc nằm lòng Kinh Thánh trong các nhà dân, khi mà mọi người tụ lại. Thế là có sự khai sinh thêm của các “giáo hội hầm trú”. Giáo Hội hầm trú từ thời đó bắt đầu bùng phát khắp Trung Hoa qua các vị truyền đạo dân gian trong các trường Đại học, trong các làng mạc , trong các thị xã , thành phố …

Cám ơn Chúa, quả thực Ngài không bao giờ quên dân tộc Trung Hoa đã và đang chịu quá nhiều bách hại, đau khổ.

Về phần của Dinh, vào tù ra khám đã 3 lần, ông trón thoát nhiều lần lùng bắt bủa vây, mấy lần vượt ngục ,  vào lần tù cuối, giống như Thánh Phê rô, Chúa làm cho cửa ngục giam cầm trọng tội, nhà tù Trịnh Châu, kiên cố nhất của Bộ An Ninh Công Cộng mở ngỏ, và còn hơn thế nữa, Chúa làm cho hai chân bị đánh đến tàn liệt của Dinh được lành lặn để có thể bước qua nhiều lớp cửa, các lính canh nhìn trừng trừng mà không thấy ông, bước qua sân tù đến cánh cổng lớn với nhiều lính canh nghiêm nhặt bố trí. Với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thân ông đã bước ra khỏi tù. Trong báo cáo điều tra của Chính phủ Trung Quốc, kết luận rằng Dinh đã trốn thoát mà không có sự giúp đỡ của con người. Trong lich sử của nhà tù Trịnh Châu, chưa có ai từng trốn thoát thành công khỏi nó.

(trích dấn : http://en.wikipedia.org/wiki/Brother_Yun)

Brother Yun.jpg

Brother Yun in 2010.

Ngày hôm nay , Ông Lưu Chấn Dinh định cư tại Đức và có dịp đi khắp nơi làm chứng về “Chúa và Lời của Chúa ở trong Kinh Thánh”, Ông ước ao cả thế giới biết về một Chúa Giê Su giống như Ông biết về Ngài, không phải là cái biết về một nhân vật lich sử xa vời vợi, nhưng là một Chúa Giê Su đang sống, đầy ắp yêu thương, đầy quyền năng của một vị Thiên Chúa. Chúa Giê Su mà mỗi lời hứa của Ngài trong Kinh Thánh là một sự thật sống động đã ứng nghiệm trong cuộc đời Ông và Đồng bào theo Chúa của Ông, Ông nói:

–      Mỗi một lời hứa trong Kinh Thánh là một sự thật .

Chính thức, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là một quốc gia vô thần nhưng điều đó đang thay đổi nhanh chóng. Một trong những mục tiêu lớn nhất của Mao Trạch Đông là dập tắt Kitô giáo từ đất của Trung Quốc, nhưng chưa đầy bốn thập kỷ sau khi ông chết Trung Quốc đã sẵn sàng để trở thành quốc gia có nhiều Kitô hữu nhất thế giới.

Số công bố chính thức của Kitô hữu là gần 100 triệu tín đồ Thiên Chúa Giáo ở Trung Quốc , tuy nhiên, Tín hữu trong các nhà thờ của Hội Thánh thầm lặng, (hội thánh không được Cộng Sản cấp phép) là nơi mà sự hồi sinh của phong trào Thiên Chúa Giáo bùng phát. Chúng ta có thể dễ dàng chứng minh rằng những con số này thực chất cao hơn con số 100 triệu nhiều và có thể lên đến 160 triệu tín hữu.

Ngay cả khi ước tính này là sai, thì với tốc độ tín đồ mới gia tăng hiện nay ở Trung Quốc, được cho là tăng gần 1 triệu tín đồ mới mỗi tháng thì chỉ cần  một vài năm nữa mà thôi,  Trung Quốc sẽ có thể công khai chứng minh rằng họ có số các Kitô hữu nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới.

Cám ơn Chúa kính yêu, vì Chúa không để một con Chiên nào hư mất đi mà không được có cơ hội được biết về Chúa.

Trich lược từ “ the Heavenly Man”  (Brother Yun, Paul Hattaway)

Con đường Giêsu

Con đường Giêsu

Chuacuuthe.com

VRNs (17.05.2014) – Hằng ngày, chúng ta đã đi trên rất nhiều con đường để thực hiện mục đích của mình. Mỗi con đường, một tên gọi. Người đi chợ, kẻ đi làm… ai ai cũng cần có đường để đi. Không phải bất kỳ con đường nào cũng có thể cho ta đạt được mục đích của mình. Chẳng phải con đường nào cũng mang lại hạnh phúc. Có những đường mà chỉ đi một lần và không bao giờ trở lại. Đó là con đường tội lỗi, những hố sâu, cạm bẫy của danh vọng, bạc tiền, của sa đọa, tù đày.

Nhưng cũng có rất nhiều con đường đưa ta đến niềm vui, hạnh phúc. Đó là con đường của những người công chính, họ đến và đi để mang hữu ích đến cho cộng đồng, nhân loại. Tuy nhiên, không con đường nào tuyệt mỹ cho bằng con đường Giêsu.

Đó chính là đường Chân lý, đường Sự thật, đường Cứu độ: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha, mà không qua Thầy.” (Ga 14, 6) Con đường ấy được nối từ trời xuống đất, hầu mặc khải cho thế giới nhận biết sự thật về Thiên Chúa Cha, tình yêu và ơn cứu độ của Người. Đó cũng chính là con đường đưa nhân loại từ đất về trời, về với cội nguồn của mình, về với nơi mình được sinh ra.

Có rất nhiều tiên tri, có rất nhiều mặc khải về Thiên Chúa, về Nước trời, nhưng không mặc khải nào trọn vẹn, tròn đầy bằng mặc khải của Đức Giêsu, sau Ngài không còn mặc khải nào khác hơn nữa. Đức Giêsu chính là mặc khải của Thiên Chúa Cha và Ngài cũng chính là Thiên Chúa. Không ai có thể nói về trời nếu như không bởi trời mà đến. Không ai có thể cho chúng ta biết về Thiên Chúa nếu không phải Đấng là Thiên Chúa tỏ lộ. Ai đã từng lên trời để biết sự thật về trời? Chỉ có Đấng từ trời mà đến mới biểu lộ trọn vẹn về trời: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.” (Ga 14, 9)

Việc Đức Giêsu giáng thế, đến trần gian để thi hành sứ vụ Chúa Cha trao phó là loan báo Tin mừng về ơn cứu độ và mặc khải mầu nhiệm Nước trời cho nhân loại thấy mà tin, đó là sự kiện có thật trong lịch sử. Ngài đã làm người, đã sống và rao giảng, đã tử nạn và phục sinh, đem niềm vui, đem con đường cứu độ cho toàn thế giới. Con đường đã bị tổ tông loài người cắt đứt ngay từ giây phút phạm tội phản nghịch trong vườn địa đàng. Thế nhưng, chẳng hiểu sao, thế giới vẫn không tin, nhân loại vẫn từ khước.

Phải chăng con đường Đức Giêsu đã chọn đến với thế gian là con đường hẹp, con đường khổ giá, nên bị từ khước? Con người chẳng ưa thích tự do, hưởng thụ hay sao? Hay niềm hạnh phúc mà Đức Giêsu khai mở không là hạnh phúc mà con người tuyển chọn, nó đã nằm ngoài nhu cầu nhân loại!

Giữa một thế giới xô bồ, đầy bạo động và tội lỗi này, bạn đang tìm cho mình đường để đi? Bạn đang mất phương hướng? An tâm, có rất nhiều con đường cho bạn chọn lựa. Chọn chưa đúng, không sao, còn thời gian, cơ hội cho bạn chọn lại. Nhưng sẽ không bao giờ là hạnh phúc nếu đó không đúng đường Giêsu. Giữa thời đại nhiễu nhương sự ác, dối giá và gian xảo này, bạn đang tìm cho mình cội nguồn Sự thật? Sẽ không bao giờ có Sự thật, chẳng ai cho bạn Sự thật nếu không là Thiên Chúa. Bạn đang khao khát sinh tồn, bạn đang cần sống hoài, sống mãi? Sẽ không bao giờ được sống, nếu sự sống ấy không bắt nguồn từ Thiên Chúa.

Ngày nào cũng vậy, nhân loại theo nhau ngày ngày lao đầu vào chốn ăn chơi cực lạc, tiêu xài hoang phí vào chốn hưởng thụ, bài bạc, rượu chè, đàn điếm… Con đường ấy sao mà ngày nào cũng đông nghẹt, lúc nào cũng ồn ào, tấp nập. Những con đường của bác ái, chia sẻ, hy sinh, thờ phượng sao vắng teo, vắng tắt… Nhân loại đi đâu hết cả rồi, thế giới trốn biệt nơi đâu, sao lại loại trừ đường cho mình hạnh phúc thật cơ chứ?

Lạy Chúa, ngày nào con cũng đi trên đường. Những con đường dài thật dài, miệt mài cả hàng chục cây số. Dài đến nỗi quen thuộc vì chúng cho con cơm ăn, áo mặc, danh vọng, bạc tiền… Những con đường ấy quan trọng, cần thiết thật vì chúng bảo tồn cuộc sống của con. Nhưng quan trọng thế nào cũng đầy nước mắt, đắng cay và chua xót. Chỉ có một con đường Giêsu, một con đường hạnh phúc thật. Chẳng phải bao lần con từng khao khát một sự sống yên bình, thanh khiết, trong sạch và tràn đầy niềm vui, thì hôm nay Thiên Chúa đã chẳng tỏ lộ cho con rồi. Xin giúp con biết cố gắng bước đi nếu như còn đang bước và can đảm trở về khi con đang lạc lối. Amen.

M. Hoàng Thị Thùy Trang.

Nhà EDITH_Câu chuyện khó tin mà có thật

Nhà EDITH_Câu chuyện khó tin mà có thật

Câu chuyện bà Edith Macefield

Ngôi Nhà Của Cụ Edith Macefield Tại Trung Tâm Thương Mại Ballard, Seatle, USA
Câu chuyện về một cư dân tại thành phố Seatle Bang Washington, Hoa Kỳ vừa được đăng trên các tờ Báo lớn của Mỹ hôm 19 tháng 3 vừa qua, nghe như là một huyền thoại, mà chắc ít người Việt từng biết đến, kể cả các lãnh đạo cao cấp của đảng và nhà nước Việt Nam. Ngay cả khi nghe được câu chuyện này, liệu họ có tin được hay không: Cụ Edith Macefield, một cụ già 84 tuổi, đã trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới như là một nữ anh hùng nhân loại, khi vào năm 2006 bà cương quyêt khước từ khoản tiền một triệu đô la để nhượng lại ngôi nhà cũ kỷ, rục rệu của mình, tọa lạc tại góc giao lộ Tây Bắc 46th và Đại lộ 15th, trong khu Ballard, thành phố Seattle, tiểu bang Washington để nhường chỗ cho việc xây dựng một Trung Tâm Thương Mại.

Vì không mua được đất của Cụ Edith Macefield, cơ quan phát triển đô thị cuối cùng đã phải thay đổi thiết kế của tòa nhà, mà với thiết kế mới, tòa nhà Trung Tâm Thương mại năm tầng này buộc phải cắt cúp lõm vào tại vị trí ngôi nhà ngôi nhà hai tầng cũ kỷ đã trải qua 108 năm dãi dầu mưa nắng của cụ Edith tọa lạc, nhưng tuyệt nhiên, không đụng đến bất cứ một chi tiết nhỏ nào của ngôi nhà dù chỉ là một tấc đất. Và cụ Edith Macefield vẫn tiếp tục sống một cách an nhiên tự tại trong ngôi nhà đó, ngay cả khi công trường xây đựng trung tâm đô thị cứ diễn ra ngày một náo nhiệt hơn, ngay cả sau khi bức tường bê tông ba mặt bao quanh ngôi nhà mỗi ngày cứ cao dần lên khi hết khối bê tông này đến khối bê tông khác cứ tiếp tục được đắp lên đó. Ngay cả khi những cần cẩu đã vượt qua mái nhà của của cụ để nâng hàng ngàn khối sắt thép bê tông, hết ngày này qua tháng khác cho đến ngày Trung Tâm Thương Mại hoàn thiện. Cụ Edith Macefield vượt qua hết mọi quấy quả một cách hết sức đơn giản bằng cách tăng âm lượng của chiếc vô tuyến truyền hình hoặc âm nhạc opera mà cụ yêu thích to hơn một chút, và thế là đủ.

Cụ Edith đã chia sẻ rằng: “Tôi đã đi qua cuộc chiến tranh thế giới thứ II, tiếng ồn không làm phiền tôi, vì tôi đã quá quen thuộc với nó”. Nhưng ấn tượng hơn cả là câu nói mà cụ Edith thường lập đi lập lại nhiều lần với nhân viên của Hội Đồng Thành Phố, những người nhiều lần đến gặp cụ dể thương lượng mua lại ngôi nhà của cụ và thuyết phục cụ chuyển đi nơi khác, nhường lại mặt bằng cho Trung Tâm Thương Mại, rằng “Tôi không muốn di chuyển. Tôi không cần tiền. Tiền không phải là tất cả”.

Sau Khi Cụ Edith Macefield qua đời vì ung thư tuyến tụy vào năm 2008, ngôi nhà của cụ lại càng nổi tiếng hơn, vẫn bé nhỏ, e ấp tại đó, bao quanh bởi bức tường bê tông cao chót vót trên ba mặt của Trung Tâm Thương Mại hiện đại và đồ sộ. Ngôi nhà không những đã trở thành nguồn cảm hứng và cổ vũ lớn lao cho cư dân khu Ballard, Seatle, mà cũng là nguồn cảm hứng cho hầu hết người dân Mỹ cũng như người dân ở các quốc gia Phương Tây, những người đã quá mệt mỏi với sự biến mất dần những cảnh quang thiên nhiên xanh tươi, mát mẻ và yên bình để thay vào đó là những tòa nhà chọc trời, những khu chung cư cao tầng hay những trung tâm thương mại đồ sộ. Với nguồn cảm hứng đó, rất nhiều người đã tạo hình xăm ngôi nhà bé nhỏ của cụ Edith lên cơ thể như là một cách thành tâm để tưởng nhớ đến cụ cũng như để tỏ lòng ngưỡng phục lòng kiên định của cụ.
Những người luôn tiếc nhớ cụ Edith thì thổ lộ rằng họ đã lấy cảm hứng từ tinh thần và lòng dũng cảm của cụ, bởi sự lựa chọn của cụ để được sống một cuộc sống đơn giản trong chính ngôi nhà nhỏ của mình, theo cách mà cụ ấy muốn. Thật là một cuộc đời đáng để sống khi người ta được sống theo cách mà người ta muốn, nếu không thì chúng ta không phải đang sống, mà thực ra là chỉ đang tồn tại mà thôi. Đó là lý do khiến càng ngày càng có thêm nhiều người biết đến cụ và hết lòng kính ngưỡng cụ, hết lòng tôn vinh tinh thần Edith Macefield.

 

Việc phải tới, đã tới

Việc phải tới, đã tới

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2014-05-05

035_20140329_43319-600.jpg

Ông Wang Yilin, Chủ tịch Tổng công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC), tại cuộc họp báo Thông báo kết quả hàng năm của CNOOC tại Trung Quốc hôm 28/3/2014

AFP photo

Theo Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết, Cục Hải sự Trung Quốc đã ra thông báo giàn khoan có tên Hải Dương 981 (HD-981) sẽ tiến hành khoan và tác nghiệp tại vị trí nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam bắt đầu từ ngày 02/5 đến 15/8 chỉ cách đảo Lý Sơn 119 hải lý.

Như thường lệ, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng chống lại hành động này của Trung Quốc nhưng hết sức kiềm chế trong ngôn ngữ ngoại giao. Việc Trung Quốc ngang nhiên  đặt một giàn khoan khổng lồ tại vùng biến của nước khác chỉ có thể diễn tả bằng cụm từ “xâm lược chủ quyền” chứ không còn cách nào khác lột tả thực trạng hành vi xâm lấn công khai, thách thức dư luận quốc tế bằng cung cách như họ đang làm.

Chủ quyền bị xâm phạm vì quá nhu nhược?

Đây là lần đầu tiên Trung Quốc ngang nhiên kéo một giàn khoan khổng lồ vào vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam chứ không còn là lời thăm dò hay dọa dẫm.

Ông Lê Quang Bình Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc Hội nhận xét việc làm này của Trung Quốc:

Trước mắt tất cả cũng đã cố gắng bằng cách đơn giản nhất và nếu mà thành công thì hai bên vẫn hòa hoãn với nhau tức là tình cảm không bị mất. Nói chung chỉ có thể nói được như vậy còn vấn đề tiếp theo nữa chưa hẳn là mình không có đối sách. Đối sách này phải thông qua Quốc hội thì mới có thể lên tiếng được.

Chính phủ hai bên vẫn tốt không có vần đề gì nhưng mà trường hợp như vậy gọi là ngang ngược thì có nhưng căng thẳng thì chưa đến mức gọi là dùng biện pháp căng thẳng với nhau. Ngoài Việt Nam ra còn cộng đồng quốc tế nữa chứ không phải chỉ có Việt Nam thôi.

Tôi không muốn chúng ta phải tỏ ra một cách cực đoan về vấn đề Trung Quốc nhưng phải làm sao cho Trung Quốc thấy rằng không thể trong quan hệ với Việt Nam mà hôm nay nói thế này mai lại làm thế khác được.
– TS Vũ Cao Phan

TS Vũ Cao Phan, Phó chủ tịch hội Hữu nghị VN-TQ, nguyên cán bộ giảng dạy Học viện Quân sự Cấp cao thuộc Học viện Quốc phòng, Bộ Quốc phòng nêu ra những điều khiến Trung Quốc ngày càng xem thường Việt Nam dẫn tới kết quả của ngày hôm nay:

Quan hệ của Việt Nam Trung Quốc lâu rồi luôn luôn có trạng thái không bình thường. Có thể thấy hôm nay một đoàn cấp cao của Trung Quốc ký được một thông báo chung về quan hệ giữa hai nước với những điều khoản, thông báo mang cho người ta hy vọng, nhưng ngay chỉ ít lâu sau thì lại có những hành động phủ định việc đó. Quan hệ Việt Trung vần đề lớn nhất hiện nay là cách ứng xử của Việt Nam như thế nào để Trung Quốc có thể tôn trọng Việt Nam. Quan hệ Việt Nam Trung Quốc có thể tốt nhưng phải trên cơ sở bình đẳng. Tôi từng viết có một câu ngạn ngữ: “Đành để người ta ghét, chớ để người ta khinh”.

Tại sao Trung Quốc có hành động như thế? Thì họ có ý đồ của họ nhưng cũng xuất phát từ cách hành xử của chúng ta. Chúng ta ứng xử mà không để cho người ta phải nể trọng, cách ứng xử của chúng ta không đến nơi. Tôi không muốn chúng ta phải tỏ ra một cách cực đoan về vấn đề Trung Quốc nhưng phải làm sao cho Trung Quốc thấy rằng không thể trong quan hệ với Việt Nam mà hôm nay nói thế này mai lại làm thế khác được.

Đường lưỡi bò không còn là văn bản

Hải Dương 981 là một dàn khoan khổng lồ thuộc sở hữu của Tổng công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC)  Ngày 23 tháng 6 năm 2012, Tổng công ty CNOOC công bố mời thầu quốc tế với chín lô dầu khí chiếm diện tích hơn 160.000 km2, nằm sâu trên thềm lục địa của Việt Nam.  Lý do mà Trung Quốc ngang nhiên xâm phạm vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam vì Bắc Kinh cho rằng vùng biển mà Việt Nam khai thác dầu nằm trong đường chín đoạn của Trung Quốc.

Đường chín đoạn còn gọi là đường lưỡi bò bao trọn bốn nhóm quần đảo, bãi ngầm lớn trên biển Đông là quần đảo Hoàng Sa, Quần đảo Trường Sa, quần đảo Đông Sa và bãi Macclesfield với khoảng gần 80% đè lên diện tích hợp pháp đặc quyền kinh tế của các nước Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, và Indonesia.

Cho đến thời điểm này câu trả lời về sự ngang ngược ấy đã rất rõ ràng: Trung Quốc quyết tâm cướp đoạt tài nguyên dầu hỏa của tất cả các nước bất kể luật pháp quốc tế và dư luận ASEAN.

Theo công bố của Bộ Ngoại giao thì giàn khoan HD981 đã được Trung Quốc mang vào vùng biển Việt Nam vào ngày 2 tháng 5 nhưng trong tư cách một Tổng Bí thư, ông Nguyễn Phú Trọng vẫn không có một phản ứng nào. Nói về việc này ông Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Vụ Nghiên Cứu, Ban Dân vận Trung ương, hiện là giám đốc Trung tâm nghiên cứu Văn hoá Minh Triết đặt câu hỏi:

Anh Nguyễn Phú Trọng là Tổng Bí thư, ngày mùng 3 tháng 5 đi tiếp xúc cử tri để chuẩn bị ra họp Quốc hội không hề có một nửa tiếng, nửa lời. Tôi hỏi anh trong tư cách một Tổng Bi thư của đảng cầm quyền mà như vậy thì là thế nào? Và tư cách của anh là một lãnh đạo cao nhất của đất nước hiện nay thì như thế nào? Tôi rất bất bình và thấy xấu hổ, nhục nhã khi một người lãnh đạo trước một sự kiện lớn của dân tộc lại không hề có một nửa ý kiến. Như thế tấm lòng của anh với dân, với đất nước là thế nào, anh sợ cái gì và tại sao anh không dám lên tiếng để phát động sức mạnh của nhân dân bảo vệ đất nước?

Tôi xin nói rõ là 4 triệu đảng viên không đủ sức để bảo vệ dân tộc đâu mà phải toàn dân. Anh không dựa vào dân, anh không phát động dân anh không nói rõ chính kiến của mình đối với dân thì dân sẽ nghi ngờ anh có làm tay sai cho họ không? Anh có ngậm miệng trong việc họ cho anh cái gì không mà anh lại im lặng?

Kiện Trung Quốc, tại sao không?

Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc cho biết quan điểm của ông về cách đối phó, trong đó kể cả khả năng đưa Trung Quốc ra tòa:

Tôi cho rằng chính phủ Việt Nam phải phản đối quyết liệt và các tài liệu của chúng ta phải đưa ra quốc tế để cho thế giới người ta thấy rõ là Trung Quốc sai trái vì có những hành động bất hợp pháp nhưng tôi tiếc là chính phủ ta không làm được những việc như thế mà cứ im lặng. Tất nhiên im lặng thì Trung Quốc nó càng lấn tới. Ta không chủ động hành động quân sự nhưng mà phải kiện ra tòa án quốc tế. Mình không chủ động dùng quân sự chống lại họ ngay trừ khi họ dùng quân sự đánh mình thì mình đánh trả thôi.

Tôi rất bất bình và thấy xấu hổ, nhục nhã khi một người lãnh đạo trước một sự kiện lớn của dân tộc lại không hề có một nửa ý kiến.
– Ông Nguyễn Khắc Mai

Vối ý kiến cần triển khai cảnh sát biển cô lập giàn khoan này không cho hoạt động, đại tá Phạm Xuân Phương từng công tác trong Cục Chính trị trước khi nghỉ hưu cho biết:

Tôi nghĩ chuyện này phải phản đối ở mức cao hơn nữa ở mức chính phủ chứ không phải ở Bộ Ngoại giao nữa. Phải nâng mức phản đối lên. Đem cảnh sát biển ra thì cũng là một lực lượng vũ trang tuy phạm vi nó hẹp hơn nhưng chưa chắc giải quyết được vấn đề gì mà không khéo thì lại rơi vào cái bẫy của họ.

Thật ra Trung Quốc từng ra thông báo chuẩn bị triển khai giàn khoan Dầu khí Hải dương 981 đến giếng dầu Lệ Loan 6 – 1 – 1 là khu vực nằm trong lòng chảo Châu Giang, cách Hồng Kông khoảng 300 km, gần sát đảo Hải Nam và tương đối gần Philippines.

Cơ hội lớn cho Việt Nam

Tại sao dàn khoan này không kéo tới bãi cạn Scarborough của Philippines mà lại đảo chiều tới Việt Nam là một câu hỏi không mấy khó để đoán ra.

Bãi cạn Scarborough của Philippines cũng nằm trong vùng biển mà đường chín đoạn đã vẽ cách bờ biển Philippines 124 hải lý và hoàn toàn thuộc vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của nước này. Việc Philippines mang Trung Quốc ra tòa quốc tế cùng với sự khẳng định bảo vệ đồng minh của Hoa Kỳ nhất là chuyến viếng thăm mới nhất của Tổng thống Barack Obama có lẽ làm Trung Quốc cảm thấy khó gặm khúc xương này và quyết định đổi hướng kéo dàn khoan HD981 vào sâu trong vùng biền của Việt Nam.

Tôi nghĩ chuyện này phải phản đối ở mức cao hơn nữa ở mức chính phủ chứ không phải ở Bộ Ngoại giao nữa. Phải nâng mức phản đối lên.
– Cựu đại tá Phạm Xuân Phương

Ông Nguyễn Khắc Mai chủ trương nên vận động kiều bào khắp thế giới lên tiếng tố cáo hành vi này của Trung Quốc là cách hay nhất trong lúc này:

Chính phủ phải chỉ đạo cho tất cả các sứ quán của chúng ta ở tất cả các nước họp kiều bào của mình nói rõ và phát động họ để họ có những hoạt động hợp pháp, có văn hóa có đạo lý phản ứng thái độ ngang ngược kẻ cướp của Trung Quốc. Chính phủ và đảng cầm quyển này phải có rất nhiều hoạt động nghiêm túc, thông minh thật sự dựa vào nhân dân, dựa vào dư luận quốc tế để phản ứng thái độ này của Trung Quốc.

Cho dù bằng cách nào đi nữa thì Trung Quốc cũng đã bước chân vào căn nhà Việt Nam và đặt con dao trên bàn tiếp khách. Cách nói chuyện làm sao để cho kẻ mạnh đừng vung dao vấy máu là điều khôn khéo của chính phủ. Tuy nhiên cái gọi là khôn khéo bằng cách hạ mình đã tỏ ra phá sản vì việc hạ mình đã dẫn tới kết quả của ngày hôm nay.

Chần chừ và tự ru ngủ trước mánh khóe của Trung Quốc nhưng vẫn cho là khôn khéo, thông minh là sai lầm to lớn của lãnh đạo và có lẽ đây chính là dịp tốt để họ thức tỉnh và quay lại với sức mạnh của nhân dân.

“Đêm qua say tiếng đàn,”

“Đêm qua say tiếng đàn,”

Đôi chim uyên đến giường
Chim báo tin Xuân đã về trong giấc mộng.

(Phạm Duy – Đêm Xuân)

(Mt 19: 4-7)

Trần Ngọc Mười Hai

Thú thật với bạn và với tôi rằng, khi nghe xong bài “Đêm Xuân” của Phạm Duy, bần đạo bầy tôi đây không biết là mình có nghe nhầm/nghe lẫn gì không nữa. Thường vào đêm xuân, ta và người chỉ mê say tiếng pháo hay tiếng nhộn nhạo từ buổi nhậu nhẹt có bia/có rượu, chứ ai lại say tiếng hát hoặc “tiếng đôi chim đến giường” đầy tính lãng mạn như lời dẫn nhập của chàng trai họ Trần trong đêm nhạc “Hát Cho Nhau Nghe” hôm 18/3/14 về bài hát này do Phạm Duy tặng người vợ mới cưới của ông là ca sĩ Thái-Hằng.

Thôi thì, say gì thì say, nay ta thử nghe câu tiếp xem người nghệ sĩ có say gì nữa không:

“Em yêu câu hát buồn,

Lả lướt trong màn trăng,

Yêu trời thanh vắng,

Đón đưa em tới chàng.

Hồn em chùng đêm tối,

Tình em còn chơi vơi,

Lòng em chưa tàn,

Xin đừng nhạt phai.

Đừng nhạt phai.”

(Phạm Duy – bđd)

Vâng. Có thể, là con dân nhà Đạo hiện cũng đang mơ màng khi nghe tin tức có liên quan đến là hồi hộp, như sau:

“Ngày 2 tháng Giêng năm 2014 vừa qua, tờ báo mang tên “Journal” đã mô-tả khá nhiều điều như thể bảo: Đức Giáo Hoàng Phanxicô là một trong các đấng bậc nhà Đạo cũng nên thử xét xem năm 2014 này, ra sao: “Trải qua nhiều tháng ngày sống đời bình thường, dân con đạo mình hy vọng là đấng bậc quyền-lực tít trên cao sẽ có lập trường nhẹ nhàng/uyển chuyển khác hẳn khi giáo hội bàn về các sự việc như: đồng tính luyến ái, ly dị/ly thân, môi-trường sinh thái, và chuyện ràng buộc sống với người nghèo, Giáo Chủ nhà mình không biết rồi ra có cải-tổ được guồng máy cồng-kềnh là Vaticăng nữa không đây, chí ít là chỉnh-đốn vai-trò của nữ-giới trong Giáo hội.

Theo tôi, sau khi duyệt-xét các kỳ vọng không mang tính quyết định, xem ra có tất cả bốn ngộ nhận/sai sót nơi khẳng định trên và thêm một lỗi lầm nữa khi nói về “vai trò” của Giáo hội. Bởi, thật cũng khó cho những ai cứ nhìn vào giáo hội qua lăng-kính chính-trị để hiểu được những chuyện đại loại như thế. Thật ra, vai trò của Đức Giáo Hoàng lại không giống như tư-thế của các vị thủ tướng hoặc nguyên-thủ quốc-gia ở ngoài đời. Nói thế tức bảo rằng: thật ra, thay đổi hành chánh/lãnh đạo với giáo hội không có nghĩa là sẽ có đổi- thay lập-trường/quan-điểm của toàn-khối Công-giáo.

Theo tầm-nhìn của Giáo-hội, thì Tín Lý/tín điều không là “quan điểm” của bất cứ ai, nhưng lại là những hiểu biết đã ổn-định về sự thật của nhiều sự việc” (xem George Weigel, what popes can and can’t do, The Catholic Weekly 19/1/2014, tr. 8).

Rõ ràng là như thế. Như thế, tức: bà con trong Đạo mình chớ nên hy-vọng vào sự đổi thay về chính kiến của con dân trong Đạo về nhiều thứ. Có những thứ/những chuyện mà người nhà Đạo sống ở trong đời, thấy cũng hơi khang khác. Hơi khác như câu hát tiếp:

“Chưa quen nhau lúc đầu,
Em nghe theo tiếng sầu,
ôi khúc ca nuôi mối tình muôn sắc màu.
Em phôi pha tháng ngày,
Vì lúc trăng về đây,
Vắng đàn đêm ấy,
Đã ru trái tim này .

(Phạm Duy – bđd)

Thế đấy. Vốn dĩ “chưa quen nhau phút đầu”, mà sao em cứ “nghe theo tiếng sầu” để rồi sẽ  “phôi pha (bao) tháng ngày”, và nay đã “ru trái tim này”. Trái tim này, em có ru hay có “cho” nhiều cho lắm cũng sẽ thấy đời mình lại cứ mang tên họ của chàng trai khi xưa mang tên họ là“Vũ Như Cẩn”, tức “vẫn như cũ, rất như xưa. Như xưa hay như cũ, cũng là những thứ khá cũ, à rất ư là “ủ rũ” đến phát buồn! Thế nhưng, có nhiều thứ/nhiều sự vẫn không buồn như khẳng định về câu chuyện mà bần đạo vừa bắt gặp ở mạng thông tin có tên là MercatoNet có câu chuyện liên-quan đến đề-tài yêu đương và đương yêu rất cũ/mới, như sau:

“Trong sống đời thường nhật có thương và có yêu, bao giờ cũng thấy có kẻ trước/người sau cứ lục tục đi là đi. Kẻ đi bước trước, là đàn anh/đàn chị kinh nghiệm bao giờ cũng hơn, và giới trẻ cứ lẽo-đẽo theo sau, vẫn muốn hỏi kinh-nghiệm về yêu và thương nhưng cứ ngại, chí ít là chuyện hôn-nhân gia-đình. Thế nhưng, đọc tiếp những giòng bên dưới, hẳn bạn và tôi, ta sẽ thay-đổi ý-kiến, cũng rất lẹ. Mau và lẹ, là bởi mới đây có tác-giả tên là Gerald Rogers mới vừa hoàn-tất thủ-tục ly-dị xong, đã để lại cho thế-hệ trẻ những 20 điểm then-chốt nhằm duy-trì tình-yêu cũng rất ư là son trẻ của họ.

Dưới đây là những điểm mà tôi thấy rất có lợi, xin ghi lại để tuỳ bạn bè nào thích thì cứ việc giữ lấy cho mình…”

Xin cắt ngang giòng chảy của bạn Tây/Tàu vừa đưa ra bằng một giòng nhạc tuyệt cú rất ăn khớp mà nghệ sĩ nhà mình lại vẫn hát:

“Hồn em tìm nương náu,

Tình em chờ thương đau,

Lòng em chưa tàn,

Xin đừng phụ nhau.

Xin đừng phụ nhau.”

(Phạm Duy – bđd)

Vâng. “Xin đừng phụ nhau”, là đôi điều chính-yếu về tình-yêu hôn-nhân rút từ ý-kiến của tác giả Gerald Rogers là:

“Chớ bao giờ ngưng tán tỉnh vợ mình và cũng đừng ngại hẹn hò. Cũng đừng lười biếng khi thương yêu.

-Hãy bảo vệ con tim của mình. Bởi, có một chỗ đặc-biệt trong tâm-can bạn mà không ai được phép chễm-chệ ngồi vào đó, ngoại trừ vợ của mình.

-Phải luôn luôn thấy nơi vợ mình những điểm son tuyệt-vời. Hãy tập-trung vào những gì khiến mình âu yếm, yêu thích vợ mình nhất. Bởi, điều đó sẽ còn trải rộng ra nhiều hơn nữa. Nếu bạn chú ý vào những gì khiến mình ưu-tư, phiền-muộn, thì những điều bạn nhận ra lại sẽ là lý-do khiến bạn cay-đắng/muộn-phiền, rất không vui. Còn, nếu bạn chỉ chú tâm vào những gì mình ưa thích, thì chính bạn sẽ chỉ ưa-thích mỗi tình-yêu thôi.

-Đừng khùng điên/dại khờ mà tự hành-hạ mình một cách quá ư là nghiêm-khắc. Hãy cười thật nhiều và làm mọi cách để người mình yêu cũng cười thành tiếng, giống như mình. Bông đùa/cười vui, sẽ khiến mọi việc trở nên nhẹ nhõm, dễ chịu hơn.

-Hãy sống thực. Tức, luôn tặng ban cho người mình từng yêu-dấu không chỉ mỗi thời-gian mình sống mà thôi, nhưng tất cả bận-tâm, ưu-ái và tâm-hồn mình nữa. Hãy đối xử với người mình từng âu-yếm như một khách hàng quí-giá hơn ai hết. Bởi, vợ là người lúc nào cũng phải hạng nhất hết.

-Hãy sống như một người dễ bị tổn thương và không cần chứng-tỏ rằng cả hai người lúc nào cũng như thế. Hãy sẵn sàng chia sẻ mọi cảm xúc, cả nỗi sợ rất khó trị và chấp-nhận rằng mình sai trái cũng rất nhiều.

-Phải sống trong sáng, thật tình mới được. Nếu bạn muốn người phối-ngẫu hoàn toàn tin-tưởng bạn thì bạn cũng phải có quyết tâm sẻ-san hết mọi chuyện với người ấy mới đúng. Phải can đảm chứng-tỏ mình yêu thật sự và trọn vẹn. Như vậy, mới có thể mở rộng tâm can mình; và đổi lại, người phối ngẫu mới tin-tưởng và thương yêu mình được.

-Đừng bao giờ ngưng lại, khi hai người đã cùng nhau quyết định hướng về phía trước để đạt thành tựu. Hãy tìm ra mục-tiêu nào mà cả hai đều muốn nhắm tới. Có thể, đó là mộng ước cùng có ý hướng phát-triển, cùng ngành-nghề giống như nhau…

-Đừng chậm-trễ thứ tha cho nhau và hướng tầm nhìn của cả hai người vào tương-lai mai ngày, hơn là cứ cân đong đo đếm những chuyện thuộc về quá khứ, rất qua mau.

-Hãy luôn chọn thương-yêu nhau. Nếu đây là nguyên-tắc dẫn-dắt đôi lứa, thì chẳng có gì phải lo sợ rằng hạnh-phúc hôn-nhân sẽ bị đe doạ.

-Cuối cùng thì, sống đời hôn-nhân vợ chồng không có nghĩa là: rồi ra ta sẽ đạt hạnh phúc, mà đó là chuyện hợp-tác đôi bên đều có lợi. Là, quyết-tâm cùng tiến-tới và là ý chí quyết đầu-tư vào việc kiến-tạo điều gì đó, khả dĩ kéo dài mãi thiên-thu. Có như thế hạnh-phúc lứa đôi chắc chắn phải có và sẽ có.

Để kết luận, này hỡi bạn hiền độc-giả của tôi, hãy tỏ-bày ý phản-hồi của riêng mình trước lời khuyên rất bài-bản như thế” (xem Tamara Rajakariar, Marriage advice from a divorcee, MercatorNet 11/4/2014).

Thế đấy, là kinh nghiệm của một người vừa hoàn-tất thủ tục ly dị xong, nay đã kịp để lại đôi lời khuyên khá kỹ càng. Khuyên thế rồi, người-khuyên bảo lại sẽ kêu-mời người đọc hoặc người nghe cứ tỏ bày ý kiến riêng tư về lời khuyên ấy. Bần đạo đây, chẳng có ý-kiến phản-hồi gì cho nên nỗi, bèn mời bạn và mời tôi, ta cứ thế mà trích dẫn các câu nói phản hồi của bạn đọc khá rành rẽ.

Trước hết là ý kiến của một người khách qua đường có tên là Al Brennan, nghe cũng lạ:

“Dĩ nhiên là chính sách nào, lời khuyên ra sao, cũng đều là lời khôn-ngoan và có thật, dù chuyện khuyên răn vẫn là chuyện bình thường ở huyện, nghe rất quen. Dĩ nhiên, vấn-đề còn lại vẫn là: sau khi đã nghe theo lời khuyên ấy, người thường ở đời đem áp-dụng vào cuộc sống của mình, mới thấy kết quả chả có gì hữu-ích, hết. Nhất thứ là khi, một bên hoặc vợ hoặc chồng lại nhất quyết đâm đơn ly dị cho bằng được. Hai nữa, là: trọng-tâm của vấn đề, dù mình có làm gì thêm hoặc có đối-xử tử-tế thế nào đi nữa, thì việc ấy cũng không lay chuyển hoặc bãi bỏ được tham-vọng hoặc mộng-ước của đôi bên khi đã nhất-quyết thi-hành thủ-tục “chia tay”. Riêng tôi chẳng nghi ngờ gì việc cả hai người đã đưa nhau vào buổi cử-hành lễ cưới có thề-nguyền đủ cả rồi sau đó,chẳng ai chịu ai thì có ràng buộc nào đi nữa cũng chẳng thể bắt buộc họ thực-hiện lời-thề như thế. Thật ra, cũng có rất nhiều lý do mang tính “rất bề ngoài” đã tìm cách giựt giây khiến đôi bên phối ngẫu lại cứ thấy thời-gian sẽ về phe với mình, ngõ hầu mình có thể thực hiện ý-đồ của mình, thật đúng lúc. Tôi nghĩ: đôi lúc chuyện thề-nguyền sống đời ở kiếp với nhau cũng giống như canh bạc theo tầm nhìn riêng-biệt của mỗi bên. Nói thế, chắc có người sẽ tìm cách đưa tôi  ra toà mà kiện tụng, vì sự thật không thế! Thôi thì, ai nghĩ gì mặc ai, tôi vẫn tôn trọng sự  lựa chọn của mỗi người”. (Trích ý-kiến phản-hồi của “Al Brennan, từ Úc).

Vâng ông bạn nói chí tình, chí lý và cũng chí khôn. Bởi, ông bạn hơi “ba phải” nên cuối cùng cũng chỉ huề vốn, đường ai nấy đi, hồn ai nấy giữ, có thế thôi. Có điều cần phải nói ngay ở đây, là: hai ý-kiến ở trên, một của người mới vừa trở về cuộc sống độc-thân và một của người mới vừa phản-hồi, cũng đều là nam-nhi chí trai cả. Thế còn, ý-kiến của giới phụ-nữ thì sao? Đến đây, lại xin giới-thiệu cùng bạn đang đọc hoặc đang nghe những giòng chảy này, ý kiến của nữ-lưu nọ có tên là Susan Reibel Moore, cũng từ Úc viết như sau:

“Cứ sự thường, tôi rất thích ý-tưởng của những vị dám có lời khuyên như trên, nên cứ tự nhủ mãi rằng: tại sao tác giả khuyên hay như thế mà vẫn cứ quyết-định ly dị như thường? Nghiên-cứu nhiều trường-hợp, bản thân tôi cũng thấy rằng: giống như trường-hợp của phân nửa của các cặp phối-ngẫu quyết chia tay, hay ly dị vì họ không tin vào chuyện ly dị chút nào hết, mà là: họ bị đâm bị chém bởi cuộc sống oái-oăm thôi. Tôi biết khá nhiều cặp lại rơi vào trường hợp này nhất. Với tư-cách là cá-thể, mọi người đều phụ-thuộc vào nhau, đấy chứ! Thật ra thì, nhiều người thường nói: tính vị-kỷ và thương-yêu hài-hoà vẫn phụ-thuộc nhau. Tôi, thì tôi không nghĩ như thế. Bẵng nhiều năm, tôi nhận ra rằng: phần đông người có lòng ích-kỷ thường muốn đi đến ly-dị nhiều hơn, đặc biệt là khi những người có tính ích-kỷ như thế lại hay khước-từ không chịu lắng-nghe hoặc làm theo lời khuyên-can của người khác khôn ngoan hơn họ.

Dĩ nhiên, điều dễ thấy trong đời của rất nhiều người, đặc-biệt là giới trẻ, là cứ cưới nhau theo cách không mấy khôn ngoan cho lắm. Và, dĩ nhiên trong các trường-hợp ly-dị ta thường thấy, có sự xung đột về giá trị. Vì, họ đã không khôn-ngoan cho lắm khi quyết-định đến hôn-nhân, trường hợp như thế, càng khó giải quyết hơn nữa. Tuy nhiên, bằng vào lý-do chính-đáng, thì những người có lòng đạo thuộc tôn-giáo khác nhau vẫn thuyết phục là đừng nên đi đến quyết định ly dị mới hay, mới tốt. Và, những người như thế lại hay nghiêng về phương-cách cố giúp cho hai vợ chồng được ở với nhau cho dài lâu ngõ hầu chứng tỏ rằng: hôn-nhân cho phải phép vẫn là điều hay điều tốt với mọi người”. (xem thêm MercatorNet 11/4/2014).

Quả y như rằng: đã là người có đạo rồi, thì bao giờ họ cũng làm mọi cách để những ai có quan-hệ bạn bè và họ hàng với mình, sống cho tốt/cho đẹp cả trong cuộc sống hôn-nhân, đôi lứa.

Với con dân nhà Đạo thì như thế. Như thế, tức: trong mọi tình huống có lẽ đạo và sự đời, thì lúc nào người đi Đạo cũng cố gắng suy-tư và suy-tính cho phải Đạo, đẹp đời. Còn người đời lại giống như người nghệ sĩ, cứ hát rằng:

“Hồn em tìm nương náu,

Tình em chờ thương đau,

Lòng em chưa tàn,

Xin đừng phụ nhau.

Xin đừng phụ nhau.”

(Phạm Duy – bđd)

Người đời hát về đời người, chí ít là cuộc đời có dính dấp đến phụ nữ, như thế cũng không tệ. Tệ hơn cả, là: những người không biết hát hoặc không hát được như thế, mới đáng sợ. Sợ hơn cả, là những người cứ nghĩ và suy về phụ nữ đáng sợ nhất phải kể là người từng chế ra các câu danh ngôn/tục ngữ rất thời đại, như sau:

“Không phải người đàn bà nào cũng đẹp, và không phải người đẹp nào cũng là đàn bà.

Không có người phụ nữ xấu, chỉ có người phụ nữ không biết mình rất xấu.

-Chỉ có hai giai đoạn duy nhất trong đời mà người đàn ông không hiểu gì cả về phụ nữ: trước khi cưới và sau khi cưới.

-Người nào khuyên ta đúng khi  ta sai là thầy ta,
người nào chửi  ta  sai  khi ta đúng….đích thị là vợ ta.

-Thà hun em một lần rồi ăn tát
Còn hơn cả đời nhìn thằng khác hun em

-Ga-lăng (gallant) là cử chỉ đẹp của người đàn ông trước những phụ nữ không phải là vợ mình.

-Hôn nhân luôn tặng bạn một đặc ân:
chỉ có ai có nó mới có thể ly dị được.

-Chết cho người phụ nữ mình yêu vẫn dễ hơn là phải sống chung với họ.

-Bia độc hơn rượu, bằng chứng trên thế giới chỉ có “mộ bia ” mà không có “mộ rượu”. (“Ranh ngôn” rút từ mạng vi-tính có những tư-tưởng đầy những…vi-trùng cũng đáng sợ).

Nói cho cùng kỳ lý về cuộc sống có dính líu đến phụ nữ, là phải nói đến ý-tưởng của bậc thánh hiền Đạo Chúa, vẫn khuyên rằng:

“Các ông không đọc thấy điều này sao:

“Thuở ban đầu,

Đấng Tạo Hoá đã làm ra con người có nam có nữ”,

và Người đã phán:

“Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình,

và cả hai sẽ thành một xương một thịt.”

Như vậy, họ không còn là hai,

nhưng chỉ là một xương một thịt.”

(Mt 19: 4-7)

Cuối cùng thì, hỡi bạn và tôi, ta cứ hiên ngang, vững vàng mà sống trọn vẹn cuộc đời mình, cả khi có ở vào hoàn-cảnh nào đi nữa, dù đã lập gia-đình hoặc chưa định, dù đã và đang sống với người khác phái, hay vẫn còn độc thân, hãy cứ thẳng thắn sống đúng quan-niệm và theo đúng chỉ-dẫn của bậc lành-thánh mà yêu thương và tha thứ hết mọi người nam cũng như người nữ. Chí ít, là người phối-ngẫu của mình, ở trong Đạo hay ngoài đời, rất khôn nguôi.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ mong và cứ ước

Được sống mãi như thế,

Đến hết đời

“Em hãy làm duyên, Em cứ y nguyên,”

“Em hãy làm duyên, Em cứ y nguyên,”

Đàn rơ tơ riết cả lòng đam mê,”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Ga 10: 1-10

Làm duyên hay không em cứ thế. Vẫn cứ “đàn rơ tơ riết cả cõi lòng. Nhà Đạo chẳng làm thơ hay làm nhạc để lòng mình say mê tình tiết rất người đời. Nhưng, nếu có say mê vẫn chỉ mê say Tình Chúa diễn tả ở trình thuật rất âm nhạc.

Tôi có một người bạn. Anh rất say mê nhạc cổ điển. Và, kiến thức của anh về địa hạt này, quả là rất rộng. Chỉ cần nghe qua vài trường canh đầu của bản nhạc tấu, là anh biết ngay đó là bản gì. Là, “tấu khúc viết cho dương cầm cung La trưởng của Mozart”, hay “Lễ hội Mùa Xuân của Stravinsky”, không khó.

Ngoài cái tài vặt ấy, anh còn có thêm một kỹ năng này nữa: hễ nghe giọng ca sĩ nào vừa cất tiếng hát là anh có thể nói ngay tên người ca sĩ ấy. Nghe giọng kim nữ thánh thót, bạn tôi bảo đó là Mariah Callas, Te Kanawa hoặc Joan Sutherland, vv… dễ như cơm bữa. Trong 3 giọng nam cao vút nổi tiếng thế giới, anh dư biết ai thuộc hàng đỉnh cao chót vót với nốt DO. Và một điều thần sầu khác nữa, ấy là: nhận xét của anh lúc nào cũng đúng.

Có một điều, khiến tôi thán phục nhất về tài trí này, là: anh nhớ rất kỹ âm sắc của từng giọng. Không chỉ các ca sĩ lừng danh trong làng nhạc cổ điển, mà cả những vị vẫn còn im ắng trong bóng tối, nữa. Điều đó cũng dễ hiểu. Bởi, anh từng nghe đi nghe lại, rất nhiều lần, các giọng hát ấy, bao năm trời.

Cũng thế, nhận ra giọng nói của Đức Kitô phải là người biết thực tập và gần gũi, ta mới nhận được tiếng của Ngài. Trong thế giới đời thường ta đang sống, có biết bao nhiêu là giọng nói/tiếng thét gầm la khiến ta chú ý đến một cách đặc biệt hơn. Giọng cao vút, mạnh mẽ và ngân dài, chưa hẳn là giọng hay, sang trọng và tốt. Đức Giê-su từng yêu cầu ta điều chỉnh phương cách để tai mà lắng nghe nhận biết tiếng/giọng của Ngài. Để rồi, dù chỉ một lần thoáng nghe tiếng Ngài hoà lẫn với tiếng ồn ào náo nhiệt, ta cũng có thể ngẩng đầu lên, xoay tầm nhìn và nhịp chân bước về hướng xuất phát tiếng Ngài mời gọi.

Hơn bao giờ hết, có nhiều giọng nói/tiếng hát rất ư dịu dàng êm ả, từng kéo ta ra khỏi tầm nhìn và phương hướng phát xuất tiếng/giọng của Phúc Âm Lời Chúa. Có người, thậm chí còn đến để nhỏ vào tai ta, mà nói: bạn không thể nào đạt được hạnh phúc, nếu chẳng chịu làm giàu. Hoặc, bạn chẳng thể nào có cuộc sống thú vị và mãn nguyện nếu không tìm kiếm dục tình, ăn ở lăng chạ với đủ mọi loại tình nhân. Hoặc, bạn không thể nào có được tự do trừ khi bạn từ chối đáp ứng lời mời gọi của một ai.

Ở nơi phố chợ đầy ắp những tình đời ấy, tiếng gọi của Đức Kitô vẫn tiếp tục kêu mời con dân Ngài thực hiện những điều Ngài vẫn nói, hơn hai thiên niên kỷ. Hạnh phúc chỉ đến mau, nếu ta biết sẻ san những gì mình đang có với người nghèo, cùng khổ. Sự sung mãn chỉ mau đạt, nếu ta vẫn một lòng thuỷ chung, tận tình yêu mến những người mà ta hiện có tương quan mật thiết. Tương quan rất thân thương, dịu hiền. Và nhất là, ta có chấp nhận từ bỏ tự do/ý thích của mình được không? Chấp nhận, để có thể phục vụ Nước Trời đầy sự công chính và bình an, nơi Ngài hiện diện.

Vấn đề không nằm ở chỗ: Đức Kitô cần la to hơn nữa, mới có người nghe. Mà là: vào những lúc quan trọng cần có quyết định chính đáng cho đời mình, thì ta lại “mũ ni che tai” bưng bít, chẳng nghe Ngài nói, chẳng thiết tha. Ta vẫn thường giả tảng, làm lơ như không nghe, không biết là có tiếng mời gọi từ đâu gửi đến. Phi trừ, giọng ấy, tiếng ấy đúng là những thứ ta trông ngóng, kỳ vọng, muốn nghe.

Tin Mừng thánh Luca hôm nay nhắc nhở ta một điều: cứ xử sự như thế, tức là ta đang chọn con đường đi vào cõi chết. Lời Chúa mời gọi, đem cho ta sự sống rất sung mãn, tràn đầy. Tuy nhiên, nhiều lúc ta vẫn cứ làm ngơ, quay về hướng khác.

Trong cuộc sống đời thường, ít nhất có hai thời điểm khiến ta nhanh chóng đáp ứng với thanh âm/tiếng nói rất ngọt ngào của người mình yêu dấu. Đó là: thời thơ ấu, hoặc khi đã về chiều. Ở thời thơ ấu, không gì có thể dỗ dành trẻ bé đang gào thét khóc ròng bằng tiếng của người mẹ hiền, những vỗ về dỗ ngọt. Bậc cao niên, một khi các cụ đã buồn rầu mất hướng rồi, thì các cụ chỉ có thể tìm lại sự vui sống khi nghe được giọng nói của người thân/kẻ mến, mà thôi.

Đây là những hình ảnh tuyệt vời rõ nét nhất để nghe được tiếng gọi của vị Mục Tử Nhân Hiền. Ở giây phút giã từ cuộc đời, cùng với tiếng ồn ào thế tục, bao giờ cũng có giọng dịu dàng nhè nhẹ của Đức Chúa, Đấng luôn ân cần ủi an khiến ta vững một niềm tin. Cũng chính vào tình thế “rất căng” ấy, ta sẽ làm được điều mình hằng mong ước suốt đời. Đó là: tiến bước về phía đã phát ra tiếng gọi của Ngài.

Đó mới là sự sống. Đó chính là cuộc đời tràn đầy sung mãn.

Đó còn là ý nghĩa của Nghe và Đáp lại lời Chúa mời gọi.

Trong tâm tình nghe và đáp lại lời Chúa mời gọi, lại cũng nên ngâm thêm lời thơ ý nhạc vẫn ca rằng:

Em hãy làm duyên, Em cứ y nguyên,

Đàn tơ tơ riết cả lòng đam mê,

In hình tuởng nhớ như tuồng ai ra,

Như tuồng lân la, đâu đây quyến luyến

Đố nàng gần xa.”

(Hàn Mặc Tử – Âm Nhạc)

Nhà thơ xem ra những đố nàng về Âm Nhạc? Làm sao đố được khi nàng và chàng chẳng thấy lòng đam mê, những tưởng nhớ. Hôm nay, nhà Đạo lại nhớ lời Chúa mời và gọi qua Âm nhạc, để người người sống đời sung mãn, đầy thơ nhạc suốt miên trường.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch.

30-4: Để tang, ăn mừng, hay cơ hội để hòa hợp hòa giải?

30-4: Để tang, ăn mừng, hay cơ hội để hòa hợp hòa giải?

Hoài Hương-VOA

02.05.2014

Ngày 30 tháng Tư là một dấu mốc lịch sử đối với người Việt Nam, cả ở trong lẫn ở ngoài nước. Tại Việt Nam, ngày này thường được đánh dấu với những lễ mừng chiến thắng, nhưng ở hải ngoại, các cộng đồng người Việt khắp nơi tụ tập để đánh dấu Ngày Quốc Hận, biến cố đau thương khi Sài Gòn sụp đổ đưa đến sự cáo chung của chính phủ Việt nam Cộng hòa. Năm nay, các lễ lạc ấy dường như đượm thêm một số sắc thái phức tạp hơn.

“Ngày một triệu người vui, một triệu người buồn”, theo lời cố Thủ Tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt, một tiếng nói lạc lõng đi trước thời đại, chủ trương cải cách hướng tới hòa hợp hòa giải. Năm nay, lại có thêm hai quan chức Việt Nam khác lên tiếng theo cách riêng của họ, tỏ thái độ hòa hoãn hơn nhân cơ hội ngày 30 tháng Tư.

Một bà mẹ và ba người con miền Nam Việt Nam chạy khỏi Việt Nam trên một chiếc tàu của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, 29/4/1975 (Ảnh tư liệu.)

Một bà mẹ và ba người con miền Nam Việt Nam chạy khỏi Việt Nam trên một chiếc tàu của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, 29/4/1975 (Ảnh tư liệu.)

Quan chức thứ nhất là Thứ Trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Thanh Sơn, cách đây vài ngày ông Sơn đã đưa ra những phát biểu tỏ ý muốn “xóa hố sâu thù hận” giữa hai bên, và lần đầu tiên nói tới những người bỏ nước ra đi là “những nạn nhân chiến tranh”, thay vì mô tả những người vượt biên vượt biển ra nước ngoài tỵ nạn cộng sản sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 là những kẻ phản động, đi theo đế quốc.

Mặc dù rất nhiều người không đồng ý với ông Nguyễn Thanh Sơn đã gán cho họ cái nhãn “nạn nhân chiến tranh” vì cho rằng họ không phải là nạn nhân bởi vì chiến tranh lúc đó đã chấm dứt, mà họ là những người tỵ nạn không thể, hoặc không muốn sống dưới chế độ cộng sản.

Quan chức thứ nhì là ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương Mại, người đã dẫn đầu cuộc thương thuyết để Việt Nam gia nhập WTO. Phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế mùa Xuân ở Hạ Long hôm 29 tháng Tư, ông Trương Đình Tuyển nói “Đã đến lúc nên thừa nhận xã hội dân sự. Bản chất của nhà nước là quan liêu, và để khắc phục quan liêu thì cần phát huy vai trò của xã hội dân sự.”

Trong một cuộc phỏng vấn dành cho VOA-Việt ngữ, Tiến sĩ kinh tế Phạm Chí Dũng nói phát biểu của ông Trương Đình Tuyển, mà báo chí Việt Nam cho là khá táo bạo vì đã đề cập tới xã hội dân sự, một đề tài lâu nay vẫn cấm kỵ, có liên hệ tới hiệp ước thương mại xuyên Thái bình dương TPP mà Việt Nam đang ráo riết thương thuyết với Hoa Kỳ và các đối tác khác để vực dậy nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn. Tiến sĩ Phạm Chí Dũng nói:

“Ngày hôm qua (29/04) tại Diễn đàn Kinh tế Mùa Xuân ở Hạ Long, chính ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Thương Mại Việt Nam, đã phải nói rằng vòng đàm phán TPP đang có vẻ như vẫn bế tắc. Khó khăn lớn nhất tại vòng đàm phán này chính là Việt Nam. Ông Tuyển cũng kêu gọi đã đến lúc thừa nhận xã hội dân sự. Xã hội dân sự là cái gì, chính là quyền đi lại, quyền được xuất cảnh tự do, được nhập cảnh tự do của các công dân. Nếu nhà nước Việt Nam chưa tôn trọng điều đó, thì làm sao có thể nghĩ tới một quy chế thị trường để có thể vào TPP được.”

Nhà báo Phạm Chí Dũng, người vừa được Tổ chức Ký Giả Không Biên giới vinh danh là một trong 100 “Anh Hùng Thông Tin” của thế giới, đã bị nhà nước tịch thu hộ chiếu, không cho sang Hoa Kỳ dự buổi điều trần tại Quốc hội về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam.

Lời bình luận của hai quan chức Việt Nam ngay trước ngày 30 tháng Tư tuy khác biệt về đối tượng nhắm tới- người Việt ở hải ngoại hay giới hoạt động dân chủ trong nước; về nội dung, cũng như về động cơ -chính trị hay kinh tế, nhiều người cho là những thông điệp đó có thể được coi là để bày tỏ thiện chí, muốn hàn gắn những chia rẽ sau thời chiến, và hòa giải với những người không đồng quan điểm với chính quyền, tham gia các tổ chức xã hội dân sự để đấu tranh cho các quyền tự do căn bản của công dân.

Điển hình như blogger Ngô Nhật Đăng, đang có mặt tại Washington trong cuộc quốc tế vận về tự do báo chí cho Việt Nam, anh chia sẻ trải nghiệm về ngày 30 tháng Tư:

Xe tăng quân đội miền Bắc Việt Nam tiến vào cổng Dinh Độc Lập, 30/4/1975 (Ảnh tư liệu.)

“Ngày 30 tháng Tư năm 75, khi đó chúng tôi mới 17 tuổi, ở Hà Nội sau một đêm rất là vui mừng vì đất nước được hòa bình, lúc đó chúng tôi cảm thấy nhẹ nhõm, chúng tôi không phải cầm súng bắn giết nhau và không phải bị chết nữa. Đó là cảm giác đầu tiên vào ngày 30 tháng Tư, cách đây đã 39 năm. Sau đó có một thời gian tôi đi làm, vào trong miền Nam có rất nhiều bạn bè, thậm chí những người anh rất thân là những người trong quân lực Việt nam Cộng hòa, qua đó tôi hiểu được rất nhiều.

Còn về vấn đề hòa hợp hòa giải thì ý kiến của tôi như thế này, là nhân dân không có thù hận, cho nên tôi không nghĩ tới việc hòa giải giữa nhân dân, giữa trong nước và nước ngoài. Sang đây tôi càng thấy rõ điều đó. Tôi gặp rất nhiều người, tình cờ gặp ở ngoài đường thì tất cả mọi người rất là gần gũi như là anh em. Chúng tôi đều đồng ý rằng là những người anh em chưa được gặp nhau vì những ngăn cản do nhà cầm quyền ngăn cản. Vấn đề hòa hợp hòa giải, cái gốc sâu xa của vấn đề là ai gây ra những mối hận thù, thì người đó phải đứng ra mà xin lỗi nhân dân, chứ còn nhân dân từ xưa và đến cả bây giờ đều không có chuyện thù hận lẫn nhau.”

Cũng có mặt trong phái đoàn đi vận động tự do báo chí tại Quốc hội Hoa Kỳ, nghệ sĩ Kim Chi trả lời câu hỏi của Ban Việt ngữ VOA:

“Bây giờ trong lòng tôi nó lạ lắm. 30 Tháng Tư thì tôi cũng thương nhớ đồng đội của tôi vô cùng, nhưng mà tôi cũng thương những người lính Việt nam Cộng hòa, và tôi nhận ra rằng cái cuộc chiến này người thắng người thua cũng đều đau, đều mất mát, đều đổ máu hết cho nên thật lòng mà nói thì tôi cảm thấy nó rưng rưng mà xót xa lắm chị à.”

Ttrong khi đó tại Việt Nam đã diễn ra một cuộc biểu tình vào đúng ngày 30 tháng Tư. Cuộc biểu tình đó do Phong trào Liên đới Dân Oan Tranh đấu tổ chức tại Sài Gòn đã bị công an thẳng tay đàn áp. Tin tải lên trang mạng của Danlambao.com cho biết đoàn biểu tình khởi hành từ công viên Lê Văn Tám đến hết đường Hai Bà Trưng thì một số người tham gia bị công an hành hung.

Cô Hồ Giang Mỹ Lệ, dân oan quận 4 Sài Gòn, là nạn nhân bị hành hung mạnh tay nhất, theo những hình ảnh và những chia sẻ của cô trên YouTube.

Nhưng một số người cho rằng ngày 30 tháng Tư có thể là một cơ hội để khởi sự tiến trình hòa hợp hòa giải, không những giữa những người dân thường ở cả ba miền Bắc Trung Nam, mà còn giữa những người đã cầm súng ở cả hai bên cuộc chiến. Ông Đỗ Hoàng Điềm, Chủ tịch Đảng Việt Tân, chia sẻ quan điểm của ông:

“Tôi tin là trong số hơn ba triệu đảng viên cộng sản cũng có rất nhiều người yêu nước, muốn nhìn thấy đất nước Việt Nam phát triển một cách vững mạnh, muốn nhìn thấy một xã hội công bằng hơn, một đất nước không có tham nhũng, một xã hội lành mạnh. Tôi nghĩ rằng cái ước mơ đó là ước mơ chung của tất cả mọi con dân Việt Nam, bất kể thuộc đảng phái nào. Và cũng nhân ngày 30 tháng Tư đánh dấu 39 năm, tôi nghĩ đây là cái khởi điểm để tất cả mọi người Việt chúng ta cố gắng đoàn kết lại với nhau, cố gắng làm sao để tranh đấu trong tinh thần ôn hòa để đem lại một sự thay đổi tốt đẹp cho đất nước.”

 

ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ

ĐÔI ĐIU SUY NGHĨ

LM Nguyễn Tầm Thường

Chúa đem con vào đời, nhưng mục đích chính yếu của cuộc sống lại là chờ đợi một chuyến đi.  Sân ga không phải là quê hương của con để con bám víu và xây đắp, nhưng chỉ là bến tạm để đợi chờ con tàu. Khi nào thì con tàu sẽ đến để đem con đi?  Khi nào con từ giã cuộc sống?  Con chẳng biết được thời giờ định mệnh này.  Thưa Chúa, có điều con muốn nói là trong khi chờ đợi, trong lúc nhìn thời gian tiến về điểm mốc trọng đại ấy, con luôn luôn cần hạnh phúc.

* * *

Con đã cảm nghiệm được nhiều thứ hạnh phúc.  Hạnh phúc khi nhận được tin vui.  Hạnh phúc đến từ một tâm hồn biết thông cảm.  Hạnh phúc đến từ sự thành công trong công ăn việc làm.  Nhưng, những hạnh phúc ấy vẫn chẳng làm con an lòng.  Con vẫn lo âu.  Những hạnh phúc ấy vẫn là bấp bênh.  Quá khứ minh chứng rằng nhiều lần con đã mất hạnh phúc ấy.

Vì những hạnh phúc ấy có thể mất nên cũng có những ngày tháng con sống không niềm vui, chung quanh con là sa mạc.  Mà đời người thì chẳng thể sống không niềm vui.  Nên con đi tìm niềm vui mới. Có khi con oán giận Chúa, bỏ đời sống đức tin để tìm bất cứ một an ủi nào đó.  Trong những giây phút ấy con thường tìm hạnh phúc trong tội lỗi.  Con không nhìn thấy những tàn phá của tội mà con chỉ thấy những hứa hẹn và bóng mát của tội mà thôi.  Thật sự con chẳng muốn bỏ Chúa bằng con đường chủ tâm sống trong tội.  Con vẫn biết con không thể sống thiếu Chúa, nhưng trong yếu đuối của đời mình, con đã thấy quyến rũ nơi tội mạnh hơn hạnh phúc do đời sống đức tin đem lại.

Hạnh phúc thật thì chỉ có một định nghĩa.  Nếu con đi tìm bất cứ hạnh phúc nào ngoài thứ hạnh phúc thật đó, con sẽ hoang mang và hụt hẫng.  Hạnh phúc thật đó chỉ có Chúa mới cho con được mà thôi. Chúa là nguyên ủy của tất cả, thì hạnh phúc cũng phải do Chúa là nguyên nhân.  Bởi đấy, khi con đi tìm niềm vui ngoài nguyên nhân tối thượng là Chúa, con sẽ gặp thất vọng

Khi con phạm tội, tội cũng cho con một chút “niềm vui”.  Nhưng tội làm con xa Chúa.  Niềm vui hay hạnh phúc là lúc trầm mình thưởng thức trong dòng nước chảy của dòng sông.  Mức độ và sắc thái khác nhau của hạnh phúc tùy thuộc vào nguồn gốc của dòng sông ấy.  Chúa là nguyên nhân của một thứ hạnh phúc.  Tội cũng sinh ra một dòng hoan lạc.  Nguyên nhân khác nhau thì hạnh phúc hay hoan lạc đến từ các nguyên nhân đó phải khác nhau.  Từ sự khác nhau ấy, con chọn lựa cho mình một dòng sông.  Dòng sông hạnh phúc của Chúa hay đôi bờ hoan lạc của tội.

Con là một tạo vật hữu hạn.  Thứ hạnh phúc của tội cũng là một sản phẩm hữu hạn, bởi vì chính con tạo nên nó.  Vì con tạo nên nó, do đấy, nó chẳng bao giờ thỏa mãn con được.  Hạnh phúc của con hệ tại bám vào hạnh phúc tự thể là Chúa.  Nên khi con mất cái tự hữu để ký sinh thì con chênh vênh và hao hụt ngay.

Tội làm con xa Chúa.  Chúa xa con không phải vì Chúa bực mình, ghen tức.  Dù con thánh thiện tới đâu đi nữa thì cũng chẳng vì thế mà sự trọn hảo của Chúa thêm trọn hảo hơn.  Dù con có cầu nguyện thiết tha đến đâu đi nữa thì chẳng vì thế mà Chúa được cao cả hơn.  Tự Chúa đã tràn đầy tất cả.  Chúa chẳng cần gì.  Nếu con cầu nguyện là con bám vào sự trọn hảo của Chúa để được thương ban mà thôi.

Tội là thái độ tự do để lựa chọn một đối tượng ngoài Chúa.  Khi phạm tội là con nghe theo một tiếng gọi khác, chấp nhận một đối tượng khác.  Khi con chấp nhận một đối tượng khác rồi thì lẽ dĩ nhiên là Chúa phải xa con.  Chúa không áp bức con bằng sức mạnh, bằng quyền năng, nhưng Chúa kính nể sự tự do của con.  Khi con phạm tội, khi con lựa chọn một đối tượng rồi thì Chúa muốn ở với con cũng không được vì con đã dành khoảng trống của lòng mình cho một chủ khác

Khi con kiếm tìm niềm vui nơi tội là con tạo nên cơn bão táp cho chính vườn rau của mình.  Càng để tội lỗi làm chủ con tim mình thì Chúa càng phải ở xa.  Mà Chúa càng xa thì hạnh phúc thật càng mù tăm, khuất bóng.  Lý tưởng cuộc đời con là kiếm tìm và quy về nguồn cõi hạnh phúc thật đó.  Do vậy, càng xa nguồn hạnh phúc thật thì con càng đánh mất ý nghĩa cuộc sống.  Mà không còn ý nghĩa thì cuộc sống trở nên man dại, tính toán, lo âu, giành giật, hận thù và chán chường.

Khi con phạm tội là con phá hủy hết tất cả tự do của con.  Cơn bão táp ấy xóa nhòa nhân phẩm của con.  Tội là điều xấu.  Con không muốn để người khác biết những điều xấu xa của con.  Từ đó, con có hai khuôn mặt.  Một khuôn mặt thật và một khuôn mặt để “show up”, trình diễn để tha nhân nhìn vào.  Khi con giấu kín khuôn mặt thật tội lỗi để phô bày khuôn mặt giả cao thượng là con xây dựng giá trị của mình trên sự lầm lẫn của tha nhân.  Con lừa dối kẻ đối diện.  Nếu con còn may mắn để nhìn thấy rằng mình có hai khuôn mặt mỗi khi xét mình thì con còn lương tri để biết rằng mình chỉ lừa gạt người chứ không lừa dối mình.  Nhưng ngày nào đó, con lẫn lộn giữa thực và hư.  Ngày nào đó, con người để trình diễn kia rợp bóng đến nỗi con chỉ thấy nó là chính mình và con tin nó là khuôn mặt thật của mình, con không còn thấy bóng khuôn mặt thật của con đâu nữa thì ngày đó con chẳng còn gì.  Con đã là nạn nhân của sự giả tạo.  Gian dối với tha nhân đã nên lừa đảo chính mình.

Khi tha nhân tưởng con là gương mẫu của đời mà con không là gương mẫu thì con sẽ lo âu cho cái ngưỡng mộ kia bị đổ vỡ nếu tha nhân nhận ra con người thật tội lỗi của con, cho nên con lại càng phải cất giấu con người đó kỹ hơn.  Bởi đấy, tội cướp mất tự do.  Sống trong tội, con phải sống trong hồi hộp, gian dối, lo âu.

Chẳng có người cha nào không mủi lòng khi thấy đứa con mình sắp xuống tắm trong dòng sông ngầu vẩn rác đục.  Vì kính trọng tự do Chúa đã ban cho con, nên Chúa biết con xa Chúa là đời con sẽ chán chường, Chúa cũng đau khổ, nhưng Chúa chẳng thể cưỡng bách con chọn Chúa được.  Mà thật sự con cũng không muốn mất tự do.  Hành vi chọn lựa là một thú vui chan chứa của tự do.  Không có tự do sẽ là gỗ đá.  Nếu con không phải là gỗ đá, nếu con có tự do, thì con phải biết lo âu biết bao về sự tự do của mình.

LM Nguyễn Tầm Thường

 

 

GIÀU LÒNG XÓT THƯƠNG

GIÀU LÒNG XÓT THƯƠNG

Lm. VĨNH SANG, DCCT

Tôi có một người quen, anh là giảng viên của một trường đại học công lập nổi tiếng ở thành phố này. Cách đây mấy ngày, anh hốt hoảng điện cho tôi xin cầu nguyện, đứa con trai đầu của anh mê man lên cơn co giật, cháu được đưa vào phòng cấp cứu nhưng tình hình rất xấu, các bác sĩ chẩn đoán cháu bị viêm não !

Vài giờ sau tôi liên lạc lại với anh, trong nỗi âu lo anh cho biết tình hình không sáng hơn, anh đang phải ngồi bóp bóng giúp cháu thở, nhà thương không còn máy trợ thở cho cháu dùng. Tôi đã có nhiều năm giúp các cha các thầy già đau yếu, tôi thấu hiểu nỗi khổ và mệt mỏi của người thân ngồi bóp bóng hàng giờ cho bệnh nhân.

Cách đây mấy năm, khi cha của anh biết anh cộng tác với tôi trong ngành chuyên môn của anh để giúp việc cho Nhà Thờ, ông mừng lắm vì ông mơ ước những điều thật tốt đẹp mà ông dành cho người con trai đầu lòng, ông bày tỏ ý định không muốn con mình bước vào thương trường, nhưng muốn con ông là một nhà giáo, anh chiều lòng cha tiếp tục sau đại học để theo đuổi điều cha muốn. Công trình anh làm với tôi, ông tham gia ý kiến một cách sôi nổi, thế rồi bất ngờ Chúa gọi ông đi sau một cơn tai biến mạch máu não. Ngôi nhà thật xinh, trong một con hẻm im ắng, có những giàn cây do ông chăm sóc, chỉ còn một mình bà, người góa phụ áo đen trong nỗi thương nhớ về chồng từng là một sĩ quan phi công lãng mạn một thời, một nghệ sĩ với những tác phẩm để lại chất chứa nhiều ý tưởng sâu lắng. Từ ngày đó bà âm thầm gắn bó với Nhà Thờ nhiều hơn.

Tôi cầu nguyện và dâng Lễ theo ý anh xin, tôi cầu cho gia đình anh được bình an, mọi sự theo thánh ý Chúa. Tôi đề nghị anh chị cầu nguyện với hai vị Thánh Giáo Hoàng vừa được tuyên phong, Đức Gioan 23 nhân hậu và Đức Gioan Phaolô 2 can đảm nhiệt thành, tôi cũng xin anh em trong Tu Viện cầu nguyện cho gia đình anh chị, đặc biệt cho cháu bé. Giữ lời hứa với anh, tôi nhớ đến cháu trong mỗi giờ kinh nguyện trong ngày của tôi.

Sáng qua, anh liên lạc với tôi, vui mừng báo tin: cháu bé đã qua cơn nguy kịch, cháu đã hồi sinh ! Mặc dầu vướng nhiều dây nhợ y khoa nên không nói được, nhưng cháu đã tỉnh, đã nhận biết mọi người, và bác sĩ đã đánh giá rất lạc quan. Chúng tôi cùng cất lời tạ ơn Chúa.

Niếm tin rất đơn giản, dù là ai, trí thức hay bình dân, chuyên gia hay người thợ, có một liên lạc nào đó với Thiên Chúa, cái liên lạc ấy nằm sâu trong tiềm thức, nó trổi dậy bất cứ lúc nào, từ bất cứ lý do nào, để mang con người lên một tầm cao tâm linh, một tầm nhìn xa hơn hẳn tầm nhìn thường ngày mà chạm đến một Thiên Chúa nhân từ yêu thương, một Thiên Chúa gần gũi nhân hậu, một Thiên Chúa rất đời thường ở ngay bên cạnh mỗi người chúng ta trong âm thầm, trong thinh lặng, nhưng không kém phần mãnh liệt. Khi ấy người ta đi tìm Chúa chứ không đi tìm điều gì khác, tìm một sự tựa nương cho dẫu có ý thức hay không.

Cũng sáng hôm qua, tôi đi thăm một người già quen biết, bà đau lâu ốm dài, bệnh tật nhiều năm làm bà sợ hãi đủ điều, một tiếng động mạnh, một người lạ cũng làm bà lo âu. Khi thăm bà, bà nói với tôi về một niềm tin và một lòng tạ ơn. Tuy bà không theo Công Giáo, nhưng hơn 40 năm trước, khi ông còn đang làm việc ở Huế, bà đã theo người ta chỉ dẫn ra đến Quảng Trị để cầu nguyện với Mẹ La Vang, trong ngôi Vương Cung Thánh Đường đã phải đổ nát do chiến tranh, bà thưa với Mẹ Maria về nỗi ước ao có một người con trai mà bà mong muốn lâu nay, và Mẹ đã ban cho bà, người con trai ấy bà đặt tên là Thiện, đứa con của Mẹ La Vang.

Sáng sớm nay, cha Quang Uy chia sẻ với tôi một thông tin, một đảng viên lão thành 82 tuổi, một nhà trí thức nổi tiếng, lúc cuối đời đã được tràn đầy ơn Chúa, cụ đã ra khỏi Đảng, nhận thức và tự do đón nhận ân huệ Chúa ban, cụ hiểu biết giáo lý về tình thương cách nào đó ngay từ thiếu thời khi được học trường Dòng ngoài Hà Nội. Và bây giờ cụ bày tỏ lòng tin và mong muốn được trở thành Kitô hữu. Kể từ ngày cụ nói với chúng tôi về ý định xin theo Chúa Giêsu, anh em tôi đã đến tận nhà thăm viếng chuyện trò với cụ và gia đình cụ, cầu nguyện với cụ và giúp cụ chuẩn bị mọi sự. Trong Nhà Nguyện Nhà Dòng, chúng tôi ghi lên bảng để mọi người cùng nhớ đến cụ, gia tăng cầu nguyện cho cụ cũng như biết bao nhiêu người thành tâm thiện chí đang khao khát tìm kiếm Chúa…

Thiên Chúa thật lạ lùng, giữa những sóng gió hiểm nguy, Thiên Chúa lại củng cố chúng tôi bằng muôn vàn ánh diệu quang. Một cái ngước nhìn của người cùng khốn hướng về Chúa, một ước mơ nhỏ bé của một người phụ nữ ngoại đạo dâng lên Chúa, một sự chọn lựa sau cả một đời dài tìm kiếm bỗng gặp Chúa giữa cơn lao xao cuối đời… Tất cả như đan thành một bài tụng ca về tình Chúa giàu lòng xót thương.

Như hai Môn Đệ trên đường về Emmau ( Lc 24, 13 – 35 ), được gặp gỡ Chúa Giêsu rồi, ngay trong đêm tối đang vây bủa cuộc đời, chúng tôi buông rơi tất cả mọi phiền muộn lo sợ, trỗi dậy, quay trở về Giêrusalem, cũng chính là quay trở về với sứ vụ Chúa Giêsu đã trao phó cho chúng tôi, sứ vụ loan báo cao rao về một Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót cho mọi người…

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

3.5.2014

 

 

Nghĩ về hòa giải sau cuộc chiến nhìn từ một nghĩa trang

Nghĩ về hòa giải sau cuộc chiến nhìn từ một nghĩa trang

J.B Nguyễn Hữu Vinh

Đã từ lâu, tôi muốn viết một điều gì đó về ngày kết thúc chiến Bắc – Nam.

Nhưng biết viết gì? Mọi cuộc chiến tranh đều là nỗi bất hạnh cho đất nước, dân tộc, ngay cả khi đó là cuộc chiến chính nghĩa. Do vậy, khi một cuộc chiến đi qua, người ta muốn quên đi thật nhanh những nỗi kinh hoàng của nó đã đem lại.

Thế nhưng, có những điều đã không qua đi.

Những ngày hào hứng của con trẻ

Những ngày này 39 năm trước là khi tôi ở vào lớp trẻ con 13-14 tuổi, cái tuổi luôn hướng cái tai và cặp mắt ra ngoài, tìm tòi, hóng hớt mọi thông tin để chứng tỏ mình đã là người lớn. Cái tuổi này là tuổi dễ dễ bị tuyên truyền mua chuộc và kích động. Đây cũng là lứa tuổi  rất sẵn sàng để gia nhập đội quân Hồng vệ binh sẵn sàng theo lệnh của Đảng đi giết người như ở Trung Quốc. Ở lứa tuổi đó, chúng tôi nô nức, hào hứng, thấp thỏm chờ những bản tin từ chiếc loa công cộng về những “chiến thắng ở “Miền Nam”. Báo chí thì hiếm nhưng những chiếc loa công cộng luôn sang sảng những bản tin “chiến thắng làm nức lòng” người dân miền Bắc.

Những bản tin liên tiếp từ thành phố nọ, đến tỉnh kia được “giải phóng” với tốc độ mà ngay cả tin tức truyền miệng cũng không đuổi kịp. “Nhịp bước thần tốc của quân giải phóng” đã nức lòng người dân miền Bắc vốn chỉ được ăn mỗi một món: Loa đài nhà nước và cán bộ tuyên truyền.

Với cái loa đó, đồng bào Miền Nam bao năm qua đã và đang phải rên xiết dưới ách thống trị của Đế Quốc Mỹ và Ngụy quyền Sài Gòn. Đồng bào Miền Nam đang đau khổ, đang kêu gọi chúng ta, những con người được may mắn có Đảng quang vinh lãnh đạo đang được sống dưới ở Thiên đường Xã Hội Chủ Nghĩa hãy “Tất cả vì miền Nam ruột thịt, vì Chủ nghĩa Xã hội, mỗi người làm việc bằng hai”, “Tất cả cho sản xuất, tất cả cho tiền tuyến” “Thề cứu lấy nước nhà, thà hy sinh đến cùng”…

Không nức lòng sao được, không phấn khởi sao được, bởi vì khi đó nhân dân Miền Nam được mô tả:

Có những ông già, nó khảo tra
Chẳng khai, nó chém giữa sân nhà
Có chị gần sinh không chịu nhục
Lấy vồ, nó đập, vọt thai ra”

Hay là:

“Có em nhỏ nghịch, ra xem giặc
Nó bắt vô vườn, trói gốc cau
Nó đốt, nó cười… em nhỏ hét
“Má ơi, nóng quá, cứu con mau”!
(Tố Hữu – Lá thư Bến Tre)

Và nay nhân dân Miền Nam đã được “giải phóng”. Vâng tất cả những chiếc loa, từ những chiếc loa đã tạo nên cho không chỉ lớp trẻ mà hầu hết mọi người dân Miền Bắc lúc bấy giờ một cảm giác rạo rực, phấn chấn, hồi hộp khi Miền Nam được “giải phóng” và nhân dân Miền Nam được thoát khỏi ách kìm kẹp của ngoại xâm. Họ cũng sẽ được hưởng niềm vui và hạnh phúc của Thiên đường XHCN, “Miền bắc thiên đường của các con tôi” – Tố Hữu.

Giải phóng!

Thế rồi, Miền Nam được “giải phóng”, nhân dân Miền Nam thoát “ách thống trị của Mỹ – Ngụy” để rơi vào ách thống trị của Đảng Cộng sản.

Với một số người, thì đây là lần thứ hai họ được người Cộng sản đến “giải phóng” và họ đã phải bỏ chạy. Lần thứ nhất là năm 1954 ở Miền Bắc. Khi Cộng sản tràn vào Miền Bắc, thì đã có hơn 1 triệu người di tản từ Bắc vào Nam.

Thế rồi, một cuộc bỏ phiếu bằng chân vĩ đại lần thứ hai đối với Cộng sản đã bắt đầu và càng ngày càng quyết liệt. Theo con số thống kê được của Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR) thì đã có gần một triệu người tham gia cuộc bỏ phiếu bằng chân này (Chính xác là 989.100 người). Con số chưa và không thể thống kê được đã phải bỏ quê hương chôn rau cắt rốn của mình đi tìm tự do, thì chắc sẽ rất lớn. Ngoài ra con số nạn nhân đã bỏ mình trên biển, bị chết khi tìm đến xứ sở tự do được ước tính khoảng nửa triệu người.

Những người ở lại thì sao?

Rất nhiều trong số họ đã được đi “tập trung học tập” dài hạn – một hình thức đi tù không cần án – cho đến ngày bỏ xác hoặc trở về trong đau thương, tủi nhục.

Rất nhiều trong số họ được nếm mùi của “chuyên chính vô sản” bằng những cuộc “Đánh tư sản mại bản” rồi “Cải tạo Công thương nghiệp tư bản tư doanh”… phút chốc cơ ngơi hàng bao đời bị cướp đoạt và cầm tù bởi họ chỉ có một tội lớn đối với Đảng là giàu có.

Rất nhiều trong số họ đã được sống cuộc đời của một “công dân hạng ba” kể từ đó. Những quân nhân, công chức của chế độ Việt Nam Cộng Hòa luôn sống trong mặc cảm rằng mình là tội nhân, những thương phế binh của một thời đã kiêu dũng ra cầm súng với lý tưởng sẵn sàng hi sinh cho đất nước, nay lầm lũi, tủi nhục kiếm ăn bằng mọi cách bên lề xã hội.

Kết quả là cả Miền Nam bạc nhược và mang tâm lý bại trận, tâm lý sợ hãi không chỉ trong các hoạt động tập thể mà ngay từ trong từng hơi thở, từng suy nghĩ của mỗi cá nhân. Và khi đó, được sống đã là “Ơn đảng, ơn chính phủ”. Để rồi, đến một lúc nào đó, nạn nhân lại quay về ca ngợi thủ phạm.

Nghĩa trang Chiến sĩ Quốc gia ở Gettysburg

Tôi đến Nghĩa trang Chiến sĩ Quốc gia Gettysburg, tiểu  bang Pennsylvania của Hoa Kỳ vào một buổi chiều hè không có nắng. Con đường dẫn vào đây, vẫn còn dựng lại cảnh tượng chiến sự thời nước Mỹ nội chiến với hàng rào gỗ đan chéo bên đường, Cuối con đường là những quả đồi rộng lớn với bạt ngàn các ngôi mộ thuộc khu đất rộng 17 mẫu Anh (gần 7ha).

Không khí lành lạnh và trong vắt, thỉnh thoảng một cơn gió nhẹ thoảng qua làm những cành cây lay động nhè nhẹ tạo cảm giác âm khí ở đây khá nặng nề. Những người bạn tôi cùng đi cho biết: Đây là nơi cuộc nội chiến diễn ra ác liệt khủng khiếp. Quân Liên minh miền Nam và quân Liên bang miền Bắc đã đánh nhau suốt 3 ngày từ ngày 1 đến ngày 3/7/1863. Chỉ trong 3 ngày, thương vong của cả hai bên là khoảng 46.000 đến 51.000 người. Trận này thường được xem là một bước ngoặt quan trọng hơn cả của cuộc nội chiến Nam – Bắc nước Mỹ.

Tôi đi giữa các hàng mộ, cũng như các ngôi mộ khác của nước Mỹ, những ngôi mộ ở đây không đắp hoặc xây nổi. Ở đây, các ngôi mộ chìm dưới đất và phía trên là tấm biển ghi tên tuổi và các thông tin liên quan người nằm dưới mộ.

Những ngôi mộ ở nghĩa trang này nằm san sát bên nhau thành hàng, thành lối ngay ngắn dưới những tán cây đại thụ hoặc những thảm cỏ xanh. Điều đặc biệt là ở đây, tất cả đều là những người đã hi sinh trong cuộc chiến mà không có bất cứ sự phân biệt nào bên ta, bên địch, bên chiến thắng hay bên bại trận.

Tôi cố tìm một hàng chữ nào đó, một biểu hiện nào đó khả dĩ có thể phân biệt được đâu là những ngôi mộ của bên bại trận hoặc bên thắng trận. Nhưng tuyệt nhiên không hề có. Người bạn cùng đi giải thích cho tôi rằng: Ở đây, tại nghĩa trang này không có khái niệm “Quân Ngụy” hay “Quân ta” mà tất cả là những người đã ngã xuống tại trận chiến này, Nước Mỹ tôn trọng họ như trong bài phát biểu của Tổng thống Lincoln khi cung hiến nghĩa trang này, rằng đây là “nơi yên nghỉ cuối cùng của những người đã hiến dâng mạng sống mình để Tổ quốc được sống”.

Câu chuyện của người bạn bên cạnh đã đưa tôi đi từ ngạc nhiên đến kính phục. Một nước Mỹ hùng mạnh, một nước Mỹ xứng đáng được cả thế giới nể sợ không phải chỉ là bom nguyên tử, là vũ khí hiện đại hay sự giàu có, mà bắt đầu từ những xử sự của con người đối với con người.

Người bạn tôi kể lại câu chuyện rằng: Phần kết của trận chiến ở đây là khi tin đầu hàng của tướng Lee lan ra, tiếng súng của binh sĩ Miền Bắc vang lên để reo mừng chiến thắng. Ngay lập tức tướng Grant ra lệnh: “Quân đội miền Nam đã đầu hàng. Chiến tranh đã chấm dứt. Họ là đồng bào của chúng ta, chúng ta không được phép reo mừng trên chiến bại của họ.” Và tiếng súng đã ngưng bặt.

Sau 4 năm nội chiến làm 620 ngàn người thiệt mạng và hàng triệu người bị thương, các đô thị ở miền Đông Bắc Hoa Kỳ bị tàn phá nặng nề. Theo điều kiện trong văn kiện đầu hàng, ngày 12/4 là ngày quân đội Miền Nam sẽ nộp súng ống và cờ xí cho quân đội Miền Bắc. Khi các binh sĩ Miền Nam đi theo đội ngũ tới địa điểm để giao súng ống và cờ xí, Đại tá Chamberlain đã ra lệnh binh sĩ của mình đứng nghiêm chào các chiến binh bại trận đang đi ngang qua để bày tỏ lòng kính trọng.

Viên tướng Gordon ghi lại: “Trong giây phút đó, không hề có một tiếng kèn hay tiếng trống, không một tiếng reo mừng, không một lời nói, không cả một tiếng thì thầm, không một cử động, nhưng là một sự tĩnh lặng khủng khiếp, mọi nhịp thở như ngừng lại và như thể họ đang nhìn những hồn tử sĩ đi qua”.

Đó là cách xử sự của người Mỹ thắng cuộc với người Mỹ thua cuộc.

Và Tổng thống Mỹ thời bấy giờ đã có bài diễn văn bất hủ kết thúc như sau: “Chính tại nơi đây, chúng ta quyết tâm để họ không chết vô nghĩa. Đất nước này, dưới tay Thiên Chúa sẽ có một nền tự do mới. Và một chính quyền của dân, do dân, vì dân sẽ không phải chết rục trên đất này”.

Nghĩ về hòa giải sau cuộc chiến

Đã hơn một thế kỷ sau cuộc nội chiến Bắc – Nam nước Mỹ, người Việt Nam chúng ta cũng đã kết thúc một cuộc chiến Nam – Bắc.

Tiếc rằng, ở đó có quá nhiều kẻ thù, quân “ngụy”. Ở đó chỉ có những màn reo mừng, cổ vũ, hò reo, pháo hoa để ăn mừng chiến thắng với cờ xí ngợp trời. Ở đó người ta vỗ ngực tự hào là đã đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, và “Từ nay vĩnh viễn không còn một tên xâm lược nào trên đất nước chúng ta” trong khi cả một quần đảo đang do nước ngoài “quản lý”.

Điều khác nhau là ở chỗ: Nếu như cách hơn 110 năm trước, những người lính Mỹ bại trận trong cuộc nội chiến được ưu tiên không thu ngựa chiến để đưa về quê nhà làm ăn, thì những người lính bại trận Việt Nam được đưa đi nuôi cơm bao năm sau đó trong nhà tù. Còn sau khi ra tù, họ, con cái họ hàng nhà họ vẫn còn bị hệ lụy đến tận bao đời sau.

Điều khác nhau là ở chỗ: Nếu nghĩa trang Chiến sĩ Quốc gia Gettysburg đã chôn tất cả những người lính như nhau không phân biệt, thì hơn 150 năm sau ở Việt Nam từ Bắc đến Nam đâu đâu cũng trắng những Nghĩa trang liệt sĩ quân đội Miền Bắc. Còn quân đội Việt Nam Cộng Hòa có một nghĩa trang Biên Hòa thì đã bị đưa vào Khu quân sự, nghĩa là không ai được tự do đến để thăm viếng, cho đến gần đây mới được chuyển sang dân sự. Ở đó những nấm mồ bị cây cối ăn rễ xuyên thủng, những tấm bia bị đập nát, không thể phân biệt được danh tính của người dưới mộ…

Nếu như trong khi người dân không đội mũ bảo hiểm thì lập tức công an đánh chết, thì những thương binh miền Bắc đang có thể tự do chế xe ba bánh đàng hoàng chở hàng bất chấp cồng kềnh nguy hiểm khi lưu thông mà không ai dám ngăn cản. Thì những thương phế binh miền Nam đã âm thầm tủi nhục, để bán tờ vé số thậm chí xin ăn để sống qua ngày.

Nếu như, sau chiến tranh, nước Mỹ đã “quyết tâm để họ không chết vô nghĩa” thì ở Việt Nam, gần bốn chục năm qua, những người bên bại trận vẫn ngầm hoặc công khai được nhắc nhở rằng: “Họ là tội đồ và được sống là nhờ ơn đảng, ơn nhà nước”.

Mà không chỉ với những binh sĩ bên bại trận, sự phân biệt còn ở cả những người của bên thắng trận nhưng đã hy sinh ở cuộc chiến nào. Và thật vô phúc cho họ, nếu họ đã ngã xuống trong cuộc chiến chống sự xâm lược của anh bạn 16 chữ vàng và 4 tốt của Đảng Cộng sản.

Vậy, đâu là vướng mắc cần hóa giải để lời kêu gào “Hòa Giải” trên mảnh đất này thành sự thật, để mọi người con đất Việt có thể chung sức chung lòng lo xây dựng non sông?

Hà Nội, ngày 29/4/2014

·       J.B Nguyễn Hữu Vinh

Xin Chào Các Chị Các Em

Xin Chào Các Chị Các Em

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Một tổ chức độc lập, ra đời trong hoàn cảnh chế độ độc tài sợ hãi bất cứ sự tập hợp nào của người dân Việt Nam, tất nhiên gặp phải nhiều trở ngại… Nhưng bất chấp những khó khăn, chúng tôi tin tưởng rằng sự làm việc tận tụy và công tâm sẽ mang lại uy tín; chứ không phải ngược lại.

Huỳnh Thục Vy, thành viên Tổ Chức Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam

Khi đã bước vào lúc xế chiều, tôi mới bắt đầu tin hơi ngờ ngợ rằng đời người (dám) đều “có số” hết trơn chớ không phải chuyện giỡn chơi đâu nha.

Và tôi, than ôi, tôi có số xa nhà!

Ở một nơi xa xôi diệu vợi, có hôm, tôi nhận được thư nhà. Thư của mẹ hiền gửi từ cố lý. Ý trời, đất, qủi thần, thiên địa ơi – ai mà dè má tôi biết viết! Chớ trước giờ có thấy bà má cầm bút hồi nào đâu cà?

Báo chí, sách vở, phim ảnh, truyền hình cũng không luôn. Có chăng chỉ là vài ba cuốn kinh, đều đã long gáy, bằng tiếng Phạn mà bà cụ đọc làu làu (nghe cứ như hát) nhưng hoàn toàn không hiểu nghĩa, và chắc cũng khỏi cần hiểu làm gì.

Mẹ tôi không viết, không đọc, và cũng mấy khi nói năng bình luận về bất cứ chuyện chi trên cõi đời này. Chỉ có mỗi lần, duy nhất, vào lúc sớm – tôi nhớ hoài – khi loa đài vừa oang oang: “Đây là tiếng nói của nhân dân tỉnh Lâm Đồng” thì bà bỗng khó chịu lầu bầu: “Tụi nó đặt điều nói hết chuyện này tới chuyện khác, từ sáng tới tối, chớ tao có dám nói gì đâu mà biểu là tiếng nói của nhân dân!”

Mẹ tôi (rõ ràng) là một người ít học, hay chính xác hơn là thất học. Bà sinh năm một ngàn chín trăm … hồi đó – lâu lắc rồi – đâu khoảng hai mươi, hai mươi hăm, hay hai mươi sáu… tôi không nhớ rõ.

Những phụ nữ cùng thế hệ với mẹ tôi mà biết đọc và biết viết (chắc) không nhiều đâu. Riêng bà Tôn Nữ Thu Hồng thì là một trường hợp ngoại lệ – theo Wikipedia:

“Bà sinh ngày 19 tháng 7 năm 1922 tại Tourane (Đà Nẵng), nhưng quê quán gốc là làng Thần Phù, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên-Huế).Bà thuộc dòng dõi Hoàng tộc nhà Nguyễn, trước học ở Tourane, sau vào học tại trường Đồng Khánh (Huế).

Năm 18 tuổi (1940), bà cho xuất bản tập thơ đầu tiên (và cũng là duy nhất): Sóng thơ. Tập thơ in đẹp (chưa rõ tên nhà xuất bản), có tựa của Đạm Phương nữ sĩ, và tranh vẽ bìa của nữ họa sĩ Mộng Hoa.Năm 1941, bà và thơ của bà được Hoài Thanh-Hoài Chân giới thiệu trong quyển Thi nhân Việt Nam (xuất bản năm 1942).

Năm 1968, bà lại được Nguyễn Tấn Long-Nguyễn Hữu Trọng giới thiệu trong bộ sách Việt Nam thi nhân tiền chiến (quyển trung), xuất bản tại Sài Gòn. Và theo sách này, thì nữ sĩ Tôn Nữ Thu Hồng đã chết trong một trường hợp bi đát vào năm 1948, khi mới 26 tuổi.”

Nhà nghiên cứu văn học Thái Doãn Hiểu coi đây là một trong những cái chết “không minh bạch, vô cùng bất công,” và cần được công luận minh oan:

Thu Hồng là trí thức nói tiếng Pháp thành thạo, nhà cô thường tụ tập các thanh niên trí thức. Cô bị nghi ngờ làm gián điệp cho Tây, bị công an bắt, giam giữ và tra khảo mấy tháng trời, không lấy được cung. Cuối cùng, giết nhầm còn hơn bỏ sót, cô bị thủ tiêu giữa rừng Thừa Thiên.

Kể lại chuyện đau lòng này, ông Đào Hữu Thiết cán bộ an ninh người chứng kiến vẫn nhớ như in vóc dạc cao to như gấu, khuôn mặt dữ dằn, rậm râu sâu mắt của tên sát nhân Trừng. Trên đường giải cô lên Ty công An Thừa Thiên – Huế, hắn đã bắn lén cô từ đằng sau lưng… Nàng thơ ra đi ở tuổi 26. Năm đó là tháng chạp năm 1948.

Theo tôi thì thà bị “bắn lén từ sau lưng” chết “không minh bạch” vẫn đỡ hơn là sống dở và chết dở trong nhà giam (suốt những năm tháng thanh xuân) cũng vì tội danh “gián điệp” sau một phiên toà cũng chả “minh bạch” tí nào – như trường hợp của bà Thụy An, một người đồng thời với thi sĩ Tôn Nữ Thu Hồng.

Một trang báo trích lời văn sĩ Thụy An. Ảnh:DR

“Thụy An  là ai?

“Là phụ nữ duy nhất, không viết bài cho NVGP, nhưng tên bà bị nêu lên hàng đầu trong ‘hàng ngũ phản động’, bà bị quy kết là ‘gián điệp quốc tế’, lãnh án 15 năm tù cùng với Nguyễn Hữu Đang. Những lời thoá mạ nhơ bẩn nhất dành cho bà ‘Con phù thủy xảo quyệt’ cùng những lời lẽ độc địa nhất: ‘Như vắt ngửi thấy máu, Thụy An như rắn bò tới các câu lạc bộ Hội Nhà văn phun nọc độc mạt sát chế độ ta bần cùng hoá nhân dân” (Bàng Sĩ Nguyên, BNVGPTTADL, trang 120).

Tại sao lại có sự căm thù ghê gớm đối với nhà thơ, nhà văn, nhà báo phụ nữ tiên phong của Việt Nam? Người đầu tiên thực hiện nữ quyền bằng ngòi bút và hành động. Người chủ trương giải phóng phụ nữ không bằng lý thuyết mà bằng việc làm. Người xác định vị trí phụ nữ như một công dân tự do, thấm nhuần tinh thần dân chủ.” (Thụy Khuê. Nhân Văn Giai Phẩm & Vấn Đề Nguyễn Ái Quốc. Westminster, CA: Tiếng Quê Hương, 2012).

Câu hỏi nghe như một tiếng kêu (thảng thốt) của Thụy Khuê “tại sao có sự căm thù ghê ghớm” mà Đảng Cộng Sản Việt Nam dành cho Thụy An, hay Thu Hồng (bao nhiêu năm trước) vẫn có thể lập lại hôm nay cho trường hợp của Tạ Phong Tần – một trong những phụ nữ Việt Nam đầu tiên chủ trương dân báo:

“Đã qua rồi cái thời người dân chỉ được biết những gì nhà cầm quyền muốn cho họ biết, và không được biết những gì nhà cầm quyền muốn bưng bít, giấu nhẹm bằng cách quản lý chặt chẽ toàn bộ hệ thống báo chí trong nước…”

“Khi bạn đưa thông tin lên blog của bạn, tức bạn đã đem sự hiểu biết của bạn truyền tải cho người khác để mọi người cùng được biết, qua đó, mọi người cùng bàn luận, cùng kiểm tra xem, dùng quyền công dân của mình đòi hỏi công chức Nhà nước phải thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà luật pháp quy định.”

“Có thể sự hiểu biết của bạn chỉ là một phần nhỏ nào đó trong đời sống xã hội, nhưng nhiều người góp lại sẽ tạo nên một bức tranh hiện thực xã hội hoàn chỉnh. Khi tự mình làm một nhà báo công dân, chính bạn đã góp phần công khai, minh bạch hóa xã hội, cùng chung sức xây dựng một xã hội dân sự cho đất nước chúng ta.”

Tạ Phong Tần viết những dòng chữ thượng dẫn vào ngày 1 tháng 1 năm 2008. Đến ngày 4 tháng 10 năm 2012, bà bị tuyên án 10 năm tù (với tội danh “tuyên truyền chống Nhà Nước”) sau một phiên toà cũng chả “minh bạch” chút nào.

Mà không cần phải là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà hoạt động xã hội hay blogger (gì ráo trọi) như Tôn Nữ Thu Hồng, Thụy An, Dương Thị Tân, Tạ Phong Tần, Lê Thị Công Nhân, Phạm Thanh Nghiên, Đỗ Thị Minh Hạnh, Huỳnh Thục Vy, Nguyễn Hoàng Vi, Trần Thị Nga, Bùi Thị Minh Hằng, Trần thị Hài, Nguyễn Thị Lụa, Hồ Thị Bích Khương, Phương Bích, Đoan Trang, Mẹ Nấm … cuộc đời mới te tua hay bầm dập đâu nha. Một bà già thất học, không đọc, không viết, cũng không phát biểu (linh tinh) bao giờ như má tôi mà cũng đâu mấy khi được sống an lành.

Năm 1954, bà bỏ  hốt hoảng bỏ hết ruộng vườn nhà cửa bồng con chạy một mạch từ Bắc vào Nam. Hai mươi mốt năm sau – vào tháng 4 năm 1975 – trong lúc cả triệu người hân hoan đón chào cách mạng thành công thì bà lui hui dốc hết nước mắm từ chai vô nồi rồi đun cho keo lại thành mắm quẹt: “Để dành ăn dần con ơi, chứ họ vào đây mà thấy nhà mình có hơn chục chai nước mắm thì chết chứ chả bỡn đâu.”

Mẹ tôi (e) có hơi quá lời về sự hà khắc của “họ” nhưng thời gian đã chứng minh rằng mọi dự liệu của bà về cuộc sống mới trong XHCN – nói chung – hoàn toàn không…  trật. Dân Việt, quả nhiên, cứ “chết” đều đều – dù có vượt biên, vượt biển, hay không.

Hồi cuối thế kỷ trước, trên trang thư tòa soạn của tạp chí Thế Kỷ 21 – số 103, phát hành vào tháng 11 năm 97– nhà báo Vương Hữu Bột đã tường thuật đôi ba trường hợp chết đói xảy ra ở Việt Nam. “Có người chết đói ngay tại chợ Bến Thành. Chết đói vì không có gì để ăn!” Ông ghi lại theo lời kể của một người bạn, một doanh nhân vừa từ Sài Gòn sang Mỹ lo việc kinh doanh.

Có lẽ sợ rằng viết lách theo kiểu (nghe nói) như vậy không thuyết phục, ông Vương Hữu Bột còn trích dẫn thêm một câu chuyện khác, từ báo Thanh Niên. “Tờ báo loan tin một thiếu phụ ở Sài Gòn đã giết hai con rồi thắt cổ tự tử. Chị ta còn đủ bình tĩnh viết lá thư để lại, giải thích vì không có cách nào kiếm sống nên chọn cái chết.”

Cuối thư, tác giả (bùi ngùi) kết luận:

“Chắc mỗi người chúng ta không thể gánh trách nhiệm về hạnh phúc và an lạc của tất cả mọi nguời khác. Nhưng tất cả chúng ta, với tính cách một chủng loại, phải chia sẻ trách nhiệm khi còn những đồng bào khổ đau, cùng quẫn. Một xã hội văn minh phải thu xếp với nhau đừng để cho những cảnh cùng quẫn đó xảy ra mới phải.”

Qua đến đầu thế kỷ này, chuyện “thu xếp” để đừng đẩy tha nhân (hay nhân dân) vào những cảnh đời “cùng quẫn” – xem ra – vẫn chưa được ổn thoả gì cho lắm. Từ Sài Gòn, blogger Phạm Chí Dũng có bài tường thuật (“Vô Cảm Quan Chức Và Cái Chết Vì Nghèo”) đọc được qua BBC – vào hôm 11 tháng 6 năm 2013. Xin trích dẫn một đoạn ngắn:

“Tự tử vì nghèo đã trở thành một hiện tượng mãn tính trong xã hội được mô tả là chịu ăn chơi bậc nhất thế giới. Một bà mẹ xấu số nguyện dùng tiền phúng viếng của mình để trả nợ và nộp học phí cho con… Hai cô gái đang tuổi xuân xanh rủ nhau uống thuốc diệt cỏ tự vẫn vì không có tiền nộp phạt vi phạm giao thông…

Báo chí và người dân hẳn cũng chưa quên câu chuyện của chị Lê Thị Ngọc N. cũng xảy ra tại TP. Cà Mau cách đây không quá lâu. Trước khi chết, N. đã từng thổ lộ muốn tìm đến cái chết vì nghèo khổ quá.”

Những thảm trạng “mãn tính” xẩy ra cho phụ nữ – như trên – đã kéo dài gần hai phần ba thế kỷ, ở Việt Nam. Sự kiện này đã khiến cho tiến sĩ Nguyễn Thị Từ Huy (vô cùng) sốt ruột và sốt tiết. Bà đặt (và đẩy) vấn đề cho nam giới ở xứ sở này:

“Bao giờ các anh sẽ thôi tán phét trong các quán nhậu? Bao giờ các anh quyết định thôi sống hèn?”

Ủa, tôi tưởng chuyện này đã có một vị mày râu xứ Việt (ông Bùi Minh Quốc) nêu ra và giải quyết xong xuôi lâu rồi mà:

Bao nghẹn uất Nguyệt Nga xé trời kêu chẳng thấu
Giữa chợ đời biệt dạng Lục Vân Tiên
Hảo hớn bận giang hồ quán nhậu
Thi nhau bốc phét để quên hèn

Cách “giải quyết” (theo kiểu nói coi như huề vốn) của Bùi Minh Quốcy tuy chưa được hoàn toàn rốt ráo nhưng theo Chủ Nghĩa Nam Nữ Bình Quyền thì đàn ông và đàn bà đều bình đẳng về quyền lợi cũng như nghĩa vụ. Đèn nhà ai, nhà nấy sáng. Chuyện phái nào phái ấy (phải) lo chớ bộ.

Và nhờ Trời là chúng ta không phải “lo” lâu. Vào ngày 28 tháng 11 năm 2013 vừa qua, thông tín viên Tường An (RFA) đã long trọng loan tin “Xã hội dân sự Việt Nam vừa có thêm một thành viên mới: đó là một nhóm có tên gọi là:  “Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam.” Xin được ghi lại đôi dòng về tôn chỉ của tổ chức xã hội dân sự (http://vnwhr.net/) này để rộng đường dư luận:

– Gắn kết các cá nhân phụ nữ chịu thiệt thòi và dễ bị tổn thương từ các vụ việc vi phạm Nhân quyền.

– Lên tiếng và có những hành động bảo vệ thiết thực đối với những người phụ nữ đã và đang bị xâm phạm                     phẩm giá và các quyền con người cơ bản.

– Chia sẻ và tuyên truyền những kiến thức nhằm nâng cao trình độ hiểu biết của phụ nữ Việt Nam về quyền                    con người và về vai trò của phụ nữ trong một xã hội tôn trọng nhân quyền.

Các vận động viên và thành viên của nhóm “Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam”. Courtesy vnwhr.ne

Ngay sau đó, không ít tổ chức, đoàn thể, cũng như vô số qúi vị thức giả đã lên tiếng hoan hô và ủng hộ sự ra đời (dù muộn màng) của Tổ Chức Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam. Là một thường dân, tôi không đủ tư cách để “lên tiếng” theo cùng cung cách đó nên chỉ mong được phép thay mặt mẫu thân (nhân ngày giỗ của bà) xin gửi lời chào trân trọng và thân ái đến các chị, các em – những người vừa mở đầu một trang sử mới cho phụ nữ Việt Nam.

 

Món nợ máu và một lời xin lỗi

Món nợ máu và một lời xin lỗi
Sunday, April 27, 2014

Nguoi-viet.com
Tạp ghi Huy Phương

Xin nói rõ món nợ máu này là cái chết của ba giáo sư y khoa và một phụ nữ Ðức đã bị Việt Cộng khi vào Huế trong ngày Mồng Hai Tết Mậu Thân, bắt họ đi từ cư xá giáo sư viện Ðại Học Huế, bắn vào đầu họ và chôn vùi trong vườn chùa Tường Vân, gần khu Nam Giao. Những người bị giết là Giáo Sư Gunther Krainick và phu nhân, Giáo Sư Raymund Discher, Bác Sĩ Alterkoster, là những vị đã đóng góp công sứ và tâm trí cho việc xây dựng Ðại Học Y Khoa Huế…chấp nhận xa gia đình, đất nước để đem kiến thức và nguyện ước của mình để khai hóa văn minh cho một xứ sở kém mở mang, đang có chiến tranh khốc liệt.

Theo lời kể của một nhân chứng, thời gian Tết Mậu Thân, là cựu Sinh Viên Y Khoa Huế, Bác Sĩ Tôn Thất Sang, hiện sinh sống tại thành phố Sacramento, thì vào tháng 4, 1968, tại một bờ hào tre, cách sân chùa Tường Vân khoảng 200 mét, người ta tìm thấy “trong chiếc hố nhỏ, bề dài khoảng 3m, bề ngang khoảng 1m và bề cao khoảng 1m, bốn người ngoại quốc, ba đàn ông và một phụ nữ Ðức bị trói thúc ké, hai tay bị bẻ quặt ra sau lưng, bị siết chặt bằng dây điện thoại truyền tin. Khuôn mặt họ đều bị biến dạng. Thái dương trái là lỗ đạn vào, thái dương phải là lỗ đạn ra, nên bị phá ra toang hoác; mắt lồi hẳn ra ngoài!


Tiến Sĩ Uwe Siemon-Netto (trái) và Ký Giả Huy Phương trong một buổi phỏng vấn truyền hình. (Hình: Huy Phương cung cấp)

Ðường đi của viên đạn do chính kẻ luôn luôn rêu rao lấy lượng khoang hồng và nhân đạo làm nền tảng để xử thế, đã làm méo mó, biến dạng những khuôn mặt hiền hòa của các vị thầy chúng ta.”

Sau đó linh cữu của bốn vị này được quàn tại Tòa Viện Trưởng Viện Ðại Học Huế và sáng hôm sau, được phi cơ mang vào Sài Gòn, phi trường Tân Sơn Nhất. Nơi đây, phái đoàn Ðại Học Y Khoa Huế, và Ðại Học Y Khoa Sài Gòn chờ đón với vòng hoa phân ưu và biểu ngữ lên án Cộng Sản Bắc Việt đã ra tay thảm sát những người làm công việc y tế, chỉ biết phụng sự khoa học, phụng sự nhân loại. Linh cữu của bốn vị được đưa ra phi cơ về Ðức vào ngày 13 tháng 4, 1968 trên chiếc xe có bốn ngựa kéo, theo sau là 250 sinh viên Y Khoa Huế và Sài Gòn, đội đưa tang và đội quân danh dự của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sinh viên cầm biểu ngữ nói lên lòng biết ơn công lao của quí vị.

Sau đó tại sân Ðại Học Y khoa Huế, một bia tưởng niệm các GS, BS Krainick, Raymund Disher và ALois Altekoester…đã được xây lên để ghi ơn quý vị bác sĩ, giáo sư y khoa đã góp công xây dựng, đào tạo những bác sĩ tài năng và đã hy sinh đời mình cho lý tưởng phụng sự ngành y trên quê hương Việt Nam.

Năm 1975, sau khi Việt Cộng chiếm Huế, cũng như số phận bức tượng Tiếc Thương của Nguyễn Thanh Thu ở Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hòa, họ đã đập bỏ bia tưởng niệm này, đem vất xuống hồ rau muống nằm giữa trường Y Khoa Huế và trường Cán Sự Ðiều Dưỡng.

Vậy mà CSVN và quê hương của các giáo sư y khoa người Ðức bị giết năm Mậu Thân đã thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 23 tháng 9, 1975, đến nay, “quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước ngày càng phát triển tích cực, sâu rộng, hiệu quả và toàn diện.”

Ðại diện cho kẻ ác, sát thủ bốn công dân người Ðức vào Tết Mậu Thân, các giới chức CSVN đã từng đến Ðức để cúi mình xin viện trợ và xin khai hóa là Thủ Tướng Võ Văn Kiệt (1993); Chủ Tịch Quốc Hội Nông Ðức Mạnh (1993); Thủ Tướng Phan Văn Khải (2001); Tổng Bí Thư Nông Ðức Mạnh (2004); Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng (2008). Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Ngoại Giao Phạm Gia Khiêm (2010), và hai nước đã ký một số hiệp định tạo cơ sở pháp lý cho quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, văn hóa.

Nước Ðức văn minh, quên hận thù, là một trong những nước viện trợ nhiều và thường xuyên ODA cho Việt Nam. Từ năm 1990 đến nay, Ðức đã cung cấp trên 1 tỉ Euro cho các dự án ODA tại Việt Nam. Chính phủ Ðức một mặt vẫn duy trì các khoản viện trợ truyền thống, mặt khác mở ra một trương mục vay vốn mới là vốn vay phát triển. Ðức cam kết cung cấp 283.8 triệu Euro ODA cho Việt Nam trong năm 2011-2012, trong đó 257.5 triệu Euro vay ưu đãi và 26.3 triệu Euro viện trợ không hoàn lại.

Tiến Sĩ Uwe Siemon-Netto, người Ðức, là một phóng viên chiến trường Việt Nam, từ năm 1965 – 1969 tác gỉa bài viết “The Wrong Side Won” (Phe Tà Ðã Thắng), ông đã chứng kiến tội ác của Cộng Sản trong vụ thảm sát Mậu Thân, trong đó có một số đồng bào quen biết của ông là ba bác sĩ người Ðức và một bà vợ đã bị giết.

Trong một cuộc phỏng vấn của chúng tôi trên đài truyền hình SBTN, ông Uwe Siemon-Netto đã nhiều lần lặp đi lặp lại, là từ khi cấp chính quyền Cộng Sản Việt Nam tái lập bang giao với đất nước của ông, ông chưa nghe được một lời xin lỗi nào của thành phần chóp bu này về cái hành động cố ý giết chết ba vị giáo sư, bác sĩ và một người phụ nữ Ðức vào năm 1968, trong khi trong tay người này không có vũ khí, không chống lại họ và đang làm nhiệm vụ khai hóa cho một đất nước, đào tạo nhiều bác sĩ mà hiện nay có người đang lo chăm sóc sức khỏe cho những người dân dưới chế độ này.

Ở Việt Nam hiện nay có một chuyện rất nhỏ là chuyện một phụ nữ sinh sống ở Mỹ được báo chí gọi là “kiều nữ Hải Dương” bị báo chí Việt Nam làm tin giật gân vu oan là đã cưỡng dâm nhiều tài xế taxi. Bà đã nói: “Tôi nghĩ cứ để tòa án phân xử đúng, sai, lỗi tới đâu thì pháp luật xử lý tới đó. Tôi cũng không muốn làm khó ai, tôi cần một lời xin lỗi, mọi chuyện còn lại để pháp luật giải quyết.” Cuối cùng tòa án xử bà Phạm Thị Thanh Ngọc thua cuộc và “một lời xin lỗi” thì chẳng bao giờ có trong xã hội Cộng Sản hôm nay.

Ngay tại đám tang đang diễn ra ở Sài Gòn vào Tháng Tư của tù nhân lương tâm Ðinh Ðăng Ðịnh, gia đình của ông nói chính quyền nợ ông “một lời xin lỗi” vì ông vô tội, chứ không phải có tội mà được “đặc xá!”

Ðối với chuyện lớn, đảng Cộng Sản chưa biết mở miệng, làm sao những chuyện nhỏ được họ để mắt đến.

Trên thế giới đã có nhiều lời xin lỗi.

Thủ Tướng Tomiichi Murayama, năm 1995, đã nói lên lời xin lỗi của nước Nhật về những đau khổ mà quân đội Nhật đã gây ra cho các dân tộc Châu Á. Thủ Tướng Nhật Shinzo Abe ngày 14 Tháng Ba cho biết ông buồn phiền trước nỗi đau mà các “phụ nữ giải sầu” cho quân đội Nhật phải chịu đựng trong thời chiến, và cam đoan rằng nước Nhật không hề có ý định giảm nhẹ lời xin lỗi.

Tổng Thống Nga Vladimir Putin ngỏ lời xin lỗi Ba Lan trong vụ thảm sát Katyn (1940), và cho chiếu vào giờ cao điểm trên đài truyền hình Nga phim của Wajda về lời tuyên bố này.

Ngày 23 Tháng Ba, cựu giám đốc Cơ Quan An Ninh Quốc Gia Mỹ (NSA) giai đoạn 1999-2005, Tướng Michael Hayden, lên tiếng xin lỗi người dân Ðức vì những hậu quả liên quan vụ nghe lén của cơ quan này.

Thủ tướng Ðức Willy Brandt, năm 1970, trong một cử chỉ bất ngờ, gây xúc động mạnh, quỳ gối, chân thành, trước đài tưởng niệm ở khu Do Thái tại Warsaw, Ba Lan, thì người Ðức đã được đón tiếp nồng ấm trở lại ở Ðông Âu. Khi xây dựng ở trung tâm Berlin một đài tưởng niệm nạn nhân vụ diệt chủng người Do Thái thời Ðức Quốc Xã, thì nước Ðức đã không tự hạ mình chút nào mà còn được thế giới khen ngợi!

Không biết xin lỗi là đặc tính của một đứa trẻ cứng đầu, vô giáo dục và đối với một người trưởng thành là thái độ vô liêm sỉ. Vô liêm sỉ hơn nữa là họ ngửa bàn tay nhuốm máu đã giết người để xin xỏ, nhận quà từ thân nhân của người mình đã giết.

Là người Ðức, một dân tộc văn minh, ông Siemon-Netto than phiền rằng CSVN nhận viện trợ từ chính phủ ông mà không hề biết mở miệng nói một lời xin lỗi với dân tộc ông!

Còn chúng ta, những người Việt cả Nam lẫn Bắc, nạn nhân của chế độ tàn bạo, bất lương của Bắc Việt từ hơn nửa thế kỷ nay, trông mong hay hy vọng nỗi gì?