“Lướt theo chiều gió,”

“Lướt theo chiều gió,”

Một con thuyền, theo trăng trong

Trôi trên sông thương, nước chảy đôi giòng.”

(Đặng Thế Phong – Con Thuyền Không Bến)

(Lc 6: 36)

Thuyền trên sông Thương hay sống “Mến” có nước chảy đôi giòng, mà lại không có bến, thì chỉ có nước cứ lênh đênh ba chìm bẩy nổi, rất long đong. Thuyền nhà Giáo hội, lại cũng là thuyền trên giòng sông Yêu-thương xưa nay vẫn có bến/có bờ, chẳng nghi ngờ gì một tình-huống long đong rất như thế.

Thuyền Hội-thánh Công-giáo La Mã hôm nay, chắc cũng không giống như câu hát tiếp:

“Ðêm nay thu sang cùng heo may

Ðêm nay sương lam mờ chân mây

Thuyền ai lờ lững trôi xuôi dòng

Như nhớ thương ai chùng tơ lòng.

Trong cây hơi thu cùng heo may

Vi vu qua muôn cành mơ say

Miền xa lời gió vang thông ngàn

Ai oán thương ai tàn mơ màng.”

(Đặng Thế Phong – bđd)

Vâng. Thuyền không bến bờ, mà lại hát “ai oán thương ai tàn mơ màng” như thế, chắc sẽ mãi mãi chẳng thấy bờ bến thương yêu, mỹ-miều ở đâu hết. Thuyền Hội thánh, thật ra tuy chẳng hát nhiều nhưng vẫn thấy nhà Đạo khẳng định tình thương xót xa rất thánh-hội, như ý-kiến của Đức Hồng Y Walter Kasper qua câu trả lời phỏng vấn do nhà báo đặt ra như sau:

Nhà báo: Thưa Đức Hồng Y, trong cuốn có tựa đề là “Mercy: The Essence of the Gospel and the Key to Christian Life”, ngài có viết: “Tình Thương Yêu Xót Xa, là bản-chất của Thiên-Chúa. Vậy, làm sao để người đọc hiểu được Lòng thương-xót của Chúa, đây?

Hồng Y Kasper: Tín-điều Chúa gửi đến với ta, là do ta hiểu-biết về bản-thể của Chúa rất như thế. Thiên-Chúa, đương nhiên là thế, và còn hơn thế nữa. Điều này không có gì là sai quấy hết. Nhưng, Kinh Sách Đạo Chúa hiểu một cách sâu-sắc và tư riêng hơn. Chẳng hạn: trong chuyện kể về Bụi Cây Bốc Cháy ở Cựu Ước, tương-quan giữa Giavê Thiên-Chúa với Môsê qua Lời Ngài khẳng-định bảo rằng: “Ta có” mà là: “Ta có với ngươi. Ta có là cho ngươi. Ta cùng đi với người”. Trong bối cảnh này, lòng xót thương đã đặt nền tảng kiên cố ở Cựu-Ước. Thiên-Chúa của Cựu-Ước không là Đức Chúa chuyên giận-dữ mà là Đức Chúa chuyên tỏ lòng xót thương, nếu đọc kỹ. Và, các Thánh vịnh còn cho thấy rõ điều này nữa.

Lối hiểu-biết tận thâm căn về Thiên-Chúa khi xưa cũng khá mạnh đến độ Thiên-Chúa được xem là Đấng Công-Chính, chứ không là Đấng Đầy Xót Thương. Thánh Tôma Akinô từng nói rõ: tình thương mang ý-nghĩa căn-bản/triệt-để hơn, bởi lẽ Thiên-Chúa không là lời đáp-trả cho các đòi hỏi nơi qui-định của con người. Lòng Thương Xót là tính-chất rất đáng tin-tưởng của Thiên-Chúa đối với bản-thể đầy tính thương-yêu của Ngài. Bởi lẽ, Thiên-Chúa là Tình-yêu. Và, lòng xót thương là Tình-yêu bày tỏ cho ta bằng hành-động và lời nói rất cụ-thể. Thế nên, lòng xót thương trở nên không chỉ là thuộc-tính trọng-yếu của Thiên-Chúa mà thôi, nhưng còn là chìa khoá cho lòng Đạo rất hiện-hữu nữa.

Thành thử, hãy tỏ lòng thương-xót với mọi người như Thiên-Chúa đầy lòng xót-thương. Và, ta vẫn cứ phải học đòi bắt chước Lòng Chúa xót-thương mới được.

Nhà báo: Thưa Đức Hồng Y, tại sao hôm nay, Giáo hội cần phải nói lại cho mọi ngươòi hiểu điều đó, thế?

ĐHY Kasper: Thế kỷ thứ 20 là một thế-kỷ đầy tăm-tối với 2 cuộc chiến thế-giới, lại qui-tụ nhiều hệ-thống độc-tài toàn trị, những đảo ngục tù kiểu gulag, trại tập-trung, nạn diệt chủng người Do-thái, vv… Và, thế-kỷ thứ 21 khởi-đầu một cách không mấy tốt đẹp hơn trước. Chúng dân cần được thương-xót và thứ tha. Đó, cũng là lý-do khiến Đức Giáo Hoàng Gioan 23 có viết trong cuốn tiểu-sử linh-đạo trong đó ngài có nói: lòng xót thương là “thuộc-tính” đẹp nhất của Thiên-Chúa. Và, trong bài phát-biểu mở đầu Công Đồng Vaticăng 2, ngài lại nói: Giáo-hội Chúa luôn cưỡng-chống lại các sai sót của thời-đại, thông thường với tất cả tính nghiêm-túc cần có, nhưng ngày này ta lại cứ phải dùng đến thang thuốc của lòng xót thương, để làm thế. Đây là một bước nhảy rất lớn lao. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ Nhị đã sống xuyên suốt qua giai-đoạn cuối của Thế Chiến thứ 2 và rồi cũng đã ngang qua chế độ Cộng-sản ở Ba Lan. Thế nên, ngài thấy rõ nỗi khổ của dân ngài và của chính nỗi khổ-tâm ngài từng gánh chịu, trong đời. Với ngài, lòng xót thương là yếu-tố rất quan trọng, trong đời người. Đức Giáo Hoàng Bênêđíchtô 16 lại cũng ra tông-thư đầu tay qua đó ngài nhất mực khẳng định: Thiên-Chúa là Tình-Yêu. Và nay, thì Đức Giáo hoàng Phanxicô, từng sống trải-nghiệm với chúng dân ở Nam Bán Cầu, nơi đó lại có đến hai phần ba người Công Giáo đang sống trong cảnh thiếu thốn, khó nghèo. Thế nên, ngài cũng đã coi lòng xót thương là trọng-điểm cho triều-đại giáo-hoàng của ngài. Theo tôi, thì đây là câu trả lời cho các dấu chỉ của thời đại ta đang sống…” (xem Matthew Boudway và Grant Gallicho, Phỏng vấn Đức Hồng Y Walter Kasper, 7/5/14)

Có thể nói mà không sợ sai lầm rằng: Đức Hồng Y nhà mình nhận-định về lòng xót thương mà dân con trong Đạo từng am hiểu qua nhiều năm tháng ngày giờ như thế rất không sai. Nhưng hỏi rằng: dân con trong đạo hiểu và sống thế nào, về lòng xót thương của Chúa, lại là chuyện khác.

Và, trước khi nghiên-cứu những chuyện rất khác thế, cũng nên về với thi ca mà hát rằng:

“Biết đâu bờ bến

Thuyền ơi thuyền trôi nơi đâu?

Trên con sông Thương, nào ai biết nông sâu?

Nhớ khi chiều sương, cùng ai trắc ẩn tấm lòng

Biết bao buồn thương, thuyền mơ buồn trôi xuôi dòng

Bến mơ dù thiết tha, thuyền ơi đừng chờ mong

Ánh trăng mờ chiếu, một con thuyền trong đêm thâu

Trên sông bao la, thuyền mơ bến nơi đâu?”

(Đặng Thế Phong – bđd)

Nói gì thì nói. Hát gì thì hát, cũng nên hát và nói những lời vàng được thánh sử Luca từng ghi lại: 

“Anh em hãy có lòng nhân từ thương xót,

như Cha anh em

là Đấng nhân từ xót thương.”

(Lc 6: 36)

Nay hỏi rằng, “lòng nhân từ thương xót” được thánh-sử ghi lại ở trên có là khẳng-định “ắt và đủ” cho dân con nhà Đạo, chăng? Và, dân con Đạo mình có thực-thi điều đó hay không? Và, các nhà thần-học cùng chú giải Kinh thánh, nói thế nào về những điều này?

Và đây, là một trong các ý-kiến của đấng bậc nhà Đạo, từng giảng-giải về “lòng thương xót Chúa cho đi hết mình Ngài, như sau:

“Chúa cho đi, không phải sự sống của Ngài, cho bằng cả “tâm-thân” Ngài. Và, Ngài tặng ban “tâm-thân” Ngài hiểu theo nghĩa cụm-từ “Lytron” bên tiếng Hy-Lạp, là từ-vựng chính buộc ta phải xem xét ngay với tự-vựng tiếng Aram là ‘hoi polloi”, tức khối lượng những người không mang bất kỳ tên gọi một ai hết. Đây là sự-việc nói về “tình yêu dành cho tha-nhân” được hiểu một cách không hạn-hẹp về sự chết của Ngài, nhưng bao gồm mọi thứ thuộc toàn-bộ con người của Ngài và toàn-bộ tất cả những gì Ngài làm trong đời, cả bản-thể Ngài cũng như những gì Ngài làm trong cuộc sống có Phục sinh/trỗi dậy. Đây là sự “cho đi” chính bản-thể của Ngài, chứ không chỉ mỗi cuộc sống rất xác-phàm của Ngài mà thôi. Đó là tính-cách “lytron”, ban đầu được sử-dụng để đưa ra ý-nghĩa về một “thế-chấp bảo-kê” cho những ai được đưa vào tương-quan giao-ước rất miên trường. Họ là ai? Là chúng dân ở khắp nơi, bất cứ nơi nào cũng có họ ở đó. Họ là những người bị bỏ rơi, quên lãng, tức những kẻ bị hạ giá/xuống cấp ở bất cứ xã-hội nào đặt dưới hệ-thống quyền-lực hoặc cơ-chế của đế-quốc.” (xem Lm Kevin O’Shea, CSsR Ơn Cứu Chuộc  và thần-học lịch-sử từ Thánh Kinh, www.giadinhanphong.blogspot.com 01-4-2014).

Và, đã nói thì phải nói cho cùng, cho xuyên suốt một ý-nghĩa thần-học về lòng xót thương của Đức Chúa, để chứng-minh cho cái chết Ngài chấp-nhận cho riêng Ngài, không phải chỉ để đền bù mọi lỗi tội của người phàm trần, mà là để xác-chứng lòng thương xót vô bờ bến của Ngài, như đấng bậc ở trên, lại đã viết rất như sau:

“Hỏi rằng: Đức Giêsu chết đi phải chăng là để chứng minh rằng Thiên-Chúa yêu thương loài người chúng ta không?

Câu trả lời, là: Đúng thế! Nhưng, không theo cách rất chung chung như ta thường thấy. Đức Giêsu minh-chứng cho ta thấy tình-thương-yêu mà loài người không thể tưởng-tượng được của Thiên-Chúa với người nghèo hèn/bé nhỏ, bị áp-bức. Và, bằng vào tình thương-yêu thần thánh của Ngài, Thiên-Chúa luôn khước-từ mọi quyền-lực dù chỉ để chống lại những kẻ từng bức-bách đám “thân-cô thế cô”, đi nữa. Khi nói Đức Giêsu chết đi để chứng-tỏ tình-thương-yêu của Ngài với con người, nói như thế không làm giảm-suy những gì Ngài từng thực-hiện. Nếu so sánh với ý-tưởng về “tình yêu” thông-thường ở đời, thì Tình-thương-yêu của Ngài, ở đây, cần được thăng-hoa dàn trải thật lớn rộng.” (xem Lm Kevin O’Shea CSsR, Ơn Cứu-Chuộc và Khúc cuối một Giòng Suy-Tư, bđd 08/5/2014).

Lại có đấng bậc khác, quan niệm Lòng Xót Thương của Chúa diễn tả rất rõ ở truyện kể Tin Mừng về “Người Con Đi Hoang”, đã bảo rằng:

“Điều dễ hiểu lầm là nhiều người vẫn rằng: dù ta làm gì tệ phạm đi nữa, cuối cùng rồi Chúa cũng xót thương, tha thứ. Vậy nên, cứ tha hồ làm điều xấu. Trong tương quan với Đức chúa, có hai việc cần minh định. Trước nhất, Chúa yêu thương mọi người chúng ta. Tình yêu của Ngài không mang điều kiện nào hết. Chẳng cần biết ta là ai? Ta có làm gì chống Chúa, chống anh em? Tình yêu Ngài đối với ta, tuyệt nhiên không suy xuyển.

Thứ đến, có điều chắc chắn, là: chẳng phải vì ta hiền lành/thánh thiện mà Ngài sẽ yêu hơn hoặc nếu ta phạm lỗi, Ngài yêu ít đi. Thiên Chúa là Tình yêu. Tình Ngài yêu ta rất trọn vẹn. Dù là, đối với các vị thánh như Mẹ Têrêsa. Hoặc, với các kẻ độc tài, hình sự. Bởi nếu không, thì Ngài cũng thiên vị, như ai. Chính vì thế, Ngài mới bảo: “Có là người bệnh mới cần đến thầy lang.”

Dầu sao, việc Chúa thứ tha mọi tội, là hành xử vô điều kiện. Điều này thấy rõ nơi dụ ngôn “người em đi hoang” có thái độ của người con đã trót dại: “thích lang thang, ngổ ngáo với đời” và “thích phiêu bạt rong chơi”, như nhà thơ diễn tả. Dù rồ dại, Cha vẫn yêu đứa con “hoang tàng”. Cha không mang thành kiến, hoặc kỳ thị các con: “mãi từ xa trông thấy, Cha đã chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ người con, và hôn lấy hôn để…” Tình yêu của Cha là như thế. Nhưng tình thương yêu tha thứ của Cha chỉ nên trọn vẹn, khi con biết tỉnh giấc, quay về. Nói khác đi, chỉ có thứ tha trọn vẹn khi có hoà giải. Khi vết thương chia cách được chữa lành. Đây chính là ý nghĩa của bí tích hoà giải, thứ tha.

Trong hòa giải với Chúa, bước dấn thân đầu tiên như “người em đi hoang” đã nghĩ là bước quan trọng. Quan trọng, vì biết chắc Cha sẽ giang rộng đôi tay già ra chào đón ta trở về. Chẳng còn chữ “nếu”, chữ “nhưng”. Chẳng điều kiện, cũng không dè chừng. Không hình phạt, cũng chẳng đòi bồi thường. Điều này, được thánh Phao-lô mạnh dạn nói rõ: “Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đức Kitô Giê-su đã đến thế gian, để cứu người tội lỗi, mà kẻ đầu đàn là tôi.” (1Tm 1: 15).

Cũng thế, đường lối Chúa đón nhận “người em đi hoang” trở về, phải được chứng xác bằng tương quan ta có với người khác nữa. Trong lời cầu Chúa dạy, rõ ràng ta vẫn quyết: “Xin tha cho con mọi lỗi lầm trót phạm, cũng một kiểu như con đã làm cho người anh em.”

Cuối cùng ra, khi đã được tha thứ, cũng nên nhớ thêm Lời Ngài đã phán: “Hãy trở nên trọn lành, vì Cha của chúng ta trên trời là Đấng trọn lành”. Điều này mang ý nghĩa rất sáng tỏ: hãy yêu thương hết mọi người, một cách vô điều kiện, như Chúa hằng yêu ta. Và, hãy sẵn sàng tha thứ cũng như hòa giải với từng người như Ngài đã từng làm như thế, với từng người một.

Việc này không dễ. Nhưng không phải là chẳng thể làm được. Nhưng với sự trợ giúp của Cha, ta luôn hy vọng. Vào tiệc lòng mến  hôm nay, ta cứ hân hoan và hy vọng. Hy vọng là Chúa vẫn thứ tha. Hy vọng là ta cũng sẽ tha thứ hết mọi người. Từ “người em đi hoang” thích phiêu bạt giang hồ, cho chí người anh “vẫn hầu hạ Cha, chẳng khi nào trái lệnh”, và tất cả mọi người.” (xem Lm Richard Leonard sj, Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 24 thường niên năm C, www.suyniemloingai.blogspot.com 15/9/2013)

Hiểu theo ý-hướng thần-học thì như thế. Còn lại, là tâm-tưởng của dân thường ở huyện nghĩ ra sao? Để trả lời, thiết tưởng bạn và tôi, ta cũng nên đi vào vùng trời truyện kể để lắng nghe câu chuyện diễn tả rất xa xa về ý-hướng, ý-nguyện của người dân thường, như bên dưới

“Có người thợ mộc già nọ làm việc rất chuyên cần và hữu-hiệu lâu năm cho hãng thầu xây cất nọ. Một ngày kia, ông ngỏ ý với hãng muốn xin nghỉ việc về hưu để vui thú với gia-đình. Tuy không còn lãnh lương nữa, nhưng ông muốn nghỉ ngơi để an-hưởng tuổi già. Hãng đề-nghị ông cố-gắng ở lại giúp hãng xây một căn nhà chót trước khi thôi việc. Ông nhận lời. Nhưng, vì biết mình sẽ giải-nghệ lại bị miễn-cưỡng làm việc, nên ông làm một cách tắc-trách qua quít, xây nhà bằng vật-liệu tầm thường kém phẩm-chất, miễn có bề ngoài đẹp là được.

Mấy tháng sau, khi xây dựng xong căn-nhà cuối cùng ấy, ông được chủ hãng mời tới, đưa cho ông chìa khoá nhà và nói: “Ông đã tận-tụy phục-vụ hãng rất nhiều năm, để trả công cho những đóng góp của ông cho sự thịnh-vượng của hãng, nay xin tặng ông ngôi nhà vừa xây xong!” Thật bàng hoàng. Nếu người thợ xây như ông biết là mình sẽ xây căn nhà cho chính mình, thì ông đã làm việc cẩn-thận và chọn vật-liệu có phẩm-chất tốt hơn. Lối làm việc tắc trách cho căn nhà ấy chỉ mình ông là biết tới, và nay thì ông đành phải sống trong căn nhà mà chỉ riêng ông mới biết là nó kém phẩm-chất.” (trích truyện kể từ điện-thư vừa mới nhận hôm rồi).

Truyện kể vỏn vẹn chỉ mỗi thế. Không thêm hoa lá cành và cũng chẳng lý-luận, phân bua gì hết. Nhưng, người kể hôm nay, lại muốn chia sẻ một bài học rút từ câu chuyện răn đời ở đây: Chuyện kể đây cũng giống chuyện đời người của mọi người. Mọi người đều giống ông thợ già kể ở trên, tạo cuộc sống xa hoa/hào nhoáng, rất tạm bợ, lại cứ đua đòi nhiều thứ, chứ không chú tâm vào phẩm-chất của mọi sự.

Nhiều lúc ngồi nghĩ về hành-xử của mình trong quá khứ, ta thấy mình cứ phải cam chịu hậu-quả do việc mình làm. Đời người, là công-trình kiến-trúc do mình tạo ra. Đời sống hiện-tại vẫn là kết-quả của mọi tạo-dựng ta làm nên trong quá-trình sống. Cuộc sống tương-lai, lại là kết quả của những gì ta tạo-dựng ngay từ hôm nay. Hãy xây dựng đời mình cho đúng đắn, để rồi không hối-hận gì nữa hết, cho mai ngày.

Quyết thế rồi, giờ đây mời bạn và mời tôi, ta cứ thế hiên-ngang, đứng thẳng người mà tuyên-bố với mọi người rằng: lòng thương xót Chúa là gương-lành để ta bắt chước, chứ không phải để mình chiêm-ngưỡng theo cung-cách bái lạy đưa lên bàn thờ mà thờ phượng, như thần tượng. Một thứ tượng-thần mới, khi xưa ít thấy có, nhưng nay lại đã thấy ở khắp khung trời mở ngỏ của nhà Đạo.

Chuyện còn lại, vẫn là chọn lựa của tôi, của bạn và của mọi người trong sống đời thương yêu, thương xót hết mọi người như Lời Chúa từng căn dặn ở nhiều nơi.

Nhận định thế rồi, sá gì một vài phút giây để tôi cùng bạn, ta lại hát lên câu ca ở trên làm đoạn kết một cuộc tình, rất xót thương và cũng thương xót, như sau:

“Nhớ khi chiều sương, cùng ai trắc ẩn tấm lòng

Biết bao buồn thương, thuyền mơ buồn trôi xuôi dòng

Bến mơ dù thiết tha, thuyền ơi đừng chờ mong

Ánh trăng mờ chiếu, một con thuyền trong đêm thâu

Trên sông bao la, thuyền mơ bến nơi đâu?”

(Đặng Thế Phong – bđd)

Vâng. Sự thật là như thế. Như thế, cũng như thể cuộc đời người cứ như con thuyền không bến không bờ, nếu thiếu đi tình xót thương vô bến bờ, thiếu đợi chờ và vấn vương.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ nhủ người

Và tự nhủ

Đừng quên sót

Lòng xót thương vô bến bờ

Với mọi người.

 

“Em còn nhỏ làm sao mà biết được,”

“Em còn nhỏ làm sao mà biết được,”

“Ta với đời, thực sự chẳng nương nhau.

Ta với đời, tất nhiên là thua cuộc,

Vì áo cơm, là những ngọn lao nhanh.”

(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Ga 6: 51-58

Với nhà thơ, cuộc đời người chỉ cần mỗi cơm áo gạo tiền có ngọn lao nhanh vút đâm thấu đời lạnh giá. Nơi nhà đạo, cuộc sống ở Nước Trời nào cần đến tiền bạc lẫn cơm áo, nhưng chỉ cần người người biết thương yêu sẻ-san khi đói kém, thiếu thốn mỗi tình người, mà thôi.

Có lần, Đức Gioan Phaolô II từng đặt chân đến Lima, thủ đô nước Pêru thăm dân tình ở đây, ngài cũng cảm-nghiệm được tình-thế của dân con đói nghèo cả cơm áo lẫn tình thương hơn thế. Thoạt lúc ngài đến, có khoảng hai triệu người tìm đến gặp ngài. Thông thường, vào những buổi viếng thăm như thế, hai vị Tổng thống ngoài đời và Hồng Y Giáo chủ trong đạo nước này đều sẽ ra nghênh tiếp và chào mừng Đức Giáo Hoàng, rất êm vui.

Nhưng hôm ấy, lại thấy cặp nam nữ giáo dân bình thường là Irene và Viktor Charo, là hai người nghèo sinh sống tại khu nhà ổ chuột, tiến lên máy vi âm để đạo đạt ý kiến cùng Đức Giáo Hoàng. Vào lúc cả quảng trường chìm lắng trong thinh lặng, hai người đại-diện đã tiến về phía Đức Gioan Phaolô II vỏn vẹn nói mấy câu sau đây:

“Thưa Đức Thánh cha, dân chúng đây đang bị nạn đói hoành hành. Nhiều người trong chúng con đang ốm đói, thiếu ăn, thiếu mặc. Có người không có công ăn việc làm. Con cháu chúng con đang chết dần mòn vì suy dinh dưỡng. Hôm nay, chúng con lên đây để thưa với Đức Thánh Cha, là: chúng con vẫn mạnh mẽ tin vào Đức Chúa của sự sống. Nhưng, cũng xin Đức Thánh Cha biết cho rằng: chúng con đang ốm đói, thèm có gạo/bánh để mà ăn cho đỡ đói bụng”.

Cả triệu người vẫn im lặng như tờ, chờ xem Đức Giáo Hoàng sẽ ứng xử làm sao trước một tình huống ra như thế. Bấy giờ, Đức Gioan Phaolô II lên tiếng hỏi dân chúng bằng ngôn-ngữ Tây Ban Nha:

Phải chăng quý vị muốn nói: dân chúng ở đây đang thiếu ăn, không?”

Cả triệu người đồng thanh đáp lại:

-Dạ, đúng thế! Đúng là như thế!”

Đức Gioan Phaolô II lại hỏi tiếp:

Quý vị cũng nói rằng quý vị đang đói Chúa, có phải không?”

Mọi người đáp:

Dạ, đúng! Đúng là như thế!”

-Thế thì, hôm nay, Cha mong những người đang đói Chúa vẫn cứ vậy nhé. Và, Cha cũng mong cho người đang thèm khát của ăn/thức uống được no đầy, mãn nguyện!”

Lúc ấy, Đức Gioan Phaolô II quay mặt về phía các tướng lãnh và chính-trị-gia ăn no mặc ấm mà phần đông là người Công-giáo ngoan đạo mà nói bằng một giọng đanh-thép, rõ ràng:

“Hôm nay, tôi không chỉ đơn giản nói rằng tôi muốn quý vị san xẻ những gì mình đang có cho người nghèo đói. Nhưng, tôi muốn khẳng định với quý vị là: Hãy trả lại cho họ. Hãy trả tất cả lại cho họ. Vì thức ăn và của cải ấy là của họ, của những người nghèo.”

Quả là, lời lẽ Đức Gioan Phaolô II nói hôm ấy thật khác thường. Hệt như Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay về Thánh-Thể còn khác thường, gấp nhiều lần. Chương 6 Tin Mừng thánh Gioan, cũng cho thấy rất nhiều người đã sửng sốt khi thấy Đức Kitô tỏ bày Ngài đang thực-sự hiện-diện nơi Thánh-Thể. Và, họ cắt đứt không theo Ngài nữa.

Thật ra, thánh-sử Gioan đã nối-kết việc Đức Kitô ban tặng chính Thân Mình Ngài là vì Vương Quốc Nước Trời. Và, Ngài làm thế là để cứu độ dân con loài người. Thành thử, qua hiệp-thông rước Chúa vào lòng, ta thật-sự sẻ-san Thân Mình Chúa bằng việc tham-dự Tiệc Thánh-thể mỗi tuần.

Tiếp nhận Chúa Phục-sinh vào lòng, qua hiệp-thông rước Mình Máu Chúa, là biểu-tượng hùng-hồn chứng-minh rằng: Ngài đang hiện-diện, ở trong ta. Đây, là “dấu-chỉ” để ta thấy Ngài thực-sự sống-động trong ta như thế nào.

Chính vì thế, nên mỗi khi đón nhận Mình Máu Chúa, ta thưa “Amen!” là ta công-nhận đấy là Thân Mình đích-thực của Chúa. Bởi, chính Đức Kitô cũng đã chấp-nhận ta cùng kiểu-cách như thế. Ngài trao ban cho ta chính Mình Ngài, để rồi có như thế ta mới biến-đổi chính con người mình hầu tháp-nhập vào với Thiên-tính của Đức Kitô. Nói theo ngôn-ngữ thời-đại, thì: đó là đón nhận Ngài vào Tiệc thánh, khi ấy Chúa sẽ nói với ta như sau:

Này bạn, Tôi đây. Tôi đang xé nát tâm can Tôi và đổ đầy tình-yêu cho bạn đây. Bạn hãy tiếp nhận Tôi đi. Tôi có mặt ở đây là vì bạn đấy”.

Cái nguy của mọi quà tặng và ở nơi quà này, là: ta rất dễ ngộ-nhận cho rằng quà mà Chúa trao ban là chỉ cho mỗi mình ta, thôi. Nhưng, đây phải là phút giây thân-tình thắm-thiết giữa ta với Chúa. Đúng là như thế. Và, còn hơn thế nữa. Ngày 9 tháng 8 năm 413, trong bài san-sẻ Lời Chúa về ý nghĩa của Tiệc Thánh Thể , thánh Augustin có nói:

Thánh lễ bao giờ cũng gồm 3 yếu tố: sự tốt lành, tình hiệp thông và lòng thương yêu lẫn nhau”. Và, để quảng-bá tư-tưởng nêu ở trên, thánh-nhân lại xác quyết rằng:

“Giả như ta không sống tốt lành, cũng chẳng hoạt động cho sự hiệp-nhất và không có lòng yêu thương đích-thực mà vẫn tham-dự Tiệc Thánh mỗi tuần, thì Tiệc ấy sẽ mất hết ý nghĩa và lý do tồn tại nữa rồi.”

Thành thử, giống như Đức Gioan Phaolô II đã nói nhân ngày ngài đến với Lima, thủ-đô của Pêru, thì: nhiều người đã nối-kết việc nhận Bánh Hằng Sống ở Tiệc Thánh với việc ban phát cơm bánh để duy-trì sự sống, sau bữa Tiệc.

Tính bình quân, thì hiện nay trên thế giới, mỗi ngày có đến 26 ngàn người chết vì đói hoặc khát. Năm 1961, tổng thống John F Kennedy cũng đã nhận-định về nạn đói khi ông bảo: “Chỉ một thứ giữa ta và việc xóa-bỏ nạn đói kém nên tồn-tại là niềm ước-ao thấy việc ấy được thực hiện”. Thật ra, chúng ta có thể nuôi-dưỡng được nhiều người. Nhưng thật lòng, lại không muốn làm thế.

Trong buổi hội thảo về Tiệc Thánh Thể, cố Bề trên Tổng quyền Dòng Tên, là cha Pedro Arrupe có nói: “Bao lâu thế giới này vẫn còn người đói và khát, thì bấy lâu Tiệc Thánh Thể mà ta cử hành vẫn còn có điều gì đó, rất thiếu xót.”

Nói thế, ngài không có ý bảo rằng: việc ta tề-tựu cử-hành thánh-lễ đây là chuyện vô bổ. Nhưng, cố linh-mục Pedrp Arupe chỉ muốn nhấn mạnh một điều, là: khi ta quay-quần quanh bàn Tiệc đây là để nhận của ăn rất thánh, thì thực tế, trên thế giới còn rất nhiều người vẫn đói ăn, tức: vẫn thiếu mất cái gì đó rất cần cho sự sống. Vẫn có một thứ trống rỗng nào đó, ở quanh đây.

Quả là trống rỗng ấy đang mời ta dấn-bước vào trong đó để đong cho đầy. Chúa đến với ta ở buổi Tiệc Thánh qua của ăn đích-thực Ngài tặng, rằng: điều mà Đấng Thánh nhắn nhủ ta trong Kinh Sách, vẫn còn đó: “Khi Ta đói, các con có cho Ta ăn đâu?”

Câu nói này, muốn xác-định một điều, là: Chúa cho ta no đầy thế nào, thì ta vẫn có thể và vẫn cần phải giúp-đỡ nhau cho thật đầy thật no, giống như thế. Mong sao Lễ hội Mình Máu Chúa hôm nay đem đến cho ta sức mạnh và niềm xác tín rất thật.

Cầu mong sao, thực-phẩm đích-thực mà ta cung-cấp  -lấy từ bàn Tiệc thánh này-  chứng-tỏ cho thế giới thấy được rằng: uy-lực của Thánh-Thể đã biến-cải ta thành người tốt, biết hiệp-thông, yêu-thương lẫn nhau. Cầu và mong sao, ta xác-tín thêm rằng: những gì ta đã và đang sẻ-san cho người nghèo, sẽ không là thứ cơm thừa canh cặn, ta có dư dật. Nhưng, đó chính là thực phẩm lẽ đáng là của họ và ta cần trao trả lại cho họ.

Có như thế, mọi cảnh đói nghèo sẽ không còn tồn-tại trên thế-giới đầy những những thèm khát vì đói ăn hoặc thiếu mặc, nữa.

Trong tinh-thần cảm-nghiệm về một quyết-tâm như thế, ta lại sẽ ngâm tiếp lời thơ trên, rằng:

“Em còn nhỏ làm sao mà biết được,

Mỗi nụ tình ẩn chứa một loài sâu.

Và, khi em thấm nhuần ê ẩm,

Ta sợ tài ta đã rũ nhầu.”

(Nguyễn Tất Nhiên – Vài đoạn viết ở Đinh Tiên Hoàng)

Viết gì thì viết. Viết ở nơi nào rày cũng thế. Miễn là, người viết chớ có ưu-tư “nụ tình ẩn chứa một loài sâu”, nữa. Nhưng, đã biết liên-tưởng đến tình người sẻ-san nhiều thứ và nhiều sự cho mọi người. Cả những người túng thiếu lẫn người thấp hèn kém, rất thiếu ăn. Chính đó, là xã hội đầy tình người. Là, Nước Trời nay có Chúa chở che để mọi người sống vững mạnh suốt nhiều thời, trong đời.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

BÀI GIÁO LÝ CỦA ĐTC PHANXICÔ VỀ ƠN KÍNH SỢ THIÊN CHÚA

BÀI GIÁO LÝ CỦA ĐTC PHANXICÔ VỀ ƠN KÍNH SỢ THIÊN CHÚA

Tác giả: Phaolô Phạm Xuân Khôi

Ơn kính sợ Thiên Chúa làm cho chúng ta ý thức được rằng tất cả mọi sự đến từ ân sủng, và rằng sức mạnh thực sự của chúng ta là chỉ đi theo Chúa Giêsu và để cho Chúa Cha có thể đổ trên chúng ta sự tốt lành và lòng thương xót của Ngài.”

Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý ĐTC Phanxicô ban hành ngày 11 tháng 6 năm 2014 trong buổi Triều Yết Chung được tổ chức tại Quảng Trường Thánh Phêrô.  Hôm nay ĐTC kết thúc loạt bài về Bảy Ơn Chúa Thánh Thần bằng cách giải thích về Ơn Kính Sợ Thiên Chúa.

* * *

Anh chị em thân mến, chào anh chị em.

Ơn kính sợ Thiên Chúa, mà chúng ta nói đến hôm nay, kết thúc loạt bài về bảy ơn Chúa Thánh Thần.  Ơn này không có nghĩa là sợ hãi Thiên Chúa: chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Cha chúng ta và yêu thương chúng ta cùng muốn cứu độ chúng ta, và luôn luôn tha thứ, luôn luôn; do đó không có lý do gì để phải sợ Ngài!  Tuy nhiên, ơn kính sợ Thiên Chúa, là hồng ân của Chúa Thánh Thần, nhắc nhở chúng ta rằng mình nhỏ bé ra sao trước mặt Thiên Chúa và tình yêu của Ngài, và rằng sự tốt lành của chúng ta là do việc phó thác cho Ngài với lòng khiêm nhường, kính trọng và tin tưởng trong bàn tay của Ngài.  Đó là kính sợ Thiên Chúa: phó thác vào sự tốt lành của Cha chúng ta, là Đấng yêu thương chúng ta rất nhiều.

1. Khi Chúa Thánh Thần đến ngự trong lòng chúng ta, ban cho chúng ta sự an ủi và bình an, và làm cho chúng ta cảm nhận được mình là gì, là nhỏ bé, với thái độ đó – như Chúa Giêsu khuyên nhủ trong Tin Mừng – về những người đặt mọi lo âu và ước vọng của mình nơi Thiên Chúa và cảm thấy được bao bọc và nâng đỡ bởi hơi ấm và sự che chở của Ngài, như một em bé với cha mình!  Đó là Chúa Thánh Thần ở trong tâm hồn chúng ta, làm cho chúng ta cảm thấy như những đứa con ở trong vòng tay của Cha mình.  Như vậy, theo nghĩa này, chúng ta hiểu rõ về ơn kính sợ Thiên Chúa tạo ra trong chúng ta sự ngoan ngoãn, lòng biết ơn và chúc tụng, đổ đầy hy vọng vào tâm hồn chúng ta như thế nào.  Thực ra, nhiều lần chúng ta không hiểu thấu được kế hoạch của Thiên Chúa, và ý thức rằng chúng ta không thể tự đảm bảo cho mình hạnh phúc và sự sống đời đời.  Tuy nhiên,  chính trong kinh nghiệm về những giới hạn và sự nghèo nàn của chúng ta mà Chúa Thánh Thần an ủi chúng ta và giúp chúng ta cảm nhận được rằng điều quan trọng duy nhất là để cho mình được Chúa Giêsu dẫn dắt trong vòng tay của Cha Người.

2. Đó là lý‎ do tại sao chúng ta cần ơn này của Chúa Thánh Thần như vậy.  Ơn kính sợ Thiên Chúa làm cho chúng ta ý thức được rằng tất cả mọi sự đến từ ân sủng, và rằng sức mạnh thực sự của chúng ta là chỉ đi theo Chúa Giêsu và để cho Chúa Cha có thể đổ trên chúng ta sự tốt lành và lòng thương xót của Ngài.  Hãy mở tâm hồn ra, bởi vì lòng nhân lành và lòng thương xót của Thiên Chúa đến với chúng ta.  Đó là điều Chúa Thánh Thần làm với ơn kính sợ Thiên Chúa: mở các tâm hồn. Mở lòng ra để ơn tha thứ, lòng thương xót, lòng nhân lành, sự vuốt ve của Chúa Cha đến với chúng ta, bởi vì chúng ta là những đứa con đang được Ngài yêu thương vô cùng.

3. Khi chúng ta được thấm nhuần bởi ơn kính sợ Thiên Chúa, thì chúng ta có khuynh hướng đi theo Chúa với lòng khiêm nhường, ngoan ngoãn và vâng lời.  Tuy nhiên, đó không phải là với thái độ cam lòng, thụ động và ta thán, nhưng với sự kinh ngạc và niềm vui của một em bé nhận ra rằng mình được Cha phục vụ và yêu thương.  Vì thế, Ơn kính sợ Thiên Chúa không làm cho chúng ta thành các Kitô hữu nhút nhát, dễ bảo, nhưng tạo ra trong chúng ta lòng can đảm và sức mạnh!  Nó là một ơn làm cho chúng ta thành các Kitô hữu xác tín, nhiệt tình, không phục tùng Chúa vì sợ hãi, nhưng vì được tình yêu của Ngài đánh động và chinh phục! Được chinh phục bởi tình yêu của Thiên Chúa!  Và đây là một điều tốt đẹp.  Để cho mình bị chinh phục bởi tình yêu của Chúa Cha, Đấng yêu thương chúng ta rất nhiều, Ngài yêu thương chúng ta với tất cả con tim của Ngài.

Nhưng chúng ta hãy cẩn thận, bởi vì hồng ân Thiên Chúa, ơn kính sợ Thiên Chúa cũng là một “lời cảnh báo” trước sự ngoan cố trong tội lỗi.  Khi một người sống trong sự dữ, khi phạm thượng chống lại Thiên Chúa, khi khai thác những người khác, khi áp chế họ, khi chỉ sống vì tiền tài, vì hư danh, hay quyền lực, hoặc kiêu căng, thì khi đó sự kính sợ thánh thiện đối với Thiên Chúa cảnh báo chúng ta: hãy cẩn thận!  Với tất cả quyền lực này, với tất cả tiền bạc này, với tất cả kiêu hãnh này của mi, với tất cả hư danh này của mi, mi sẽ không có hạnh phúc đâu.  Không ai có thể mang với họ sang (đời sống) bên kia dù là tiền bạc, dù là quyền lực, dù là hư danh, dù là kiêu hãnh.  Không mang được gì cả!  Chúng ta chỉ có thể mang theo tình yêu mà Thiên Chúa Cha ban cho chúng ta, những vuốt ve của Thiên Chúa, được chúng ta chấp nhận và đón nhận với tình yêu.  Và chúng ta có thể mang theo những gì mà chúng ta đã làm cho tha nhân.  Hãy cẩn thận đừng đặt hy vọng vào tiền tài, kiêu hãnh, sức mạnh và hư danh, bởi vì tất cả mọi thứ ấy không thể hứa bất cứ điều gì tốt đẹp với chúng ta!  Tôi đang nghĩ đến những người có trách nhiệm với những người khác và để cho mình trở thành tham nhũng chẳng hạn; anh chị em có nghĩ rằng một người tham nhũng sẽ được hạnh phúc ở đời sống bên kia không?  Không, tất cả những thành quả tham nhũng của người ấy đã làm hư hỏng trái tim người ấy và sẽ rất khó để đến với Chúa.  Tôi nghĩ đến những kẻ sinh sống nhờ nạn buôn người và nô lệ lao động; anh chị em có nghĩ rằng những kẻ đối xử tệ với con người, khai thác con người bằng việc nô lệ lao động có tình yêu của Thiên Chúa trong trái tim họ không?  Không, họ không có lòng kính sợ Thiên Chúa và không hạnh phúc.  Họ không.  Tôi nghĩ đến những người sản xuất vũ khí để gây ra chiến tranh; nhưng anh chị em nghĩ xem công việc này là nghề gì?  Tôi chắc rằng nếu bây giờ tôi hỏi: có bao nhiêu người trong anh chị em đang chế tạo vũ khí?  Không, không một ai.  Những nhà sản xuất vũ khí này không đến để nghe Lời Chúa!  Những người ấy sản xuất cái chết, họ là những con buôn sự chết và chế tạo hàng hóa sự chết.  Ước gì ơn kính sợ Thiên Chúa làm cho họ hiểu rằng một ngày nào đó tất cả sẽ kết thúc và họ sẽ phải tính sổ trước mặt Thiên Chúa.

Các bạn thân mến, Thánh Vịnh 34 cung cấp cho chúng ta lời cầu nguyện như sau: “Chính kẻ cùng khổ này đã kêu cầu, và Chúa đã nghe lời, cùng cứu nó khỏi mọi điều gian khổ.  Thiên sứ của Chúa đồn quân quanh những ai kính sợ Ngài, và giải thoát họ” (các câu 7-8).  Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta ơn biết kết hợp tiếng nói của chúng ta với tiếng nói của người nghèo, để đón nhận ơn kính sợ Thiên Chúa và có thể nhận ra mình, cùng với họ, được bao bọc bởi lòng thương xót và tình yêu của Thiên Chúa, Đấng là Cha chúng ta, Cha của chúng ta.  Chớ gì được như vậy.

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

http://giaoly.org/vn/

Chậm khởi kiện Trung Quốc vì nội bộ chia rẽ?

Chậm khởi kiện Trung Quốc vì nội bộ chia rẽ?

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-06-12

06122014-vn-public-impati-wt-lawsui.mp3

Chúng ta loay hoay cứ như có lỗi khi kiện Trung Quốc vậy? (trang web của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng)

Hình minh họa chụp từ trang web của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng.

Screen capture

Công luận thể hiện qua báo chí và các diễn đàn trên mạng từng rất nôn nóng về việc chính quyền Việt Nam khởi kiện Trung Quốc xâm lấn biển đảo, đưa giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa Việt Nam từ hơn 1 tháng qua.

Người dân Việt Nam sau những tuần lễ phấn khởi bắt đầu chuyển sang thái độ sốt ruột và hoài nghi về khả năng Việt Nam làm quyết liệt, khởi kiện Trung Quốc ra tòa trọng tài quốc tế theo Công ước Luật biển hoặc Tòa án Công lý Quốc tế để bảo vệ chủ quyền vùng biển của mình.

Không đồng thuận và thiếu quyết tâm

Trước đó các phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, về việc không đánh đổi chủ quyền đất nước lấy hữu nghị viển vông và xem xét việc sử dụng biện pháp pháp lý đối với Trung Quốc, đã làm cho nhân dân tưởng rằng việc loan báo chính thức khởi kiện sẽ sớm diễn ra. Điều mong đợi là sẽ có vụ kiện ngay trong lúc giàn khoan HD 981 và lực lượng tàu vũ trang máy bay bảo vệ của Trung Quốc đang quấy rối trên vùng biển Việt Nam. Phía Trung Quốc từng nói là giàn khoan sẽ hoạt động thăm dò địa chất từ 2/5 tới 15/8/2014. Liệu trong vòng 2 tháng sắp tới Việt Nam sẽ khởi kiện hay không, đây là câu hỏi chờ đợi được giải đáp.

Trả lời Nam Nguyên tối 11/6/2014 TS Trần Đình Bá, thành viên Hội khoa học kinh tế Việt Nam từ Hà Nội nhận định:

” Đơn giản là ngay từ đầu nhà nước Việt Nam không quyết tâm kiện và họ làm điều đó chẳng qua là vì áp lực dư luận, áp lực của số đông và áp lực của những người trong chính nội bộ của họ mà thôi, nhưng mà họ không quyết tâm kiện.
-TS Phạm Chí Dũng “

“ Mọi người rất sốt ruột về vấn đề chủ quyền biển Đông, Việt Nam khẳng định có quyền chủ quyền, quyền tài phán thì Trung Quốc cũng nói như vậy. Cho nên bây giờ nên đưa ra phân xử để bảo vệ chủ quyền của mình bằng biện pháp đấu tranh hòa bình. Tôi cũng như mọi người dân Việt Nam mong muốn là nhân sự kiện này phải kiên quyết đòi bằng được Hoàng Sa bị Trung Quốc cưỡng chiếm. Đây là cơ hội đưa ra tòa án quốc tế để đòi lại chủ quyền Hoàng Sa, với nỗi hận 4 thập kỷ qua nhân dân Việt Nam muốn đòi lại vùng đất của cha ông mà bao nhiêu thế hệ đã gìn giữ.”

Sự chậm trễ khởi kiện Trung Quốc mà quyền quyết định thuộc Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy một sự thiếu đồng thuận ở thượng tầng chính trị. TS Phạm Chí Dũng, nhà bình luận độc lập hiện sống và làm việc tại TP.HCM nhận định:

Vị trí của giàn khoan HD 981 trong thềm lục địa của Việt Nam. RFA files:UNCLOS-CIA

Vị trí của giàn khoan HD 981 trong thềm lục địa của Việt Nam. File Photo.

“Đơn giản là ngay từ đầu nhà nước Việt Nam không quyết tâm kiện và họ làm điều đó chẳng qua là vì áp lực dư luận, áp lực của số đông và áp lực của những người trong chính nội bộ của họ mà thôi, nhưng mà họ không quyết tâm kiện. Đó là chưa biết họ có củng cố hồ sơ cho có những cơ sở chắc chắn đủ để kiện Trung Quốc hay không. Nhưng mà tinh thần yếu kém trong việc chuẩn bị hồ sơ và thiếu quyết tâm đã làm giảm sút đáng kể nhiệt huyết của những người đi kiện.

Nếu đưa ra tòa án quốc tế thì tôi nghĩ việc này không thể thành công ngay được, thậm chí nhiều khả năng sẽ kéo dài rất lâu. Trong khi đó, chúng ta thấy được sự rạn nứt chia rẽ khá lớn ngay trong nội bộ nhà nước Việt Nam, về các quan điểm khác nhau, đường lối đối ngoại khác nhau. Và trong vụ kiện với Trung Quốc cũng đặc biệt xuất hiện những quan điểm trái chiều, đó là một sự giằng kéo và rất có thể làm cho vụ kiện này sẽ không đi tới được.”

Chưa kiện hay không kiện?

Trong khi đó, TS Nguyễn Quang A thuộc nhóm chủ trương Diễn đàn Xã hội Dân sự nêu nghi vấn về việc nhà nước Việt Nam nghe theo khuyến cáo của Trung Quốc là không được khởi kiện. Từ Hà Nội, TS Nguyễn Quang A nhận định:

“ Tôi không hiểu giữa Bắc Kinh và Hà Nội có những điều gì ngầm với nhau hay không và có thể có cái gì đó mà họ dọa là họ sẽ đưa ra, thì có thể rất là mất mặt…Và chần chừ ngày nào về việc khởi kiện Trung Quốc thì Việt nam thực sự đầu hàng từ ngày đó.”

” Tôi không hiểu giữa Bắc Kinh và Hà Nội có những điều gì ngầm với nhau hay không và có thể có cái gì đó mà họ dọa là họ sẽ đưa ra, thì có thể rất là mất mặt…Và chần chừ ngày nào về việc khởi kiện Trung Quốc thì Việt nam thực sự đầu hàng từ ngày đó.
-TS Nguyễn Quang A “

Trên báo chí Việt Nam nhiều giới chức nhà nước vẫn còn lập đi lập lại tình hữu nghị 16 chữ vàng và 4 tốt giữa Việt Nam và Trung Quốc và cho rằng việc khởi kiện giống như đổ bát nước đầy xuống đất. Ngoài ra nhiều giới chức nhà nước còn lo ngại Trung Quốc cấm vận kinh tế nếu Hà Nội muốn thoát vòng kềm tỏa của Bắc Kinh.

TS Trần Đình Bá từ Hà Nội bày tỏ ý kiến:

“ Nói tình hữu nghị thì họ đã không làm những chuyện vượt quá đạo lý quốc tế, ví dụ như đâm tàu vào ngư dân hành động rất man rợ mà cả thế giới người ta lên án, khi xem băng ghi hình ai cũng phẫn nộ. Tính mạng của ngư dân trên biển làm sao để bảo vệ? Bây giờ phải kiên quyết đấu tranh bằng pháp lý, Trung Quốc cũng phải có lương tâm để nhận ra vấn đề, họ là ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc thì càng phải gương mẫu chấp hành Luật biển, trong quan hệ quốc tế không thể dùng uy thế nước lớn ép nước nhỏ, bắt nạt nước nhỏ. Thời thế bây giờ là của thế giới phẳng, mọi việc đều công khai với quốc tế và đưa lên màn hình, mọi việc không thể giấu diếm được nữa. Nguyện vọng của bao nhiêu người Việt Nam đều mong muốn đưa ra giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình.”

Giới luật gia, học giả trí thức tại Việt Nam cũng như ở nước ngoài đã bày tỏ rất nhiều ý kiến về khả năng Việt Nam kiện Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa Việt Nam. Qua vụ giàn khoan HD 981 Việt Nam có thể kiện Trung Quốc ra Tòa trọng tài quốc tế theo Công ước Luật Biển 1982 của Liên Hiệp Quốc hoặc Tòa án Công lý Quốc tế. Philippines thừa biết vụ kiện không mang lại những kết quả cụ thể vì Trung Quốc không ra tòa hoặc phán quyết không có tính cách ràng buộc nhưng Manila vẫn kiên quyết hành động.

Những vướng mắc liên quan đến công hàm Phạm Văn Đồng 1958, hoặc thỏa thuận bí mật Thành Đô 1990 được cho là những rào cản trên con đường khởi kiện của Việt Nam. Tuy vậy đã có rất nhiều góp ý để hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng hoặc chỉ kiện về giàn khoan hạ đặt bất hợp pháp mà không kiện về chủ quyền. Về rào cản thứ hai, nếu như không có một thỏa thuận ngầm tại Hội nghị Thành Đô 1990 như lời đồn đại, thì vì cớ gì mà Đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam lại không dám công khai thông tin về Hội nghị này dù đã trải qua 24 năm.

 

Trung Quốc đưa ra bằng chứng: Sách Địa Lý Lớp 9 Việt Nam nói Tây Sa, Nam Sa là của Trung Quốc

Trung Quốc đưa ra bằng chứng: Sách Địa Lý Lớp 9 Việt Nam nói Tây Sa, Nam Sa là của Trung Quốc

nguồn:  http://huynhngocchenh.blogspot.com

Hồi đó để đánh chiếm cho được miền Nam thì dân Việt Nam cần thiết phải hy sinh đến người cuối cùng, Trường Sơn cũng thiêu rụi thì ăn thua gì mấy hòn đảo trên biển Đông. Công hàm cũng ký được thì nhằm nhò gì mấy trang sách giáo khoa.

Dân Luận
Ngày 8/6/2014, Bộ Ngoại Giao Trung Quốc ra bản tin với tựa đề “Hoạt động của giàn khoan Hải Dương 981: Sự khiêu khích của Việt Nam và lập trường của Trung Quốc“. Trong bản tin ngoài công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, bản tin còn dẫn sách Địa Lý lớp 9 do Nhà xuất bản Giáo Dục phát hành năm 1974 nói Tây Sa và Nam Sa, tức là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, là một phần của Trung Quốc:

Chương về Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa
… Vòng cung đảo từ các đảo Nam Sa, Tây Sa đến các đảo Hải nam, Đài loan, quần đảo Hoành bồ, Châu sơn… làm thành một bức “trường thành” bảo vệ lục địa Trung quốc…
Trích Sách địa lý lớp 9 (1974)

Đây là một phần tài liệu mà Trung Quốc chuyển tới Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, ông Ban Ki-moon, và yêu cầu ông này chuyển tới tay các quốc gia thành viên vào hôm thứ Hai 9/6/2014. Đây là lần thứ hai Trung Quốc đệ trình tài liệu lên Liên Hiệp Quốc nói Việt Nam xâm phạm chủ quyền, lần thứ nhất là vào tháng 5/2014.

annex5-5-2.jpg

annex5-5-3.jpg

annex5-5-4.jpg

Niềm tin Phục Sinh!

Niềm tin Phục Sinh!

Nguyễn Trung Tây, SVD

Dòng Ngôi Lời tỉnh dòng Úc Châu, ngoài những công tác mục vụ với người thổ dân Arrernte tại vùng sa mạc bát ngát Central Australia, tu sĩ Ngôi Lời Úc Châu còn có mặt tại Thái Lan chăm sóc những mảng đời bị bỏ rơi, hoặc bị hất bỏ gạt sang một bên lề xã hội: những bệnh nhân HIV/Sida. Tỉnh Nongbua Lamphu, đông bắc Thái Lan, một tỉnh nghèo sát biên giới với Lào là nơi có cơ sở truyền giáo Ngôi Lời Úc Châu. Nongbua Lamphu có nhà thờ St. Michael, nơi đây Ngôi Lời Úc Châu cùng với nhiều Linh Mục và tu sĩ truyền giáo của các dòng tu khác đã nhiều lần tổ chức trại hè cho giới trẻ.
Đặc biệt, Thái Lan cũng là vùng đất (của) nhiều bạn trẻ Việt Nam đến, sống, và làm việc siêng năng, sáng dậy sớm, khuya về trễ, góp từng đồng bạc dành dụm cho một tương lai của mình và gia đình nơi quê nhà.
Đất Thái, ngôn ngữ Thái, văn hóa Thái, mọi sự đều mới với các bạn trẻ. Tại Thái, bạn trẻ không còn gia đình và giáo xứ để nâng đỡ vào những giây phút đối diện với thứ thách và cám dỗ nơi đất khách quê người. Đặc biệt vào những giây phút yếu đuối với bơ vơ lạc loài trên đất lạ, bạn trẻ dễ bỏ cuộc hoặc buông xuôi theo dòng đời. Trên vùng đất Thái, bạn trẻ chỉ còn Niềm tin Việt Nam, vốn quý đã từng được ươm mầm và vươn cao trong ngôn ngữ Việt trên mảnh đất Việt. Nếu không được nâng đỡ, tiếp tục chăm sóc nơi đất khách, niềm tin có thể mai một, héo tàn, và chết đi vào một ngày. Do hoàn cảnh đặc biệt vừa sơ lược ở trên, cùng với các Linh Mục và tu sĩ truyền giáo của nhiều dòng tu khác, tu sĩ Ngôi Lời tại Thái Lan đã nhiều lần tổ chức những Trại Hè cho bạn trẻ Việt Nam. Nơi đó, nhà thờ trở thành một nơi để bạn trẻ cầu nguyện với Chúa trong ngôn ngữ Việt, chia sẻ với nhau (trong ngôn ngữ quê mẹ) về những khó khăn và thử thách nơi quê người. Cũng qua những Trại Hè, bạn trẻ ngồi cạnh nhau chia sẻ một chén nước mắm, một chén cơm thơm.

Trại Hè chủ đề YÊU NHƯ GIÊSU tại Thái năm 2014 lại đến như một thường lệ. Mọi chuẩn bị cho một trại hè đã sẵn sàng, nhiều Linh Mục và tu sĩ Việt Nam góp công, nhiều bạn trẻ góp mặt, bảng tên, áo trại hè, mọi người hân hoan chờ đợi giây phút.

Không ai ngờ! Sáng sớm ngày thứ Hai, 2 tháng 6, có lẽ chỉ vì một sự lơ đễnh, một cơn buồn ngủ, một giây phút lãng quên, một lần đôi mắt vô tình nhắm lại, tai nạn xảy tới!!! Chiếc xe minibus 15 chỗ ngồi đâm mạnh vào một chiếc xe vận tải loại lớn. Xe minibus phát nổ và bốc cháy!!! 13 sinh mạng nằm xuống trong đó có Linh Mục Vũ Hanh, Linh Hướng của Hiệp Hội Công Giáo Việt Nam tại Thái Lan (HHCGVN-TL), và người tài xế Thái Lan. Riêng 3 bạn trẻ còn lại, thương tích khá nặng.

Linh Mục Lê Đức của Ngôi Lời Úc Châu (Thư Ký của HHCGVN-TL) viết trong trang “Nhật Ký Truyền Giáo: Thiên Chúa Thử Thách,”

…Suốt 8 năm trong đại chủng viện, trong đó có 4 năm học thần học, chẳng có một môn học nào dạy cho mình biết nên làm gì khi phải đối phó với tình trạng một linh mục bạn và 11 bạn trẻ của mình thiệt mạng trong một tai nạn giao thông khủng khiếp đến nỗi cả thảy bị thiêu rụi mà không nhận ra hình dạng. Khi mình tới cái chùa nơi người ta mang xác của các nạn nhân đến, mình không thể tin vào điều mình thấy. Những khuôn mặt tươi vui mình mới gặp gỡ, mới trêu chọc, mới đùa giỡn giờ chẳng khác gì một đống than.
Trên đường đến hiện trường, mình và chị Fốn đã liên lạc với cha xứ ở nhà thờ thánh Gerard Khon Kaen, xin ngài tiếp nhận những thi hài ở nhà thờ của ngài. Mình cứ nghĩ rằng sau khi làm những thủ tục như đưa xác vào bệnh viện rồi thì sẽ liệm xác vào quan tài, rồi đưa quan tài về nhà thờ để dâng lễ. Ai ngờ, chuyện trở nên phức tạp ngoài mức tưởng tượng. Vì là một tai nạn liên quan đến nhiều người nước ngoài nên cảnh sát phải vào cuộc để điều tra. Việc hộ chiếu của tất cả những người thiệt mạng đã bị cháy làm cho cảnh sát có nhiều câu hỏi. Việc có tới trên 60 người Việt Nam trong một chuyến đi lại làm cho cảnh sát còn có nhiều câu hỏi hơn…

LM Vũ Hanh, OP, cá nhân người viết đã từng gặp qua một số báo Dân Chúa Úc Châu, chủ đề Truyền Giáo tại Thái Lan… LM Hanh và tôi đã từng chia sẻ với nhau những khó khăn và thử thách về cánh đồng truyền giáo. Nhưng giờ này, ngài đã nằm xuống ngủ yên giấc ngủ thiên đàng. LM Hanh ra đi, một bất ngờ! Cánh đồng truyền giáo vẫn còn cần nhiều bước chân truyền giáo… Nhưng sáng sớm thứ Hai 2/6, một trong những bàn tay của thợ gặt nhiệt thành trên cánh đồng đã biến tan vào trong thinh không!

Riêng 11 người bạn trẻ còn lại. Những đôi mắt mở lớn! Những tiếng cười thanh xuân! Những chăm chỉ siêng năng! Những mơ ước cho tương lai! Gia đình bên Việt Nam đã từng tiễn họ cất bước rời làng quê xứ đạo với những hy vọng. Tất cả đã cháy tan theo với ngọn lửa! Rất tiếc! Buổi sáng ngày 2 tháng 6 vừa qua đã thay đổi tất cả những trang sách tương lai.

LM Hanh còn trẻ! Đời sống truyền giáo của ngài nên tiếp tục những vòng xoay bình thường. Nhưng tiếc quá! Vòng xoay truyền giáo đã dừng lại!
11 bạn trẻ cũng thế, họ còn cả một tương lai thênh thang mở rộng trước mặt. Họ là hy vọng, là chén cơm của gia đình bên quê nhà. Nhưng hy vọng đã biến tan.
Nhìn những tấm hình của chiếc xe minibus và thi hài của những người vừa nằm xuống, thế gian thở một tiếng thở dài!

Trong thánh lễ tại thánh đường Sacred Heart của Cabramatta, Úc Châu (9/6) cầu nguyện cho linh hồn LM Vũ Hanh và 11 linh hồn vừa nằm xuống, tôi đọc bài Phúc Âm Gioan 11. Đứng trước ngôi mộ chôn vùi thân xác người thân, Martha than với Đức Giêsu, “Nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết…” (c.21).

Cuộc sống từ những ngày đầu tiên cho tới ngày hôm nay vẫn là một vòng xoay tròn đều của Sinh, Bệnh, Lão, Tử. Đúng như Sách Giảng Viên đã từng nhận xét, “Dưới vòm trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời; một thời để sinh ra và một thời để chết đi…” (3:1-2).

Nhưng với những cuộc đời đã từng được nhận dòng nước thanh tẩy trong Đức Kitô, vòng xoay bình thường của trần gian không chỉ dừng lại ở sau chữ “Tử!”.
Đức Giêsu của mốc tuổi ba mươi cũng đã từng nhắm mắt lại, lặng lẽ chết đi trong bùi ngùi thương tiếc của bao nhiêu người. Nhưng Ngài sống lại. Ngài trở thành một vòng quay mới của vòng xoay nhân gian. Trước Ngài, cuộc sống nối tiếp vòng xoay, Sinh, Bệnh, Lão, Tử! Sau Ngài, vòng xoay hóa thành Sinh, Bệnh, Lão, Tử, và Phục Sinh. Trong Đức Kitô, người tín hữu sẽ phục sinh dù đã chôn trong ngôi mộ. Với niềm tin vào Đức Kitô, LM Vũ Hanh và 11 bạn trẻ dù đã chết, nhưng sẽ phục sinh, một chuyện phải tới.
Trước lời than của Martha, Đức Giêsu đã nói, Ngài nói rõ, “Ta là sự sống lại! Ai tin ta sẽ không chết đời đời. Con có tin điều đó hay không?” (Gioan 11:25).
Vâng, thưa Thầy, con tin!

Chuyện xảy ra tại Thái Lan ngày 2/6, rất tiếc, cơn ác mộng sự thật. LM Vũ Hanh và 11 sinh mạng thanh xuân vừa nằm xuống nhắc nhở trần gian một sự thật (thông thường bị lãng quên): Cuộc đời này, trước sau vẫn là phù vân, có đó rồi mất đó! Cuộc sống này, trước sau vẫn là hoa quỳnh, sớm nở tối tàn! Ngày rồi cũng tới, xinh đẹp sắc sảo rồi cũng tới một ngày nằm xuống hóa ra nấm đất bên đường! Ai trên trần gian sẽ sống mãi? Ai dám chắc sáng mai mình còn cơ hội mở mắt chào đón bình minh? Ai dám chắc vợ chồng sẽ còn tiếp tục sánh bước bên nhau trên con đường đời?
Vâng, chuyện quá khứ đã qua! Chuyện hân hoan! Chuyện đau lòng!
Chuyện tương lai chưa tới! Trang giấy trắng vẫn mở rộng thênh thang chờ đợi những nét vẽ đẹp!
Bây giờ là hiện tại, một thực thể. Bây giờ vẫn còn có nhau! Bây giờ vẫn còn hơi thở sung mãn tràn đầy! Bây giờ vẫn còn thịt da, thịt da của Bố Mẹ, của Vợ Chồng, Con, và của bao nhiêu người thân!
Mời tôn trọng! Mời yêu thương!
Bởi ai biết đâu, ngày sẽ tới!
Nguyễn Trung Tây
www.nguyentrungtay.com

Người Việt các anh sẽ muôn đời khổ

Người Việt các anh sẽ muôn đời khổ

Bạn bè yêu quý gửi cho một nhận xét ngắn này của một người Nhật về người Việt mình. Thẳng thắn và sòng phẳng. Rất đau nhưng tiếc thay rất đúng. Xin đưa lên Blog để bạn đọc đọc và ngẫm nghĩ về tính cách người Việt. Liệu có thể coi tính cách đó là sản phẩm của một môi trường sống và cơ chế quản lý kiểu xin- cho khiến con người ta, trong bất cứ hoàn cảnh nào, ngay lập tức chỉ nghĩa đến cái lợi cỏn con của mình, mà quên mất những điều về lòng tự trọng, lợi ích chung. Sự cào cấu, xâu xé kiểu đó, xét cho cùng, đáng thương. Và cũng vì thế, mà cái sự “văn minh” còn quãng cách khá xa…

Muốn biết người Nhật thật sự đánh giá thế nào về Việt Nam thì phải nghe những câu chuyện của những người lao động trực tiếp. Còn các nhà nghiên cứu, giáo sư, tiến sỹ, chính trị gia, các nhà ngoại giao, doanh nhân Việt Nam thường chỉ nghe được những lời lẽ ngoại giao từ những người đồng nhiệm với họ phía Nhật Bản nên chưa chắc đã biết được người Nhật thực bụng nhìn vào Việt Nam thế nào.

Chẳng hạn như thế này, một công nhân làm cho một công ty Nhật ở Việt Nam kể lại khi một kỹ sư Nhật về nước ông ấy không ngại ngần nói với người công nhân Việt Nam: “Người Việt các anh sẽ muôn đời khổ. Đấy là vì các anh chỉ biết nghĩ đến những cái lợi lộc nhỏ của cá nhân mà không biết nghĩ đến cái lợi lớn của chung” Rồi viên kỹ sư minh hoạ: “Một cái vít chúng tôi phải mang từ Nhật sang giá 40.000đ mà rơi xuống đất thì công nhân Việt Nam các anh thản nhiên dẫm lên hoặc đá lăn đi mất vì nó không phải của các anh.

Nhưng các anh đánh rơi điếu thuốc lá đang hút dở giá 1.000đ thì các anh sẵn sàng nhặt lên và hút tiếp cho dù nó bị bẩn chỉ vì nó là của các anh. Hay như cuộn cáp điện chúng tôi nhập về giá 5tr/m, nhưng các anh cắt trộm bán được có vài trăm nghìn/m. Tất cả những việc làm đó mang lại chút lợi lộc cho các anh nhưng gây thiệt hại lớn cho doanh nghiệp vì chúng tôi phải nhập bổ sung hoăc nhập thừa so với cần thiết”.

Còn lái xe của viên kỹ sư đó thì được nghe ông ấy tặng quà có giá trị và được nghe ông ấy “tâm sự” như sau: “Tôi rất cảm ơn anh lái xe an toàn cho tôi suốt 5 năm qua. Vì anh là người bảo đảm mạng sống của tôi nên anh làm gì tôi cũng chiều nhưng anh đừng tưởng anh làm gì sai mà tôi không biết. Anh đưa đón tôi ra sân bay quãng đường chỉ hơn 30km anh khai là hơn 100km tôi cũng ký, anh khai tăng việc mua xăng, thay dầu tôi cũng ký là vì tôi cần anh vui vẻ lái xe để tôi được an toàn. Nhưng anh và các công nhân Việt Nam đừng tưởng là các anh vặt được người Nhật.

Các anh nên biết rằng lẽ ra chúng tôi có thể trả lương cao hơn hoặc tăng lương nhiều hơn cho các anh. Nhưng đáng phải tăng lương cho các anh 500.000 thì chúng tôi chỉ tăng 200.000. Còn 300.000 chúng tôi phải giữ lại để chi trả bù đắp cho những trò vụn vặt hay phá hoại của các anh. Cuối cùng là tự các anh hại các anh thôi. Còn chúng tôi cũng chỉ là lấy của người Việt cho người Việt chứ chúng tôi không mất gì cả”.

Awake Phamtt

Lâm Kim Trọng gởi

VN không có nhiều lựa chọn trong vụ tranh cãi về biển với TQ

VN không có nhiều lựa chọn trong vụ tranh cãi về biển với TQ

Tàu Trung Quốc tấn công tàu Việt Nam bằng vòi ròng 4/5/14

Tàu Trung Quốc tấn công tàu Việt Nam bằng vòi ròng 4/5/14

Trà Mi-VOAMarianne Brown

11.06.2014

Việt Nam đã ngăn chặn các cuộc biểu tình bạo động chống Trung Quốc tràn ra khắp nước sau khi một giàn khoan dầu của Trung Quốc bắt đầu hoạt động trong vùng biển có tranh chấp. Nhưng giới hữu trách chưa từ bỏ sự chống đối nhắm vào hoạt động của Trung Quốc, và đã phái tàu đến quấy nhiễu công tác khoan dầu, cứu xét việc kiện trước tòa án quốc tế đòi giải quyết vụ tranh chấp và ve vãn các đồng minh trong khu vực như Philippin. Từ Hà Nội, thông tín viên Marianne Brown ghi nhận chi tiết về chính sách ngoại giao nhiều rủi ro đằng sau nỗ lực này.

Trung Quốc đã làm khó Việt Nam trong tuần này qua việc gửi một “văn thư xác định lập trường” cho Liên Hiệp Quốc về hoạt động của giàn khoan dầu trị giá 1 tỷ đôla trong một phần của Biển Ðông mà Việt Nam cũng đòi chủ quyền.

Trung Quốc tố cáo Việt Nam là đâm vào tàu thuyền của họ, cử người nhái và “các điệp viên dưới nước” vào vùng hải phận mà họ nói không thể tranh cãi được là của Trung Quốc.

Giáo sư Carl Thayer

Giáo sư Carl Thayer

Trung Quốc luôn chống lại sự can thiệp của bên thứ ba vào các vụ tranh chấp giữa các nước cùng đòi chủ quyền vùng Biển Ðông, nhưng biến chuyển này có thể đặt Việt Nam vào thế khó xử, theo nhận định của Giáo sư Carl Thayer, thuộc Học viện Quốc phòng Australia. Giáo sư Thayer nhận định:

“Phải chăng Trung Quốc tìm cách khiêu khích một cuộc tranh luận ở đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, khiến các nước phải đưa ra quyết định hoặc có hành động hoặc giữ im lặng? Tìm cách cô lập hóa Việt Nam thông qua việc buộc các nước quan tâm hơn về Trung Quốc phải im lặng bởi vì họ không muốn bị coi là đẩy ra chỗ công khai, như Brunei, chỉ tìm cách tránh né hay lẩn trốn.”

Việt Nam không thể cạnh tranh với sức mạnh của Trung Quốc và vẫn còn lệ thuộc nặng vào Bắc Kinh về giao thương. Việt Nam được cho là đang cứu xét đưa vụ việc ra trước tòa về vùng biển có tranh chấp, nhưng có thể phải mất nhiều năm để đưa vụ kiện ra trước một tòa án quốc tế.

Theo giáo sư Thayer, một chọn lựa có thể là lợi dụng sự thách thức của Philippines về tính hợp pháp của những khẳng định chủ quyền lãnh hải của Trung Quốc tại một tòa án quốc tế ở La Haye. Ông nói tiếp:

“Ðường lối tốt nhất về mặt chính trị, nếu không thể hàn gắn được bang giao với Trung Quốc, là cùng với Philippines tìm cách tăng thêm sự khẳng định trong tư cách là một nước bạn của Philippines.”

Liên minh của Việt Nam với Philippines đã thể hiện một cách nhẹ nhàng hôm thứ hai khi nước này mở các cuộc đấu bóng đá, bóng chuyền và kéo co với thủy thủ trên một hòn đảo trong quần đảo Trường Sa.


Trước đây, hai chính phủ sẽ e ngại tổ chức một sự kiện như thế, vì sợ rằng sẽ có vẻ như “câu kết” với nhau chống lại Trung Quốc, theo nhận định của ông Alexander Vuving, một chuyên gia phân tích về an ninh ở Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á Thái Bình Dương tại Hawaii.

Tuy nhiên, mọi sự nay đã đi tới một điểm mà cả hai nước có thể tăng cường và bày tỏ tình đoàn kết.

Ông Vuving nói Việt Nam cũng có thể trông đợi sự ủng hộ từ bên ngoài khu vực:

“Ấn Ðộ ở cách xa nhưng cũng đã tỏ ý ủng hộ Việt Nam vì thế nhìn vào lợi ích cốt lõi của cả hai nước, tôi cho rằng các đồng minh vô tình này, nếu muốn dùng từ ấy, sẽ là Philippines, Nhật Bản, Hoa Kỳ và Ấn Ðộ.”

Việt Nam đã tiến gần hơn về phía Hoa  Kỳ ngay cả trước khi xảy ra vụ khủng hoảng về giàn khoan trong một “đường lối hòa giải liên tục để đối lại với sự trỗi dậy của Trung Quốc,” theo nhận định của ông Vuving.

Nhưng bộ chính trị Việt Nam cũng chia rẽ về mức độ thân cận mà họ tiếp xúc với Washington. Một số không muốn cải cách chính trị, và một số khác đã đầu tư quyền lợi vào quan hệ kinh tế với Trung Quốc. Ông nhận định:

“Tôi nghĩ về cơ bản, nhưng người chủ trương cách tân muốn lại gần Hoa Kỳ hơn, không phải chỉ để bảo vệ lãnh thổ mà còn để cải cách kinh tế nữa. Nhưng ngay lúc này, thì phe này không có đại diện nhiều trong bộ chính trị.”

Trong khi đó, ngay trong nước Việt Nam đang chuẩn bị về lâu về dài. Hôm thứ hai, Quốc Hội đã thông qua một kế hoạch dự chi 760 triệu đôla để hỗ trợ cho ngư dân và đội tuần duyên.

Ngân khoản sẽ được dùng để mua thiết bị tuần tra và xây dựng tàu đánh cá ngoài khơi cho Ðội Tuần Duyên Việt Nam, cho Lực lượng Kiểm ngư Việt Nam và ngư phủ.

Khoản này bao gồm việc xây dựng 3 ngàn tàu đánh cá bọc thép, theo ông Trần Cao Mưu, Tổng thư ký Hội Ngư nghiệp Việt Nam. Ðội tàu hiện nay khoảng 100 ngàn chiếc là tàu gỗ.

Ông Mưu nói các chính sách khai thác tài nguyên trong hải phận Việt Nam không phải là mới, nhưng vấn đề đã trở nên “nóng hơn” sau các hành động khiêu khích của Trung Quốc ngoài biển.

Việt Nam đã tố cáo Trung Quốc là đâm vào tàu của họ trên 1 ngàn 400 lần, một lần khiến một tàu đánh cá bị chìm.

Bất chấp các mối nguy hiểm ngày càng nhiều, ông Mưu nói các tàu đánh cá Việt Nam đang hoạt động bình thường trên biển.

 

Tương lai gần của đảng CSVN giữa cuộc khủng hoảng?

Tương lai gần của đảng CSVN giữa cuộc khủng hoảng?

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-06-11

06112014-wht-is-vn-commu-futur.mp3

Đại sứ Việt Nam tại LHQ Lê Hoài Trung

Đại sứ Việt Nam tại LHQ Lê Hoài Trung

Vietnamplus

 

Đảng cộng sản Việt nam đang đối diện với nhiều thách thức lớn trong cuộc khủng hoảng biển Đông hiện nay. Kính Hòa tổng hợp một số nhận định về những thách thức này đối với sự tồn tại của đảng cộng sản Việt nam.

Cuộc khủng hoảng lớn

Xung đột giữa hai quốc gia cộng sản không có dấu hiệu dừng lại với việc một mặt Trung quốc cương quyết dùng lực lượng lớn bảo về giàn khoan của họ trong thềm lục địa Việt nam, mặt khác họ tấn công Việt nam trên phương diện quan hệ quốc tế khi cho lưu hành tại Liên Hiệp Quốc thư tố cáo Việt nam xâm phạm chủ quyền của Trung quốc.

Đảng cộng sản Việt nam đang phải đối đầu với một nan đề lớn kể từ khi phải quyết định cải tổ nền kinh tế hồi cuối những năm 80 của thế kỷ trước. Vào thời điểm ấy đảng cộng sản cũng phải có những quyết định khó khăn, nhưng hầu như chỉ có sự phản kháng thụ động từ dân chúng, mà tiêu biểu nhất là bỏ nước ra đi, hoặc là tiến hành những hoạt động kinh tế tư nhân không được phép.

Cá nhân tôi cho rằng đây là lúc nhà nước Việt nam phải lựa chọn sự thay đổi về đường lối đối nội lẫn đối ngoại. Đối nội là thay đổi đường lối với chính sách với những tiếng nói phản biện trong nước. Đối ngoại là thay đổi sự quá phụ thuộc vào Trung Quốc

blogger Mẹ Nấm

Cuộc khủng hoảng biển Đông 2014 đưa đến cho đảng cộng sản những thách thức trực diện và chủ động hơn từ nhiều tầng lớp. Lớn tiếng nhất có lẽ là những lời yêu cầu Bộ chính trị phải từ bỏ quyền lực của những người bất đồng chính kiến cứng rắn như bác sĩ Nguyễn Đan Quế. Và có những tiếng nói ôn hòa hơn như những người biểu tình chống Trung quốc ngày 11/5/2014. Trong cuộc biểu tình lớn mà có người cho rằng đảng cầm quyền đã ngầm cho phép, những người biểu tình đã kết hợp chuyện chống Trung quốc với những yêu cầu cải tổ đất nước. Một trong những người đưa ra những đòi hỏi ôn hòa đó là blogger Mẹ Nấm nói với chúng tôi sau cuộc biểu tình:

Tàu cá Việt Nam bị chìm ngay sau khi tàu TQ đâm hôm 26/5/2014. Hình chụp từ video.

Tàu cá Việt Nam bị chìm ngay sau khi tàu TQ đâm hôm 26/5/2014. Hình chụp từ video.

Cá nhân tôi cho rằng đây là lúc nhà nước Việt nam phải lựa chọn sự thay đổi về đường lối đối nội lẫn đối ngoại. Đối nội là thay đổi đường lối với chính sách với những tiếng nói phản biện trong nước. Đối ngoại là thay đổi sự quá phụ thuộc vào Trung Quốc. Cái câu vì một quốc gia cường thịnh thì tôi nghĩ là thông điệp ngắn mà ôn hòa.”

Ngoài ra còn có những yêu cầu cụ thể hơn trong chính sách đối ngoại như các nhà bất đồng chính kiến Cù Huy Hà Vũ, Bùi Tín, Nguyễn Thanh Giang cho rằng cần phải nhanh chóng thực hiện một liên minh quân sự với Hoa Kỳ để giữ vững nền độc lập.

Trên bình diện chính thức, Việt nam tuyên bố lúc nào cũng theo đuổi một chính sách “không liên kết.” Ngay trong những ngày cuộc khủng hoảng đang diễn ra hiện nay, giới chức quân sự Việt nam đều lên tiếng phủ nhận việc xích lại với Hoa Kỳ để chống Trung quốc. Bên cạnh đó những động tác ngoại giao của Việt nam lại cho thấy có sự xích lại gần ấy, ví dụ như Việt nam đề nghị Hoa Kỳ lên án mạnh mẽ hơn nữa hành động của Trung quốc trên biển Đông, cũng như phát triển những quan hệ xã giao với hải quân Philippines, một đồng minh thân cận của Hoa Kỳ.

Tôi nghĩ là Đảng cộng sản Việt Nam chưa cho phép dân chủ xảy ra. Điều đó nó nằm ngòai những gì mà chúng ta biết về họ, về lịch sử của họ, và do đó họ sẽ làm mọi cách để không cho điều đó xảy ra

Tiến sĩ Vũ Tường

Song nhiều nhà quan sát chính trị nước ngoài trong đó có Tiến Sĩ Vũ Tường từ Đại học Oregon cho rằng thực ra Bộ ngoại giao trong lịch sử tồn tại của đảng cộng sản Việt nam chỉ thực thi đường lối của những nhân vật phụ trách đối ngoại của đảng mà thôi. Hiện nay, nhân vật đứng đầu Bộ ngoại giao không phải là thành viên của bộ chính trị nhiều quyền lực nhất nước mặc dù ông kiêm nhiệm chức vụ Phó Thủ tướng. Lời mời của phía Hoa Kỳ về một chuyến viếng thăm nước Mỹ ngay sau cuộc khủng hoảng bùng nổ vẫn chưa được thực hiện sau gần hai tuần lễ leo thang xung đột.

Tàu Hải cảnh của Trung Quốc chủ động đâm thẳng vào mạn trái tàu Cảnh sát biển Việt Nam. (Nguồn: Cảnh sát biển)

Tàu Hải cảnh của Trung Quốc chủ động đâm thẳng vào mạn trái tàu Cảnh sát biển Việt Nam. (Nguồn: Cảnh sát biển)

Dàn xếp phe phái hay mở rộng dân chủ?

Cuộc khủng hoảng hiện tạo ra nhiều đồn đoán hơn về những quan hệ phe phái hay những khuynh hướng thân phương tây hoặc thân Trung quốc trong nội bộ đảng cộng sản, theo đó nhóm có khuynh hướng chống Trung quốc sẽ mạnh hơn. Tuy nhiên một nhà quan sát thường xuyên theo dõi chính trị Việt nam từ Pháp là ông Nguyễn Gia Kiểng lại cho rằng vấn đề phe phái không có ý nghĩa gì vì những người cộng sản đều có chung một mục đích là bảo vệ sự độc tôn của đảng cộng sản. Nhận định này giống với phát biểu của Tiến sĩ Vũ Tường về những nhân sự cao cấp trong Bộ chính trị khi được hỏi rằng liệu họ có cho phép những cải cách dân chủ không sau khi có những khuôn mặt mới xuất hiện vào năm ngoái trong bộ phận quyền lực này:

Tôi nghĩ là Đảng cộng sản Việt Nam chưa cho phép dân chủ xảy ra. Điều đó nó nằm ngòai những gì mà chúng ta biết về họ, về lịch sử của họ, và do đó họ sẽ làm mọi cách để không cho điều đó xảy ra.”

Đây cũng là nhận định của ông David Brown một người từng làm việc ở bộ ngoại giao Hoa Kỳ về những người chủ trương bảo thủ trong đảng rằng họ ghét cay ghét đắng việc mở rộng dân chủ vì họ xem đó là bước đệm dẫn tới những cuộc cách mạng thách thức sự độc tôn của đảng cộng sản.

Song người ta cũng không phủ nhận là có những thành phần ôn hòa trong giới cầm quyền hiện nay, và dưới áp lực của của cuộc khủng hoảng, một hội thảo về việc làm cách nào thoát ra khỏi ảnh hưởng chính trị của Trung quốc, đồng minh ý thức hệ của đảng cộng sản Việt nam được công khai tổ chức tại Hà nội, tuy rằng cuộc hội thảo cũng bị những người như nhà bất đồng chính kiến Hà Sĩ Phu phê bình là bị giới hạn vì theo ông muốn thoát khỏi Trung quốc thì phải thoát khỏi chủ nghĩa cộng sản.

Sự thách thức về việc từ bỏ ý thức hệ này đối với đảng cộng sản Việt nam là một thách thức dai dẳng từ khi khối cộng sản Đông Âu bị sụp đổ đến nay. Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, một nhà quan sát khác từ Đại học George Mason Hoa kỳ cho rằng chính sách dựa trên ý thức hệ để có những cư xử mềm dẻo với Trung quốc đã mất sự thuyết phục sau khi cuộc khủng hoảng giàn khoan nổ ra.

Tuy nhiên nếu từ bỏ ý thức hệ cũng có nghĩa là chia sẻ sự cầm quyền và không còn độc tôn được nữa.

Tóm lại hiện đảng cộng sản Việt nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức đến cùng một lúc.

Một mặt phải khắc phục sự yếu kém của nền kinh tế với những yêu cầu tư hữu hóa ngày càng cấp bách như chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có nói ngay trong một cuộc gặp mặt với doanh nghiệp vừa qua. Và đương nhiên là một nền kinh tế mang tính tư nhân hơn cần có một môi trường xã hội dân chủ hơn để phát triển.

Thách thức thứ hai là đối diện với những yêu cầu mở rộng dân chủ của một số tầng lớp trong nước, mà những yêu cầu này luôn đi đôi với chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, quốc gia duy nhất có khả năng cân bằng quyền lực quân sự với Trung quốc tại châu Á.

Thách thức thứ ba là sự chính danh của việc cầm quyền khi không thể đối đầu được với kẻ đồng minh ý thức hệ là Trung quốc.

Thời gian không còn nhiều từ nay cho đến đại hội đảng trong năm tới, và những thách thức trong vụ khủng hoảng giàn khoan cho thấy là phải có những giải pháp ngay lập tức. Đó là những thách thức lớn lao trong tương lai gần của đảng cộng sản, mà theo lời một bạn trẻ tham gia cuộc biểu tình ngày 11/5 là sự tồn tại của đảng cộng sản hay bất cứ đảng chính trị nào đều phụ thuộc vào việc đảng đó có giữ được độc lập chủ quyền của đất nước hay không.

Thoát Trung hay thoát Cộng?

Thoát Trung hay thoát Cộng?

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-06-09

06092014-thoattrung-kh.mp3

000_Hkg8563547-600.jpg

Phó Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân (T) bắt tay với Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường trong một cuộc họp tại Nam Hải, Bắc Kinh vào ngày 10 Tháng 5 năm 2013

AFP photo

Cuộc hội thảo làm thế nào để thoát Trung được một số trí thức trong nước tổ chức tại Hà nội vào đầu tháng sáu năm 2014, mặc dù không được báo chí trong nước đưa tin nhưng cũng gây được sự chú ý nơi công luận. Có nhiều ý kiến cho rằng khuôn khổ của hội thảo đã rất bị hạn chế.

Thoát Á và Thoát Trung

Giữa thế kỷ 19, Hoàng đế Minh Trị của Nhật Bản khởi động phong trào Duy tân canh tân nước Nhật theo mô hình phương Tây. Nền tảng của công cuộc Duy Tân này chính là những suy nghĩ, biện giải, tìm tòi của các trí thức Nhật bản trong buổi giao thời ở Châu Á khi chứng kiến sức mạnh của các cường quốc phương Tây. Những suy nghĩ, biện giải này đã cho ra đời một học thuyết nổi tiếng gọi là Thoát Á luận (Good bye Asia) của Nhật Bản, theo đó, nước Nhật từ bỏ những cản trở có nguồn gốc từ truyền thống Á châu trên con đường tương lai của mình.

Nước Nhật hiện nay là một cường quốc trên thế giới với một xã hội tôn trọng dân chủ và nhân quyền.

Cảm hứng từ nước Nhật cũng không ít thì nhiều gợi nên ý tưởng duy tân cho nhiều người Việt Nam trong quá khứ. Và những toan tính duy tân trong thế kỷ 20 đều thất bại.

Một học thuyết không phải là Thoát Á lại đến Việt Nam từ phương Tây tên gọi là Cộng sản. Và trớ trêu thay nó lại là cơ sở tư trưởng chung cho hai quốc gia có hàng ngàn năm lấn cấn với nhau đó là Việt Nam và Trung Quốc, nước láng giềng khổng lồ phương Bắc. Cả hai quốc gia đều không “thoát Á” như Nhật Bản mà lại du nhập thêm những ý tưởng toàn trị như chuyên chính vô sản, đấu tranh giai cấp,…

Những năm cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 người ta chứng kiến sự xung đột giữa hai quốc gia cộng sản Việt Nam và Trung Quốc ngày càng tăng, mà trong đó ưu thế có vẻ nghiêng về cường quốc Trung Hoa.

Đối diện với sự kềm chế của nước Trung Hoa cộng sản, nhiều người Việt Nam nghĩ cách thoát ra khỏi nó. Từ đó mà những ý nghĩ về Thoát Trung tức là thoát khỏi Trung Quốc đã nhen nhóm trong mấy năm nay, và nó đã chính thức ra mắt vào một ngày đầu tháng sáu 2014 tại Hà Nội trong một cuộc hội thảo tên là Làm thế nào để thoát Trung.

Văn Hóa hay Chính trị?

Trong buổi hội thảo nhiều diễn giả lên tiếng nói rằng thoát Trung ở đây không phải là bài Trung Quốc, mà là chống lại tư tưởng bá quyền của nhà cầm quyền Trung Quốc hiện tại. Một điểm quan trọng nữa mà nhiều người tham dự hội thảo cũng nêu lên là muốn thoát khỏi Trung Quốc thì phải tự chủ tự cường về nhiều mặt.

Một nhà bất đồng chính kiến hiện sống ở Việt Nam là Tiến sĩ Hà Sĩ Phu đồng ý rằng thoát Trung không phải là chống lại văn hóa Trung Hoa mà hàng ngàn năm nay nước Việt Nam chịu ảnh hưởng.

Trong những dân tộc mà giống Việt Nam thì Trung Quốc giống Việt Nam nhất. Thậm chí hai cái nước bên cạnh mình là Lào và Cam Pu Chia cũng không giống mình bằng người Tàu đâu. Tôi nghĩ là văn hóa là tri thức, đó là một nền văn hóa cao của nhân loại, thì mình tiếp thu cũng giống như tiếp thu văn hóa Hy Lạp hay châu Âu vậy.”

” Muốn thoát Trung được thì phải thoát Cộng được. Cái gì là trở lực, nó hạn chế nó ngăn cản cái việc thoát Trung? Thì chính là cái việc mình chung ý thức hệ.
– Tiến sĩ Hà Sĩ Phu “

Về vấn đề văn hóa này thì cũng có nhiều người nói rằng cũng phải thoát ra khỏi sự ảnh hưởng văn hóa của Trung Hoa. Ông Nguyễn Gia Kiểng, một trí thức Việt nam tại Pháp, người sáng lập Tập hợp dân chủ đa nguyên đấu tranh cho một nền dân chủ tương lai của Việt Nam nói:

Cái điều đó theo tôi là cái điều quan trọng nhất là mình phải thoát khỏi cái văn hóa của Trung Quốc. Đó là cái văn hóa Khổng giáo. Cái văn hóa đó nó tha hóa người trí thức, nó không nhìn nhận sự suy nghĩ và hành động độc lập của cá nhân như là một giá trị. Trái lại nó coi cái chữ trung, là trung thành với nhà cầm quyền như một giá trị cơ bản.

Nhưng vấn đề bây giờ không phải như vậy. Hiện nay khi người ta nói đến chữ Thoát Trung là người ta nói đến sự thoát khỏi ảnh hưởng chính trị của Trung Quốc.”

Thoát Trung hay Thoát Cộng?

Sự thoát ra khỏi ảnh hưởng chính trị của Trung Quốc cũng chính là việc chống lại tư tưởng bá quyền của Trung Quốc như những người tham dự hội thảo nêu lên. Và khi đề cập đến vấn đề này Tiến sĩ Hà Sĩ Phu cho rằng hội thảo đã không nêu lên được một điểm quan trọng:

Muốn thoát Trung được thì phải thoát Cộng được. Cái gì là trở lực, nó hạn chế nó ngăn cản cái việc thoát Trung? Thì chính là cái việc mình chung ý thức hệ.”

Cái từ Cộng ở đây được Tiến sĩ Hà Sĩ Phu nêu ra chính là ý thức hệ Cộng sản mà cả hai quốc gia Việt nam và Trung quốc đều lấy làm nền tảng tư tưởng cho mình.

Không giống như ý tưởng Thoát Á của những người Nhật bản cách đây gần hai trăm năm là thoát ra khỏi những thói quen cũ kỹ ràng buộc, cản trở xã hội đi lên của chính người châu Á, nay sự thoát Cộng mà Tiến sĩ Hà Sĩ Phu đề ra lại là thoát khỏi những sự trói buộc của một giáo điều nhập về từ phương Tây, và những giáo điều ấy cũng không được chính phương Tây chấp nhận sau sự sụp đổ của khối cộng sản Liên Xô và Đông Âu bắt đầu cách đây 25 năm.

Với ý kiến cho rằng cuộc hội thảo Thoát Trung mang ý nghĩa chính trị, ông Nguyễn Gia Kiểng cho rằng nó không phù hợp với các tổ chức dân sự như những người đứng ra tổ chức hội thảo. Hơn nữa ông còn trích lời ông Chu Hảo nói rằng cuộc hội thảo lại không bàn đến chính sách. Mà theo ông Kiểng thì chính trị không có chính sách thì không có ý nghĩa. Ông cũng nói thêm là dường như các trí thức trong nước thiên về việc ủng hộ những phe phái mà họ coi là chống lại Trung Quốc.

Những người lãnh đạo cộng sản Việt nam họ có thể chống nhau, xung khắc nhau về quyền lợi, về chỗ đứng cá nhân nhưng mà họ đều đồng ý với nhau về một điểm là phải lệ thuộc vào Trung Quốc, phải gắn bó với Trung Quốc để giữ cái chổ đứng, sự tồn tại của đảng cộng sản Việt Nam.”

Như vậy ở đây ông Nguyễn Gia Kiểng lại có đồng quan điểm với Tiến sĩ Hà Sĩ Phu rằng muốn thoát khỏi Trung quốc trong trạng huống hiện nay là thoát khỏi chủ nghĩa cộng sản.

Cũng trong những ngày đầu tháng sáu năm 2014 này, thế giới chứng kiến chính quyền cộng sản Bắc kinh sử dụng nhiều biện pháp nghiêm ngặt để ngăn cấm việc kỷ niệm 25 năm ngày phong trào đòi dân chủ Thiên An Môn bị đàn áp một cái đẫm máu.

Tiến sĩ Hà Sĩ Phu nói:

“Tôi nói là cả hai dân tộc đều có một kẻ thù chung, cản trở tiến bộ, cản trở dân chủ, thậm chí cản trở cả tình hữu nghị giữa hai dân tộc nữa là chủ nghĩa cộng sản.”

Như vậy thuật ngữ Thóat Trung được đề ra trong cuộc hội thảo cũng đã gây không ít nhiều tranh cãi. Mà tranh cãi lớn nhất có lẽ là theo như mô tả của một người đến tham dự hội thảo rằng trong hội trường số 53 Phố Nguyễn Du, Hà nội, nơi tổ chức hội thảo, dòng chữ Làm thế nào để thoát Trung lại đứng bên dưới khẩu hiệu lớn nhất là Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm, bên cạnh cờ đỏ búa liềm.

Thỏa thuận Thành Đô – bước lùi lịch sử thảm họa

Thỏa thuận Thành Đô – bước lùi lịch sử thảm họa

Vương Trí Dũng

Phát triển quan hệ không thù địch, hơn thế nữa còn phải thân thiện với các nước láng giềng, là một chính sách đúng đắn của mọi nhà nước yêu chuộng hòa bình công lý. Chính sách láng giềng thân thiện lại cần được ưu tiên hơn, khi láng giềng là một cường quốc. Bởi vậy, năm 1990, các nhà lãnh đạo Việt Nam tiến hành chính sách bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc sau hơn một thập kỷ chiến tranh và xung đột biên giới là việc cần làm.

Thế nhưng cái cách mà Việt Nam tiến hành chính sách bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc thì thật không bình thường. Không chỉ như vậy, nội dung bình thường hóa quan hệ mà Việt nam cố gắng để đạt được, cụ thể hóa bằng Thỏa thuận Thành Đô (4/9/1990), là một nội dung bất lợi cho Việt Nam. Không chỉ bất lợi, mà ngày càng thêm thảm họa. Mức độ thảm họa tăng theo cấp số nhân cùng với thời gian mà chính những người tham gia đàm phán Thỏa thuận Thành Đô đã không lường trước được.

Hai mươi tư năm trôi qua kể từ ngày ký Thỏa thuận Thành Đô, hậu quả khôn lường của nó đối với Việt Nam nguy hiểm đến nỗi mà ai trong số họ còn sống, bề ngoài không dám thể hiện, hoặc cố viện dẫn hoàn cảnh để thanh minh bào chữa, nhưng trong sâu xa tâm khảm, đều cảm thấy hối tiếc.

BA SAI LẦM

1. Sự hoảng hốt lịch sử

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã làm cho một số lãnh đạo Việt Nam hoảng hốt. Lo sợ sự sụp đổ thể chế, lãnh đạo Việt Nam lúc bấy giờ đã đột ngột biến kẻ thù truyền kiếp – từng xâm lược Việt Nam năm 1979, liên tục đánh chiếm biên giới Việt Nam suốt trong thập kỷ 1980, và đã bị ghi vào Hiến pháp 1980 là kẻ thù – thành người “anh em” cùng phe xã hội chủ nghĩa. Đó là kết quả của Thỏa thuận Thành Đô ký ngày 4/9/1990 giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đại diện Việt Nam là Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, có sự chứng kiến của Cố vấn Phạm Văn Đồng. Còn đại diện phía Trung Quốc là Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng.

Việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc là việc cần làm. Nhưng quá hốt hoảng trước sự sụp đổ của phe xã hội chủ nghĩa, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã vội vã ký một thỏa thuận bất lợi cho Việt Nam nhằm bảo vệ chế độ, bất lợi đến nỗi mà chính cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhiều lần biểu lộ sự băn khoăn.

2. Ảo tưởng về chế độ

Sai lầm thứ hai là ảo tưởng về chế độ xã hội chủ nghĩa. Đáng lý ra sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và ở các nước Đông Âu phải là vấn đề lý luận nghiêm túc để các nhà lãnh đạo Việt Nam phân tích suy ngẫm. Rõ ràng chủ nghĩa xã hội đồng loạt sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu không phải do kẻ thù bên ngoài, mà do chính các nguyên nhân phát triển nội tại của mô hình chủ nghĩa xã hội. Qua thực tiễn tồn tại, không khó khăn để nhận ra rằng, mô hình chủ nghĩa xã hội chứa đựng những lỗi hệ thống mang tính nguyên tắc, quyết định sự sống còn của mô hình. Muốn sửa đổi các lỗi hệ thống đó thì phải thay đổi mô hình. Điều đó chứng tỏ các nhà lãnh đạo Việt Nam lúc bấy giờ, tuy dày dạn kinh nghiệm kháng chiến chống ngoại xâm – mà thắng lợi giành được là do lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân quyết định – lại chưa để tâm cần thiết đến mặt nghiên cứu lý luận.

3. Nhầm lẫn về Trung Quốc

Nhưng sai lầm đáng buồn hơn cả là nhận thức không nhất quán về Trung Quốc. Trung Quốc công khai tham vọng xâm chiếm Việt Nam. Trung Quốc gây ra cho Việt Nam những tổn thất to lớn trong Hiệp định Genève. Trung Quốc phá hoại cản trở Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Bất chấp bao nhiêu năm “cùng phe xã hội chủ nghĩa”, từng “anh em bè bạn”, nhưng năm 1979 Trung Quốc đã ngang ngược mang 60 vạn quân tấn công Việt Nam. Trong suốt 10 năm tiếp theo Trung Quốc liên tục tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Việt Nam. Vô vàn cay đắng thâm thù từ Trung Quốc, làm sao mà các nhà lãnh đạo Việt Nam lúc bấy giờ, trong thời khắc sụp đổ phe xã hội chủ nghĩa, lại có thể cả tin rằng ý thức hệ xã hội chủ nghĩa là phép màu hoàn lương được dòng máu bá quyền Tần Thủy Hoàng – Mao Trạch Đông, để Việt Nam và Trung Quốc lại là “anh em”, cùng chống kẻ thù ý thức hệ?

BỐN HẬU QUẢ THẢM HỌA

I. Lệ thuộc về chính trị

Thỏa thuận Thành Đô gây ra những hậu quả thảm họa to lớn mà chính những người ký Thỏa thuận đã không ngờ tới. Từ Thỏa thuận Thành Đô, Việt Nam mỗi ngày càng lệ thuộc chính trị hơn vào Trung Quốc. Trung Quốc tiến hành một chính sách bắt Việt Nam dần phụ thuộc chính trị rất thâm hiểm, tập trung trên mấy phương diện sau.

1. Gây ảnh hưởng về nhân sự lãnh đạo

Gây ảnh hưởng lên nhân sự lãnh đạo là nhân tố nguy hiểm số một trong chiến lược bắt Việt Nam lệ thuộc của Trung Quốc. Trung Quốc sẽ tìm mọi cách loại bỏ, vô hiệu hóa hay giảm ảnh hưởng của tất cả những ai không theo hoặc không ủng hộ Trung Quốc. Sự can thiệp vào công việc nhân sự lãnh đạo Việt Nam của Trung Quốc rất trực diện, thô bạo. Việc yêu cầu loại bỏ Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch ra khỏi Bộ Chính trị trong Hội nghị Thành Đô là một ví dụ kinh điển. Đến thời Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã không dám đưa ông Phạm Bình Minh (con trai của cố Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch) vào chức vụ Ngoại trưởng vì Trung Quốc không chấp nhận. Gần đây Lễ tang của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng bị cuộc viếng thăm của Thủ tướng Lý Khắc Cường phủ bóng tối.

2. Gây ảnh hưởng về chính sách song phương và đối ngoại

Có được ảnh hưởng nhân sự, tổng hợp với các thế mạnh về kinh tế quốc phòng địa lý, và các mánh khóe thâm độc gian xảo, Trung Quốc gây áp lực lên các cuộc đàm phán song phương và chi phối lên quan hệ bang giao quốc tế của Việt Nam.

Việt Nam đã phải nhượng bộ cho Trung Quốc trong Hiệp định biên giới đất liền năm 1999, cũng như trong thỏa thuận phân chia đường biên giới trên biển năm 2000. Việt Nam không dám công khai ủng hộ Philippines kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế mặc dù Việt Nam được lợi từ vụ kiện này. Việt Nam không thân mật đến mức liên minh với các nước lớn bởi e dè Trung Quốc. Việt Nam tuyên bố không liên minh với ai để chống nước thứ ba thực chất là để thanh minh với Trung Quốc.

3. Gây ảnh hưởng về kinh tế

Dùng ảnh hưởng về chính trị, dùng sức mạnh kinh tế, Trung Quốc quyết tâm giành thắng lợi trong đấu thầu các dự án kinh tế chủ chốt của Việt Nam và biến Việt Nam thành một thị trường tiêu thụ hàng hóa của Trung Quốc.

Khi đã có được ảnh hưởng kinh tế, tiến đến lũng đoạn nền kinh tế Việt Nam và gây áp lực lại về chính trị, bắt lệ thuộc về chính trị. Vòng xoay đó luân hồi kiềm tỏa Việt Nam, bắt Việt Nam không thể rời quỹ đạo xoay quanh Trung Quốc.

II. Lệ thuộc về kinh tế

Bị lệ thuộc chính trị, nền kinh tế Việt Nam bị phụ thuộc vào Trung Quốc toàn diện. Sự phụ thuộc toàn diện của nền kinh tế Việt Nam vào Trung Quốc thể hiện qua mấy điểm chủ chốt sau đây.

1. Việt Nam trở thành một thị trường tiêu thụ hàng hóa của Trung Quốc

Từ các thiết bị máy móc cho đến hàng tiêu dùng, khắp nơi đâu đâu cũng tràn ngập hàng Trung Quốc. Cay đắng hơn đến các mặt hàng nông sản đời sống thường ngày nhỏ nhặt như quả trứng, trái cam, củ tỏi… mà Việt Nam tự sản xuất được thì nay cũng bị hàng Trung Quốc lấn át.

Để biến Việt Nam thành một thị trường tiêu thụ hàng hóa mạnh hơn nữa, Trung Quốc thúc đẩy mở cửa biên giới để hàng Trung Quốc tràn vào Việt Nam, đồng thời khuyến khích cho phép buôn lậu qua biên giới những mặt hàng có lợi cho Trung Quốc. Đi xa hơn, Trung Quốc thiết lập mạng lưới đại lý phân phối hàng hóa và đưa cả người Trung Quốc sang sinh sống bán hàng tại Việt Nam.

Việt Nam thực sự đã trở thành một thị trường thuộc địa hàng hóa của Trung Quốc. Trong quan hệ buôn bán hai chiều, Việt Nam còn kém vị thế một tỉnh của Trung Quốc. Bởi lẽ một tỉnh của Trung Quốc còn bán được thiết bị máy móc cho tỉnh khác của Trung Quốc, còn Việt Nam thì chỉ thuàn túy mua, mà không bán lại được cho Trung Quốc máy móc thiết bị công nghệ.

2. Trung Quốc thắng thầu hầu hết các dự án xương sống trụ cột của Việt Nam

Trong đấu thầu xây dựng các công trình kinh tế chủ chốt của Việt Nam, Trung Quốc là nước thắng thầu nhiều nhất. Trung Quốc tiến hành một chiến lược giản đơn với chủ trương chào thầu thấp để thắng thầu. Sau đó bằng mọi cách đội giá thầu lên, khiến cho chi phí xây dựng công trình đắt lên rất nhiều, đắt hơn cả giá chào thầu ban đầu của các đối tác khác.

Điều nguy hại hơn là, tuy giá thành rất đắt, nhưng Việt Nam lại bị phải sử dụng các thiết bị công nghệ lạc hậu, năng thuất thấp, chất lượng kém, độc hại cho con người và môi trường. Sản phẩm làm ra kém chất lượng, nhanh hư hỏng.

Tất cả các công trình mà nhà thầu Trung Quốc tham gia xây dựng, không có công trình nào có chất lượng đảm bảo như của các nước hàng đầu G7, và tai họa hơn là hiệu quả kinh tế rất thấp.

3. Trung Quốc khai thác thu mua nhiều tài nguyên khoáng sản của Việt Nam

Với chính sách “Dùng của người, để dành của nhà” Trung Quốc đã tiến hành chính sách thu mua khai thác nguồn tài nguyên khoáng sản của các nước khi giá còn thấp, để dành tài nguyên khoáng sản của Trung Quốc cho tương lai. Trung Quốc đã tập trung vào các nước chậm phát triển ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ La tinh.

Việt Nam là nước láng giềng của Trung Quốc nên càng bị Trung Quốc tận thu hết công suất. Việt Nam không phải là nước có nhiều khoáng sản, nhưng tất cả những khoáng sản tiềm năng chủ chốt của Việt Nam đều bị Trung Quốc thâu tóm. Trung Quốc là khách hàng lớn của Việt Nam về than. Hai dự án lớn về bôxít ở Tây Nguyên cũng nhường thầu xây dựng trọn gói cho Trung Quốc, và sẽ bán nguyên liệu thô cho Trung Quốc. Dự án thép ở Vũng Áng cũng bị Trung Quốc mua lại. Riêng dầu khí ở Biển Đông, không hợp tác khai thác được,Trung Quốc trắng trợn mang giàn khoan dầu vào vùng biển Việt Nam để tự khai thác. Thâm hiểm ngang ngược đến thế là cùng.

4. Trung Quốc đầu tư kinh doanh hầu khắp các huyện tỉnh thành Việt Nam

Công nghệ lạc hậu, ô nhiễm độc hại, chất lượng tồi, giá thành rẻ, Trung Quốc ồ ạt đầu tư khắp các huyện tỉnh thành của Việt Nam. Đi xa hơn Trung Quốc lập các công ty, cửa hàng đại lý thương mại khắp nơi nơi, tạo nên các làng phố người Hoa khắp cả nước Việt Nam. Bằng cách này Trung Quốc đã hình thành một mạng lưới kinh tế riêng của Trung Quốc trên lãnh thổ của Việt Nam, cả hàng hóa lẫn con người.

III. An ninh quốc gia bị đe dọa nghiêm trọng

Chưa bao giờ an ninh của Việt Nam bị Trung Quốc đe dọa như bậy giờ. Có thể lược nêu một số hiểm họa an ninh quốc gia sau đây.

1. Đội quân người Hoa trên lãnh thổ Việt Nam

Trung Quốc đã rất thành công trong việc đưa người lao động đến khắp sơn cùng thủy tận của Việt Nam, lấy vợ đẻ con, lập nên nhan nhản các làng phố người Hoa. Đây là mối hiểm họa bậc nhất cho an ninh guốc gia.

2. Mạng lưới gián điệp dày đặc

Với làng phố người Hoa khắp mọi nơi, với sự thâu tóm các công trình yết hầu kinh tế, mạng lưới gián điệp là ưu thế đặc biệt của Trung Quốc không chỉ trong chiến tranh mà trong mọi đối phó ứng xử với Việt Nam.

3. Nguy cơ bị đánh sập nền kinh tế

Nền kinh tế Việt Nam bị phụ thuộc vào Trung Quốc. Các công trình do Trung Quốc đầu tư cũng như do Trung Quốc thắng thầu xây dựng đều tiềm ẩn những nguy cơ khôn lường. Nền kinh tế Việt Nam có nguy cơ bị tê liệt toàn bộ khi xung đột với Trung Quốc xẩy ra.

4. Các cơ sở quốc phòng của Trung Quốc trên đất Việt Nam

Dưới danh nghĩa đầu tư, kinh doanh và nhà thầu, Trung Quốc có thể bí mật xây dựng những công trình quân sự, cài đặt những thiết bị phá hủy khắp mọi nơi trên đất Việt Nam. Các vật tư thiết bị Trung Quốc bán cho các công ty Mỹ đã từng bị Mỹ phát hiện về những chip gián điệp, thì tất cả những điều đã nêu là hoàn toàn thực tế.

Chẳng hạn, tử huyệt xung yếu như Đèo Ngang với chiều dài Đông Tây khoảng 50Km đã bị Trung Quốc án ngự bằng dự án cảng Vũng Áng trong 70 năm. Trước đây cố Tổng bí thư Lê Duẩn từng nhận định vùngThanh Nghệ Tĩnh là căn cứ địa khi Trung Quốc huy động 2 triệu quân tấn công Việt Nam từ phía Bắc. Nhưng bây giờ với cảng Vũng Áng và rừng phía Lào đã được Trung Quốc thuê lâu dài, thì việc chia cắt Việt Nam tại Đèo Ngang, nếu không đề phòng trước, đối với Trung Quốc có thể là dễ như “trở bàn tay”. Điều tương tự cũng có thể xẩy ra ở Tây Nguyên khi Trung Quốc tham gia khai thác bôxít và rừng Campuchia giáp biên giới Việt Nam đã được Trung Quốc thuê đến 99 năm.

Phải một lần nữa nhấn mạnh rằng, chưa bao giờ an ninh của Việt Nam lại mong manh đến vậy từ mối đe dọa Trung Quốc.

VI. Độc lập và toàn vẹn lãnh thổ bị xâm phạm

Bị lệ thuộc về chính trị và kinh tế thì độc lập Dân tộc bị đe dọa là điều đương nhiên. Không chỉ thế, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đã bị xâm phạm. Thực tế cho thấy Việt Nam đã phải nhân nhượng cho Trung Quốc một phần lãnh thổ trên đất liền trong Hiệp ước biên giới Việt –Trung năm 1999. Trong Hiệp ước phân định ranh giới Vịnh Bắc Bộ năm 2000, Việt Nam cũng phải nhường lại cho Trung Quốc một phần lãnh hải so với Công ước Pháp –Thanh năm 1887.

Việc Trung Quốc đưa dàn khoan HD981 và tàu chiến vào sâu lãnh hải Việt Nam và đang xây sân bay ở đảo Gạc Ma cũng là hệ quả của Thỏa thuận Thành Đô. Dã tâm xâm lược Biển Đông của Trung Quốc là công khai ngang ngược trắng trợn. Phải khởi kiện Trung Quốc ngay ra Tòa án quốc tế, dựa vào sự ủng hộ quốc tế để vạch mặt và làm chùn bước chân xâm lược của Trung Quốc. Nếu không hành động cương quyết, lãnh hải sẽ bị Trung Quốc lấn chiếm thêm nữa.

Thỏa thuận Thành Đô, đúng như cố Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã nhận xét: Một thời kỳ Bắc Thuộc mới rất nguy hiểm.

NĂM BIỆN PHÁP GIẢI THOÁT

I. Từ bỏ Thỏa thuận Thành Đô

Lịch sử nhắc đến Nỏ thần và sơ đồ Loa thành mà Trọng Thủy có được. Lịch sử nhắc đến Hiệp ước cắt ba tỉnh miền Đông Nam kỳ cho Pháp. Lịch sử sẽ nhắc đến Thỏa thuận Thành Đô. Đó là điều chắc chắn.

Bởi vậy, muốn giảm bớt hậu quả tai hại của Thỏa thuận Thành Đô trước lịch sử, thì điều cần làm là từ bỏ Thỏa thuận Thành Đô. Thực ra vấn đề cứu vớt sai lầm cho những người đã ký Thỏa thuận Thành Đô chỉ là vấn đề thứ yếu. Điều quan trọng nhất chính là từ bỏ Thỏa thuận Thành Đô để cởi trói cho Dân tộc khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc. Thoát Trung là cơ hội lịch sử và là vấn đề hệ trọng nhất hiện nay, bởi nó liên quan đến độc lập của Dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc.

II. Xóa bỏ tư duy tương đồng thể chế

Hiện nay một số người Việt Nam, và ngay cả một số tướng lĩnh, vẫn cho rằng Việt Nam và Trung Quốc là cùng thể chế xã hội chủ nghĩa, cùng tương đồng ý thức hệ. Và bởi vậy Trung Quốc sẽ thân tình ưu ái với Việt Nam, Việt Nam với Trung Quốc là cùng một phe. Đây là một điều lầm tưởng vô cùng nguy hiểm.

Bản thân Trung Quốc đã tự xưng là chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc. Cái gọi là chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc hoàn toàn khác biệt với các nước khác. Chủ nghĩa Marx hay bất cứ học thuyết bất kỳ nào khác được lãnh đạo Trung Quốc vận dụng đều bị “Hán hóa” hoàn toàn. Chủ nghĩa Đại Hán là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong chính sách đối ngoại của lãnh đạo Trung Quốc, dù có được trá hình dưới bất cứ vỏ bọc nào.

Việc Việt Nam và Trung Quốc đều do độc đảng lãnh đạo không có nghĩa là Việt Nam và Trung Quốc là anh em, là cùng chung mục đích lý tưởng. Mục đích của Trung Quốc là bá chủ thế giới, bành trướng quyền lực và lãnh thổ, là chiếm được càng nhiều lãnh thổ của Việt Nam càng tốt, và bắt Việt Nam phải hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc. Mục đích này đã được Mao Trạch Đông trắng trợn công khai tuyên bố với cố Tổng bí thư Lê Duẩn, và được giới lãnh đạo Trung Quốc tiến hành không khoan nhượng ngày càng hung tợn hơn trong suốt mấy chục năm qua.

Không có tương đồng thể chế, không có tương đồng ý thức hệ, không phải cùng một phe. Việt Nam là miếng mồi của giới lãnh đạo Trung Quốc.

Lời phát biểu tại Philippines ngày 21/5/2014 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “Không chấp nhận đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông lệ thuộc nào đó” phải biến thành hành động. Một trong những hành động thực tế là xóa bỏ tư duy đồng thể chế cùng phe với Trung Quốc để thoát khỏi sự kiềm tỏa của Trung Quốc.

III. Đặt quyền lợi Dân tộc trên quyền lợi của thể chế

Ngay cả cố Tổng bí thư Lê Duẩn, người hiểu âm mưu xâm lược thâm độc của lãnh đạo Trung Quốc, buộc phải cương quyết chống lãnh đạo Trung Quốc, vẫn đã có lúc nghĩ rằng, khi chủ nghĩa xã hội thành công trên toàn thế giới, thì mối đe dọa từ Trung Quốc sẽ mất đi.

Chủ nghĩa xã hội sẽ không bao giờ thành công trên toàn thế giới. Chủ nghĩa xã hội, mặc dù trên lý thuyết chứa đựng những ý tưởng cao đẹp, nhưng trên thực tiễn tồn tại, là một mô hình què quặt không khoa học. Bởi vậy, vừa mới ra đời chưa lâu, chủ nghĩa xã hội đã bị tiến trình phát triển của xã hội loài người đào thải. Chủ nghĩa xã hội bị đào thải ngay ở nước Nga, nơi đã sinh ra mô hình chủ nghĩa xã hội, sau 74 năm. Chủ nghĩa xã hội bị đào thải ở Đông Âu sau 40 năm.

Đối với một nước, mô hình chủ nghĩa xã hội có tồn tại trong một thời gian nào đó, thì đấy chỉ là vấn đề tồn tại của một thể chế, một mô hình nhà nước. Một thể chế chỉ là một khoảng thời gian ngắn so với lịch sử phát triển của một Dân tộc. Thay đổi thể chế chỉ liên quan đến thay đổi chính sách, đường lối và quyền lợi của một bộ phận thuộc Dân tộc. Không nhóm người này lên cầm quyền thì sẽ có nhóm người khác lên nắm quyền. Nhưng tất cả họ đều thuộc một đất nước. Khi đề cập đến thể chế là nói đến vấn đề nội bộ. Còn khi nói đến độc lập Dân tộc, chủ quyền lãnh thổ là đề cập đến mối quan hệ với các nước khác. Bởi vậy không thể đặt quyền lợi của thể chế trên quyền lợi Dân tộc.

Từ đó suy ra: Bất cứ điều gì có lợi cho thể chế mà không có lợi cho Dân tộc thì dứt khoát không làm. Điều gì có lợi cho Dân tộc nhưng không có lợi cho thể chế thì cũng cứ làm.

Dân tộc trường tồn hơn thể chế. Nhắc đến Dân tộc trên bình diện quốc tế là đề cập đến vấn đề quan hệ Quốc gia. Bởi vậy, bất luận có chủ nghĩa xã hội hay không, mối đe dọa từ Trung Quốc không bao giờ triệt tiêu, chí ít là cho đến khi triệt tiêu phạm trù Dân tộc.

VI. Cách mạng thể chế

Chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói đến phải Đổi mới thể chế trong thông điệp 2014. Đổi mới hoàn toàn thể chế tức là đã Cách mạng thể chế. Một thể chế mới văn minh dân chủ tiến bộ sẽ có nội dung hoàn toàn khác biệt với thể chế Trung Quốc hiện hành, và tự nó là một phép thoát Trung màu nhiệm hiệu quả nhất.

Việt Nam cần Đổi mới thể chế nhanh, vì bản thân nhân dân Trung Quốc cũng muốn Thay đổi thể chế, và dứt khoát nhân dân Trung Quốc sẽ làm được điều đó. Vấn đề chỉ ở thời gian. Việt Nam cần thoát Trung trước khi Trung “thoát Việt”.

V. Hòa nhập thế giới dân chủ văn minh

Xây dựng một nhà nước dân chủ văn minh, hòa nhập với thế giới dân chủ văn minh hiện đại là biện pháp tốt nhất để bảo đảm nền độc lập của Dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc.

Một mình một đường không giống ai, không phải là sáng tạo độc đáo, mà là tự tụt hậu yếu nghèo, tự cô lập chính mình. Mà đã nghèo khó thì sẽ bị ức hiếp phụ thuộc, sẽ mất đi độc lập Dân tộc và không có khả năng bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc.

Khăng khăng duy trì một thể chế lạc lõng để bảo toàn quyền lực, làm đất nước bị tụt hậu yếu nghèo, sẽ có tội trước Dân tộc, có lỗi với cháu con, và sẽ không tránh được sự phán xét khắc nghiệt của hậu thế.

Một nhà nước Việt Nam dân chủ văn minh sẽ cho phép xây dựng được một nước Việt Nam thực sự giàu có hùng cường – nhân tố quyết định sự thắng lợi trong nhiệm vụ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc. Một nhà nước Việt Nam dân chủ văn minh sẽ huy động tổng hợp được sự đồng lòng nhất trí của toàn dân, tạo nên sức mạnh vô địch trước mọi kẻ thù.

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, nhưng hào kiệt đời nào cũng có, lời của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô Đại Cáo còn sang sảng núi sông. Chắc chắn những Hào kiệt mới sẽ xuất hiện để từ bỏ Thỏa thuận Thành Đô, Cách mạnh thể chế, và đưa Đất nước hòa nhập với thế giới văn minh dân chủ hiện đại

KẺ THÙ CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC

KẺ THÙ CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC

(Bài do một trí thức Trung Quốc viết)

Trên thế giới không có nước nào có lịch sử lâu đời như Trung Quốc, không có nước nào có một nền văn hóa không đứt đoạn như Trung Quốc, mà cái văn hóa đó lại đã từng đạt đến một nền văn minh cao độ. Người Hy-Lạp thời nay với người Hy-Lạp ngày xưa chẳng liên quan gì với nhau. Người Ai-Cập cũng vậy. Nhưng người Trung Quốc hôm nay thì đúng là hậu duệ của người Trung Quốc cổ đại. Tại sao một nước khổng lồ như vậy, một dân tộc to lớn như vậy ngày nay lại ra nông nỗi xấu xa ấy? Chẳng những bị người nước ngoài ức hiếp mà còn bị ngay dân mình ức hiếp. Nào là vua bạo ngược, quan bạo nguợc, mà cả dân (quần chúng) cũng bạo ngược.

Thế kỷ thứ XIX, quần đảo Nam Dương – thời nay tức là Đông Nam Á, còn là thuộc địa của Anh và Hà Lan, có một chuyên viên Anh đóng ở Malaysia nói rằng: “Làm người Trung Quốc ở thế kỷ thứ XIX là một tai họa”. Bởi vì ông này đã thấy cộng đồng người Hoa sống ở quần đảo Nam Dương giống một lũ lợn, vô tri vô thức, tự sinh tự diệt, tùy thời còn có thể bị sát hại hàng loạt. Thế mà tôi thấy người Hoa ở thế kỷ XX so với người Hoa ở thế kỷ XIX tai họa của họ còn lớn hơn.

Điều làm chúng ta đau khổ nhất là bao mong đợi của người Hoa từ một trăm năm nay cơ hồ như đã bị tiêu tan toàn bộ. Cứ mỗi lần có một mong chờ trở lại, hứa hẹn nước nhà một tương lai sáng sủa hơn, thì kết quả lại càng làm cho chúng ta thất vọng và tình hình lại càng trở nên tệ hại hơn. Một mong chờ khác lại đến, để rồi lại đem về những ảo vọng, thất vọng, những tồi tệ liên miên vô tận.

Dân tộc cố nhiên là trường tồn, sinh mệnh của cá nhân là hữu hạn. Một đời người có được bao ước vọng lớn? Có được bao lý tưởng lớn, chịu được mấy lần tan vỡ ? Con đường trước mặt sáng sủa thế nào? Hay lại đen tối? Thật khó nói cho hết!

Bốn năm trước, lúc tôi diễn giảng tại New York, đến đoạn “chối tai”, có một người đứng dậy nói: “Ông từ Đài Loan đến, ông phải nói cho chúng tôi nghe về những hy vọng, phải cổ võ nhân tâm. Sao lại đi đả kích chúng tôi?”. Con người đương nhiên cần được khích lệ, vấn đề là khích lệ rồi sau đó làm gì nữa? Tôi từ nhỏ cũng từng được khích lệ rồi. Lúc 5, 6 tuổi, tôi được người lớn nói với tôi: “Tiền đồ của Trung Quốc nằm trong tay thế hệ các cháu đấy!” Tôi cho rằng trách nhiệm của tôi lớn quá, chắc không thể nào đảm đương nổi. Sau đó tôi lại nói với con tôi: “Tiền đồ của Trung Quốc nằm trong tay thế hệ các con đấy!” Bây giờ con tôi lại nói với cháu tôi: “Tiền đồ Trung Quốc nằm trong tay thế hệ các con đấy!”

Một đời, rồi một đời, biết bao nhiêu lần một đời ? Đến đời nào thì mới thật khá lên được ? Tại Trung Quốc đại lục rộng lớn, sau thời Phản hữu (Phong trào chống phe hữu năm 1958), tiếp theo lại là Đại Cách Mạng Văn Hóa long trời lở đất. Từ ngày loài người có lịch sử đến nay chưa bao giờ thấy được một tai họa do con người làm ra to lớn đến như vậy. Chẳng nói đến tổn thất sinh mạng, cái tổn thương lớn lao nhất là sự chà đạp nhân tính, dầy xéo lên phẩm hạnh cao quý. Con người nếu rời bỏ nhân tính và những đức hạnh cao quý thì sánh với cầm thú

Bây giờ người ta nói nhiều về Hương Cảng [Hồng-Kông]. Bất cứ nước nào, nếu có đất đai bị nước ngoài chiếm cứ đều cảm thấy tủi nhục. Chờ cho đến lúc lấy được về chẳng khác nào lòng mẹ bị mất con. Ai cũng nhớ chuyện nước Pháp lúc phải cắt hai tỉnh Alsace và Lorraine giao cho Đức đã đau khổ như thế nào, lúc lấy lại được về đã sung sướng ra sao.

Nhưng Hương Cảng của chúng ta chỉ cần nghe đến việc trả về tổ quốc là lập tức hồn bay phách lạc. Chuyện gì mà lạ thế?

Còn nói về Đài Loan, hiện nay nhiều thanh niên người tỉnh này hoặc người nơi khác ở đây đều chủ trương Đài Loan độc lập. Tôi nhớ lại 30 năm trước đây, lúc Nhật Bản trả lại Đài Loan cho Trung Quốc (1945), mọi người sung sướng như si cuồng chẳng khác nào đứa con lạc mẹ lại tìm được đường về nhà. Cái gì đã xảy ra sau 30 năm đó để cho đứa con kia lại muốn bỏ nhà ra đi?

Ở nước ngoài, có lúc tôi dừng lại trong công viên, nhìn trẻ con ngoại quốc, thấy sao chúng sung sướng thế. Trong lòng tôi lúc ấy tự nhiên cảm thấy thèm thuồng quá. Chúng không phải mang gánh nặng, con đường chúng đi bằng phẳng, rộng rãi quá, tâm lý khỏe mạnh, sung mãn, sảng khoái. Con trẻ Đài Loan chúng ta đến trường học, đeo kính cận, mặt khó đăm đăm vì phải đối phó với áp lực bài vở. Mẹ ngất ngã xuống đất, con đến đỡ mẹ dậy, mẹ kêu rống lên:

“Mẹ có chết cũng chẳng sao, việc gì đến con! Con đi học bài đi! Đi học bài đi!”

Vợ tôi lúc dạy học ở Đài Loan, thỉnh thoảng cứ đề cập đến đạo đức làm người, tức thì sinh viên nhao nhao phản đối: “Chúng tôi không cần học làm người, chỉ cần học để ứng phó với việc thi cử”. Lại nhìn về trẻ con ở Trung Quốc lục địa, từ nhỏ đã phải học đánh đấu nhau, lừa dối bịp bợm nhau, lại luyện tập cách lừa bạn, phản đồng chí, lại phải học cách bốc phét, bịa đặt. Một nền giáo dục đáng sợ thay! Một thế hệ nữa những đứa trẻ này lớn lên sẽ như thế nào?

Người ta thường nói: “Mình nắm tương lai mình trong tay mình”. Lúc đã luống tuổi, tôi thấy câu này không ổn; sự thực, có lẽ chỉ nắm được một nửa trong tay mình, còn một nửa lại ở trong tay của kẻ khác.

Kiếp người trên đời này giống như một cục sỏi trong một máy nhào xi-măng, sau khi bị nhào trộn, thân chẳng tự chủ được. Điều ấy khiến tôi cảm thấy đó không phải là một vấn đề của riêng một cá nhân nào, nhưng là một vấn đề xã hội, văn hóa.

Lúc chết, Chúa Giê-Su (Jesus) bảo: “Hãy tha thứ cho họ, họ đã làm những điều mà họ không hề hiểu”. Lúc trẻ, đọc câu này tôi cho rằng nó chỉ là một câu tầm thường. Lớn lên rồi lại vẫn thấy nó không có gì ghê gớm cả, nhưng đến cái tuổi này rồi tôi mới phát hiện rằng nó rất thâm thúy, thật đau lòng thay! Có khác nào người Trung Quốc sở dĩ trở thành xấu xí như ngày nay bởi chính vì họ không hề biết rằng mình xấu xí.

Chúng ta có đủ tư cách làm chuyện đó và chúng ta có lý do tin rằng Trung Quốc có thể trở thành một nước rất tốt đẹp. Chúng ta không cần cứ phải muốn có một quốc gia hùng mạnh. Quốc gia không hùng mạnh thì có can hệ gì ? Chỉ cần sao cho nhân dân hạnh phúc rồi thì đi tìm quốc gia hùng mạnh cũng chưa muộn.

Tôi nghĩ người Trung Quốc chúng ta có phẩm chất cao quý. Nhưng tại sao cả trăm năm rồi, cái phẩm chất ấy thủy chung vẫn không làm cho người Trung Quốc thoát khỏi khổ nạn?

Nguyên do vì sao?

Tôi muốn mạo muội đề xuất một câu trả lời có tính cách tổng hợp: Đó là vì văn hóa truyền thống Trung Quốc có một loại siêu vi trùng, truyền nhiễm, làm cho con cháu chúng ta từ đời này sang đời nọ không khỏi được bệnh.

Có người sẽ bảo: “Tự mình không xứng đáng, lại đi trách tổ tiên!”. Xét cho kỹ câu nói này có một sơ hở lớn. Trong vở kịch nổi tiếng “Quần ma” (Những con ma) của Ibsen (íp-sen) có kể chuyện hai vợ chồng mắc bệnh giang mai sinh ra một đứa con cũng bị bệnh di truyền. Mỗi lần phát bệnh nó lại phải uống thuốc. Có lần tức quá nó kêu lên: “Con không uống thuốc này đâu! Con thà chết đi thôi! Bố mẹ đã cho con cái thân thể như thế này à!?” Trường hợp này thì nên trách đứa bé hay trách bố mẹ nó? Chúng ta không phải trách bố mẹ, cũng không phải trách tổ tiên chúng ta, nhưng nhất quyết phải trách cái thứ văn hóa họ đã truyền lại cho chúng ta.

Một nước rộng ngần đó, một dân tộc lớn ngần đó, chiếm đến một phần tư dân số toàn cầu, lại là một vùng cát chảy của sự đói nghèo, ngu muội, đấu tố, tắm máu mà không tự thoát được. Tôi nhìn cách cư xử giữa con người với nhau ở những nước khác mà lại càng thèm. Cái văn hóa truyền thống kiểu nào để sinh ra hiện tượng này? Nó đã khiến cho người Trung Quốc chúng ta mang sẵn trong mình nhiều đặc tính rất đáng sợ!

Một trong những đặc tính rõ nhất là dơ bẩn, hỗn loạn, ồn ào. Đài Loan đã từng có một dạo phải chống bẩn và chống hỗn loạn, nhưng chỉ được mấy ngày. Cái bếp của chúng ta vừa bẩn vừa lộn xộn. Nhà cửa chúng ta cũng vậy. Có nhiều nơi hễ người Trung Quốc đến ở là những người khác phải dọn đi. Tôi có một cô bạn trẻ tốt nghiệp đại học chính trị. Cô này lấy một người Pháp rồi sang Pa-ri sinh sống. Rất nhiều bạn bè đi du lịch Âu châu đều ghé nhà cô trú chân. Cô ta bảo với tôi: “Trong tòa nhà tôi ở, người Pháp đều dọn đi cả, bây giờ toàn người Á đông nhảy vào!” (Người Á đông có khi chỉ người châu Á nói chung, có khi lại chỉ người Trung Quốc). Tôi nghe nói vậy rất buồn, nhưng khi đi xem xét tận mắt mới thấy là chỗ nào cũng đầy giấy kem, vỏ hộp, giầy dép bừa bãi, trẻ con chạy lung tung, vẽ bậy lên tường, không khí trong khu bốc lên một mùi ẩm mốc. Tôi hỏi: “Các người không thể tổ chức quét dọn được hay sao?” Cô ta đáp: “Làm sao nổi!”

Không những người nước ngoài thấy chúng ta là bẩn, loạn, mà qua những điều họ nhắc nhở chúng ta cũng tự thấy mình là bẩn, loạn.

Còn như nói đến ồn ào, cái mồm người Trung Quốc thì to không ai bì kịp, và trong lĩnh vực này người Quảng Đông phải chiếm giải quán quân. Ở bên Mỹ có một câu chuyện tiếu lâm như sau: Có hai người Quảng Đông lặng lẽ nói chuyện với nhau, người Mỹ lại tưởng họ đánh nhau, bèn gọi điện báo cảnh sát. Khi cảnh sát tới, hỏi họ đang làm gì, họ bảo: ” Chúng tôi đang thì thầm với nhau”.

Tại sao tiếng nói người Trung Quốc lại to? Bởi tâm không yên ổn. Cứ tưởng lên cao giọng, to tiếng là lý lẽ mình mạnh. Cho nên lúc nào cũng chỉ cốt nói to, lên giọng, mong lý lẽ đến với mình. Nếu không, tại sao họ cứ phải gân cổ lên như thế?

Tôi nghĩ những điểm này cũng đủ để làm cho hình ảnh của người Trung Quốc bị tàn phá và làm cho nội tâm mình không yên ổn. Vì ồn ào, dơ bẩn, hỗn loạn dĩ nhiên có thể ảnh hưởng tới nội tâm, cũng như sáng sủa, sạch sẽ với lộn xộn, dơ bẩn là hai thế giới hoàn toàn khác xa nhau.

Còn về việc xâu xé nhau thì mọi người đều cho đó là một đặc tính nổi bật của người Trung Quốc. Một người Nhật đơn độc trông chẳng khác nào một con lợn, nhưng ba người Nhật hợp lại lại thành một con rồng. Tinh thần đoàn kết của người Nhật làm cho họ trở thành vô địch.

Bởi vậy trong lĩnh vực quân sự cũng như thương mại người Trung Quốc không thể nào qua mặt được người Nhật. Ngay tại Đài Loan, ba người Nhật cùng buôn bán thì lần này phiên anh, lần sau đến lượt tôi. Người Trung Quốc mà buôn bán thì tính cách xấu xa tức thì lộ ra bên ngoài theo kiểu: Nếu anh bán 50 tôi sẽ bán 40. Anh bán 30 tôi chỉ bán 20.

Cho nên, có thể nói, mỗi người Trung Quốc đều là một con rồng, nói năng vanh vách, cứ như là ở bên trên thì chỉ cần thổi một cái là tắt được mặt trời, ở dưới thì tài trị quốc bình thiên hạ có dư.

Người Trung Quốc ở một vị trí đơn độc như trong phòng nghiên cứu, trong trường thi – nơi không cần quan hệ với người khác – thì lại có thể phát triển tốt.

Nhưng nếu ba người Trung Quốc họp lại với nhau, ba con rồng này lại biến thành một con heo, một con giòi, hoặc thậm chí không bằng cả một con giòi nữa. Bởi vì người Trung Quốc có biệt tài đấu đá lẫn nhau.

Chỗ nào có người Trung Quốc là có đấu đá, người Trung Quốc vĩnh viễn không đoàn kết được, tựa hồ trên thân thể họ có những tế bào thiếu đoàn kết. Vì vậy khi người nước ngoài phê phán người Trung Quốc không biết đoàn kết thì tôi chỉ xin thưa: “Anh có biết người Trung Quốc vì sao không đoàn kết không? Vì Thượng đế muốn thế. Bởi vì nếu một tỷ người Hoa đoàn kết lại, vạn người một lòng, anh có chịu nổi không? Chính ra Thượng Đế thương các anh nên mới dạy cho người Hoa mất đoàn kết!” Tôi tuy nói thế nhưng rất đau lòng.

Người Trung Quốc không chỉ không đoàn kết, mà mỗi người lại còn có đầy đủ lý do để có thể viết một quyển sách nói tại sao họ lại không đoàn kết. Cái điều này thấy rõ nhất tại nước Mỹ với những hình mẫu ngay trước mắt. Bất cứ một xã hội người Hoa nào ít nhất cũng phải có 365 phe phái tìm cách tiêu diệt lẫn nhau.

Ở Trung Quốc có câu: “Một hòa thượng gánh nước uống, hai hòa thượng khiêng nước uống, ba hòa thượng không có nước uống”. Người đông thì dùng để làm gì? Người Trung Quốc trong thâm tâm căn bản chưa biết được tầm quan trọng của sự hợp tác. Nhưng nếu anh bảo họ chưa biết, họ lại có thể viết ngay cho anh xem một quyển sách nói tại sao cần phải đoàn kết.

Lần trước (năm 1981) tôi sang Mỹ ở tại nhà một người bạn làm giáo sư đại học – anh này nói chuyện thì đâu ra đấy; thiên văn, địa lý; nào là làm sao để cứu nước… –

Ngày hôm sau tôi bảo:

“Tôi phải đi đến đằng anh A một tý!”. Vừa nghe đến tên anh A kia, anh bạn tôi trừng mắt giận dữ. Tôi lại bảo: “Anh đưa tôi đi một lát nhé!”. Anh ta bảo: “Tôi không đưa, anh tự đi cũng được rồi!”.

Họ cùng dạy học tại Mỹ, lại cùng quê với nhau mà tại sao không thể cùng đội trời chung? Có thể nào nói như vậy là hợp lý được? Bởi vậy việc người Hoa cắn xé nhau là một đặc trưng nghiêm trọng.

Những người sống tại Mỹ đều thấy rõ điều này: đối xử với người Trung Quốc tệ hại nhất không phải là người nước ngoài, mà chính lại là người Trung Quốc với nhau.

Bán rẻ người Trung Quốc, hăm dọa người Trung Quốc lại cũng không phải là người Mỹ mà là người Hoa.

Tại Ma-lai-xi-a có một chuyện thế này. Một ông bạn tôi làm nghề khai thác mỏ khoáng sản. Anh ta bỗng nhiên bị tố cáo một chuyện rất nghiêm trọng. Sau khi tìm hiểu mới biết rằng người tố cáo mình lại là một bạn thân của anh ta, một người cùng quê, cùng đến Ma-lai-xi-a tha phương cầu thực với nhau. Người bạn tôi chất vấn anh kia: “Tại sao anh lại đi làm cái việc đê tiện đó?”. Người kia bảo: “Cùng đi xây dựng cơ đồ, bây giờ anh giàu có, tôi vẫn hai tay trắng. Tôi không tố cáo anh thì tố ai bây giờ?”

Cho nên kẻ thù của người Trung Quốc lại là người Trung Quốc.

Không hiểu vì sao người ta lại so sánh người Trung Quốc với người Do Thái được? Tôi thường nghe nói “người Trung Quốc và người Do Thái giống nhau ở chỗ cần cù”. Điều này phải chia làm hai phần:

Phần thứ nhất: cái đức tính cần cù từ mấy nghìn năm nay cũng chẳng còn tồn tại nữa, nó đã bị thời kỳ “Tứ nhân bang” (bè lũ bốn tên) phá tan tại lục địa rồi.

Phần thứ hai: chúng ta còn gì để có thể đem so sánh với người Do Thái được? Báo chí Trung Quốc thường đăng: “Quốc hội Do Thái (Knesset) tranh luận mãnh liệt, ba đại biểu là ba ý kiến trái ngược nhau”, nhưng cố ý bỏ sót một sự kiện quan trọng là sau khi họ đã quyết định với nhau thì hình thành một phương hướng chung. Tuy bên trong quốc hội tranh cãi tơi bời, bên ngoài đang giao chiến, bốn phía địch bao vây, nhưng I-xra-en vẫn tổ chức bầu cử.

Ai cũng biết cái ý nghĩa của bầu cử là vì có đảng đối lập. Không có đảng đối lập thì bầu cử chỉ là một trò hề rẻ tiền.

Tại Trung Quốc chúng ta, hễ có ba người sẽ cũng có ba ý kiến, nhưng cái khác nhau là: sau khi đã quyết định xong, ba người đó vẫn làm theo ba phương hướng khác nhau. Giống như nói hôm nay có người đề nghị đi New York, người đề nghị đi San Francisco. Biểu quyết, quyết định đi New York, nếu ở I-xra-en cả hai người sẽ cùng đi New York, nhưng ở Trung Quốc thì một người sẽ bảo: “Anh đi New York đi, tôi có tự do của tôi, tôi đi San Francisco!”

Người Trung Quốc không thể đoàn kết, hay cắn xé nhau, những thói xấu đó đã thâm căn cố đế. Không phải vì phẩm chất của họ không đủ tốt. Nhưng vì con siêu vi trùng trong văn hóa Trung Quốc ấy làm cho chúng ta không thể đè nén, khống chế hành vi của chúng ta được. Biết rõ rành rành là xâu xé nhau, nhưng vẫn xâu xé nhau. Nếu nồi vỡ thì chẳng ai có ăn, nhưng nếu trời sụp thì người nào cao hơn người đó phải chống đỡ.

Cái loại triết học xâu xé nhau đó lại đẻ ra nơi chúng ta một hành vi đặc thù khác: “Chết cũng không chịu nhận lỗi”. Có ai nghe thấy người Trung Quốc nhận lỗi bao giờ chưa? Giả sử anh nghe một người Trung Quốc nói: “Việc này tôi đã sai lầm rồi!” Lúc đó anh phải vì chúng tôi mà uống rượu chúc mừng.

Con gái tôi hồi bé có một lần bị tôi đánh, nhưng cuối cùng hóa ra là nó bị oan. Nó khóc rất dữ, còn tâm can tôi thì đau đớn. Tôi biết rằng đứa con thơ dại và vô tội của tôi chỉ biết trông cậy vào bố mẹ, mà bố mẹ bỗng nhiên trở mặt thì nó phải sợ hãi biết nhường nào. Tôi ôm con vào lòng rồi nói với nó: “Bố xin lỗi con. Bố không đúng. Bố làm sai. Bố hứa lần sau bố không làm như vậy nữa. Con gái ngoan của bố, con tha thứ cho bố nhé!” Nó khóc mãi không thôi. Cái sự việc này qua rồi mà lòng tôi vẫn còn đau khổ. Nhưng đồng thời tôi lại cảm thấy vô cùng kiêu hãnh bởi tôi đã dám tự nhận lỗi của mình đối với nó.

Người Trung Quốc không quen nhận lỗi và có thể đưa ra hàng vạn lý do để che dấu cái sai trái của mình. Có một câu tục ngữ: “Đóng cửa suy gẫm lỗi lầm” (Bế môn tư quá). Nghĩ về lỗi của ai ? Dĩ nhiên của đối phương.

Lúc tôi đi dạy học, học sinh hàng tuần phải viết tuần ký để kiểm thảo hành vi trong tuần. Kết quả kiểm thảo thường là: “Hôm nay tôi bị người này người nọ lừa tôi. Cái người lừa tôi ấy đã được tôi đối xử mới tốt làm sao, cũng bởi vì tôi quá trung hậu!”. Lúc đọc đến kiểm thảo của đối phương, lại cũng thấy anh học trò kia nói mình quá trung hậu. Mỗi người trong kiểm thảo của mình đều là người quá trung hậu. Thế còn ai là người không trung hậu?

Người Trung Quốc không thể nhận lỗi, nhưng cái lỗi vẫn còn đó, đâu phải vì không nhận mà nó biến mất. Để che đậy một lỗi của mình người Trung Quốc không nề hà sức lực tạo nên càng nhiều lỗi khác hòng chứng minh rằng cái đầu tiên không phải là lỗi. Cho nên có thể nói người Trung Quốc thích nói khoác, nói suông, nói dối, nói láo, nói những lời độc địa.

Họ liên miên khoa trương về dân Trung Quốc, về tộc Đại Hán, huyên thuyên về truyền thống văn hóa Trung Quốc, nào là có thể khuếch trương thế giới,v.v…Nhưng bởi vì không thể đưa ra chứng cớ thực tế nào nên tất cả chỉ toàn là những điều bốc phét.

Tôi chẳng cần nêu ví dụ về chuyện nói khoác, láo toét làm gì. Nhưng về chuyện nói độc của người Trung Quốc thì không thể không nói được. Ngay như chuyện phòng the, người phương Tây vốn rất khác chúng ta, họ thường trìu mến gọi nhau kiểu “Em yêu, em cưng” [Bá Dương dùng chữ “đường mật” và “ta linh” để dịch chữ Honey, Darling của tiếng Anh -ND] thì người Trung Quốc gọi nhau là “kẻ đáng băm vằm làm trăm khúc” (sát thiên đao đích).

Hễ cứ có dính đến lập trường chính trị hoặc tranh quyền đoạt lợi là những lời nói độc địa sẽ được tuôn ra vô hạn định, khiến cho ai nấy nghe thấy cũng phải tự hỏi: “Tại sao người Trung Quốc lại độc ác và hạ lưu đến thế?”

Lại nói ví dụ về chuyện tuyển cử. Nếu là người phương Tây thì tác phong như sau: “Tôi cảm thấy tôi có khả năng giữ chức vụ đó, xin mọi người hãy bầu cho tôi!”. Còn người Trung Quốc sẽ xử sự như Gia Cát Lượng lúc Lưu Bị tới cầu hiền (tam cố thảo lư). Nghĩa là nếu được mời, anh ta sẽ năm lần bảy lượt từ chối, nào là “Không được đâu! Tôi làm gì có đủ tư cách!” Kỳ thực, nếu anh tưởng thật mà đi mời người khác thì anh ta sẽ hận anh suốt đời.

Chẳng khác nào nếu anh mời tôi diễn giảng, tôi sẽ nói: “Không được đâu, tôi chẳng quen nói chuyện trước công chúng!” Nhưng nếu anh thật sự không mời tôi nữa, sau này nếu nhỡ lại gặp nhau ở Đài Bắc, có thể tôi sẽ phang cho anh một cục gạch vào đầu.

Một dân tộc hành xử theo kiểu này không biết đến bao giờ mới có thể sửa đổi được lầm lỗi của mình; sẽ còn phải dùng mười cái lỗi khác để khỏa lấp cái lỗi đầu tiên, rồi lại dùng thêm trăm cái khác để che đậy mười cái kia thôi.

Trung Quốc diện tích rộng thế, văn hóa lâu đời thế, đường đường là một nước lớn. Thế mà, thay vì có một tấm lòng bao la, người Trung Quốc lại có một tâm địa thật hẹp hòi.

Cái tấm lòng bao la đáng lẽ chúng ta phải có ấy chỉ đọc thấy được trong sách vở, nhìn thấy được trên màn ảnh. Có ai bao giờ thấy một người Trung Quốc có lòng dạ, chí khí sánh ngang được với tầm vóc nước Trung Quốc không? Nếu chỉ cần bị ai lườm một cái là đã có thể rút dao ra rồi, thử hỏi nếu có người không đồng ý với mình thì sự thể sẽ ra sao?

Người Tây phương có thể đánh nhau vỡ đầu rồi vẫn lại bắt tay nhau, nhưng người Trung Quốc đã đánh nhau rồi thì cừu hận một đời, thậm chí có khi báo thù đến ba đời cũng chưa hết.

Mọi người Trung Quốc đều sợ sệt đến độ không còn biết quyền lợi mình là gì thì làm sao còn biết đấu tranh, gìn giữ nó được? Mỗi khi gặp một chuyện gì xảy ra y nhiên lại nói: “Bỏ qua cho rồi!”

Mấy chữ “bỏ qua cho rồi” này đã giết hại không biết bao nhiêu người Trung Quốc và đã biến dân tộc Trung Quốc thành một dân tộc hèn mọn.

Giả sử tôi là một người nước ngoài hoặc một bạo chúa, đối với loại dân tộc như thế, nếu tôi không ngược đãi nó thì trời cũng không dung tôi.

Xem thêm: soha.vn