TRÁI TIM KHÔNG NGỦ YÊN

TRÁI TIM KHÔNG NGỦ YÊN

Có một bài tình ca mang tựa đề “Trái tim không ngủ yên” diễn tả tâm trạng của đôi bạn trẻ nam nữ yêu nhau.  Dù xa nhau, họ vẫn cảm thấy gần gũi.  Dù giận hờn, họ vẫn thấy dễ thương. Trái tim họ không ngủ yên, nhưng luôn thôi thúc người này nhớ tới người kia.  Vì thế mà xa hóa nên gần, lạ hóa thành quen, và khổ đau được biến thành hạnh phúc.

Trong Cựu ước, bằng một lối hành văn “nhân cách hóa”, ngôn sứ Hô-sê đã diễn tả Thiên Chúa có một trái tim như trái tim nhân loại: “Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi” (Hs 11, 8).  Thổn thức, bồi hồi, đó là tâm trạng cảm thương, băn khoăn trước một sự việc xảy đến cho mình hoặc cho người mình yêu mến, nhất là lúc gặp phải thử thách gian nan trong cuộc sống.

Trái tim Thiên Chúa “thổn thức, bồi hồi” vì “không nỡ từ chối Ép-ra-im, không nỡ nộp Ít-ra-en vào tay quân thù.”  Thiên Chúa không lãnh đạm trước nỗi đau khổ bất hạnh của con người.  Vì Ngài là tình yêu, nên trái tim của Ngài “không ngủ yên”.  Ngài luôn yêu thương che chở con người và tạo vật. “Có phải Ta muốn kẻ gian ác phải chết, chớ không muốn nó bỏ đàng tội lỗi và được sống ư?” (Ed 18, 23).  Ngay cả đối với những tội nhân, Ngài cũng không muốn họ phải chết, nhưng mong cho họ được may mắn và hưởng mọi sự tốt lành.  Thiên Chúa yêu thương con người.  Ngài luôn sẵn sàng tha thứ cho họ và Ngài cũng mời gọi họ hãy sống với nhau bằng trái tim.  Chúng ta cùng suy tư về tình yêu thương bao la rộng mở của Ngài đối với mọi loài thụ tạo

1- Trái tim Thiên Chúa là tình yêu thương vô bờ

Thiên Chúa yêu thương con người.  Toàn bộ nội dung Kinh Thánh đều nhằm nói với chúng ta điều ấy.  Thiên Chúa vừa mang gương mặt cương quyết của người Cha, vừa mang tấm lòng bao dung của người mẹ.  Là Cha, Thiên Chúa mạnh mẽ dẫn đưa con người trên con đường ngay thẳng, quở phạt khi họ bất trung, tội lỗi.  Là Mẹ, Thiên Chúa êm đềm che chở con người trước những bão giông, vỗ về động viên khi họ yếu đuối sai lầm.

Tình thương của Thiên Chúa đã được mặc khải nơi Đức Giêsu, Ngôi Lời giáng thế.  Đức Giêsu là Thiên Chúa.  Người mang trong mình một trái tim nhân loại.  Trái tim của Chúa Giêsu đã rung cảm trước nỗi đau của con người, khi đối diện với bệnh tật, đau khổ và sự chết.  Người đã “chạnh lòng thương” và đem lại cho con người niềm vui, ơn chữa lành và tha thứ.  Nhờ việc Thiên Chúa mang trái tim nhân loại mà con người thấp hèn có thể gặp gỡ Đấng tối cao để tâm sự với Ngài.  Đức Giêsu còn giới thiệu cho nhân loại biết rằng Thiên Chúa là Cha.  Ngài cũng có một trái tim, vì Ngài là tình yêu. Nơi tình yêu của Ngài, không ai bị loại trừ hay phân biệt, vì Ngài làm cho mặt trời mọc lên nơi người công chính cũng như kẻ bất lương (x. Mt 5, 45).  Có biết bao phép lạ Đức Giêsu đã làm để minh chứng cho tình yêu diệu kỳ của Thiên Chúa.  Bằng chứng lớn lao nhất cho tình yêu của Thiên Chúa là cuộc tử nạn của Người trên thập giá.  Thập giá là lời tôn vinh quyền năng cao cả và tình thương vô biên của Thiên Chúa.  Thập giá cũng biểu lộ vinh quang ngàn đời của Thiên Chúa, Đấng Sáng tạo và Cứu độ thế gian.

Khi chứng tỏ cho con người thấy tình thương vô biên của Thiên Chúa, Đức Giêsu mời gọi con người hãy thương yêu nhau.  Thương yêu là cốt lõi của giáo huấn Tin Mừng, là bổn phận chính yếu của các tín hữu. “Yêu thương là chu toàn Lề Luật ” (Rm 13,8-10).  Không ai có thể tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu mà lại sống ngược với giới răn tình yêu.  Không ai có thể nhận mình là môn đệ của Chúa mà vẫn sống trong hận thù. “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Tình yêu do Đức Giêsu đề nghị mang một chiều kích bao la, đến mức dành cho cả kẻ thù: “Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44). Đức Giêsu là mẫu mực cho việc thực thi đức yêu thương, để rồi khi chúng ta bắt chước Chúa, là chúng ta nhân rộng những nghĩa cử của Người trên khắp trần gian, cho đến tận cùng thế giới.

2- Trái tim Thiên Chúa nhân hậu và bao dung

Thiên Chúa cũng là Đấng bao dung tha thứ đối với những ai thành tâm trở lại cùng Ngài. Lịch sử cứu độ là một chuỗi những sa ngã phạm tội của dân Ít-ra-en, đồng thời cũng ghi lại lòng nhân từ của Chúa.  Câu chuyện vua Đa-vít là bằng chứng của lòng bao dung nhân từ của Chúa.  Ông đã phạm tội, nhưng cũng đã sám hối.  Lòng sám hối của ông đã làm nguôi cơn giận của Chúa và Ngài đã thứ tha. Hình ảnh người cha nhân hậu được Đức Giêsu diễn tả trong Tin Mừng Thánh Luca chương 15 cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người đến mức nào.  Ngài tôn trọng tự do của con người.  Ngài sẵn sàng đón nhận những ai thành tâm sám hối trở về và cho họ được phục hồi phẩm giá của người con trong mối tương quan với Chúa.  Người cha nhân hậu đó chính là Thiên Chúa.  Ngài có trái tim không ngủ yên, khi thấy con người sống  trong tội lỗi.  Ngài mong chờ họ trở về với chính lộ để được chia sẻ hạnh phúc và vinh quang của Ngài.  Đức Giêsu đến trần gian để tìm kiếm con người lầm lạc, đưa họ về với Chúa.  Người giống như người chăn chiên, tận tâm kiên nhẫn đi tìm con chiên lạc, vác lên vai, đưa về với đàn chiên.

“Hãy tha thứ!” đó là một trong những nét nhấn quan trọng trong lời giảng dạy của Đức Giêsu. Thế giới hôm nay có nguy cơ hủy diệt lẫn nhau vì thiếu lòng bao dung tha thứ.  Theo Chúa Giêsu, sự tha thứ không được đong đếm bằng số lượng, nhưng phải tha thứ hết lòng (x. Mt 18,21-22).  Phải tha thứ luôn luôn, một cách bao dung, quảng đại.  Nền tảng của lời mời gọi tha thứ là vì mỗi người chúng ta đều bất toàn và vì chính Chúa đã tha thứ cho chúng ta: “Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau.  Và trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn thiện” (Cl 3,13-14).  Trên thập giá, Chúa đã cầu nguyện cho những người làm hại mình. Người đã làm gương cho chúng ta về sự tha thứ.  Chính sự tha thứ sẽ đem lại cho chúng ta niềm vui tràn đầy và tâm hồn bình an.

3- Trái tim Thiên Chúa trao ban hạnh phúc cho con người

Tình yêu đích thực là mong muốn cho người khác được hạnh phúc.  Khi dấn thân phục vụ, chúng ta tìm được niềm vui.  Khi cho đi chính bản thân mình, chúng ta cảm nghiệm được hạnh phúc dồi dào. Từ thuở ban đầu của lịch sử, Thiên Chúa tạo dựng con người để chia sẻ cho họ vinh quang của Ngài. Hành động sáng tạo chính là sự chia sẻ kỳ diệu ấy.  Một tác giả đã viết: Giống như nước thủy triều, rút xuống nhường chỗ cho đất khô, Thiên Chúa sáng tạo như thu mình lại để nhường chỗ cho con người và tạo vật được hiện hữu.  Thật thế, công trình sáng tạo cho thấy một Thiên Chúa yêu thương, muốn cho con người được hạnh phúc và chia sẻ vinh quang của Ngài.

Đức Giêsu đến trần gian để phục vụ con người.  Mầu nhiệm nhập thể là sự “tự hủy mình ra hư không” để nên giống con người trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi.  Các môn đệ và những người đương thời đã hết sức ngạc nhiên, khi thấy Đức Giêsu mạc khải một quan niệm mới về Đấng Thiên Sai, không giống như quan niệm của họ: ‘Con Người đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 45).  Phêrô đã can ngăn Chúa, vì ông không thể chấp nhận một quan niệm Thiên sai như vậy.  Điều này khiến ông trả giá qua lời khiển trách của Chúa, như thể đó là ý muốn của Satan.  Khi chiêm ngưỡng thập giá, chúng ta thấy sứ mạng dấn thân phục vụ của Đức Giêsu được thể hiện cách rõ ràng: Đức Giêsu đã tự nguyện nộp mình chịu khổ hình vì chúng ta.  Người chấp nhận chết để cho chúng ta được sống.  Người chịu lăng mạ để cho chúng ta được tôn vinh.

Trên thập giá, Đức Giêsu đã thốt lên: “Ta khát” (Ga 19, 28).  Cơn khát của Đức Giêsu không chỉ là cơn khát thể lý, mà Người khao khát đem cho con người tình yêu của Chúa Cha.  Ngài cũng mong cho con người học bài học nơi thập giá để biết hy sinh cho nhau.  Vì thế, trải dài cho đến tận cùng thời gian, cơn khát của Đức Giêsu vẫn thôi thúc chúng ta phải làm gì để mưu cầu hạnh phúc cho tha nhân. Mẹ Têrêsa Calcutta, người sáng lập Dòng Thừa sai Bác ái đã đặt thành mục tiêu ưu tiên của dòng mình là dấn thân vì phần rỗi các linh hồn, “đáp ứng cơn khát của Chúa Giêsu trên thập giá”.  Người tín hữu được mời gọi chia sẻ cơn khát của Đức Giêsu bằng việc thao thức đem Tin Mừng cho anh chị em đồng loại.  Loan báo Tin Mừng đối với chúng ta không chỉ là một việc làm thêm có tính tình nguyện, nhưng đó còn là một bổn phận gắn liền với đời sống Kitô hữu: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9, 16).

Lạy Chúa Giêsu, xin làm cho trái tim chúng con trở nên giống như trái tim Chúa.  Nên thánh đối với chúng ta chính là mang trong mình một trái tim của Chúa, một trái tim không ngủ yên trước nỗi đau của đồng loại.  Khi có một “trái tim không ngủ yên”, chúng ta sẽ luôn thao thức để trở thành hoàn thiện, đồng thời giúp cho anh chị em mình gặp gỡ Thiên Chúa tình yêu!

GM Giuse Vũ Văn Thiên

ngocnga_12@ & anh chị Thụ Mai gởi

KHO BÁU ẨN DẤU VÀ VIÊN NGỌC QUÍ

KHO BÁU ẨN DẤU VÀ VIÊN NGỌC QUÍ

Sống là một hành trình tìm kiếm và chọn lựa liên lỉ.  Tìm kiếm chân thiện mỹ, chọn lựa tốt xấu, lành dữ.

Trong tác phẩm nổi tiếng “la Pensées”, Pascal (triết gia công giáo pháp) cho rằng có ba thứ bậc của sự cao trọng.  Bậc thứ nhất liên quan đến vật chất hay con người: nó đề cao những ai giàu có, những ai có sức khoẻ hay dung nhan xinh đẹp.  Bậc này có một giá trị không thể xem thường, nhưng nó chỉ ở cấp thứ nhất.

Bậc thứ hai cao trọng hơn là bậc của tài năng siêu việt mà các triết gia, khoa học gia, nghệ sĩ và các nhà thơ nắm giữ.  Đây là một bậc có một phẩm chất khác.  Giàu hay nghèo, đẹp hay xấu, không thêm không bớt điều gì từ những thiên tài.  Trước họ chúng ta phải ngưỡng mộ, nhưng nó chưa phải là bậc cao nhất.

Còn có một thứ bậc cao hơn, đó là thứ bậc của tình yêu, của lòng tốt mà Pascal gọi đó là thứ bậc của thánh thiện và ơn sủng.  Gounod cho rằng: “Một giọt thánh thiện đáng giá hơn một đại dương tài năng.” Đẹp hay xấu, học thức hay dốt nát không thêm hay bớt đi điều gì khỏi một người thánh thiện, một vị thánh.  Sự cao cả của ngài thuộc về một thứ bậc khác, vượt trên cả hai bậc kia.  Điều này rất phù hợp với quan niệm của người Việt Nam: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” (Nguyễn Du, Truyện Kiều).

Có thể nói rằng đức tin Kitô giáo thuộc về bậc thứ ba này, bởi lẽ cốt lõi của Đạo chúng ta là Tình Yêu, và mời gọi đạt tới sự Thánh Thiện.  Hay nói đúng hơn, những ai đã được rửa tội, là Kitô hữu đều được mời gọi sống cho Tình Yêu và sự Thánh Thiện này, ngay trong chính đời sống của mình.

Lời Chúa hôm nay cũng nói tới sự cao cả và lời mời gọi này:  Vua Salômon trong bài đọc I không xin Chúa cho được giàu có, sống lâu, nhưng ông chỉ xin cho tâm hồn khôn ngoan để lãnh đạo dân Chúa và phân biệt lành dữ.  Điều ông xin đẹp lòng Chúa và Chúa ban cho ông được khôn ngoan và có tất cả.

Dụ ngôn “kho báu giấu ở thửa ruộng” và “viên ngọc quí” diễn tả sự cao trọng, sự vô giá của Nước Trời, mà không có cái gì, không có vàng bạc hay tài năng nào sánh được. “Kho báu” và ‘viên ngọc quý” ở đây là chính Đức Giêsu Kitô, Ngài là đối tượng lớn nhất, là niềm vui, là hạnh phúc để chúng ta tìm kiếm và sở hữu.  Không có gì đẹp hơn, bởi được tìm biết Đức Kitô, có Ngài chúng ta có tất cả!  Nói như Thánh Phaolô hôm nay là: trong Người, chúng ta “những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên thánh,” trở nên giống với hình ảnh Chúa Con, trở nên giống Đức Kitô.  Như thế, lời mời gọi nên thánh chính là trở nên giống Đức Kitô, sống theo Đức Kitô.

Khủng hoảng lớn nhất của con người hôm nay là khủng hoảng về các giá trị, các bậc sống bị đảo lộn. Tiền bạc lên ngôi, trở thành tiên, thành phật; sự thánh thiện và tình yêu trở thành một thứ secondhand, “hàng ế”!  Thiên Chúa bị loại ra khỏi đời sống.  Đức Giáo Hoàng Benedetto XVI nói rất chính xác rằng: “Trong lòng nhiều người sống trong xã hội chúng ta, bên cạnh sự thịnh vượng vật chất là sự lan rộng của sa mạc tâm linh, một sự trống rỗng nội tâm, nỗi sợ không tên, và một cảm thức lặng lẽ của tuyệt vọng” (Bài giảng ở Sydney 2008).  Nếu cuộc sống chúng ta vắng bóng Thiên Chúa, nếu Thiên Chúa không được tìm kiếm và quy chiếu như sự thiện tuyệt đối, như là mục đích tối hậu của đời người, thì chúng ta sẽ bị vong thân, cuộc sống đánh mất nền tảng căn bản.

Như hai người trong Tin Mừng tìm kiếm kho báu và viên ngọc quí, tất cả chúng ta đều được mời gọi tìm kiếm Thiên Chúa như là kho báu, là viên ngọc quí, là mục đích tối hậu trong cuộc đời mình.  Trong gia đình, chúng ta đừng đánh giá nhau chỉ dựa trên tiền bạc của cải.  Các bạn trẻ đừng bao giờ nghĩ rằng, tình dục là tất cả để tìm kiếm, để hưởng thụ.  Có một sự bận tâm cao hơn đó là “tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Trời”; có những giá trị còn lớn lao hơn, đó là hãy sống thánh thiện và tìm kiếm Thiên Chúa là chân thiện mỹ của đời ta.  Amen!

Lm Pietro Nguyễn Hương

http://vietcatholic.org

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Bạn sẽ làm gì khi tiểu sử bị xuyên tạc?

Bạn sẽ làm gì khi tiểu sử bị xuyên tạc?

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2014-07-24

maclam07242014.mp3

ScreenPart_2012-06-19_20-305.jpg

Cuốn sách có tên “Hồ Chí Minh sinh bình khảo” tuy được giới thiệu là tài liệu lịch sử nhưng nhiều người đã chỉ ra nó được xuất bản với mục đích duy nhất là bẻ cong tiều sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Courtesy photo

Sau khi cuốn sách chữ Hán viết về cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh có tên: “Hồ Chí Minh sinh bình khảo” của tác giả Hồ Tuấn Hùng được xuất bản và phát hành rộng rãi tại Đài Loan, vẫn không thấy một động tĩnh gì từ phía Việt Nam trước sự bóp méo và xuyên tạc tiểu sử của người được xem là khai sinh đảng cộng sản Việt Nam.

Mục đích bẻ cong tiều sử HCM?

Cuốn sách có tên “Hồ Chí Minh sinh bình khảo” tuy được giới thiệu là tài liệu lịch sử nhưng nhiều người đã chỉ ra nó được xuất bản với mục đích duy nhất là bẻ cong tiều sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ một người Việt Nam biến thành Hồ Tập Chương, một nhân vật điệp viên của tình báo Hoa Nam đội lốt Hồ Chủ tịch xuất hiện từ sau năm 1934 cho tới khi mất năm 1969. Trong suốt quảng thời gian dài đó cả nước không hề biết và ngay cả báo chí cũng như các cơ quan tình báo quốc tế cũng không hay. Câu hỏi đặt ra giá trị khả tín của cuốn sách này ra sao và tại sao chính phủ Việt Nam im lặng trong suốt hơn sáu năm kể từ khi quyển sách được xuất bản vào năm 2008 và được Bắc Kinh cổ vũ trở lại hồi gần đây.

Hồ Tập Chương được miêu tả trong sách là người Hẹ ở Đài Loan, có gương mặt hao hao với Hồ Chí Minh, nói tiếng Việt trôi chảy như người Việt và tất cả những ai tiếp xúc với nhân vật này đều không thể nghĩ rằng y đang đóng giả vai lãnh tụ Hồ Chí Minh, người được cả miền Bắc biết tới như trong gia đình qua vai trò “Cha già dân tộc”.

Cục tình báo Hoa Nam ngay sau khi quyền sách ấn hành đã nhận công vào mình như một chiến tích có một không hai của ngành tình báo thế giới.

Sách của nước ngoài mà Trung Quốc viết về ông Hồ là người Trung Quốc, người Hán là Hồ Tập Chương như thế thì đảng và nhà nước phải biết chứ, vấn đề là phải làm rõ ra.
-Ông Phạm Quế Dương

Tuy nhiên các nhà nghiên cứu nhanh chóng phát hiện ra nhiều lỗ hổng trong cái gọi là nghiên cứu của tác giả cũng như công lao của tình báo Hoa Nam. Thứ nhất, cuốn sách đưa ra dữ kiện sau khi Hồ Chí Minh thật chết vào năm 1932 lúc đó đã 42 tuổi Hồ Tập Chương được thay thế vào khi tuổi mới 32. Tuổi tác chênh nhau 10 năm không thể qua mặt 11 triệu người dân miền bắc cũng như cả Bộ Chính Trị Việt Nam trong đó quá nhiều người sống chung với ông từ những ngày đầu kháng chiến.

Hai nữa theo nhà văn Vũ Thư Hiên, người có cha là ông Vũ Đình Huỳnh từng nhiều năm là thư ký riêng của Hồ Chí Minh cho rằng, về khả năng ngôn ngữ, một người Hẹ sống tại Đài Loan như Hồ Tập Chương không thể nào học và thông thạo tiếng Việt để có thể nhập vai Hồ chủ tịch mà không ai phát hiện được. Nhà văn từng gặp Hồ Chí Minh trong buổi mừng thọ 60 tuổi tại thác Dẫng khi đã 17 tuổi. Vũ thư Hiên cho biết lúc ấy chủ tịch Hồ Chí Minh là một ông già 60 chứ không phải có khuôn mặt 49 tuổi như Hồ Tuấn Hùng diễn tả qua nhân vật Hồ Tập Chương.

Cuốn sách được gọi là nghiên cứu đó hoàn toàn có khả năng là một âm mưu của người viết lẫn những người giấu mặt phía sau, tuy nhiên vấn đề đặt ra không phải truy tìm nguyên nhân mà là thái độ của những người có trách nhiệm đối với uy tín của một lãnh tụ.

Bí ẩn sau nhân thân Chủ tịch HCM?

000_ARP2238192-250.jpg

Chủ tịch TQ Lưu Thiếu Kỳ (phải) tiếp Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Bắc Kinh tháng 8 năm 1959. AFP PHOTO.

Sáu năm là một thời gian quá dài, chưa có một bài viết nào từ báo chí hay của các cơ quan tuyên giáo đặt vấn đề này ra trước công luận. Hai giả thiết được đưa ra trước sự im lặng này: Thứ nhất, đó là âm mưu xuyên tạc tiểu sử lãnh tụ vì vậy không đáng đặt ra việc nên hay không nên làm rõ. Thứ hai, còn quá nhiều bí ẩn phía sau nhân thân Chủ tịch Hồ Chí Minh nếu làm ra chuyện không khéo sẽ lấn sang một sự thật khác khó bào chữa hơn.

Lý do thứ nhất không đứng vững vì đây là vấn đề thể diện quốc gia có liên quan đến uy tín ông Hồ Chí Minh và từ đó dẫn đến các hệ lụy khác nếu tác giả Hồ Tuấn Hùng không bị mang ra đối chất.

Chính quyền Đài Bắc hoàn toàn có quyền bác bỏ việc xem ông Hồ Tuấn Hùng phạm tội xuyên tạc vì ông ta có quyền trưng dẫn những bằng chứng cho cuốn sách, mặc dù các bằng chứng ấy không thuyết phục theo tinh thần khoa học. Tuy nhiên, vì Hà Nội im lặng nên người đọc sẽ nghĩ rằng những tài liệu, chứng cứ, hình ảnh trong cuốn sách là chính xác và khả tín.

Thứ hai, nếu cho rằng không làm ra chuyện vì sợ những bí mật khác bị phanh phui. Đây là một luận cứ khó chấp nhận. Một tên trộm cần phải bị bắt vì hành vi của nó, không vì sợ nó khai đã nhìn thấy khổ chủ cũng là ăn trộm mà không bắt nó. Luật pháp nghiêm hay không qua cách làm này.

Ông Phạm Quế Dương, nguyên Đại tá Tổng biên tập Tạp chí Lịch sử Quân sự là người sớm lên tiếng yêu cầu đảng Cộng sản Việt Nam nhanh chóng đem vụ này ra ánh sáng, ông nói:

Tôi nghĩ là về đảng thì không dám lên tiếng nữa rồi bởi vì dù sao cái đảng này nó đã tồn tại dựa trên những sự dối trá.
-TS Nguyễn Thanh Giang

“Hồ Tuấn Hùng là anh em với Hồ Tập Chương trong đó viết là ông Nguyễn Ái Quốc mất năm 1932 đó là thứ nhất. Thứ hai nữa cũng có cuốn sách của tác giả Huỳnh Tâm, vốn là lính đang đánh nhau ở Việt Nam, cuối cùng thì viết sách viết báo, thu góp tài liệu tình báo Hoa Nam và tài liệu đều có ảnh hết. Chụp cả ảnh mẹ của Hồ Tập Chương. Ảnh của Hồ Tập Chương và em trai. Mình thấy như thế nên hơi thắc mắc bởi vì sách của nước ngoài mà Trung Quốc viết về ông Hồ là người Trung Quốc, người Hán là Hồ Tập Chương như thế thì đảng và nhà nước phải biết chứ, vấn đề là phải làm rõ ra chứ vì nó bịa đặt ra như thế thì phải kiện ra tòa quốc tế chứ?”

TS Nguyễn Thanh Giang, một người bất đồng chính kiến từ nhiều chục năm qua cũng băn khoăn về sự im lặng của Hà Nội, ông cho biết:

“Tôi nghĩ là về đảng thì không dám lên tiếng nữa rồi bởi vì dù sao cái đảng này nó đã tồn tại dựa trên những sự dối trá, bây giờ nó tiếp tục dối trá thì nó mới tồn tại được cho nên không trông mong gì họ dám lên tiếng cả. Trung Quốc thì nó có âm mưu muốn thổi phồng việc đó lên, nó quy kết tất cả vấn đề lịch sử của dân tộc của Việt Nam là của Trung Quốc. Đấy là những vấn đề đau lòng mà tôi không muốn nghĩ tới nữa.”

Đại tá Phạm Quế Dương kể lại mẩu chuyện mà ông từng biết trong thời đại Lê Duẩn về điều mà dư luận gọi là tai nạn được xếp đặt cho chủ tịch Hồ Chí Minh:

“Dư luận từ lâu rồi từ năm 1959 khi Lê Duẩn từ miền Nam ra ngoài miền Bắc này thì đã có nghi vấn ông Hồ là người Trung Quốc do đó muốn gây ra vụ tai nạn máy bay ở Gia Lâm định giết ông Hồ mà không giết được. Hồi đó báo chí cũng đăng ông Hồ suýt bị tai nạn máy bay và đồn Lê Duẩn là người gây ra vụ đó. Báo chí hồi đó khen phi công thông minh có tài năng tránh được cái chết cho ông Hồ khi đó.

Các cụ có nói thời gian là tòa án của lịch sự do đó vấn đề này là vấn đề thời gian. Thời gian sớm muộn gì cũng sẽ làm sáng tỏ.”

Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Giang có cái nhìn về thân thế của ông Hồ Chí Minh với câu hỏi đặt ra về công trạng lẫn sai lầm của người có quá nhiều bí ẩn này, trong đó có nhân vật Tăng Tuyết Minh như trong tác phẩm “Hồ Chí Minh sinh bình khảo” mà Hồ Tuấn Hùng nhắc tới:

Cái mà tôi quan tâm nhất về ông Hồ Chí Minh đúng là tôi cũng thấy rằng ổng cũng có những mối trăn trở đối với dân tộc với đất nước thật. Tôi cũng thấy những điều ông ấy làm đối với cải cách ruộng đất, Nhân văn giai phẩm tất cả những điều đó thì ông ấy phải chịu trách nhiệm, nhất là ông ấy có sự giả dối coi ổng như là ông thánh, vì đất nước vì dân tộc mà không nghĩ đến chuyện vợ con mà thật ra bây giờ có đến 99.9% người ta tin rằng ổng đã từng ngủ với Nông Thị Xuân để có con rồi để cho Nông Thị Xuân bị giết chết. Rồi đám cưới của ông ấy đối với Tăng Tuyết Minh ở Trung Quốc có cả quan chức Trung Quốc dự. Tất cả những cái đó cho thấy tài ba của ổng kiểu nào không biết, dù sao cũng đã đánh lừa dân tộc vào một thứ chủ nghĩa để rồi ông lãnh đạo cách mạng đánh thắng cả Pháp cả Mỹ thì ông có tài. Nhưng về cái đức của ổng thì ai cũng biết con quỷ trong con người của ông ấy.”

Vấn đề Hồ Tập Chương bao lâu chưa được giải mã thì dư luận vẫn còn rất nhiều câu hỏi về tiểu sử thật sự của ông Hồ Chí Minh. Nếu Đảng muốn ông sống mãi với người dân thì nên chấm dứt sự im lặng, bằng không hình ảnh của bác sẽ khó vẹn toàn trong lòng quần chúng đối với người mà họ từng tin tưởng.

 

Ống Ðiện Thoại Sống

Ống Ðiện Thoại Sống

Xã hội càng văn minh, kỹ thuật càng tân tiến, thì người già càng bị ngược đãi trong nhiều nước trên thế giới hiện nay.

Tại Roma chẳng hạn, trước năm 1968 với khoảng 3 triệu dân cư, người ta ước tính có đến trên sáu trăm ngàn người già.  Chỉ có một số nhỏ được săn sóc đàng hoàng, đa phần phải trải qua một trong những thử thách lớn nhất của tuổi già là cô đơn và nhiều sự ngược đãi khác.

Từ đó phát sinh ra Cộng đồng Thánh Egidio, gồm một số thanh niên trung-học ở Rôma.  Người chủ xướng là Andrea Riccardi.  Họ đã dấn thân một cách đặc biệt trong việc bảo vệ quyền lợi của người già.  Về sau thêm các việc giúp đỡ người mắc bệnh AIDS, và những người vô gia cư.  Họ có in một quyển sách nhỏ tựa đề “Where to Eat, Sleep, Wash in Rome”.  Chủ tịch cộng đồng thánh Egidio hiện nay là Marco Impagliazzo.

Điểm đặc biệt là cộng đồng này đã đưa ra một sáng kiến gọi là “Cú điện thoại chống lại bạo động và bênh vực quyền lợi của người già”.  Với sáng kiến này, cộng đồng đã thiết lập một đường dây điện thoại đặc biệt nhằm giúp cho những người già đang sống một mình hoặc bà con thân thuộc của họ có thể liên lạc để xin trợ giúp trong bất cứ nhu cầu nào.

Túc trực điện thoại trên đường dây này là 60 nhân viên, tất cả đều đã từng có kinh nghiệm trong nhiều ngành khác nhau như luật pháp, cán sự xã hội, y tá, nói chung trong mọi lĩnh vực có liên quan đến các vấn đề của người già.

Qua sáng kiến trợ giúp trên đây, nhiều người già cả đã ý thức hơn về quyền lợi của họ cũng như tìm được nhiều an ủi đỡ nâng qua chính những người chỉ túc trực ở điện thoại để lắng nghe.

Một tác giả đã viết về sự cô đơn như sau:

“Cô đơn là cho đi mà không có người nhận, muốn nhận mà chẳng có ai cho.

Cô đơn là chờ đợi, mà cái mình chờ chẳng bao giờ đến.  Như hai bờ sông nhìn nhau mà vẫn nghìn trùng cách xa bởi dòng sông.

Cô đơn là gần nhau mà vẫn cách biệt.  Không phải cách biệt của không gian mà là cách biệt của cõi lòng.

Bởi đó, vợ cô đơn bên chồng, con cái cô đơn bên cha mẹ.  Càng gần nhau mà vẫn cách biệt thì nỗi cô đơn càng cay nghiệt mà vẫn phải gần nhau thì lại càng cô đơn hơn.

Tôi cô đơn khi tôi bị vây bọc bởi những con sông thờ ơ, những mây mù ảm đạm.  Tôi có thể cô đơn vì tôi không đến với những người khác…”.

Những dòng trên đây như muốn nói lên một sự thật :  ai trong chúng ta cũng đều có thể rơi vào cô đơn.  Trong bất cứ tuổi tác nào, trong bất cứ địa vị nào trong xã hội, ai cũng có thể làm mồi cho cô đơn.

Liều thuốc để ra khỏi sự cô đơn, chính là ra khỏi chính mình để làm cho người khác bớt cô đơn.

Xã hội sẽ được ấm tình người hơn nếu mỗi người biết ra khỏi cái vỏ ích kỷ hẹp hòi của mình để đến với người khác, để trở thành một đường dây điện thoại sống cho người khác.

Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

Một Giấc Mơ

Một Giấc Mơ

Mẹ Têrêxa Calcutta, người được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1979 và là người sáng lập viên của dòng Nữ Tử thừa sai Bác Ái chuyên phục vụ người nghèo và hấp hối, đã kể lại ơn gọi phục vụ của Mẹ trong một lá thư viết từ Calcutta như sau:

“Trong những ngày đầu khi mới khởi sự làm việc cho những người cùng khổ nhất trong vùng ngoại ô, tôi bị sốt liệt giường.  Trong cơn mê sảng, tôi bỗng thấy mình được đến trình diện trước mặt thánh Phêrô, người giữ cửa Thiên Ðàng.  Nhưng Thánh Phêrô chận lại không cho tôi vào Thiên Ðàng.

Ngài nói như sau: “Không thể để cho một người thuộc khu ổ chuột được vào Thiên Ðàng.  Thiên Ðàng không có nơi cùng khổ”.

Tôi mới tức giận nói với Ngài như sau: “Thế ư? Vậy thì con sẽ làm mọi cách để làm cho Thiên Ðàng đầy dẫy dân cư của các khu ổ chuột và lúc đó, Ngài bị bắt buộc sẽ để cho con vào Thiên Ðàng”.

Tội nghiệp thánh Phêrô.  Kể từ sau giấc mơ ấy, Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Mẹ đã không để cho ngài được ở yên phút nào.  Không biết bao nhiêu người cùng khổ và cô đơn đã qua đời trong vòng tay ôm ấp của Mẹ và các nữ tu.  Thiên Ðàng đã trở thành nơi cư trú của những người cùng khổ…

Giai thoại trên đây của Mẹ Têrêxa Calcutta như muốn nói lên một chân lý : không ai nên Thánh một mình, không ai lên Thiên Ðàng một mình.

Ðức Cha Fulton Sheen, vị diễn giả nổi tiếng trên các đài truyền thanh và truyền hình tại Hoa Kỳ, đã có lần phát biểu như sau: “Không ai trong chúng ta có thể vào Thiên Ðàng, nếu ở đó không có ai nói với chúng ta : chính tôi đã giúp đỡ để bạn được vào Thiên Ðàng”.

Ai cũng có thể là một trợ giúp để đưa chúng ta vào cửa Thiên Ðàng.

*        Họ có thể là những người cùng khổ mà chúng ta chìa tay để san sẻ, để giúp đỡ.

*        Họ cũng có thể là những người cách này hay cách khác làm cho chúng ta đau khổ.

*        Nhưng ưu tiên hơn cả vẫn là những người chúng ta cố gắng làm cho hạnh phúc.

Chính những người đó là kẻ giúp đỡ chúng ta được vào Thiên Ðàng.  Nhưng Thiên Ðàng không đợi chờ ở đời sau.  Hạnh phúc cũng không chỉ dành lại cho đời sau, Thiên Ðàng và Hạnh Phúc có thể đến với chúng ta ngay từ cõi đời này.

Và Thiên Ðàng và Hạnh Phúc ấy là gì nếu không phải là mỗi lần chúng ta cố gắng làm cho người khác được hạnh phúc.

Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Chuyện cảnh sát giao thông và người dân

Chuyện cảnh sát giao thông và người dân

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
2014-07-21

07212014-traffic-poli-n-peop.mp3

Cảnh sát giao thông, bạn dân. Ảnh minh họa

Cảnh sát giao thông, bạn dân. Ảnh minh họa

Photo soha.vn

Với một quốc gia bất kì và bình thường nào nhất, cảnh sát là lực lượng bảo an của nhân dân và là biểu tượng về an ninh của xã hội, đặc biệt, lực lượng cảnh sát giao thông luôn là tiêu điểm để hướng đến một trật tự chung nhằm duy trì an toàn trong lưu thông.

Nhưng, ở Việt Nam, trong thời Cộng sản xã hội chủ nghĩa, lực lượng cảnh sát nói chung và cảnh sát giao thông nói riêng chưa bao giờ nắm giữ đúng vai trò và chức năng này. Với người dân, lực lượng cảnh sát giao thông luôn là nỗi ám ảnh và khi bóng áo vàng xuất hiện trên đường, sự rối loạn cũng xuất hiện đồng thời.

Người dân luôn lo sợ bởi cảnh sát

Một cư dân quận 7, Sài Gòn, tên Phúc, chia sẻ: Không riêng gì cảnh sát giao thông mà mọi thứ công cụ cảnh sát khác đều khiến dân sợ hãi hết. Dân họ cúi đầu lặng lẽ sống để được yên ổn. Trong cách sống người Việt Nam mình vậy thôi, người ta khinh bỉ và sợ hãi nhưng yên lặng để sống yên ổn. Một khi nó thổi thì không lỗi thì cũng thành có lỗi!

Theo ông Phúc, nếu như những năm trước 1975 ở Sài Gòn, hình ảnh người quân cảnh luôn làm cho người dân yên tâm mỗi khi ra đường. Đặc biệt, nếu gặp cướp, chỉ cần la to hai chữ “quân cảnh” thì nhất định tên cướp có ăn gan trời cũng phải chùng tay trong phút chốc để quan sát. Hoặc nếu lúc đó có quân cảnh ở gần đó thì bằng mọi giá, lực lượng quân cảnh cũng truy lùng cho được tên cướp để đưa về bốt. Còn Sài Gòn những năm sau 1975 thì hoàn toàn khác, mọi sự rối loạn nhen nhóm hình thành và cuối cùng là bùng phát dữ dội.

Hiện tại, nếu ra đường gặp cướp, dù có đang bị cướp ở vị trí rất gần đồn công an thì người dân cũng chỉ bằng mọi giá giữ lấy sinh mạng và tài sản nếu được, chuyện hô to kêu cứu chỉ có giá trị nếu gặp một vài cảnh sát chìm nào đó còn lương tri, họ sẽ truy đuổi, nếu không gặp những cảnh sát chìm như thế, chuyện mất mát là đương nhiên. Mà Sài Gòn hiện tại, lực lượng cảnh sát chìm có mặt trên mọi nẻo đường nhưng họ có mặt không phải để duy trì an ninh cho nhân dân mà là để đề phòng và phát hiện những cuộc biểu tình chống Trung Quốc bành trướng. Chính vì thế, khi có một cuộc biểu tình nhỏ vừa diễn ra thì ngay lập tức có công an bao vây và dập tắt. Số lượng công an chìm nổi nhiều vô kể.

Cảnh sát giao thông trên đường di sản Hà-Nội. RFA

Cảnh sát giao thông trên đường di sản Hà-Nội. RFA

” Không riêng gì cảnh sát giao thông mà mọi thứ công cụ cảnh sát khác đều khiến dân sợ hãi hết. Dân họ cúi đầu lặng lẽ sống để được yên ổn. Trong cách sống người Việt Nam mình vậy thôi, người ta khinh bỉ và sợ hãi nhưng yên lặng để sống yên ổn. Một khi nó thổi thì không lỗi thì cũng thành có lỗi!

Một cư dân quận 7″

Nếu so sánh giữa mức độ kêu cứu khi gặp cướp và mức độ hô hào biểu tình của một nhóm nhỏ, bao giờ mức độ kêu cứu cũng có cường độ âm thanh to và khẩn cấp hơn nhiều. Thế nhưng tiếng kêu cứu bị bỏ ngoài tai công an, cảnh sát nhưng tiếng hô của người biểu tình sẽ được phát hiện ngay tức khắc, thậm chí không hô, chỉ trương khẩu hiệu, biểu ngữ vẫn bị phát hiện như thường. Đó là trường hợp ngành công an nói chung, nếu xét riêng ngành công an giao thông thì mức độ gây sợ của họ đối với người dân còn cao hơn nhiều.

Bất kì con đường nào đang có xe cộ lưu thông một cách bình thường, nhịp nhàng, chỉ cần những áo vàng xuất hiện cộng thêm vài áo xanh của cảnh sát cơ động thì mọi chuyện trở nên phức tạp, người đi đường trở nên bất an, nháo nhào và dáo dác…
Trong một số trường hợp, cảnh sát giao thông chơi trò núp lùm, ngồi trong các bụi cây để bắn tốc độ hoặc ngồi phục kích ở những vị trí khuất tầm mắt, đợi cho các cô nữ chạy xe ngang qua thì nhảy xổ ra thổi còi một phát nghe đinh tai nhức óc và chỉ thẳng gậy vào mặt đối phương, làm cho đối phương bị bất ngờ, khủng hoảng tâm lý trong giây lát và dừng xe, không hiểu chuyện gì. Sau đó là hàng loạt cáo buộc của cảnh sát đối với người đi đường mà nếu người đi đường biết điều nhét cho cảnh sát vài trăm ngàn thì mọi chuyện sẽ êm xuôi, chuyến đi được tiếp diễn.

Và cứ như thế, nạn mãi lộ đối với cảnh sát giao thông trở thành một hoạt động thường nhật ở Việt Nam, nơi nào có cảnh sát giao thông, tất nhiên nơi đó có mãi lộ, việc mãi lộ đã ăn sâu vào tiềm thức và lâu ngày, trở thành một loại văn hóa của dân tộc. Hay nói cách khác, sợ cảnh sát giao thông khi ra đường đã trở thành một loại tâm lý tập thể của người Việt.

” Ai cũng mong được đứng đường. Việc đứng đường của cảnh sát giao thông là một cơ hội ăn nên làm ra, nó cũng giống như một cô gái điếm thì phải ra đường đứng vẫy khách, một công an giao thông phải ra đường, phải chỉ gậy mới có thể kiếm ăn, mới ăn nên làm ra, có của dư của để”

Đầu tư để được đứng đường

Một cựu nhân viên ngành công an giao thông, yêu cầu giấu tên, chia sẻ: Mãi lộ cũng là thứ tham nhũng nhỏ nhỏ thôi chứ gì đâu. Đại khái là thứ tham nhũng nhỏ nhỏ đó nó đã tràn ngập xã hội rồi. Không phải nghĩa là có cảnh sát giao thông lả an toàn mà không có thì không an toàn. Người đi đường mà ý thức thì không có cảnh sát giao thông cũng tốt thôi! Cảnh sát nó núp trong lùm cây nó bắn tốc độ, đâu cần ở xa, ngay ở Sài Gòn, cảnh sát đầy đường đầy sá mà trộm cắp, cướp giật như rươi vậy thôi!

Theo ông này, tuy cảnh sát giao thông phải núp lùm, phải đứng đường và đại đa số là tạo ra hình ảnh xấu trong mắt nhân dân và có thể bị nhân dân phản ứng, đánh đập hoặc đánh đập nhân dân bất kỳ giờ nào nhưng đã là cảnh sát giao thông, ai cũng mong được đứng đường. Việc đứng đường của cảnh sát giao thông là một cơ hội ăn nên làm ra, nó cũng giống như một cô gái điếm thì phải ra đường đứng vẫy khách, một công an giao thông phải ra đường, phải chỉ gậy mới có thể kiếm ăn, mới ăn nên làm ra, có của dư của để.

” Chỉ cần được đứng ở các trạm này, mỗi đêm, thu nhập của mỗi cảnh sát thấp nhất cũng được năm triệu đồng, nếu trúng thì con số lên mười triệu, thậm chí vài chục triệu nếu bắt trúng những xe chở hàng lậu hoặc động vật quí hiếm. Cứ chia ca với nhau, mỗi người đứng từ một đến ba đêm và ba ngày mỗi tuần”

Chính vì vậy mà phần đông các cảnh sát giao thông có đạo đức trong ngành hoặc cô thế, bị trù dập đều phải ngồi văn phòng đến mòn ghế và ăn lương chay ba đồng ba cọc, khó có cơ hội mà phất lên được. Còn những cảnh sát giao thông biết ăn chia, biết liều lĩnh và biết ép phạt đều tìm cách để được đứng đường. Thậm chí có những trạm đứng đường như trạm Hàng Xanh, trạm số 2 Thủ Đức là những trạm mà muốn được đứng đó, các cảnh sát phải tự đấu giá ngầm với nhau, phải chung chi tiền tỉ mỗi năm để được đứng đường.

Chỉ cần được đứng ở các trạm này, mỗi đêm, thu nhập của mỗi cảnh sát thấp nhất cũng được năm triệu đồng, nếu trúng thì con số lên mười triệu, thậm chí vài chục triệu nếu bắt trúng những xe chở hàng lậu hoặc động vật quí hiếm. Cứ chia ca với nhau, mỗi người đứng từ một đến ba đêm và ba ngày mỗi tuần. Có thể nói con số thu nhập của các cảnh sát này là con số khủng. Bởi chỉ cần một chiếc xe tải bình thường đi qua trạm, nếu có chở hàng thì cách gì cũng dừng lại để chung từ hai trăm đến năm trăm ngàn đồng. Mà lưu lượng xe trung bình trên đường phải là con số hàng ngàn chiếc, cứ như vậy nhân lên sẽ thấy ngay thu nhập của các cảnh sát đứng đường.

Đó là chưa nói đến những vụ tai nạn giao thông được dàn xếp “công bằng” bởi cảnh sát giao thông, họ cũng được hưởng đậm trong các vụ tai nạn. Và sở dĩ ngành cảnh sát giao thông có thể ăn tàn bạo mà không nói được gì là vì trên một tuyến xe, tất cả mọi trạm đều có chung chi cho cảnh sát giao thông, vì phải chung chi, người chủ xe buộc phải độn thêm hàng cho quá trọng tải cho phép mới bù được khoản chung chi này, mà một khi đã độn thì cái lỗi đã đeo trước ngực nên không chung không được. Ngược lại, nếu không độn quá tải thì sẽ bị hạch họe đủ thứ, từ cái còi cho đến cái đèn, gương chiếu hậu và giấy phép lái xe, cảnh sát sẽ hạch họe bao giờ lòi ra lỗi mới thôi.

Chính vì thế, với người dân, cảnh sát giao thông nói riêng và công an nói chung là một thứ gì đó đáng kinh sợ và luôn gây rối loạn, bất an trên đường đi cũng như trên đường đời.
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

 

Nếu Đảng vì tổ quốc thì mọi việc đã khác !

Nếu Đảng vì tổ quốc thì mọi việc đã khác !

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-07-22

07222014-vn-comm-at-turn-poin.mp3

Lá cờ đỏ sao vàng

Lá cờ đỏ sao vàng

AFP

Trung Quốc âm mưu thôn tính biển Đông khóa chặt Việt Nam trong vòng lệ thuộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đang đứng giữa ngã ba lịch sử, thân Trung Quốc để giữ đảng và vai trò độc quyền cai trị hay chấp nhận cải tổ chính trị, dân chủ hóa đất nước tìm chỗ dựa bảo vệ chủ quyền.

Liên minh và không liên minh

Sự kiện Nhà nước Việt Nam khẳng định không liên minh với ai để chống nước thứ ba, được các nhà phản biện gọi là sự không tưởng trong tư duy chiến lược, hoặc biểu lộ sự nhu nhược chủ hòa với kẻ xâm lăng bá quyền Trung Quốc.

Ông Lê Phú Khải, nhà báo kỳ cựu từng ở trong guồng máy thông tin tuyên truyền của nhà nước Việt Nam từ Hà Nội nhận định:

“ Một nước bé như nước mình, nước Việt Nam mà không liên minh với một nước thứ ba không có một chỗ dựa thì làm sao mà có thể đương đầu với Trung Quốc mạnh hơn mình. Rõ ràng là không tưởng và điều này chứng tỏ nhà nước Việt Nam cũng chưa thoát Trung được, chưa nhìn thấy rõ kẻ thù thâm độc như thế nào, vẫn còn lấn cấn không thoát Trung ra được, không dứt khoát nên mới đưa ra chiến lược như thế.”

Theo ông Nguyễn Trung, một cựu Đại sứ của chế độ Hà Nội, Việt Nam trong thể chế hiện nay, nếu có nài xin cũng chẳng có nước nào muốn liên minh. Trong bài viết được phổ biến trên các trang mạng xã hội, ông Nguyễn Trung cho rằng: “… Nếu dân tộc ta, nước ta còn chưa đủ bản lĩnh sống vì chính ta, thì ai dám liên minh với ta? Xin hãy tự hỏi mình: Bản thân chúng ta có dám kết thân với kẻ ba, bốn mặt, hư, ăn bám và èo uột không.”

” Một nước bé như nước mình, nước Việt Nam mà không liên minh với một nước thứ ba không có một chỗ dựa thì làm sao mà có thể đương đầu với Trung Quốc mạnh hơn mình. Rõ ràng là không tưởng và điều này chứng tỏ nhà nước Việt Nam cũng chưa thoát Trung được

nhà báo Lê Phú Khải”

Cùng về vấn đề liên quan, TS Phạm Chí Dũng thành viên sáng lập Hội Nhà Báo Độc Lập từ TP.HCM phân tích:

“ Trừ phi người Việt Nam biến thành người Philippines và tự đứng bằng đôi chân của mình và sau đó thì mới nhờ tới người Hoa Kỳ. Khi người Hoa Kỳ thấy người Philippines tự đứng bằng đôi chân của họ, tự dám bắt tàu cá Trung Quốc xâm phạm lãnh hải thì lúc đó Manila mới có được Hiệp định tương trợ quốc phòng đối với Mỹ. Còn Việt Nam bản lĩnh quá kém, cả thế giới coi thường không muốn có bất kỳ mối tương trợ quân sự nào về mặt thực chất, cho dù Việt Nam đã có hàng chục đối tác chiến lược toàn diện mà trong đó đối tác chiến lược toàn diện lớn nhất, có ý nghĩa nhất chính là Trung Quốc và Trung Quốc đang trở mặt với Việt Nam.”

Trong bài viết góp ý với Đại hội Đảng khóa XII sắp tới được phổ biến trên mạng, cựu Đại sứ Nguyễn Trung cảnh báo những kịch bản đen tối nhất có khả năng xảy đến cho Việt Nam. Ông Nguyễn Trung kêu gọi Đảng đấu tranh, cắt đứt cái thòng lọng ý thức hệ và sự nô lệ của quyền lực, cũng như sự cám dỗ của của mọi lợi ích tội lỗi, trả lại quyền làm chủ đất nước cho nhân dân. Từ đó Việt Nam cùng các nước trong khu vực tranh đấu thắng lợi trước bá quyền Trung Quốc, tránh được chiến tranh. Vẫn theo ông Nguyễn Trung, nếu chọn lựa con đường này, chế độ toàn trị cùng với mọi quyền lực và đặc quyền của nó sẽ không còn nữa, Đảng CSVN phải trở thành một đảng khác, hoặc sẽ không tồn tại nữa.

Không còn cách nào khác

Trò chuyện với chúng tôi, nhà báo Lê Phú Khải nhận định:

“ Nếu mà bảo vệ toàn trị thì không thể đi với dân chủ được. Dân chủ là minh bạch là công khai là đa nguyên. Khi mà toàn Đảng hô lên tổ quốc trên hết thì nó khác, còn nếu bây giờ lại chế độ trên hết thì nó khác. Nếu bây giờ bảo hộ chế độ thì Đảng rất là cô đơn không có nhân dân cũng không có đồng minh. Đây là điều Đảng Cộng sản Việt Nam phải lựa chọn không có cách nào khác.”

” Nếu mà bảo vệ toàn trị thì không thể đi với dân chủ được. Dân chủ là minh bạch là công khai là đa nguyên. Khi mà toàn Đảng hô lên tổ quốc trên hết thì nó khác, còn nếu bây giờ lại chế độ trên hết thì nó khác. Nếu bây giờ bảo hộ chế độ thì Đảng rất là cô đơn không có nhân dân cũng không có đồng minh

nhà báo Lê Phú Khải”

Đáp câu hỏi của chúng tôi là, có khả năng nào cho thấy Đảng Cộng sản Việt Nam vào kỳ Đại hội Đảng lần thứ XII sắp tới sẽ chọn lựa tổ quốc thay vì độc quyền cai trị. Nhà báo Lê Phú Khải nhận định:

“ Đây là câu hỏi khó vì nó là chính trị, nó biến động, đa dạng và nó bất ngờ, không ai có thể đoán được. Nhưng tôi nghĩ và theo những gì tôi cảm nhận được thì Đảng Cộng sản không thay đổi đâu, bây giờ số phận của đất nước tùy thuộc vào nhân dân thôi.”

Vận mệnh đất nước đang ở trong tay nhân dân như cách nhìn thế sự của nhà báo lão thành Lê Phú Khải. Nhưng nhân dân đâu có quyền lực cũng chẳng có lãnh tụ để đấu tranh. Tuy vậy ông Lê Phú Khải nói là ông vẫn tin vào xu thế thay đổi của thời đại. Ông nói:

“ Tôi nghĩ là thời đại này là thời đại thông tin, xã hội dân sự nó sẽ hình thành và nó sẽ phát triển, nhưng tất nhiên sẽ chậm. Dân trí như thế này thì nó chậm nó lâu, còn nếu đảng cầm quyền đứng ra cải tổ thì nó mau. Nhất định xu thế của thời đại là xu thế dân chủ rồi. Ngay cả Trung Quốc cũng không mạnh và chế độ toàn trị cũng không mạnh, sớm muộn cũng phải thay đổi không thể như thế này mà tồn tại được.”

Khi cảnh báo với Đại hội Đảng khóa XII sắp tới, cựu Đại sứ Nguyễn Trung cũng đề cập tới khả năng Đảng Cộng sản Việt Nam chọn con đường chủ hòa theo kiểu đầu hàng, không kiện ra quốc tế, chấp nhận đàm phán song phương cho vấn đề Biển Đông, gác tranh chấp cùng khai thác, để tạm thời tránh được chiến tranh bảo vệ quyền lực và tài sản của riêng họ. Ông Nguyễn Trung gọi cách chủ hòa như thế là phương án chấp nhận chết dần từng nấc về thể xác, nhưng chết ngay và chết hẳn về nhân cách một quốc gia, một dân tộc. Nhân dân Việt Nam sẽ phản kháng quyết liệt và dù Đảng có dùng nội chiến để đàn áp nhân dân đi nữa, thì theo vị cựu Đại sứ, trước sau và cuối cùng vẫn sẽ là cái chết nhục nhã của quyền lực.

Về phần nhà báo Lê Phú Khải, ông nói  người dân Việt Nam sẽ không chấp nhận đầu hàng Trung Quốc dưới bất cứ hình thức nào. Cho nên sẽ là thảm họa khi nhân dân không còn chấp nhận chính phủ của mình.

 

HD-981 : Việt Nam không nên sập bẫy ‘song phương’ và ‘không kiện’ Trung Quốc

HD-981 : Việt Nam không nên sập bẫy ‘song phương’ và ‘không kiện’ Trung Quốc

Nghe (20:24)

RFI

Dàn khoan Hải Dương HD-981 (DR)

Dàn khoan Hải Dương HD-981 (DR)

Trọng Nghĩa

Sau hơn hai tháng cho giàn khoan HD-981 vào hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ngoài Biển Đông, khuấy động quan hệ giữa Bắc Kinh và Hà Nội, ngày 15/07/2014 vừa qua, Trung Quốc đã di chuyển giàn khoan về hướng đảo Hải Nam. Quyết định – được Bắc Kinh loan báo một hôm sau đó – đã làm cho tình hình bớt căng thẳng – nhưng cũng làm dấy lên nhiều câu hỏi về dụng tâm thực sự của Trung Quốc.

Giới chuyên gia đều ghi nhận là việc Bắc Kinh « cho rút » giàn khoan diễn ra ít lâu sau khi Thượng viện Mỹ, trong một cử chỉ hiếm thấy, đã bỏ phiếu nhất trí thông qua một Nghị quyết lên án hành vi khiêu khích của Trung Quốc, và yêu cầu Bắc Kinh trả lại hiện trạng cho khu vực, và sau một cuộc điện đàm giữa Tổng thống Mỹ Barack Obama và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.

Quyết định rút sớm hơn thời hạn dự trù ban đầu cũng được đưa ra một tháng trước Hội nghị Ngoại trưởng thường niên của Khối ASEAN và các đối tác tại Miến Điện, đặc biệt là hội nghị thường niên của Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN (ARF), trong bối cảnh có tin là Mỹ sẽ nêu bật các hành động của Trung Quốc.

Còn đối với Việt Nam, việc Trung Quốc hạ nhiệt căng thẳng cũng diễn ra vào lúc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam chuẩn bị hội nghị bàn về Biển Đông và cân nhắc khả năng kiện Trung Quốc ra trước quốc tế.

Trong những ngày qua, đã có rất nhiều chuyên gia phân tích về động thái hạ nhiệt của Trung Quốc ngoài Biển Đông. Hôm nay, RFI xin giới thiệu nhận định của Giáo sư Ngô Vĩnh Long, một nhà nghiên cứu kỳ cựu về Biển Đông tại trường Đại Học Maine, Hoa Kỳ.

Đối với Giáo sư Long, tham vọng khống chế toàn bộ Biển Đông của Trung Quốc không thay đổi, và Việt Nam vẫn là đối tượng cần tấn công để thực hiện ý đồ đó. Theo Giáo sư Long, quyết định rút giàn khoan còn nằm trong một âm mưu lôi kéo Việt Nam vào con đường đàm phán song phương để giải quyết căng thẳng do chính Bắc Kinh tạo ra, đồng thời thúc giục Việt Nam từ bỏ ý định kiện Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế về vấn đề Biển Đông.

Đó là những cái bẫy mà Việt Nam không nên rơi vào nếu muốn bảo vệ lợi ích dân tộc.

Mời quý vị nghe toàn văn bài phỏng vấn Giáo sư Ngô Vĩnh Long.

Giáo sư Ngô Vĩnh Long – Đại học Maine (Hoa Kỳ)

 

21/07/2014
by Trọng Nghĩa

 

Nghe (19:59)

 

 

 

Giàn khoan đến và đi đều nhằm mục tiêu chính trị : Uy hiếp Việt Nam

Ngay từ đầu khi Trung Quốc cắm giàn khoan cách đảo Tri Tôn khoảng 18 dặm, và nói rằng nó hoạt động trong vùng biển “không có tranh chấp” của quần đảo Hoàng Sa “của Trung Quốc”, lý do chính là lý do chính trị : Uy hiếp Việt Nam, đặc biệt là chính quyền Việt Nam, cũng như để dò xét phản ứng của các nước trong khu vực và trên thế giới.

Động thái dịch chuyển giàn khoan hiện nay của Trung Quốc cũng là để thử xem phản ứng của Việt Nam và của các nước khác trên thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ, để Trung Quốc quyết định các bước tiếp theo.

Nếu Trung Quốc thực sự rút giàn khoan về đảo Hải Nam, đó cũng là để chứng minh rằng Trung Quốc đã hoặc đang hạ nhiệt, do đó Việt Nam không nên kiện Trung Quốc nữa mà nên đàm phán tay đôi với Trung Quốc.

Hạ nhiệt để “dụ dỗ” Việt Nam đàm phán tay đôi và không kiện Trung Quốc

Tôi nghĩ rằng đây là việc dẫn dụ, dụ dỗ Việt Nam, và tôi cũng hơi lo là vì ngày 16/07, ông Lê Hải Bình, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết là Việt Nam mong muốn thông qua đàm phán hữu nghị để giải quyết các vấn đề tranh chấp, bất đồng ở Biển Đông với Trung Quốc – lẽ dĩ nhiên là trên cơ sở luật pháp quốc tế – và cũng yêu cầu Trung Quốc không đưa giàn khoan HD-981 quay trở lại.

Nhưng nếu Trung Quốc không đưa HD-981 mà đưa bốn, năm cái giàn khoan nhỏ trở lại thì lúc đó Việt Nam làm gì ? Cho nên tôi nghĩ đây là vấn đề Trung Quốc muốn thử xem Việt Nam phản ứng như thế nào.

Nếu Việt Nam đàm phán song phương với Trung Quốc, việc này sẽ giúp cho Trung Quốc biện hộ rằng tranh chấp ở Biển Đông chỉ liên quan đến hai nước Việt Nam và Trung Quốc mà thôi, và không một nước nào khác được can dự vào.

Trung Quốc đã nhiều lần nói công khai với Mỹ là không được xía vào công việc nội bộ của các nước trong khu vực. Cho nên, nếu Việt Nam cho thế giới biết, hay là thế giới nghĩ lầm Việt Nam muốn thông qua đàm phán song phương để giải quyết vấn đề, thì việc đó sẽ làm hỏng cẳng Mỹ và đồng minh, đặc biệt trong vấn đề họ muốn đưa căng thẳng ở Biển Đông ra Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN (ARF), vào tháng tới ở Miến Điện.

Mưu đồ của Trung Quốc : Làm Mỹ hụt chân

Ngoài việc muốn làm hụt cẳng Mỹ tại Diễn đàn ARF vào tháng tới, Trung Quốc cũng muốn làm cho Việt Nam mất đi sự ủng hộ của các nước khác ở trong khu vực nếu đi đàm phán song phương với Trung Quốc, đặc biệt là chia rẽ quan hệ giữa Việt Nam và Philippines.

Ngoài ra, vừa qua, Thượng viện Mỹ đã bỏ phiếu hoàn toàn nhất trí nói rằng Trung Quốc không nên tiếp tục gây hấn và hy vọng rằng Trung Quốc đưa mọi việc trở về vị trí cũ, tức là trước ngày 02/05. Thì Trung Quốc di chuyển giàn khoan như để nói với Thượng viện Mỹ rằng « tôi đã hạ nhiệt rồi, thì các anh không nên tiếp tục làm áp lực trên tôi »….

Nếu Thượng viện Mỹ thấy rằng không cần phải làm áp lực trên Trung Quốc nữa, có thể là chính quyền Obama cũng không làm áp lực trên Trung Quốc nữa. Mà áp lực của Mỹ là quan trọng nhất, Mỹ mà nới tay thì Trung Quốc thấy rằng họ có cớ lấn tới thêm, không những đối với Việt Nam, mà cả đối với Mỹ.

Bài học cho Việt Nam : Trung Quốc mềm nắm rắn buông

Bài học đầu tiên là Trung Quốc thường “mềm nắn rắn buông”. Trung Quốc hiện tỏ thái độ « buông » trước hết là vì phản ứng của người dân Việt Nam. Tôi nghĩ là Trung Quốc biết phản ứng của các lãnh đạo Việt Nam như thế nào, nhưng họ không ngờ rằng phản ứng của người dân Việt Nam mạnh như thế.

Thành ra lúc này Trung Quốc hạ nhiệt chút xíu để cho giới lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là thành phần thiên về Trung Quốc – đang trong thế yếu – có tiếng nói mạnh hơn.

Ngoài ra, Việt Nam sắp có Hội nghị Trung ương để bàn riêng về tình hình Biển Đông và về việc có nên kiện Trung Quốc ra Tòa án Quốc tế hay không. Trung Quốc hạ nhiệt để chính quyền Việt Nam và Hội nghị Trung ương thôi không bàn đến chuyện kiện Trung Quốc nữa, và như vậy, Trung Quốc có thể tiếp tục ép Việt Nam.

Bài học là Việt Nam mà yên lặng hơn, thì Trung Quốc sẽ đẩy tới hơn. Và nếu chính phủ Mỹ, Quốc hội Mỹ và các nước khác Nhật, Úc cũng thấy là vấn đề đã tạm yên rồi thì họ có thể cứ để cho yên và Trung Quốc trước sau gì cũng sẽ quay trở lại, và lần sau sẽ làm mạnh hơn một chút.

Xu hướng thân Bắc Kinh trong giới lãnh đạo Việt Nam

Việc cắm giàn khoan trong thềm lục địa Việt Nam là một chính sách uy hiếp giới lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam.

Bộ Chính trị chia thành ba nhóm, số đông thân Trung Quốc, số « trung lập » không biết nghiêng về ai, và số ít hơn thì muốn kiện Trung Quốc. Cho nên khi cắm giàn khoan, Trung Quốc muốn thử xem phản ứng của Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam như thế nào…

Phản ứng của Việt Nam cho thấy là Bộ Chính trị chưa có một chính sách đàng hoàng để kiện Trung Quốc.

Đó là trong lúc tình hình đang căng thẳng. Còn bây giờ Trung Quốc hạ nhiệt và làm giảm sự căng thẳng đi, thì có thể là Việt Nam sẽ không quyết định kiện Trung Quốc ra tòa án trọng tài theo phụ lục 7 của UNCLOS, chung với Philippines hay là riêng rẽ.

Nguy cơ mất đi hậu thuẫn của người dân Việt Nam và của quốc tế

Nếu như vậy, Chính quyền Việt Nam không những mất đi sự ủng hộ của dân chúng trong nước, mà cũng sẽ mất sự ủng hộ của các nước trong khu vực và của nhân dân trên thế giới. Việc đó sẽ làm suy yếu các lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, và Nhà nước Việt Nam nói chung.

Và nếu như vậy thì Trung Quốc đã kéo thêm được Việt Nam sâu thêm vào quỹ đạo của Trung Quốc, và nếu mọi người đều nghĩ rằng Việt Nam đã bị  kéo sâu thêm vào trong quỹ đạo của Trung Quốc, thì có thể là họ sẽ từ bỏ Việt Nam và đi đêm với Trung Quốc…

Vấn đề kiện Trung Quốc không phải là vấn đề thắng hay là thua, mà là vấn đề vận động chính trị. Nếu Việt Nam không kiện Trung Quốc, tức là Việt Nam đã chứng minh cho thế giới là Việt Nam chịu thua Trung Quốc, và nếu như vậy thì những nước khác sẽ suy nghĩ lại và có chính sách riêng của họ…

 

BỆNH VÔ CẢM

BỆNH VÔ CẢM

BÀI VĂN 9,5 ÐIỂM VỀ “BỆNH VÔ CẢM”

Những câu văn của em Phan Hoàng Yến , học sinh lớp 9A2 trường trung học Chu Văn An, Hà Nội đã gây ấn tượng mạnh với người đọc không chỉ bởi đề tài em lựa chọn mà còn bởi cách hành văn rất tinh tế và sắc sảo. Bài văn được cô giáo cho 9,5 điểm với nhận xét :”Em có những phát hiện và suy nghĩ sâu sắc về hiện tượng đáng buồn này. Một người có trái tim nhân hậu, đa cảm và tư duy sắc sảo như em thật đáng quý.”

—————————————–

ÐỀ BÀI :

TRÌNH BÀY SUY NGHĨ CỦA EM VỀ MỘT SỰ VIỆC HOẶC HIỆN TƯỢNG Ở ÐỊA PHƯƠNG HOẶC TRƯỜNG, LỚP (ÐẶT NHAN ÐỀ CHO BÀI VIẾT)

BỆNH VÔ CẢM

Có được một xã hội văn minh, hiện đại ngày nay một phần lớn cũng là do những phát minh vĩ đại của con người. Một trong số đó chính là sự sáng chế ra rô-bốt, và càng ngày, rô-bốt càng được cải tiến cao hơn, tỉ mỉ hơn làm sao cho thật giống con người để giúp con người được nhiều hơn trong các công việc khó nhọc, bộn bề của cuộc sống.

Chỉ lạ một điều: Ðó là trong khi các nhà khoa học đang “vò đầu bứt tóc” không biết làm sao có thể tạo ra một con chip “tình cảm” để khiến “những cỗ máy vô tình” biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận thì dường như con người lại đi ngược lại, càng ngày càng vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh. Ðó chính là căn bệnh nan y đang hoành hành rộng lớn không những chỉ dừng lại ở một cá nhân mà đang len lỏi vào mọi tầng lớp xã hội – bệnh vô cảm.

Nhìn thấy cái xấu, cái ác mà không thấy bất bình, không căm tức, không phẫn nộ. Nhìn thấy cái đẹp mà không ngưỡng mộ, không say mê, không thích thú. Thấy cảnh tượng bi thương lại thờ ơ, không động lòng chua xót, không rung động tâm can. Vậy đó còn là con người không hay chỉ là cái xác khô của một cỗ máy?

Trước hết là về cái đẹp, bây giờ ra ngoài đường, hiếm ai có thể bắt gặp một người đàn ông đạp xe ung dung dạo mát, thưởng ngoạn cái không khí trong lành, tươi mát dưới những hàng cây cổ thụ vàm bóng quanh bờ hồ; một người con gái dịu hiền, yêu kiều trong chiếc váy thanh thoát tản bộ trên những con đường hoa sấu, hoa sữa đầy mộng mơ mà hầu hết là những dòng người tấp nập, vội vã, chen lấn xô đẩy trên đường, xe buýt.

Lúc ấy cũng chính là lúc mà con người ta mất một phần tâm hồn đẹp đẽ đã bị chôn vùi dưới lớp cát. Phải chăng cũng vì như thế mà họ càng lúc càng khép chặt cánh cửa trái tim mình lại, không còn biết hưởng thụ cái đẹp mà chỉ nghĩ đến tiền, đến công việc ngày mai?

Vô cảm với cái đẹp mới chỉ là bước đầu.

Một khi người ta đã không biết ngưỡng mộ, không biết say mê, rung động trước những điều đẹp đẽ thì trái tim cũng dần chai sạn rồi đến đóng băng. Khi ấy, không chỉ là cái đẹp mà đứng trước những hành động ác độc, vô lương tâm, con người ta cũng cảm thấy bình thường, không oán trách cũng không cảm thông, động lòng với những nạn nhân bị hại.

Một tháng trước, tôi đọc được một bài báo trên mạng có đưa tin về vụ một đứa bé Trung Quốc hai tuổi bị xe tải cán. Thương xót, đau lòng làm sao khi nhìn cô bé đau đớn nằm trên vũng máu mà không một người nào qua đường để ý, cuống cuồng gọi cấp cứu. Họ nhìn thấy rồi đấy nhưng họ lại cố tình như không thấy, đi vòng qua cô bé để tiếp tục con đường nhạt thếch, sáo mòn của mình.

Càng chua xót, đau lòng, phẫn nộ hơn khi chiếc xe tải tiếp theo nhìn thấy cô bé nằm đó, vẫn thoi thóp thở, bám víu lấy cuộc đời lại vô tình chẹt cả bốn bánh xe nặng trịch đi qua người cô bé, thản nhiên đi tiếp. Người qua đường vẫn thế, vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra. Cô bé xấu số chỉ được cấp cứu khi một người phụ nữ nhặt rác đi qua, thấy cảm thông, đau lòng nên đã bế cô đi bệnh viện.

Có những con người ích kỷ, vô tâm, tàn nhẫn như vậy đấy.

Không những thế, bây giờ ra đường gặp người bị cướp, bị trấn lột, bị đuổi chém nhưng lại không thấy anh hùng nào ra can ngăn, cứu giúp hay chỉ một việc nhỏ nhoi thôi là báo công an. Ðó là những con người “không dại gì” và cũng chính “nhờ” những người “không dại gì” đó mà xã hội ngày càng ác độc, hỗn loạn. Chính lẽ đó mà căn bệnh vô cảm càng được thể truyền nhiễm, lây lan. Vô cảm còn là con đường trực tiếp dẫn đến những cái xấu, cái ác.

Nó là một căn bệnh lâm sàng (sơ khởi) mà trong đó, não của người bệnh vẫn hoạt động nhưng trái tim lại hoàn toàn băng giá. Người ta đã vô cảm thì làm sao có thể thấu hiểu được nỗi đau, tình cảm của người khác. người ta chỉ nghĩ đến mình và lợi ích của riêng mình mà thôi. Nếu không vô cảm, tại sao các cô giáo ở trường mầm non lại nhẫn tâm giật tóc, đánh đập, bịt miệng các cháu bé còn ngây thơ, nhỏ tuổi?

Tại sao một người còn chưa qua tuổi trưởng thành lại vô tư chém giết cả nhà người ta để lấy của cải? Xa hơn nữa là các công chức bình thản ăn tiền ủng hộ, trợ giúp những số phận đau thương, bất hạnh của người dân để kiếm lợi cho riêng mình. Và còn nhiều, còn nhiều hành động xấu xa hơn nữa. Tất cả những điều vô lương tâm ấy đều xuất phát từ căn bệnh vô cảm mà ra.

Chúng ta biết bệnh vô cảm vô cùng nguy hiểm nhưng lại đặt ra câu hỏi: Rốt cuộc thì nguyên nhân tại sao? Suy cho cùng, tình cảm là điều chi phối tất cả. Những người vô cảm là những người bị thiếu hụt tình yêu thương. Chính vì không cảm nhận được tình yêu thương mà người ta ngày càng lạnh giá. Một phần nữa cũng là do xã hội hiện đại quá bận rộn và đòi hỏi con người phải làm việc, làm việc và làm việc mà bỏ quên thời gian để trao nhau hơi ấm của tình thương, để ươm mầm cảm xúc.

Tình cảm như những hạt mưa, hạt mưa càng to, càng nặng thì càng dập tắt được những ngọn lửa của lòng thù hận, ghen ghét, bi ai và nó cũng như một ngọn lửa thổi bùng cháy mãnh liệt trong tâm hồn để nuôi dưỡng tiếp nguồn sống cho chúng ta. Vì vậy, điều duy nhất chúng ta có thể làm để cho căn bệnh vô cảm “không còn đất sống” là hãy biết mở cửa trái tim để biết cảm nhận, biết yêu ghét, thương giận và chia sẻ những điều tinh túy đó cho những người xung quanh mình.

“Con người ta không phải là cái đồng hồ và trái tim ta cũng không phải là cái lò xo”- một giáo sư người Anh đã nói như thế.

Tóm lại, ta nhận thấy rằng căn bệnh vô cảm đang lan tràn ngày càng rộng lớn và trở nên vô cùng nguy hiểm, biến con người thành một cỗ máy vô tri chỉ biết vận động. Ðừng để điều đó xảy ra mà hãy đấu tranh để giành lại phần “người”, giành lại “trái tim” mà Thượng Ðế, mà tạo hóa đã ban cho chúng ta, đào thải căn bệnh vô tình quái ác ra khỏi xã hội.

Giàu có trong nỗi bồn chồn: Tiền bạc và đạo lý của giới đại gia mới nổi tại Trung Quốc

Giàu có trong nỗi bồn chồn: Tiền bạc và đạo lý của giới đại gia mới nổi tại Trung Quốc

Andrew J. Nathan, Foreign Affairs, số tháng Năm/ tháng Sáu, 2014

Trần Ngọc Cư dịch

Một bài điểm sách cực ngắn xuất hiện trên Foreign Affairs, cho chúng ta vài nét chấm phá về của cải và đạo lý tiêu biểu cho giới đại gia mới nổi tại Trung Quốc. Và ở Việt Nam chắc cũng chẳng khác gì.

Người dịch

clip_image002

Tham nhũng tại Trung Quốc cần lắm công phu. Osburg, một nhà nhân học Mỹ, đã dành nhiều thì giờ để tiếp xúc và quan sát giới doanh nhân Trung Quốc tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên. Những người này gần như dành hết thì giờ để vun xới quan hệ với các quan chức chính phủ và các đầu nậu băng đảng tại các trà đình tửu điếm, các phòng ca nhạc karaoke, và các câu lạc bộ của giới ăn nhậu. Họ thể hiện các cung cách gắn bó giữa nam giới với nhau, việc này đòi hỏi phải chơi trội trong việc sử dụng các loại xe đắt tiền, các đồ ăn thức uống ngoại lai, và các dịch vụ tính dục. Những hoạt động qua lại này đang biến các quan hệ có giá trị công cụ thành tình bạn, các món hối lộ thành quà tặng, và các phạm nhân hình sự thành những kẻ tình nguyện giúp cảnh sát duy trì trật tự xã hội. Phụ nữ có chức năng làm người chiêu đãi, làm đối tác tính dục được trả tiền, làm biểu tượng địa vị, và đôi khi làm người đồng lõa trong các âm mưu của đàn ông. Những đại gia mới nổi, đối tượng nghiên cứu của Osburg, đang bị bóp nghẹt giữa nỗi sợ hãi là các địch thủ của mình có quan hệ với giới chức quyền thế hơn và cái cảm thức là mình đang gắn bó với một hệ thống chính trị đang trên đường đi đến sụp đổ. Họ cảm thấy mình bị kẹt vào trong một lối sống làm kiệt sức và lắm lúc chán phè, mặc dù phần còn lại của xã hội coi họ là những tấm gương thành công. Cách ứng xử của họ đang làm gia tăng một cảm thức phổ biến về tình trạng suy đồi đạo lý trong xã hội Trung Quốc đương đại.

A. J. N.

Bài học từ Hiệp định Geneva 1954

Bài học từ Hiệp định Geneva 1954

Gia Minh, PGĐ Ban Việt ngữ RFA
2014-07-19

giaminh_07192014.mp3

geneva1954-305.jpg

Ông Tạ Quang Bửu, trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại buổi ký Hiệp định Genève 1954.

Photo courtesy of wikipedia

Hiệp định Geneva năm 1954 được ký kết nhằm giúp chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam và cả Đông Dương. Thế nhưng mục tiêu đó đã không đạt được; trái lại chiến tranh lại diễn ra suốt trong mấy mươi năm sau đó, ngăn chặn sự phát triển của Việt Nam về mọi mặt.

TQ nhượng bộ Pháp và miền Nam?

Gia Minh hỏi chuyện sử gia Phạm Cao Dương hiện ngụ tại California, Hoa Kỳ về những điểm đáng chú ý của Hiệp định Geneva 1954 và bài học cần rút ra. Trước hết ông cho biết:

Phạm Cao Dương: Trước hết Hội nghị Geneva năm 1954 không phải được nhóm họp sau ngày sự kiện Điện Biên Phủ chấm dứt, mà nó đã được triệu tập từ trước rồi (từ ngày 26 tháng 4). Mục tiêu của hội nghị ban đầu không phải bàn về Việt Nam mà bàn về chiến tranh Cao Ly (Triều Tiên). Việc bàn về Việt Nam vào ngày 8 tháng 5 mới bắt đầu và không phải là chính. Nhưng vì tình hình tại Việt Nam thay đổi: biến cố, trận chiến Điện Biên Phủ chấm dứt nên người ta họp vào ngày đó.

Thứ hai, sách trong nước thường ca ngợi đó là chiến thắng của phía Việt Minh. Điều đó không hoàn toàn đúng, vì nếu chúng ta theo dõi những gì xảy ra trước đó khi ông Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp sang họp với Chu Ân Lai ở Liễu Châu, người ta thấy phía Việt Minh tức tối lắm. Sau này ông Võ Nguyên Giáp có nói rằng khi ông thuyết trình thì bản đồ đưa ra ‘đỏ’ hết tất cả; nhưng đến khi Chu Ân Lai thuyết trình thì theo lời ông Võ Nguyên Giáp ‘Bác và tôi rất ngỡ ngàng’ vì sự nhượng bộ mà Chu Ân Lai dành cho phía Pháp và miền Nam.

Cần phải để ý là Trung Quốc trong thời điểm đó mới làm chủ được lục địa Trung Hoa và chưa có vai trò quốc tế nào nên họ muốn vai trò nào đó, và Hội nghị Geneva là cơ hội để họ đóng vai trò đó.
-Sử gia Phạm Cao Dương

Lý do hai ông Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp không vừa ý vì hai ông tin tưởng được nhiều lợi thế hơn những gì mà phía Chu Ân Lai và Molotov (ngoại trưởng Nga lúc đó) buộc phía Việt Minh phải chấp nhận. Trước hết là sự hiện diện của bộ đội Việt Minh ở Miên và Lào. Chủ trương của Việt Minh hồi đó là muốn nâng đỡ hai tổ chức cộng sản bên Miên và Lào (Pathet Lào và Khmer Issarak). Phía đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa luôn phủ nhận không có sự hiện diện của bộ đội bên hai nước đó, nhưng cuối cùng Chu Ân Lai và Molotov ép buộc Việt Minh phải phần nào chấp nhận điều đó, và sau đó chấp nhận luôn. Có nghĩa chấp nhận đã rút rồi nhưng vẫn còn một phần ở lại bên Miên và Lào. Do vậy Pháp và phía Miên, Lào không chấp nhận nên cuối cùng chấp nhận ‘nếu còn sẽ rút đi’.

Điểm nữa về phân chia lãnh thổ. Khi có sự chia đôi, bên phía người Pháp đề nghị vĩ tuyến 19 và phía Việt Minh muốn vĩ tuyến 13 hay ít ra là vĩ tuyến 16; nhưng cuối cùng cũng hai ông Chu Ân Lai, Molotov và phía người Pháp – Mendes France, thỏa thuận vĩ tuyến 17.

Đến chuyện ngày bầu cử thống nhất, đầu tiên Phạm Văn Đồng muốn 6 tháng, nhưng sau đó lên 1 năm và 2 năm. Quyết định cuối cùng là năm 1956, tức 2 năm sau.

Cần phải để ý là Trung Quốc trong thời điểm đó mới làm chủ được lục địa Trung Hoa và chưa có vai trò quốc tế nào nên họ muốn vai trò nào đó, và Hội nghị Geneva là cơ hội để họ đóng vai trò đó.

Gia Minh: Việc tuyển cử như ông nói được thống nhất vào năm 1956, sau đó Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa có đề nghị với phía miền Nam, nhưng miền Nam từ chối. Lý do vì sao thưa ông?

Phạm Cao Dương: Thực ra phía miền Nam mà buổi đầu là Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại và sau này là Việt Nam Cộng Hòa của ông Ngô Đình Diệm, không chấp nhận bản Tuyên bố Cuối cùng. Chúng ta nên nhớ sự thỏa thuận ở Geneva gồm hai phần: phần thứ nhất là đình chiến và phần thứ hai là chính trị. Phần đình chiến được ký kết hẳn hoi, có nhiều bản thỏa ước; còn phần chính trị không có bản thỏa ước được ký kết mà chỉ là Bản Tuyên bố Cuối cùng được các bên chấp nhận bằng miệng mà thôi.

Phía Quốc gia Việt Nam lúc đó và sau này là Việt Nam Cộng Hòa thì không chấp nhận Bản Tuyên bố Cuối cùng đó. Phía Mỹ cũng không chấp nhận. Nên nếu không chấp nhận thi hành cuộc bầu cử đó chẳng qua vì họ không bị ràng buộc về phương diện pháp lý.

Thứ hai nữa, nếu có bầu cử phải cần những điều kiện tối thiểu để có sự công bằng. Đằng này chưa chắc có sự công bằng đó, thành ra miền Nam không chấp nhận cũng có lý của họ.

Bài học kinh nghiệm

Trong những hoạt động bang giao quốc tế, các quốc gia luôn đặt quyền lợi của mình lên trên, kể cả đồng minh cũng đứng hàng thứ không quan trọng.
-Sử gia Phạm Cao Dương

Gia Minh: Sau 60 năm rồi, ông thấy có những bài học gì?

Phạm Cao Dương: Trong những hoạt động bang giao quốc tế, các quốc gia luôn đặt quyền lợi của mình lên trên, kể cả đồng minh cũng đứng hàng thứ không quan trọng. Nếu bên Trung Quốc vì quyền lợi riêng mà hy sinh đồng minh là Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa thì đó cũng là điều tự nhiên mà thôi. Nhưng Hà Nội không thấy điều đó!

Thứ hai nếu nhìn vào thế giới trong thời gian đó và những năm tiếp theo, không phải chỉ có Việt Nam bị chia đôi. Còn nhiều nước khác bị chia đôi nữa nhưng không có nước nào dùng võ lực để tiến chiếm nước kia. Còn Việt Nam thì chuyện đó đã xảy ra.

Nhưng hậu quả là Hà Nội không có đủ thực lực để tự mình đánh xuống miền Nam nên phải dựa vào thế của Trung Quốc; Hà Nội và cả miền Nam đều không nhận ra điều, không biết đánh lá bài của Trung Quốc. Vì hồi đó Trung Quốc không muốn người Mỹ vào miền Nam và hiện diện tại miền Nam, họ muốn dùng người Pháp để giữ không cho Mỹ can thiệp vào Việt Nam.

Gia Minh: Cám ơn sử gia Phạm Cao Dương.