‘Lãng tử hồi đầu’

‘Lãng tử hồi đầu’
July 06, 2014

Nguoi-viet.com
Tạp ghi Huy Phương


Từ năm 111 trước Công Nguyên, Việt Nam bắt đầu 1,000 năm Bắc thuộc, trong thời gian này đã có nhiều cuộc khởi nghĩa của người Việt chống lại sự thống trị của vương triều phương Bắc.

Sau khi giành độc lập, các triều đại phong kiến của Việt Nam thường có một thái độ ngoại giao là khôn khéo và mềm mỏng, duy trì bang giao với các triều đại phong kiến, và giữ chế độ triều cống để nhận được sự công nhận ngoại giao của các triều đại Trung Quốc.

Việt Nam đã giữ việc gửi sứ giả sang triều cống các hoàng đế Trung Hoa với những lễ vật, đặc sản địa phương hàng năm hoặc khi có sự thay đổi ngôi vị lãnh đạo, hay kế vị ngôi vua với mục đích để bình thường hóa quan hệ ngoại giao, tâm lý là để xoa dịu một quốc gia lớn mới bị bại trận khỏi mất thể diện.

Theo các nhà sử học như Francois Joyaux, hành động triều cống chủ yếu là nghi lễ ngoại giao, không có ảnh hưởng gì đối với quyền nội trị và bang giao với các nước khác của Việt Nam. Cũng cần ghi nhận rằng càng về sau việc triều cống của các triều đình phong kiến Việt Nam đối với các triều đại phong kiến phương Bắc càng giảm dần và càng mang tính hình thức nhiều hơn. Và “triều đình Việt cần sự thụ phong Trung Hoa để được kính nể, cũng như một quốc gia tân tiến ngày nay không thể tránh khỏi sự thừa nhận quốc tế để đứng vững.”

Như vậy quan hệ giữa Trung Hoa và Việt Nam là quan hệ giữa một quốc gia nhỏ và một nước lớn, có nhẹ nhàng như trước đây thì Việt Nam cũng phải là đứa em phải biết vâng lời đàn anh. Chưa bao giờ Việt Nam được coi là chư hầu của Tàu, tệ hơn là như ngày nay Trung Quốc lớn láo coi Việt Nam là thứ con cái mà là thứ con cái hư đốn và Trung Hoa là phụ mẫu.

Trung Quốc vẫn thường kể công là đã viện trợ cho Cộng Sản Bắc Việt từ năm 1955-1975 hơn 1 triệu 5 tấn lương thực, hậu cần và trang bị kỹ thuật, hơn 4 triệu khẩu súng đủ loại từ súng trường cho tới tên lửa, nhiều tàu chiến, xe tăng. CSVN là kẻ chịu ơn Trung Cộng, nhưng lại vô ơn, nên Trung Cộng đã cất quân hỏi tội Việt Nam, và “cho một bài học” như năm 1979. Ðối đáp với đại ân nhân, để cân bằng số lương thực, súng đạn này, Bắc Việt cho rằng mình đã đóng góp lại bằng xương máu của dân Việt, như vậy không ai phải mang ơn ai, như các nhà lãnh đạo CSVN đã tuyên bố, “Việt Nam đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô và Trung Quốc, tiền bạc, vật chất nào trả nổi sinh mạng của khoảng 3-5 triệu người?”

Cuộc chiến biên giới Việt-Trung năm 1979 sau khi Trung Cộng bất bình vì Việt Nam kéo quân sang Kampuchea, được phía Việt Nam gọi là “chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc” hay “cuộc chiến chống bè lũ bành trướng phương Bắc,” trong khi Trung Cộng gọi là “chiến tranh đánh trả tự vệ trước Việt Nam.”

Mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Cộng, bất đồng về cuộc chiến Ðông Dương từ lâu đã biến hai nước bạn thành thù.

Từ năm 1973, lãnh đạo Trung Cộng đã có lập trường: “Bề ngoài ta đối xử tốt với họ (Việt Nam) như đối xử với đồng chí mình, nhưng trên tinh thần phải chuẩn bị họ trở thành kẻ thù của chúng ta.” Dưới con mắt Bắc Kinh, Việt Nam vẫn là kẻ “hắc tâm,” “vô ơn,” “ngạo ngược.” Quân Việt Nam có mặt ở Lào, Kampuchea đã làm cho Trung Quốc lo ngại về một “tiểu bá quyền” Việt Nam và thâm tâm Bắc Kinh luôn luôn “dạy cho Việt Nam một bài học.” Mối quan hệ xem ra có vẻ tốt đẹp sau này là một mối quan hệ “bằng mặt mà không bằng lòng” xem ra vẫn âm ỉ thù hận. Theo Tiến Sĩ Lý Tiểu Binh của Ðại Học Central Oklahoma cho VOA Việt Ngữ (tháng 2, 2012) hay, có khả năng Bắc Kinh lại muốn dạy cho Việt Nam một bài học mới nữa.

Tương quan giữa Trung Cộng và Việt Cộng, như vậy chưa bao giờ là tương quan giữa cha con hay chủ tớ, như Trung Cộng vừa ngang ngược, trịch thượng lên tiếng, coi Việt Cộng như con cái, mà lại là đứa con “ngỗ nghịch,” mà người cha, phải xử lý nó đúng với trách nhiệm của mình! Còn những đứa con cũng phải biết thân phận mình đang ở vị thế nào! “Trung Quốc dụng tâm lương khổ, phụng khuyến Việt Nam lãng tử hồi đầu”(dịch: Trung Quốc phải dùng tâm trạng đau khổ kêu gọi đứa con hoang ngỗ ngược Việt Nam sớm hối cải trở về).

Trung Cộng không muốn ai can thiệp vào chuyện “nội bộ” của Việt Nam và Tàu vì đây là chuyện trong nhà, “xử lý nội bộ” hay “đóng cửa dạy nhau,” hay tệ hơn nữa là “đóng cửa dạy con.” Ðất nước Việt Nam chẳng qua chỉ là khu vườn sau của Trung Cộng và chính phủ Việt Nam là “đứa con hỗn xược!” (Một nhà ngoại giao Á Châu ở Hà Nội nói với báo Der Spiegel (”Tấm Gương”): “Bắc Kinh bực tức những đứa trẻ con hỗn xược trong ngôi vườn ở phía Nam của Trung Quốc.”) Như vậy với những khẩu hiệu ngoại giao, vuốt ve, “16 chữ vàng” trong thời gian trước, đã được Trung Cộng vứt vào hố xí, mà Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng vẫn cứ phải “ngậm bồ hòn làm ngọt” trong một thế yếu vì đã quá lệ thuộc, một hai coi Trung Cộng là “người bạn láng giềng lớn, muốn hay không cũng phải ăn đời ở kiếp với nhau…” Trong thời điểm này mà Nguyễn Tấn Dũng còn “cúc cung:”- “ Việt Nam lúc nào cũng biết ơn sự hỗ trợ và giúp đỡ lớn từ Trung Quốc!”

Hèn mạt đến thế sao!

Cách nói xách mé của Trung Cộng bây giờ nghe ra không khác gì lời nói xấc láo của Tôn Nữ Thị Ninh, đối với quần chúng. Thị nguyên là Ðại Sứ Ðặc Mệnh Toàn Quyền của Việt Nam tại Liên Hiệp Châu Âu (EU), phó chủ tịch Ủy Ban Ðối Ngoại của Quốc Hội Ba Ðình, ủy viên Trung Ương Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam, đã từng tuyên bố trong buổi họp báo tại Câu Lạc Bộ Báo Chí Quốc Gia Hoa Kỳ hồi tháng 10 năm 2004, khi bị chất vấn về tình trạng vi phạm nhân quyền ở Việt Nam, rằng, “Trong gia đình chúng tôi có những đứa con, cháu hỗn láo, bướng bỉnh thì để chúng tôi đóng cửa lại trừng trị chúng nó, dĩ nhiên là trừng trị theo cách của chúng tôi. Các anh hàng xóm đừng có mà gõ cửa đòi xen vào chuyện riêng của gia đình chúng tôi.”

Thưa bà phó chủ tịch, nếu nay mai Ðại Sứ Trung Cộng tại Liên Hiệp Quốc mượn tạm “danh ngôn” của bà để phát biểu, khi có ai đó chất vấn về cuộc xung đột Việt Trung vừa qua, thì bản thân bà có nghe lọt lỗ tai không? Cũng quan hệ theo lối này, thì những anh hàng xóm như ASEAN, Nhật Bản, Phillippines, Mỹ và ngay cả Tòa Án Quốc Tế “đừng có mà gõ cửa đòi xen vào chuyện riêng của gia đình cha con chúng tôi.”

Trung Cộng càng ngày càng lấn lướt, thâm độc, dùng tất cả “mưu ma chước quỷ” để “chơi” Việt Nam “làm cho cho mệt cho mê, làm cho đau đớn ê chề cho coi!”

Không những một, mà Trung Cộng đem tới Biển Ðông bốn giàn khoan! Rồi sao? – Việt Nam đang chờ một “thời điểm thích hợp” để kiện Trung Cộng ra Tòa Án Quốc Tế! Lời tuyên bố “hùng hổ” này chắc làm Bắc Kinh sợ “vãi đái!”

Việt Nam đang ở trong thế không biết kêu “mạ” nào, có một mụ mạ, ông cha thì đã cho mình là đứa con hỗn xược, cần dạy dỗ và cứ lăm le đòi cho roi vọt thì còn trong cậy đến ai bây giờ!

Lại nói chuyện ‘đi và về’

Lại nói chuyện ‘đi và về’

May 11, 2014

Nguoi-viet.com
Tạp ghi Huy Phương

“…thứ nhất tôi không thích chính trị,
thứ hai là tôi không có dính tới chính trị.
Cuộc đời tôi chỉ có hát, hát và hát mà thôi!”
(Phát biểu của một danh ca tị nạn cộng sản tại hải ngoại)

Tháng Chín, 2012, Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn CSVN ký giấy phép đồng ý cho ca sĩ Khánh Ly về Việt Nam hát, theo đó, Khánh Ly sẽ có mặt trong bốn chương trình do Công Ty Giải Trí Ðồng Dao tổ chức tại ba thành phố lớn: Hà Nội, Ðà Nẵng và Sài Gòn. Dư luận hải ngoại đã lên tiếng về chuyện về hay không về, thương và ghét, nhưng rồi như chơi “trò ú tim,” Khánh Ly không về, nhưng không hề nói lý do, trong đó có phải một phần phải chăng từ nguồn dư luận từ hải ngoại tỏ ra không đồng tình với chuyện về của cô.


Ca sĩ Khánh Ly. (Hình: Facebook)

Nhưng năm nay, Khánh Ly đã thực sự về đến Việt Nam và “hát cho đồng bào mình nghe” như cách nói của ca sĩ Lệ Thu trong một cuộc phỏng vấn của BBC hồi Tháng Giêng, 2013.

Bênh vực cho bạn “đồng nghiệp” Khánh Ly, Lệ Thu nói: “Tôi có thể hát được ở Úc, Pháp, Anh, Ðan Mạch thì tại sao tôi không hát được trên quê hương tôi?” Và Lệ Thu cũng tỏ thái độ rõ ràng hơn: “Từ khi bắt đầu hát cho tới giờ, thứ nhất là tôi không thích chính trị, thứ hai là tôi không có dính tới chính trị. Cuộc đời tôi chỉ có hát, hát và hát mà thôi!”

Tôi nghĩ, khác với Lệ Thu, Khánh Ly chưa bao giờ phát biểu theo lối này. Cô có thái độ chính trị rõ ràng, đã buồn vui theo vận nước nổi trôi, với những ngày “nội chiến,” với những đêm “chôn dầu vượt biển,” thiết tha với “Sài Gòn ơi vĩnh biệt!” với “Ai về xứ Việt,” và cô đã mặc chiếc áo dài vàng quốc kỳ Việt Nam trên sân khấu hải ngoại! Cô cũng là người đã từng nói: “Ði thì cùng đi, về thì cũng cùng về!” Hoặc như là: “Tôi chỉ về khi không còn chế độ cộng sản nữa mà thôi!”

Cũng như chúng ta biết trong một cuộc phỏng vấn của tuần báo Việt Weekly trước đây, ông Nguyễn Hoàng Ðoan, chồng của Khánh Ly, trả lời về nguồn tin “Khánh Ly được trả cát xê $2 triệu để mời cô về hát,” ông Ðoan đã khẳng định rằng: “Chị không thể nhận lời là vì, trong 30 năm nay, khán giả hải ngoại là người đã nuôi sống gia đình anh chị, để anh chị có cơ hội nuôi các con ăn học đâu ra đó. Anh chị không thể nào quay lưng lại, nhổ nước bọt vào những người quý mến mình, cưu mang mình…” và “… chị không thể phản bội lại những người hải ngoại, dù số lượng khán giả hải ngoại rất là nhỏ so với trong nước, nhưng họ chính là người đã từng nuôi nấng tiếng hát của chị trong 30 năm nay.”

Nhưng bây giờ Khánh Ly cũng có thể bắt đầu nói như Lệ Thu và còn tệ hơn thế nữa. Theo báo Giáo Dục Việt Nam ở trong nước, thì Khánh Ly đã có nhiều phát biểu hoàn toàn trái ngược và phản bội lại những gì cô đã nói, đấm ngực mình xưng tội “lỗi tại tôi mọi đàng.”

“Tôi rất hối hận, tôi muốn trong nước quên đi những lỗi lầm quá khứ của tôi. Tôi chỉ muốn về thăm quê hương như một người bình thường.”

Khi được hỏi chuyện Khánh Ly tham gia vào các chương trình ca nhạc kháng chiến thời Hoàng Cơ Minh, thì cô nói: “Tôi tham gia vì ham vui, vì có tiền, chứ chẳng bao giờ tin vào Hoàng Cơ Minh cả,” và: “Dưới sức ép của các phe nhóm phản động, tôi phải hát cho các chương trình của họ. Nếu không sẽ bị coi là không xác định lập trường.” (Báo Giáo Dục Việt Nam, ngày 7 Tháng Tám, 2012)

Và ai bắt Khánh Ly phải nói nặng lời, “vỗ mặt” với những người chưa muốn “về” như cô: “Tôi hy vọng là không phải ước mơ chỉ của riêng tôi mà là ước mơ chung của tất cả những người được gọi là người…”

Tội nghiệp cho Khánh Ly, đã năn nỉ, “hối hận, muốn trong nước quên đi những lỗi lầm quá khứ” nhưng rõ ràng là Khánh Ly không biết thân phận mình, may ra cũng chỉ hát được ở Hà Nội, còn Huế và Sài Gòn thì xin hẹn kiếp khác! Như vậy thì cũng chưa là “bằng chứng hùng hồn của chính sách đại đoàn kết dân tộc,” như lời nói phấn khởi của Phạm Duy đâu!

Ðộng lực nào đã làm cho Khánh Ly thay đổi, quay vòng 180 độ như vậy, nó cũng giống thái độ của Phạm Duy, Nguyễn Cao Kỳ về nước, cũng tuyên bố quá lời, tỏ ra hối hận về những điều họ đã nói đã làm trong quá khứ, tệ hơn nữa, là hết lời lên án cộng đồng tị nạn đã nuôi sống họ một thời gian dài bằng cả tinh thần lẫn vật chất.

Nếu chúng ta đã từng suy nghĩ: “Phạm Duy là thế đó!” thì cũng đừng nên ngạc nhiên với con người Khánh Ly. Về phía chính quyền Việt Nam việc này, việc Khánh Ly về, đương nhiên là có lợi cho họ.

Vì tiền thì ai cũng cần, vì nhu cầu đứng trên sân khấu với một số lượng khán giả lớn lao thì người nghệ sĩ nào cũng mơ ước, có thể một lần rồi thôi, nhưng như thế cũng làm cho người nghệ sĩ thỏa mãn ít nhất là một lúc nào đó ở cuối đời khi nhan sắc và giọng hát đã đi vào những ngày cuối đời. Ngay cả những nhà văn, nhà thơ miền Nam đã một thời mặc áo lính cũng về nước giới thiệu sách, “giao lưu văn hóa” thì còn trách gì ai! Cũng không thể nói rằng: “Tôi đã ra mắt sách ở Sydney, đọc thơ ở Paris, vì sao tôi không thể làm chuyện ấy ở Hà Nội?”

Nhưng liệu Khánh Ly có cần phải nói những lời hối tiếc và than thở, vì sự thật ở hải ngoại này, ngoài sự hấp dẫn của đồng đô la màu lục, không có “sức ép của các phe nhóm phản động nào” bắt Khánh Ly phải lên sân khấu như lời tuyên bố của cô?

Khánh Ly cứ về, nhưng ai bắt Khánh Ly phải lên giọng kết án nơi chốn mà cô đã dung thân gần 40 năm qua. Không như Phạm Duy về luôn Việt Nam, cô còn có con đường trở lại nơi đây, mà chắc chắn không để nương mình nơi tu viện.

Trước Khánh Ly thì Tuấn Ngọc, Lệ Thu, Khánh Hà, Thanh Tuyền, Ý Lan, Thái Châu, Sơn Tuyền, Ðức Huy, Giao Linh, Phương Dung, Chế Linh…(danh sách còn dài) đã về hát trong nước. Ca hát cũng là một cái nghề kiếm sống! Những Chế Linh, Sơn Tuyền thì không nói làm gì, ngay cả Lệ Thu, dư luận hải ngoại cũng không hề quan tâm, nhưng với Khánh Ly thì lại khác. Cô đã có chỗ đứng trong lòng người hâm mộ qua một thời gian dài, từ trong nước ra đến hải ngoại. Phải chăng “thương nhau lắm thì cắn nhau đau,” chì chiết lắm cũng vì đã quá thương mến, đã là thần tượng thì phải giữ hình ảnh thần tượng trong lòng những người hâm mộ.

Chỉ có một điều tích cực là dù sao thì Khánh Ly và những ca sĩ “trở về xứ Việt” không phải để hát “Dưới bóng cây Kơ-Nia,” “Tiếng chày trên sóc Bam Bo,” hay “Như có Bác trong ngày vui đại thắng” mà là những bài hát của một thời thịnh trị, hạnh phúc miền Nam, mà có thể ngày trước miền Bắc chỉ được nghe lén, và người miền Nam đã thương đã nhớ từ ngày Sài Gòn thất thủ. Ðó là những thứ mà khán giả trong nước đang chờ đợi, kể cả những viên chức chính quyền cộng sản như thứ trưởng Văn Hóa Vương Duy Miên. Nỗi khát khao đó được đánh giá trên những chiếc vé vào cửa nghe Khánh Ly hát, đắt hơn nghìn lần bữa cơm của những đứa trẻ mò cua bắt ốc trên cánh đồng Việt Nam!

Tôi chỉ tiếc trong lần về Việt Nam này, trong lần viếng mộ Trịnh Cộng Sơn, những việc như Khánh Ly rót rượu Cognac lên thân tượng, tạo dáng để phóng viên Ngoisao.vn chụp ảnh đưa lên Internet mang đầy kịch tích, không hề có một mảy may xúc động, tình cảm. Gia đình Trịnh Công Sơn cho biết, lần này có nghe chuyện khánh Ly về nhưng không được thăm viếng cũng như không hề liên lạc.

Ðúng là “búa rìu dư luận,” trong nước chê Khánh Ly là “Danh ca về nước vì… tiền” (Tiền Phong Online), “Ca sĩ Khánh Ly lại… nhúng chàm” (Việt Báo Online), “Sự tráo trở của Khánh Ly” (GDVN), hải ngoại thì lên án Khánh Ly là “phản bội.”

Có lẽ Khánh Ly suy nghĩ đã dám sống thật cho mình, bước qua dư luận, chỉ tiếc là trước sau không như một. Thà cách đây mươi năm cô đã nói thẳng như Lệ Thu nói hôm nay “thứ nhất tôi không thích chính trị, thứ hai là tôi không có dính tới chính trị. Cuộc đời tôi chỉ có hát, hát và hát mà thôi!”

Ngày xưa Ðỗ Mục than thở:

“Thương nữ bất tri vong quốc hận,
Cách giang do xướng Hậu Ðình Hoa!”

Bên kia sông thì quá gần để tiếng hát còn vẳng lại, xa nửa vòng bên kia trái đất thì ai còn nghe. Thôi thì cứ “Hát nữa đi em!”

 

Thoát Trung”, “thoát Cộng” và “thoát Sợ”, cái “thoát” nào là nền tảng?

Thoát Trung”, “thoát Cộng” và “thoát Sợ”, cái “thoát” nào là nền tảng?

Nguyễn Chính Kết (Danlambao)“…Một trong những khẩu ngôn rất giá trị nói lên bí quyết để “thoát Cộng” là: “Đừng sợ những gì cộng sản làm, hãy làm những gì cộng sản sợ”. Khẩu ngôn này gồm hai vế “Đừng sợ” và “Hãy làm”. “Đừng sợ” là nội dung chính của cả bài này. Còn “Hãy làm” thì chúng ta cần xác định xem cộng sản sợ gì nhất. Thưa: điều cộng sản sợ nhất hiện nay, chính là sợ người dân không còn sợ khủng bố nữa, nghĩa là CSVN rất sợ chính sách khủng bố của mình bị vô hiệu hóa, không còn hữu hiệu hay tác dụng nữa. Cộng sản tồn tại được là nhờ người dân sợ khủng bố. Khi người dân không còn sợ khủng bố nữa, thì đó là lúc nỗi sợ hãi sẽ quay ngược trở lại để trở thành nỗi kinh hoàng cho chính kẻ khủng bố. Và đó là lúc chính thức báo hiệu “hết thời” cho cả một chế độ phi nhân tàn bạo…”

Chuyện “thoát Trung” là điều mà đảng CSVN cần thiết phải làm, có trách nhiệm phải làm và có thể làm được để đất nước thoát khỏi hiểm họa Bắc thuộc lần thứ năm đang có nguy cơ rất lớn trở thành hiện thực. Tuy nhiên, cho tới nay, nhà cầm quyền CSVN chưa hề tỏ một dấu hiệu nào đáng tin tưởng chứng tỏ thiện chí thật sự muốn “thoát Trung” để cứu nguy đất nước cả.

Hiện nay, qua việc bỏ tù những người chống Trung Cộng xâm lược như Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Việt Khang, Bùi Minh Hằng, Phương Uyên, Nguyên Kha, v.v… và qua việc đàn áp mạnh tay những người biểu tình chống Trung Cộng xâm lược, ta thấy rõ ràng rằng những người dân yêu nước, muốn bảo vệ lãnh thổ lãnh hải, chống Trung Cộng xâm lược… đều không chỉ bị Trung cộng mà ngay cả CSVN coi như kẻ thù cần phải tiêu diệt.

Hành động của Trung cộng xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam, bắn giết ngư dân Việt Nam, đặt nhiều giàn khoan dầu vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, rõ ràng là hành động xâm lược Việt Nam cách nghiêm trọng, thế mà CSVN không hề có một hành động nào mạnh mẽ và hữu hiệu ngăn cản hành động xâm lược đó cả. Chính vì thế, hành động xâm lược của Trung cộng có điều kiện để càng ngày càng leo thang. Qua thái độ của CSVN đối với Trung Cộng và đối với người dân yêu nước, ta có thể đoán ngay được rằng CSVN vẫn sẵn sàng làm công cụ cho Trung cộng, tiếp tay với Trung cộng trong mưu đồ thôn tính Việt Nam.

Nếu tình trạng này cứ tiếp diễn, ắt hẳn đất nước Việt sẽ không thoát khỏi tình trạng bị Trung Cộng thôn tính. Đừng chờ khi Việt Nam đã trở thành một tỉnh của Trung cộng rồi, chúng ta mới dám xác định những điều vừa kể.

Ý thức được nguy cơ ấy, chẳng lẽ dân Việt lại phó thác số phận dân tộc mình cho đảng CSVN quyết định ra sao cũng được? Chẳng lẽ cả một dân tộc có lịch sử chống Tàu rất anh hùng lại phó mặc để CSVN dâng đất nước cho Tàu? Chẳng lẽ chúng ta lại sẵn sàng cúi đầu chấp nhận làm thân phận người dân thuộc địa của Trung cộng?

Trong hoàn cảnh này, người dân Việt Nam nếu không tự cứu mình thì chẳng ai có thể cứu mình được. Toàn dân chúng ta phải dành lại quyền quyết định số phận của mình chứ không thể phó thác quyền ấy cho đảng CSVN, vốn đã từng nhiều lần bán đất bán biển của tổ tiên cho kẻ thù dân tộc. Vì thế, vấn đề trước mắt của người dân Việt trong và ngoài nước hiện nay không phải là chuyện “thoát Trung”, mà là “thoát Cộng”. Nghĩa là phải thoát khỏi ách thống trị của chế độ CSVN, không để cho CSVN đè đầu cưỡi cổ và toàn quyền định đoạt số phận cho cả dân tộc nữa. Một khi đã “thoát Cộng” thì việc “thoát Trung” cũng trở nên rất dễ dàng.

Đối với nhà cầm quyền CSVN, “thoát Trung” vốn chỉ là cái ngọn, còn cái gốc của vấn đề này là CSVN có chấp nhận từ bỏ tham vọng muốn “muôn đời trường trị” trên dân tộc Việt Nam hay không, có sẵn sàng từ bỏ quyết tâm bám lấy quyền lực để cưỡi cổ đè đầu người dân Việt Nam hay không, có thật sự từ bỏ ý định làm công cụ cho tham vọng bành trướng của Trung Cộng hay không. Nếu không, việc “thoát Trung” chỉ là ảo tưởng!

Tương tự như vậy đối với người dân Việt Nam, “thoát Cộng” cũng chỉ là cái ngọn, còn cái gốc của vấn đề là người dân Việt có thoát được nỗi sợ hãi mà chế độ CSVN đã gieo vào lòng mỗi người dân từ nhiều thập niên qua hay không. Nếu không, việc “thoát Cộng” cũng chỉ là ảo tưởng! Nỗi sợ hãi này đã trở thành “cố hữu”, đã ngấm vào mạch máu của từng người dân Việt; vì ngay từ khi cướp được chính quyền năm 1945, CSVN đã áp dụng ngay chính sách khủng bố để giết hại, bỏ tù, xách nhiễu, đe dọa bất kỳ người dân nào dám nói hay dám làm điều gì bất lợi cho tham vọng “muôn đời trường trị” của họ. Vụ Nhân Văn Giai Phẩm là một điển hình. Nỗi sợ hãi đối với sự khủng bố của CSVN vẫn luôn luôn đè nặng trên tâm thức của rất nhiều người Việt, kể cả trong nước lẫn hải ngoại, khiến họ không dám làm những gì mà lương tâm, lòng yêu nước hay sự hợp lý đòi hỏi. Đây là thành công rất lớn của cộng sản, nhờ vậy mà chế độ CSVN vẫn tồn tại suốt gần 70 năm qua, dù đảng này từ rất lâu đã trở nên bất xứng trong việc lãnh đạo đất nước, dù đảng này đã làm đất nước tụt hậu hàng trăm năm so với những nước chung quanh, dù dân chúng từ lâu rất căm phẫn trước những hành vi vô cùng tàn bạo của đảng này đối với người dân…

Đừng nói gì đến nỗi sợ của người dân trong nước là những người đang trực tiếp sống dưới sự cai trị hà khắc của CSVN, mà ngay cả người Việt ở hải ngoại, dù sống trong những đất nước tự do, vẫn có rất nhiều người bị nỗi sợ ấy ám ảnh. Thật vậy, nhiều người ở hải ngoại không dám nói gì đụng chạm đến chế độ cộng sản dù điều nói đó là sự thật hay là điều cần thiết phải nói. Hoặc họ không dám công khai đi biểu tình để lên tiếng thay cho người dân trong nước đang bị CSVN bức hại cách bất công và bị bịt miệng không nói lên được nỗi uất ức của mình.

Ở những đất nước tự do như thế, tại sao họ lại sợ CSVN vốn cách xa có khi tới nửa vòng trái đất? họ sợ những gì? − Thưa: họ sợ không được toà đại sứ hay lãnh sự CSVN tại đất nước họ đang sống cấp giấy phép cho họ về Việt Nam; họ sợ khi về thăm quê hương sẽ bị công an CSVN mời làm việc, gây phiền nhiễu cho họ, vân vân và vân vân. Nếu người dân của một đất nước cứ chấp nhận “cúi đầu”, “khom lưng” như vậy, thì dân tộc ấy có bị những chế độ bất lương cưỡi lên đầu lên cổ mình hẳn nhiên không có gì là lạ?!

Nỗi sợ bị CSVN khủng bố khiến rất nhiều người dân không dám phản đối những tội ác của các cán bộ CSVN. Ngay cả những vị rao giảng những tôn giáo có chủ trương chống ác khuyến thiện, cũng vì sợ mà đành phải chấp nhận cái nguỵ biện này: “Từ bản chất, tôn giáo nào cũng có sứ mạng chống ác và khuyến thiện; tuy nhiên chống lại những tội ác do ai làm thì cũng đều tốt, đều nên làm và phải làm; nhưng chống lại tội ác do CSVN gây nên thì không được phép, vì chống ác trong trường hợp này là làm chính trị, mà tôn giáo thì không làm chính trị!” Nhiều vị hùng hồn rao giảng chủ trương “vô úy” hay khuyến khích hành vi “vô úy thí” của Phật, hay cổ võ lời khuyên “Đừng sợ những kẻ chỉ làm hại được thân xác mà không làm hại được linh hồn…!” của Đức Giêsu [1], nhưng chính bản thân họ lại rất sợ bị công an CSVN phiền nhiễu, đến độ không dám nói sự thật, không dám chống bất công, đành chấp nhận nói sai sự thật, sẵn sàng dung dưỡng bất công!

Nhưng rất may cho dân tộc ta là hiện nay xuất hiện càng ngày càng đông những người dân vượt thắng sợ hãi, không sợ khủng bố, nhất là giới trẻ. Họ dám mạnh mẽ lên tiếng tố cáo tội ác của CSVN, kể cả tội của những lãnh đạo cao cấp nhất chế độ, dù biết rằng sau đó họ có thể bị CSVN bỏ tù hoặc mưu hại. Trong số đó có nhiều người rất trẻ tuổi và là phái yếu như Công Nhân, Thanh Nghiên, Thục Vy, Hoàng Vy, Minh Hạnh, Phương Uyên, v.v… Bí quyết gì khiến họ dám “thoát Sợ”, dám lên tiếng cho sự thật, cho công lý, dám làm những hành động mà lòng yêu nước đòi hỏi?

Bí quyết để “thoát Sợ” chính là sẵn sàng chấp nhận chính những gì mà bản năng khiến mình sợ sẽ xảy ra. Thật vậy,

− Ai sẵn sàng chấp nhận chết sẽ không còn sợ chết nữa.

− Ai sẵn sàng chấp nhận vào tù sẽ không còn sợ tù nữa.

− Ai chấp nhận bị công an liên tục mời “làm việc”, bị công an bắt cóc giữa đường, bị công an hành hung… thì sẽ không còn sợ những thứ ấy nữa.

Hiện nay, biết bao người thuộc đủ mọi giới, mọi tầng lớp đã thoát được những nỗi sợ cố hữu ấy, lẽ nào người khác lại không? Nhất là những người tự hào có bản lãnh, những người đáng lẽ phải làm gương về điều này!?

Sống trong một chế độ phi nhân, chủ trương khủng bố như chế độ CSVN, những ai không chấp nhận bị đau, bị khổ, bị phiền nhiễu, bị bạc đãi, bị tù đày, thậm chí bị giết… thì luôn luôn phải triền miên sống trong sợ hãi. Trong đó, có những người rất khổ tâm, bị lương tâm thường xuyên cắn rứt, vì họ bị sợ hãi khống chế nên đã làm nhiều điều hèn nhát, trái với những gì lương tri hay lương tâm đòi hỏi.

Nói chung, do bản năng ham sống sợ khổ, chẳng ai tự nhiên lại chấp nhận cái chết, chấp nhận đau khổ, chấp nhận tù đày, chấp nhận bị phiền nhiễu cả… Người ta chỉ chấp nhận những thứ đáng sợ ấy khi người ta muốn đạt được những giá trị rất lớn, hoặc muốn tránh khỏi những tai họa đáng sợ hơn gấp bội, chỉ lúc ấy người ta mới sẵn sàng trả giá bằng cách chấp nhận những điều đáng sợ kia.

Xin lấy một minh họa cho dễ hiểu. Chẳng hạn, chẳng ai muốn mất tiền, mất của, mất nhà mất cửa cách phi lý, thậm chí mất như thế là một nỗi sợ. Nhiều người đã ngất xỉu khi bị mất một món tiền thật lớn. Nhưng nếu mất tiền để đạt được một điều gì có giá trị lớn gấp bội thì người ta sẵn sàng chấp nhận mất. Thậm chí họ còn vui mừng khi đã đạt được cái giá trị mà mình đã bằng lòng trả giá bằng sự mất mát kia. Người ta cũng sẵn sàng chấp nhận mất một món tiền rất lớn để khỏi mất đi một số tiền lớn hơn, hoặc để tránh được một tai hoạ nào đó.

Tương tự như thế, các nhà đấu tranh dân chủ trong nước sẵn sàng chấp nhận vào tù, chịu thiếu thốn, đau đớn, nhục nhã, thậm chí cả cái chết là để đạt được một giá trị lớn hơn gấp bội, đó là sự tự do và hạnh phúc của cả một dân tộc. Nếu không nhắm cái giá trị cao cả đó, không ai dại gì dấn thân vào con đường nguy hiểm ấy cả.

Chẳng hạn Kỹ sư Đỗ Nam Hải đã tuyên bố: “Tôi sẵn sàng bước vào một nhà tù nhỏ để dân tộc này sớm bước ra khỏi nhà tù lớn. Nhà tù lớn ấy hiện nay mang tên là Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam[2]. Hay như chị Bùi Thị Minh Hằng đã thét lên trong một cuộc biểu tình: “Chúng tôi nằm xuống để dân tộc này đứng lên; chúng tôi chết để dân tộc này được sống[3].

Hoặc có người sẵn sàng chịu đau khổ hay chết đi để các thế hệ con cháu mình được sống yên vui, thoải mái hơn mình, như một người biểu tình ở Bắc Phi đã nói: “Tôi sẵn sàng chết để ngày mai con tôi không phải sống như tôi[4]. Hay để công lý và sự thật được thực hiện, như tinh thần của một câu ví dụ trong một tự điển Pháp nọ: “Tôi không quan tâm chính quyền làm gì mình. Tôi sẵn sàng vào tù miễn là sự thật được phơi bày[5]. Hay để bảo vệ nhân quyền như Voltaire: “Tôi có thể không đồng ý những điều anh nói nhưng tôi sẵn sàng chết để bảo vệ quyền anh được nói những điều đó[6].

Tóm lại, muốn “thoát Trung” thì phải “thoát Cộng”. Muốn “thoát Cộng” thì phải “thoát Sợ”. Muốn “thoát Sợ” thì phải sẵn sàng chấp nhận những điều tệ hại có thể xảy ra. Muốn chấp nhận những điều tệ hại có thể xảy ra thì phải ý thức được một giá trị thật lớn, thật cao cả mà mình cần đạt tới, hay phải ý thức được một hiểm họa khủng khiếp mà mình phải tránh, xứng đáng để đánh đổi bằng cách chấp nhận những điều tệ hại kia xảy đến.

Trường hợp của dân tộc Việt Nam hiện nay, muốn được tự do, muốn thoát khỏi nguy cơ bị Trung cộng thôn tính, muốn cho con cháu mình mai hậu không phải làm thân trâu ngựa cho ngoại bang, người dân phải chấp nhận “tìm cái sống giữa cái chết”. Tương tự như những người vượt biên tìm tự do sau 1975.

Khi chấp nhận vượt biên tìm tự do, người ta đã phải chấp nhận những bất trắc mà họ biết có thể xảy đến hoặc chắc chắn phải xảy đến như:

− bỏ nhà bỏ cửa, bỏ người thân ở lại,

− gia đình bị ly tán,

− bị lường gạt mất vàng, mất của (do bị lừa đảo),

− bị công an bắt và bị tù,

− bị chết ngoài biển làm mồi cho cá, hay chết trong rừng làm mồi cho thú dữ,

− bị cướp biển, phụ nữ bị cướp hãm hiếp,

− phải sống thiếu thốn nhiều năm trong các trại tị nạn,

− v.v…

Những điều bất hạnh đó ai cũng sợ, nhưng những người vượt biên sẵn sàng chấp nhận tất cả chỉ vì mong đạt được một giá trị lớn hơn, đó là TỰ DO. Thật vậy, chỉ vì tự do, người ta sẵn sàng trả giá rất đắt, như tác giả Nam Lộc đã nói lên trong bản nhạc “Xin Đời Một Nụ Cười”:

“Tự do ơi tự do! tôi trả bằng nước mắt

“Tự do hỡi tự do! anh trao bằng máu xương

“Tự do ôi tự do! Em đổi bằng thân xác.

“Vì hai chữ tự do! Ta mang đời lưu vong.” [7]

Người Mỹ có câu nói nổi tiếng: “Freedom is not free” (tạm dịch “Tự do không phải là thứ cho không”). Muốn có tự do thì phải trả giá. Tự do rất xứng đáng được trả giá rất cao vì nó quý giá vô cùng: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đối với cá nhân cũng như đối với cả dân tộc. Nó là thứ quý nhất, không có gì quý hơn, kể cả mạng sống; vì sống mà không có tự do thì “thà chết sướng hơn!” (nhiều người nói như thế!).

Hiện nay, đa số người dân chưa ý thức được nỗi khổ của mình, của con cháu mình, của cả dân tộc mình khi đất nước bị Bắc thuộc lần nữa. Nếu họ ý thức được nỗi đau và nỗi nhục vô hạn mà người dân Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông đang phải chịu kể từ khi đất nước họ trở thành thuộc địa của Trung cộng, nếu người dân Việt ý thức được Trung cộng đã đối xử tàn bạo thế nào đối với các học viên Pháp Luân Công vốn cùng một giòng máu Hán tộc với họ, thì họ sẽ hiểu được nỗi đau và nỗi nhục của mình lớn thế nào khi đất nước mình lọt vào tay Trung cộng. Lúc đó, họ mới có cảm nghĩ và thái độ “không thể ngồi yên” như nhạc sĩ Việt Khang:

“Tôi không thể ngồi yên khi nước Việt Nam đang ngả nghiêng,

Dân tộc tôi sắp phải đắm chìm, một ngàn năm hay triền miên tăm tối!

“Tôi không thể ngồi yên, để đời sau cháu con tôi làm người!

Cội nguồn ở đâu, khi thế giới này đã không còn Việt Nam?”

Lúc ấy họ mới thấy tội ác của CSVN “tày trời” như thế nào khi hiện nay CSVN đang sẵn sàng làm công cụ cho Trung cộng, đồng lõa, tiếp tay giúp Trung cộng xâm lược và thôn tính Việt Nam.

Do đó, chuyện cần thiết phải làm cho kịp thời hiện nay là phải “thoát Sợ” để có thể “thoát Cộng” hầu có thể “thoát Trung”!

Một trong những khẩu ngôn rất giá trị nói lên bí quyết để “thoát Cộng” là: “Đừng sợ những gì cộng sản làm, hãy làm những gì cộng sản sợ”. Khẩu ngôn này gồm hai vế “Đừng sợ” và “Hãy làm”. “Đừng sợ” là nội dung chính của cả bài này. Còn “Hãy làm” thì chúng ta cần xác định xem cộng sản sợ gì nhất. Thưa: điều cộng sản sợ nhất hiện nay, chính là sợ người dân không còn sợ khủng bố nữa, nghĩa là CSVN rất sợ chính sách khủng bố của mình bị vô hiệu hóa, không còn hữu hiệu hay tác dụng nữa. Cộng sản tồn tại được là nhờ người dân sợ khủng bố. Khi người dân không còn sợ khủng bố nữa, thì đó là lúc nỗi sợ hãi sẽ quay ngược trở lại để trở thành nỗi kinh hoàng cho chính kẻ khủng bố. Và đó là lúc chính thức báo hiệu “hết thời” cho cả một chế độ phi nhân tàn bạo.

Houston, ngày 11-7-2014

Nguyễn Chính Kết

danlambaovn.blogspot.com

___________________________________

Chú thích:

[1] Xem Kinh thánh, Mátthêu 10,28.

[2] Xem bài “Phương Nam Ðỗ Nam Hải: Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách”:

(http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/PhuongNamDoNamHaiIAmReadyToGoToJail_Khanh-20070522.html)

[3] Xem bài “Cuộc biểu tình 2/6/2013: 5. Chúng tôi nằm xuống để dân tộc này đứng lên”

(http://nguyentuongthuy2012.wordpress.com/2013/06/06/cuoc-bieu-tinh-262013-5-chung-toi-nam-xuong-de-dan-toc-nay-dung-len-2/)

[4] Xem bài “Tầm vóc các cuộc nổi dậy của nhân dân Bắc Phi: chống tham nhũng, chống độc tài hay gì nữa?”

(http://boxitvn.blogspot.com/2011/03/tam-voc-cac-cuoc-noi-day-cua-nhan-dan.html)

[5] “Je me fichais de ce que les autorités allaient me faire. J’étais prêt à aller en prison le temps qu’il fallait pour faire reconnaître la vérité”

(http://en.glosbe.com/fr/en/aller%20en%20prison)

[6] Khi nghe Voltaire nói như thế, có người bèn dẫn một con sói đến trước mặt Voltaire và nói: “Thưa ông đây là một con cừu.” Voltaire lắc đầu nói: “Đó không phài là con cừu. Đó là con sói. Nhưng tôi sẵn sàng chết để bảo vệ quyền anh được nói rằng đó là một con cừu” (xem

http://daohieu.wordpress.com/2013/03/19/nhat-ky-dan-den/)

[7] Nghe và xem “Xin đời một nụ cười@

(https://www.youtube.com/watch?v=gOcDy4yeuFs; http://lyric.tkaraoke.com/23448/Xin_Doi_Mot_Nu_Cuoi.html)

 

Trung Quốc và Hoa Kỳ nghĩ gì về nhau?

Trung Quốc và Hoa Kỳ nghĩ gì về nhau?
July 05, 2014

Nguoi-viet.com

Wolfgang Hirn

Họ rất thích học đại học ở Hoa Kỳ, họ xem phim từ Hollywood và nghe nhạc từ New York, họ theo dõi các cầu thủ NBA trên truyền hình, và họ uống latte macchiatos đắt tiền trong một của những quán cà phê Starbucks mà hiện nay có tại gần như mỗi một ngã tư trong các thành phố lớn Trung Quốc.

Nhìn sự hâm mộ của người Trung Quốc đối với văn hóa và tiểu văn hóa Mỹ, người ta có thể cho rằng người Trung Quốc có một mối quan hệ thoải mái với người Mỹ.

 

Thế nhưng mối quan hệ của Trung Quốc với Hoa Kỳ là một mối quan hệ mâu thuẫn. Nó là một tình yêu-căm thù. Một mặt, nhiều người Trung Quốc ngưỡng mộ tính sáng tạo và lực cải mới – tuy là đang giảm dần – của người Mỹ, mặt khác, Hoa Kỳ đối với họ là địch thủ lớn tầm chiến lược, người mà theo ý họ đang tìm mọi cách để không cho Trung Quốc trở nên hùng cường. Vì vậy mà trong truyền thông nhà nước, nhưng cả trên nhiều trang mạng cá nhân, Hoa Kỳ được xem như là một mối đe dọa.

“Sự ngờ vực tầm mang tính chiến lược của Trung Quốc đối với Hoa Kỳ có cội rễ rất sâu xa và trong những năm vừa qua dường như còn sâu thêm nữa”, hai nhà chính trị học Kenneth Lieberthal (Hoa Kỳ) và Vương Tập Tư (Trung Quốc) viết chung trong một bài báo.

Nó tất nhiên là một sự ngờ vực lẫn nhau. Cả người Mỹ cũng có khó khăn với người Trung Quốc và trước hết là quy cho họ tất cả mọi điều xấu có thể nghĩ ra được: người Trung Quốc cướp việc làm của họ, đánh cắp công nghệ của họ và dự định tiến hành một cuộc chiến tranh mạng chống lại họ. Tất cả những nỗi lo sợ không rõ nét này đã nổi lên trong lần tranh cử của năm vừa rồi, khi cả Mitt Romney lẫn Barack Obama luôn với tới công cụ China-Bashing [Đánh Trung Quốc].

Cũng như ở Trung Quốc, mối quan hệ với Trung Quốc ở Hoa Kỳ cũng mâu thuẫn. Một mặt, người ta nhìn những thành công hết sức nhanh chóng của Trung Quốc về mặt kinh tế với một sự ngưỡng mộ nào đó, mặt khác, người ta khinh thường hệ thống chính trị độc tài. Đặc biệt giới tinh hoa Mỷ rất chia rẽ trong câu hỏi đất nước của họ phải đối xử như thế nào với Trung Quốc phi dân chủ đang hùng mạnh lên. Hố chia cắt sâu nhất là trong giới trí thức Mỹ, nơi có hai phái đứng đối diện với nhau mà không thể hòa giải được – dragon slayer và panda hugger – hay theo một cách phân chia phổ biến khác – blue team chống red team.

Thuộc đội đỏ, những người hiểu Trung Quốc, ngoài những người khác là cựu Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Henry Kissinger, hai nhà trí thức Kenneth Lieberthal và John Thornton của Brookings, Charles Freeman (Center for Strategic and International Studies, CSIS) và các đại diện của U.S.-China Bunisess Council. Đứng trong đội xanh đối nghịch là cựu sếp Ngân hàng Thế giới Paul Wolfowitz, nhà báo Bill Gertz của Washington Times cũng như giáo sư kinh tế và tác giả (Death by China) Peter Navarro.

Hai phái tiến hành những cuộc tranh luận gay gắt. Đó một phần là những cuộc thảo luận mang nhiều xúc cảm. Nhưng cuối cùng thì cũng là việc hết sức quan trọng. Đó là câu hỏi liệu Hoa Kỳ có vẫn còn là nhà hoạt động toàn cầu quyết định tất cả mọi việc hay sẽ mất vai trò dẫn đầu về tay Trung Quốc.

Khán giả Mỹ theo dõi cuộc đấu tay đôi này như thế nào, thiện cảm của họ nằm ở đâu? Dường như đa số họ ủng hộ cho đội xanh. Vì theo một khảo sát của Gallup, Trung Quốc được xem như là kẻ thù lớn thứ nhì của đất nước. Chỉ về Bắc Triều Tiên là người Mỹ có một ý kiến xấu hơn vậy.

Phan Ba trích dịch từ “Der nächste Kalte Krieg: China gegen den Westen”

 

Báo CSVN ca ngợi cách VNCH ‘thực thi chủ quyền biển đảo’

Báo CSVN ca ngợi cách VNCH ‘thực thi chủ quyền biển đảo’
July 10, 2014

Nguoi-viet.com


HÀ NỘI 10-7 (NV) –
Tờ Tiền Phong , báo của Trung Ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh hôm Thứ Năm có một bài nghiên cứu với tựa đề “Cách Việt Nam Cộng hòa thực thi chủ quyền biển đảo”.

Trang báo có bài nghiên cứu về “Cách Việt Nam Cộng hòa thực thi chủ quyền biển đảo” trên tờ Tiền Phong ngày 10-7-2014. (Hình: NV cắt lại từ báo mạng Tiền Phong)

Từ trước tới giờ và nhất là trước kia, CSVN vẫn dùng nhiều thứ từ ngữ sỉ nhục chính thể miền Nam Việt Nam “chỉ là tay sai đế quốc Mỹ, tiếp tay đế quốc Mỹ đẩy nhân dân miền Nam  vào vòng nô lệ, đói khổ lầm than.” Danh hiệu “Việt Nam Cộng Hòa” suốt nhiều chục năm trời là cái đại kỵ trên hệ thống truyền thông của chế độ.

Mãi tới thời gian rất gần đây, khi cuộc tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày càng gay gắt và khó khăn về tất cả mọi mặt, Hà Nội nới lỏng dần dần với cả cách gọi thể chế miền Nam.

Trong bài viết khảo cứu ngày 10 Tháng Bảy của tờ Tiền Phong, tác giả Trần Nguyễn Anh viết về ngư nghiệp, các nghiên cứu, khảo sát tiến đến khai dầu khí, và các quy định của chính phủ VNCH cho các vùng đặc quyền kinh tế trên biển, vấn đề chủ quyền gắn liền với an ninh, kinh tế biển, gồm cả khu vực các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Về ngư nghiệp của VNCH, tác giả bài viết thuật lời ông Nguyễn Hồng Cẩn so sánh sự phát đạt của ngư nghiệp ở miền nam trước 1975, xuất cảng số lượng lớn thủy sản trong khi ở miền Bắc dưới chế độ Cộng Sản gần như chẳng có gì đáng nói.

Tác giả viết rằng: “Không ai hiểu rõ ngành cá của VNCH hơn chính các đồng nghiệp ở miền Bắc. Nguyên thứ trưởng Bộ Thủy sản, ông Nguyễn Hồng Cẩn, người tiếp quản ngành thủy sản miền Nam sau khi đất nước thống nhất và là thứ trưởng phụ trách phía Nam. Ông kể với tôi rằng khi vào Nam ông thực sự bất ngờ vì hệ thống cơ sở hạ tầng như tàu thuyền, nhà máy, thị trường tại đây. Ông nói: ‘Trong kháng chiến ở miền Bắc chỉ mong ước một năm xuất được $100,000 thủy, hải sản nhưng không bao giờ được. Trong khi đó ở miền Nam năm 1960 họ đã xuất khẩu được $21 triệu rồi.’”

Ông Trần Nguyễn Anh dẫn ra tài liệu của VNCH viết rằng: “Năm 1970, miền Nam có 317,442 ngư dân và 85,000 tàu thuyền, trong đó 42,603 tàu có động cơ và 42,612 thuyền không động cơ. 269 thôn và 700 ấp chuyên về ngư nghiệp. 75 Hợp tác xã ngư nghiệp. 200 tàu hộ tống ngư dân. Xây dựng hệ thống hải cảng: Cảng Sài Gòn được đầu tư $11 triệu, Đà Nẵng $1 triệu, Cần Thơ $10 triệu. Xuất khẩu ngư nghiệp $300 triệu, trong khi các sản phẩm còn lại như trà, lạc, cùi dừa… chỉ $158 triệu.”

Đó là nhờ vào chính sách bảo vệ chủ quyền biển đảo của chính quyền VNCH. Tài liệu của chính quyền VNCH được tác giả bài viết trên Tiền Phong cho biết: “Năm 1959, hải quân Việt Nam đã bắt được 40 ghe đánh cá Trung Quốc đưa về Đà Nẵng lưu giữ 6 tháng,” đồng thời cho biết: “Hãng phân bón Việt Nam được thành lập và chính thức hoạt động từ Tháng Tư, 1959, khai thác được 20,000 tấn phốt phát tại Hoàng Sa, rồi bỏ dở từ năm 1960 do thời tiết và vận chuyển khó khăn.”

“Trong lĩnh vực đánh cá, ngày 26 Tháng Mười Hai, 1972, tổng thống VNCH ban hành sắc luật quy định lãnh hải Việt Nam về phương diện ngư nghiệp có một chiều rộng là 50 hải lý, tính từ hải phận quốc gia trở ra. Trong vùng này cấm các loại ghe tàu, thuyền bè ngoại quốc đến đánh cá, khai thác hoặc mua bán hải sản, trừ khi có giấy phép trước của chính phủ.”

Về vấn đề dầu khí, tác giả bài khảo cứu viết lại rằng: “Theo số liệu thì vào Tháng Tám, 1973 chính phủ VNCH đã cấp quyền đặc nhượng tìm kiếm trên 8 lô với tổng số diện tích là 57,223km2 cho 4 nhóm công ty Pecten, Mobil, Esso và Sunningdale. Trong đợt này các công ty đã trả cho chính phủ một số tiền hoa hồng chữ ký là $16.6 triệu và cam kết một số tiền đầu tư trong 5 năm tổng cộng là $59.25 triệu. Ngoài ra các công ty còn dành một số tiền tổng cộng $300,000 mỗi năm cho việc huấn luyện chuyên viên kỹ thuật ngành dầu hỏa.”

“Tháng Sáu, 1974, chính phủ VNCH lại cấp thêm 5 quyền đặc nhượng tìm kiếm dầu mỏ thêm 5 lô với tổng diện tích 24,380km2 cho 4 tổ hợp là Mobil, Pecten, Union và Marathon. Trong đợt này các công ty cũng trả cho chính phủ VNCH hoa hồng chữ ký là $29.1 triệu và cam kết đầu tư trong 5 năm là $44.5 triệu.”

“Các thông cáo cho thấy hoạt động đào giếng bắt đầu vào ngày 17 Tháng Tám, 1974 với giếng thăm dò Hồng I-X, giếng dầu đầu tiên được đào trong thềm lục địa Việt Nam do công ty Pecten thực hiện. “Kết quả đã tìm thấy dầu ở độ sâu 5,320 feet. Tiếp theo đó là việc đào giếng dầu Dừa I-X với sự phát hiện ra dầu và khí thiên nhiên.”

“Khảo sát các điều khoản trong hợp đồng đặc nhượng của VNCH, chúng ta thấy nó được dựa trên thông lệ quốc tế, tuy nhiên luôn nhấn mạnh đến lợi ích của Việt Nam cũng như quyền chủ động trong khai thác, vận hành.” (TN)

 

Làn gió mới lướt qua Xã hội dân sự VN

Làn gió mới lướt qua Xã hội dân sự VN

Tiến sĩ Phạm Chí Dũng

Gửi cho BBC từ Sài Gòn

Thứ năm, 10 tháng 7, 2014

Nguyễn Tiến Trung nay đã được trả tự do

Những người bạn trẻ mới ra tù như Nguyễn Tiến Trung và Đỗ Thị Minh Hạnh đều thốt lên với gương mặt rạng rỡ đến ngỡ ngàng “Thật không thể tin nổi!”.

Những ráng xuân bị lặng dập trong chốn lao tù cũng là những mùa xuân nở hoa ngoài đời. Sau vài ba năm nằm trong phòng giam kín mít và bị cô lập tuyệt đối với thế giới bên ngoài, người cựu tù nhân lương tâm bước ra cửa trại giam và không thể tin vào mắt mình khi chứng kiến những vòng tay chan chứa rộng mở.

Khác vô cùng những năm trước, giờ đây không một cựu tù nhân lương tâm nào bị cô độc ở Việt Nam. Mối tình đang nở hoa trong lòng họ chính là xã hội dân sự.

Hoài niệm

Hãy hoài niệm.

Từ cuối năm 2012 trở về trước, chưa từng có khung cảnh ấm áp ân tình của số đông những người cùng cảnh và cả những người chưa có cơ hội rơi vào cảnh ngộ tù đày vì bất đồng chính kiến.

Cho đến tháng Chạp năm 2012, luật sư Công giáo Lê Quốc Quân còn bị bắt giam và sau đó bị xử án với tội danh trốn thuế, dù tất cả đều biết rõ anh chính là một cái gai nhọn chống Trung Quốc. Cũng vào thời điểm đó, cuộc đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ bị phía Hoa Kỳ đình hoãn vô thời hạn do “thành tích nhân quyền thụt lùi sâu sắc” của Hà Nội. Bầu không khí khi đó ngột ngạt, u ám và đầy đe dọa.

Còn giờ đây, mùa xuân của xã hội dân sự dường như đang bắt đầu tỏa nắng. Gần hai chục tổ chức dân sự độc lập từ Bắc vào Nam. Vào tháng 5/2014, lần đầu tiên 16 hội đoàn dân sự độc lập ngồi sát bên nhau trong một tinh thần thống nhất rất cao về chủ đề cần kíp phải xây dựng tổ chức công đoàn độc lập.

“Có thể so sánh giai đoạn này ở Việt Nam với thời kỳ bắt đầu xuất hiện Công đoàn đoàn kết ở Ba Lan vào những năm 70…”

Rõ là xã hội dân sự ở Việt Nam đang hình thành những tiền đề của nó. Một cách nào đó, có thể so sánh giai đoạn này ở Việt Nam với thời kỳ bắt đầu xuất hiện Công đoàn đoàn kết ở Ba Lan vào những năm 70, hay phong trào “Hiến chương 77” ở Tiệp Khắc cuối thập kỷ 70, và cuối cùng là con sóng dập dồn ở Liên bang Xô viết với phong trào dân chủ của Viện sĩ Sakharov – người từng hai lần giành giải thưởng Lenin – vào những năm cuối của thập kỷ 80 của thế kỷ 20.

Còn ở Việt Nam, nếu có thể nói về một phong trào dân sự quy tụ tương rộng rãi sự tham gia của các thành phần trong và ngoài nước thì đó chính là Phong trào “Kiến nghị 72” của giới nhân sĩ, trí thức vào đầu năm 2013. Vượt hẳn những biểu hiện cá lẻ của những năm trước, phong trào này đã tập hợp được gần 15.000 chữ ký trên mạng về những vấn đề động trời trong bối cảnh còn nguyên thể chế độc đảng ở Việt Nam, như yêu cầu hủy bỏ điều 4 hiến pháp, quân đội chỉ trung thành với Tổ quốc chứ không phải với đảng…

Mọi chuyện đều có logic diễn biến từ quần thể xã hội sang tâm lý cá nhân. Thật đáng ngạc nhiên, nhưng lại không quá khó hiểu khi một cựu cán bộ tuyên giáo như ông Vi Đức Hồi lại rắn rỏi đến thế ngay sau khi ra tù vào đầu năm 2014. Tâm trạng lạc quan phơi phới ở con người này ngay lập tức làm cho người tiếp xúc hiểu rằng điều luật 88 về “tuyên truyền chống nhà nước” cùng những năm tháng đếm lịch đã chỉ khiến trong ông hun đúc hơn đức tin tìm đến sự thật. Ít nhất, sự thật đó là hình ảnh Hội cựu tù nhân lương tâm Việt Nam đã sẵn lòng đón chờ ông bên ngoài, cánh cửa rỉ sét của trại giam, thay cho khuôn mặt nhàu nát của thể chế cầm quyền.

Không phải cổ tích

Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam thành lập hôm 4/7

Thực ra, câu chuyện đơm hoa kết trái của xã hội dân sự không phải là cổ tích.

Vào tháng 8/2013, lần đầu tiên đã diễn ra một sự kiện làm cho giới đấu tranh dân chủ nhân quyền trong nước và hải ngoại phải bật lên vì kinh ngạc: nữ sinh Phương Uyên được trả tự do ngay tại tòa Long An vào buổi chiều phiên xử phúc thẩm, trong khi vào buổi sáng chính quyền và công an sở tại vẫn còn say sưa trấn áp những người biểu tình đòi trả tự do cho cô. Thật quá ít người có thể tin rằng mức án sơ thẩm đến 6 năm dành cho Phương Uyên lại có thể ra đi nhẹ bẫng đến thế.

Chỉ đến đầu năm 2014, một thông tin mới rò rỉ qua kênh ngoại giao đã lý giải cho câu chuyện lẽ ra đáng gọi là cổ tích trên: Phương Uyên nằm trong danh sách 5 tù nhân chính trị mà phía Hoa Kỳ đề nghị chính quyền Việt Nam thả. Vào thời điểm yêu cầu này được Washington nêu ra, Hà Nội lại quá sốt sắng săn tìm một cái ghế trong Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc cùng một chỗ ngồi trong Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Mọi chuyện trên đời đều có cái giá riêng của nó. Để có được ít giây phút hàn huyên với nhau như giờ đây, xã hội dân sự đã phải câm lặng quá nhiều năm. Nhưng đến lượt giới cầm quyền Việt Nam, họ lại phải trả một cái giá tối thiểu khi ít nhất phải tự hạ thấp thể diện trong con mắt cộng đồng quốc tế. Chính sách thả tù nhân lương tâm cũng vì thế đã bắt đầu có hiệu lực một cách vô cùng kín đáo.

Liên tiếp trong hai tháng Hai và Ba năm 2014, 5 tù nhân lương tâm là Đinh Đăng Định, Nguyễn Hữu Cầu, Vi Đức Hồi, Cù Huy Hà Vũ và Nguyễn Tiến Trung đã tạo nên một sự kiện thả người chưa từng có tiền lệ trong lịch sử chế độ cầm quyền ở Việt Nam từ năm 1975. Trước đó một chút, Văn đoàn độc lập Việt Nam và Hội cựu tù nhân lương tâm Việt Nam đã gần như đồng loạt ra đời. Một hội đoàn khác là Hội nhà báo độc lập Việt Nam cũng bắt đầu được bàn tới.

“Chính vào lúc này, giới dân chủ nhân quyền và cả những người quan tâm đến vận mạng chính trị nước nhà lại có thể cảm nhận về một giai đoạn mới có thể đang hình thành. “

Hẳn là chuyến viếng thăm Hà Nội vào tháng 2/2014 của nữ thứ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ Wendy Sherman đã không hoài phí. Tiếp theo lời hứa hẹn “sẽ giúp đỡ” của Ngoại trưởng John Kerry cũng tại Hà Nội vào tháng 12/2013, bà Sherman thậm chí còn biểu cảm lãng mạn với nhận xét “Xã hội dân sự là một trong những điểm thú vị nhất trong quan hệ giữa hai quốc gia”.

Mọi chuyện quả là khá thú vị, thú vị cho đến khi một trong những nhà hoạt động công đoàn độc lập đầu tiên ở Việt Nam là Đỗ Thị Minh Hạnh đã được đặc cách phóng thích trước thời hạn thụ án tù giam đến gần ba năm. Và cũng không có bất kỳ một điều kiện nào được chính quyền kèm theo. Hay nói cách khác, mọi điều kiện đều bị Minh Hạnh bác bỏ.

Chính vào lúc này, giới dân chủ nhân quyền và cả những người quan tâm đến vận mạng chính trị nước nhà lại có thể cảm nhận về một giai đoạn mới có thể đang hình thành. Có thể một lần nữa sau thời điểm tháng 7/2013 với cuộc tái giao thoa Việt – Mỹ tại Nhà Trắng, xã hội dân sự có cơ hội để nở hoa.

Một làn gió mới của mùa xuân đang mơn man trên mái đầu non trẻ của xã hội dân sự. Vào đúng ngày kỷ niệm Bản tuyên ngôn độc lập Hợp chủng quốc Hoa Kỳ 1776, Hội nhà báo độc lập ra đời.

Chẳng cần nhìn đâu xa xôi và cũng chẳng nên chờ đợi thêm một kích thích tố mới mẻ hơn, đã đến lúc có thể bàn về câu chuyện Công đoàn độc lập và Hội luật gia độc lập tại Việt Nam; và làm thế nào để xã hội dân sự Việt Nam thượng tôn một tinh thần độc lập dân tộc, lồng trong thời buổi phải dấy lên chút ý chí chống ngoại xâm còn sót lại, cho hiện tồn và cho cả những năm tháng mai sau.

Đứa con ngỗ nghịch và đứa con hoang, ai hơn ai?

Đứa con ngỗ nghịch và đứa con hoang, ai hơn ai?

Bình luận của GS Nguyễn Đăng Hưng

Cứ nghĩ Triều Tiên điên rồ cam phận chạy theo chủ nghĩa viễn vông làm tay sai cho Trung Cộng. Triều Tiên hiếu chiến, chỉ lo súng đạn khí giới hạch nhân, hoả tiễn công phá… Các hành động, chủ trương của chính quyền Triều Tiên những năm gần đây chỉ rõ sự xác đáng của những nhận định trên. Bởi vậy, đề xuất mới đây (http://www.kcna.co.jp/top-eng.html) của Triều Tiên thật bất ngờ!

Triều Tiên đã trở thành đứa con ngỗ nghịch!

Tuy nhiên, đối với những ai am tường địa chính trị, việc này đã có chuẩn bị từ một năm nay. Từ khi ông Kim Jong Un trẻ măng lên cầm quyền, ông ta đã tiêu diệt một cách khốc liệt nhóm thân Tàu đại diện không ai khác là cậu mình – ông Jang Song Thaek – một “nguyên lão công thần”, cánh tay phải của cố chủ tịch Kim Jong Il. Chính đám này là nhóm lợi ích, mấy chục năm nay đã bán rẻ tài nguyên thiên nhiên Triều Tiên cho Trung Cộng.

Ông Kim Jong Un đã chuẩn bị cho một sự xoay trục ngoạn mục!

Cứ tưởng Triều Tiên sẽ là nước cuối cùng ý thức được nguy cơ bá quyền Đại Hán, nhưng không, Triều Tiên đang đi trước một nước khác! Sao thấy có gì tương tự ở đâu đây? Một nước mà ngay cả khi giàn khoan của Tàu ô nghịch tặc ngang nhiên xâm phạm hải phận của mình, đâm vỡ tàu kiểm ngư của mình, bắt bớ hành hạ dân mình mà lãnh đạo gần như chưa tỉnh hẳn… Một nước mà lãnh đạo còn đặt quyền lợi phe phái mình lên trên quyền lợi quốc gia dân tộc, một nước mà bọn Tàu ô đã khinh bỉ ra mặt tặng cho danh hiệu là đứa con hoang, mà tỉnh Quảng Đông của chúng dám ra lịnh cho lãnh đạo thủ đô, lãnh đạo thành phố kinh kế lớn nhất phải nhanh chóng gởi cán bộ sang học tập nhận lịnh từ chúng… Ôi nỗi nhục này nước biển Đông Nam Á làm sao rửa cho sạch hỡi trời?! Nước đó là nước nào? Mọi chuyện nay sáng như ban ngày…

Sài Gòn ngày 8/7/2014

N.Đ.H.

Nếu Đảng Cộng sản TQ không còn?

Nếu Đảng Cộng sản TQ không còn?

Nhà thơ Trần Tiến Dũng

Gửi cho BBC từ Sài Gòn

Thứ tư, 9 tháng 7, 2014

Vụ giàn khoan Hải Dương 981 thể hiện sự mạnh hay yếu của Trung Quốc?

Chỉ trong hơn nửa năm 2014, hàng loạt các diễn biến khủng hoảng gần đây ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á cho thấy chiến tranh tất yếu sẽ đến.

Động lực tham vọng tạo ra khủng hoảng, thúc đẩy tiến trình chiến tranh đều có đầu nguồn từ đệ nhị siêu cường Trung Quốc.

Qua thực hiện chiến lược cứng “Giấc mơ Trung Quốc”, việc đầu tiên của ông Tập Cận Bình và giới cầm quyền Trung Nam Hải là thay đổi nguyên trạng cân bằng chiến lược đã tồn tại trước những cửa ngõ sinh tồn của Trung Quốc.

Tranh chấp

Trung Quốc muốn đoạt cửa ngõ sinh tồn và khu vực tranh chấp sinh lợi bằng quyền lực cứng, ngay trong một thời đại mà quyền lực mềm tỏ ra hiệu quả hơn bao giờ hết.

Nước Mỹ và Khối EU dù chưa áp dụng tổng lực quyền lực mềm, nhưng qua sự kiện nước Nga sáp nhập Crimea của Ukraine, chỉ cần sử dụng quyền lực mềm có giới hạn, họ cũng đã làm nguội những cái đầu nóng ở điện Kremli

Với tốc độ và chất lượng từ các cổng thông tin điện tử toàn cầu như hiện nay, có thể nói công dân của từng quốc gia đều có cơ sở thông tin để trở thành nhà bình luận chính trị, quân sự có tầm cỡ.

Một trong những nhận định đáng chú ý nhất tại thời điểm này là Trung Quốc không chỉ đang bị bao vây, cô lập bởi những cánh cửa tự vệ từ các nước láng giềng.

Thực ra, Bắc Kinh đang chống chọi quyết liệt trước tiến trình sụp đổ.

Có nhận định cho rằng, Trung Quốc quyết không rút giàn khoan đang xâm lăng chủ quyền biển của Việt Nam, chính là một trong những bước sửa sai chiến lược cứng.

Và nếu cả khi họ thỏa hiệp để rút giàn khoan thì cũng thuộc sách lược toàn cục nhằm giữ cho Bắc Kinh phần nào đó khỏi thế cô lập để chống chọi, cầm cự giảm thiểu tốc độ tiến trình tan rã.

Mầm mống phát sinh tiến trình sụp đổ của Trung Quốc thuộc về những vấn đề bệnh lý nội tại toàn diện của chính quyền Bắc Kinh và xã hội của Trung Quốc.

 

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình muốn khôi phục ‘Giấc mơ Trung Quốc’

Nhưng chính sự nôn nóng, quá chủ quan thể hiện chiến lược cứng để thực hiện tham vọng “Giấc mơ Trung Quốc”, cụ thể là kéo giàn khoan cùng binh đoàn giàn khoan hùng hậu xuống biển nam đã làm bít cửa sinh tồn của chính họ.

Nếu Bắc Kinh sụp đổ?

Diễn biến chuyện Bắc Kinh sụp đổ cụ thể ra sao?

Có lẽ cộng đồng quốc tế và từng công dân đa quốc gia sẽ đưa những chủ kiến riêng, nhưng ngay lúc này việc xây dựng những kế hoạch dự phòng cho từng dân tộc có chung biên giới với Trung Quốc là việc hết sức thiết thực.

Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên, đồng minh lâu đời của Bắc Kinh, đã chủ động đề nghị Đại Hàn Dân Quốc hình thành một nhà nước liên bang.

Nước Nhật thông qua luật Quyền tự vệ tập thể và có những bước liên minh quân sự, an ninh chiến lược toàn diện kéo dài đến Úc, Tân Tây Lan…

Ngay cả khi chưa có vụ giàn khoan HD 981 xâm lăng chủ quyền biển Việt Nam, Miến Điện cũng đã thức tỉnh trước Trung Quốc.

Chính thể Hà Nội sẽ làm gì? Ngay cả khi Trung Quốc không tiến hành chiến tranh trên bộ với các nước láng giềng, sự sụp đổ của Bắc Kinh đồng thời sẽ có những binh đoàn hùng hậu mất chủ cùng với dân tị nạn tràn qua biên giới thì thể chế Hà Nội sẽ làm gì?

“Nếu chính thể Hà Nội hôm nay không có những quyết sách mạnh mẽ trước cận cảnh sụp đổ của Trung Quốc, thì chính sự sụp đổ của chính quyền Bắc Kinh sẽ biến thể chế Hà Nội thành bạn đồng hành.”

Dư luận cho rằng đó sẽ là cơ hội để Việt Nam thu hồi thực địa chủ quyền Hoàng Sa, Gạc Ma… và các phần đất biên giới bị cướp. Nhưng liệu cơ hội đó có trong tầm suy nghĩ và dũng khí của chính thể Hà Nội không?

Thật khó trả lời cho các tiền đề hệ trọng, như làm cách nào giữ được chủ quyền nếu bùng nổ quá trình Trung Quốc sụp đổ mà họ vẫn nhất quyết không buông Việt Nam?

Làm cách nào ngay cả khi chính quyền cộng sản Bắc Kinh mất hết thực quyền và chạy xuống phía nam nắm chắc Việt Nam? Làm cách nào khi chính thể mới lập ở Bắc Kinh để cho Việt Nam thoát Trung?

Làm cách nào mà khi Trung Quốc tan rã thành nhiều quốc gia nhỏ, trong số những quốc gia đó vẫn ngang nhiên, phi pháp tuyên bố Giàn khoan và binh đoàn giàn khoan đang thực hiện quyền khai thác trên chủ quyền lãnh hải của họ?

Trong suốt quá lịch sử, các chính thể cầm quyền Việt Nam luôn luôn sáng rõ ý thức chủ, khách, bạn, thù của dân tộc Vận mạng dân tộc hiện sinh đến ngày nay đã là minh chứng mạnh mẽ nhất cho ý thức độc lập dân tộc.

Nếu chính thể Hà Nội hôm nay không có những quyết sách mạnh mẽ trước cận cảnh sụp đổ của Trung Quốc, thì chính sự sụp đổ của chính quyền Bắc Kinh sẽ biến thể chế Hà Nội thành bạn đồng hành.

Gieo và Gặt

Gieo và Gặt

(Chúa Nhật XV TN, năm A)

Tác giả: Trầm Thiên Thu

Muốn Gặt thì phải Gieo, trước khi Gieo thì phải có Hạt Giống. Hạt giống là thứ rất quan trọng trong nông nghiệp. Hạt giống phải là những hạt giống mẩy, chắc, có màu sáng. Hầu hết các loại hạt cây lương thực đều gồm ba phần là vỏ, phôi và phôi nhũ. Vỏ có nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho hạt, không để phôi hạt bị hư hỏng, vì phôi là “sinh mệnh” của hạt, có nhiệm vụ nảy mầm để có thể trở thành cây con, còn phôi nhũ là phần chứa dưỡng chất của hạt, là phần nuôi cây con.

Hạt giống tốt mới có thể nảy mầm tốt, lớn thành cây tốt, và sinh hoa trái tốt. Chắc chắn là vậy, có lần chính Chúa Giêsu đã xác định: “Xem quả thì biết cây” (Mt 12:33; Lc 6:44). Cây tốt không thể sinh trái xấu, cây sâu không thể sinh trái ngọt. Về tinh thần cũng cần có “hạt giống tâm hồn”. Tương tự, về tâm linh rất cần “hạt giống Lời Chúa”.

QUẢ và CÂY có hệ lụy với nhau. GIEO và GẶT có hệ lụy với nhau. NÓI và NGHE cũng vậy, vì NÓI là GIEO, NGHE là GẶT. Tương tự, LÒNG và MIỆNG cũng không thể tách rời: “Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra” (Lc 6:45). Một hệ lụy tất yếu: “Vì nhờ lời nói của anh mà anh sẽ được trắng án, và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án” (Mt 12:37). Người Việt chúng ta cũng nói: “Có đầy mới tràn”.

Từ khi gieo và tới lúc gặt (thu hoạch) là một quá trình đầy gian khổ. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126:5-6). Nỗi buồn và niềm vui, đau khổ và sung sướng, nụ cười và nước mắt,… đó là các cặp tương đồng về hai trạng thái trái ngược nhau, cũng như GIEO và GẶT. Gieo là lúc vất vả, gặt là lúc tận hưởng. Thật vậy, không có niềm hạnh phúc nào mà không có ít nhiều nước mắt.

Trong quá trình Gieo và Gặt, vấn đề thời tiết cũng quan trọng. Không mưa thuận gió hòa thì con người cũng “bó tay”. Hoặc đến ngày thu hoạch, nhưng chỉ một cơn bão hoặc lũ lụt thì con người cũng đành chịu trắng tay. Điều đó cho thấy Đấng Vô Hình mới làm chủ mọi thứ, Đấng đó là Thiên Chúa. Vừa kinh ngạc vừa kinh sợ, người ta tự hỏi về Đức Giêsu Kitô: “Ông này là người thế nào mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?” (Mt 8:27; Mc 4:41; Lc 8:25).

Đức Chúa tuyên lời qua miệng ngôn sứ Isaia: “Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó” (Is 55:10-11). Thiên Chúa dùng hình ảnh rất quen thuộc, rất thực tế đời thường. Lời Chúa rất kỳ diệu, rất quan trọng trong đời sống Kitô hữu: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119:105). Không chỉ vậy, Lời Chúa còn có sức mạnh phi thường, không ai có thể cưỡng lại.

Khả dĩ cảm nghiệm Lời Chúa, tác giả Thánh Vịnh chia sẻ: “Thăm trái đất, Ngài tuôn mưa móc, cho ngập tràn phú túc giàu sang, suối trời trữ nước mênh mang, dọn đất sẵn sàng đón lúa trổ bông. Tưới từng luống, san từng mô đất, khiến dầm mưa cho hạt nẩy mầm, bốn mùa Chúa đổ hồng ân, Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi” (Tv 65:10-12). Hồng ân Thiên Chúa chan hòa như mưa móc, Lời Chúa là nguồn giải khát thiết yếu, ước gì chúng ta cũng có thể nói được như tác giả Thánh Vịnh: “Con há miệng và con hớp lấy, vì khát khao mệnh lệnh của Ngài” (Tv 119:131). Hằng ngày ai sống được như vậy thì thật hạnh phúc biết bao!

Thiên nhiên tràn ngập hình ảnh chứng tỏ quyền năng của Thiên Chúa: “Vùng hoang địa xanh rì ngọn cỏ, cảnh núi đồi hớn hở tươi xinh, chiên cừu phủ trắng đồng xanh, lúa vàng dưới lũng rung rinh dạt dào, câu hò tiếng hát trổi cao” (Tv 65:13-14). Khi nhìn ngắm thiên nhiên, người ta có thể nhận biết Thiên Chúa hiện hữu. Ngay cả những người theo chủ nghĩa vô thần cũng không thể chối bỏ Ông Trời, dù họ không muốn công khai xác nhận, vì họ không thể nào “vắt đất ra nước, thay trời làm mưa” như họ muốn.

Hằng ngày, bằng cách này hoặc cách nọ, chúng ta cũng “gieo” nhiều thứ qua ánh mắt, thái độ, cử chỉ, lời nói, hành động,… Có những thứ chúng ta có thể “gặt” ngay lúc đó, nhưng cũng có những thứ cần có thời gian. Dù lâu hay mau, trong khoảng “gieo – gặt” vẫn có một khoảng chờ đợi. Thánh Phaolô nhận xét: “Tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta. Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người” (Rm 8:18-19). Đó là khoảng chờ đợi, khoảng hy vọng, luôn rất cần có sự kiên trì. Thánh Phaolô giải thích: “Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt chịu vậy; tuy nhiên, vẫn còn niềm trông cậy là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự dovinh quang” (Rm 8:20-21).

Được giải thoát là được tự do, có tự do là có hạnh phúc. Thánh Phaolô cho biết thêm: “Cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siếtquằn quại như sắp sinh nở. Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta cũng rên siết trong lòng: chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu, nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc thân xác chúng ta nữa” (Rm 8:22-23). Đó mới là lúc thực sự được giải thoát, được thu hoạch chính những gì chúng ta đã “gieo” trong suốt cuộc đời. Ai gieo giống tốt thì bội thu, ai gieo giống xấu cũng có thu hoạch, nhưng là thu hoạch những cái xấu xa và nguy hại.

Một hôm, Đức Giêsu từ nhà ra ngồi ở ven Biển Hồ. Dân chúng tụ họp bên Ngài rất đông, nên Ngài phải xuống thuyền mà ngồi, còn tất cả dân chúng đứng trên bờ. Ngài dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều, một trong các dụ ngôn đó là “Dụ Ngôn Người Gieo Giống” (Mt 13:1-23; Mc 4:1-20; Lc 8:4-15).

Trong dụ ngôn này có bốn loại hạt: (1) Những hạt rơi xuống vệ đường, bị chim chóc ăn mất; (2) Những hạt rơi trên nơi sỏi đá, đất không nhiều, nó mọc ngay nhưng bị cháy khô khi nắng lên; (3) Những hạt rơi vào bụi gai, nó chết nghẹt vì bị gai mọc đè lên; (4) Những hạt rơi vào đất tốt nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục.

Chúa Giêsu thản nhiên nói: “Ai có tai thì nghe” (Mt 13:9). Một câu nói rất đáng để chúng ta suy nghĩ nhiều. Tại sao Đức Giêsu dùng dụ ngôn mà nói? Chúa Giêsu giải thích: “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không. Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất. Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu. Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ Isaia, rằng: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành” (Mt 13:11-15). Ung thư là dạng xơ cứng cơ phận nào đó, “chai đá” là dạng xơ cứng tâm hồn, chứng ung thư linh hồn. Cứng lòng cũng là tội xúc phạm tới Chúa Thánh Thần, thế nên không đời nào được tha (x. Mc 3:29; Lc 12:10).

Chúa Giêsu đã xác định: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe. Quả thế, Thầy bảo thật anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” (Mt 13:16-17). Chúng ta không diễm phúc như các tông đồ xưa, nhưng chúng ta lại có một mối phúc khác mà chính Chúa Giêsu đã nói: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29).

Trong các dụ ngôn, có lẽ dụ ngôn Người Gieo Giống khó hiểu nhất. Vì thế, Chúa Giêsu đã phải giải thích: “Hễ ai nghe lời rao giảng Nước Trời mà không hiểu, quỷ dữ đến cướp đi điều đã gieo trong lòng người ấy: đó là kẻ đã được gieo bên vệ đường. Còn kẻ được gieo trên nơi sỏi đá, đó là kẻ nghe Lời và liền vui vẻ đón nhận. Nhưng nó không đâm rễ mà là kẻ nhất thời: khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì Lời, nó vấp ngã ngay. Còn kẻ được gieo vào bụi gai, đó là kẻ nghe Lời, nhưng nỗi lo lắng sự đời, và bả vinh hoa phú quý bóp nghẹt, khiến Lời không sinh hoa kết quả gì. Còn kẻ được gieo trên đất tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu, tất nhiên sinh hoa kết quả và làm ra, kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục” (Mt 13:19-23). Lời giải thích của Chúa Giêsu quá chính xác và rõ ràng, chẳng cần chú thích chi nữa!

Có lẽ chúng ta chưa đến nỗi là “hạt gieo bên vệ đường”, nhưng rất có thể chúng ta là “hạt gieo nơi đá sỏi” và “hạt gieo vào bụi gai”, vì chúng ta có nhiều những nỗi sợ hãi và nỗi lo lắng. Vả lại, đôi khi chúng ta còn ảo tưởng, vì chúng ta có vẻ rất “ngoan ngoãn và hiền lành” khi ở trong nhà thờ, nhưng khi ra ngoài nhà thờ thì… “khác hẳn”, y như các ảo thuật gia có thể biến Chiên thành Cọp, thiết tưởng có lẽ chúng ta cũng nên “xem lại”. Sự thật thì vẫn hay phũ phàng thế đấy, nhưng chỉ có thuốc đắng mới “đã” tật!

Công thức là điều cần thiết, và nghi thức hoặc nghi lễ cũng vậy, vấn đề quan trọng là đừng quá câu nệ vào hình thức, chú ý số lượng mà coi thường chất lượng! Hạt giống là hạt đời, có nhiều dạng hạt lép và cũng có nhiều dạng hạt mẩy. Tính từ “mẩy” hoặc “lép” đôi khi còn do chính chúng ta gán ghép cho người khác, chứ không phải tại hạt. Chí Phèo cũng muốn sống tốt mà tại thành kiến của người đời khiến anh ta không thể “ngóc đầu” lên được. Hạt Chí Phèo muốn “mẩy” mà bị người đời làm cho “lép”. Vì thế mà có những dạng “cùi không sợ lở”. Lỗi tại ai? Lỗi tại tôi ba lần đủ chưa? Và chúng ta có thật lòng “đấm ngực” không? Ai thực sự can đảm mới có thể trả lời!

Ước gì mỗi chúng ta đều là “hạt gieo vào đất tốt” và sinh lời, nhiều hay ít cũng được, miễn sao là có sinh lời – cho chính mình và cho tha nhân.

Thánh Phaolô nói: “Ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí là sự sống đời đời. Khi làm điều thiện, chúng ta đừng nản chí, vì đến mùa chúng ta sẽ được gặt, nếu không sờn lòng” (Gl 6:7-9).

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết gieo giống tốt và trở thành những hạt giống gieo nơi đất tốt để chúng con “được hưởng tình thương Chúa và ơn cứu độ theo lời hứa của Ngài” (Tv 119:41). Xin cho chúng con được vui hưởng lòng nhân hậu của Ngài và xin củng cố việc tay chúng con làm (Tv 90:17). Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

 

Tình cứ đuổi theo người như chiếc bóng

Tình cứ đuổi theo người như chiếc bóng

Chuacưuthe.com

VRNs (09.07.2014) – Úc Đại Lợi – Suy tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ 15 mùa Thường niên năm A 13.7.2014

“Tình cứ đuổi theo người như chiếc bóng”

Người thì không bắt bóng được bao giờ.”

(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mt 13: 1-23

Tình nhà thơ, vẫn hững hờ/thờ ơ như chiếc bóng, người đeo đuổi. Tình nhà Đạo, vẫn lân-tuất ở đâu đó chốn thiên-đường, người thụ hưởng. Cuộc tình đời, người người vẫn viện-dẫn thi-ca để diễn-tả. Tình Chúa với con người, nhà Đạo xưa nay lại nhờ dụ-ngôn chuyển-tải để người nguời nhớ mà hiện-thực.

Hiện-thực Tin Mừng, thánh Mác-cô và Mát-thêu có thói quen diễn-tả bằng thể-thức dụ-ngôn để mọi người cảm-kích mà trải rộng tình thương suốt mọi thời.

Tin Mừng các thánh diễn-tả, ta như cảm-nghiệm được cả mùi cát bụi lẫn mồ hôi cùng mùi máu của các thánh tử-đạo khi xưa bị Nêrô giết hại. Tin Mừng còn diễn-tả sinh-hoạt của cộng-đoàn Rôma truyền-tụng từ thời tiên-khởi. Thánh Mác-cô, là tác-giả Tin Mừng từng suy-tư các diễn-biến thời Hội-thánh Chúa bị bách-hại, hầu hỗ-trợ, ủy-lạo cộng đoàn sống khốn-khổ, như thời Chúa.

Hôm nay, người đọc Tin Mừng lại thấy một loạt truyện kể do thánh Mát-thêu ghi, để mọi người biết sinh-hoạt cộng đoàn Hội-thánh sống vào buổi đầu. Đọc dụ-ngôn, nếu người đọc muốn biết ý của tác-giả, cũng phải tìm-hiểu kỹ đại ý nằm ở dưới truyện, rồi phải xét xem Tin Mừng muốn đưa ra điều gì gửi đến với ta và cho ta?

Suy cho kỹ, ta thấy cách viết của thánh Mát-thêu đã dựa trên cốt truyện do thánh Mác-cô viết trước nhất. Làm thế, thánh Mát-thêu mới đưa ý chính vào nội-dung rồi áp-dụng cho mỗi truyện. Nói chung thì, dụ-ngôn là lối kể truyện có lời nói lẫn ảnh-hình được diễn-tả để người đọc thấy “bí kíp” và ý nghĩa cuộc sống được các bậc thày người Do-thái sử-dụng để răn đời.

Nhiều lúc, tác-giả cũng sử-dụng câu đố hoặc ẩn-dụ thật cũng khó. Có khi, câu truyện lại giống trò chơi “ô chữ” cốt để người đọc đoán ý-nghĩa mỗi câu sao cho phù-hợp với lời kể. Nói tóm lại, tất cả là kiểu nói và kể cốt đòi người đọc phải bỏ giờ ra mà suy-tư cho thật kỹ, mới hiểu được.

Thánh Mác-cô là thánh-sử đầu tiên viết Tin Mừng, từng áp-dụng phương-cách này hầu diễn-bày Lời Chúa về các sự-việc tiêu-biểu. Chẳng hạn, khi Chúa nói: “Hãy trở thành hư không/trống rỗng đến độ anh em không còn giữ thứ gì trong mình”. Hoặc đoạn khác, Ngài lại bảo: “Thày ra đi một nơi mà anh em không thể tìm đến được!” Dĩ nhiên, những người nghe Ngài nói, đều không thể hiểu ý Ngài muốn diễn-tả. Thế nên, người bộc-trực như thánh Phêrô đã phải ra mặt phản-đối, nên mới làm phật ý Thày.

Thánh Mát-thêu thì lại khác. Là người sinh sau đẻ muộn những hai thập-niên sau tác-giả Mác-cô, thánh Mát-thêu biết ý của vị tiền-nhiệm và hiểu rõ mục-đích viết dụ-ngôn, hơn ai hết. Thế nhưng, thánh-nhân lại không theo khuôn-phép người đi trước vẫn làm, mà lại đã chỉnh-sửa cốt truyện cũng như ảnh-hình nằm trong đó. Là nhân-sĩ cao niên nhiều kinh-nghiệm, thánh Mát-thêu thêm vào đó cả sự khôn-ngoan lẫn thể-loại khác-biệt vào truyện hầu giúp người đọc hiểu dễ hơn.

Nơi dụ-ngôn người gieo giống, thánh Mát-thêu kể rõ từng loại đất trại, hầu nói lên một hình-thái thế-giới của mình, trong đó có Chúa gieo-vãi hạt giống màu-mỡ để nó dồi-dào, phong-phú hơn. Thánh-nhân còn kể rõ về “cỏ lùng” là loại cỏ dại mọc chen với lúa, vào độ gặt. Thành thử, ý của thánh-nhân muốn căn-dặn người Do-thái hãy kiên-nhẫn với cỏ dại kẻo làm hại vụ mùa đang tươi tốt.

Ở đoạn khác, thánh-nhân lấy ví-dụ về hạt cải tuy nhỏ nhưng vẫn trở-thành thứ gì đó quan-trọng hơn nhiều thứ khác, nếu nhận ra được thứ gì quí giá như viên ngọc quý nằm ẩn trong trai sò ốc hến. Thế nên, đừng loại bỏ thứ gì quí giá ẩn-tàng trong lớp vỏ xù xì, cũ kỹ. Cũng hệt thế, dân chài nào nhiều kinh-nghiệm thường sử-dụng “lưới cào” mắt nhỏ mới bắt được nhiều thứ có giá trị. Kể dụ-ngôn thông-thường, thánh Mát-thêu vẫn đặt vào đó tâm-hồn cao sang, hiền-dịu nên đã đánh động rất nhiều người.

Nói cách khác, thánh Mát-thêu ghi-chép lại rất nhiều điều, từ nội-dung truyện kể do thánh Mác-cô viết trước, và rồi đưa vào đó phong-thái tư-riêng của chính ngài. Thế nên, về người nhỏ bé kể ở dụ-ngôn, thánh-nhân biết họ không thể nắm bắt tại chỗ sứ-điệp thập-giá, cái chết hoặc việc Ngài ra đi về nơi không ai hay biết. Thánh Mát-thêu biết Đức Giêsu đã làm thế và Ngài đã lấy đi khỏi nơi ta nhu-cầu cấp-thiết sống trọn vẹn, đến như thế.

Thánh Mát-thêu cũng đã thấy nơi sự việc Chúa sống lại, là một chúc lành cho mọi đường-lối thông-thường ta vẫn theo. Thánh-nhân còn muốn dạy cho ta biết cách thấy và hiểu rằng ta được biết bao ơn lành từ Đức Giêsu và Thiên Chúa, nên từ đó mới có thể cảm kích biết ơn Ngài cho đủ.

Các dụ-ngôn do thánh Mát-thêu kể, lại vẫn là truyện kể rất hay và rất đẹp từng bộc-lộ “bí kíp” và “bí mật” của cuộc sống thường nhật, ta vẫn sống. Điều bí mật, nằm ở chỗ: cuộc sống của ta có Chúa cùng sống lại đẹp đẽ biết bao. Thiên Chúa rất thích điều đó. Và, thánh Mát-thêu đạt được cung-cách kể truyện dụ-ngôn qua việc tập-trung nơi những người bé nhỏ, trong đời thường.

Sống đời thường, đối với những người bé nhỏ, đòi hỏi phải theo cung-cách bình-thuờng là như thế. Thánh Mát-thêu lại đã khám-phá ra tính thực-tại của Mầu nhiệm Nhập Thể. Chúa không cần nền thần-học đầy khoa-bảng hoặc phương-án hùng-biện đầy kích-bốc để làm những việc Ngài muốn làm. Nhưng, Ngài lại chọn “lối sống bình thường” rất thông thường ở đời, cho mọi người.

Thánh Mát-thêu lại cũng tự thúc-bách chính mình để nói lên sự phong phú nơi quà-tặng Chúa ban cho con người, đẹp dường bao. Thánh-nhân tập-trung ý-nghĩa và hình-ảnh của sự phong-phú ấy nơi “đất màu-mỡ”, chí ít là dụ-ngôn truyện kể về đất đai, gieo vãi hạt giống tốt. Hạt giống gặp đất tốt tươi màu mỡ sẽ cho ra 30, 60 và cả đến trăm lần hơn ta kỳ-vọng hoặc trông ngóng nữa.

Thánh-sử Mát-thêu không chỉ nói về mùa gặt nơi mảnh ruộng. Ông còn nói về các giá-trị đang tăng-trưởng bên trong chúng ta khi ta sống vui tươi cảm kích thì sẽ biết được chiều sâu và các sự việc tốt đẹp trong đời người.

Người người thường vẫn ưa thích lắng nghe Lời của Chúa cả trong những sự việc nhỏ bé và hiểu được chúng rất rõ. Đó, còn là lời lẽ sử dụng trong Tin Mừng, đặc biệt là Tin Mừng theo thánh Luca và Mát-thêu khi các thánh-sử đề cập đến Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Mẹ được diễn-tả là Đấng được chúc phúc hơn các phụ-nữ khác vì Mẹ biết nghe Lời Chúa, hiểu ý-nghĩa Lời Ngài và còn giữ kỹ trong tâm can của Mẹ và biến Lời Ngài thành hiện-thực nữa.

Hãy xin Mẹ dạy ta cung-cách được thánh Mát-thêu áp-dụng sống ân-nghĩa mình nhận lãnh, là thấy được những điều tích-cực nơi sự việc ở trước mắt. Và rồi, mỉm cười chấp-nhận như ta thường làm. Có như thế, ta cũng sẽ thấy nơi lời lẽ thánh-nhân ghi chép, là cả một giòng nhạc êm-ái, rất thương yêu.

Trong tâm tình đón nhận điều hay lẽ đẹp do thánh Mát-thêu ghi, ta cũng nên ngâm lên lời thi-ca vẫn ngân-nga rằng:

Tình cứ đuổi theo người như chiếc bóng”

Người thì không bắt bóng được bao giờ.

Anh muốn khóc trong buổi đầu niên học,

Bởi yêu em nên sầu khổ dịu dàng.”

(Nguyễn Tất Nhiên – Sầu Khổ Dịu Dàng)

Sầu khổ dịu dàng, nhưng không là tình đuổi theo người như chiếc bóng, vẫn yêu thương. Thương người và thương mình, bởi tình Chúa vãi gieo nơi ta nay phong phú, màu-mỡ rất đa dạng. Yêu thương rồi, ta lại dàn trải tình thương ấy nơi mọi người, ở đời. Đó, vẫn là ý chính, thánh-sử viết khi kể truyện dụ-ngôn đầy âm-nhạc cho người bé nhỏ ở trên đời, vẫn ưa thích.

Lm Kevin O’Shea CSsR

Mai Tá lược dịch.

 

Lực lượng công an trong mắt triết gia Trần Đức Thảo

Lực lượng công an trong mắt triết gia Trần Đức Thảo

Bùi Tín

07.07.2014

Sau khi tôi giới thiệu trên VOA cuốn sách Trần Đức Thảo – Những lời trăn trối của nhà báo Tri Vũ, một số bạn trẻ trong nước gửi thư điện tử cho tôi hỏi rằng tôi đã trích ra mấy đoạn ngắn khi tác giả khắc họa chân dung “ông Cụ” – cụ Hồ – rất sống động, chân thực, vậy cuốn sách có chứa đựng chân dung nào khác cũng lý thú, sinh động như vậy không?

Xin thưa là có, có khá nhiều, như chân dung các ông Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Tố Hữu…cũng cô đọng, sinh động không kém.

Đó là những nhân vật đè nặng như ma ám suốt 40 năm ròng trên sinh mệnh của triết gia Trần Đức Thảo, buộc ông phải ngậm đắng nuốt cay, đóng vai kẻ lẩn thẩn dở hơi để tồn tại, để rồi trong gần 6 tháng cuối đời đã để lại cho hậu thế những phán xét sâu sắc được nghiền ngẫm kỹ càng. Qua lời kể của ông, mới vỡ lẽ ra là khi ông phê phán bài “Hãy đi theo bảng chỉ đường của trí tuệ” của nhà dân chủ Hà Sỹ Phu là làm theo lệnh trên, nhằm được yên thân để còn sống được và thổ lộ tư duy tỉnh táo của mình và lúc cuối đời.

Dưới đây xin trích dẫn vài đọan ngắn khi ông Trần Đức Thảo nói về lực lượng công an CS Việt Nam, những người đã theo dõi, rình rập, đe dọa, đấu tố ông trong suốt 40 năm ông phải sống trong nhà tù lớn Việt Nam.

Nhận định về lực lựơng công an chìm và nổi, Trần Đức Thảo cho biết:

“Có một ngành quen dùng dối trá như một phương pháp hành động chính quy, đó là ngành công an, Với những cán bộ chìm và nổi dày đặc trong xã hội, miệng thì nói công an là bạn dân, là bảo vệ dân, nhưng thực tế công an là ngành đã quản thúc, quản chế dân bằng phương pháp khủng bố tinh thần, đe dọa tính mạng, đe dọa tài sán. Công an đáng lẽ là lực lượng giữ gìn, bảo vệ trật tự, kỷ cương cho xã hội, mà lại luôn tận dụng dối trá thủ đoạn để áp đảo, thống trị xã hội như thế thì làm sao duy trì được tính lương thiện trong dân, làm sao giữ được trật tự kỷ cương, được luân thường đạo lý cho xã hội? Các cụ ta đã dạy “thượng bất chánh, hạ tắc loạn”, “gieo gió thì gặt bão”, ngày nay ngành công an dùng quá nhiều hành động bất chính, gieo toàn là thủ đoạn dối trá, hận thù… thì rồi chế độ này sẽ gặt được gì? Các dân tộc từng sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa đã có đủ kinh nghiệm để trả lời! Thực tế là guồng máy công an đã phá hoại lý tưởng, đã bôi đen, bôi bẩn đảng, đã làm ô danh chế độ, làm ung thối cách mạng nhiều nhất. Dư luận vẫn than sự lộng quyền của ngành công an là đã hằng ngày đào sâu mồ chôn chế độ”.

Ở một đoạn khác, ông nói thêm:

“Tôi thấy cái cấp bách là cần phải can đảm bãi bỏ hẳn mọi phương pháp tổ chức. mọi chính sách hành động bất chánh trong toàn thể guồng máy cai trị của đảng và nhà nước, cả về mặt tuyên truyền lẫn mặt hành chính. Đứng đầu là phải thay đổi hẳn cách huấn luyện, phải tổ chức hẳn lại ngành công an. Dùng công an để kiểm soát và đàn áp tư tưởng là việc làm vô ích. Công an không thể bịt miệng dân, không thể kiểm soát những suy tư trong đầu người dân. Chính những người CS lãnh đạo có kinh nghiệm đó hồi bị thực dân, phong kiến đàn áp, cầm tù. Nhà tù, trại cải tạo luôn luôn là lò đào tạo ý chí phản kháng mạnh nhất. Vậy mà nay chính quyền lại hành động thống trị còn tệ hơn cả thời thực dân phong kiến! Dân chúng cứ bị đẩy về phía căm thù chế độ. Chế độ như vậy thì không thể nào sửa sai, sửa lại mà dùng được…”

Rồi ông kết luận đoạn này như sau:

“Tôi chống thủ đoạn gian dối về mọi mặt chứ không chỉ về mặt tuyên truyền hay công an… Tôi chống đây là chống cái gian, cái ác, tức là chống một cách xây dựng. Không lắng nghe tôi là chế độ sẽ ngày càng bị lún sâu vào hư đốn, cho đến khi bị đào thải… Tôi biết những nhận xét ngay thẳng đó là những liều thuốc đắng, nhưng không chịu lắng nghe thì rồi chính lãnh đạo và nhân dân sẽ phải trả giá, có khi là rất đắt. Tôi luôn luôn cố vận dụng sự trong sáng của lương tri trong những ý kiến đối kháng, phản biện… “

Có những hoài nghi rất có cơ sở là chính một vài tên công an nỗi và chìm trong sứ quán VN ở Paris đã được lệnh kết thúc cuộc đời ông khi họ nghi rằng ông đang viết một cuốn sách tâm huyết, bạch hóa hết những thâm cung bí sử mà ông được biết, nhằm đền đáp lại nhân dân, với niềm tin rằng nhân dân sẽ hiểu ra cuộc đời trong sáng của một trí thức chân chính và nhận ra chủ nghĩa Mác và đảng CS VN cũng như “ông Cụ” và các đồng chí của “ ông Cụ” là tai họa thật sự của dân tộc, của nhân dân.

Phải chăng để che dấu cả chuỗi dài tội ác với nhân dân và với cá nhân ông Trần Đức Thảo mà đã có những điều không bình thường xảy ra sau khi ông chết bất ngờ vì “đau bụng”  ngày 23/4 /1993: đó là việc Đại sứ VN Trịnh Ngọc Thái ở Pháp được lệnh đến cơ sở  hỏa táng trong Nghĩa trang Père Lachaise  ngày 29/4/1993 để báo tin ông được truy tặng Huân chương Độc lập (mà không có một lời điếu văn nào); sau đó 7 năm, năm 2000 ông được tặng “Giải thưởng Nhà nước”, mà không ai nói rõ về thành tích và công lao gì.  Hẳn dưới suối vàng ông đã cười to một mình về những điều trái khoáy kỳ quặc như thế trong một chế độ quái dị.

Cả Bộ Chính trị 16 người, 200 ủy viên Trung ương đảng CS, và đặc biệt là hơn 400 viên tướng và hơn 1.000 cán bộ cấp cao khác của riêng ngành Công an hãy đọc kỹ “Những lời trăng trối” của nhà triết gia Trần Đức Thảo và tự vấn lương tâm, rút ra nhiều điều bổ ích.

Đây là việc làm cấp bách, vì khi nhà triết học nói lên những sự thật trên đây từ 21 năm trước đến nay, lực lượng công an còn sa sút thêm nhiều, trượt dài trên quá trình trở thành tai họa thật sự cho nhân dân. Công an bịt mồm linh mục giữa tòa án, đạp giày lên mặt anh đảng viên CS trẻ đang xuống đường chống bành trướng, tra tấn hành hung các cụ ông cụ bà cao tuổi, giết hại nhiều công dân ngay trong trụ sở công an…

Nếu còn sống triết gia Trần Đức Thảo chắc sẽ đau lòng lắm khi thấy những tên móc túi, những ké trộm vặt,  trộm gà, trộm chó thì bị bắt, bị tra khảo, ngồi tù, còn những quan chức, tướng lãnh cướp của nhà nước, của nhân dân hàng triệu, hàng tỷ, hàng trăm ngàn tỷ đồng, kết thành nhóm thành phe  thì vẫn nhởn nhơ thống trị xã hội, còn được phong tướng tá công an, với một ngân sách kinh hoàng là không kém ngân sách quốc phòng.

Chỉ tiếc là triết gia yêu nước thương dân không còn sống để chứng kiến sự rệu rã của một chế độ mục nát phi nhân, đúng như ông đã dự đoán trong những lời trăng trối tâm huyết và những lời cảnh báo nghiêm khắc “Công an đang hằng ngày đào mồ chôn chế độ”.

 

Đức tin và thể thao

Đức tin và thể thao

TRẦM THIÊN THU

Chuacuuthe.com

VRNs (08.08.2014) – Sài Gòn – Đúng 2 giờ sáng (giờ Việt Nam) ngày 14-7-2014, những người hâm mộ túc cầu sẽ được chứng kiến trận tranh tài quyết liệt giữa hai đội túc cầu xứng đáng nhất, và có thể biết được đội nào là đội vô địch giải World Cup 2014, diễn ra tại sân vận động Rio de Janeiro (Brazil).

World Cup (Cúp Thế Giới) là sự kiện thể thao lớn của hành tinh chúng ta. Thể thao và Đức Tin có liên quan gì với nhau?

Đức Tin và Thể thao xem chừng “ngược chiều” nhau, vì một bên là tâm linh và một bên là thể lý. Thế nhưng lại không hề có gì đối lập với nhau. Thật kỳ lạ!

Thể dục là dạng vận động nhẹ. Thể thao là dạng vận động mạnh. Thể dục và thể thao có hai dạng: Thể lý và tinh thần. Với các Kitô hữu, thể thao còn có một dạng khác “cao cấp” hơn, đó là thể thao tâm linh. Dạng nào cũng cần khổ luyện mới có thể đạt được mức cao nhất.

Thể thao là hoạt động thể chất hoặc kỹ năng dành cho mục đích giải trí, thi đấu, mong đạt đến “đỉnh cao”, chủ yếu rèn luyện bản thân, tăng cường sức khỏe. Trong đời sống xã hội hiện đại, thể thao là yếu tố quan trọng không chỉ để giữ gìn sức khỏe mà còn là phục vụ các mục đích hữu ích khác.

Để tăng cường sức khỏe, có một số môn thể thao được nhiều người cho là giúp chống lại các loại bệnh tật, tạo sức chịu đựng dẻo dai. Ví dụ, chạy bộ theo mức độ tăng dần có thể giảm khả năng mắc các bệnh về tim mạch lúc về già. Đối với trẻ em trong độ tuổi đang lớn, thể thao giúp phát triển thể chất và làm tăng chiều cao.

14070800

Ngoài phạm vi sức khỏe, các môn thể thao đồng đội cũng rèn luyện cho tinh thần đoàn kết, kỹ năng hợp tác. Trong bất kỳ môn thể thao đồng đội nào, yếu tố đoàn kết là quan trọng nhất để giành chiến thắng. Ví dụ, trong môn túc cầu (bóng đá), các cầu thủ phải hiểu ý nhau trong lúc chuyền bóng để ghi bàn. Nhược điểm (điểm yếu) của các đội túc cầu dễ bị đối phương lợi dụng là sự thiếu đoàn kết, lo “miếng” riêng cho cá nhân. Trong môn đua xe đạp cũng vậy. Vì thế, một trong các cách rèn luyện tinh thần đồng đội là chơi các môn thể thao đồng đội.

Thế Vận Hội (Olympic, Đại hội Thể thao Thế giới) là cuộc tranh tài trong nhiều môn thể thao giữa các quốc gia trên toàn thế giới. Thế Vận Hội gồm Thế Vận Hội Mùa Hè và Thế Vận Hội Mùa Đông được tổ chức xen kẽ nhau hai năm một lần (vào các năm chẵn). Đây là một đại hội thể thao không chỉ là đua sức về thể lực mà còn mang ý nghĩa biểu trưng cho tinh thần đoàn kết và hòa bình của nhân loại.

Thế Vận Hội bắt nguồn từ các cuộc thi đấu thể thao thời Hy Lạp cổ đại có từ năm 776 trước công nguyên cho đến khi Hoàng đế La Mã là Theodosius I cấm (năm 394 trước công nguyên). Thế Vận Hội hiện đại được Nam tước Pière Frèdy de Coubertin tổ chức lần đầu tiên vào cuối thế kỷ XIX. Ủy Ban Olympic Quốc Tế (IOC – International Olympic Commitee) đã trở thành cơ quan chủ quản của Phong trào Olympic, với Hiến chương Olympic xác định cấu trúc và cơ quan có thẩm quyền.

Thế Vận Hội Mùa Hè được diễn ra (bốn năm một lần) từ năm 1896, trừ những năm xảy ra thế chiến (như thế chiến II). Thế Vận Hội Mùa Đông được thành lập vào năm 1924. Mới đầu nó được tổ chức cùng năm với Thế Vận Hội Mùa Hè, nhưng từ năm 1994, Thế Vận Hội Mùa Đông và Thế Vận Hội Mùa Hè diễn ra xen kẽ nhau hai năm một lần.

Chúng ta còn có Á Vận Hội (Asiad hoặc Asian Games, Đại hội Thể thao Á châu), tổ chức bốn năm một lần, với sự tham dự của các đoàn vận động viên thuộc Á châu. Giải thể thao này do Hội Đồng Olympic Á châu (OCA – Olympic Council of Asia) tổ chức, dưới sự giám sát của Ủy ban Olympic Quốc tế, và được coi là sự kiện thể thao lớn thứ hai trên thế giới, chỉ đứng sau Thế Vận Hội.

Có nhiều môn thể thao (bóng đá, bóng chuyền, bóng rổ, bơi lội, ném dĩa, cử tạ, marathon,…), nhưng có lẽ hấp dẫn nhất vẫn là môn túc cầu, hấp dẫn cả người chơi lẫn người xem – dù là xem qua màn ảnh nhỏ. Có lẽ vì thế mà môn túc cầu được mệnh danh là môn thể thao vua. Ở đây, chúng ta cũng chỉ đề cập môn túc cầu. Thật vậy, túc cầu có nhiều người yêu thích tới mức cuồng nhiệt như các tín đồ tôn giáo, và người ta vui đùa gọi họ là “tín đồ của túc cầu giáo”.

Trong các giải túc cầu, nổi bật nhất là giải World Cup. Brazil là quốc gia tổ chức World Cup lần thứ 20 của FIFA vào mùa hè năm 2014, diễn ra từ 12-6 tới 13-7-2014, với các đội bóng của 32 quốc gia tham dự, trong đó có 13 quốc gia thuộc Âu châu. Tất cả có 64 trận đấu. Brazil cũng là nước đăng cai World Cup năm 2007 sau khi FIFA quyết định tổ chức tại Nam Mỹ lần đầu tiên từ năm 1978 tại Argentina.

Có 12 thành phố được chọn để tổ chức các trận đấu lần này: Belo Horizonte, Brasilia, Cuiaba, Curitiba, Fortaleza, Manuas, Natal, Porto Alegre, Recife, Salvador, Sao Paulo và Rio de Janeiro, nơi trận chung kết sẽ thi đấu tại sân vận động Estádio Mário Filho, thường được gọi là Maracanã. Sân vận động này đã diễn ra trận chung kết World Cup năm 1950. Cả 4 trận chung kết World Cup trước đều diễn ra tại Nam Mỹ – Uruguay năm 1930, Brazil năm 1950, Chile năm 1962, và Argentina năm 1978. Các đội vô địch cũng thuộc châu lục đó.

Nói đến quốc gia Brazil, chắc hẳn chúng ta còn nhớ vua bóng đá Pelé (Edson Arantes do Nascimento, sinh 23-10-1940), một trong những cầu thủ bóng đá nổi tiếng nhất trong lịch sử của bộ môn này, đặc biệt là cú sút lọt lưới “độc nhất vô nhị” từ giữa sân (60m). Được phát hiện từ khi còn rất trẻ, Pelé bắt đầu chơi cho Câu lạc bộ Santos Futebol khi mới 15 tuổi, vào đội tuyển quốc gia khi 16 tuổi và lần đầu đoạt World Cup khi mới ở tuổi 17. Dù có nhiều lời mời từ các câu lạc bộ của Âu châu, Pelé vẫn rất trung thành với câu lạc bộ của mình và đã chơi cho câu lạc bộ này trong suốt hai thập kỷ cho đến năm 1975, khi ông từ giã sân cỏ.

Ông là cầu thủ ghi được nhiều bàn thắng nhất cho Đội tuyển Túc cầu Quốc gia Brasil và ông cũng là người duy nhất trong lịch sử môn thể thao vua giành được 3 World Cup dưới cương vị một cầu thủ. Ông cũng là cầu thủ duy nhất ghi được gần 1300 bàn thắng trong suốt sự nghiệp cầu thủ. Cụ thể là 1281 bàn thắng trong 22 năm thi đấu.

Chiếc áo số 10 nổi tiếng của Pelé đã trở thành chiếc áo truyền thống của các tiền vệ (trung phong) và tiền đạo có lối chơi tấn công kỹ thuật và sáng tạo. Từ đó, đã có không ít cầu thủ ngôi sao của xứ sở Samba khoác lên mình chiếc áo số 10 kỳ diệu.

Thể thao có vài dạng: Thể thao thể lý, thể thao trí tuệ, thể thao tâm linh. Thể thao nào cũng cần có niềm tin mãnh liệt. Có tự tin thì mới khả dĩ chiến thắng. Thể thao (nói chung), túc cầu (nói riêng), quan trọng là có TINH THẦN TẬP THỂ, TINH THẦN THƯỢNG VÕ và TINH THẦN ĐOÀN KẾT. Trong môn túc cầu, mỗi đội có 11 cầu thủ luôn phải chung một nhịp, phải đồng tâm nhất trí, dù mỗi người có bổn phận khác nhau – người tấn công, người phòng thủ, người giữ khung thành. Đó là thể hiện niềm tin lẫn nhau, và cũng cần niềm tin tâm linh nữa.

Nếu để ý, chúng ta có thể nhận thấy rằng, khi ra sân cỏ để thi đấu, một số cầu thủ đã thể hiện Đức Tin Công giáo của mình. Cầu thủ Park Ji Sung (Hàn quốc) đã làm dấu Thánh Giá, còn cầu thủ Wayne Rooney (Anh quốc) đeo chuỗi Mân Côi. Rất tiếc là chẳng thấy cầu thủ người Việt nào có động thái thể hiện Đức Tin như vậy!

Ngay trong thời gian thi đấu, một số cầu thủ vẫn thể hiện niềm tin Kitô, biết tín thác vào Thiên Chúa, thật tuyệt vời biết bao! Đó là những tấm gương sáng để chúng ta noi theo, dù ở nơi đâu và lúc nào thì chúng ta vẫn luôn cần Thiên Chúa, vì Chúa Giêsu đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5).

Có lẽ Kinh Thánh chỉ nhắc tới từ “thể thao” một lần: “Trong cuộc đại hội thể dục thể thao, tổ chức bốn năm một lần ở Tia, có nhà vua hiện diện, ông Gia-xon, một người đê tiện đã cử một phái đoàn khán giả với tư cách là những người phò vua An-ti-ô-khô từ Giê-ru-sa-lem đến mang theo ba trăm quan tiền để dâng lễ kính thần Hê-rắc-lê. Nhưng các người mang tiền xin đừng dùng số bạc ấy để tế lễ, vì việc đó không thích hợp, mà lại xin dùng vào một khoản khác. Vậy số bạc ấy lẽ ra phải được dùng vào vào việc dâng lễ kính thần Hê-rắc-lê, theo ý người gửi, nhưng do lời yêu cầu của những người mang tiền, người ta lại đem dùng vào việc đóng tàu chiến” (Mcb 4:18-20).

Kinh Thánh cho biết Đại hội Thể dục Thể thao được tổ chức bốn năm một lần, phải chăng các giải thể thao ngày nay cũng tổ chức theo cái “khoảng thời gian” đó? Thiết tưởng là rất có thể lắm!

Thánh Phaolô không nói về thể thao trần gian nhưng nói về thể thao tâm linh, dù không nói rõ là thể thao: “Ngày đời tôi trôi nhanh hơn kẻ chạy đua, nó qua mau, mà không thấy hạnh phúc” (G 9:25). “Chạy đua” là một dạng thể thao. Thánh Phaolô còn nói về thể thao theo dạng khác: “Trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một người đoạt giải. Anh em hãy chạy thế nào để chiếm cho được phần thưởng. Phàm là tay đua thì phải kiêng kỵ đủ điều, song họ làm như vậy là để đoạt phần thưởng chóng hư; trái lại chúng ta nhằm phần thưởng không bao giờ hư nát. Vậy tôi đây cũng chạy như thế, chứ không chạy mà không xác tín; tôi đấm như thế, chứ không phải đấm vào không khí. Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại” (1 Cr 9:24-27).

Phàm việc gì cũng cần khổ luyện, đặc biệt là thể thao. Chúng ta thấy các vận động viên có sức dẻo dai, nhưng chúng ta có biết đâu rằng họ phải ngày đêm khổ luyện mới có sức khỏe như vậy. Và Đức Tin cũng vậy, không thể một sớm một chiều mà có được Đức Tin vững mạnh và sâu sắc, mà Đức Tin đó phải được tôi luyện hằng ngày qua nhiều thử thách gay go lắm. Lửa thử vàng, gian nan thử sức. Và Đức Tin cũng vậy, nếu không thì Đức Tin đó sẽ èo uột, dễ bị đuối sức, dễ bị hoang mang, dễ bị rạn nứt,… thậm chí là có thể bị mất Đức Tin!

Chúa Giêsu cũng không hề nói về thể dục hoặc thể thao, nhưng Ngài có cách nói rất đặc biệt, vừa như lời khuyên vừa như mệnh lệnh: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Ngài bảo chúng ta phải “hoàn thiện như Cha” là Ngài bảo chúng ta không ngừng “chạy đua”, là kiên tâm “thi đấu”, để cuối cùng ai cũng phải đạt được chiến thắng là “Giải Trường Sinh”, là “Chiếc Cúp Nước Trời”.

Chúng ta đang thuộc Giáo hội chiến đấu trên cuộc lữ hành trần gian về Thiên Quốc, cuộc chạy marathon này dài hay ngắn tùy mỗi người phải chạy trong bao nhiêu năm theo Thánh Ý Chúa. Có người chỉ chạy 1 ngày, có người chạy vài tháng, có người chạy vài năm, có người chạy vài chục năm, có người chạy cả trăm năm. Nhưng mục đích cuối cùng vẫn chỉ là Siêu Cúp Cứu Độ mà chính Đức Giêsu Kitô trao cho mỗi người.

Ước mong rằng, khi vui mừng giải trí và tận hưởng không khí sôi nổi của World Cup 2014, mỗi chúng ta cũng được nhắc nhớ về cuộc đua tâm linh trên Hành Trình Đức Tin Công giáo. Hãy ngước nhìn lên Biểu Tượng Đức Tin, Biểu Tượng Chiến Thắng và Biểu Tượng Hằng Sinh của chúng ta là Thập Giá Đức Giêsu Kitô, đồng thời có thể xác định như Thánh Phaolô: “Vinh quang của tôi là Thập Giá Đức Kitô – MEA GLORIA EST CRUX CHRISTI (Gl 6:14).

Đây là “nước tăng lực” mà Thánh Phaolô cho chúng ta uống: “Một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời. Vì thế, chúng ta mới không chú tâm đến những sự vật hữu hình, nhưng đến những thực tại vô hình. Quả vậy, những sự vật hữu hình chỉ tạm thời, còn những thực tại vô hình mới tồn tại vĩnh viễn” (2 Cr 4:17-18).

Sân cỏ cũng tương tự sân đời, cam go lắm! Trong một chương trình của Đài Chân Lý Á Châu (Philippines) có phát sóng bài thơ “Bóng đá và Cuộc đời”, trong đó có bốn câu cuối như sau:

Con chạy hàng tiền đạo

Chiến đấu với trần gian

Xin Chúa làm hậu vệ

Che chắn khung-thành-con (*)

Vâng, chúng ta rất cần có Chúa, không chỉ vì chúng ta không biết theo ai nếu chúng ta bỏ Ngài (x. Ga 6:68), mà còn vì chúng ta chẳng làm được gì nếu không có Ngài (x. Ga 15:5).

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết không ngừng trau dồi “sức khỏe Đức Tin” để thi đấu kiên trì và không biết mệt mỏi. Xin Ngài thương giúp chúng con nên thánh hằng ngày để xứng đáng lãnh nhận Phần Thưởng Hằng Sinh. Xin Đức Thánh Maria, Đức Thánh Giuse, chư thánh và các linh hồn cầu thay nguyện giúp. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

(*) Nghe ca khúc “Bóng Đá và Cuộc Đời” của Ns Sơn Vinh tại http://www.baicamoi.com/?p=56856.