KHIÊM NHƯỜNG HIỀN HẬU


Đức Giêsu đã nói về mình như một người hiền hậu và khiêm nhường.  Sự khiêm nhường của Người được thể hiện rõ nét nhất qua mầu nhiệm nhập thể.  Là Thiên Chúa toàn năng, Người đã hạ mình nhận thân phận con người, sống như người trần thế (x Phl 2,6-12).  Nếu Người kêu gọi chúng ta sống khiêm nhường, là vì chính Người đã sống khiêm nhường suốt đời để thực hiện Thánh ý Chúa Cha.  Cuộc khổ nạn thập giá chính là bằng chứng cao cả nhất của sự khiêm nhường ấy.

Trong lời cầu nguyện của Đức Giêsu với Chúa Cha, Người đã nhắc đến những người được Chúa Cha mặc khải chân lý vĩnh cửu.  Những người này không phải là vĩ nhân, không phải người khôn ngoan xuất chúng, nhưng là những người bé mọn.  Như vậy, Lời Chúa giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn khái niệm “khiêm nhường”:

-Khiêm nhường trước hết là biết mình hoàn toàn phụ thuộc vào Chúa và chạy đến tìm nương ẩn nơi Ngài.  Vì chúng ta chỉ là tạo vật, nên chúng ta phụ thuộc vào Đấng đã dựng nên chúng ta.  Khước từ Thiên Chúa là tội kiêu ngạo.  Tự cho mình làm nên mọi sự là tội phạm thượng.  Ađam và Evà đã kiêu ngạo và phạm thượng khi khước từ vị trí của Đấng Sáng tạo trong cuộc đời mình.  Họ đã muốn thoát khỏi vòng kiểm soát của Chúa, muốn được trở nên giống thần linh để cạnh tranh với Đấng đã tạo dựng nên mình.

Khiêm nhường là chấp nhận vị trí và vai trò của tha nhân trong mối tương quan đa dạng của cuộc sống xã hội.  Mỗi người có một vị trí, một nghề nghiệp, một tài năng và một trách nhiệm.  Không ai có thể làm được bách nghệ, nhưng con người trong xã hội phải phụ thuộc vào nhau mà sống.  Người thợ dệt sống nhờ người nông dân, người thợ xây sống nhờ người đánh cá, người làm việc văn phòng sống nhờ bác nông phu… nhận ra tình liên đới trong sự tôn trọng lẫn nhau, đó chính là khiêm nhường.

-Khiêm nhường là đón nhận chân lý vĩnh cửu do Đức Giêsu loan báo: thực tế cho thấy có những người học hành uyên thâm lỗi lạc không tin vào các giá trị thiêng liêng, không tin vào Thượng đế; trong khi có những người dân quê chất phác ít học, cả đời không ra khỏi làng, lại tin vào Chúa và gắn bó suốt đời với đức tin ấy đến nỗi không gì có thể lay chuyển nổi.  Như thế, đức tin trước khi là sự khiêm nhường đón nhận của con người thì đã là ân ban của Thiên Chúa, là sự mạc khải của Thiên Chúa về mầu nhiệm Nước Trời.

Khiêm nhường là học dưới mái trường của Đức Giêsu. Nhờ Bí Tích Thánh Tẩy, chúng ta trở thành môn sinh của Thày Giêsu.  Người là Thày dạy Chân lý, Thày dạy yêu thương.  Người chính là con đường để dẫn đưa chúng ta về với Chúa Cha, con đường để đem lại cho chúng ta hạnh phúc.  Có biết bao học trò của Đức Giêsu đã nhờ tuân theo giáo huấn của Người mà nên thánh.  Biết bao người đã  chiến thắng những cám dỗ, chiến thắng những nghịch cảnh cuộc đời nhờ giáo huấn ấy.  Chính nơi trường học của Đức Giêsu mà chúng ta được biết Chúa Cha, vì chính Chúa Con mặc khải cho chúng ta về Chúa Cha và đưa chúng ta vào sống trong mối tình huyền diệu Cha-Con muôn thuở.

Khiêm nhường là sống theo sự soi sáng của Chúa Thánh Thần. Tác giả Thư Rôma (bài đọc II) đã nhấn mạnh đến  sự hiện diện và tác động của Thần Khí nơi các tín hữu.  Một lối sống ngược lại với Thần Khí, đó là sống theo những bản năng của xác thịt, nghiêng chiều theo những đam mê và những đam mê này làm cho chúng ta xa Chúa.  Cũng chính nhờ Thần Khí mà chúng ta diệt trừ được sự ích kỷ và kiêu ngạo, là nguyên nhân của mọi tội lỗi.

Các nhà tu đức thường nói: Khiêm nhường là mẹ của các nhân đức”. Vậy nếu chúng ta sống khiêm nhường thì chúng ta sẽ có mọi đức tính tốt lành khác.  Như dòng nước luôn tìm chỗ trũng để chảy xuống, nên có thể thấm vào mọi nơi mọi chỗ và có thể làm cho đất đai trở nên màu mỡ phì nhiêu, sự khiêm nhường là bí quyết của thành công trong cuộc sống.  Khiêm nhường còn là cội nguồn của hạnh phúc, là nền tảng của tình yêu thương huynh đệ.  Đấng Cứu độ được diễn tả bằng hình ảnh khiêm tốn cưỡi trên lưng lừa, chứ không oai hùng trên lưng ngựa chiến với áo giáp uy hùng và kiếm gươm sáng loáng (Bài đọc I).  Chính nhờ sự khiêm nhường này mà Người đã chinh phục được các dân và đưa họ vào vương quốc công chính.

Kiêu ngạo bao nhiêu cũng chẳng đủ, khiêm tốn bao nhiêu cũng chẳng thừa.  Xin cho mỗi người chúng ta biết lắng nghe bài học Chúa dạy hôm nay.  Amen!

Gm Vũ Văn Thiên

From: KittyThiênKim & Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Đảng là trên hết

Đảng là trên hết

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-07-03

kinhhoa07032014.mp3

000_Hkg4466727-305.jpg

Hình minh họa chụp năm 2011 tại Hà Nội.

AFP

Căng thẳng Việt Nam Trung Quốc chưa chấm dứt. Đảng cộng sản Việt Nam thì vẫn duy trì quan hệ mật thiết của họ với đảng cộng sản Trung Quốc, mà những mệnh lệnh gây hấn trên biển Đông, hay những lời nói trịch thượng từ giới ngoại giao Trung Quốc cũng phát xuất từ đảng cộng sản của nước này với tư cách một đảng cầm quyền. Mâu thuẫn này phải hiểu như thế nào?

Quan hệ giữa hai đảng

Theo truyền thông Việt Nam, ngày 30.6, tại Hà Nội, Tạp chí Mặt Trận, Viện Chính sách pháp luật và quản lý cùng các đối tác đã tổ chức hội thảo “Đa dạng hóa tuyên truyền về bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam”. TS Nguyễn Anh Dũng từ Báo Nhân Dân của đảng cộng sản Việt Nam, cho biết:

“Có những vấn đề nhạy cảm mà phía VN và TQ từng thỏa thuận không đưa ra ở những diễn đàn chính thức. Ví dụ Nhân Dân nhật báo (cơ quan của BCH T.Ư Đảng Cộng sản TQ) không đăng tải thì Báo Nhân Dân của Việt Nam cũng không đăng.”

” Chỉ có ở chế độ cộng sản thì mới có cái kiểu làm việc giữa hai đảng, nhượng bộ quyền lợi gì đó giữa hai đảng với nhau còn nhân dân thì chẳng có vai trò gì.
-Hà Sĩ Phu”

Phát biểu của Tiến sĩ Dũng chứng tỏ rằng quan hệ giữa hai quốc gia thực chất là quan hệ giữa hai đảng cộng sản với đại diện là hai tờ báo đảng lớn nhất nước. Lời “tiết lộ” này của ông Dũng hoàn toàn giống với nhận định của Tiến Sĩ Hà Sĩ Phu, một trí thức bất đồng chính kiến trong nước:

“Chỉ có ở chế độ cộng sản thì mới có cái kiểu làm việc giữa hai đảng, nhượng bộ quyền lợi gì đó giữa hai đảng với nhau còn nhân dân thì chẳng có vai trò gì.”

Một quan sát từ bên ngoài Việt Nam của Tạp chí Jane’s Intelligence, số ra tháng cuối tháng năm đầu tháng sáu năm 2014,  cho rằng những vấn đề trong quan hệ với Trung Quốc trong vòng mấy năm gần đây, từ dự án bauxite ở Tây nguyên cho đến xung đột chủ quyền biển đảo ngoài biển Đông sẽ là một thách thức cho đảng cộng sản cầm quyền tại Việt Nam về tính chính danh của nó.

Nhưng có vẻ như cuộc khủng hoảng chủ quyền quốc gia lớn nhất từ năm 1975 đến nay không làm thay đổi cái cách làm việc với nhau của hai đảng cộng sản.

Tạp chí Xây dựng đảng, trong ấn bản online ngày 28/6/2014, đưa tin một đoàn cán bộ cấp vụ dẫn đầu bởi Vụ trưởng vụ bảo vệ chính trị nội bộ thuộc Ban tổ chức trung ương đảng cộng sản Việt Nam đi Trung Quốc nghiên cứu khảo sát kinh nghiệm xây dựng đảng từ ngày 15 đến ngày 24/6/2014. Tức là đoàn cán bộ này lên đường sau khi giàn khoan của Trung Quốc đã kéo vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, sau khi một chiếc tàu đánh cá Việt Nam bị tàu Trung Quốc húc chìm vào ngày 26/5/2014. Những cán bộ cao cấp này không phải sang Trung Quốc để mang những phản đối ngoại giao, mà để học tập kinh nghiệm của những người đang ra lệnh tiến hành chiến dịch giàn khoan ngoài biển Đông.

nguyen-phu-trong-305.jpg

TBT Nguyễn Phú Trọng gặp Ủy Viên Quốc Vụ TQ Dương Khiết Trì tại Hà Nội chiều 18/6/2014.

Sau khi biết được tin này, một cựu đảng viên hiện đang sống tại thành phố Nha Trang cười nói với chúng tôi

“Tuy hai mà một, tuy một mà hai. Đảng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam từ trước đến nay rất mật thiết, họ giúp đỡ nhau trong việc xây dựng lực lượng, đào tạo cán bộ.”

Một cựu đảng viên khác tại TP HCM thì nói đây là một việc làm chẳng có ý nghĩa gì cho quốc gia cả.

Một người dân tại Kontum bình luận về những hành động của đảng cộng sản hiện nay:

Không phải vô tình nữa, mà tất cả những việc làm của đảng cộng sản Việt Nam cho đến giờ phút này càng ngày càng lộ ra bộ mặt quyền lợi của đảng. Tôi thấy rõ ràng là càng ngày người ta càng tách rời ra khỏi dân tộc Việt Nam.”

Chấn động địa cầu?

Ông Nguyễn Phú Trọng, người đứng đầu đảng cộng sản Việt Nam, mới đây có nói trong cuộc gặp cử tri tại Hà nội rằng dù hữu nghị với Trung Quốc nhưng cũng phải gìn giữ chủ quyền. Việc lên tiếng sau một thời gian dài im lặng của ông Tổng bí thứ trước sự gây hấn của các đồng chí cùng lý tưởng của ông ở Bắc Kinh được giáo sư Trần Hữu Dũng, người thường xuyên theo dõi tình hình kinh tế xã hội Việt Nam cho là một việc… chấn động địa cầu.

” Không phải vô tình nữa, mà tất cả những việc làm của đảng cộng sản Việt Nam cho đến giờ phút này càng ngày càng lộ ra bộ mặt quyền lợi của đảng.
-Một người dân “

Tuy nhiên ngay trong buổi gặp gỡ cử tri này ông Trọng cũng nói rằng phải đấu tranh (?) toàn diện để bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân. Như vậy mục tiêu hàng đầu của ông vẫn là bảo vệ chế độ của đảng ông đang nắm quyền. Và người ta vẫn còn nhớ cách đây không lâu, hồi năm 2013 ông Trọng cũng có nói rằng:

“Hiến pháp là văn kiện quan trọng thứ hai sau cương lĩnh Đảng. Đảng vẫn là số một.”

Trong khi đó, vào những năm 1990, đứng trước sự khủng hoảng kinh tế và chính trị của Nhật Bản, ông Koizumi Thủ tướng Nhật lúc ấy có nói rằng dù phải phá tan Đảng dân chủ tự do đang cầm quyền của ông để cứu nước Nhật thì cũng phải làm.

Trở lại với câu chuyện các đảng cộng sản làm việc với nhau, từ trước tới nay người ta biết được chuyện này trong một khái niệm gọi là tinh thần Quốc tế vô sản. Sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu, sự đổi màu của chủ nghĩa cộng sản châu Á với màu sắc gọi là kinh tế thị trường, đã khiến cho nhiều người nghi ngại về cái gọi là chủ nghĩa quốc tế vô sản này.

Ngày 30/6/2014 Giáo sư mạch Quang Thắng, Học viện chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, trả lời báo điện tử Văn Hóa Nghệ An rằng:

“Làm gì có chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đó là một giá trị xa xỉ.”

Ông cũng cho rằng câu nói kinh điển của phong trào cộng sản quốc tế: Bốn phương vô sản đều là anh em đã lỗi thời rồi.

Tuy nhiên ở cuối bài phỏng vấn, ông cũng hi vọng rằng để giải quyết cuộc khủng hoảng hiện tại của quốc gia thì rất cần năng lực và kỹ năng lắng nghe từ các cấp lãnh đạo. Và những người lãnh đạo mà ông Mạch Quang Thắng đang hy vọng đó cũng chính là những người vừa gửi đoàn cán bộ đảng cấp cao sang Bắc Kinh học hỏi.

Việt Nam – Trung Quốc: Ai nợ ai?

Việt Nam – Trung Quốc: Ai nợ ai?

Anh Vũ, thông tín viên RFA
2014-07-02

07022014-vn-cn-who-own-oth.mp3

Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang cũng đã phát biểu cho rằng“ mang ơn thì có cách trả ơn chứ không thể áp đặt”

Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang cũng đã phát biểu cho rằng“ mang ơn thì có cách trả ơn chứ không thể áp đặt”

AFP

Một số người cho rằng VN mang ơn và nợ TQ. Tại cuộc gặp với cử tri ngày 26-6-2014, Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang cũng đã phát biểu cho rằng“ mang ơn thì có cách trả ơn chứ không thể áp đặt”. Nhận thức như thế có đúng hay không và thực chất của vấn đề này là gì? Anh Vũ cho biết thêm chi tiết.

Láng giềng thì có mang ơn thì không

Là hai nước láng giềng, chung biên giới trên bộ và trên biển, lại có một quá trình gắn bó tương tác về văn hóa lịch sử, cũng như các cuộc chiến tranh qua lại giữa hai nước, đã làm cho quan hệ Việt Trung trở nên vô cùng phức tạp và nhạy cảm.

Quan hệ VN-TQ luôn là chủ đề nóng bỏng trong suốt chiều dài lịch sử của Việt Nam, cho dù thời đại nào cũng đều mang tính thời sự. Đặc biệt trong lịch sử cận đại, từ năm 1945 đến nay thì mối quan hệ giữa 2 quốc gia cộng sản cũng để lại không ít các vấn đề thăng trầm.

” Chúng ta không quên sự giúp đỡ của Trung Quốc trong hai cuộc kháng chiến, nhưng mang ơn không có nghĩa là muốn áp đặt cái gì thì áp đặt

Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang”

Hiện nay, quan hệ Việt – Trung đang xấu đi một cách nhanh chóng, đặc biệt sau việc TQ đưa giàn khoan HD-981 vào sâu trong lãnh hải của VN. Nhất là khi phía TQ bạch hóa các tư liệu về quan hệ giữa hai nước liên quan đến chủ quyền lãnh thổ và vu cáo rằng VN vong ơn bội nghĩa.

Tại cuộc gặp với cử tri ngày 26-6-2014, khi nói về quan hệ VN-TQ, Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang đã phát biểu cho rằng “Chúng ta không quên sự giúp đỡ của Trung Quốc trong hai cuộc kháng chiến, nhưng mang ơn không có nghĩa là muốn áp đặt cái gì thì áp đặt”.

Bình luận về phát biểu của Chủ tịch Trương Tấn Sang, ông Khuất Duy Chiến một sĩ quan quân đội thuộc Binh đoàn 559 trong chiến tranh chống Mỹ, đã nghỉ hưu cho biết: ông hoàn toàn không tán đồng ý kiến của Chủ tịch Nước. Theo ông các nhà lãnh đạo Việt nam trong quá khứ đã mắc phải sai lầm khi biến VN thành nơi thử nghiệm và đối đầu giữa các thế lực quân sự quốc tế hàng đầu. Đây là cuộc chiến giữa ý thức hệ CS và ý thức hệ tự do dân chủ. Việc TQ ủng hộ và giúp đỡ VN không ngoài mục đích cổ vũ tình đoàn kết cộng sản quốc tế để chống kẻ thù chung.

” Trong chiến lược bành trướng xuống phía Nam của Chủ nghĩa CS, VN đã lĩnh vai trò tiền đồn của phe XHCN, do đó đối với nhân dân Việt Nam thì chính Trung Quốc nợ xương máu, nợ cả việc chia cắt đất nước

ông Khuất Duy Chiến”

Từ Ninh bình, ông Khuất Duy Chiến nói với chúng tôi:

“Trong chiến lược bành trướng xuống phía Nam của Chủ nghĩa CS, Việt nam đã lĩnh vai trò tiền đồn của phe XHCN, do đó đối với nhân dân Việt Nam thì chính Trung Quốc nợ xương máu, nợ cả việc chia cắt đất nước. Tất cả nằm trong phương châm “Đánh Mỹ tới người Việt nam cuối cùng” của Mao Trạch Đông. Nên nhớ như cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đã từng nói “Ta đánh Mỹ là đánh cho phe XHCN, đánh cho cả Liên xô, Trung quốc”.”

Nói về sự giúp đỡ của TQ đối với cách mạng VN từ năm 1945 đến nay, ông Nguyễn Tường Thụy một cựu chiến binh ở Hà nội thấy rằng cuộc chiến tranh Việt nam (1955-1975) về bản chất là một cuộc chiến tranh ý thức hệ, vì lúc đó VN tự xác định mình là tiền đồn XHCN. Do vậy chính quyền CS đã nhận được sự ủng hộ của các nước XHCN, nếu không có sự ủng hộ này thì VN không thể chiến thắng được.

Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, cuộc chiến ý thức hệ của Chủ nghĩa Cộng sản, Trung quốc chỉ bỏ ra súng đạn đảng cộng sản Việt Nam bỏ người (1,2 triệu bộ đội hy sinh trong cuộc chiến ý thức hệ này)

Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, cuộc chiến ý thức hệ của Chủ nghĩa Cộng sản, Trung quốc chỉ bỏ ra súng đạn đảng cộng sản Việt Nam bỏ người (1,2 triệu bộ đội hy sinh trong cuộc chiến ý thức hệ này)

Ông Nguyễn Tường Thụy nói với chúng tôi:

“Tất cả những người lính Miền Bắc đi vào miền Nam lúc ấy thì tất cả trang bị từ đầu đến chân, quân trang quân dụng đều của TQ cả, còn Liên xô thì viện trợ các vũ khí hạng nặng. Tôi nghĩ rằng nếu như nợ TQ thì là Ban lãnh đạo Đảng CSVN nợ TQ chứ nhân dân VN thì không nợ TQ.”

Trong bài viết “Việt nam không mang ơn Trung quốc” của tác giả Vương Trí Dũng trên trang Bauxite gần đây, tác giả đã viết rằng “Ngay từ ban đầu lãnh đạo Trung Quốc giúp Việt Nam là vì lợi ích của chính Trung Quốc. Nếu Trung Quốc không có lợi, lãnh đạo Trung quốc đã không giúp Việt Nam. Không phải tự nguyện hay do Việt Nam đề nghị, mà lãnh đạo Trung Quốc buộc phải giúp Việt Nam vì lợi ích sát sườn trực tiếp của chính Trung Quốc. Lãnh đạo Trung Quốc không phải tình cờ hay chỉ thông thường mà có chủ mưu sâu xa thâm độc trong lá bài giúp đỡ Việt Nam. Lãnh đạo Trung Quốc giúp Việt Nam chống Pháp và Mỹ không chỉ bảo vệ lợi ích của Trung Quốc trước sự đe dọa của Pháp và Mỹ mà còn có mục đích chiếm đoạt thống trị Việt Nam.”

Trung Quốc nợ Việt Nam thì có…

Trả lời câu hỏi trong cuộc chiến tranh VN với sự chi viện rất lớn của TQ và các nước XHCN thì VN có nợ TQ hay không? Ông Khuất Duy Chiến thấy rằng sự giúp đỡ của TQ trong các cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ là sự giúp đỡ dưới trách nhiệm của tình đoàn kết quốc tế vô sản. Mà thực chất là các bên với cùng mục đích chung để bành trướng ý thức hệ cộng sản trên toàn cầu, trên cơ sở sử dụng xương máu của người Việt để thực hiện ý đồ đó.

” Cái nợ của TQ đối với nhân dân VN là nợ máu và nợ lãnh thổ, nên không thể nói VN mang ơn TQ được. Nếu như ban lãnh đạo Đảng CSVN mang ơn thì đấy là chuyện của họ. Còn quan điểm của tôi là một công dân VN, là một người VN tôi không chấp nhận được điều này

Ông Nguyễn Tường Thụy”

Ông Khuất Duy Chiến nói với chúng tôi:

“Nói về nợ, thì Trung Quốc đã từng giúp Việt Nam lương thực, quân trang, quân dụng, vũ khí… trong chiến tranh chống Mỹ . Nhưng đó là họ làm nghĩa vụ quốc tế, dựa trên chiến lược của ý thức hệ của Chủ nghĩa Cộng sản, với mong muốn nhuộm đỏ toàn thế giới. Chẳng qua là một bên bỏ sức người, một bên bỏ sức của thôi. Thử hỏi rằng nếu xét về người và của thì cái gì quý hơn?”

Ông Nguyễn Tường Thụy thấy rằng trong các cuộc chiến tranh kéo dài đã có khoảng 4-5 triệu người VN của cả hai bên đã chết trong các cuộc chiến này mà không thể tiền bạc nào trả nổi. Đúng ra TQ phải mang ơn VN đã dùng xương máu của từng ấy triệu người chiến đấu cho việc lan tỏa của Chủ nghĩa CS. Cái nợ đó là nợ bằng máu của người VN, mà theo ông VN chằng có gì phải mang ơn TQ. Đó là chưa kể đến việc TQ đã lợi dụng để bành trướng về lãnh thổ, lãnh hải cụ thể là Bãi Tục lãm và Quần đảo Hoàng sa, đảo Gạc ma… của VN.

Ông Nguyễn Tường Thụy nói với chúng tôi:

“Cái nợ của TQ đối với nhân dân VN là nợ máu và nợ lãnh thổ, nên không thể nói VN mang ơn TQ được. Nếu như ban lãnh đạo Đảng CSVN mang ơn thì đấy là chuyện của họ. Còn quan điểm của tôi là một công dân VN, là một người VN tôi không chấp nhận được điều này”.

Tư duy cùng chung ý thức hệ cộng sản và chuyện ‘ơn nghĩa’ giữa hai đảng đang khiến cho chính quyền Hà Nội chưa thể đưa ra biện pháp dứt khoát, rõ ràng trong việc giải quyết căng thẳng Trung Quốc xâm chiếm Biển Đông như hiện nay.

Đất Nước Nhìn Từ Phan Rang

Đất Nước Nhìn Từ Phan Rang

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

“Phan Rang không phải là địa phương duy nhất mà những nông dân cần mẫn bị dồn vào cảnh tan gia bại sản, những công dân bất khuất phải chịu cảnh tù đầy, và những kẻ mê muội tối tăm thì trở thành … chính khách. Hiện nay, gần như mọi nơi trên đất Việt đều có những nạn nhân như ông Nguyễn Văn Tiềm, ông Phan Ngọc Tuấn, và loại đại biểu quốc hội như Nguyễn Bắc Việt.”

Tôi sinh trưởng ở cao nguyên, nơi hoàn toàn chả có biển rộng hay sông dài gì ráo. Đến tuổi mười lăm, mười sáu, khi những xe gắn máy của Nhật tràn ngập miền Nam, tôi mới có dịp nhìn thấy bãi biển Ninh Chữ – lần đầu – ở Phan Rang.

Từ Đà Lạt xuống Phan Rang, tên gọi nguyên thủy của tỉnh Ninh Thuận bây giờ, phải đổ đèo Dran và Krong Pha. Cả hai đều rất dài, rất “ngoạn mục,” và cũng rất hợp với cái tính khí (“dế mèn phiêu lưu ký”) của những đứa trẻ vừa mới lớn.

Lũ choai choai chúng tôi chỉ phóng Honda chừng vài ba tiếng là đến trung tâm thành phố. Sau khi chia nhau vài ổ bánh mì và mấy ly nước mía, cả đám chạy vù ngay ra biển. Lặn hụp, tắm táp qua loa rồi lại quầy quả quay về – cho kịp bữa cơm chiều!

Bãi biển Ninh Chữ. Nguồn ảnh: nhommua.com

Chúng tôi “đi du lịch” vội vã (như đi ăn cướp) không phải vì thiếu thời gian mà vì tiền túi chỉ vừa đủ đổ săng, cùng với bánh mì với nước mía thôi – ở motel hay khách sạn là chuyện rất xa vời, quá tầm tay với. Bởi vậy nên tôi không nhớ gì nhiều về Phan Rang – ngoài gió cát, núi đá, ánh nắng chói chang (và không khí nóng như rang) ở phố thị này.

Thời gian, tuổi đời, cùng nhiều thành phố xa lạ (với những bãi biển tuyệt vời) ở xứ người khiến cho Phan Rang chìm sâu trong tôi như viên sỏi nhỏ chìm lỉm dưới lòng một dòng sông hối hả. Mấy chục năm sau tôi mới hốt hoảng chợt nhớ đến cố hương, sau khi nghe tin dự án về dự án điện hạt nhân ở Ninh Thuận. Và cũng từ đây tôi mới biết chuyện về ông Tiềm Điên qua bài viết (“Từ Chủ Trang Trại Điển Hình Phải Trở Về Tay Trắng”) của ký giả Mai Quốc Ấn, trên báo Sài Gòn Tiếp Thị:

 

Ông Tiềm thẫn thờ bên đống hoang tàn. Ảnh và chú thích: Mai Quốc Ấn

Doanh nhân ấy có biệt danh là Tiềm “điên” với tên thật là Nguyễn Văn Tiềm, người dám đi vay hàng trăm triệu đồng vào năm 1998 chặn dòng một con suối ở sông Ông, Ninh Thuận tự mình làm thuỷ điện. Từ sức người, ông biến một vùng cằn cỗi mà chính dân địa phương còn thừa nhận là “chó ăn đá, gà ăn sỏi” thành xưởng sản xuất nước đá, khu du lịch sinh thái theo mô hình trang trại nổi tiếng khắp nơi.

Tuy nhiên, trang trại ấy, phần lớn đã bị quy hoạch, bởi những quyết định lạnh lùng, lấy đất cho một doanh nghiệp khác làm thuỷ điện. Doanh nhân Nguyễn Văn Tiềm đi lên từ chân đất giờ trở về với chân đất. Gặp chúng tôi vào những ngày giữa tháng 6, ông Tiềm cho biết sẽ tiếp tục khiếu nại vì hy vọng sẽ đòi được công bằng theo suy nghĩ của mình. Như bao vụ giải toả khác, chuyện của ông Tiềm cũng để lại cho chúng tôi nhiều suy nghĩ, ngậm ngùi khi mồ hôi nước mắt và tâm huyết của cả đời người bỗng chốc tan tành…

Mặc cho gia đình ông Tiềm khiếu nại, trưng ra những giấy tờ, bằng chứng nhưng chính quyền vẫn nhất quyết cưỡng chế. “Hôm đó họ dẫn theo công an, dân phòng đông lắm, chẳng khác gì vụ cưỡng chế ở Tiên Lãng. Chỉ khác một điểm tôi đã cố nén để không liều mạng…”

Ông Nguyễn Văn Tiềm, nói nào ngay, cũng không điên lắm – ít nhất thì cũng chưa điên đến độ “liều mạng” như một công dân Việt Nam khác (cũng ở Phan Rang) là ông Phan Ngọc Tuấn. Ông Tuấn không “nén,” cũng chả “nín nhịn” gì sốt cả. Ông ngang nhiên viết trước nhà một hàng chữ lớn: GIA ĐÌNH BỊ PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ VÌ LÝ DO CHÍNH KIẾN.

Ảnh: Đỗ Vũ, DLB

Theo biên tập viên Đỗ Vũ thì “hành trình” để ông Tuấn bước vào vòng lao lý bắt nguồn từ hai nỗi oan sai của gia đình:

1. Vụ việc vợ ông bị đuổi khỏi công ty vệ sinh môi trường một cách bất hợp pháp. Vợ chồng ông đã đi kêu oan nhiều lần nhưng đều vô vọng.

2. Vụ án cháu ruột của ông Tuấn bị tai nạn xe cán chết. Nhưng phía gây tai nạn đã thông đồng hối lộ với cơ quan điều tra tỉnh Ninh Thuận nên họ chỉ bồi thường cho gia đình ông hơn 30 triệu đồng. Có kêu oan từ địa phương đến trung ương cũng vô ích.

Và trên con đường tìm công lý cho gia đình mình ông Tuấn gặp nhiều mảnh đời còn oan khiên, cay đắng hơn gia đình ông hàng trăm lần. Ông đã nhận ra bộ mặt thật của chế độ cầm quyền hiện nay ở Việt Nam.

Ông Tuấn đã tìm mọi cách vạch trần tội ác. Ông đã làm thơ, vè, làm truyền đơn rải từ Bắc chí Nam…Ông Tuấn công khai tên tuổi và địa chỉ, số điện thoại của ông trên các truyền đơn đã rải…

Ở Việt Nam mà ghi rõ tên tuổi, địa chỉ và điện thoại trên những tờ rơi rồi mang đi rải khắp mọi nơi thì cuộc đời kể như …rồi. Từ Paris, vào ngày 6 tháng 6 năm 2012, phóng viên Thanh Phương (RFI) đã có bài tường thuật ngắn về vụ án Phan Ngọc Tuấn. Xin ghi lại vài chi tiết chính:

Tòa án Nhân dân tỉnh Ninh Thuận vừa tuyên phạt 5 năm tù giam ông Phan Ngọc Tuấn, ngụ tại Phan Rang, với tội danh « truyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam », một tội danh vẫn thường được sử dụng để bỏ tù các nhà bất đồng chính kiến ở Việt Nam…

Ông Phan Ngọc Tuấn cũng bị buộc tội là đã nhiều lần phát tán nhiều tờ rơi có nội dung « nói xấu lãnh đạo Đảng, lãnh đạo chính quyền địa phương » tại Phan Rang. Cũng theo bản cáo trạng, ông Tuấn còn đã « lôi kéo » con trai là Phan Nguyễn Ngọc Tú tung lên mạng những clip video có nội dung « chống phá Nhà nước ».

Trong phiên xử, ông Phan Ngọc Tuấn đã không nhận tội và chính vì thái độ bị cho là « ngoan cố » này mà toà đã tuyên phạt bị cáo 5 năm tù giam, cộng thêm 3 năm quản chế sau khi ra tù, trong khi Viện Kiểm sát chỉ đề nghị mức án từ 36 đến 42 tháng tù giam…

Ông Phan Văn Tuấn, và ông Tiềm Điên (dù điên tới cỡ đó) vẫn không khiến cho dư luận quan tâm và bàng hoàng bằng ông Nguyễn Bắc Việt – Thường Vụ Tỉnh Uỷ và Đại Biểu Quốc Hội ở địa phương này.

Nguồn ảnh: vbsp.org.vn

Wikipedia chỉ ghi ngắn gọn ông là một … chính khách! Trần Trung Đạo cho biết thêm: “Nguyễn Bắc Việt còn khá trẻ, sinh năm 1961, trình độ học vấn thạc sĩ nhưng khi phát biểu lại giống như sinh năm 1930, trình độ học vấn mù chữ.”

Chớ ông Đại Biểu Quốc Hội tỉnh Ninh Thuận “phát biểu” ra sao mà khiến cho ông nhà văn giận dữ (dữ) vậy cà? Sau việc Trung Cộng Quốc ngang nhiên đặt giàn khoan trong vùng biển Việt Nam, ông Nguyễn Bắc Việt đã đăng đàn và “tham gia một số ý kiến” như sau:

Về vấn đề biển Đông, từ sáng tới giờ và những ngày qua trong phát biểu tôi đồng tình với các ý kiến phát biểu ở một vế, đó là vế thể hiện lòng yêu nước. Nhưng còn một vế theo tôi là chúng ta chưa thực sự quan tâm, đó là yêu chế độ và lo cho con tàu Cộng sản và công dân quốc tế.

Thời điểm này chúng ta nên nhớ Di chúc của Bác, Bác để lại cho chúng ta lời di chúc trong đó khi nói về phong trào Cộng sản Bác đã nói là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em. Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản có lý có tình… phải biết đau lòng với tình hình hiện nay của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế. Hai nước xã hội chủ nghĩa lình xình với nhau như thế này, ai có lợi…

Thiệt là hết thuốc!

Phan Rang không phải là địa phương duy nhất mà những nông dân cần mẫn bị dồn vào cảnh tan gia bại sản, những công dân bất khuất phải chịu cảnh tù đầy, và những kẻ mê muội tối tăm thì trở thành … chính khách. Hiện nay, gần như mọi nơi trên đất Việt đều có những nạn nhân như ông Nguyễn Văn Tiềm, ông Phan Ngọc Tuấn, và loại đại biểu quốc hội như Nguyễn Bắc Việt.

Bởi thế, chúng ta không nên bận tâm lắm đến dã tâm và lòng tham của bởi ông bạn láng giềng phương Bắc. Cho dù nay mai Việt Nam có thể biến thành “một khu tự trị” (như Nội Mông, Tân Cương, Ninh Hạ hay Tây Tạng) chăng nữa thì Trung Cộng cũng chỉ có thể  ra tay trấn lột hay trấn áp người dân một cách tàn tệ  đến như trường hợp của hai ông ông Nguyễn Văn Tiềm hay Phan Ngọc Tuấn là cùng. Bắc Kinh cũng không thể nào tìm ra được những đại biểu nhân dân tăm tối và ngu đần hơn ông Nguyễn Bắc Việt.

Cho đến ngày 18 tháng 4 năm 2014 công  luận mới xôn xao vì chuyện mười sáu người dân ở khu tự trị Tân Cương (kể cả bốn phụ nữ và hai trẻ em) vượt biên và bị bắn chết ở biên giới Việt Nam. Thiên hạ dường như đã quên rằng từ cuối thế kỷ XX đã có hàng triệu người Việt bỏ mạng tại biên giới Việt – Miên, hay vùi thây trong lòng biển Thái, trên đường đào thoát.

Cái tròng Trung Cộng chắc gì đã chặt hơn cái tròng của Việt Cộng mà lo. Hơn nữa, với đạo quân chiếm đóng khác chủng tộc và ngôn ngữ, việc nhận diện kẻ thù – chắc chắn – sẽ dễ dàng hơn. Bọn nhận giặc làm cha cũng đều sẽ phải lộ mặt, và không còn có cơ hội để giả danh cách mạng như hiện tại.

Giặc ngoại xâm dễ đánh hơn bọn nội xâm, hoặc thanh toán luôn cả hai cho nó tiện việc sổ sách. Thì cũng nói đại như vậy cho nó vui thôi chớ Trung Cộng có “tiềm năng” tự huỷ rất cao. Và khi nó tiêu tùng thì Việt Cộng còn biết bám vào đâu để mà tồn tại nữa?

 

Kế hoạch xâm lấn Việt Nam theo kiểu “tằm ăn dâu” của Trung cộng, và sự tiếp tay đồng lõa của CSVN

Kế hoạch xâm lấn Việt Nam theo kiểu “tằm ăn dâu” của Trung cộng, và sự tiếp tay đồng lõa của CSVN

Chuacuuthe.com

VRNs (01.07.2014) – Texas, USA – Trước việc Trung Cộng ngang nhiên đặt giàn khoan dầu ngay trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, nhiều người dân nhận thấy Trung Cộng đang dần dần xâm chiếm đất nước ta từng bước một. Sở dĩ Trung cộng làm được điều này là nhờ Đảng và nhà nước CSVN tiếp tay đồng loã.

Thời nay, Trung cộng không thể xâm chiếm đất nước ta bằng cách tràn quân qua biên giới để tiến sâu vào nội địa Việt Nam như thời nhà Nguyên, nhà Minh ngày xưa đã từng làm. Thế giới hiện nay được tổ chức lại một cách có quy củ và trật tự hơn, việc xâm lăng như thế sẽ bị thế giới kết án và sau đó là tẩy chay, chế tài. Vì thế, để thực hiện mộng bành trướng, Trung cộng xâm chiếm các nước nhỏ theo một hình thức mới, vừa an toàn, vừa hữu hiệu, lại vừa tránh được sự kết án của thế giới.

Đó là xâm chiếm một cách tiệm tiến theo kiểu “tằm ăn dâu”, hay theo kiểu “luộc ếch chậm”. Phương cách này lợi hại ở chỗ nó làm cho dân tộc bị xâm chiếm không cảm thấy nguy hiểm quá đột ngột khiến dân tộc ấy phải phản ứng chống lại ngay. Ngược lại, nó làm cho dân tộc ấy nếu không chống lại ngay được thì sẽ tự thích ứng tình trạng hiện tại, cứ thích ứng như thế cho tới khi “con tằm ăn hết lá dâu” hay “con ếch bị luộc chín trong nồi nước sôi” ([1]), hay tới khi Việt Nam chính thức trở thành một tỉnh của Trung cộng.

Muốn thực hiện thành công phương cách xâm chiếm này, Trung cộng rất cần sự tiếp tay đồng lõa của thế lực cầm quyền đang điều hành bộ máy nhà nước của dân tộc ấy. Thiếu sự tiếp tay đồng lõa này thì việc xâm chiếm không thể thực hiện được.

Để thực hiện việc xâm chiếm Việt Nam, Trung cộng đã phải chuẩn bị nhiều thập niên trước để có được một bộ máy nhà nước nội gián, làm công cụ, sẵn sàng tiếp tay đồng lõa với Trung cộng như nhà nước CSVN hiện nay. Và tới nay, họ đã thành công. Bằng chiến thuật đơn giản và cổ điển là “cây gậy và củ cà-rốt”, hay nói cụ thể hơn là “thưởng và phạt”, họ đã biến đảng CSVN thành một tập đoàn tay sai, giúp họ thực hiện mộng thôn tính toàn Việt Nam theo kế hoạch “tằm ăn dâu” như đã nói trên.

Đảng CSVN sở dĩ chấp nhận một việc ngu xuẩn và bán nước như vậy chính vì tham vọng muốn nắm quyền độc tôn trường trị dân tộc Việt Nam, không chấp nhận nhường quyền cai trị cho bất cứ một đảng hay một thế lực nào khác cho dù có xứng đáng hơn mình gấp trăm lần hay có thể làm đất nước tiến bộ, giàu mạnh trên thế giới hơn mình. Nỗi sợ lớn nhất của đảng CSVN là bị mất quyền cai trị, nên với bất cứ giá nào, cho dù phải hy sinh cả dân tộc này, họ phải giữ cho bằng được “cái ghế quyền lực” mà họ đang ngồi trên đó. Trung cộng nắm được tham vọng cũng như nỗi sợ đó, nên tha hồ đe dọa lẫn dụ dỗ, mua chuộc cũng như lũng đoạn cả bộ máy cai trị của CSVN.

Kế hoạch xâm chiếm Việt Nam theo kiểu “tằm ăn dâu” này là gì? Để hiểu rõ kế hoạch này, chúng ta cần xét việc làm của hai phía: Trung cộng và CSVN.

140701002

1. Phía Trung cộng

Trung cộng chủ trương thực hiện việc xâm chiếm dần dần từng bước lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam theo đủ mọi cách, và dưới nhiều hình thức khác nhau. Khi thì ký mật ước xác định lại các mốc ranh giới phía bắc Việt Nam khiến Việt Nam mất đi hàng ngàn cây số vuông dọc theo biên giới phía bắc. Khi thì ký Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ khiến Việt Nam mất đi hàng chục ngàn cây số vuông biển. Khi thì ký hợp đồng với CSVN để lập những khu công nghệ ngay trên lãnh thổ Việt Nam như khai thác bauxit ở Tây Nguyên (một vùng có tầm chiến lược hết sức quan trọng cho sự tồn vong của Việt Nam), thuê rừng đầu nguồn để khai thác một nguồn lợi nào đó. Khi thì chấp nhận cho dân của Trung cộng được tự do nhập cư vào Việt Nam không cần visa, từ đó phát sinh những China town, những trung tâm du lịch của Tầu ở rải rắc khắp nơi tại Việt Nam… Khi thì đòi CSVN phải chấp nhận cho những khu China town kia được tự trị. Khi thì dùng sức mạnh quân sự đánh chiếm một số hải đảo của Việt Nam như đảo Gạc Ma, đảo Len Đao, đảo Chữ Thập, v.v… Còn nhiều sự việc khác không tiện kể dài dòng ở đây.

Trung cộng thì cứ việc từ từ lấn tới, chiếm dần lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam cũng như dần dần điều khiển bộ máy lãnh đạo của đảng và nhà nước CSVN. Hiện nay tuy mới chỉ chiếm được một số lãnh thổ và lãnh hải, nhưng rõ ràng là Trung cộng đã nắm trong tay bộ Chính trị, Quốc hội CSVN nên Việt Nam cứ càng ngày càng bị mất đất mất biển dần dần vào tay Trung cộng.

2. Về phía Việt Nam

Công việc mà Trung cộng đòi buộc bọn tay sai CSVN phải làm được là làm sao giúp Trung cộng giữ được, bảo vệ được những thành quả đã đạt được, nghĩa là Trung cộng chiếm được bất kỳ phần đất hay phần biển nào của Việt Nam, thì CSVN phải làm sao tiếp tay để Trung cộng giữ được hay bảo vệ được nguyên trạng vừa mới thành hình.

Để thực hiện được nhiệm vụ này, trước hết CSVN phải che dấu để người dân không nhìn thấy được bản chất của mình là bán nước, là đang tiếp tay giúp Trung cộng xâm lược tổ quốc mình theo kiểu “tằm ăn dâu”. Kế đến, CSVN phải hoàn toàn kiểm soát được phản ứng của người dân trong nước đối với việc Trung cộng chiếm đất hay chiếm biển của Việt Nam, không được để dân chúng phản ứng quá mạnh.

– Để che dấu trước người dân bản chất bán nước và hành động tiếp tay giúp Trung cộng xâm lược, CSVN phải giả bộ phản đối Trung cộng mỗi khi Trung cộng chiếm được một phần đất hay phần biển, hoặc mỗi khi Trung cộng xâm phạm chủ quyền Việt Nam một cách nghiêm trọng như trường hợp cắt cáp tàu Bình Minh hay cắm dàn khoan khổng lồ HD-981 và giàn khoan NH-9 ngay trong thềm lục địa thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Trung cộng cho phép CSVN được đóng kịch, nghĩa là được phép phản đối Trung cộng trong mức độ vừa phải, miễn sao không đến nỗi buộc Trung cộng phải rút lui hay lùi một bước so với những gì đã đạt được. Nếu không giả bộ phản đối trước những hành vi xâm phạm quá trắng trợn và nghiêm trọng của Trung cộng, thì người dân sẽ thấy quá rõ ràng và có thể xác định được chắc chắn bản chất đồng lõa tiếp tay của CSVN. Điều này khiến người dân quá phẫn nộ, có thể nổi dậy lật đổ đảng CSVN; điều này sẽ gây bất lợi cho cả Trung cộng (vì không còn tay sai để tiếp tay Trung cộng xâm lược Việt Nam nữa).

Thật vậy, có những lúc CSVN mua vũ khí, tàu ngầm, máy bay như thể đang chuẩn bị chống lại Trung cộng, hay tổ chức những buổi hội thảo về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng-Trường Sa, hay có lúc CSVN phản đối Trung cộng khá mạnh mẽ đến nỗi nhiều người dân “mừng húm”, những tưởng CSVN đã thay đổi, đã từ bỏ hẳn lập trường thân Trung cộng mà trở thành chống đối. Nhưng sau đó thì dường như tình hình chẳng có chuyện gì thay đổi cả. Tất cả chỉ là đóng kịch để lòe bịp dân chúng, để dân chúng nghĩ rằng CSVN cũng chống lại Trung cộng, chứ đâu có tiếp tay cho giặc.

– Để hoàn toàn kiểm soát được phản ứng của người dân trong nước đối với việc Trung cộng chiếm đất hay chiếm biển của Việt Nam, CSVN đành phải chấp nhận cho người dân biểu tình phản đối Trung cộng trong mức độ mà họ có thể kiểm soát được. Sự cho phép này có thể đánh lừa người dân thơ ngây cho rằng CSVN cũng thực tình muốn chống Trung cộng. Tuy nhiên, nếu cuộc biểu tình có nguy cơ lớn mạnh hơn, vuột khỏi mức độ kiểm soát được của CSVN, hoặc biến thành biểu tình chống lại chế độ, thì họ sẵn sàng thẳng tay đàn áp không nhân nhượng.

Nếu hiểu được phương pháp xâm chiếm Việt Nam của Trung cộng được sự tiếp tục đồng lõa của CSVN thì chúng ta sẽ không bị CSVN lừa dối. Chúng ta sẽ không “mừng húm” khi thấy CSVN đóng kịch giả phản đối Trung cộng cách mạnh mẽ, giả bộ bắt tay với Hoa Kỳ để nhờ Hoa Kỳ chống lại Trung cộng, giả bộ lên tiếng sẽ kiện Trung cộng ra trước tòa án quốc tế, v.v… Chắc chắn còn nhiều trò giả bộ, đóng kịch khác…

CSVN nhiều lần cho vài ba chiếc tàu hải giám bằng gỗ hay bằng sắt nhỏ gấp nhiều lần tàu của Trung cộng ra vùng giàn khoan HD-981 để mang danh giám sát việc làm của Trung cộng. Thế rồi cả hàng chục chiếc tàu sắt lớn của Trung cộng ra xông ra nghênh chiến, phun vòi rồng và đâm vào tàu Việt Nam khiến tàu Việt Nam bị hư hại nặng nề, thậm chí phía Việt Nam có người bị thiệt mạng hoặc bị trọng thương. Chắc chắn đây chỉ là trò đóng kịch lố lăng của CSVN, vừa tốn tiền thuế của dân (do những chiếc tàu Việt Nam bị hư hại), vừa hy sinh nhân mạng người Việt cách phí phạn. CSVN làm như thế chỉ là để cho người dân thấy rằng CSVN cũng tìm cách… giám sát, phản đối, đối phó Trung cộng chứ đâu phải không làm gì.

Nhưng việc cần làm hơn và ích lợi hơn gấp bội là chính Quốc hội CSVN, trên danh nghĩa là cơ quan quyền lực cao nhất của Việt Nam, phải ra một nghị quyết phản đối Trung cộng, thì CSVN lại không chịu làm. Điều này chứng tỏ Quốc hội CSVN hoàn toàn vô trách nhiệm trước nguy cơ mất nước của cả dân tộc. Nếu Quốc hội không làm thì Chủ tịch nước hay Bí thư đảng phải lên tiếng phản đối chính thức bằng văn bản. Hay việc cần làm gấp là kiện cáo Trung cộng về vụ Hoàng Sa và Trường Sa ra trước tòa án Quốc tế, vì mình đã đầy đủ bằng chứng thuyết phục để có thể thắng kiện. Những việc hết sức cần thiết phải làm, tại sao đến giờ này CSVN vẫn chưa chịu làm?

Việc thật sự cần làm thì không làm, khiến cho những việc không cần làm kia chỉ lộ ra tính “đóng kịch” của chúng mà thôi.

Sau khi Trung cộng cắm giàn khoan HD-981 vào hải phận Việt Nam, với sự phản đối chiếu lệ và đóng kịch của CSVN, thì Trung cộng chẳng những không dời HD-981 đi mà còn tiến hành bước kế tiếp là đưa thêm giàn khoan NH-9 vào nữa. Nếu CSVN cứ tiếp tục phản đối cách yếu sìu như thế thì Trung cộng sẽ còn tiếp tục cắm nhiều giàn khoan khác nữa, sẽ còn nhiều màn lấn tới nữa… Cuối cùng Việt Nam sẽ ra sao?

Điều quan trọng là người Việt trong và ngoài nước nhận thức được ác tâm của Trung cộng quyết xâm lấn Việt Nam theo kiểu “tằm ăn dâu” và dã tâm của CSVN muốn tiếp tay giúp Trung cộng thực hiện việc xâm lấn ấy bằng cách phản đối một cách chiếu lệ, hầu tạo điều kiện thuận lợi cho Trung cộng tiến hành bước xâm lấn kế tiếp.

Nhận thức được như thế, chẳng lẽ chúng ta lại chấp nhận thích ứng với tình trạng hiện tại như kiểu con ếch trong thí nghiệm “luộc ếch chậm”, nó sẵn sàng thích ứng với nước đang nóng lên rất từ từ, cho tới khi không chịu được mới quyết định nhảy ra, thì lúc ấy… đã quá muộn! Năng lực cần thiết để có thể nhảy ra thì đã tiêu thụ hết trong việc thích ứng với nhiệt độ nóng dần rồi, nên cuối cùng đành chấp nhận bị luộc chín! Không hành động kịp thời, e rằng khi thấy mất nước tới nơi mới hành động thì… đã quá muộn!!!

Nguyễn Chính Kết

1] Trong một trang facebook nọ có kể về một thí nghiệm thật ý nghĩa và thích hợp để minh họa cho kế hoạch tiệm tiến của Trung cộng trong việc xâm chiếm Việt Nam.

Khởi đầu, người ta bỏ một con ếch vào một nồi nước nóng khoảng 70 độ C. Con ếch lập tức nhẩy phóng ra ngoài liền, nhờ phóng ra mà nó tiếp tục sống. Sau đó, người ta bỏ con ếch đó vào một nồi nước lạnh, con ếch thấy không có gì nguy hiểm nên ngồi yên trong đó. Người ta bắt đầu đun từ từ cho nước nóng lên thật chậm. Khả năng thích nghi với môi trường của loài ếch rất cao, nên khi nước nóng lên từ từ nó vận dụng khả năng thích ứng đó và cảm không thấy có gì nguy hiểm đến nỗi phải nhẩy ra khỏi nồi nước cả. Đến khi nước nóng tới độ không chịu được nữa nó mới quyết định nhảy ra. Nhưng lúc này nó nhảy ra không nổi vì năng lực của nó đã cạn kiệt do tiêu hao quá nhiều vào việc thích ứng với nhiệt độ tăng dần của môi trường. Chú ếch đành ở lại trong nồi để rồi cuối cùng bị luộc chín.

Nguồn: http://nguyenchinhket1.blogspot.com/2014/06/kehoachtamandaucuatrungcong.html

Mệnh lệnh từ Quảng Đông?

Mệnh lệnh từ Quảng Đông?

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-06-30

06302014-quangdong-kh.mp3

truongtansang-305.jpg

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tiếp ông Hồ Xuân Hoa, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông, Trung Quốc tại Phủ Chủ Tịch hôm 14/4/2014

Courtesy of truongtansang.net

Giữa lúc tình hình biển Đông đang căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc xung quanh việc giàn khoan dầu của Trung Quốc được hạ đặt trong thềm lục địa Việt Nam, một công văn đến từ bộ ngoại giao Việt Nam đề ngày 3/6/2014 gửi cho một số cơ quan, bộ, tỉnh và thành phố trong nước được tiết lộ.

Nội dung của công văn này đề cập đến chuyến làm việc tại Việt Nam của ông Hồ Xuân Hoa, bí thư đảng cộng sản Trung Quốc tỉnh Quảng Đông vào tháng tư năm 2014. Theo công văn này thì sau chuyến làm việc ở Việt Nam ông Hồ Xuân Hoa có gửi cho Bộ ngoại giao Việt Nam một công văn đề ngày 25/4/2014, tức là 3 tuần sau khi giàn khoan Trung Quốc được kéo vào thềm lục địa Việt Nam.

Nguyên văn đọc được trong công văn của Bộ ngoại giao Việt Nam như sau:

Ngày 20/5/2014, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc gửi Bộ Ngoại giao bản Danh mục các công việc cần làm sau chuyến thăm Việt Nam của Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư tỉnh ủy Quảng Đông Hồ Xuân Hoa (13 -17/4/2014).

Hai mục đầu tiên trong danh sách những việc cần làm này là thúc đẩy những người đứng đầu đảng cộng sản tại Hà nội và TP HCM sang thăm Quảng Đông, và xúc tiến đào tạo cán bộ cộng sản cho đảng cộng sản Việt Nam tại Trung Quốc.

Theo những lời bình phẩm từ các trang mạng có đăng tờ công văn này thì lời lẽ được dùng ở đây không mang tính chất ngoại giao mà mang tính chất một chỉ thị của cấp trên, và trong trường hợp này là chỉ thị của bí thư đảng tỉnh Quảng Đông cho Bộ ngoại giao nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Anh Văn, một cựu đảng viên đảng cộng sản, hiện sống ở Nha Trang cho biết ý kiến của anh:

“ Nếu đó là sự thật thì quan điểm của tôi là không đồng tình. Rõ ràng mang tính chất bắt tay quá trong tình hình nóng như thế này.”

Anh cho biết thêm là chuyện quan hệ giữa hai đảng cộng sản từ trước tới nay là chuyện bình thường.

“…cười…tuy hai mà một, tuy một mà hai. Đảng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam từ trước đến nay rất mật thiết, họ giúp đỡ nhau trong việc xây dựng lực lượng, đào tạo cán bộ.”

Một cựu đảng viên khác, dạy học tại TP HCM nói:

Lúc này họ phải công khai công văn này với những cán bộ công chức ở TP HCM. Khi thấy công văn đó, tôi có cảm giác về những ngày cuối của chính quyền này.”

Không phải ai ở Việt Nam cũng quan tâm đến những vấn đề có liên quan về chính trị. Một nữ họa sĩ trẻ tại Hà nội nói rằng chị chưa nghe đến việc này, và cũng có nhiều nguwofi như chị không quan tâm đến chính trị, sở dĩ có việc đó là vì người ta thấy rằng chuyện quan tâm không đem lại thay đổi gì.

Trước nay họ vẫn được tập luyện là không nên quan tâm, còn bây giờ tới mức này rồi thì họ cũng chỉ quan tâm đến mức độ ở quán bia thôi. Rất đáng buồn là như thế.”

Chị cho rằng sự quan tâm đến thời sự của cư dân Việt Nam hiện nay là ở thành phố lớn, còn ở nông thôn thì người dân không quan tâm gì.

Một người đàn ông tuổi trung niên ở TP HCM cho biết:

Tình hình hai nước căng thẳng mấy tháng vừa qua thực ra là căng thẳng lâu lắm rồi. Tình trạng bắn giết ngư dân đã từ lâu rồi. Nay lại thêm cái giàn khoan. Thực sự cái giàn khoan đó là cái bung xung thế thôi. Hai bên chính phủ chắc nói với nhau hết rồi, không có gì lạ. Còn bây giờ cái chuyện đi qua Quảng Đông thì đi để làm gì? Để làm phiên thuộc hay là nghe chỉ thị? Hay thực sự làm đối tác, hay đối tác kiểu gì?”

Sự tiết lộ công văn trên đây của Bộ ngoai giao lại cũng làm nhiều người liên tưởng đến công hàm Phạm Văn Đồng hồi năm 1958, rằng có quá nhiều vấn đề trong quan hệ giữa hai Quốc gia cộng sản bị giấu diếm.

Người hoạ sĩ trẻ ở Hà nội nói tiếp:

Có quá nhiều sự bị bưng bít. Những lợi ích giữa những nhóm giữa hai đảng thì người ta không cho người dân biết. Ví dụ như cái công hàm Phạm Văn Đồng thì cho đến gần đây người dân mới được biết nhiều hơn.”

Trao đổi với chúng tôi cách đây không lâu Tiến sĩ Hà Sĩ Phu, một nhà bất đồng chính kiến trong nước có nói rằng quan hệ giữa hai Quốc gia cộng sản thực ra chỉ là quan hệ giữa hai đảng cộng sản mà thôi.

Và người đàn ông trung trung niên ở thành phố Hồ Chí Minh nói rằng những việc xảy ra gần đây cho thấy rằng đảng cộng sản Việt Nam không phải đi đồng hành cùng dân tộc.

Mới đây, chủ tịch nước Trương Tấn Sang có nói rằng việc Việt Nam được Trung Quốc giúp đỡ trước đây thì Việt Nam sẽ mang ơn nhưng Trung Quốc đừng áp đạt. Không rõ chủ tịch nước sẽ nói gì nếu như được hỏi về nội dung của công văn Bộ ngoại giao về những việc mà các cơ quan tỉnh thành Việt Nam phải làm này.

 

Khi ‘thế hệ thứ hai’ ‘ghét làm người Việt’

Khi ‘thế hệ thứ hai’ ‘ghét làm người Việt’
June 28, 2014

Nguoi-viet.com
Thiên An/Người Việt


CALIFORNIA (NV) –
Với những người trẻ thuộc thế hệ sinh ra và lớn lên ở một nước ngoài Việt Nam, việc tự nhận diện nguồn gốc xuất thân là một tiến trình phức tạp. Có người cho rằng họ “không hãnh diện làm người Việt Nam,” có người cho rằng đã và đang có sự mâu thuẫn trong tiến trình “tự nhận diện,” còn với một số khác, đó là hệ quả của sự va chạm văn hóa giữa các thế hệ.

 

Thế hệ thứ hai” “ghét làm người Việt” hay “tự hào làm người Việt”? (Hình: Thiên An/Người Việt)

Giá trị cộng đồng đối với cá nhân

“Tôi ghét làm người Việt. Vì những người đàn ông Việt tôi biết, nếu không hút thuốc, đánh bài, thì uống rượu, chè chén, bỏ mặc tôi để dành thời gian cho riêng họ. Như họ hàng tôi, cậu tôi, anh tôi, bạn tôi, và cha tôi…”

“Tôi ghét làm người Việt. Vì làm người Việt là ghét tất cả những người khác. Ghét người Hmông, ghét người Lào, ghét người Miên, ghét người Khmer, ghét người Mỹ đen. Ghét tất cả. Tự ghét luôn người mình. Vậy, có lẽ tôi cũng ‘Việt Nam’ nhiều như tôi chối bỏ.”

Fong Trần, một sinh viên cao học tại UC Davis từng được tờ Sacramento Bee phỏng vấn về các bài thơ anh viết, nói như trên trong bài thơ “Tôi ghét làm người Việt Nam.” Anh viết tặng riêng bài này cho lễ tốt nghiệp 2011 của các sinh viên khóa sau.

Fong từng tốt nghiệp bậc cử nhân tại UC Berkeley, trước khi trở về Sacramento, nơi gia đình sinh sống, để làm việc với cộng đồng và vận động cải thiện giáo dục cho thanh thiếu niên, và bắt đầu học cao học tại Đại Học UC Davis. Theo lời anh, viết thơ, văn nói (spoken word) vừa là sở thích, vừa là cách anh chia sẻ các thông điệp của mình. Đoạn kết của bài “Tôi ghét làm người Việt Nam” là sự thay đổi hoàn toàn trong suy nghĩ của Fong Trần.

Anh nay nhận mình là “một thanh niên Mỹ gốc Đông Nam Á – Việt Nam thuộc thế hệ thứ hai,” nhưng cho biết sự khẳng định mạnh mẽ này không tồn tại trước đây.

“Tôi đã đi một đoạn đường dài trước khi nhận ra là một người Việt có ý nghĩa như thế nào cho bản thân. Lớn lên trong một khu phố nghèo ở South Sacramento, một phần trong tôi luôn ghét làm người Việt vì những gì tôi nghĩ là gắn liền với thanh niên Việt: rượu chè, ít học, bài bạc, nghiện ngập, đánh nhau, nghèo khổ… Nhiều bạn học của tôi tham gia băng đảng vì họ không kiếm được việc làm.”

“Phải đến khi vào đại học, tôi lấy lớp về văn hóa người Mỹ gốc Á cùng các sinh viên khác, tôi mới nhận ra cộng đồng lớn hơn rất nhiều so với những cá nhân tốt, xấu. Nhiều yếu tố ảnh hưởng đến cộng đồng Việt Nam như nghèo đói, thiếu trình độ học vấn, không có người hướng dẫn, kỳ thị chủng tộc… Ví dụ, có nhiều tiệm rượu và casino trong khu vực của chúng ta hơn là trường học, bệnh viện… Và phải đến khi tôi đi Việt Nam tôi mới hiểu hết được nét đẹp của người Việt, hiểu được truyền thống, quan niệm khiến người Việt tốt bụng, mạnh mẽ.”

Fong Trần đọc bài thơ “Tôi ghét làm người Việt” trước sinh viên gốc Á tốt nghiệp năm 2011 ở UC Davis. (Hình: Fong Tran)

Người Mỹ, hay Người Mỹ Gốc Việt?

Fong Trần không phải là người duy nhất thuộc “thế hệ thứ hai” của người Việt từng “ghét làm người Việt.”

Chia sẻ cảm xúc tương tự có thể là hàng ngàn người đọc và đồng cảm với bài thơ của anh, hay có thể là các bạn trẻ chưa từng biết Fong Trần nhưng có những chia sẻ giống hệt.

“Thế hệ thứ hai” “ghét làm người Việt” hay “tự hào làm người Việt”? Có thể nói, qua lời nhận xét của các bạn sau đây trong đoạn phim tài liệu với đề tài “Cùng làm người Việt” (Being Vietnamese Together) của Hội Sinh Viên Việt Nam UVSA, là phụ thuộc vào từng hoàn cảnh, từng thời điểm và từng quan điểm cá nhân.

“Khi nghe nhóm chữ  ‘người Mỹ gốc Việt’, các bạn liên tưởng đến điều gì?”, câu hỏi được đặt ra.

Tâm Nguyễn nói: “Đó là sự pha trộn giữa việc làm một người Mỹ và làm một người Á Châu. Tùy người ít nhiều khác nhau. Tôi nghĩ mình “Mỹ nhiều hơn.” Tôi cố giữ gốc Á Châu của mình, nhưng tôi lớn lên ở đây, không hiểu được nhiều nếu người ta nói tiếng Việt.”

Huy Trần nói: “Tôi rất là Mỹ, rất thực dụng (materialistic). Tiếc là tôi không được biết nhiều về văn hóa Việt Nam. Tôi nói Tiếng Anh từ bé. Với tôi, ‘người Mỹ gốc Việt’ là người biết về văn hóa Việt Nam của cha mẹ. Nhưng không hẳn họ sẽ nối tiếp dòng văn hóa đó.”

Jenifer Nguyễn nói: “Họ lớn lên trong văn hóa Việt, giữa những người Việt khác, nhưng là tại Mỹ, nên ăn mặc và nói chuyện cũng khác, ví dụ như theo kiểu “hiphop”. Với tôi, tôi là người Việt Nam, tôi thấy tiếng Anh của mình dở, vì tôi phải nói Tiếng Việt với người lớn khi về nhà.”

Denise Trần nói:  “Tôi thấy trong họ là sự giằng co nội tâm, như khi tôi lớn lên. Đi học, tôi nói Tiếng Anh với thầy cô và bạn bè, khi về nhà, thì hoàn toàn khác. Tôi thấy trong ‘người Mỹ gốc Việt’ là những người kẹt giữa nền văn hóa họ đang sống và nền văn hóa của cha mẹ họ.”

Michelle Nguyễn nói: “Khi nghe ‘người Mỹ gốc Việt’, tôi cảm thấy đồng cảm. Tiếng Việt  là thứ ngôn ngữ đầu tiên trên vành môi. Khi tôi về Việt Nam, họ hàng nói tôi là người Mỹ. Khi tôi ở đây, bạn bè nói ‘mày là người Việt.’ Mẹ tôi bảo tôi rằng: ‘Con chính là người quyết định con là ai.’ Tôi tự cho mình là một ‘người Mỹ gốc Việt’ vì tôi sinh ra ở Mỹ nhưng tôi có thể nói được Tiếng Việt.”

“Có người thích nói nhiều về xuất thân của mình, có người thì không. Trước đây tôi không bao giờ nhắc về gốc gác của mính. Tôi chỉ nói Tiếng Việt khi tôi không thể nói chuyện với gia đình vì họ không biết Tiếng Anh. Khi tôi vào đại học, nghe bạn bè nói Tiếng Việt rất vui. Họ hài hước lắm. Tôi nhận ra rằng văn hóa Việt cũng có thể rất hiện đại, gần gũi với chúng tôi, và không chỉ thuộc về thời của cha mẹ chúng ta,” Michelle tiếp tục chia sẻ.

“Làm người Việt cũng không xấu. Nó là một phần làm nên cá tính của bạn. Giờ thì tôi rất tự hào về văn hóa, gốc gác của mình,” cô khẳng định.

Đi tìm giá trị cho bản thân là một phần quan trọng trong quá trình trưởng thành thông thường của mọi thanh niên, thiếu nữ. Riêng với “thế hệ thứ hai” của người Việt, việc “định giá” của riêng bản thân sẽ gắn liền với việc “định giá” chung cho hai từ: “người Việt.”

-Xem bài “Tôi ghét làm người Việt” của Fong Tran tại:
https://www.youtube.com/watch?v=FJAecUKJ–8
Xem đoạn phim “Cùng làm người Việt” của UVSA tại:
https://www.youtube.com/watch?v=gvwIvhxCVZc
https://www.youtube.com/watch?v=ok8OtoSx1UY


Liên lạc tác giả: vu.an@nguoi-viet.com

 

Chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa theo ghi chép của các giáo sĩ phương Tây

Chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa theo ghi chép của các giáo sĩ phương Tây

Phạm Huy Thông

Theo giaó sử thì giáo sĩ nước ngoài đầu tiên đặt chân đến Việt Nam là Francesco Buzomi (1575-1639), người Ý, tới Cửa Hàn ngày 18-1-1615. Sở dĩ, Việt Nam chưa được chú ý đến sớm vì do có sự phân chia thế giới cho Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha qua sắc chỉ của Giáo hoàng Alexandre VI năm 1494 mà Việt Nam thuộc quyền khai thác của người Bồ Đào Nha. Nhưng một số giáo sĩ người Bồ đến nước ta lại không biết tiếng bản xứ – một thứ tiếng mà người ngoại quốc mô tả là rất khó học vì “líu lô như chim hót” nên đành chịu thất bại quay về. Những giáo sĩ của dòng Tên có khả năng ngoại ngữ lại chỉ nhắm đến Nhật Bản, Trung Quốc, Triều Tiên. Chỉ đến khi hoàng đế Nhật Bản Daifusama ra lệnh trục xuất các giáo sĩ và cấm đạo gắt gao năm 1614, các giáo sĩ nước ngoài mới chạy về Ma Cao và từ đó mới tìm đến Việt Nam để rao giảng đạo Công Giáo. Đã có nhiều nghiên cứu về đóng góp của đạo Công Giáo với văn hóa Việt và một trong những đóng góp đó là những ghi chép của giáo sĩ nước ngoài về chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Ai cũng biết rằng, dưới thời phong kiến, nước ta hầu như không có tên trên bản đồ thế giới. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) cũng ngạc nhiên khi đặt chân lên Việt Nam. Ông viết:

“Tôi không biết vì sao đất nước rất xinh đẹp này lại không được biết tới. Vì sao các nhà địa lý châu Âu không biết tí gì và cũng không ghi trên bản đồ nào cả. Tuy họ chép đầy đủ tên các nước trên thế giới” (1).

Chính ông, người có công lớn trong việc xây dựng nên chữ quốc ngữ ngày nay khi công bố bộ 3 tác phẩm: Từ điển Việt- Bồ -La, Phép giảng tám ngày và Ngữ pháp tiếng Việt ở Rôma năm 1651 cũng đã kịch liệt chống lại các quan niêm sai lầm lúc đó như “ ngoài châu Âu ra thì hoàn toàn là man di mọi rợ” hay “ Trung Quốc là tất cà những gì đẹp đẽ nhất trái đất”. Ông đã nhiều lần ca ngợi đất nước, con người, xã hội Việt Nam. Ông viết:

“ Tôi có thể nói, họ chẳng thua gì các bác sĩ của ta và hơn nữa, trong một vài môn họ giỏi hơn ta nữa…Họ luôn dùng ba ngón tay để bắt mạch và thực ra họ rất thành thạo. Thuốc của họ không khó uống như của ta, hơn nữa không đắt tý nào bởi vì thứ đăt nhất cũng chằng giá hơn 5 xu… Pháp luật ở đây còn hơn cả các nước phương Tây vì không có giấy tờ rườm rà, nghi thức lôi thôi làm tổn phí thời giờ và tiền bạc của đôi bên”(2).

Điều ngạc nhiên là ngay vị giáo sĩ đầu tiên khi đặt chân đến Việt Nam là F. Buzomi cũng đã có ghi chép về việc người Việt đã khai thác hải sản và quản lý Hoàng Sa. Ông viết:

“ Hải cảng đông nhất, nơi mà tấ cả những người ngoại quốc đều đến và cũng là nơi có hội chợ đông đúc là hải cảng thuộc tỉnh Quảng Nam. Chúa Đàng Trong cho người Nhật, người Hoa tự chọn một địa điểm thuận tiện để lập một thành phố chuyên cho việc buôn bán. Thành phố này gọi là Faifo tức Hội An…Thuyền trưởng các tàu buôn qua lại nơi này thích cập cảng Hội An hay những cảng gần thủ đô Huế. Những người đi biển của 3 cảng này (tức cảng Huế, Hội An và Đà Nẵng) là những người lão luyện nhất của quốc gia này và hàng năm có chuyến đi biển đến quần đảo và bãi đá lô nhô có tên Hoàng Sa (Paracels) nằm cách biển Đàng Trong khoảng 20-30 dặm” (3).

Không ít người kể cả các nhà khoa học cũng nghĩ rằng Việt Nam bị đô hộ bởi Trung Quốc cả ngàn năm nên bị Hán hóa nhưng sau khi nghe những tài liệu nghiên cứu về Việt Nam của linh mục Leopold Cadiere, giáo sư Condominas đã phát biểu trong cuộc hội thảo “Tuần lễ dân tộc học tôn giáo” ở Luxembourg năm 1928:

“ Một dân tộc biết tiếp nhận vô vàn yếu tố Trung Hoa, bị áp đặt và thu nạp một cách tự nguyện, để dựng lên một thế giới của riêng mình, và giữ gìn bản sắc độc đáo của mình” (4).

Chính F. Buzomi cũng nhận ra sự khác biệt của tính cách và con người Việt Nam khác với các dân tộc quanh vùng. Ông viết:

“ Nhờ Khổng giáo, xã hội và gia đình Việt Nam có một tổ chức rất cao, người dân Việt Nam có những đức tính và phong tục rất đáng khâm phục…Người Việt không nghiêng về văn chương, tính tình không thâm hiểm như người Tầu… Cả về tầm thước, họ không cao như người Tầu, cũng không thấp như người Nhật, dễ nghe, dễ tin và nhiều mê tín nhưng người dân Việt dễ nhận ra lẽ phải, không kiêu căng hay tự tôn như người Tầu” (5).

Năm 1511, một thuyền buôn của người Bồ Đào Nha do thuyền trưởng Fernad Piado cùng với một giáo sĩ dòng Tên đã ghi lại chuyến công du qua biển Đông. Ghi chép này được xuất bản trong cuốn “Du ký Feraginacao”, xuất bản ở Lisbon năm 1614. Trong sách Piado đã mô tả quần đảo Hoàng sa khá chi tiết mà ông gọi là Pulo Pracelar. Theo tiếng Bồ Đào Nha thì Pulo là cù lao còn Pracelar nghĩa là san hô. Trong cuốn nhật ký của tàu Amphitrite, khi chở các giáo sĩ dòng Tên qua quần đảo Paracels (tức Hoàng Sa) năm 1701 có ghi: “ Người ta cho nhổ neo, gió rất tốt. Và sau đó chỉ một thời gian đi đến quần đảo Paracels. Paracels là một đảo thuộc về An Nam. Đó là một bãi đá ngầm khủng khiếp có đến hàng trăm dặm, chạy dài xuống phía nam, chạy dọc theo bờ biến xứ Cochinchine (Đàng Trong), rất nhiều lần đã xảy ra các nạn đắm tàu ở đó” (6).

Có lẽ địa hình hiểm trở của bãi đá ngầm Hoàng Sa là nỗi ám ảnh với những thuyền buôn qua đây. Nhật ký tàu Amphitrite ghi tiếp: “ Tàu Amphitrite là tàu đầu tiên hành trình đến Trung Quốc suýt bị đắm. Nhiều chỗ cạn chỉ có 4-5 sải nước. Thoát được nguy hiểm ở đây thì chỉ có phép lạ. Bị đắm tàu trên những tảng đá khủng khiếp đó hoặc bị lạc phương hướng khi không còn một một nguồn dự trữ nào thì cũng nguy hiểm như nhau mà thôi” (7).

Một giáo sĩ tên là Jean Baptiste Shaipeau (1769-1825) được vua Gia Long yêu quý đặt cho một tên Việt là Nguyễn Văn Thắng trong cuốn hồi ký có tên là “ La memoire sur la Cochinchine” đã viết:

“ Nước Cochichine ( tức An Nam) mà nhà vua bây giờ xưng đế hiệu Hoàng đế gồm xứ Đàng Trong, xứ Đông Kinh, một phần xứ Cao Miên, một vài đảo có dân cư không xa bờ và quần đảo Paracels hợp thành bởi những bãi đá nhỏ, đá ngầm và một số mỏm đá không dân cư. Cho đến năm 1816, đương kim Hoàng đế mới lấy chủ quyền trên quần đảo ấy (8)”.

Giám mục Jean Louis Taberd trong cuốn biên khảo “ Univers historire et des cription de tous le peuples” xuất bản ở Paris 1833 ghi rõ: “ Chúng tôi không đi vào việc kê khai những đảo chính yếu của xứ An Nam. Chúng tôi chỉ xin lưu ý rằng, từ hơn 34 năm nay, quần đảo Paracels mà người Việt gọi là Cát Vàng hay Hoàng Sa cũng có nghĩa là cát vàng, gồm nhiều hòn đảo chằng chịt với nhau, lởm chởm những hòn đá nhô lên giữa những bãi cát làm cho những kẻ đi biển rất e ngại đã được chiếm cứ bởi người Việt xứ Đàng Trong… Có điều chúng tôi biết chắc chắn là hoàng đế Gia Long đã ngự tàu ra biển để chiếm cứ các đóa hoa lạ để cài lên vương miện của ngài. Vì vậy mà ngài xét thấy đã đến lúc phài thân chinh vượt biển để tiếp thêm quân đến Hoàng Sa vào năm 1816. Ngài đã trịnh trọng cắm lá cờ đỏ, lá cờ của xứ Đàng Trong”.

16 năm sau, tức năm 1849, J.L. Taberd lại cho công bố bằng tiếng Anh tại Ấn Độ: “Năm 1816, vua Gia Long đã tới và còn long trọng cắm cờ quốc gia của ông khẳng định chủ quyền trên các quần đảo này và hình như không một ai tranh giành với ông”. Chính vị giám mục này, trong cuốn từ điển tiếng Việt “Từ điển La- Việt” của ông in ở Serampore năm 1838 và cũng đã cho công bố tấm bản đồ rất có giá trị lịch sử. Đó là “ An nam đại quốc họa đồ”khổ 80 x 40 cm bằng 3 thứ tiếng Latinh, Quốc ngữ và Hán ngữ mà các nhà sử học nước ta hiện nay thường trưng dẫn để khẳng định chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam (ảnh trên). Trong bản đồ trên được in bằng giấy chuyên dụng, giám mục J.L. Taberd đã ghi rất rõ vị trí của Paracel tức Cát Vàng là thuộc Việt Nam, trong khi đó lại không ghi đảo Hải Nam trên biển Đông. Một số giáo sĩ khác như A. de Rhodes cũng đã cho in bản đồ Việt Nam có ghi đảo Hoàng Sa mà lúc đó ông gọi là Pulosisi. Một giáo sĩ người Hà Lan trong bản đồ “Việt Nam với Đàng Ngoài, Đàng Trong và biển Đông với quần đảo Paracels” in trong Carte de L’Indonechine 1658-1659 cũng ghi rõ Hoàng Sa (Paracels) là của Việt Nam.

Trên tạp chí Journal of Asiasic society of Bengal, số 6-7 tháng 9 năm 1837, giám mục J.L Taberd cũng viết: “ Paracel hoặc Paracels tức quần đảo này không có gì ngoài đá tảng và những cồn cát lớn,nó hứa hẹn nhiều bất tiện hơn là lợi. Vua Gia Long đã mở rộng lãnh thổ bằng cách chiếm thêm cái đảo buồn này. Năm 1816, ông đã long trọng cắm cờ và chính thức khẳng định chủ quyền các quần đảo đá này mà không một ai tranh giành với ông”.

John Barrow, một giáo sĩ quốc tịch Anh khi đi đến Trung Quốc, cũng đi qua vùng biển có quần đảo Hoàng Sa. Ông ghi lại trong hồi ký “ Một chuyến du hành tới Đàng Trong vào năm 1792-1793”, xuất bản ở London năm 1806 có đoạn: “ Các thuyền xứ Đàng Trong dùng vào việc buôn bán ven biển, chài lưới, đánh bắt hải sản và tổ yến. Họ ra tận quần đảo có tên là Paracels và thu được nhiều hải sản khác nhau”.

Tóm lại, các ghi chép của các giáo sĩ nước ngoài đã khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ rất sớm, chí ít cũng là từ thế kỷ XVII.

Chú thích:

1,2- A. de Rhodes: Hành trình truyền giáo, Tủ sách Đại Kết 1994, tr.143,tr.89

3- Theo trang Biendong.net, ngày 23-8-2013

4- L. Cadiere: Về văn hóa, tín ngưỡng truyền thống người Việt, Nxb VHTT 1997, tr.10

5- Nguyễn Hồng: Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, tập 1, Nxb Hiện Tại Sài Gòn 1951, tr.55

6,7- Dẫn theo Biendong.net ngày 23-8-2013

8- Dẫn theo Biengioilanhtho.gov.vn ngày 28-8-2013

XIN LỖI, TÔI CHỈ LÀ MỘT NGƯỜI CHUYỂN QUÀ!

XIN LỖI, TÔI CHỈ LÀ MỘT NGƯỜI CHUYỂN QUÀ!

Tác giả: Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm

Vào một buổi sáng Chúa Nhật, với ly cà phê nóng bên khung cửa sổ của căn nhà cuối phố, Viễn chợt nhận ra một sự thật. Mới đầu nó nhẹ nhàng, rồi bỗng phũ phàng, rồi chợt bẽ bàng, nhưng cuối cùng thì giải thoát rộn ràng.

Quán cà phê nhỏ cuối phố có cái tên ngắn ngủn mà hay hay: Quà. Viễn thắc mắc tại sao tên quán lại như vậy vì chưa thấy chủ quán tặng quà cho khách hàng hay khách hàng tặng quà cho chủ quán bao giờ. Chắc phải có một ý gì đó.

Thong thả nhấp miếng cà phê nóng đang tỏa ra thơm phức, Viễn nhìn qua khung cửa sổ. Bóng dáng của người ăn xin mà anh mới “tặng một chút quà” đang khuất xa dần. Hồi trước khi cho ai chút tiền thì Viễn gọi đó là bố thí như nhiều người vẫn còn làm hôm nay. Nhưng sau lần chính bản thân Viễn, một thằng đàn ông đầy tự hào, ngay tại cái quán nước này, phải ngửa tay xin giúp đỡ thì anh đã thay đổi hẳn. Cũng may anh đã trải qua kinh nghiệm đó nên mới thấu hiểu được nhiều việc để rồi bây giờ mỗi khi giúp đỡ ai thì anh tìm cách giúp thế nào để người được giúp không cảm thấy mặc cảm. Nghĩ lại, cái khó cái nhục hóa ra là cái cần cái phúc mà trời cao gửi cho anh để giúp anh lớn lên về mặt nhân cách. Một món quà cuộc sống vậy.

Thả hồn theo làn hơi nóng thơm của ly cà phê đang nghi ngút tỏa, Viễn tận hưởng những dòng ký ức tươi sáng của những năm tháng gần đây. Có lần Viễn mua giúp một bà cụ bán vé số trong chợ năm tấm vé liền rồi tặng lại cho bà, cầu chúc bà may mắn. Bà cụ ngạc nhiên. Nụ cười của bà cụ gầy guộc làm vui tâm hồn Viễn. Có lần anh đứng ra hòa giải cho một gia đình hàng xóm. Sau này họ cho biết nhờ lời khuyên sáng suốt của anh mà họ đã khắc phục được bất hòa trong nhà. Rồi có lần cha xứ gọi điện cảm ơn Viễn đã quảng đại hiến tặng cho nhà thờ một bức tượng thánh Giuse bằng đá cẩm thạch thật đẹp giúp bà con cầu nguyện sốt sắng hơn…. Những điều thiện ích khác thi nhau chảy về trong lý ức khiến anh cảm thấy vừa tự hào vừa vui mừng. Mình cũng khá lắm đấy chứ, anh tự nhủ. Làm ơn cho người này người kia. Người này người khác biết ơn mình. Có ý nghĩa! Hay! Viễn mỉm cười, gật gù, toại nguyện với cuộc sống. Nhấp thêm miếng cà phê thơm phức nữa cái coi. Ái chà, ngon! Không, theo ngôn ngữ trẻ thời nay thì chính xác phải nói: Đó là một cái ĐÃ không hề nhẹ!!!

Bỗng nhiên Viễn nheo mày, nhăn mặt. Một sự việc cách đây bảy tháng chen ngang vào dòng xúc cảm đang lâng lâng. Nhớ lại mà tức sôi cả máu. Viễn dành dụm bao nhiêu ngày tháng mới để được một số tiền tính cuối năm cưới vợ và xây dựng sự nghiệp. Hôm đó thằng Nhân bạn học nói có việc gấp cần mượn tiền. Nó hứa sẽ trả lại trong vòng một tháng. Chỗ quen biết, lúc bạn có nạn thì ra tay tương trợ. Nó mượn ba ngàn đô la, tức là hơn một nửa số tiền Viễn đã dành dụm suốt bốn năm trời. Một tháng không thấy nó trả. Đòi thì nó khất. Muốn gặp mặt thì nó tránh. Dọa nạt thì nó trốn biệt tăm luôn. Mất. Tiền bạc mất. Tình nghĩa mất. Mồ hôi nước mắt và tín nhiệm. Mất hết.

Trong tích tắc, ly cà phê bỗng trở nên đắng ngắt. Người hành khất ban nãy cũng không còn thấy bóng dáng nữa. Tiếng nhạc du dương chỉ còn là những âm thanh rời rạc vô nghĩa vô tâm. Bàn tay Viễn nắm chặt lại vì tức giận. “Đúng là cái thứ vong ơn bội nghĩa, ăn cháo đá bát”, anh lẩm bẩm.

Xét cho cùng, Viễn đâu phải người nhẫn tâm đến nỗi phải lấy lại bằng được số tiền đó khi bạn bè còn túng quẫn. Thậm chí Viễn có thể cho nó luôn nếu thật sự nó rơi vào hiểm nghèo bế tắc. Nhưng tức lắm, tức ở chỗ nó vô ơn. Viễn là bạn mà nó đối xử như một kẻ chỉ có giá trị lợi dụng. Viễn càng tức thêm vì thấy mình đặt lòng tốt sai chỗ để bây giờ bị rơi vào tình thế khó khăn. Tiền mất tật mang. Nếu biết trước thì Viễn đâu có ngu gì giúp đỡ nó. Nhưng đâu có ai biết trước được mọi chuyện. Ai mà biết trước mọi việc chứ! Viễn tự nhủ như thế để bớt trách mình. Ý nghĩ này bỗng làm dịu sự tức giận của Viễn. Ừ nhỉ, có ai biết trước được mọi chuyện bao giờ. Biết đâu thằng bạn đáng trách này cũng bị rơi vào tình thế không thể ngờ trong hoàn cảnh của nó.

Cơn giận từ từ hạ xuống. Hương cà phê thơm phức cũng dần trở về lại trong ly. Tuy vậy, Viễn vẫn làu bàu: “Chúa, tại sao nó phụ ơn của con?”

“Ơn của con?” một hồi âm vọng lại trong tâm trí Viễn. Có một điều gì đó tự nhiên làm Viễn bối rối, khó chịu, suy nghĩ.

Chính đây là khoảnh khắc vừa bẽ bàng vừa giải thoát. Anh bắt đầu nhận ra điều không ổn trong tâm thức của mình xưa nay. Nói rõ hơn, anh bắt đầu nhận ra một sự thật, một sự thật về bản thân con người anh và về Chúa. Kể cũng lạ, mỗi một giải thoát của con người đều xuất phát từ việc nhận ra mình và nhận ra Chúa.

“Ơn của con?” Câu hỏi ấy lại dội về trong tâm trí Viễn.

Đúng là anh đã đổ mồ hôi sôi nước mắt để có một số tiền quý giá. Đúng là anh đã đưa số tiền ấy cho thằng Nhân. Đúng là anh đã thực hiện những hành động ý nghĩa để giúp đỡ những người cơ nhỡ trong cuộc đời này. Nhưng, “ơn của anh”, đúng không nhỉ? Nếu anh gọi những việc mình làm cho người khác là “ơn” thì cũng được thôi vì người ta ở đời vẫn nói đến “làm ơn”, “mang ơn”, “biết ơn”, “trả ơn”… Nhưng, nguồn gốc của cái gọi là “ơn” nằm ở đâu? Ở con người? Không. Lý luận ấy không ổn tí nào. Nhưng tại sao lại không ổn?

Trong lúc loay hoay với chính suy nghĩ đang bối rối của mình, Viễn nhận ra câu trả lời trong những câu hỏi gợi lên trong đầu: Nếu Chúa không ban cho sức khỏe, làm sao tôi có thể làm việc kiếm tiền sinh sống, nói chi đến việc có cơ hội giúp đỡ người khác? Nếu không có Thần Khí của Ngài hoạt động trong tâm hồn, làm sao tôi có thể tự mình trở nên tốt bụng mà sẻ chia? Nếu Chúa không gửi người túng thiếu đến thì làm sao tôi có được cơ hội rộng mở lòng mình và cảm nghiệm được niềm vui sâu xa của chia sẻ? Nếu Ngài không ban trí thông minh, làm sao tôi có sự  sáng suốt mà khuyên giảng cho người khác? Nếu Ngài không tha thứ trước cho tôi cả trăm vạn lần, làm sao tôi có khả năng thứ tha cho người khác vài ba lần? Nếu Ngài đã không làm tất cả cho tôi trước thì tôi sẽ chẳng thể làm được bất cứ điều gì cho chính mình hay tha nhân.

Người ta vẫn quen dùng từ “làm ơn” cho nhau nhưng sự thật thì chẳng có ai làm ơn cho người khác cả. Con người là thân phận thụ tạo không có khả năng tự tạo ra bất cứ một ơn gì. Sự thật không thể phủ nhận được là: tất cả mọi người từ cổ chí kim, từ lớn đến nhỏ, đều là những kẻ đã nhận ơn trước từ một Đấng Ban Ơn. Không có ai ngoại lệ đối với điều này. Trước khi tôi có thể làm được một việc gì đó cho người khác, tôi đã nhận lãnh biết bao nhiêu ơn lành từ Đấng Yêu Thương rồi. Ơn là từ Chúa chứ không phải từ tôi. Tôi có điều kiện và cơ hội để làm được điều gì cho người khác thì trước hết đó cũng là một ơn huệ Chúa ban cho tôi. Nghĩ đến đây, bên ly café nóng, Viễn chợt giật mình tự nhủ: “Úi, mình phải cẩn thận để không giành công của Chúa!”

Việc nhận ra rằng ơn không phải là từ thân phận con người của mình khiến Viễn bẽ bàng vì đó cũng là lúc anh thấy ‘quyền’ mong đợi người khác biết ơn mình bị vuột mất khỏi tầm tay. Ai giúp người mà chẳng mong nhận lại ít là một thái độ biết ơn nào đó chứ. Nhưng, dù thế nào đi nữa thì chân lý vẫn không hề thay đổi: Chỉ có một Đấng Ban Ơn và xứng đáng nhận sự biết ơn mà thôi. Viễn nhớ lại lời Thầy đã dạy: “Anh em đã lãnh nhận một cách nhưng không thì cũng phải cho đi một cách nhưng không.” (Mt 10:8) Chân lý này giải thoát Viễn khỏi sự hụt hẫng vừa luẩn quẩn vừa vô lý khi gặp phải thái độ vô ơn. Nó đem lại tự do cho tâm hồn Viễn.

Anh tự rút ra một hướng sống cho mình: Cứ cố gắng làm cho người khác điều tốt đẹp theo tinh thần của Chúa nhưng sẽ không còn chờ mong bất cứ một sự biết ơn nào. Nếu họ thể hiện một thái độ biết ơn nào đó thì mừng cho họ vì họ đang sống điều cần thiết cho tâm hồn. Còn nếu họ vô ơn thì mong lời ông bà đã dạy sẽ cảnh tỉnh nhân cách họ:

Ăn quả nhớ kẻ trồng cây

Ăn khoai nhớ kẻ cho dây mình trồng

Những người phụ nghĩa quên công

Dẫu đeo trăm đóa hoa hồng cũng vẫn chẳng thơm.

Về khía cạnh công bằng xã hội, khi mượn thì cần phải trả, khi nhận thì cần phải thể hiện sự trân trọng biết ơn, biết ơn Đấng Ban Ơn và người làm ơn. Đó là một điều đúng và tốt. Bản thân Viễn còn muốn đi xa hơn vì anh là một Kitô hữu: Ai đã giúp cho anh bất cứ điều gì thì anh sẽ luôn ghi lòng tạc dạ và cầu nguyện cho họ, ngay cả trong trường hợp bây giờ họ không còn tốt với anh nữa hoặc đang gây khó gây khổ cho anh. Kitô hữu là thế! Một khi đã biết Thầy thì con đường cần đi là con đường hướng lên những tầm vóc mới của tình yêu thương quảng đại, cho dù trước mặt là đồi cao của lòng người hiểm trở.

+++++

Reng reng reng…

Điện thoại di động của Viễn trên bàn cà phê rung rung. Số này lạ nên Viễn không trả lời. Đến lần thứ ba thì Viễn bắt máy. Hơi bực mình.

“Alô. Ai vậy?”

“Alô.  Anh Viễn phải không ạ?”

“Vâng, tôi đây.”

“Tôi tên là Tâm, mẹ của cháu Phúc. Cách đây mấy tháng, con tôi gặp nạn trên đường bị gãy chân. Anh nhớ không?”

Viễn nghe mơ hồ, chẳng nhớ ra chuyện như thế. Chị Tâm tiếp tục:

“Lúc ấy anh đã tốt bụng xuống xe, gọi taxi và yêu cầu chở con tôi vào bệnh viện để chữa trị. Anh còn đưa cho cháu Phúc một trăm đô-la để chữa trị. Thật không thể ngờ thời buổi này mà có người tốt như anh! Hôm nay thì cháu Phúc đã đi lại được. Tôi xin lỗi đã không thể gọi điện cám ơn anh sớm hơn. Vô cùng cảm ơn anh!”

Viễn không nhớ đã giúp ai bị tai nạn. Chắc là có sự nhầm lẫn nào đó.

“Dạ, xin cho hỏi làm sao chị biết số điện thoại và tên tôi?”

“Dạ, cháu Phúc nói hôm ấy lúc anh lấy tiền trong túi ra để giúp cháu thì anh đã làm rơi một tấm giấy có tên và số điện thoại này của anh. Cháu nói là chú Viễn tuy đi chiếc xe cũ nhưng đeo kính cận nhìn hiền lành lắm.”

“Ồ! Kính cận! Chẳng lẽ là thằng Nhân?” Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu Viễn. Chị Tâm nói tiếp:

“Một lần nữa, vô cùng biết ơn anh đã ra tay cứu giúp con tôi! Nhà chúng tôi ở gần quán Quà cuối phố. Tôi xin chân thành mời anh ghé ăn bữa cơm đạm bạc và xin được gửi lại món quà anh đã rộng lượng giúp cháu lúc hoạn nạn.”

“Dạ, chị đừng lo nghĩ gì nhé. Cháu bình phục thì mừng rồi.”

“Dạ, tôi hiểu khi anh đã quyết định giúp đỡ thì không có nghĩ đến chuyện lấy lại hoặc được báo đáp nhưng món quà đó là một món tiền lớn mà anh cũng có nhiều thứ để trang trải trong thời buổi khó khăn này.”

“Ồ, không cần đâu chị.” Viễn cảm thấy một ánh sáng trong lòng soi chiếu.

Người phụ nữ đầu dây bên kia có vẻ hơi ngạc nhiên, chưa biết nên ứng xử thế nào gì thì Viễn nói tiếp:

“Xin lỗi chị, tôi không thể nhận lại vì tôi cũng chỉ là một người chuyển quà mà thôi. Chúc chị và gia đình luôn hạnh phúc. Xin chào chị nhé!”

Viễn cúp điện thoại.

Chị Tâm: …

+++++

Dòng đời tiếp tục trôi như mọi ngày nhưng có người đã được biến đổi.

Quán nước Quà vẫn ở gần nhà chị Tâm. Viễn thỉnh thoảng vẫn đến đó để uống một ly cà phê ấm. Chẳng ai biết ai nhưng có ai biết một lúc nào đó họ cùng có mặt trong quán và cùng chiêm ngẫm về những điều kỳ diệu vẫn diễn ra trong cuộc sống. Biết đâu lúc Viễn đang ngồi nhìn ra khung cửa sổ cuối phố nghĩ về những món quà do Đấng Yêu Thương nhờ anh chuyển giúp thì đâu đó trong quán nước này có một người khác đang thầm nghĩ: Người chuyển quà đúng là một lời tỏ tình đặc biệt của Người Tặng Quà gửi đến trong dòng đời. Và một nụ cười nhẹ nở trên môi.

Giuse Việt

[200A+V614]

Blog: http://only3minutes.wordpress.com/

BTT CGVN xin hân hạnh giới thiệu tác phẩm “Ngủ Trên Sóng” của tác giả Cát Thường.

Tác giả Cát Thường chính là bút hiệu của Lm. Giuse Tuấn Việt, O.Carm, một linh mục rất gần gũi với các ban trẻ, và luôn hướng lòng về với các bạn trẻ. Ngủ trên Sóng không phải chỉ là một kinh nghiệm sống của một đời thường, nhưng là của một tâm hồn có niềm tin mãnh liệt vào Đức Kito, Đấng đã làm nên mọi sự và vẫn còn đang tiếp tục đồng hành với bất cứ ai tin theo Ngài.

Các bạn có thể tìm gặp tập sách nhỏ rất dễ thương này tại các nhà sách công giáo. Nếu bạn thực tâm muốn đi tìm bình an hạnh phúc trong cuộc đời luôn đầy biến động này, hãy cùng với Cất Thương  chia sẽ “Ngủ Trên Sóng”

Chúc nhau bình an và thật nhiều may mắn.

BBT CGVN

NHỮNG NGƯỜI KHÔNG BIẾT SỢ

NHỮNG NGƯỜI KHÔNG BIẾT SỢ

Nói đến hai thánh Tông Đồ cả Phêrô và Phaolô, người ta thường chăm chú đến những khác biệt nơi hai Ngài để rồi hướng đến quyền năng của Thiên Chúa.  Đây là một cái nhìn truyền thống có căn bản thần học đã góp phần cho đoàn tín hữu xác tín vào quyền năng của Thiên Chúa.  Mạo muội có một cái nhìn về những điểm chung của hai Ngài xem ra khá táo bạo, thế nhưng nếu có cơ sở thì cũng đáng cho ta ghi nhận điều gì đó.  Xin được chia sẻ một nét chung nơi tính cách của hai “cột trụ” của Hội Thánh đó là “không biết sợ”.

1. Không sợ sai để dám nói: Những người quá cẩn trọng thì thường tự biện minh là “nói nhiều sai nhiều, nói ít sai ít.”  Tuy nhiên cũng có thể nếu cẩn trọng cách quá đáng như kiểu luôn thủ thân thì rất dễ đi đến chỗ “không nói gì” để khỏi phải sai lầm.  Có ngờ đâu, không nói gì cả khi cần phải nói thì lại là một sự sai lầm rất tai hại.
Đọc Tin Mừng thì không ai lại không chân nhận tính “mau miệng” của tông đồ Phêrô.  Không thể nói là Chúa Kitô đã minh nhiên đặt Ngài làm đầu nhóm 12 trong thời gian rao giảng, vì cũng trong thời gian này nhóm 12 luôn tranh giành nhau về vị thế làm đầu.  Chưa chính thức làm đầu, thế mà Phêrô thường là người thay mặt anh em để lên tiếng.  Có khi nói đúng thì được Thầy khen, nhưng cũng có khi chệch choạc thì bị Thầy lên tiếng quở trách nặng nề (x. Mt 16, 13-23).  Thế nhưng Phêrô vẫn cứ lên tiếng.  Đúng là không biết sợ.

Thánh Phaolô thì sao đây?  Có thể nói Ngài là vị “nhỏ người mà lớn miệng.”  Ngài đã nhiều lần tự biện hộ cho mình về việc lên tiếng quá nhiều và hình như không biết “kiêng dè.”  Ngay cả với Phêrô mà Ngài cũng chẳng tha (x. Gal 2, 11-14).  Có khi hăng say rao giảng đạt kết quả và cũng có khi nhiệt tình lý luận thì bị mời đi chỗ khác chơi ( x.Cvtđ 17, 22-34).  Thánh nhân vẫn không ngừng lên tiếng, khi thuận lợi cũng như lúc không thuận lợi.  Thật chẳng biết sợ là gì.

2. Không sợ thất bại để dám làm: Dù biết rằng thất bại là mẹ thành công nhưng sự thường không ai là không ngại thất bại.  Không chỉ ngại thất bại mà người cơ hội thường thích ẩn mình để chờ thời cơ. Không làm gì cả thì chẳng mất lòng ai và nếu có bầu bán vị trí vai trò quan trọng nào trong các tổ chức xã hội hay tôn giáo cũng dễ kiếm nhiều phiếu hơn.  Một sự thật không thể nói là cá biệt hay đặc thù chút nào nếu không muốn nói ngược lại.

Nếu là Thầy, xin truyền cho con đi được trên nước… và Phêrô mạnh dạn bước đi trên sóng biển (x. Mt 15, 22-33).  Trước đám đông quân lính hùng hổ, Phêrô dứt khoát rút gươm bảo vệ Thầy.  Dù cho bạn đồng môn tìm cách trốn lánh thì Phêrô vẫn quyết định dõi theo chân Thầy vào sân vị Thượng tế.  Làm nhiều ắt gặp thất bại không ít, nhưng Phêrô vẫn quyết tâm đi tới.

Việc làm của Phaolô thật khó có ai bì.  Ba chuyến hành trình truyền giáo cùng với bao gian khó vất vả là một minh chứng rõ ràng.  Bị đòn roi, bị ném đá, bị ngồi tù hay lênh đênh trên biển cả… tất cả không ngăn được bước chân của vị Tông đồ nhiệt thành.  Thành công rất nhiều và thất bại cũng chẳng thiếu, nhưng Phaolô bỏ tất cả đằng sau để một mực lao về phía trước.  Ngài đã từng khẳng định “bất cứ những gì người ta dám làm thì Ngài cũng dám làm” (2 Cor 11, 21).

3. Không sợ thua thiệt để dám yêu:  Đây chính là nền tảng căn bản để hai thánh Tông đồ dám nói, dám làm không sợ hãi.  Yêu là chết trong lòng một ít.  Câu ngạn ngữ trên một cách nào đó nói về sự hy sinh trong tình yêu.  Đã yêu là không thể thiếu sự quảng đại hy sinh và quên mình vì người mình yêu.

Vì yêu mến Thầy hơn các môn đệ khác Phêrô chấp nhận cảnh phận “phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn Ngài đến nơi Ngài chẳng muốn” (Ga 21, 18).  Cho dù bị thua thiệt nhưng tình yêu sẽ phủ lấp muôn vàn tội lỗi (x. 1 P 4, 8)

Vì yêu mến Đức Kitô, Phaolô chấp nhận mọi thua thiệt.  Phaolô sẵn sàng chịu mọi gian truân khốn khó vì yêu mến đồng loại và mong cứu thoát được một số người.  Thánh nhân cảm nghiệm tình yêu là cao trọng hơn cả vì yêu thương là chu toàn mọi lề luật (x.Rm 14, 8).

Hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô được Hội Thánh nhìn nhận là hai trụ cột chính của Tòa Nhà Hội Thánh.  Hội Thánh là đoàn dân của Thiên Chúa.  Có thể nói đó là tập thể những con người sống đạo yêu thương.  Tình yêu thì loại trừ mọi nỗi sợ hãi.  Đã yêu thì không còn e ngại sự gì.  Đã yêu thì không ngại các thiệt thua.  Vì yêu thương nên không sợ sai khi phải nói điều phải nói.  Vì yêu thương nên không sợ thất bại khi quyết làm điều chính đáng và phải đạo.

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

VietCatholic.net

From: KittyThiênKim & Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

PHÊRÔ, PHAOLÔ, BẠN VÀ TÔI

PHÊRÔ, PHAOLÔ, BẠN VÀ TÔI

Tại sao hai thánh tông đồ cả lại mừng lễ chung với nhau?

Một số thánh nhân, vì là anh em với nhau, vì cùng tử đạo, vì là mẹ con, vì có những điểm chung nhất, nên được mừng lễ trùng ngày với nhau hoặc sát gần nhau. Vậy thánh Phêrô và thánh Phaolô tương quan với nhau thế nào mà lại có ngày lễ kính cùng với nhau?

Đức Tổng Giám Mục Patrick Flores đã từng đặt câu hỏi này với giáo dân trong bài giảng của mình.  Và rồi ngài tự trả lời cách hóm hỉnh: “bởi vì hai thánh nhân không thể sống chung với nhau được trên thế gian, nên Chúa bắt các ngài phải chung với nhau trên thiên đàng.”(!)

Câu chuyện hài hước này rất có cơ sở. Thánh kinh cho thấy hai ông thật sự khác biệt nhau về tính cách, chênh lệch nhau về đẳng cấp:

·     Người kém văn hóa, kẻ trí thức cao

·     Người đã có vợ, kẻ vẫn độc thân

·     Người rút gươm bảo vệ Chúa, kẻ phóng ngựa truy giết những ai theo Chúa

·     Người giảng dạy cho giới đã cắt bì, kẻ loan Tin Mừng cho dân ngoại.

Chính thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Galata đã thừa nhận sự đụng độ với thánh Phêrô ở Antiokia.  Ông đã cự lại thánh Phêrô vì đã không dám công khai dùng bữa với lương dân như trước khi nhóm cắt bì đến (từ cự lại là nguyên văn của Phaolô trong Gl 2, 11).

Điều rất dễ thương là, trong tất cả sự khác biệt cũng như cãi vã đó, thánh Phaolô luôn nhìn nhận vị trí quan trọng của thánh Phêrô với tư cách là người đầu tiên được Chúa Giêsu cho thấy Người đã phục sinh (1Cr 15, 5), một tư cách xứng đáng với cương vị thủ lĩnh.  Một sự trân trọng rất tuyệt đến nỗi tính cách khác biệt không hề làm cản trở sứ mạng và lý tưởng của hai thánh nhân.  Phần mình, thánh Phêrô cũng không kém cao thượng khi bắt tay Phaolô để tỏ dấu hiệp thông (Gl 2,10).  Điểm độc đáo này được Giáo Hội đưa vào kinh tiền tụng trong ngày lễ 29/06: “các ngài đã dùng đường lối khác biệt để quy tụ một gia đình duy nhất cho Ðức Kitô.”  Để rồi từ những khác biệt tính cách và mâu thuẫn đường lối đó, các ngài đã trở thành:

Hai người tiên phong, hai sao sáng đi đôi và hai tướng anh hùng.

Thế còn anh và em?  Còn bạn và tôi thì sao?

Dĩ nhiên chúng ta thế nào cũng có các điểm khác biệt, và dĩ nhiên chúng ta đã từng cãi vã, giận hờn.  Không ít lần chúng ta đặt câu hỏi tại sao và tại sao người mà mình trọn niềm tin tưởng lại cư xử như thế.  Đã nhiều lần ta như muốn buông một bàn tay thân yêu, rời xa một bờ vai thân thiết, phớt lờ một ánh mắt thân thương.  Chỉ vì chúng ta khác biệt nhau, không hiểu nhau.

Phải chăng ta khác biệt nhau và rồi ta so đo tính toán với nhau?  Để rồi ta hát mãi điệp khúc sau đây:

·     Đúng là anh giầu có hơn tôi thật, tôi không quên được đâu vì anh thường xuyên nhắc tôi về điều đó, nhưng anh cũng biết tôi có rất nhiều tài, còn về sắc đẹp thì không cần bàn cãi là ai hơn nhé!

·     Dĩ nhiên em chu đáo tỉ mỉ, nhưng cũng vì thế em thường sa đà vào các tiểu tiết và chi li, tính toán, phê bình đến mức nhỏ nhen.

·     Anh nghĩ chuyện to lớn trên trời, nhưng chuyện trước mắt, ngay trong nhà, anh có thấy đâu?

·     Sao em nói nhiều như vậy mà anh cứ ngồi im thin thít thế kia?

·     Và còn bạn nữa! Chúng ta có còn là bạn nữa không, mà sao khi lòng dạ mình rối bời lên thì bạn cứ trơ trơ như không cảm xúc vậy?

·     Có nhiều điều mình muốn nói, nhưng không nói ra vì mình nghĩ bạn chẳng thể nào hiểu được.

Khác biệt giữa Phêrô và Phaolô làm cho công cuộc loan báo Tin Mừng trở nên phong phú hơn.  Các khác biệt của chúng ta lẽ ra là để bổ sung cho nhau và để làm cho đời ta thêm màu hương sắc, cũng như các giới hạn của cá nhân là để chúng ta cần đến nhau hơn trong cuộc trần này.  Điều quan yếu là ta biết trân trọng người khác và chiến thắng cái tôi ích kỷ.

Phêrô và Phaolô, hai ngôi sao “chỏi” đều tỏa sáng trên bầu trời Thiên quốc, hai con người Phêrô và Phaolô trở thành đồng trụ và bàn thạch cho tòa nhà Giáo Hội.  Tình yêu đối với Chúa Giêsu làm nên điều kỳ diệu này.  Chỉ có tình yêu đủ lớn mới có thể làm cho các bất đồng giữa vợ chồng, giữa bạn bè trở thành một liên kết phong nhiêu, một tương giao phong phú.  Tất cả rồi sẽ qua đi, chỉ có tình yêu còn ở lại.

Anh và em, bạn và tôi đã giận hờn, tranh cãi, thậm chí căm thù nhau trong quá khứ.  Có những điều cứ tái đi tái lại nhiều lần như một căn bệnh mãn tính, nan y.  Chúng ta có quá nhiều khác biệt mà.  Vẫn biết gương vỡ khó lành, vẫn biết ly nước đổ ra không thể lấy lại hết, nhưng tình yêu sẽ bù đắp tất cả và tình yêu sẽ làm cho tấm gương và ly nước lấy lại sau đó trở nên kỳ thú hơn, ngon lành hơn.

Có bao giờ chúng ta trân trọng nhau cho đúng mức không?  Có bao giờ anh và em cầu nguyện cho nhau rồi nói với Chúa về những lỗi lầm, yếu đuối của nhau chưa?  Có bao giờ bạn và tôi, chúng mình cùng cầu nguyện với nhau để chấp nhận các khác biệt của nhau mà mưu cầu công ích, mà lo cho đại cuộc không?  Đã bao giờ tôi nhìn ra được khía cạnh tốt đẹp của sự khác biệt, để yêu mến những gì “bất thường” nơi anh em, và phát huy những gì “cá biệt” của tôi nhằm hướng tới những điều cao quý hơn chưa?

Xin hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô cầu cho chúng con.

Pr. Nguyễn Đức Thắng

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

Người Việt chống Trung Quốc khắp nơi

Người Việt chống Trung Quốc khắp nơi

Hòa Ái, phóng viên RFA
2014-06-26

hoaai06262014.mp3

protest-at-china-embassy-305.jpg

Người Việt biểu tình trước Đại sứ quán Trung Quốc ở Washington DC hồi đầu tháng 6 năm 2014.

RFA

Sau cuộc gặp gỡ chính thức giữa đại diện lãnh đạo VN và Trung Quốc để giải quyết vụ việc giàn khoan Hải Dương 981 đang hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN hôm 18/6, người Việt trong và ngoài nước bày tỏ sự thất vọng với Chính phủ Hà Nội cũng như đẩy mạnh các hành động tự phát để thể hiện tinh thần chống lại sự bành trướng của Bắc Kinh ở biển Đông.

Thắng lợi ngoại giao?

Hai ngày sau cuộc gặp gỡ giữa đại diện cấp cao của VN và ông Dương Khiết Trì-Ủy viên Quốc Vụ viện Trung Quốc tại Hà Nội, Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang nhấn mạnh trong cuộc phỏng vấn với Thông tấn xã VN rằng Trung Quốc đã đơn phương vi phạm thỏa thuận cấp cao giữa 2 nước về những nguyên tắc cơ bản để giải quyết vấn đề trên biển cũng như vi phạm luật pháp quốc tế; nói thêm rằng Đảng, Nhà nước và nhân dân VN kiên quyết không để một tấc đất, tấc biển nào của Tổ quốc bị xâm phạm.

Tuy nhiên, trong cùng ngày 20/6, truyền thông Trung Quốc mô tả chuyến đi của ông Dương Khiết Trì đến VN là một thắng lợi ngoại giao lẫn thắng lợi tinh thần. Tờ The Diplomat trích dẫn tờ Hoàn Cầu của Hoa Lục viết về cuộc gặp gỡ hôm 18/6 với câu chữ “Trung Quốc thúc giục ‘đứa con hoang đàng hãy trở về nhà’”. Thông điệp truyền thông Trung Quốc gửi đi là VN nên đáp ứng một cách đúng đắn với những đề nghị của Trung Quốc bằng cách chấm dứt quấy rối và phản kháng với giàn khoan HD 981.

Khi Trung Quốc xâm lược cảm nhận được đúng tinh thần bất khuất của người Việt thì nó sẽ nản chí thôi, tức là đến hơi thở cuối cùng thì người Việt vẫn cứ chống.
-Anh Tuyến

Trong khi không một đại diện nào của Chính phủ VN lên tiếng về giọng điệu của truyền thông Trung Quốc về cuộc hội đàm chính thức giữa đại diện 2 quốc gia thì người Việt trong và ngoài nước bày tỏ sự phẫn nộ trước hành động “vừa ăn cướp vừa la làng’ của người hàng xóm xấu bụng nhưng là đồng chí “4 tốt-16 chữ vàng” của Đảng CSVN.

Kể từ khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD 981 hôm mùng 2/5 cho đến nay, người Việt trong và ngoài nước đã và đang lên tiếng mạnh mẽ để chống trả hành động ngang tàng của Trung Quốc ở biển Đông. Cộng đồng người Việt hải ngoại biểu tình khắp nơi ở các nước họ định cư. Nhiều người dân trong nước dù không được biểu tình ôn hòa sau cuộc bạo động ở Bình Dương và Hà Tĩnh, họ thể hiện tinh thần chống đối Bắc Kinh bằng cách ký tên vào các tuyên bố lên án Trung Quốc xâm lược lãnh thổ VN và yêu cầu Nhà nước VN kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế. Có người đã chọn cách biến mình thành ngọn đuốc như bà Lê Thị Tuyết Mai đã tự thiêu tại Sài Gòn hôm 23/5 và ông Hoàng Thu vừa tự thiêu hôm 20/6 tại Bang Florida, Hoa Kỳ.

Vào ngày 22/6, anh Đinh Quang Tuyến một mình cầm biểu ngữ “Chần chừ kiện Trung Quốc ra tòa là phản bội dân tộc” tại khu vực Nhà thờ Đức Bà. Anh Tuyến hô to “Đả đảo Trung Quốc Xâm lược” thì bị công an đến xiết cổ và bị đưa lên xe chở về tạm giữ ở phường Bến Nghé. Trao đổi với Hòa Ái, anh Tuyến cho biết động cơ khiến anh đơn độc biểu tình ôn hòa chống Trung Quốc:

976260_DSC_0304-305.jpg

Hàng ngàn công nhân ở Đồng Nai xuống đường phản đối Trung Quốc hôm 13/5/2014.

“Đó là xuất phát từ lòng yêu nước, từ sự thất vọng đối với Chính phủ. Bây giờ nhân dân làm và mình sẽ làm, 1 người cũng làm”.

Hành động đơn phương thể hiện tinh thần yêu nước của mình khiến anh Tuyến bị câu lưu hơn 5 giờ đồng hồ. Dù được công an giải thích hành động biểu tình ôn hòa của mình là gây rối trật tự nhưng anh Tuyến quả quyết sẽ có rất nhiều người trong số 90 triệu dân ở trong nước VN hành động giống như anh. Anh Tuyến lập luận tinh thần yêu nước của người Việt như anh hùng Nguyễn Trung Trực đã tuyên bố “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây” thì chỉ khi nào Trung Quốc nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người VN chống Trung Quốc. Anh Tuyến nói:

“Trong cái rổ trứng ấp thì có 1 con nở ra, thấy có 1 con thôi nhưng phải hiểu rằng là có rất nhiều con sắp nở. Dĩ nhiên gà mẹ có ấp thì trứng sẽ nở thôi. Cái trứng này nở trước, cái trứng kia nở sau, rồi tất cả các con gà con đều sẽ nở và sẽ lên tiếng gáy. Khi Trung Quốc xâm lược cảm nhận được đúng tinh thần bất khuất của người Việt thì nó sẽ nản chí thôi, tức là đến hơi thở cuối cùng thì người Việt vẫn cứ chống”.

Gây tiếng vang cho thế giới

Có phải những hành động tự phát thể hiện tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm phương Bắc trong suốt chiều dài lịch sử 4.000 năm qua như của bà Lê Thị Tuyết Mai, của ông Hoàng Thu hay của anh Tuyến là đơn độc hay thực sự lan tỏa đến tâm hồn của mỗi người con đất Việt? Từ Úc, cô Nguyễn Thị Thanh Nhàn, một trong những người phát động chiến dịch “Selfie for Vietnam” qua hình thức chụp hình mỗi gương mặt với biển hiệu “ChinagetoutofVietnam”, cho biết tất cả các bức hình khắp năm châu gửi về được đăng tải qua trang mạng xã hội như Facebook, Youtube để gây một tiếng vang cho thế giới về tinh thần đoàn kết chống Trung Quốc của người VN. Cô Thanh Nhàn chia sẻ:

Hành động chụp hình này chỉ là một trong những phương thức thúc đẩy sự đoàn kết của mọi người và gây nên tiếng vang tất cả người VN đều đoàn kết trong việc chống Trung Quốc.
-Cô Thanh Nhàn

“Tôi nghĩ những hình ảnh này chắc chắn không thể nào đem giàn khoan ra khỏi bờ biển của VN được nhưng quan trọng một trong những mục đích chính là thúc đẩy sự đoàn kết của những người trẻ ở khắp năm châu, ai cũng có thể tham gia được hết. Đó là tinh thần đoàn kết mà những người Cộng Sản VN và Trung Quốc, họ đều sợ sự đoàn kết của tất cả người Việt ở năm châu. Hành động chụp hình này chỉ là một trong những phương thức thúc đẩy sự đoàn kết của mọi người và gây nên tiếng vang tất cả người VN đều đoàn kết trong việc chống Trung Quốc qua xâm lược VN”.

Ở trong nước, lên tiếng với báo giới, Anh hùng quân đội Nhân dân VN, Thiếu tướng Lê Mã Lương cho rằng lâu lắm mới thấy được lòng dân thể hiện tình yêu đối với biển đảo quê hương như thế. Thiếu tướng họ Lê khẳng định Việt Nam sẽ tiếp tục kiên trì con đường đấu tranh hòa bình, không bao giờ chủ động tấn công Trung Quốc trước. Tuy nhiên, ông này nhấn mạnh bản thân ông cùng với 4 triệu cựu chiến binh sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ đất nước một khi Trung Quốc gây hấn bằng võ lực. Kiến trúc sư Trần Thanh Vân ở Hà Nội kể lại ghi nhận này với đài RFA sau khi tham dự cuộc hội đàm về tình hình biển Đông do Trung tâm Minh Triết Việt tổ chức, có sự tham dự của Thiếu tướng Lê Mã Lương:

“Thiếu tướng- Anh hùng quân đội Lê Mã Lương đến và có nói rằng hiện nay có 4 triệu cựu chiến binh sẵn sàng xông ra mặt trận bất cứ lúc nào, và quân đội sẽ theo họ chứ không theo ông Phùng Quang Thanh. Dân mạnh lắm”.

Qua những hành động thực tiễn của mỗi cá nhân hay một tập thể ở trong và ngoài nước cho thấy người Việt sẵn sàng đối đầu với Trung Quốc. Và câu hỏi đặt ra liệu Chính phủ VN có đứng cùng chiến tuyến với người Việt hay chăng?