TỪ THỜI CÒN TRẺ… ĐẾN LÚC VỀ GIÀ

TỪ THỜI CÒN TRẺ… ĐẾN LÚC VỀ GIÀ

Trích EPHATA 619

Đời người thường được gói gọn trong một câu thật đơn giản: “Từ thời còn trẻ… đến lúc về già”. Nói như vậy nhưng không đơn giản chút nào vì những suy nghĩ phức tạp của từng thời kỳ, qua đó thể hiện quan niệm sống khác hẳn nhau, nhiều lúc đến độ mâu thuẫn, xung đột gay gắt.

Thời còn trẻ bao gồm các giai đoạn từ thơ ấu, tiến dần đến tuổi vị thành niên và rồi trở thành thanh niên vào lứa tuổi từ 19 đến 24. Đây là khái niệm của Tổ chức Y tế Thế giới ( WHO ) nhưng chưa được thống nhất vì còn tùy thuộc vào từng khuôn khổ xã hội của từng quốc gia. Chẳng hạn như ở Trung Quốc, tuổi thanh niên là 29, trong khi tại Bangladesh là 34 và ở Malyasia thậm chí đến 40 tuổi !

Những người được gọi là “cao tuổi”, “cao niên” hay “người già” thường có độ tuổi từ 60 trở lên như tại Việt Nam. Tại một số nước quy định tuổi của người già được căn cứ vào những gì họ cống hiến cho gia đình và xã hội. Thuật ngữ “senior citizen” dùng tại Anh và Mỹ ám chỉ những người đã hưu trí ( retiree ), thường là những người từ 65 tuổi trở lên. Tại Mỹ, ngày 21 tháng 8 là ngày toàn quốc tôn vinh những công dân lớn tuổi, ngày đó được gọi là“National Senior Citizens Day”.

Bài viết này không có ý tôn vinh tuổi già và cũng chẳng đề cao tuổi trẻ. Tôi chỉ có tham vọng đặt vấn đề về những cảm xúc của con người thay đổi theo tuổi tác. Những điều được nêu ra dưới đây có thể mang phần nào ý nghĩa chủ quan vì người viết thuộc về lứa tuổi “gần đất xa trời”, nhưng thiết nghĩ, người trẻ cũng như già nên đọc để chiêm nghiệm những cái đúng và cả những cái sai.

Đề tài từ cổ chí kim được nói đến nhiều nhất là “Tình yêu trai gái”. Một triết gia nào đó đã phân tích: Cảm xúc về Tâm hồn tạo ra Tình Bạn; Cảm xúc về Tri thức tạo ra lòng Kính Trọng và Cảm xúc về Thể xác tạo ra lòng Ham Muốn. Nếu cả ba cái này cộng lại, người ta sẽ có Tình Yêu ( ! ). Cụ thể hơn, “Tình yêu Nam-Nữ” được thể hiện qua công thức: Tình yêu Nam và Nữ = Tình bạn + Tôn trọng + Ham muốn

Lúc trẻ, tưởng yêu là tất cả, là mọi thứ trên đời… nhưng khi lớn tuổi, trải qua nhiều cuộc tình, mới biết sau yêu còn có… chia tay. Không phải chỉ một lần mà rất nhiều lần, cứ lập đi lập lại… Điều mà người trẻ tuổi không bao giờ hoặc ít khi nào nghĩ đến !

Lúc trẻ, vẫn nghĩ rằng tình yêu là mãi mãi, tình yêu là thứ quan trọng nhất trong cuộc đời. Khi có tuổi mới biết tình yêu “đến đó rồi đi, có đó rồi mất”. Từ những cảm nghĩ lạc quan của tuổi trẻ người ta lại bước sang tư tưởng bi quan của người già!

Lúc trẻ, cứ tưởng “yêu một người thì dễ, quên một người mới khó”. Người trẻ khi yêu hình như đã mặc nhiên công nhận vị trí “khó quên” của người bạn tình. Đến khi tuổi tác ngày một cao đã chứng minh điều ngược lại: người lớn tuổi thấy mình đã quên đi nhiều người mình đã từng yêu, quên một cách dễ dàng !

Lúc trẻ, cứ tưởng tình yêu luôn dựa theo nguyên tắc “bình đẳng” qua triết lý “yêu thương cho đi là yêu thương nhận lại”. Về già mới chợt nhận ra bài học kinh nghiệm đầy bất công của tình yêu: “có những yêu thương chỉ cho mà không nhận”. Nhà thơ người Anh, Abraham Cowley ( 1628 – 1667 ) đã phải thốt lên:

“Of all the pain, the greatest pain

It is to love, but love in vain”.

Tạm dịch là:

“Trong mọi khổ đau, niềm đau vĩ đại,

Là trót yêu người… không hề yêu lại”.

Lúc trẻ cứ tưởng rằng “yêu một người là sống chết vì người đó”, giờ mới biết “yêu một người là phải biết tự yêu lấy mình”. Đây không phải là lòng “tự ái” của con người khi về già mà là những điều mà nhiều người có tuổi rút ra được sau những cuộc tình “mù quáng” của thời thanh niên và thiếu nữ.

Lúc trẻ cứ nghĩ “sau tình yêu sẽ là hôn nhân”, đến khi về già mới nhận ra: “vẫn có những cuộc hôn nhân không cần tình yêu”. Ngạn ngữ Pháp có câu: “Tình yêu là Bình Minh của hôn nhân, hôn nhân là Hoàng Hôn của tình yêu” và với kinh nghiệm bản thân, Socrates khuyên nhủ mọi người:

“Bằng đủ mọi cách, hãy lập gia đình. Nếu lấy được người vợ tốt, bạn sẽ hạnh phúc. Nếu lấy phải người xấu bạn sẽ trở thành một triết gia” ( By all means: marry. If you get a good wife: you’ll become happy. If you get a bad one: you’ll become a philosopher ).

Ngay từ lúc còn trẻ nhiều người cũng đã trở thành “triết gia” vì yêu. Họ thích định nghĩa tình yêu với những mỹ từ, mỹ ý… Nào tình yêu là X, là Y, là A, B, C, D… khi lớn tuổi lại cuống cuồng vì hoang mang, không biết tình yêu thật sự là gì cả. Tại sao ư ? Vì, “tình yêu thật khó định nghĩa: nó đến bất chợt, đi bất ngờ, và để lại một vết thương lòng muôn thuở” !

Lúc trẻ cứ tưởng hạnh phúc là điều gì đó xa xôi lắm, về già mới biết hạnh phúc chỉ đơn giản là những thứ bình dị xung quanh, có chăng là mình đã không nhận thấy. Người trẻ chỉ thấy hạnh phúc trong hôn nhân khi được sống bên người tình yêu mến, về già hạnh phúc đó lan tỏa đến con cháu qua một thứ không còn là tình yêu trai gái mà là tình ruột thịt, máu mủ.

Khi còn trẻ, phạm vi giao tiếp thường mở rộng, bạn bè giao thiệp rất đông. Đến lúc ở vào tuổi về hưu bỗng thấy mình cô đơn vì cuộc sống thu hẹp và người già thường “ẩn mình” trong phạm vi gia đình. Tuy nhiên, cũng có người vẫn hăng say hoạt động xã hội để khỏa lấp sự trống rỗng, có người tìm một thú vui cho bản thân như chăm sóc cây cảnh, viết lách… Chỉ tội nghiệp những ai không tìm cho mình một hướng đi lúc về già trước khi bị bệnh tật tấn công để trở về với cát bụi.

Lúc trẻ tưởng “nói quên là có thể quên được”, giờ mới biết có những chuyện càng muốn quên thì nó lại càng ở mãi trong lòng. Điều này cho thấy người lớn tuổi hướng về cuộc sống “nội tâm” trong khi người trẻ giữa cuộc sống tất bật ngoài xã hội, luôn… “hướng ngoại”.

Lúc trẻ, tưởng cô đơn ở đâu xa lắm vì chung quanh toàn là người, về già mới hiểu những giây phút bên người thân quả là một sự ấm áp nhưng lại rất mong manh, trong khi đó, “nỗi cô đơn luôn ở bên cạnh”. Cũng vì thế cho nên khi còn trẻ cứ tưởng việc đóng một cây đinh vào tường thật đơn giản vì không thích thì có thể nhổ đi. Về già mới thấy: đinh có thể nhổ nhưng vết lõm trên tường vẫn còn đó.

“Hai mươi bốn năm sau. Tình cờ đất khách gặp nhau.

Đôi cái đầu đều bạc.

Nếu chẳng quen lung đố nhìn ra được.

Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi, con mắt còn có đuôi”.

Đó là những lời kết trong bài thơ Tình Già của Phan Khôi đăng trên báo Phụ Nữ Tân Văn năm 1932. Bài thơ này có thể coi như tác phẩm thơ tự do đầu tiên, mở đường cho phong trào Thơ Mới ở Việt Nam. Về phương diện tình cảm, bài thơ thể hiện “một vết lõm trên tường” sau khi cái đinh được nhổ từ thời trai trẻ.

Theo lẽ tự nhiên, người ta khóc khi buồn nhưng một khi có tuổi mới thấy điều buồn nhất là… “không thể khóc được”. Xem một cuốn phim, đọc một cuốn truyện người trẻ và người già thường có những cảm xúc khác hẳn nhau ! Có thể vì đã từng trải nhiều nên tình cảm của người già đã trở nên… “chai lì” ? Phải chăng tuyến lệ cũng đã bị “lão hóa” nên không còn hoạt động ?

Ở một thái cực ngược lại, cười là vui nhưng nhiều khi người lớn tuổi lại thấy “có những giọt nước mắt còn vui hơn tiếng cười”, chẳng hạn như trường hợp gặp lại người thân sau một thời gian dài xa cách, “mừng mừng, tủi tủi”. Những lúc tình cảm đạt đến “cực điểm”, người ta thường nhớ đến câu thơ đầy mâu thuẫn của Xuân Diệu:

“Cười là tiếng khóc khô không lệ

Người ta cười trong lúc quá chua cay”

Người ta cũng có thể “cười ra nước mắt” hay như Nguyễn Du trong Kiều đã vẽ nên cảnh oái ăm “Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm”. Suy cho cùng, chuyện Khóc-Cười là lẽ thường tình nhưng rõ ràng là mức độ Khóc-Cười thường bị ảnh hưởng phần nào vì tuổi tác.

Lúc trẻ tưởng chỉ có kẹo là ngọt, giờ lớn mới biết có những thứ còn ngọt ngào hơn cả kẹo. Người cha già trên giường bệnh nhận từ con viên thuốc đắng nhưng sao vẫn thấy ngọt. Người mẹ già ăn bát canh khổ qua nhưng không cảm thấy đắng vì sự hiếu thảo của con. Ông cha ta thường nói: “Già được bát canh, trẻ được manh áo mới”là vậy.

Lúc trẻ tưởng tượng rất nhiều, về già mới nhận ra: “chuyện cổ tích không bao giờ có thật”. Lúc trẻ, tưởng mình có thể thay đổi cả thế giới, khi tuổi tác đã cao mới thấy thay đổi chỉ một người cũng khó, có chăng vẫn chỉ là tự thay đổi mình.

Lúc trẻ cứ tưởng một khi thành “người lớn” là lớn, bây giờ mới thấy có nhiều người đã lớn mà vẫn chưa thành người lớn. Đến khi thật sự thành người lớn thì người ta mới hiểu: “không bao giờ bé trở lại được”. Đó là sự thật khiến cho nhiều người lúc bé cứ mong mình chóng lớn, giờ đây lớn rồi lại ước gì mình bé lại.

Lúc trẻ cứ mơ ước lớn lên sẽ trở thành người này người kia. Về già mới biết: “được trở thành chính mình mới là hạnh phúc nhất”. Lúc trẻ tưởng rằng “những gì đến rồi sẽ đi”, giờ mới biết: “khi niềm vui đến thường qua mau, còn nỗi buồn đến thì cứ ở bên ta mãi mãi”.

Lúc trẻ cứ nghĩ: “Tiền bạc, Tình yêu rồi mới đến Sức khỏe”, về già mới khám phá sự đảo ngược: “Sức khỏe, Tiền bạc, Tình yêu”. Lúc trẻ rất sợ phải chết, nhưng vềgià “sự lãng quên còn đáng sợ hơn cái chết rất nhiều”.

Cuối cùng, lúc trẻ cứ tưởng sự sống và cái chết ở cách xa nhau lắm. Về già mới hiểu nó chỉ cách nhau một lằn chỉ mong manh. Johann Von Goethe đã từng nói: “Cái chết, ở một mức độ nào đó, là một điều vô lý bỗng trở thành hiện thực” ( Death is, to a certain extent, an impossibility which suddenly becomes a reality ). Và lúc đó chúng ta thanh thản ra đi để khởi đầu một cuộc hành trình cuối cùng: Bước-Nhảy-Vọt-Vào-Bóng-Tối.

NGUYỄN NGỌC CHÍNH

Giàn khoan Trung Quốc ngoài Biển Đông và đấu tranh chính trị nội bộ tại Hà Nội

Giàn khoan Trung Quốc ngoài Biển Đông và đấu tranh chính trị nội bộ tại Hà Nội

Giàn khoan Hải Dương HD-981 (DR)

Giàn khoan Hải Dương HD-981 (DR)

Trọng Nghĩa

Sau vụ Bắc Kinh đưa giàn khoan vào hoạt động ngay trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Hà Nội đã lên tiếng dọa kiện Bắc Kinh ra trước tòa án quốc tế nhưng vẫn chưa hành động. Trong bài phân tích công bố ngày 16/07/2014, Giáo sư Carlyle Thayer thuộc Học viện Quốc phòng Úc giải thích thái độ rụt rè của Việt Nam bằng giả thuyết : Sự cản trở của phe thân Trung Quốc trong giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam được ông mệnh danh là «accommodationist».

Bài viết « Biển Đông : Giàn khoan Trung Quốc và đấu tranh chính trị nội bộ tại Hà Nội – South China Sea: China’s Oil Rig and Political In-fighting in Hanoi » bao gồm một số câu trả lời phỏng vấn báo chí. Được sự đồng ý của Giáo sư Thayer, RFI xin giới thiệu nguyên văn phần hỏi-đáp.

HỎI : Đấu đá nội bộ giữa hai phe thân Trung Quốc và thân Mỹ trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đã ngăn cản không cho Việt Nam có hành động pháp lý chống lại Trung Quốc ngay cả trước vụ giàn khoan HD-981. Giáo sư có thể xác nhận điều này hay không, và dựa trên yếu tố nào để chứng minh ?

ĐÁP : Việt Nam đã cân nhắc hành động pháp lý chống lại Trung Quốc từ sáu năm nay, theo các nguồn tin từ Hà Nội. Khi xẩy ra cuộc khủng hoảng giàn khoan HD-981, Việt Nam đã xem xét hai phương pháp tiếp cận riêng biệt, một liên quan đến chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và một liên quan đến quần đảo Trường Sa.

Sự kiện Việt Nam vẫn chưa khởi động vụ kiện chống Trung Quốc, và cũng không hỗ trợ vụ kiện của Philippines, là bằng chứng cho thấy phương án pháp lý không đảm bảo được một đa số trong Bộ Chính trị.

Điều cũng đáng ghi nhận là Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã công khai tuyên bố mạnh mẽ về các hành động pháp lý. Theo ông, hành động pháp lý sẽ phụ thuộc vào thời gian. Đại tướng Phùng Quang Thanh đã nói tại Đối thoại Shangri-La rằng lựa chọn pháp lý là một phương sách cuối cùng.

Có tin cho rằng Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc Dương Khiết Trì trong chuyến thăm gần đây, đã cảnh cáo Việt Nam về việc tìm kiếm hành động pháp lý.

HỎI : Trung Quốc hiện đã di chuyển giàn khoan trước thời hạn giữa tháng Tám như từng nói lúc ban đầu. Như vậy có thể nói rằng phe thân Trung Quốc đã giành được thế thượng phong hay không ? Nếu đúng thì tại sao ? Nếu không, thì tại sao không ?

ĐÁP : Việc Trung Quốc rút giàn khoan dầu sẽ làm cho căng thẳng giảm ngay lập tức. Trung Quốc cũng sẽ rút hạm đội hơn một trăm chiếc tàu và chiến hạm. Điều này sẽ tạo tiền đề cho Việt Nam rút lực lượng Cảnh sát biển và Kiểm ngư ra khỏi khu vực. Do đó, sẽ có cơ sở cho các cuộc đàm phán giữa Trung Quốc và Việt Nam để thảo luận về cách đưa quan hệ hai nước trở lại hướng cũ.

Phe gọi là ủng hộ Trung Quốc, hoặc là thỏa hiệp (accommodationist), sẽ chống lại bất kỳ hành động nào có thể sẽ làm xấu thêm quan hệ với Trung Quốc. Điều này có nghĩa là phương án pháp lý và việc nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ không có khả năng xẩy ra trong tương lai gần. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có nguy cơ bị gạt qua một bên.

Một cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương Đảng dự kiến ​​sẽ cân nhắc lợi hại của hành động pháp lý chống Trung Quốc. Cuộc họp đó sẽ chuyển khuyến nghị lên Bộ Chính trị.

HỎI : Theo quan điểm của phe thân Trung Quốc, hậu quả của việc xích lại quá gần với Hoa Kỳ sẽ như thế nào ? Cũng như thế, theo quan điểm của phe thân Mỹ, việc tiếp tục thỏa hiệp với Trung Quốc sẽ có hại ra sao về chính trị và kinh tế ?

ĐÁP : Xích lại quá gần với Hoa Kỳ sẽ dẫn đến áp lực tiêu cực, thậm chí biện pháp trừng phạt từ phía Trung Quốc. Xích lại quá gần với Hoa Kỳ sẽ kéo theo một số đòi hỏi phải đáp ứng yêu cầu của Mỹ, đòi Việt Nam chứng tỏ tiến bộ về nhân quyền và áp lực của Mỹ đòi quyền tiếp cận Việt Nam rộng rãi hơn về quân sự, chẳng hạn như Vịnh Cam Ranh, gia tăng các chuyến Hải quân ghé cảng và các cuộc tập trận chung.

Phe gọi là thân Mỹ sẽ cảm thấy rằng việc thỏa hiệp với Trung Quốc sẽ hạn chế quyền tự do hành động của Việt Nam và đưa Việt Nam vào thế phục tùng và lệ thuộc Trung Quốc. Sự phụ thuộc ý thức hệ sẽ làm giảm triển vọng cải cách kinh tế ở Việt Nam.

HỎI : Việc Trung Quốc rút giàn khoan ảnh hưởng ra sao đến đấu đá nội bộ giữa hai phe tại Việt Nam ? Trường đấu có thể kết thúc thế nào ?

ĐÁP : Sự kiện Trung Quốc rút giàn khoan sẽ dẫn đến việc giảm căng thẳng và làm tăng khả năng các cuộc đàm phán song phương cấp cao Việt-Trung. Điều đó sẽ có lợi cho những người muốn thỏa hiệp với Trung Quốc. Đấu đá trong nội bộ Đảng có khả năng tăng cường độ trên những bất đồng về lợi ích ngắn hạn so với lợi ích lâu dài.

HỎI : Đấu tranh giữa phe ủng hộ Trung Quốc với phe thân Mỹ sẽ nhào nặn cách Việt Nam xử lý các cuộc xung đột trong tương lai với Trung Quốc như thế nào ?

ĐÁP : Nếu lãnh đạo Việt Nam tiếp tục chia rẽ giữa phe thân Trung Quốc và phe thân Mỹ, điều đó có nghĩa là Việt Nam sẽ không thể đẩy mạnh quan hệ với Hoa Kỳ trong các lĩnh vực quốc phòng và an ninh. Việt Nam sẽ thận trọng tiến hành việc này và một cách thất thường.

Còn về cuộc xung đột trong tương lai với Trung Quốc, nhóm thỏa hiệp sẽ tự kiểm duyệt chính mình. Họ sẽ phủ quyết bất kỳ chính sách nào có khả năng khơi dậy sự giận dữ của Trung Quốc. Họ sẽ liên kết với Trung Quốc, tức là tránh chỉ trích Trung Quốc với hy vọng rằng Việt Nam sẽ được thưởng công về kinh tế cho hành vi tốt của mình.

Vấn đề là việc chia sẻ cùng một ý thức hệ xã hội chủ nghĩa sẽ trói tay Việt Nam và hạn chế khả năng hoạt động vì lợi ích dân tộc. Tóm lại, cuộc đấu đá tiếp tục giữa phe thân Trung Quốc và phe thân Mỹ sẽ làm suy yếu khả năng của Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích dân tộc của mình và chống lại áp lực từ Trung Quốc.

HỎI : Liệu việc Trung Quốc rút giàn khoan có liên quan đến việc Thượng viện Mỹ thông qua một nghị quyết chỉ trích Trung Quốc vào tuần trước, và cuộc điện đàm giữa Tổng thống Obama và Chủ tịch Tập Cận Bình cách đây vài ngày ?

ĐÁP : Việc Trung Quốc rút giàn khoan không liên quan trực tiếp đến nghị quyết của Thượng viện Mỹ và các cuộc điện đàm giữa Tổng thống Obama và Chủ tịch Tập Cận Bình vì các quyết định loại này không thể được thực hiện dưới sự thúc ép của tình hình.

Trung Quốc có thể là đã quyết định dời giàn khoan, vì dữ liệu thương mại đầy đủ đã được thu thập và họ không có gì để mất khi kết thúc sớm hoạt động thăm dò dầu khí. Chắc chắn là bão Rammasun sắp đến cũng tác động đến quyết định rút sớm.

Cuối cùng, Trung Quốc cũng chú tâm đến chính sách chiến lược. Họ muốn tác động đến một cuộc họp quan trọng sắp tới của Ban Chấp hành Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà mục tiêu là quyết định nên hay không nên có hành động pháp lý chống lại Trung Quốc và, rất có thể là tìm kiếm quan hệ gần gũi hơn với Hoa Kỳ.

 

TỘI LỖI NÀO ĐƯỢC THA THỨ

TỘI LỖI NÀO ĐƯỢC THA THỨ

Có tội ác nào tày trời đến độ không thể tha thứ được không? Tap chí Times đã nêu ra câu hỏi trên đây khi trích dẫn câu trả lời của một vị luật sư người Campuchia.

Cách đây ba năm, một Mục sư đã rửa tội cho một giáo viên ở một vùng sình lầy thuộc tỉnh Battanapan, ở mạn TÂy Campuchia.  Mới đây người giáo viên này tiết lộ mình đã từng làm giám đốc cơ quan mật vụ của Khờ-me đỏ.  Sau 20 năm lẩn trốn, nay ông thú nhận là ông đã trực tiếp nhúng tay vào vụ thảm sát ít nhất là 12.000 người Khờ-me.

Người Mục sư mà cha mẹ và với gần 2.000.000 đồng bào ruột thịt bị người Khờ-me đỏ sát tế trong giai đoạn từ năm 1975 – 1979, đã nhận định về cuộc trở lại của người giáo viên này như sau:

Thật là kỳ diệu, Kitô giáo có thể thay đổi cuộc sống con người.  Nếu Chúa Giêsu đã thay đổi người giáo viên này, thì Người cũng có thể thay đổi tất cả mọi người.

Ông Duo tức người giáo viên này, một hôm đã đến nghe vị Mục sư thuyết giảng, sau đó ông đã xin chịu phép rửa, ông nói rằng, trong suốt thời thơ ấu và ngay cả khi lớn lên ông không bao giờ được yêu thương.  Giờ đây tin nhận Chúa Kitô, ông cảm thấy tâm hồn được tràn ngập yêu thương.

Mục sư ghi nhận rằng, cuộc thay đổi nội tâm đã ảnh hưởng đến toàn diện con người của ông.  Trước kia ông lầm lỳ ít nói, nay ông vui vẻ và cởi mở với tất cả mọi người.  Trước kia quần áo ông xốc xếch, thì nay ông ăn mặc chỉnh tề.  Sau khi đón nhận phép rửa và tiết lộ tông tích của mình, ông Duo đã bị chính quyền Campuchia bắt giữ hồi tháng 5.1998, hiện nay ông đang bị giam tại một nhà từ gần trung tâm Tollen, tức là nơi trước đây ông đã từng tham vấn, hành hạ và sát hại hàng trăm ngàn người đồng bào ruột thịt của mình.

Nhận định về tay đồ tể khát máu Khờ-me, người luật sư Lobin đã nói như sau: một câu chuyện mang lại niềm hy vọng cho nhân dân Campuchia, họ đã trải qua quá nhiều năm trong tăm tối.  Khi đón nhận Chúa Giêsu, họ đã được mang lại ánh sáng trong cuộc sống của họ.  Thật vậy, đã đến lúc người Campuchia cần phải từ bỏ thù hận để sống yêu thương.

**********************************

Anh chị em thân mến,

Chứng từ sống động trên đây đưa chúng ta vào cốt lõi của đạo chúng ta là yêu thương và tha thứ mà hôm nay qua bài dụ ngôn cỏ lùng Giáo Hội muốn nhắc lại cho chúng ta.  Dụ ngôn là một câu trả lời của Chúa Giêsu và thắc mắc mà các môn đệ thường nêu lên, là tại sao Thiên Chúa không trừng phạt nhãn tiền những kẻ làm điều gian ác?

Với hình ảnh của ruộng lúa tốt và cỏ lùng, Chúa Giêsu mạc khải lòng nhân từ và sự tha thứ vô biên của Thiên Chúa, đối với Thiên Chúa không có tội ác nào, dù cho có tày trời đến đâu mà không thể tha thứ được.  Như một người cha ngày ngày ra đứng trước cửa trông ngóng người con hoang đàng trở về, thì Thiên Chúa cũng có một thái độ chờ đợi kiên nhẫn như thế đối với tất cả mọi tội nhân, dù cho con người có đốn mạt xấu xa đến đâu thì Chúa vẫn luôn dành cho một cơ may mới để trở về với Ngài.  Nơi tâm hồn con người dù có tăm tối đến đâu, Thiên Chúa vẫn nhận ra được ánh sáng mà chính ngài đã đặt để trong trái tim con người.  Chính vì tin tưởng nơi khả năng có thể cải thiện của con người mà Thiên Chúa không ngừng tha thứ cho con người và kiên nhẫn chờ đợi con người trở về.

“Thức khuya mới thấy đêm dài, sống lâu mới thấy dạ người có nhân”.  Dụ ngôn về cỏ lùng được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, mời gọi các Kitô hữu mặc lấy tâm tình khoan dung nhân hậu và cảm thông của Chúa Giêsu.  Chúa Giêsu không khoan nhượng, không dung tha cho bất cứ tội ác nào, Ngài gay gắt lên án thói giả hình và thái độ mù quáng của con người, nhưng Ngài lại tỏ ra cảm thông và tha thứ cho những người yếu đuối tội lỗi, Ngài không những cảm thông với những người tội lỗi, mà còn tha thứ cho chính những kẻ hành hạ Ngài.

Tòa nhà giáo huấn của Chúa Giêsu sẽ sụp đổ nếu từ trên thập giá Ngài không tha thứ cho những lý hình của Ngài.  Cuộc sống của Ngài cũng sẽ vô giá trị nếu khi bị treo trên thập giá Chúa Giêsu vẫn còn mang theo hận thù trong lòng Ngài.

Tha thứ là vẻ đẹp cao quý nhất trong tâm hồn con người.  Nhân cách của con người sẽ bị đánh mất nếu nó không thể làm được hành động tha thứ.  Người tín hữu Kitô chúng ta cũng sẽ mất căn tính của mình nếu chúng ta chỉ sống theo đố kỵ, hận thù.  Tha thứ là vẻ đẹp cao quý nhất trong tâm hồn con người, do đó cũng chính là điều khó thực hiện nhất, vì thế mà chúng ta không ngừng cầu xin Chúa cho chúng ta luôn được sống ơn tha thứ, đó là điều chúng ta cầu xin trong Thánh Lễ mỗi ngày.

Kinh Lạy Cha nhắc nhớ chúng ta rằng, chúng ta chỉ có thể cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa nếu chúng ta cũng tha thứ cho người anh em chúng ta mà thôi.

Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn được lớn lên trong niềm xác tín ấy.  Amen!

R. Veritas

From: ngocnga_12 &a  Anh chị Thụ Mai gởi

Israel – Một đất nước thần kỳ

Israel – Một đất nước thần kỳ

Israel – Một đất nước thần kỳ

Featured Image: Halfway Anywhere

Một ngày thôi, chúng ta hãy tạm quên đi khung trời tự do thiên đường của Mỹ và hãy thôi thèm thuồng sự hào nhoáng ngọt ngào từ các bộ phim Hàn. Một ngày thôi, chúng ta hãy thôi ca tụng nếp sống văn hóa của Nhật và quên luôn gã khổng lồ đáng ghét Trung Quốc đang lặn ngụp ngoài biển đông. Một ngày thôi, hãy quên những đất nước đang sôi sục say men chiến thắng mùa world cup và thậm chí hãy tạm lơ luôn cả đất nước Việt Nam máu thịt mà ta đang ngự trị. Chỉ một ngày thôi, hãy nhìn sang một đất nước khác, một đất nước nghe tên đã thấy nhàm chán và xa xôi, một đất nước chỉ có chiến tranh và sa mạc nóng bỏng trải dài tít tắp. Một đất nước nhỏ bé và chẳng có mấy tin tức hay ho về nó trên báo đài nhưng phần lớn sự kiện quan trọng trên thế giới đều có liên quan đến những con người xuất thân từ đó. Đó là đất nước Israel, nơi con người đã chiến thắng thiên nhiên và theo tôi, chiến thắng cả thế giới về tính cần cù, bền bỉ, vượt khó, khả năng sáng tạo và không bao giờ dừng lại. Những thông tin sau đều là tin tổng hợp nên chắc nhiều bạn biết rồi nhưng tôi tin cũng rất nhiều người chưa hề được biết, và chắc chắn, sẽ có điều khiến bạn phải ngạc nhiên về đất nước này.

Một nền nông nghiệp thần kỳ

Israel có diện tích rất nhỏ, trên 20.000 km2, tức là chỉ lớn hơn tỉnh Nghệ An của Việt Nam chút ít. Tuy nhiên Israel lại được mệnh danh là “thung lũng silicon” của thế giới trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghệ nước. Chỉ với 2,5% dân số làm nông nghiệp nhưng mỗi năm Israel xuất khẩu chừng 3 tỷ USD nông sản, là một trong những nước xuất khẩu hàng đầu thế giới. Ít ai biết rằng, những sản phẩm rau quả từ Arava – một trong những nơi khô cằn nhất thế giới – lại chiếm tới trên 60% tổng sản lượng xuất khẩu rau của Israel và 10% tổng sản lượng hoa xuất khẩu. Thung lũng Arava. Địa danh khá lạ tai đối với khách du lịch, nhưng lại là cái tên rất tự hào của mọi người dân Israel vì tại đây, phép màu đã làm nở hoa giữa sa mạc – những phép màu thực sự của khoa học công nghệ. Là phần khô hạn nhất của hoang mạc Negev với lượng mưa bình quân chỉ từ 20-50mm mỗi năm (Việt Nam là 1500mm/năm). Độ ẩm cực thấp và sự chênh lệch nhiệt độ khiến đá cũng phải vỡ vụn mà khắp hoang mạc phủ một lớp đá vụn và cát đặc thù sa mạc. Arava là một trong những vùng đất khô cằn nhất thế giới. Cảm giác đầu tiên khi đặt chân đến vùng đất này, là miền Trung Việt Nam với những dải đất bạc màu và đồi cát, hóa ra vẫn còn là miền đất trù phú! Ấy thế mà nơi đây mọc nên những nông trại trồng đủ loại cây từ rau củ, cây ăn trái đến hoa hòe. Tất cả đều xanh tốt và cho sản lượng không nơi nào sánh được. Không từ nào có thể diễn tả đúng hơn về một “vườn địa đàng” đã được tạo ra giữa thung lũng Arava, đúng như Tổng thống Israel Shimon Peres đã thốt lên khi đến thăm nơi này năm 2009: “Hãy đến và thấy chính con người cũng có thể tạo nên vườn địa đàng! (Garden of Eden)” Ông Ezra Ravins, người đứng đầu cộng đồng hơn 3.000 người tại khu vực này cho biết, từ một nhóm thanh niên Israel “bồng bột”, mang theo bánh mì và nước quyết định định cư tại thung lũng Arava năm 1959, cả một cộng đồng đã được xây dựng với nhiều thế hệ, tạo thành một trong những trung tâm nông nghiệp lớn nhất cả nước. “Khi những người đầu tiên đến đây, quyết định đó được xem là “điên rồ” nhất và chính những nhà khoa học cũng khẳng định con người không thể sống được ở vùng đất này.” Ấy vậy mà họ đã làm được, không chỉ làm được, mà còn tuyệt đối thành công, trồng trọt mà không cần đất và không cần nhiều nước, thoạt nghe cứ như chuyện của thế giới nào đó không phải trái đất này. Nhưng không, đó là sự thật, đó là Israel!

Thần kỳ cách họ trữ nước và sử dụng nước

Thiên đường nông nghiệp tại Arava gắn liền với một công trình xứng đáng ghi nhận như một kỳ công mà con người đã tạo ra giữa xa mạc: Bể chứa nước khổng lồ mang tên Shizaf. Với khả năng dự trữ 150.000 m3 nước sạch, bể chứa này có nhiệm vụ cấp nước sạch cho sinh hoạt và tưới tiêu. Bể được thiết kế để tích trữ nước từ giếng khoan vào thời điểm nhu cầu giảm. Bể có đáy chìm 3,5 m dưới mặt sa mạc và chia thành nhiều lớp khác nhau, tạo nên bề mặt nổi 10m. Một khối lượng công việc khổng lồ được thực hiện để đào bỏ 320.000 m3 đá và đất sa mạc. Độ sâu của giếng khoan lên tới 1,5 km mới tới túi nước ngầm. Kỹ thuật thiết kế đặc biệt của bể chống lại chế độ bốc hơi tự nhiên cũng như thu gom nước một cách hoàn hảo. Điều kiện tự nhiên của Israel đặc biệt khô hạn với lượng mưa rất thấp và thay đổi theo từng mùa: Phía Bắc quốc gia này lượng mưa khoảng 800 mm/năm và ở phía Nam chỉ khoảng 50 mm/năm. Mùa mưa kéo dài từ tháng 11 đến khoảng tháng 3 năm sau và lượng bốc hơi tự nhiên lên tới 1.900-2.600 mm/năm. Không có gì ngạc nhiên khi nước ngọt ở Israel được coi như vàng trắng và được quản lý một cách chặt chẽ hơn bất kỳ nơi nào trên thế giới. Chính phủ xây dựng hẳn một bộ luật để đo lường mức tiêu thụ nước, kiểm soát việc khai thác nước ngầm, ngăn chặn ô nhiễm nước. Công nghệ xử lý nước của Israel thuộc hàng hiện đại nhất thế giới với tỉ lệ tái chế tới 75%. Dọc ngang Israel, ở những thành phố lớn hay những vùng nông thôn, hoang mạc, hệ thống tưới nước hoàn hảo đến mức gần như không bỏ phí một giọt nước nào. Đại diện công ty công nghệ tưới NaanDanJain cho biết 75% hệ thống nước nông nghiệp của Israel áp dụng công nghệ tưới nhỏ giọt, 25% còn lại tưới nước bằng ống dẫn và vòi tưới các loại phun mưa nhỏ, không hề có chế độ tưới ngập nước. Israel cũng là quốc gia phát minh ra hệ thống tưới nước nhỏ giọt điều khiển bằng máy tính, kết hợp với các thiết bị kiểm soát độ ẩm trong đất, có thể tính toán chính xác nhu cầu nước và tiết kiệm tối đa. Tại công ty Netafim, người viết được chứng kiến những thành quả đáng ngạc nhiên về hiệu quả của việc sử dụng công nghệ tưới nhỏ giọt của Israel trên khắp các dự án ở những vùng khô hạn trên thế giới. Hệ thống ống dẫn nước như những mao mạch dẫn tới từng gốc cây, được vận hành chính xác bằng công nghệ cao cũng như sử dụng tối ưu năng lượng mặt trời. “Đạt năng suất cao hơn với chi phí thấp hơn” (grow more with less) là khẩu hiện của Netafim và có lẽ cũng là hướng đi của phần còn lại của thế giới, khi nguồn tài nguyên nước đang ngày càng suy giảm. Israel giải quyết được sự thiếu nước, biến nước thành tài sản, đang dẫn đầu thế giới về tái chế nước thải, hơn 70% lượng nước được tái chế, gấp 3 lần quốc gia đứng thứ hai Tây Ban Nha.

“Cây đũa thần” khoa học

Một con số dễ hình dung về năng lực của “cây đũa thần” khoa học. Năm 1950, một nông dân Israel cung cấp thực phẩm đủ cho 17 người, hiện đã là 90 người. Một hecta đất hiện cho 3 triệu bông hồng, hay 500 tấn cà chua/vụ. Một con bò cho tới 11 tấn sữa/năm – mức năng suất mà không một nước nào trên thế giới có được. Những thực tế tại công ty NaanDanJain đã đem lại một bài học khác về sự phối hợp: nhà khoa học, nhà doanh nghiệp có sự tách biệt khó phân định với nhà nông. Đa phần các nước nhập khẩu công nghệ của NaanDanJain chỉ biết rằng đây là một trong những công ty hàng đầu Israel chuyên về giải pháp tưới, hệ thống công nghệ kiểm soát khí hậu nhà kính, mà không biết rằng chính công ty cũng đang sở hữu những đồn điền rộng lớn, nơi chính những tiến bộ khoa học của công ty được triển khai đầu tiên, nhằm đảm bảo sự thích ứng hoàn hảo nhất đối với nhu cầu của người trồng trọt. Một trong những lợi thế của sự phối hợp giữa khoa học và nhà nông tại Israel là tính cộng đồng rất cao. Nhà khoa học rất gần gũi với đồng ruộng và nhiều trong số họ cũng chính là nông dân hoặc giữ vai trò tư vấn trực tiếp cho nông dân. Các trung tâm nông nghiệp lớn, thậm chí cả các “làng nông nghiệp” (từ địa phương là kibbutz) đều có sự xuất hiện của các phòng nghiên cứu hoặc đại diện của các viện khoa học. Những giống cây mới hay các nghiên cứu mới về hệ thống nhà kính trước hết được thí nghiệm, kế đó sẽ áp dụng thử nghiệm với một số nhỏ hộ nông dân bằng nguồn vốn hỗ trợ của hệ thống tài chính vi mô hoặc từ chính quỹ của viện thí nghiệm, trước khi triển khai thương mại đại trà. Tại Israel phần lớn các nhà khoa học nông nghiệp làm cho chính phủ. Có tới hơn 60% các công trình nghiên cứu nông nghiệp là của Cơ quan Nghiên cứu Nông nghiệp hay trung tâm Volcani thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Israel cũng là nước có mức đầu tư cho nghiên cứu thuộc loại lớn nhất thế giới với gần 100 triệu USD mỗi năm, chiếm khoảng 3% tổng sản lượng nông nghiệp quốc gia. Nguồn lực này đến từ ngân sách và cộng động (50 triệu USD/năm), các hợp tác quốc gia song phương (12 triệu USD/năm), các tổ chức nông nghiệp cấp địa phương và quốc gia (6 triệu USD/năm) thông qua nguồn lợi từ thu hoạch cây trồng. Khu vực tư nhân cũng đóng góp khoảng 25 triệu USD hàng năm. Nguồn lực này được cung cấp trực tiếp cho việc nghiên cứu và phát triển các sản phẩm ứng dụng và các nhà đầu tư giữ bản quyền sáng chế. Phần lớn các nghiên cứu đều do những công ty sản xuất sản phẩm đầu tư, như hệ thống tưới tiêu, phân bón, nhà kính… triển khai. Sự phối hợp giữa kinh doanh và nghiên cứu đảm bảo cho các nhà khoa học một mức ưu đãi đủ để phát huy tối đa năng lực hoạt động chuyên môn. Thậm chí các chuyện các chuyên gia nông nghiệp đi tư vấn trực tiếp cho các nông trại là điều không hiếm.

Việc chăn nuôi tại Israel:

Nuôi cá trên sa mạc Khi đào giếng sâu gần nửa dặm, người Israel phát hiện nguồn nước ấm mặn. Một giáo sư đại học chỉ ra đây là nguồn nước hoàn hảo để nuôi cá nước ấm. Các nông trang bơm nước nóng 37 độ vào trong bể, nuôi cá thương mại. Nước chứa chất thải của cá được tưới cho rau, cây ăn quả. Nhờ vậy, nước được sử dụng tới 2 lần thay vì dùng 1 lần rồi bỏ. Những con bò có giáo dục AfiMilk chính là công ty đã mang lại cho Israel thương hiệu độc tôn trong ngành chăn nuôi bò sữa, đặc biệt là ở khu vực châu Á, nơi mà thói quen uống sữa đang được hình thành. Những công nghệ của AfiMilk đã và đang giúp người nông dân chăn nuôi bò sữa kiểm soát được loại sữa đang được sản xuất từ trang trại của mình; cũng như kiểm soát được liệu mỗi con bò đã có đủ dinh dưỡng không, sữa bò có đủ lượng protein tiêu chuẩn không, tình trạng sức khỏe của bò ra sao, mỗi con bò đang cần được chăm sóc thế nào… Hệ thống giám sát thời gian thực do AfiMilk sản xuất đã giúp người nông dân đảm bảo duy trì chất lượng và sản lượng, đồng thời đáp ứng những nhu cầu cơ bản của đàn bò sữa. Ở trang trại nuôi bò sữa của Kibbutz Mashabbe Sade thuộc vùng Nagev, bò được huấn luyện rất kỹ, cứ đến giờ là tự tìm đường về trạm cho sữa, thậm chí không cần người dẫn dắt. Họ gọi những con bò này là “bò có giáo dục”. Tiện nghi cho chó Israel đã phát triển một loạt các sáng tạo với những sản phẩm out of the box (những sản phẩm sáng tạo không gò bó theo khuôn phép) cho những người nuôi chó trên toàn thế giới, từ DogTV (kênh truyền hình dành cho chó) đến pooper-scooper (một thiết bị mang tính cách mạng giúp bạn tự động dọn sạch phân chó – đã có trên thị trường). Khi bạn đi ra ngoài và để chú chó của mình ở nhà một mình, chúng sẽ không còn cảm thấy chán nhờ vào kênh DogTV – kênh truyền hình dành cho những chú chó đã đạt những thành công phi thường của Israel . Và khi bạn lái xe, một việc không ai muốn làm đó là dọn phân cho những chú chó, sẽ trở nên dễ dàng với thiết bị của Paulee CleanTec: biến chất thải thành chất không màu, không mùi, bột vô hại chỉ với một nút nhấn. Dẫn đầu thế giới về công nghệ sạch Họ được xếp hạng cao nhất với chỉ số 4,34, tiếp theo là Phần Lan 4,04, Mỹ 3,67, Thụy Điển 3,55 và Đan Mạch 3,45. Trong vòng 3 năm qua, Israel có 19 công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ sạch được lọt vào danh sách rút gọn của GCII. “Israel đứng đầu chỉ số năm 2014. Ngoài bản năng sinh tồn, đất nước này còn tạo ra nền văn hóa, giáo dục và những nền tảng cần thiết khác để nuôi dưỡng sự sáng tạo”, báo cáo cho biết.

Những điều hay ho về con người, tính cách, bản sắc văn hóa và nền kinh tế:

Kinh doanh từ niềm đam mê sáng tạo nên cái mới, chứ không hẳn vì tiền TS. Ze’ev Ganor, một giảng viên cao cấp tại Viện Công nghệ Technion-Israel và đồng sáng lập của Urginea Ventures, người đã phân tích dữ liệu về các doanh nhân nối tiếp ở Israel từ năm 2005 nói rằng: Hiện tượng một doanh nhân thành lập nhiều công ty rất phổ biến ở Israel. Khoảng 10% doanh nhân Israel có ít nhất hai công ty trở lên, gấp đôi con số 5% ở Mỹ. Tương tự như vậy, có khoảng 7,5% các doanh nhân Israel khởi nghiệp từ ba công ty hoặc nhiều hơn, trong khi chỉ có 3,75% các doanh nhân Mỹ làm như vậy. Trên sàn giao dịch chứng khoán NASDAQ, số doanh nghiệp Israel nhiều hơn cả 4 nước Nhật Hàn Trung quốc và Sing cộng lại. Không ít những ông chủ khổng lồ nhất thế giới có mặt trên đất nước này đến từ Mỹ, Ấn độ, Đức… Xuất khẩu hướng vào thị trường cao cấp và sản phẩm mà Israel thu lợi nhuận cao nhất là bán các ý tưởng, được kết hợp chặt chẽ từ hai yếu tố sáng tạo và táo bạo. Và hình như, đây chính là tinh thần Do thái. Israel có tỷ lệ doanh nhân bình quân đầu người cao hơn bất kì một quốc gia nào khác. Vậy đâu là những yếu tố thúc đẩy sự thành công của họ? “Tôi cho rằng giá trị chung cơ bản mà những người liên tục tạo ra các công ty khởi nghiệp nằm ở sự đam mê tạo ra giá trị mới chứ không phải đam mê kiếm tiền. Kiếm tiền chỉ là một yếu tố phụ, không phải là mục tiêu phấn đấu của những doanh nhân tiếp nối ở Israel.” GS. Amnon Shashua của Đại học Hebrew, người sáng lập ra các công ty Cognitens, OrCam và Mobileye nói. Hay như theo cách mà ông Wurtman giải thích thêm về triết lý kinh doanh của họ: “Điều khiến bạn thích thú không phải ở việc tạo ra của cải, mà là tạo ra những cái mới.” “Đặc điểm của những doanh nhân tiếp nối là họ không bao giờ ngừng liên kết những ý tưởng mới vào doanh nghiệp mới và họ coi trọng cuộc hành trình của mình hơn là cái đích. Theo tôi, đây là một đặc điểm mang tính dân tộc, vì bản thân tôi đã luôn xem những gì tôi làm như là một phần của cuộc hành trình để phục vụ nhà nước Do Thái. Thành công, theo tôi, được đo bởi số lượng việc làm có chất lượng được tạo ra.” Wurtman khẳng định. Chuyện nói và chuyện làm Khi người Israel có ý tưởng, anh ta sẽ triển khai nó ngay trong tuần. Tổng thống S. Peres, người đã sang Việt Nam, nói thế này: diễn văn rất hay, nhưng anh định làm gì tiếp theo?. Tỉ phú hàng đầu Israel , ông Stef Wertheimer, lời khuyên đầu tiên với người Việt cũng là, nói ít thôi làm nhiều lên. Ông là nhà sản xuất vũ khí và chủ một khu công nghệ còn đẹp hơn bất cứ công viên giải trí nào ở Việt Nam. Điều này hơi ngược với triết lý của ta khi bắt đầu kinh doanh cần phải có kinh nghiệm. Người Israel không cần kinh nghiệm, họ cần ý tưởng nhiều hơn, và sẵn sàng thất bại để học hỏi từ thất bại đó. Người Israel mê sáng tạo, và không sợ trí tưởng tượng. Họ biết kinh nghiệm là quý báu, nhưng kinh nghiệm dễ thành lối mòn. Họ không ngại thay đổi, luôn hướng về phía trước, không nằm im gặm nhấm thành công quá khứ. Họ biết “nỗi sợ hãi mất mát luôn lớn hơn niềm hy vọng nhận được” để bỏ đi cái cũ không còn phù hợp, kiến tạo cái mới cho hiện tại và tương lai. Trong những buổi gặp mặt cựu binh hay bạn học, họ ít hồi tưởng về quá khứ huy hoàng, mà hướng về tương lai phía trước. Những đơn vị thành công thì thuyết trình về công ty để người khác được chia sẻ kinh nghiệm. Họ xây dựng mạng luới làm ăn, kiến tạo những cơ hội kinh doanh. Tiếp nhận sự khác biệt và đa dạng trong cộng đồng Một trong những giá trị của Israel đó là lịch sử dân tộc. Chỉ với khoảng 8 triệu dân nhưng lại có nguồn gốc từ 70 nước trên toàn thế giới. Họ là quốc gia duy nhất thực thi luật di trú mà bất cứ người Do thái nào đặt chân lên Israel, ngay lập tức trở thành người Israel. Họ biết chiêu dụ những người Israel sống ở nước ngoài về phục vụ tổ quốc, trọng dụng họ và không bao giờ bỏ rơi họ. Israel thực sự là một đất nước đa dạng về văn hóa, sắc tộc, ngôn ngữ, nguồn gốc. Vì là nạn nhân của chủ nghĩa bài Do thái, họ thấu hiểu việc tôn trọng sự đa dạng quan trọng như thế nào. Chính vì vậy, sự khác biệt không cản trở họ, mà ngược lại là nguồn gốc của sự sáng tạo. Đây chính là cốt lõi khởi tạo mọi thành công của người Israel.

image

Chuyện người lãnh đạo

Quá trình tuyển chọn lãnh đạo của Israel dựa trên tài năng chứ không phải dựa trên mối quen biết hay sức mạnh tài chính. Quá trình tuyển chọn rất minh bạch và dân chủ. Cộng với văn hóa tranh luận và đặt câu hỏi “tại sao ông là sếp của tôi; tại sao tôi không phải là sếp của ông?” đầy thách thức, làm cho người sếp không đủ tài năng sẽ phải nhường chỗ cho người khác. Quá trình này giúp tìm ra được người lãnh đạo tốt nhất cho công ty, tập đoàn hay chính phủ. Khi có lãnh đạo giỏi, việc trao quyền cho cấp dưới được thực hiện dễ dàng hơn, các thông tin, ý tưởng, giải pháp được đến từ nhiều người hơn là chỉ một số người có trách nhiệm. “Mục tiêu của nhà lãnh đạo là tối đa hóa sự chịu đựng – trong khi khuyến khích sự bất đồng chính kiến.” Là một phương châm lãnh đạo rất sâu sắc. Tinh thần này có nghĩa, lãnh đạo phải chịu được những điều “chướng tai gai mắt”, những khác biệt thậm chí bất đồng, thì nhân viên mới thỏa sức sáng tạo. Còn nhân viên, phải phát huy tính tự chủ độc lập của mình, không sợ khác biệt về nhận định hay giải pháp, vì đó chính là khởi nguồn của sáng tạo. Văn hóa này đã nuôi dưỡng tinh thần chiến đấu và hướng tới cái mới hơn, tốt hơn và hiệu quả hơn. Ở Israel, các sinh viên đại học nói chuyện với giảng viên, nhân viên thách thức ông chủ, binh lính chất vấn sĩ quan chỉ huy, thư ký sửa lưng các bộ trưởng, đây không phải là sự cả gan, mà là điều hết sức bình thường. Ai mới tới Israel thường có cảm giác người bản xứ rất thô lỗ, thẳng thắn quá trớn. Nhưng nếu hiểu được bản chất và văn hóa của người Israel thì ta sẽ cảm thấy thoải mái, xem đây là biểu hiện của sự chân thành. Hiện tượng cấp dưới có quyền đưa ra quyết định vượt cấp trong quân đội Israel là kết quả của nhu cầu thực tế cũng như bản chất của lực lượng này. Việc quân đội Israel có ít chỉ huy, đồng nghĩa với việc có nhiều sáng kiến hơn đến từ binh lính cấp dưới. Mức độ trao quyền hạn vượt cấp trong quân đội Israel đã làm lãnh đạo các quốc gia ngạc nhiên. Giá trị của binh lính Israel không phụ thuộc quân hàm, mà được quyết định bởi năng lực của họ. Ở đây, bí quyết lãnh đạo là niềm tin của binh lính đối với chỉ huy của mình. Nếu không có niềm tin, binh lính sẽ không bao giờ tuân phục. Trong doanh trại quân đội Israel, các viên tướng, sĩ quan và binh lính thường ngồi quây quần bên nhau, ít kiểu cách nhưng thân thiện và bao dung hơn. Đó là tinh thần Chutpah trong quân đội. Điều này lý giải tại sao Shvat Shaket, một người đã sống nhiều năm trong quân đội, có thể giảng cho chủ tịch PayPal về sự khác nhau giữa “người tốt và kẻ xấu” trên internet. Hay nhóm kỹ sư Israel của Intel thực hiện cuộc cách mạng lật đổ kiến trúc cơ bản của sản phẩm của chính công ty mình. Tinh thần chiến đấu của người Israel không chỉ được thể hiện trên chiến trường, bàn ngoại giao, mà còn thẫm đẫm vào công việc kinh doanh của họ. Khi bị ban lãnh đạo Intel từ chối giải pháp làm nguội con chíp, nhóm làm việc Israel không chịu lùi bước. Họ kiên trì thuyết phục, cải tiến và chứng minh viễn kiến và giải pháp của họ là đúng, tạo bước ngoặt cho Intel và thế giới khi đưa ra các sản phẩm chip mới. Trong những công ty khởi nghiệp, khi thất bại họ “thất bại có tính xây dựng” hay “thất bại thông minh”, cộng với tính khoan dung của người Israel, nên những người thất bại được trao cơ hội làm lại. Theo thống kê, những người đã thất bại lần đầu mà khởi nghiệp lại, tỉ lệ thành công của họ sẽ tăng lên 20%. Đây chính là lý do góp phần để Israel thành một quốc gia khởi nghiệp.

Và những điều lạ lùng khác nữa…

Mô hình kinh tế Kibbutz Về kinh tế, mô hình kinh tế Kibbutz được hình thành từ những năm 1960 và tới nay vẫn còn duy trì hiệu quả. Đây là mô hình tổ chức nông-công nghiệp nông thôn độc nhất vô nhị trên thế giới chỉ có tại Israel. Hiện nay trên toàn Israel có khoảng 270 Kibbutz, trung bình mỗi Kibbutz này có trên dưới 300 xã viên hoạt động tương tự như nhau, sở hữu những cánh đồng trồng cây nông nghiệp, trại chăn nuôi gia súc, các nhà máy chế biến sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp nhẹ như sản xuất bột giạt, đồng hồ đo nước xuất khẩu, van và khớp nối ống nước… Mọi thành viên của gia đình các xã viên được cung cấp miễn phí hai bữa ăn sáng và trưa tại một bếp ăn tập thể giữa làng. Riêng bữa tối các gia đình tổ chức ăn ở nhà để cho gắn bó tình cảm giữa các thành viên trong gia đình mình. Buổi sáng, các xã viên và trẻ em trong làng lũ lượt kéo đến các nhà ăn tập thể dùng bữa sáng. Nhà ăn được tổ chức hiện đại và sang trọng với đầy đủ các món ăn cao cấp không khác mấy so với các phòng ăn ở khách sạn 5 sao. Sau khi ăn xong, mỗi người tự mang bát đĩa, khay, thìa đến những chỗ quy định để “tổ bếp núc” rửa. Sau đó, trẻ em thì đến trường, người lớn đến nơi làm việc. Khoảng 12h30 trưa, trẻ em đi thẳng từ trường học tới nhà ăn, cùng người lớn dùng bữa trưa. Các gia đình không nhất thiết ngồi ăn cùng bàn, họ thoải mái tự chọn món mình thích và tùy chọn chỗ ngồi trong bữa ăn, không hạn chế số lượng và hoàn toàn theo nhu cầu. Ngoài ra còn những điều cực kỳ lý thú, việc giặt giũ của mỗi gia đình được phụ trách bởi một tổ có tên “tổ giặt giũ” đảm nhiệm. Họ phân loại quần áo, dùng máy móc giặt sấy và trả về cho mỗi gia đình theo số thứ tự được đánh dấu của mỗi nhà. Các xã viên cũng không cần mua ô tô khi các Kibbutz luôn có sẵn khoảng 60 ô tô con các loại để tại bãi đậu xe có người trông coi. Ai cần đi xe chỉ việc chọn xe, đăng kí trên website và tới bãi để lấy xe chạy thoải mái. Ngoài ra, các khoản như xăng, sửa chữa và các chi phí khác hoàn toàn do Kibbutz chịu trách nhiệm. Nếu thích một loại xe nào đó khác, chỉ việc yêu cầu, Kibbutz sẽ chịu trách nhiệm đi thuê xe cho bạn, và đương nhiên, hoàn toàn miễn phí, Kibbutz sẽ thanh toán cho bạn. Kibbutz còn xây dựng và cấp nhà miễn phí cho các gia đình xã viên. Khi cần mở rộng hoặc muốn cải tạo theo ý mình, chủ nhà trao đổi với ban quản trị, sau đó sẽ có một đội xây dựng đến thực hiện theo yêu cầu của chủ nhà, Kibbutz thanh toán chi phí toàn bộ, bao gồm cả tiền điện, nước, gas sinh hoạt trong các gia đình. Mỗi căn nhà này ở Mashabbe Sade là một biệt thự cao cấp, đầy đủ tiện nghi. Ngày Shabbat bình yên Chiều thứ sáu, đường phố ở Haifa vắng tanh, mọi người đều về nhà để chuẩn bị một bữa tối linh đình cho gia đình. Các cửa hàng, siêu thị, công sở đều đóng cửa, thậm chí các phương tiện giao thông công cộng cũng ngưng hoạt động. Người lần đầu đến Israel đúng những ngày này sẽ cảm thấy bất ngờ và hụt hẫng. Muốn mua sắm hay đi chơi đều phải chuẩn bị từ đầu hoặc giữa tuần. Nếu chẳng may phải đi đâu, phương tiện công cộng duy nhất là taxi với giá 5 shekel (tiền Israel, bằng khoảng 5.000 đồng VN). Một người dân tên Roi Ariel cho biết, theo phong tục, người Israel thường ở nhà nghỉ ngơi, thư giãn, đọc sách, đi thăm người thân hoặc bạn bè, đi du lịch nhân ngày Shabbat. Cánh thanh niên tận dụng những ngày Shabbat để đi ra biển hoặc khám phá những thành phố mới. Roi Ariel đang trong thời gian quân ngũ và phục vụ trong hải quân. Tham gia quân đội cũng là cách các chàng trai, cô gái xứ sở này có được một khoản thu kha khá. Sau 3 năm tại ngũ, họ sẽ dùng số tiền tiết kiệm được để đi du lịch hoặc đăng ký học tại một trường đại học nào đó. Và trường đại học tại Israel thì có chất lượng không thua kém bất cứ đại học danh tiếng nào trên thế giới. Theo lời Erik – một người dân Israel thì, đàn ông Israel không có thói quen tụ tập tại các quán bar sau giờ làm việc, trừ những ngày cuối tuần. Hầu hết đều trở về nhà, giúp đỡ vợ những công việc gia đình, xem tivi, đọc sách và ngủ. Làm việc quên giờ giấc cũng là một đặc tính nữa của người Israel. Chắt chiu trong cuộc sống thường ngày, nhưng bù lại họ có niềm đam mê trong việc du lịch và khám phá những vùng đất khác. Chả thế mà người Israel được xem là dân tộc đi du lịch nhiều nhất thế giới.

Tạm kết

Quả thật là lý thú và kỳ diệu, đất nước này, những con người nơi đây. Họ có xứng đáng cho chúng ta học hỏi, từ công việc nông nghiệp, cách dụng người tài, khả năng sáng tạo tuyệt đỉnh cho đến thói quen sinh hoạt thường ngày? Thật đáng khâm phục đúng không? Con người Israel với khả năng kinh doanh tuyệt vời và những vĩ nhân ảnh hưởng lớn đến thế giới thì chắc hẳn bạn nào yêu thích kinh doanh và từng đọc các cuốn sách “Bí mật người Do Thái dạy con làm giàu, Tủ sách của người Do Thái…” đều được biết. Tuy nhiên, thật không thể ngờ đi sâu vào đất nước ấy lại có nhiều điều thú vị đến vậy. Thiết nghĩ, Việt Nam ta cũng là một quốc gia nông nghiệp thì ta nên học hỏi đất nước này. Ta có một nền tảng tốt hơn, tại sao ta lại không thể làm tốt hơn? Phải chăng cũng vì cái nền tảng tốt đẹp sẵn có mà ta không còn cần phấn đấu và sáng tạo nữa? Thật đáng tiếc, theo một bản tin mới đây, thì mặc cho bầu Đức đã và đang triển khai rất nhiều công nghệ nông nghiệp hiện đại từ từ đất nước này, thì Bộ Công Thương của chúng ta sau một hồi nghiên cứu đã quyết định chọn các tư vấn viên đến từ… Trung Quốc để tư vấn cho nền nông nghiệp nước nhà. (!) Thật sự là không còn gì để nói…

Phi Tuyết

Các nguồn tham khảo:

  • https://www.facebook.com/IsraelinVietnam
  • http://nld.com.vn/phong-su-ky-su/shabbat-binh-yen-195204.htm
  • http://reds.vn/…/4771-chu-nghia-cong-san-kieu-israel
  • http://embassies.gov.il/hanoi/AboutTheEmbassy/
  • Các thông tin tổng hợp từ cuốn sách “Quốc gia khởi nghiệp” của Dan Senor và Saul Singer.

Hãy thôi lừa dối nhau và lừa dối chính mình

Hãy thôi lừa dối nhau và lừa dối chính mình

image

Hãy trở về với giá trị thực, thôi gắn bằng cấp với chức danh quản lý nhà nước, đề ra những điều kiện tuyển dụng chức danh quản lý mà bằng cấp chỉ có ý nghĩa tham khảo và thay vào đó là tiêu chuẩn cho phép đánh giá khả năng thực sự của ứng viên.

Câu chuyện lạm phát tiến sĩ, tiến sĩ giấy ở Việt Nam là một câu chuyện dài chưa có hồi kết kể từ cái ngày cách đây cũng đã lâu, khi mà người ta quyết định các chức danh công chức phải có bằng cấp nhất định nào đấy, và rồi nhờ một quyết định mang tính chất hành chính mà hàng trăm phó tiến sĩ bỗng chốc ngủ một đêm thức dậy thấy mình thành tiến sĩ.

image

Hân hoan. Khoan khoái. Hoạn lộ mở ra, thông thoáng. Kể từ ngày đó, và kể từ ngày mà một vị mới lên làm bộ trưởng giáo dục đã đặt ra cái chỉ tiêu đầy tự hào là trong bao nhiêu năm Việt Nam phải có 20.000 tiến sĩ, rồi Hà Nội cũng đưa ra mục tiêu đến năm 2020 phấn đấu có 100% cán bộ diện Thành ủy quản lý có trình độ tiến sĩ, 100% cán bộ diện UBND thành phố quản lý có trình độ trên đại học, trong đó một nửa cần đạt trình độ tiến sĩ thì căn bệnh lạm phát tiến sĩ chỉ có ngày càng nặng thêm, với biết bao hệ luỵ: học giả bằng giả, bằng thật học giả, bằng dỏm của các đại học dỏm nước ngoài, thuê thi hộ, thuê viết luận án hộ hoặc “chôm” luận án của người khác…

image

Số ấn phẩm khoa học từ 1966 đến 2011 của các nước trong khối ASEAN. Dù có số lượng tiến sĩ không nhỏ nhưng Việt Nam vào hàng chót bảng. (nguồn: ISI Web of Science 2012)

Với 24.000 tiến sĩ hiện nay, nhiều nhất trong các quốc gia Đông Nam Á, Việt Nam lại chẳng có bao nhiêu công trình khoa học được đăng tải trên các tạp chí khoa học quốc tế, không có trường đại học nào trong 500 trường đại học tốp đầu thế giới, chất lượng giáo dục và đào tạo bậc cao chỉ xếp thứ 7/10 nước ASEAN (chỉ đứng trên Lào, Campuchia, Myanmar) và thứ 95/148 quốc gia được xếp hạng theo diễn đàn Kinh tế thế giới.

Nhiều vấn đề học thuật, khoa học công nghệ, kinh tế, xã hội mà thực tiễn đặt ra không thấy hoặc rất ít thấy có sự góp sức về giải pháp của các nhà khoa bảng. Ngoài 633 tiến sĩ là giảng viên các trường cao đẳng, 8.519 tiến sĩ là giảng viên các trường đại học (theo số liệu của bộ Giáo dục và đào tạo năm 2013), không biết 15.000 tiến sĩ còn lại không giảng dạy, không nghiên cứu, vậy thì họ ở đâu, làm gì nếu không phải là lãnh đạo, công chức, cán bộ cơ quan, doanh nghiệp nhà nước? Mà nếu vậy họ cần cái học vị tiến sĩ để làm gì nếu không phải để giữ chức, thăng chức hoặc để loè thiên hạ? Trong khi đó thì nhiều tiến sĩ không rành nổi một ngoại ngữ, đến nỗi khi bộ Nội vụ dự tính yêu cầu cấp thứ trưởng, mà trong số đó hẳn có không ít tiến sĩ, phải có một trình độ ngoại ngữ kha khá thì nhiều người thấy ngay là chuyện không tưởng, là làm khó nhau. (Thật ra, bình thường, khi tốt nghiệp đại học và trước khi bước vào quan trường, các ứng viên đã phải làm chủ tương đối một ngoại ngữ chứ không phải sau khi làm quan chức rồi mới cho đi học ngoại ngữ bằng tiền ngân sách).

image

Trước những hệ luỵ mà trào lưu “tiến sĩ hoá” đã gây ra cho chính nền giáo dục, cho chất lượng nhân sự và bộ máy quản lý nhà nước, cho đạo đức xã hội (nạn chạy chọt bằng cấp, nạn đạo văn, nạn gian dối bằng cấp…), trước tình hình bộ giáo dục cao đẳng và đại học sa sút, yếu kém như hiện nay, đã đến lúc bộ máy giáo dục, bộ máy nhà nước và xã hội chấm dứt căn bệnh tự lừa dối nhau và lừa dối chính mình. Hãy trở về với giá trị thực, thôi gắn bằng cấp với chức danh quản lý nhà nước, đề ra những điều kiện tuyển dụng chức danh quản lý mà bằng cấp chỉ có ý nghĩa tham khảo và thay vào đó là tiêu chuẩn cho phép đánh giá khả năng thực sự của ứng viên.Trong khi đó thì ngành giáo dục cần siết chặt điều kiện đào tạo tiến sĩ, siết chặt việc quản lý chất lượng tấm bằng tiến sĩ để những người được cấp bằng không phải là những tiến sĩ giấy, với những luận án nghiên cứu vô bổ, không có phát kiến gì mới, không đóng góp được gì về học thuật hoặc giải pháp cho thực tiễn. Điều đó lại chỉ có thể thực hiện trong một nỗ lực chung cải cách tận gốc nền giáo dục, vốn đòi hỏi không chỉ trí tuệ mà cả ý chí chính trị lớn, khi mà những yếu kém của nền giáo dục đã tồn tại quá lâu.

image

Và xã hội chúng ta nói chung hãy thôi sùng bái bằng cấp, thay vào đó là nhìn vào trí tuệ thực sự, nhìn vào khả năng xử lý công việc, xử lý những vấn đề của cuộc sống của mỗi con người.

Đoàn Khắc Xuyên

Đừng sống bằng sự dối trá

Đừng sống bằng sự dối trá

Alexander Solzhenitsyn

image

Đã có thời thậm chí rỉ tai nhau chúng ta cũng không dám! Bây giờ thì chúng ta viết và đọc sách báo chui, và thỉnh thoảng có tới Viện Khoa Học hút thuốc gặp nhau thì cũng thành thật mà phàn nàn với nhau rằng: Chúng đang giở trò gì đây? Chúng còn xỏ mũi ta tới đâu nữa? Quê hương vừa nghèo vừa điêu tàn mà chúng cứ huyênh hoang khoe nhau những thành tựu trên vũ trụ. Chúng ôm mấy cái chế độ cai trị lạc hậu và dã man, rồi thổi cho lửa nội chiến bùng lên. Chúng rút ruột để nuôi Mao Trạch Đông một cách vô tội vạ – rồi tống cổ chúng ta ra chiến trường đánh nhau với hắn, mà chúng ta phải đi.

Trốn sao cho thoát? Chúng thích đưa ai ra tòa thì đưa, chúng nhốt người tỉnh táo vào nhà thương điên – chúng nó luôn giở những trò đó, còn chúng ta thì bất lực.

Mọi thứ sắp rớt xuống đáy cùng. Tinh thần chúng ta đã chết hết, còn thân xác chúng ta và cả con cái chúng ta nữa, cũng sắp bị ném vào lửa cháy rụi. Thế mà chúng ta vẫn bình chân như vại, cứ nhếch mép cười một cách tiểu nhân, và lưỡi không bị ngọng mà vẫn lúng búng trong miệng. Nhưng chúng ta biết làm gì mà ngăn nó cho được? Hay là chúng ta không đủ sức?

Chúng ta bị tước đoạt nhân tính một cách tàn bạo tới mức chỉ vì miếng cơm manh áo qua ngày thôi mà chúng ta sẵn sàng vứt bỏ mọi nguyên tắc và linh hồn của mình, mọi nỗ lực của tiền nhân và mọi cơ hội của hậu thế – miễn sao đừng đụng tới sự tồn tại mong manh của mình là được. Chúng ta không có khí phách, không có tự trọng, không có nhiệt tình. Vũ khí hạch tâm, thế chiến thứ ba chúng ta không sợ. Chúng ta đã nấp kĩ trong hang rồi. Chúng ta chỉ sợ làm người công dân có dũng khí.

Chúng ta chỉ sợ tụt lại phía sau đàn và phải bước đi một mình và đột nhiên thấy mình không có bánh mì ăn, không có lò sưởi ấm và không có một đăng ký hộ khẩu Moscow. Chúng ta đã được tuyên truyền trong các khóa học chính trị, và theo cùng một cách giống hệt nhau, đã được bồi dưỡng các ý tưởng sống yên thân, và mọi thứ sẽ tốt đẹp trong phần còn lại của cuộc đời. Bạn không thể thoát khỏi môi trường và điều kiện xã hội. Cuộc sống hàng ngày định hình ý thức. Cái đó có liên quan gì với chúng ta? Chúng ta có thể làm gì với nó?

Được chứ, được tất cả là đàng khác. Nhưng chúng ta dối lòng mình để an thân. Đừng trách bọn chúng, có trách thì trách chúng ta đi. Có người vặn hỏi: thì ông muốn nghĩ gì mà chẳng được. Chúng đã dém miệng chúng ta. Có ai chịu nghe chúng ta, có ai thèm đoái hoài chúng ta. Làm sao mà bắt chúng nghe chúng ta nói được? Không thể nào thay đổi được não trạng của chúng.

Tất nhiên là có thể đầu phiếu để loại bọn chúng, nhưng mà đất nước này làm gì có tuyển cử. Ở phương Tây người ta có bãi công và biểu tình phản đối, còn chúng ta thì bị đàn áp thẳng tay, có những cảnh mới nghĩ tới đã thấy rùng mình: ai dám thình lình bỏ việc mà xuống đường? Song le, những con đường chết chóc mà dân tộc Nga đã mò mẫm trong đau khổ suốt thế kỉ qua không phải dành cho chúng ta, mà quả thật chúng ta không cần đi lại những con đường như vậy.

image

Bây giờ cái rìu đã làm xong việc, hạt giống gieo xuống đã nảy mầm, chúng ta có thể thấy là những kẻ còn trẻ tuổi mà cuồng vọng, cho là có thể dùng khủng bố, cách mạng đẫm máu và nội chiến để mang lại bình đẳng và hạnh phúc cho đất nước chúng ta, chính họ là những kẻ lạc lối. Thế đủ rồi, xin cảm ơn các vị giác ngộ cách mạng tiên phong! Bây giờ chúng ta mới biết phương pháp xú uế tất sinh kết quả xú uế. Hãy để cho tay của chú.

Cái vòng trói buộc này đã đóng chặt rồi sao? Không còn lối thoát? Và chúng ta chỉ còn một đường duy nhất thôi, là khoanh tay đợi? Đợi cho tới khi có biến? Chừng nào mỗi ngày chúng ta đều thừa nhận, ca ngợi, và nuôi dưỡng – chứ không tự mình chém phăng đi một điều không ai không thấy, là sự dối trá – thì đừng mong có chuyện gì xảy ra.

Bạo động len lỏi vào cuộc sống an bình, cái mặt nó toát ra vẻ ngạo mạn, y như đang khoác một ngọn cờ và hô to: “Bạo động đây. Tránh ra, nhường đường cho tao, không tao nghiến nát tụi bay.” Nhưng mà bạo động mau già. Rồi nó mất hết tự tín, và để giữ cho cái mặt ra vẻ khả kính nó rước thằng dối trá về làm đồng minh – vì không phải ngày nào nó cũng thò bàn tay thô bạo của nó ra được, mà thò ra được cũng bất tất chụp hết mọi người. Nó chỉ cần chúng ta ngoan ngoãn phục tùng dối trá và hàng ngày thực hành dối trá – đây chính là yếu huyệt của mọi sự trung thành.

Cái chìa khóa đơn giản nhất và dễ làm nhất mở ra cánh cửa tự do, tự do mà bấy lâu nay chúng ta lãng quên, là: mỗi người cùng tẩy chay dối trá. Mặc dù dối trá che giấu tất cả, mặc dù dối trá phủ lấy tất cả, nhưng tôi tuyệt không nhúng tay.

Làm vậy tức là mở một lối thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn hoang tưởng do chúng ta khoanh tay đứng nhìn mà ra. Cách đó vừa dễ làm nhất vừa tiêu diệt dối trá mau nhất. Vì rũ bỏ dối trá, tức là cắt đứt đường sống của nó. Dối trá giống như bệnh dịch, chỉ có thể sống bám vào một sinh vật.

Chúng ta không cần phải ám thị mình. Chúng ta chưa đủ già dặn để tiến vào các quảng trường mà gào lên sự thật hay biểu hiện tư tưởng của mình. Chưa tới lúc phải làm thế. Nguy hiểm nữa. Chỉ cần điều gì mình không nghĩ thì chúng ta từ chối đừng nói là được.

Đó là con đường của chúng ta, con đường dễ nhất ai cũng làm được, con đường đã chiếu cố sự hèn nhát thâm căn cố đế của chúng ta. Nó dễ hơn phương pháp công dân bất phục tùng của Gandhi xiển dương – dễ tới mức viết những lời này còn nguy hiểm hơn.

Con đường của chúng ta là tránh xa chỗ thối nát. Nếu chúng ta đừng ghép đống xương tàn và lớp vảy khô của ý thức hệ lại với nhau, nếu chúng ta đừng mất công vá lại mớ giẻ rách, thì chúng ta sẽ ngạc nhiên thấy là sự dối trá sẽ hóa ra bất lực và tiêu ma nhanh chóng. Lúc đó, cái gì cần lột trần mới thực phơi ra trước cả và thiên hạ.

Vì thế, dù có dè dặt, mỗi chúng ta hãy lựa cho mình: hoặc là, cam tâm làm nô lệ cho hư ngụy – tất nhiên chúng ta nuôi dưỡng con cái mình trong tinh thần dối trá không phải vì đó là bản tính của chúng ta, mà chẳng qua là để kiếm ăn nuôi gia đình – hoặc là rũ sạch mọi sự dối trá làm một người lương thiện xứng đáng được con cái và người đồng thời kính trọng.

Con đường của chúng ta là không tự nguyện ủng hộ bất kì sự dối trá nào. Khi chúng ta đã biết bản chất của hư ngụy ở đâu, thì chúng ta mỗi người sẽ biết cách nhìn ra đâu là dối, đâu là thật.

image

Và từ đó trở đi chúng ta sẽ:

• bằng mọi cách không viết, kí, hay in một lời nào chúng ta cho là bóp méo sự thật;

• không nói những lời như thế, dù là nói chuyện riêng hay nói trước đông người, tự ý mình hay theo ý người khác, dù làm công tác cỗ vũ, dạy học, giáo dục hay đóng trò trên sân khấu;

• không mô tả, cổ vũ, hay truyền đi một ý tưởng nào chúng ta thấy rõ ràng là sai hay bóp méo sự thật, dù bằng hội hoạ, điêu khắc, nhiếp ảnh, khoa học kỹ thuật hay âm nhạc;

• không trích lời người khác nói hoặc viết mà không đặt lời trích vào ngữ cảnh, để lấy lòng ai đó, hay để lót đường cho mình, hay để thành công trong công việc nếu mình không hoàn toàn đồng ý với ý tưởng trích dẫn, hoặc nếu ý trích dẫn đó không phản ánh chân thực bản chất vấn đề;

• không để cho mình bị ép phải dự những cuộc biểu dương hay hội họp nào trái với sở thích hay ý nguyện mình, không cầm hoặc giương lên những tiêu ngữ hay biểu ngữ nào mình không hoàn toàn chấp nhận;

• không giơ tay biểu đồng tình cho một đề xuất mà ta không thành thật tán đồng, không bầu cho người mình cho không xứng đáng hay đáng ngờ về tài năng, dù bầu công khai hay bí mật;

• không để cho mình bị lôi tới những cuộc họp mà mình đoán người ta sẽ bức mình thảo luận hoặc bóp méo một vấn đề;

• lập tức bước ra khỏi những cuộc họp, hội nghị, thuyết trình, biểu diễn, chiếu phim nếu nghe thấy diễn giả nói láo, rêu rao những rác rưởi ý thức hệ, hoặc những lời tuyên truyền lố bịch;

• không đóng góp hoặc mua những báo chí bóp méo thông tin hoặc giấu giếm những sự thật hiển nhiên.

Tất nhiên là chúng ta chưa liệt kê hết mọi biến thái hư ngụy cần phải liệt kê. Nhưng người nào thanh luyện mình sẽ nhờ lương tâm trong sạch mà phân biệt được chân ngụy.

Những người chọn con đường này ban đầu cuộc sống sẽ rất thay đổi. Có người bị mất việc. Những người trẻ muốn sống chân thật, thì những việc như thế này sẽ làm cho đời thanh xuân của họ ra phức tạp, vì khóa học bắt buộc nào cũng nhét toàn dối trá, không thể không chọn lọc.

Nhưng không có lối đi nào dễ dãi hơn cho người muốn làm người lương thiện. Ngày nào chúng ta cũng có người phải đối diện ít nhất là một trong những tình huống trên, cho dù là trong những ngành khoa học kĩ thuật vô thưởng vô phạt dễ tìm được chỗ nương náu nhất. Hoặc là chân thật, hoặc là hư ngụy: một đường đi tới tự do tinh thần, một đường đi tới nô lệ tinh thần.

Còn những kẻ không đủ dũng khí bảo vệ linh hồn mình– các người chớ vin vào mấy quan điểm ‘tiến bộ’ của mình mà kiêu ngạo, chớ huyênh hoang mình là hàn lâm học sĩ, là nghệ sĩ nhân dân, là yếu nhân có nhiều công trạng, hay là đại tướng – các người hãy tự nói với mình: Mình thà ở lại đành làm một thằng hèn. Sao cũng được, miễn no bụng ấm lưng thì thôi.

Lối phản kháng này tuy nhu nhược nhất trong mọi lối phản kháng cũng không phải là dễ. Tất nhiên là dễ hơn tự thiêu hay tuyệt thực: lửa sẽ không dìm thân anh, mắt anh không bị nung cho nổ ra, và gia đình anh sẽ không lúc nào thiếu cơm ăn nước uống.

Một dân tộc vĩ đại ở châu Âu, dân Tiệp Khắc, họ bị chúng ta phản bội và lừa dối, chẳng là họ đã cho chúng ta thấy nếu trong lồng ngực có một trái tim cao thượng thì tấm ngực mỏng manh kia có thể đứng lên chống lại xe thiết giáp đấy sao?

Anh bảo làm thế không dễ? Nhưng trong mọi cách thì cách đó là dễ nhất. Cách đó có thể nguy tới tánh mạng, nhưng muốn cứu linh hồn thì không còn cách nào khác. Phải, con đường đó không phải là con đường dễ đi. Nhưng mà có nhiều người, rất nhiều nữa là khác, năm này qua năm nọ đã theo đuổi lý tưởng ấy, chỉ vì họ lấy chân thật làm lẽ sống.

Cho nên anh không phải là người đầu tiên chọn đi đường này, anh chỉ gia nhập dòng người đã dấn thân vào đó. Nếu chúng ta nâng đỡ nhau và sát cánh nhau thì con đường này sẽ dễ đi và ngắn bớt lại. Nếu chúng ta đông tới hàng ngàn người thì bọn chúng sẽ không làm gì được chúng ta. Nếu chúng ta lên tới hàng vạn người thì đất nước này sẽ khoác bộ mặt mới đến mức chúng ta không còn nhận ra nữa. Nếu chúng ta khiếp nhược quá, thì đừng trách người ta đàn áp mình mãi.

Chính chúng ta đang tự mình đàn áp mình đấy. Lúc đó thì hãy khom lưng xuống nữa, hãy rên xiết nữa, và đợi tới ngày những người anh em của chúng ta, các nhà sinh học, tìm ra cách đọc được tư tưởng của chúng ta, một thứ tư tưởng vô giá trị và tuyệt vọng.

image

Và nếu thậm chí đã chọn con đường yên thân mà chúng ta vẫn rơi vào chỗ cùng khốn, thì chúng ta đúng là đồ bỏ đi, không còn cách gì cứu vớt được. Lúc đó, chúng ta đáng dành cho những lời khinh bỉ này của Pushkin:

“Đồ súc sinh thì làm gì có tự do. Muôn đời di sản của nó chỉ là ách nặng và roi vọt.”


Alexander Solzhenitsyn, The Washington Post

Thái Phục Nhĩ dịch

HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG

HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG

Chúa Nhật XIV Thường Niên A

Mt 11,25-30

Lúc được phong chức Tổng giám mục, Đức Cha Roncalli là khâm sứ Toà thánh kiêm đại diện Tông tòa quản trị các giáo phận ở Bungari và Thổ Nhĩ Kỳ.  Công việc của ngài rất khó khăn, vì phải trông coi một vùng rộng lớn đang sôi động về mặt chính trị, chia rẽ về mặt tôn giáo, Công giáo với Tin lành, Chính thống, Hồi giáo, các linh mục triều lại chia rẽ với các tu sĩ.

Trong lúc thi hành công việc mục vụ, Đức Tổng giám mục Roncalli nhận được một bức thư nặng lời chê bai chỉ trích Ngài về mọi mặt, do tay một linh mục bất mãn viết. Đọc xong, Đức cha Roncalli không nói một lời, lòng vẫn tha thiết yêu vị linh mục ấy.

Thời gian trôi qua, ngài được thăng chức  sứ thần Toà thánh tại Paris, rồi hồng y giáo chủ Vênêcia, và cuối cùng đắc cử Giáo hoàng với danh hiệu Gioan 23 năm 1958.

Linh mục bất mãn viết thư năm nào vẫn còn sống.  Về sau để ngài tháp tùng với giáo dân sang Rôma và xin được yết kiến Đức Giáo hoàng. Linh mục ấy đã thuật lại cuộc tiếp kiến riêng tư với Đức Giáo hoàng :

“Trong lúc đứng ở phòng khách trên lầu cao Vatican, đầu óc tôi cứ nghĩ tới bức thư bất mãn năm xưa mà lòng tôi vô cùng hối hận. Tôi trộm nghĩ, đã mấy chục năm trời qua rồi, giờ đây chắc hẳn Đức Thánh Cha không còn nhớ gì… Nhưng ai ngờ, sau khi tiếp chuyện thân mật, Đức Thánh Cha với lấy cuốn Kinh thánh và lôi ra trước mặt tôi bức thư khốn nạn ấy. Đang khi tôi lo âu lúng túng, Đức Thánh Cha đã cầm lấy tay tôi và dịu dàng bảo:”Con đừng hoảng sợ, cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con. Cha cũng là người, cũng yếu đuối, cha ngăn bức thư con viết vào cuốn Thánh Kinh để hằng ngày đọc vào đó mà xét mình, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại, hoặc xa tránh những lầm lỡ có thể xẩy đến trong tương lai. Mỗi lần như thế cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con”.

Hình ảnh của con người hiền lành, khiêm tốn, phục vụ của ĐTC Gioan XXIII với tâm hồn bình an gợi cho chúng ta tâm tình giáo huấn của Chúa Kitô trong Lời Chúa (Mt 11,25-30): bé nhỏ, hiền lành và khiêm tốn.

Người bé nhỏ được nước Trời như Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha: “ Con xưng tụng Cha vì Cha đã mạc khải nước trời cho những người bé mọn”. Người mang tâm tình thơ ấu bé nhỏ, tín thác vào Tình yêu của Chúa là Cha và để cho Ngài  làm việc.

Chính Chúa Giêsu đã chọn lựa những con người bé nhỏ, tầm thường để mặc khải nước Chúa và mang Tin Mừng  đó là những anh thuyền chài không được trọng dụng trong xã hội. Còn những con người học thức tài ba như Phaolô, như Matthêu lại tự chấp nhận bé nhỏ để nước trời được tỏa hiện trong các ông và từ các ông đến với anh em mình.

Người mang Tinh thần bé nhỏ được nước trời mặc khải, được phác họa với hình ảnh Kinh Thánh:

“Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ

Trong con hồn lặng lẽ an vui” (Tv 131,2)

Nhỏ bé, nép mình vào lòng Chúa, phó thác tất cả để được Thiên Chúa đỡ nâng, vì thế Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy đến lòng Chúa để được nâng đỡ bồi dưỡng tâm hồn. Chúng ta học sự bình an, sự khiêm tốn, dù nhỏ bé và phục vụ hết mình nơi Chúa Giêsu, điều mà Ngài mong mỏi mỗi chúng ta, để được bình an và nước trời: Hạt giống nước trời  nảy nở nơi tâm hồn được canh tác trong tinh thần bé nhỏ.

Cuộc sống hôm nay, con người luôn mong muốn được vĩ đại, sự mong muốn và phấn đấu vĩ đại đã lấn át mặc khải nước Trời. Con người quên tinh thần bé nhỏ tín thác, sự vĩ đại mà họ muốn khẳng định và định đọat tất cả, cái giá của sự vĩ đại mang danh “tự do” làm cho chúng ta quên Thiên Chúa gạt và Ngài ra khỏi đời sống. Dù rằng chúng ta vẫn luôn tuyên xưng mình là người có đạo, người tin Chúa. Đó chính là một thực tế của thế giới ngày hôm nay ở khắp mọi châu lục, đặc biệt là Châu Âu cái lôi của Kitô Giáo.

Cuộc sống với những bôn ba vất vả làm cho niềm tin thêm chao đảo, cuộc sống thật nặng nề. Người mang tâm tình bé nhỏ khám phá được nước Trời, nơi đó được Chúa Kitô mời gọi đến bên Ngài đặt tất cả cho Ngài để Ngài làm việc.

Chị Têrêsa Hài đồng Giêsu cảm nghiệm được nước trời vì  mang tinh thần bé nhỏ : làm những việc bé nhỏ, như chị đã thổ lộ và cầu nguyện: “Con là một linh hồn rất bé mọn, chỉ có thể dâng những điều bé mọn cho Chúa”. Tinh thần phó thác vào Chúa, chỉ cảm nhận ra Tình yêu Chúa ngay cả những đen tối nhất của tâm hồn đó là cảm nghiệm được nước Trời: “Ngay cả những khi gặp thử thách ốm đau, con không sợ, vì Chúa luôn ở bên con, nâng đỡ con, vì Ngài đã nâng đỡ con từ khi con còn tấm bé, và sẽ nâng đỡ con mãi mãi cho đến hơi thở cuối cùng”.  Chính tinh thần bé nhỏ đã khiến chị sờ tới nước Trời và trong Thiên Chúa chị được sự bình an tâm hồn khi đặt mọi gánh nặng, bệnh tật vào Thiên Chúa.

Trong cuộc sống hằng ngày, ai trong chúng ta cũng đã  cảm nghiệm được sự vất vả, mang gánh nặng, chịu gian nan thử thách, chịu đau khổ cả tinh thần lẫn vật chất, từ bản thân đến gia đình và xã hội. Với tinh thần bé nhỏ bên Chúa, con người hôm nay  tìm được thấy một nơi yên nghỉ sau những giây phút mệt mỏi của đời sống và đặt tất cả mọi nỗi lo âu, những gánh nặng trần thế như Chúa Giêsu đã khẳng định: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). “Các con hãy mang lấy ách của Ta”. Đây là kiểu nói bóng  trong truyền thống Thánh Kinh nơi các thầy rabbi xưa quen dùng, hàm ý nhìn nhận ai là thầy (x.Hc 51,31; Is 55,1). Chúng ta nhìn nhận và học nơi Thầy Giêsu hiền lành và khiêm nhu, tràn đầy tình thương, nhân từ, tha thứ và liên đới như Thầy đã dạy.

Vâng, con người sẽ tìm thấy bình an, khi nhìn nhận sự bé nhỏ của mình trước Đấng Tạo Hóa và phó thác vào Ngài, họ được chính nước Trời dù giữa phong ba cuộc đời, giữa những mỏi mệt của cuộc sống đó là mầu nhiệm nước Trời mà người không tin vào Chúa Giêsu không thể cảm nghiệm.

Tinh thần bé nhỏ được chính nước Trời và như tâm tình con nhỏ bên Cha :  “Hãy trao phó mọi việc trong tay Chúa, thì bạn sẽ thành công , Ngài sắp xếp mọi sự để thực hiện ý Người (Cn 34,4).

Tinh thần bé nhỏ phó thác khám phá ra nước Trời, tinh thần đó đưa chúng ta vào trung tâm của tình yêu Chúa: học hỏi nơi Ngài hiền lành và khiêm tốn.

“Càng mạnh mẽ càng hiền lành, càng thông minh càng khiêm tốn” (A.I.Dơmalov).

Lm. Vinh Sơn scj

Cần làm sáng tỏ các tư liệu Trung Quốc về Hồ Chí Minh

Cần làm sáng tỏ các tư liệu Trung Quốc về Hồ Chí Minh

Hồ sơ của Hồ Tập Chương/ Hồ Chí Minh được lưu trữ tại Quân ủy Trung ương và tình báo Hoa Nam Trung Quốc - DR

Hồ sơ của Hồ Tập Chương/ Hồ Chí Minh được lưu trữ tại Quân ủy Trung ương và tình báo Hoa Nam Trung Quốc – DR

Thanh Phương

Cuộc đời của cố lãnh tụ Việt Nam Hồ Chí Minh cho tới nay vẫn còn nhiều bí ẩn và vẫn còn gây nhiều tranh luận. Cứ thỉnh thoảng lại có những tài liệu mới được công bố liên quan đến ông Hồ Chí Minh, chẳng hạn như gần đây, trang Thông Luận ở Pháp có đăng một loạt bài của tác giả Huỳnh Tâm, tựa đề “Giặc Hán đốt phá nhà Nam”, trong đó khẳng định rằng Hồ Chí Minh thật ra là người Trung Quốc.

Ngoài việc khẳng định ông Hồ Chí Minh là người Trung Quốc, tên thật là Hồ Tập Chương, loạt bài viết này còn cho biết ông Nguyễn Tất Thành đã qua đời tại nhà tù Hương Cảng năm 1932, hưởng dương 40 tuổi. Hồ sơ của Hồ Tập Chương/Hồ Chí Minh được lưu trữ tại Quân ủy Trung ương và tình báo Hoa Nam Trung Quốc.

Trước đó, cuốn sách “Tìm hiểu về cuộc đời Hồ Chí Minh.” của tác giả Hồ Tuấn Hùng, người Đài Loan, cũng đã khẳng định ông Nguyễn Ái Quốc đã mất năm 1932, còn người được gọi là Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là người Đài Loan, cùng họ tộc với tác giả.

Thế nhưng, cựu đại tá Phạm Quế Dương, cựu tổng biên tập Tạp chí Lịch sử Quân sự, cho rằng rất khó tin vào những tư liệu đó và ông yêu cầu Đảng và Nhà nước Việt Nam phải làm rõ những chi tiết do các tài liệu của Trung Quốc đưa ra liên quan đến cuộc đời ông Hồ Chí Minh.

Trong một bài đề ngày 10/06/2014, ông Phạm Quế Dương viết : « Tôi rất quý trọng Chủ tịch Hồ Chí Minh, luôn tự hào 45 năm được làm “Người lính Bác Hồ”. Tôi đã nhiều lần vào Nghệ An thăm quê Bác và lễ mộ thân mẫu Bác. Đọc quyển sách của Hồ Tuấn Hùng đã rất bất bình. Nay lại đọc tập tài liệu này của Huỳnh Tâm, tôi càng bức xúc. Tại sao Trung Quốc cho phổ biến công khai những tài liệu này! Ý đồ của họ là gì?

Thời nay là thời đại thông tin, trẻ già trong nước ngoài nước rất nhiều người biết, chắc hẳn bộ máy của Đảng và Nhà nước cũng phải biết rõ. Nhưng, sao lại lặng im vô trách nhiệm đến thế. Tôi đề nghị các vị lãnh đạo và cơ quan chức năng cần làm sáng tỏ và công bố rộng rãi để sự thực được bảo vệ và tôn trọng. »

Sau đây mời quý vị nghe phần phỏng vấn cựu đại tá Phạm Quế Dương qua điện thoại từ Hà Nội :

Ông Phạm Quế Dương

 

15/07/2014

 

Nghe (06:25)

 

 

 

 

 

Dĩ vãng dầm mưa lén bước về

Dĩ vãng dầm mưa lén bước về

Chuacuuthe.com

VRNs (16.07.2014) – Úc Đại Lợi – Suy tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ 16 mùa Thường niên năm A 20.7.2014

“Dĩ vãng dầm mưa lén bước về,

Áo trùng, mây toả, mặt sầu che.”

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mt 13: 24-43

Lén bước về, đâu vì nhà thơ dầm mưa dĩ vãng, mặt sầu che. Áo trùng, mây toả, sầu che mặt, lại vẫn là tâm-trạng của nhà Đạo khi nghe truyện dụ-ngôn “người gieo giống”, rất Nước Trời.

Trình-thuật “người gieo giống” hôm nay, được hai thánh-sử Mác-cô và Mát-thêu diễn-tả để người nghe hiểu về Nước Trời, đầy ý-nghĩa. Mỗi vị kể mỗi cách. Nhưng, cách kể truyện của thánh Mác-cô lại vẫn theo kiểu lật ngược như tư-thế của người nghe truyện. Trong khi đó, thánh Mát-thêu lại đưa vào cuộc sống của người bình-thường đang nghe truyện, cho dễ hơn.

Thánh Mác-cô thường kể chỉ phân nửa bài dụ-ngôn thôi, nhằm xoá bỏ mọi thành-kiến, hoặc lối đoán mò. Còn, thánh Mát-thêu lại tiến xa qua cuộc sống bình-thường mà người đi Đạo gọi là: niềm tin. Niềm tin đây, là những gì xảy đến với người thường sống ở đời, để rồi lại sẽ kết-thúc một cách tốt-lành/hạnh đạo, như lòng người mong muốn.

Thánh Mát-thêu sống sau thời đại của thánh Mác-cô rất nhiều năm, nên ngài cũng hiểu ý-định và dụng-đích của việc kể dụ-ngôn, thời đó. Chính vì thế, nên: thánh Mát-thêu không sử-dụng mục-đích cũng như kiểu-cách của người đi trước, nhưng lại uốn-nắn ảnh-hình và cốt truyện hầu tạo dáng vẻ của sự sống không thấy nơi ngôn-ngữ thường-nhật. Dáng-vẻ đây, là âm-thanh, ảnh-hình cùng điệu-nhạc đưa vào đó, có đính-kèm một bí-kíp cho thật đẹp.

Nét đẹp của sự việc thường-tình ở dụ-ngôn đây, là: loại đất ở nông-trại tiếp-nhận được hạt giống Chúa vãi gieo hàng loạt. Đồng thời, thánh Mát-thêu lại kể về “cỏ dại” chen lấn với lúa tốt, khiến nhà nông cứ băn-khoăn về ảnh-hưởng của nó với lúa tốt tươi, sinh lợi. Hơn nữa, thánh Mát-thêu lại kể thêm về hạt cải tuy bé nhỏ nhưng cho ra nhiều cây lớn. Và, như hạt ngọc nằm trong vỏ trai/sò xấu xí, lì lợm. Nói chung, thánh Mát-thêu sử-dụng truyện kể để cài vào đó tâm-tình lớn lao, cao-đại, tử tế cần phổ biến.

Qua dụ-ngôn, thánh Mát-thêu đề-cao tính-chất cao cả của người bé nhỏ. Thánh-nhân còn sử-dụng việc Chúa Kitô Phục Sinh như sự chúc lành Chúa đem đến cho những con nguời nhỏ bé, bình thường ở đời. Thánh-nhân còn muốn chỉ cách để ta nhận biết và hiểu rõ rằng có những điều ta cần cảm-kích biết ơn Chúa và Đức Kitô đã làm cho con người, mà họ không biết.

Dụ-ngôn thánh Mát-thêu kể, là những truyện hay/đẹp bộc-lộ bí-kíp sống đời bình-thường của con người. Bí-kíp đây, là sống bình-thường có Chúa ở cùng, nên rất đẹp. Bởi, Chúa thích thế. Và, Ngài thích mặc-khải những điều lớn lao về cuộc sống cho người bình-thường/bé nhỏ, mà thôi. Gọi bình-thường, nhưng người nhỏ bé vẫn cần phương-án giản-đơn, không cầu kỳ. Và, thánh Mát-thêu khám-phá ra tính thực-tế của mầu nhiệm Nhập-Thể, qua đó Chúa không cần đến thần-học hoặc khoa hùng-biện nào/khác; nhưng Ngài chỉ cần ta sống bình thường, giản-đơn, cũng đạt được.

Thánh Mát-thêu còn đi xa hơn, bằng cách tự bó buộc mình viết thêm về quà-tặng Chúa ban cho ta, cũng dồi-dào như thế. Thánh-nhân tập-trung vào chuyện hạt giống được gieo trên đất tốt, khi viết dụ-ngôn về đất trồng trọt. Đất trồng trọt, có thể sản-xuất gấp 30, 60 và có khi cả trăm lần vượt quá sự mong-đợi của mọi người. Thánh Mát-thêu không chỉ viết thế, nhưng còn tả về các nhân-đức tàng-ẩn trong ta, khi ta sống cuộc sống biết cảm-kích những điều tốt đẹp Chúa ban cho mình, trong đời.

Người bé nhỏ trong đời, lại muốn nghe Lời Chúa, cả trong sự việc bé nhỏ, nên đã hiểu. Mọi lời bình thường, đều được Chúa sử-dụng ở Phúc Âm để nói về Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Mẹ được chúc phúc vì đã nghe Lời Chúa, hiểu Lời và còn giữ kín trong lòng, mà thực hiện trong cuộc sống, nữa.

Người nghe kể hôm nay, được khích-lệ sống tích-cực điều Chúa dạy. Sống tích-cực, có kèm theo nụ cười hạnh-đạo, bởi trong Lời Chúa nói, vẫn có âm-nhạc được diễn-tả theo điệu kể của thánh Mát-thêu. Đó, còn là cung-cách rất riêng-tây của thánh Mát-thêu khi sử-dụng dụ-ngôn do vị tiền-nhiệm kể, để mọi người thấy được Đức Giêsu đích-thực là người Do-thái đã biết vui tươi, mỉm cười, dễ chịu.

Về cung-cách biết mỉm cười trong cuộc sống, cũng nên tìm hiểu xem thế nào là cười mỉm, vui tươi trong sống đời thường-tình, bằng các định-nghĩa ở bên dưới:

-Cười, là để học biết chấp-nhận hình-thái ân-huệ của cuộc sống khó có thể kiểm soát;

-Cười, là ý-nghĩa thần-học của việc mất đi hiểu-biết chính con người mình;

-Cười, là mỗi ngày sống dấu-chỉ của sự đồng-thuận cuối cùng và mãi mãi với thực tại;

-Diễu cợt – nực cười, là điều để ta cười vào đó, cho bõ sống;

-Chỉ những ai làm thế mới là người không áp-đặt mọi thứ vào chính con người mình;

-Cười, là để sống thân-thiện với mọi thứ;

-Cười là niềm cảm-thông bí-nhiệm với mỗi thứ và mọi thứ trong đời;

-Đứng ở trước những người biết cười như thế, ai cũng có dịp để đổi thay để ăn nói;

-Chỉ những ai đã yêu và từng biết yêu mới cảm-thông được như thế;

-Cười, khiến cho con người biết trở thành người đáng yêu;

-Cười, là cung-cách của những người không lo-lắng nhiều về phẩm-cách của mình;

-Cười, là cách gom mọi sự và mọi người vào với nhau để không còn mất nhau trong đời;

-Cười, khiến ta có thể bị người đời coi là hời-hợt, sống ngoài mặt; nhưng

-Cười, ít ra cũng làm bớt đi những gì tầm-thường, vào mỗi ngày;

-Cười trong sống đời hằng ngày cảnh-báo để mình sống tốt -lànhvới thực-tế ở đời;

-Cười, giúp tiến về phía trước với sự đồng-thuận vĩnh viễn và có uy-lực về mọi mặt, qua đó người được cứu sẽ nói lời Amen với tất cả những gì mình từng làm;

-Cười, là một phần của nghệ-thuật góp mặt vào mọi sự;

-Biết cười thực-sự và cười vang dội là lối sống khiến người người lướt vượt được mọi sự; và là loại-hình sống cuốn trôi nước mắt đi và đem chuyện vui vào với con người, dù đang gay gắt/nóng giận. Cười, còn phản-ánh rằng: con người không còn nghi ngờ những gì mang tính trẻ con hoặc thuộc về con trẻ nữa. (x. Karl Rahner, The Content of Faith, Crossroad 1994, tr. 148-153)

Cười như thế, mới hiểu được ý-nghĩa cuộc sống có Chúa vẫn biết cười vào mọi chuyện. Cười rồi, ta lại về với giòng thơ có khúc đoạn mang dáng vẻ buồn cười, rất đáng cười, mà rằng:

“Dĩ vãng dầm mưa lén bước về,

Áo trùng, mây toả, mặt sầu che.

Run tay ấp nửa bàn chân lạnh lạnh,

Thương những con đường mưa cuốn đi.”

(Đinh Hùng – Chớp Bể Mưa Nguồn)

Thương những con đường mưa cuốn đi. Cuốn cả hạt giống tốt tươi lẫn nụ cười, nên mới thế. Thương, là thương cả những người chưa thấm nhuần Lời Vàng Chúa dạy nơi dụ-ngôn “người gieo giống” còn ở mãi trong đầu người hiểu biết Nước Trời sống mãi nơi con người. Suốt mọi thời.

Lm Kevin O’Shea CSsR

Mai Tá lược dịch.

 

Người Việt ‘lo TQ, muốn Mỹ là đồng minh’

Người Việt ‘lo TQ, muốn Mỹ là đồng minh’

Thứ ba, 15 tháng 7, 2014

Vai trò của Mỹ và Trung Quốc với thế giới được các nước quan tâm

Một thăm dò dư luận cho biết đa số ở Việt Nam xem Trung Quốc là đe dọa số một và muốn Mỹ là đồng minh chủ chốt.

Thăm dò của Trung tâm nghiên cứu Pew tại Washington DC về thái độ của người dân tại nhiều nước được công bố hôm 14/7.

Kết quả tại Việt Nam dựa trên thăm dò từ 18/4 đến 8/5 với 1000 người tuổi từ 18 trở lên.

Tại Việt Nam, chỉ có 16% người được hỏi có thiện cảm với Trung Quốc, 67% cho Ấn Độ, 76% cho Mỹ và 77% cho Nhật.

Khi được hỏi nước nào là đe dọa lớn nhất, 74% người Việt chọn Trung Quốc.

30% chọn Mỹ là đồng minh chủ chốt, khiến Mỹ có điểm cao nhất tại Việt Nam cho câu hỏi về đồng minh.

69% người Việt cho rằng Trung Quốc sẽ không bao giờ thay Mỹ làm siêu cường, trong khi chỉ có 17% tin điều này đã hay sẽ xảy ra.

Đồng minh và đe dọa

Không phải nước nào ở châu Á cũng có thái độ chống Trung Quốc.

Trong 10 nước châu Á được khảo sát, có sáu nước mà ở đó, đa số bày tỏ cảm tình với Trung Quốc. Ví dụ, tại Hàn Quốc là 56%, Indonesia 66%, Thái Lan 72%, Malaysia 74%, Bangladesh 77%, Pakistan 78%.

Nhật Bản nhận được cảm tình của ít nhất một nửa người được hỏi tại bảy nước châu Á – cao nhất là Thái Lan 81% và Philippines 80%.

Tranh chấp lãnh thổ khiến chỉ có 7% tại Nhật, 16% ở Việt Nam, và 38% ở Philippines có cảm tình với Trung Quốc.

 

Việt Nam và Trung Quốc gia tăng căng thẳng vì vụ giàn khoan

Ngược lại, chỉ có 8% ở Trung Quốc có cảm tình với Nhật, nhưng cũng có 50% người Trung Quốc cảm tình với Mỹ.

Đa số tại châu Á xem Mỹ là quốc gia họ có thể nhờ cậy.

8 trong 11 nước châu Á chọn Mỹ là đồng minh số một, như Hàn Quốc 68%, Nhật 62%, Ấn Độ 33%. Tại Việt Nam, 30% chọn Mỹ là đồng minh.

Có hai nước châu Á trong khảo sát chọn Trung Quốc là đồng minh: Malaysia 27% và Pakistan 57%.

Người Trung Quốc xem Nga là đối tác đáng tin cậy nhất (25%) và Mỹ là đe dọa (36%).

Tranh chấp biển đảo

Nhìn chung, các nước châu Á đều lo ngại về rủi ro chiến tranh do mâu thuẫn biển đảo giữa Trung Quốc và các nước láng giềng.

Đa số người dân tại tám nước châu Á lo lắng tranh chấp có thể dẫn đến chiến tranh.

Tỉ lệ lo ngại này cao nhất ở Philippines 93%, Nhật 85%, Việt Nam 84% và Hàn Quốc 83%.

Tại Trung Quốc, cũng có 62% lo ngại về rủi ro chiến tranh, còn 34% không lo lắng.

Đáng quan tâm là 61% tại Philippines và 51% tại Việt Nam nói họ “rất lo ngại” về khả năng xung đột quân sự với Trung Quốc.

Hai phần ba người Mỹ được hỏi (67%) cũng lo lắng chiến tranh có thể xảy ra vì mâu thuẫn lãnh thổ giữa Trung Quốc và các nước.

“Đẩy nợ cho tương lai”

“Đẩy nợ cho tương lai

Vũ Hoàng, phóng viên RFA
2014-07-15

vuhoang07152014.mp3

000_Hkg8576388-305.jpg

Công nhân trồng hoa tại một khu đô thị cao cấp ở ngoại thành Hà Nội hôm 26/4/2013.

AFP

 

Trong kỳ họp thứ 7 vừa qua, các đại biểu Quốc Hội đã thẳng thắn nhìn nhận tình trạng Việt Nam vay nợ để trả nợ đang khiến vấn đề nợ công ngày càng nặng và khó giải quyết đối với Việt Nam.

Đi vay để đảo nợ?

Nói về những khoản nợ của Việt Nam thì rõ ràng không có gì  là mới mẻ, bởi với một nền kinh tế đang phát triển, cần những khoản nợ để đầu tư, sản xuất… là chuyện hết sức bình thường, thế nhưng khi nền kinh tế được đánh giá là không có đủ năng lực để trả nợ thì lại là một câu chuyện hoàn toàn khác và có thể nói là nguy hiểm.

Mới đây, trong một cuộc phỏng vấn với báo giới trong nước, Viện trưởng Viện quản lý Kinh tế Trung ương Nguyễn Đình Cung thẳng thắn phân tích: “Việc đi vay để trả nợ, điều đó chứng tỏ khả năng tạo ra vốn để trả nợ là không có. Hay nói cách khác phải đi vay thêm, nghĩa là anh đang không có đủ năng lực để trả nợ.”

Theo T.S Nguyễn Đình Cung, đáng lẽ trong hoàn cảnh khó khăn về nguồn vốn, phải đi vay thì nguồn vốn đó dùng để tạo ra năng lực trả nợ, thế nhưng, trên thực tế những khoản vay mới không được dùng để đầu tư cũng như không tạo ra nguồn lực, mà là vay nợ để trả nợ, từ đó kéo theo khả năng trả nợ tiếp tục giảm đi. Tuy vậy, T.S Cung không quên bình luận trong ngắn hạn thì buộc phải áp dụng biện pháp đi vay về để đảo nợ.

Việc đi vay để trả nợ, điều đó chứng tỏ khả năng tạo ra vốn để trả nợ là không có. Hay nói cách khác phải đi vay thêm, nghĩa là anh đang không có đủ năng lực để trả nợ.
-Nguyễn Đình Cung

Trao đổi với chúng tôi về các khoản nợ tại Việt Nam, T.S Phạm Chí Dũng cho biết quan điểm của ông dưới cả 2 góc độ vi mô và vĩ mô:

“Ông Đình Cung nhận xét đúng và khá trọn vẹn vấn đề và thậm chí còn mô phỏng vấn đề từ tầm cỡ những doanh nghiệp vi mô cho tới tầm vĩ mô của quốc gia. Đã có rất nhiều doanh nghiệp bất động sản trong giai đoạn từ 2011 đến 2014 đã phải tự giải tỏa các khoản nợ của họ bằng cách được ngân hàng cho vay lại, khi được cho vay lại, họ lấy số tiền cho vay lại đó và họ trả nợ cộng lãi cho ngân hàng và ngân hàng lại trùm thêm một số nợ. Đó là cách nhìn vi mô và từ đó chúng ta nhìn lên cách nhìn vĩ mô, nhà nước Việt Nam cũng như vậy thôi. Mặc dù không công bố, minh bạch nhưng tình hình tài chính hiện nay cực kỳ khó khăn và có vẻ như hiện tượng mà chúng ta đang đi đến điểm đích của nó là vẫn phải tiếp tục vay trong các năm tháng tới, vay không phải chỉ để đầu tư mà còn vay để trả nợ cho các khoản vay trước đó. Đó là các khoản nợ cứ gối đầu, chồng chất, hiện giờ người ta dùng cụm từ “đẩy nợ cho tương lai.”

no-cong-250.jpg

Ảnh minh họa. AFP PHOTO.

Tại kỳ họp thứ 7 của Quốc hội vừa qua, một con số báo động đã được đưa ra là nợ công Việt Nam vượt mức 80 tỉ đô la và tổng dư nợ cả năm chiếm hơn một nửa GDP, ở mức 53,4%. Nhiều người có thể lập luận rằng những quốc gia như Nhật Bản hay Singapore có tỉ lệ nơ công rất cao thậm chí chạm ngưỡng 200% GDP, nhưng lật lại vấn đề thì thấy rằng những quốc gia như Nhật Bản chẳng hạn lại là nước xuất khẩu và thâm dụng vốn rất lớn, cho nên họ có sự cân đối khác nhau. Trong khi đó, Việt Nam không phải là nước xuất khẩu vốn cũng như không phải là nước dồi dào về tư bản, thế nên tình trạng mất cân đối hiện tại hoàn toàn đáng phải xem xét và cần giải quyết triệt để.

Một số chuyên gia kinh tế cho rằng, điểm nguy hại hiện tại là vay nợ nhưng không sử dụng hiệu quả đồng vốn vay, vì để đánh giá mức độ an toàn nợ công, người ta không chỉ dựa trên tổng lượng tiền nợ, mà quan trọng hơn là họ dựa trên hiệu quả sử dụng đồng tiền này.

Đầu tư hoàn toàn không hiệu quả?

Đơn vị đo này là ICOR viết tắt tiếng Anh của “hệ số sử dụng vốn” nhằm đo lường số vốn bỏ ra thêm để sản xuất một mặt hàng nào đó, chỉ số ICOR càng thấp càng tốt, một nền kinh tế phát triển bền vững sẽ có chỉ số là 3. Thế nhưng hiện tại, chỉ số ICOR của Việt Nam lên đến 9 và nhiều chuyên gia đánh giá “đầu tư hoàn toàn không hiệu quả.”

Sự “đầu tư hoàn toàn không hiệu quả” này được G.S, T.S Võ Đại Lược, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Kinh tế Trung Ương phân tích trong một bài phỏng vấn với báo Đất Việt. Khi đề cập đến đầu tư công tràn lan, lãng phí, các dự án ODA đội giá cao, G.S Lược khẳng định phần lớn các nước đi vay ODA đều là những nước kém phát triển và có nền quản trị kém, chính vì thế nó giải thích tại sao việc xây dựng đường cao tốc ở VN sử dụng vốn ODA luôn có giá cao hơn gấp 3 lần so với thế giới. Từ đó, G.S Võ Đại Lược đi đến kết luận cần phải xem xét một cách nghiêm túc bắt đầu từ chủ trương đầu tư của nhà nước có đúng không và xem xét lại nền quản trị và quá trình giám sát, thực thi chủ trương đó thế nào.

Cứ hình dung mỗi ngày ngủ dậy Ngân sách NN thu vào khoảng gần 3.000 tỉ đồng, tuy nhiên, con số chi cũng tương tự như vậy.
-Bùi Đặng Dũng

Quay lại với con số vay nợ, hiện tại, Việt Nam vay nợ nước ngoài dài hạn khoảng 50% và số còn lại 50% là ngắn hạn ở trong nước. Phó chủ nhiệm Ủy ban Tài chính ngân sách Quốc Hội Bùi Đặng Dũng nêu lên con số “cứ hình dung mỗi ngày ngủ dậy Ngân sách NN thu vào khoảng gần 3.000 tỉ đồng, tuy nhiên, con số chi cũng tương tự như vậy” điều này khiến chúng tôi liên tưởng đến con số mà T.S Vũ Đình Ánh của Viện tài chính giá cả có lần thừa nhận Việt Nam làm ra 100 đồng thì đã phải trả nợ hết 98 đồng rồi.

Nhắc về số nợ phải trả hàng tháng, T.S Lê Đăng Doanh trong một lần trả lời phỏng vấn gần đây với chúng tôi, ông cho biết:

“Theo tôi vấn đề nợ công rất phức tạp, hiện nay cứ mỗi ba tháng ngân sách Nhà nước phải trả nợ nước ngoài khoảng 1 tỷ USD. Đấy là một khoản nợ không phải là nhỏ và số nợ công trong những năm gần đây đã tăng lên một cách nhanh chóng. Đấy cũng là một yếu tố rất đáng chú ý và rất đáng lo ngại.”

Một yếu tố khác cũng đẩy con số nợ công lên cao đó là các khoản chi thường xuyên của chính phủ cũng tăng rất nhanh. Theo nhận xét của T.S Phạm Đình Cung thì gốc rễ của vấn đề này là vai trò của nhà nước. Ông cho rằng nếu vai trò của nhà nước thu nhỏ lại thì hoạt động sẽ ít đi, còn hiện tại, vai trò của nhà nước vẫn mở ra và càng mở rộng thì càng chi tiêu. Do đó, T.S Cung kết luận muốn thắt chặt ngân sách thì gốc của nó là vai trò của nhà nước và các bộ ngành, cần làm rõ vai trò của từng chủ thể để dễ dàng nhìn thấy các khoản chi cần thiết tới mức nào.

Trước khi kết luận về tình trạng nợ nần hiện tại, chúng tôi xin trích ý kiến của T.S Phạm Chí Dũng để thấy một bức tranh khá rõ về hiện tượng “đẩy nợ cho tương lai” mà ông nêu lên:

“Quả thực là hiện trạng nợ nần của Việt Nam hiện nay quá khó để giải quyết, không phải chỉ hiện nay mà từ những năm 2010, 2011 đã nêu ra vấn đề đó rồi. Những khoản nợ công quốc gia, lúc đó 2010 – 2011 chỉ khoảng 40 đến 45% thôi, còn hiện nay là khoảng 54%. Nhưng thực tế mà nói theo những phân tích của các chuyên gia thượng thặng như ông Vũ Quang Việt từng đánh giá là nợ công của Việt Nam có thể lên tới 106%, thời điểm đó, không một ai tin. Nhưng đến thời điểm diễn đàn mùa xuân năm 2013, 2014 vừa rồi thì các chuyên gia phản biện mới phải thừa nhận và đặt lại vấn đề tỉ lệ nợ công của VN lên đến ít nhất là 95%. nếu tình trạng nợ công tiếp tục tăng như thế này thì quá khó để VN trả nợ cho tương lai, nếu không muốn nói tất cả nợ sẽ đổ lên đầu con cháu chúng ta.”

“Tiền vào nhà khó, như gió vào nhà trống” là chuyện rõ ràng đang xảy ra ở Việt Nam, nhưng ở một quốc gia “nhà có chủ” đàng hoàng thì câu trả lời về tiền bạc, nợ nần hẳn dành cho những người “chủ nhà” trả lời sẽ hợp lý hơn cả.

 

Cứ tưởng là một giấc mơ

Cứ tưởng là một giấc mơ

Nhìn lại quảng đời đã qua, năm nay vừa tròn 72 tuổi, mới thấy mầu nhiệm của Thiên Chúa.
Những năm nằm trong các trại tù ở miền Bắc anh em đồn rằng các tù cải tạo sẽ vĩnh viễn định cư ở trong vùng rừng núi của tỉnhThanh Hoá mà người lo việc này là Tướng Nguyễn Hữu Có. Sau đó vợ con muốn sống chung thì đến Thanh Hoá mà sống.

Chuyện trở về nhà từ các trại tù là điều mỏng manh, khó tin, vì anh em biết rằng sẽ không chịu nổi đói khát bịnh tật mà chết trước khi được về với gia đình.Hơn nữa rất nhiều người tù, bị bắt sau ngày ký hiệp định Geneve 20-07-1954, sau khi ra tù rồi, bị chỉ định cư trú ở Lào Cai, ở Vĩnh Phú mà tôi đã gặp khi đi lao động ngoài trại, thời gian này khoảng năm 1979- 1982. Họ không có giấy tờ gì cả không được rời khỏi nơi cư trú.

Rồi chuyện định cư tại Mỹ cũng chỉ là một giấc mơ.Trước năm 1993, em dâu tôi thường  chế diễu tôi:” Không lo làm ăn tối ngày cứ ” lo chuyện mò kim đáy biển”, (chuyện mơ đi Mỹ), vì anh em tù cải tạo thường hay ra vườn hoa thống nhất, trước đinh Độc Lập cũ để nghe ngóng tin tức về chuyện ra đi.

Thế mà ngày hôm nay (13-07-2014) Thiên Chúa đã ban cho tôi ơn trọng đại là vẫn còn sống, có sức khỏe, ban ơn bình an, được đoàn tụ vui vẻ cùng các con cháu.

Có niềm vui nào hơn nữa được đâu?

Xin cảm tạ Chúa và cám ơn toàn thể gia đình và các bạn hữu xa gần.

Phùng Văn Phụng

07/2014

Tác giả cùng các cháu nội ngoại