Trên Biển Đời

Trên Biển Đời

Tác giả: Lm Nguyễn Hữu An

Trong cuộc xuất hành của dân Do thái từ Ai cập về Đất Hứa, có một phép lạ lớn lao trên biển. Đó là phép lạ vượt qua Biển đỏ. Khi dân Do thái rời bỏ Ai cập đến Biển Đỏ thì quân Ai cập đuổi theo sát phía sau lưng. Được lệnh Thiên Chúa, ông Môsê giơ tay trên biển làm cuồng phong nổi lên, nước biển liền rẽ ra làm hai để lộ đất khô ráo, dân Do thái đi vào lòng biển khô cạn, quân Ai cập đuổi theo. Đến sáng, khi người Do thái cuối cùng đi sang bờ bên kia. Thiên Chúa ra lệnh cho Môsê giơ tay trên biển, nước trở lại như cũ. Quân Ai cập bị nhấn chìm trong biển, chết không còn một ai sống sót. Ngày đó, Thiên Chúa đã cứu dân Do thái thoát khỏi dân Ai cập. Đó là một phép lạ lớn lao Thiên Chúa đã làm trên biển.

Phúc Âm hôm nay kể một phép lạ Chúa Giêsu làm trên biển. Đó là biển hồ Galilê.

Biển hồ Galilê có hình bầu dục dài 21km rộng 12km, còn được gọi là hồ “Giênêzarét” (Lc5,1). Thánh kinh cựu ước gọi là biển “Kinnerét” (Ds 34,11; Gs 12,13) hay còn gọi là “biển Tibêria” (Ga 6,1). Tibêria hiện nay là một thành phố sầm uất ở Galilê, nằm trên bờ tây nam biển hồ. Nằm về hướng bắc Giêrusalem 100Km, biển hồ Galilê là nơi mà dòng sông Jordan đổ vào trước khi chảy qua biển Chết. Thung lũng và sông Jordan mang một sắc thái địa lý rất đặc biệt, duy nhất trên thế giới vì thấp hơn mực nước biển:208 mét tại biển hồ Galilê và 300 mét tại biển Chết. Thực vật ở đây thuộc dạng nhiệt đới, chung quanh biển hồ núi non bao phủ, lẫn vào con sông Jordan, thời tiết bất thường ở miền đất từ miền nam đến biển Chết, đó là những yếu tố hình thành những vùng gió giật và giông bão xảy ra bất ngờ trên biển hồ (Mt 8,23-27; 14,22-23).

Đối với Tân ước, biển hồ Galilê được nói đến nhiều vì là một trong những trung tâm hoạt động của Chúa Giêsu. Rất nhiều biến cố đã xảy ra tại đây: Bão tố ngừng lại (Mt 8,24-26), Mẻ lưới kỳ diệu (Lc 5,4-14), Đức Giêsu rảo trên thuyền (Mc 4,1), đi trên biển (Ga 6,16-21). Những thành ven bờ hồ như Khôrazin, Bếtsaiba, Caphanaum, Magđala là những nơi Chúa Giêsu thường lui tới, qua nhiều thế kỷ, biển hồ Galilê được gọi dưới nhiều tên: Hồ Kinnêzét, hồ Giênêsarét, và biển hồ Tibêria.

Biển hồ và những vùng lân cận, có rất nhiều di tích liên hệ đến cuộc đời của Chúa và các môn đệ Ngài. Galilê là vùng có núi đồi khô cằn, nhưng các thung lũng phì nhiêu trải dài từ biển Địa trung Hải cho đến biển hồ Galilê. Chính trong các thung lũng này đã hình thành nhiều đồn điền trái cây nổi tiếng đem lại nguồn lợi xuất khẩu. Vào năm 1960, biển hồ là điểm xuất phát cho ngày quốc gia tưới tiêu, chính quyền Israel cho đào một con kênh lớn dẫn nước từ tận biển hồ đến sa mạc Negew. Công trình thuỷ lợi mang lại nguồn lợi kinh tế to lớn cho một nước mà địa dư, khí hậu đa phần được xem là không mấy thuận lợi. Nhiều nước trên thế giới đã gởi người tới học tập.

Trở lại bài Phúc âm, Thánh Matthêu kể chuyện: trên Biển hồ Galilê, khi có trận cuồng phong từ thung lũng Baka thổi vào thì tất cả các ngư phủ vốn quá quen đi thuyền ngang dọc trên biển hồ cũng phải sợ hãi. Các ngài là những ngư phủ trên biển hồ Galilêa này, và có thể nói là đã quen thuộc với những cơn sóng to gió lớn. Vậy mà đêm hôm đó họ đã trải qua một phen hải hùng, sóng to nổi lên, gió lớn thổi ngược, phải chống chèo rất vất vả các ông mới giữ vững được con thuyền.

Và rồi đã xảy ra một sự kiện bất ngờ. Chúa Giêsu đi trên mặt nước đến với các môn đệ. Vốn đã khiếp đảm vì biển động sóng gió, các môn đệ nay hoảng sợ la lên vì họ tưởng là gặp ma. Thế nhưng khi nghe tiếng nói quen thuộc trấn an : “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”, các ông mới nhận ra Chúa, lập tức Phêrô xin phép đi trên mặt nước đến gặp Chúa. Chúa bằng lòng. Phêrô bước ra khỏi thuyền đến với Chúa, nhưng đức tin của ông còn yếu kém, ông hồ nghi và lo sợ nên bị chìm dần xuống nên kêu xin Chúa cứu giúp. Chúa đưa tay cầm lấy tay ông và trách nhẹ : “Người đâu mà kém tin vậy, sao lại hoài nghi ?”. Khi Chúa và Phêrô đã lên thuyền, sóng gió liền yên lặng và mọi người tuyên xưng : “Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa”.

Tuần vừa rồi, tôi đi thăm các gia đình giáo dân trong giáo xứ. Tôi đi với hai ông trong hội đồng mục vụ. Đến cổng một gia đình, có con chó to sủa lớn xông ra như muốn vồ lấy. Chúng tôi hoảng sợ đứng im. Bé Hoa 6 tuổi từ trong nhà chạy ra, bé nạt con chó: lu lu, đi vô mau. Con chó to hung dữ bỗng ve vẫy đuôi, trở lại hiền lành chạy vào nhà. Con chó to vậy mà nghe lời cô gái nhỏ vì bé Hoa là chủ của nó. Còn tôi và mấy ông tuy to con nhưng không phải chủ nó nên nó chẳng sợ mà còn định nhảy vào cắn. Hôm đó tôi miên man nghĩ về câu chuyện Phúc âm Chúa nhật này. Các môn đệ sợ hãi trước sóng to gió lớn bão tố sấm sét. Chúa Giêsu ra lệnh: hãy im đi, tức thì sóng yên biển lặng. Chúa Giêsu có quyền trên mọi sức mạnh thiên nhiên vì Người là Thiên Chúa sáng tạo, là chủ muôn loài.

Cả hai phép lạ: vượt qua Biển đỏ, Chúa Giêsu đi trên biển có một điểm giống nhau, đó là quyền năng Thiên Chúa trên mọi sức mạnh thiên nhiên.

Trên biển đời, có biết bao bão tố phong ba bủa vây, tin vào Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo dựng vũ trụ và muôn loài, chúng ta sẽ sống bình an trước mọi giông bão cuộc đời. Hãy vững tin và tín thác nơi Chúa Giêsu.

1- Sự hiện diện của Chúa Giêsu, nguồn bình an

Sau khi Chúa Giêsu lên thuyền, gió bỗng yên lặng. Sự hiện diện của Người đủ sức mang lại yên tĩnh và chế ngự phong ba bão táp. Biển theo nghĩa Kinh thánh tượng trưng cho quyền lực của sự ác. Đi trên biển chứng tỏ quyền năng và sự chiến thắng của Chúa Giêsu trên sự dữ, nguồn gốc của bất an, chia rẽ, đau khổ.

Nhiều người Kitô hữu thờ phượng Thiên Chúa nhưng vẫn còn lo lắng, sợ hãi tà thần ma quỷ, nhiều khi còn mê tín dị đoan nữa. Hãy tin tưởng rằng: quyền lực của bóng tối không có gì đáng sợ khi Chúa đã hiện diện và hoạt động trong đời sống và công việc làm của chúng ta. Nếu biết lắng nghe, trong giông bão cuộc đời, chúng ta sẽ nhận ra tiếng Chúa “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ”. Nếu chúng ta tin tưởng vào lời Chúa hứa thì sự hiện diện của Chúa sẽ làm bão tố êm dịu và khủng hoảng được giải quyết (Pl 4,13).

Nơi đâu có Chúa Giêsu, ở đó có bình an. Cuộc đời người Kitô hữu không thể tránh khỏi những phong ba giông bão của cuộc sống. Cần phải đến với Chúa Giêsu. Nếu biết đặt Người ở trung tâm đời mình thì sẽ tìm kiếm được an bình nội tâm, cho dù có gặp biết bao gian truân thử thách.

Chúa Giêsu hiện diện ngay trong cuộc sống của Kitô hữu nếu mọi người biết đến với Người qua việc nghe, thực thi lời Người, đón nhận Mình Máu Thánh Người và siêng năng cầu nguyện với Người.

2. Tín thác cuộc đời trong tay Chúa Giêsu

Các môn đệ vì sợ hãi sóng gió bủa vây nên không nhận ra Chúa Giêsu, ngộ nhận Người là ma. Chúa Giêsu trấn an họ: “Thầy đây, đừng sợ”. Hơn cả một lời trấn an, đây còn là một mạc khải : sự hiện diện của Chúa sẽ xua đi mọi nỗi sợ hãi; hãy tín thác cuộc đời trong tay Người.  Khi Người xuất hiện thì gió yên biển lặng ; khi Người có mặt thì có sự bình an. Chính vì thế mà các môn đệ đã thờ lạy Người : Thầy quả thật là Con Thiên Chúa. Lời tuyên xưng này đồng thời cũng là lời biểu lộ một sự tín thác nơi Người. Tất cả mọi người trên thuyền cùng tuyên xưng một đức tin, cùng chung một lòng trông cậy. Một tỉ lệ thuận ngàn năm bất biến: tín thác vào Chúa, bình an tâm hồn.

Trong cuộc sống của mỗi người, niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô cần được thanh luyện và minh chứng qua thử thách gian nan. Nếu biết yêu mến và tín thác vào Chúa, thì càng khó khăn vất vả, càng vươn lên mạnh mẽ trong đức tin, luôn có được bình an nội tâm. Mọi gian nan thử thách đều trở nên tốt đẹp, hữu ích cho những ai yêu mến Chúa.

Lạy Chúa Giêsu,

Con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô, nhưng nhiều khi con cảm thấy sống đức tin

giữa lòng cuộc đời chẳng khác nào đi trên mặt nước.

Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.

Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.

Cả sự nặng nề của thân xác con cũng kéo ghì con xuống.

Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng. Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.

Xin cứu con khi con hầu chìm.

Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.

Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con, để con trở nên nhẹ tênh mà bước những bước dài hướng

về Chúa. Amen (Mana).

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Sàigòn ơi, tôi đã mất người trong cuộc đời

“Sàigòn ơi, tôi đã mất người trong cuộc đời,”

Sàigòn ơi, thôi đã hết thời-gian tuyệt vời.

Giờ còn đây, những kỷ-niệm sống trong tôi,

Những nụ cười nát trên môi, những giọt lệ ôi sầu vắng.”

(Nam Lộc – Sàigòn ơi vĩnh biệt)

(Mt 10: 34-35)

Tác giả: Trần Ngọc Mười Hai

Nói lời vĩnh-biệt, mà sao anh lại cứ hát: “Sàigòn ơi, tôi xin hứa rằng tôi trở về!”. Hát thế rồi, anh còn cam kết: “Người tình ơi! Anh xin giữ trọn mãi lời thề…” Những lời như thế, đã được ca-sĩ Khánh-Ly hát thay cho tác-giả Nam Lộc khi cả hai vị đều có mặt vào buổi diễn ở hội-trường sân-khấu có tên gọi rất “Belle Vue” ở Bankstown, Sydney hôm 21/6/2014 vừa qua. Nhạc sĩ Nam-Lộc điều-khiển chương-trình nhạc-hội tối hôm đó, đã tuyên-bố: anh viết bài này, cho riêng anh và gia-đình, mà thôi.

Viết cho ai thì viết, chỉ cần biết là: anh đã hứa và đã xin “giữ trọn lời thề”, rất như thế. Riêng bần-đạo bầy tôi đây, trước đó chừng tuần lễ, cũng được đấng bậc vị-vọng là đương-kim Giám mục phó quản-cai giáo phận Vinh có ngỏ ý mời về thăm quê-hương cũ để chứng-kiến xứ sở mình, nay đâu còn những “giọt lệ ôi sầu vắng”, lại vẫn là “thời-gian tuyệt vời” trên cả mức tuyệt-diệu từ xưa nay.

Được lời như cởi tấm lòng, bần-đạo đây chợt nhớ Sàigòn rất “hoa-lệ” của mình và của người vào những ngày thành-phố này được gọi là “Hòn ngọc Viễn-Đông”, nhưng không phải là “Nước mía Viễn-Đông” bên hông Bộ Công Chánh thuở trước cạnh đại-lộ Lê Lợi, lúc mà quán xá chiều hôm cứ bày bán những là phá-lấu với bò bía, gỏi bò khô… thôi thì đủ mọi món hàng ở gần bên.

Sở dĩ bần-đạo dài giòng nhắc lại địa điểm vẫn gợi nhớ dễ như thế, là vì: bản thân mình cũng đã hai lần “rồi đến rồi đi, tôi vẫn xin tạ ơn đời, tạ ơn người, tạ ơn ai đã cho tôi “một thời để nhung nhớ.

Vâng! Đã hai lần, bần đạo từng đến với Sàigòn-hoa-lệ rất “Hòn Ngọc Viễn-Đông” một thời thuở ấy. Lần đầu, là cùng với thân-phụ ghé bến Sàigòn năm 1949 để cụ làm việc vài năm với Nhà Giây Thép Tân Định, rồi sau đó lại đã ra đi trở về Hànội vào năm 1952 khi cụ thân-sinh qua đời. Lần thứ hai, lại cùng thân-mẫu và gia-đình lại đến với Sàigòn năm 1954, để rồi lại đã rời xa Sàigòn dấu yêu vào năm 1991, thật rất nhớ.

Vâng. “Rồi đến/rồi đi” như thế những 2 lần, nên lần này dù được đấng bậc vị vọng ở xứ “Trời Đất đầy Vinh…Quang Chúa” khẩn-khoản mời da diết như thế, bần-đạo chỉ mỗi cười trừ rồi hát tiếp:

“Dù thời-gian có là một thoáng đam mê,

Phố phường vạn ánh sao đêm,

Nhưng tôi vẫn không bao giờ quên.”

(Nam Lộc – bđd)

Vâng. Chính là như thế! Rồi đến rồi đi” tuy rất nhiều lần, nhưng làm sao quên được một “Sàigòn-Hoa-Lệ” rất diễm-lệ nhưng lại không đầy những lệ châu rơi lã chã, bao giờ cả.

Vâng, làm sao có thể hết quên rồi hát lời ca đầy hứa-hẹn, những là: “Sàigòn ơi, tôi xin hứa rằng tôi trở về”, rồi còn chêm thêm câu tiếp theo, thật ai-oán là câu: “Người tình ơi! Tôi xin giữ trọn mãi lời thề” được, khi mà ngày mai đây, tôi và bạn lại cũng chẳng biết được mình sẽ ra sao? Có còn “những nụ cười nát trên môi”, hoặc “những giọt lệ ôi sầu đắng…” đi chăng nữa.

Vâng. Cũng thật khó nói lắm, giời ạ! Bởi, bần-đạo đây, bây giờ, cũng giòng giống như tác giả bài ca ai oán ở trên, lại vẫn hát câu âu sầu, tiều-tụy rằng:

“Tôi giờ như con thú hoang lạc-đàn,

Từng ngày qua, từng kiếp sống quên thời gian

Kiếp tha hương lắm đau thương, lắm chua cay,

Tôi gọi tên ai mãi thôi…”

(Nam Lộc – bđd)

Vâng. Đúng ra, thì cũng y như thế. Nghĩa là: tâm-trạng của bần-đạo không khác là bao cùng một tâm-trạng của tác-giả là nhạc-sĩ Nam Lộc, có viết nhiều nhạc-bản hoặc có làm thật nhiều câu thơ thật hay, cũng chỉ để viết cho riêng mình. Tức: một mình mình hiểu, một mình mình vui, mà thôi. Hoạ hoằn, được ai thân-thương thông-cảm, cũng coi đó như ân-huệ Trời cho rất to đùng, oai hùng như biển Đông, đáng ghi nhớ.

Vâng. Bần-đạo đây vẫn nhớ như in, rằng: hôm ấy chính mình còn chẳng dám hát hoặc nói lời gì để đời như: “Sàigòn ơi! Tôi xin hứa rằng tôi trở về” với đấng bậc vị vọng là Đấng vị vọng rất Giám mục ở trên, mà chỉ dám cười trừ rồi lắc lư cái đầu như thể “lắc lư con tầu đi”, đi mãi không biết có ngày nào đó đến được bến bờ đại dương có “hòn ngọc viễn đông” năm nào, hay không nữa. Có cười trừ hay thêm vào lời hát nhái, hát đại và hát mãi hay không, cũng chẳng nhớ. Chỉ nhớ có mỗi điều như người viết nhạc từng viết những điều khi xưa đầy nhung nhớ, như:

“Sàigòn ơi, nắng có còn vương trên đường?

Đường ngày xưa, mưa có ướt ngập lối đường về.

Rồi mùa thu, lá còn đổ xuống công viên?

Bóng gầy còn bước nghiêng nghiêng?

Hay đã khóc thương cho người yêu?”

(Nam Lộc – bđd)

Vâng. Có nói nhiều và hát mãi hát dài dài như thế, bần đạo đây thật chỉ muốn nhắn với bạn và tôi rằng: khó có thể hứa điều gì, trong lúc này, vì nhiều lý-do. Thành thử, cứ thế này đi. Thế này, là: cứ để lòng mình rộng mở để Thánh Thần dẫn đưa con tầu mình về chốn nào tuỳ ý Ngài. Nói thế rồi, nay xin trở về với “chuyện phiếm” về cõi đời của người và mình vẫn còn đó rất nhiều vấn-đề.

Đời mình, thì đã có vấn-đề là như thế. Còn đời người, thì như: còn có những vấn-đề đặt ra rất thời-thượng như sau:

“Cách nay không đầy một năm, tên tuổi của con người nổi tiếng mang tên Nigella Lawson từng tạo ánh nhìn khá quyến rũ với giới thưởng ngoạn chương-trình truyền-hình thuộc hạng sang gửi đến khán-giả thích nấu-nướng hầu tạo cho gia đình cuộc sống hài hoà, êm ả rất đáng sống.

Nay thì vấn-đề tạo nguyên-nhân cho để cô ly-dị người chồng nổi tiếng với kỹ-nghệ quảng-cáo là trùm khuyến-mại có tên là Charles Saatchi được lên ảnh phổ biến khắp thế-giới với hàng chữ dùng làm đề-tựa khiến mọi người sửng sốt đến chết ngạt, như: “Saatchi và đôi tay xiết chặt cổ họng người đẹp Negelia”, đã làm cô chết lặng, chẳng nói được một lời.

Chết lặng hơn cả, là tập phim truyện truyền-hình nói nhiều về các nhóm người vẫn còn đang chiến đấu chống lại cảnh bạo-hành trong gia-đình. Những điều lâu nay còn ẩn- tàng bên dưới lớp sương mù ảnh hình không để lộ cho khán-giả biết nhiều về những điều mà lâu nay thiên hạ cứ cho rằng: bạo-hành trong gia-đình là chuyện của xã-hội trọng nam khinh nữ cứ để đàn ông xài xể phụ nữ hoặc những người thuộc phái yếu…

Vừa qua, một chuyên-gia lão luyện trong địa hạt nghiên-cứu khảo-sát có dấy lên một cao-trào để mọi người ở Úc thấy được rằng vấn-đề bạo-hành trong gia-đình không chỉ là vấn-đề của phụ-nữ hay thành-viên nào đó trong cộng-đoàn nhỏ thôi, nhưng còn là chuyện của hết mọi người, nam cũng như nữ. Và, tác-giả nhấn mạnh rằng: thật ra nạn-nhân lại chính là nam-nhân nhiều hơn nữ-giới…

Tác-giả đưa ra lời xác chứng với nhận-định, rằng: lâu nay các nghiên-cứu khảo-sát đều không ngừng cho thấy đa phần thì phụ-nữ là nạn-nhân của bạo-hành trong một xã-hội gồm các đàn ông chuyên thống-lĩnh. Nói như thế, hẳn người đọc tin cứ đinh-ninh là như vậy rồi vội tin. Nhưng, sự thật không thế. Bạo-hành xảy đến với người phối-ngẫu không chỉ nghiêng về phía phụ-nữ hoặc về một giới tính, mà ngay đến phụ-nữ cũng từng sách-nhiễu nam-giới cũng rất nhiều. Các khảo-sát mới đây ở Úc cho thấy có khoảng một phần ba nạn-nhân của các vụ này là đàn ông, con trai.

Dự án có tên là Nhận-thức Sách-nhiễu Người Phối Ngẫu viết tắt là PASK thực hiện với 1700 người ở Mỹ, do tạp-chí mang tên The US Journal Partner Abuse cho biết trong thời gian từ tháng Tư năm 2012 đến tháng Tư năm 2013, cho thấy hầu hết các vụ sách-nhiễu này là do phụ-nữ là thủ phạm và hầu hết nam giới mới là nạn-nhân. Kết quả được tóm-tắt như sau:

– 24% cá-nhân những người bị người phối-ngẫu bên kia tấn công ít nhất một lần trong đời mình (23% do phụ nữ chủ chốt và 19.3% do nam-giới gây ra).

– 25.3% trong số những người sách-nhiễu người phối-ngẫu của mình, thì tỉ-số phụ nữ vi-phạm nhiều hơn nam-giới.

– 80% những người có kinh-nghiệm bị sách-nhiễu về tình-cảm và chủ-động đáp trả mọi khiêu-khích hoặc có chiến-thuật khống-chế hoặc đe-doạ người phối-ngẫu của mình. Qua nghiên cứ/khảo sát, thì 40% là phụ-nữ (trong sách-nhiễu cảm-xúc) còn phía nam-nhân chỉ đếm được có 32% thôi. Về sách-nhiễu mang tích miễn cưỡng thì 41% thuộc phái nữ và 43% thuộc phái nam.

– Đa số các vụ bạo-hành đều tương-tác cả hai phía. Nếu tính các nước có số dân đông đúc, thì việc bạo-hành giữa vợ-chồng được tường-trình là có đến 57% về cả hai phái nam/nữ. 41% chỉ một phái bị và trong số này thì 13.8% là do nam-giới chủ-động đối với nữ-giới, 28.3% do nữ-giới chủ-động đối với nam-giới.

– Cả hai phái nam lẫn nữ đều là thủ-phạm chủ-động trong các cuộc bạo-hành trong gia-đình là do cùng một động lực như nhau, trước nhất thường là về cảm-xúc do bị căng-thẳng thần-kinh hoặc ghen tương; hoặc do cảm-xúc tức-giận và những lý do nào khác mà tự họ không thể dùng lời nói hoặc cách-thức trao-đổi cùng đối-thoại để kéo sự chú ý của người phối-ngẫu phía bên kia.

Các khám phá từ khảo-sát/nghiên-cứu này đều nói cách chung chung rất rộng nghĩa, nhưng cũng đủ để thách-đố các nhận-định thông-thường cho thấy nam-giới là thủ-phạm trong các baọ-hành ở gia-đình. Thế thì, tại sao không kể về những cái tát tai, đấm vào mặt hoặc bắt nạt về tâm-lý do phụ-nữ đối-xử với phái nam, trong cuộc sống. Lý-do là vì phụ-nữ thường bị thương-tích nhiều hơn nam-giới trong các vụ cãi cọ, ẩu đả xảy ra trong gia-đình, đến độ phải đi nhà thương cấp-cứu. Nói tóm lại, khảo-sát này chú trọng nhiều đến nạn-nhân các vụ bạo hành-trong gia-đình hơn lý-lẽ bênh-vực phái này hoặc phái khác…” (x. Carolyn Monahan, The Fearful Symmetry of Family Violence, (MercatorNet 23/5/2014).

Thật ra thì, ý-kiến trên đây về bạo-hành trong gia-đình, không cần đặt lại xem ai là nạn nhân ai là thủ-phạm, ai chịu nhiều thiệt-thòi, vv. Là của tác-giả bài viết dẫn ở trên, chứ không của bần-đạo, đâu đấy. Bởi lẽ, đặt vấn-đề về bạo-hành trong gia-đình hoặc nội-bộ cộng-đoàn mình chung sống, là bàn về những điều không hay và không phải. Hoặc, như người nghệ-sĩ vẫn cứ gọi đó bằng câu hát: “Tôi đã mất người trong cuộc đời”, hoặc “thôi đã hết thời gian tuyệt vời”, rồi lại hát: “Tôi như con thú hoang lạc đàn…”

Hoặc ít nhất cũng là: “Những kỷ niệm sống trong tôi”, nay không còn “những nụ cười nát trên môi” , hoặc “những giọt lệ ôi sầu đắng.” Sầu và đắng, là bởi những người đang sống trong cảnh bạo hành ở nhà hoặc trong cộng-đoàn, nay cảm thấy “Kiếp tha hương, lắm đau thương, lắm chua cay…” để rồi: “Tôi gọi tên ai mãi thôi…!”

Sầu và đắng, trong cuộc sống ở cộng đoàn nhỏ là gia-đình xào xáo, cãi tranh, tranh giành này nọ đã khiến nguời người lại nhớ lời vành Kinh Sách từng loan báo:

“Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất;

Thầy đến không phải để đem bình an,

nhưng để đem gươm giáo.

Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ

giữa con trai với cha,

giữa con gái với mẹ,

giữa con dâu với mẹ chồng.

Kẻ thù của mình chính là người nhà.”

(Mt 10: 34-35)

Lời Chúa báo động thì như thế. Nhưng, vấn-đề đặt ra để bạn và tôi, ta suy-tư vào những ngày trời đẹp hoặc mây mù u ám vây quanh có những câu hỏi được bạn Đạo đưa ra về việc sống thực Lời Chúa, ghi nhận như sau:

“Hỏi: làm sao thày lại đoan quyết rằng: lời thánh-sử viết Tin Mừng không có ý trích-dẫn Lời Chúa nói như sự thật đã hoặc sẽ xảy ra? Vậy thì ý của thánh-sử khi viết thì thế nào?

Đáp: Có lẽ người đọc Tin Mừng các thánh Mát-thêu, Mác-cô, Luca và Gioan viết, hầu hết vẫn nghĩ rằng những gì được viết ra là sự-kiện hoặc câu chuyện hoặc lời nói có thật từ Đức Giêsu theo tính lịch sử. Đọc Tin Mừng, ta cần hiểu rõ, rằng: tín-hữu Đạo Chúa thời tiên-khởi từng trải-nghiệm rằng Đức Giêsu vẫn có mặt ở giữa họ cả sau khi Ngài chết đi. Nói như thế, phải hiểu ý-nghĩa về sự có mặt liên-tục của Chúa đã tạo cho người chuyển-giao truyền-thống Phúc Âm một thứ tự-do rất sáng-tạo. Các tác-giả không viết nhiều về Đức Giêsu từng sống thế nào mà chỉ viết về Đức Giêsu đang sống với ta.

Viết như thế, không để diễn-tả xem Đức Giêsu từng nói và từng làm những gì, mà là Ngài đang nói gì và làm gì cho ta và với ta. Thành thử, các tác-giả Phúc Âm đều thấy lúng-túng khi diễn-tả lời nói và hành-xử của Đức Giêsu theo cách ăn-khớp với nhu-cầu tư-riêng của thời đại và cộng đoàn trong đó các ngài từng sống.

Nói như thế, tôi không có ý chối bỏ giá-trị của Phúc Âm như vẫn có. Điều tôi muốn nói là: các truyện được kể trong Kinh Sách không phải là chuyện lịch-sử, cũng không là tiểu-sử được kể lại, nhưng là lối chú-giải về thời buổi, địa điểm và cộng-đoàn nào đó, cách riêng. Thế nên, muốn biết xem Đức Giêsu lịch-sử, phải xem xét những gì tác-giả Tin Mừng muốn nói đến bên sau các chú-giải ấy, mới hiểu được”. (x. Richard G. Watts & John Dominic Crossan, Who is Jesus, Westminster John Knox Press Louisville Kentucky 1996 tr. 6-7)

Xem thế thì, sống Lời Chúa là phải sống như thế nào? Có phảo là: sống như thể giữ cho đúng nghi-thức phụng-vụ các ngày lễ trọng-đại mà quên trở về với cuộc sống bình thường và thông-thường ở đời không? Để trả lời, cũng nên nghe thêm lời diễn-giải của đấng bậc thày dạy trong Đạo, có những lời sẻ-san như sau:

“Sống trong đời dù chỉ gặp những điều tầm-thường về “sự việc” hoặc “sự thể” đơn giản chỉ nói về “nó” hoặc “cái đó” thôi cũng là điều tốt, bởi Thiên-Chúa tạo-dựng theo cách như thể để cho ta và Ngài chúc lành cho tất cả, bằng cả đặc-tính tích-cực của Ngài, nữa. Quả là, Thiên-Chúa vui-thích những thứ “đó” và Ngài muốn ta cũng vui-hưởng mọi điều ở trong “đó”. Theo cách này, ta sẽ cảm-nghiệm rằng: ta đang thực-sự triển-nở và đó chính là ý-định của Thiên-Chúa đối với ta, để ta sống.

Thật ra, thánh Mát-thêu biết rằng: có những điều và nhiều điểm không được tốt cho lắm, nhiều lúc còn tồi tệ nữa là đằng khác. Và, cũng có sự việc thật cũng đáng chán như chiếc máy rửa chén. Mọi người đều biết thế, nên vẫn chấp-nhận sống với “nó”. Thế nhưng, thánh-sử Mát-thêu lại để Đức Giêsu kể huỵch-toẹt cho ta biết rằng: ngay vào lúc và nơi chốn có sự thể đáng chán ngán, lại thấy nảy-sinh những khoảnh-khắc rất đáng yêu. Thành thử, ta cũng nên tìm-hiểu xem để biết “nó” như thế nào, mà cảm-kích và vui-thích rồi cảm-tạ ơn Chúa về những thứ Ngài ban cho ta.

Đọc Tin Mừng các thánh, nhất là do thánh Mát-thêu viết, đôi lúc ta vẫn thấy ra như tác-giả cũng rất thích âm-nhạc. Thánh-nhân từng viết về thứ âm-nhạc rền-vang lời vãn-than, trổi lên cùng lúc với nhạc nền của cuộc đời ta đang sống. Và, thánh-nhân lại nhấn mạnh rằng, cùng với Đức Giêsu, vẫn xảy đến các khoảnh-khắc đích-thực có loại nhạc rất trữ-tình. Đó là lúc ta nghiệm ra thế nào là đến với người khác, hăng say/tử-tế, chữa lành nhiều việc. Và Thiên-Chúa vẫn luôn có mặt để hỗ-trợ ta. Và, khi hoạt-động hăng say/năng-nổ, thì đó là lúc ta quên hết những gì đáng chán ở phần nền.

Thế đó, “nó” mới hay. Thế đó, là “sự việc” rất tuyệt-vời. Thế thì, cuộc sống mới đáng sống. Và, Thiên-Chúa cũng thế. Ngài cũng giống như ta, nghĩa là Ngài rất phấn-kích khi ta vui sống. Và, ta vẫn đang sống với và sống cùng Ngài, theo kiểu ấy.

Ở Tin Mừng ta đọc hôm nay, thánh Mát-thêu viết về bốn thứ nhạc tuyêt-vời nơi Đức Giêsu.

Thứ nhất, Chúa nói đến nhạc-điệu an-vui trong đó có: người mù được thấy, người què đi được, người phung được sạch, người điếc nghe được, và người nghèo đói/ thấp hèn được nghe/biết Tin Vui An Bình. Đức Giêsu mừng kính sự sống giống như thế, ở Galilê. Đó là thứ âm-nhạc tuyệt-cú ta gặp được nơi “sự việc” yêu thương người nghèo-khó, có nhu-cầu.

Loại nhạc thứ hai, Chúa có thưa: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi-khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn-ngoan thông-thái biết những điều này, nhưng lại mặc-khải cho những người bé-mọn” (Mt 11: 25). Xem thế thì, Đức Giêsu mừng kính sự sống an-lạc cho người bình-thường sống bên dưới những người mà chẳng ai đoái-hoài nhìn ngó, ngoại trừ Chúa. Chúa cũng nói: cuộc sống, thật ra là làn gió mát cho những người như thế, cả khi bị các cấp ở bên trên đối-xử với mình thật không phải. Và, họ nhận ra sự tử-tế, giống Chúa, nằm khuất ở bên dưới, mọi “sự việc”.

Loại nhạc thứ ba, là khi Chúa bảo: “Những ai đang vất-vả mang gánh nặng-nề hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ-ngơi, bồi dưỡng” (Mt 11: 28). Nói thế, tức là: Ngài rất bén-nhạy cảm-thông với mọi người và tạo cho họ khả-năng sống cuộc-sống của chính mình, cho thật sống. Chúa mừng kính sự tốt-lành Ngài tạo ban cho những người vẫn lây-lất kéo dài cuộc đời từ ngày này qua tháng nọ, nhưng không chán: bởi nơi đó, có giòng nhạc xuất-phát từ nhạc-bản tươi-vui, an-hoà.

Và giòng nhạc cuối, có Chúa nói: “Anh em hãy mang lấy ách của Tôi, và hãy học với Tôi, vì Tôi có lòng hiền-hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ-ngơi, bồi-dưỡng. Vì ách tôi êm-ái, và gánh tôi nhẹ-nhàng” (Mt 11: 29-30). Nói thế, còn có nghĩa: Chúa trân-trọng mừng sự gần-cận với những ai cùng mang “ách” dịu-hiền của Ngài. Mọi người sẽ thấy được niềm an-vui trong tháng ngày dài cuộc đời gặp đầy phiền-toái, oan khiên.

Vâng. Giữa giòng nhạc tươi-vui/êm-đềm, Lời Chúa nói, vẫn có tiếng trống làm nền cho thứ âm-nhạc dịu-nhẹ, hoà-vang, êm-ái. Những người cùng khổ/cật-lực cần được ta đến cảm-kích niềm vui chung. Và, mỗi khi ai đó trổi nhạc vui rồi múa nhảy, hẳn cũng có những người không buồn dời gót ngọc để chung vui với người đó. Một số người sống như thế, cũng chẳng buồn đáp-ứng lại giòng nhạc buồn vào buổi tiễn-đưa người quá-cố, nữa.

Lại có người, vẫn cứ chê-bai chỉ-trích ta, là những người dễ kích-động khi khám-phá ra rằng: cuộc sống cũng tốt đẹp như khi Đức Giêsu và tác-giả Tin Mừng thánh Mát-thêu từng công-nhận như thế. Ta cứ đặt để những lời như thế vào hậu-trường cuộc sống sẽ rất mừng, là: những điều như thế chỉ xuất-hiện ở hậu-trường, mà thôi. Vì, sự thể an-vui/tươi-tắn thực ra ở đâu đó, và những người như thế cũng chẳng thể nào lấy khỏi nơi ta niềm an vui, hài-hoà được.

Đến đây, tưởng cũng nên nói thêm, rằng: khi ta bảo: trong đời, có những sự và những việc vẫn suy-tưởng về Chúa và với Chúa. Tựa hồ như, khi Đức Giêsu trả lời câu hỏi “ai đó” của thánh Phêrô những tưởng Ngài là “ma trơi”, thì Ngài nói: “Đó là tôi!” Và, khi ta thưa với Chúa: Có những sự và những việc con muốn sẻ-san với Ngài, ôi lạy Chúa!, là có ý nói: ta cũng sẻ-san những sự và những việc rất tầm-thường với Đức Chúa.

Thế nên, khi ta nói: cuộc sống có nghĩ về Thần-Tính-An-Vui, là Thánh Thần đem lại sự sống tràn đầy, đến cho ta, là ta hỏi: Chúa nay thế nào rồi? Sự việc Chúa đến với ta, rày ra sao?  Thì đó là lúc ta nên vui-hưởng cuộc sống tràn đầy Đức Kitô. Cuộc sống rất “Kitô”, là như thế”.(x. Lm Kevin O’Shea CSsR, Suy Tư Tin Mừng Chúa nhật 14 thường niên năm A, vietcatholicsnet 27.06.2014, ở cột Phụng vụ)

Xem thế thì, hãy cùng người nghệ-sĩ nhớ đến “Sàigòn-hoa-lệ” thuở nào, rồi cùng hát:

“Nguời tình ơi! Tôi xin giữ trọn mãi lời thề,

Dù thời gian có là một thoáng đam-mê,

Phố-phường một ánh sao đêm,

Nhưng tôi vẫn không bao giờ quên.”

(Nam Lộc – bđd)

Vâng, chính thế. Dù Sàigòn là cuộc sống của tôi và của bạn có là một thoáng đam mê, ê-chề, nhiều bứt rứt, cũng chớ bao giờ quên. Không quên, “Hòn Ngọc Viễn Đông” đầy diễm lệ, cũng không quên cả đến Lời Vàng đấng thánh nhân-hiền từng viết nhiều và viết mãi về sự hiện-diện của Đấng Bên Trên luôn ở cùng và ở mãi với ta và với người.

Quyết thế rồi, nay ta đi vào khung trời truyện kể cũng rất “phiếm” để làm nhẹ bớt nỗi niềm suy-tư về cuộc đời có những lời nhung nhớ, hoặc “giọt lệ sầu buồn” hoặc “nụ cười nát trên môi”, để thưởng-thức.

“Truyện rằng:

Xe lửa bắt đầu chuyển bánh. Gandhi nhảy vội lên tàu. Một chiếc giày của ông rơi xuống. Gandhi không thể nào nhảy xuống để nhặt nó trong khi tàu chạy càng lúc càng nhanh. Trước sự sững sờ của mọi người, Gandhi…đã tháo luôn chiếc giày còn lại và ném về phía chiếc giày kia.

Hành khách trên tàu lấy làm lạ về hành động kỳ quặc của ông. Gandhi mỉm cười và giải thích: “Nếu có một người nghèo nào lượm được chiếc thứ nhất, họ có thể tìm thấy chiếc thứ hai và sẽ xài được đôi giày của tôi”.

Truyện kể vỏn vẹn chỉ có thế. Không dài giòng văn-tự cũng chẳng ngắn ngủi đến độ không hiểu nổi. Thế nhưng, để người đọc thấm thía hơn về ý-nghĩa của cuộc sống rúr ra từ câu chuyện “Chiếc giày đánh rơi của Ghandi”, người kể lại cứ thêm, đôi lời bàn rất “Mao Tôn Cương” như sau:

“Chúng ta thường ít nghĩ đến người khác mà chỉ nghĩ về bản thân mình. Khi chúng ta bị mất mát vật gì, thì điều đầu tiên ta nghĩ đến là: những thiệt thòi và bất hạnh của mình. Chúng ta mất quá nhiều thì giờ vào những tiếc nuối, thở than, chán nản, thậm chí còn bẳn gắt và bực bõ vì những rủi ro có thể xảy đến. Mahatma Gandhi đã có hành động thật cao quý bởi trong mất mát vật tuỳ thân như thế, ông vẫn có thể nghĩ đến người khác.

Hành động của Gandhi từng chứng tỏ: việc nghĩ đến người khác đã trở-thành một phần trong tư tưởng và nguyên tắc sống của ông. Giả như, trong cuộc sống an-bình và thành-đạt mà ta còn không mấy quan-tâm lo-lắng cho những kẻ bất hạnh hơn mình, thì liệu khi gặp khó khăn, mất mát, ta có làm được điều đó hay không?

Quanh ta có biết bao nhiêu người sống khó khăn, cực khổ đang cần sự giúp đỡ của ta. Những gì họ thiếu thốn có khi không là vật chất, mà đôi lúc chỉ cần một lời động viên an ủi, thật cũng đủ.

Thế giới của ta sẽ hạnh phúc biết mấy, nếu mỗi người và mọi người trong ta không chỉ chăm lo cho lợi-ích riêng-tư của mình, mà cần phải chăm lo lợi ích của người khác nữa.” (câu truyện và lời bàn trích từ điện-thư bạn bè gửi hôm 27/6/2014, không ghi tên tác-giả)

Lời bàn về chuyện âu sầu, buồn khổ, mất mát gặp phải trong cuộc đời và những gì còn diễn tiến ở phía sau đường đời, cũng nên dùng làm kết-đoạn cho “chuyện phiếm” rất đáng chán ở đây, hôm nay.

Kết thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta cứ thong-dong hát lên lời lẽ đầy nhung nhớ về một “Sàigòn-hoa-lệ” nào đó, của mỗi người. Hát, là cứ hát những lời sau đây:

“Sàigòn ơi! Tôi đã mất người trong cuộc đời.

Sàigòn ơi! Tôi đã hết thời-gian tuyệt-vời.

Giờ còn đâu, những kỷ-niệm sống trong tôi,

Những nụ cười nát trên môi,

Những giọt lệ ôi sầu đắng…

Sàigòn ơi, nắng có còn vương trên đường?

Đường ngày xưa, mưa có ướt ngập lối đường về.

Rồi mùa thu, lá còn đổ xuống công viên?

Bóng gầy còn bước nghiêng nghiêng?

Hay đã khóc thương cho người yêu?”

(Nam Lộc – bđd)

Hôm nay đây, những mong rằng “Sàigòn” của bạn và của tôi vẫn cứ còn giọt nắng lẫn giọt mưa vương trên đường đời, đầy những nụ cười nở mãi trên môi, của mỗi người và mọi người.

Trần Ngọc Mười Hai

Với niềm hy vọng

Trải dài mãi trên anh trên tôi,

Trên mọi người.

ở đời.

Ở đây châu báu vô tri hết,

đây châu báu vô tri hết,”

Pho sách quần phương lộ ý nhiều.”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mt 14: 22-33

Tác giả: Mai Tá

Châu báu vô tri của nhà thơ, nay lộ ý nhiều ở pho sách quần phương, rất lộ ý. Trân châu báu vật của nhà Đạo, lâu nay vẫn thể-hiện nơi tình người đi Đạo, rất chân phương, thân tình, nhiều ý-nghĩa

Tình người chân-phương/thân tình, nay diễn-tả ở trình-thuật được thánh Mát-thêu ghi rõ, đã thấm-nhuần nhiều truyện dân-gian đời thường, rất được ưa chuộng. Dân-gian truyện đời thường hôm nay, lại thấy có câu truyện về vai-trò của nữ-lưu phụ-trách công-cuộc mục-vụ ở tôn-giáo bạn, cũng là tôn-giáo đặt nặng Tình Chúa rất thương-yêu con người,

Tại làng chài vùng ven nọ, các anh em trong Giáo hội Tin Lành luôn cố gắng kiếm tìm cho được một chủ chăn mới thay cho vị mục sư cao-niên đã đến cõi. Sau nhiều chống đối từ các tín-đồ trong đó có Jimmy trong vai người chủ chốt. Cuối cùng thì, Hội thánh sở tại lạ đã mời được vị nữ-lưu tên Gayle phụ-trách vai-trò chủ chăn rất sáng-giá.

Nữ chủ chăn tên là Gayle lúc đầu hơi ngỡ ngàng, nhưng sau nhiều tuần quen dần với công-tác mục-vụ, cũng dễ dàng. Mùa nghỉ đã đến, thành-viên cộng-đoàn do anh Tom điều động, đã tổ chức chuyến đi câu nhằm mục-đích mời vị chủ-chăn tham quan, có dịp thư giãn cùng thưởng-ngoạn niềm an vui, rất mục-vụ.

Jimmy được yêu-cầu cho mượn xuồng để bà con có dịp thăm viếng miền sông nước. Jimmy rất đồng ý, nhưng Anh ra điều-kiện đòi làm hướng-dẫn-viên cho buổi vui này. Và thế là, mọi người lên xuồng, để ra đi. Đi được một quãng ngắn, bà con chợt nhận ra là mồi câu còn để trên bờ. Có người đề nghị quay trở lại lấy mồi.

Nhưng, chủ chăn là chị Gayle không đồng ý. Chị bước xuống khỏi xuồng, bỏ đi vào bờ. Jimmy thấy vậy, anh cũng chẳng ngạc-nhiên chút nào về khả-năng lội bộ của vị chủ chăn tên Gayle, bèn nói mau: “Quý vị thấy chưa, tôi đã nói là mình không nên nhờ bà ấy lo việc mục-vụ cho giáo-đoàn mình, mới phải. Bà ta nào biết bơi, nên mới thành chuyện.”

Thành thử, bỏ bạn bè đồng cảnh ở lại chơ vơ trên thuyền, lại cũng là kinh nghiệm khó nghĩ, khó xử cần suy tư nhiều, để tìm hiểu.

Những ai từng xem phim Shrek nhiều tập, hẳn cũng đều đồng ý là bộ phim này có nhiều điều rất hay và rất tuyệt, nhưng nhiều chỗ có hơi khó hiểu. Các nhà phê-bình kịch-bản để làm phim, phải cắt-nghĩa là: tác-giả đã dùng cung-cách được gọi là “nguyên-bản tương-tác” lấy sự-kiện nguyên-bản ở chỗ này, rồi khéo-léo đưa vào bản-văn ở chỗ khác để ông có thể tiếp-tục kể nốt cốt-truyện làm nên cho bộ phim. Làm thế, mới đưa ra được cái hay/cái đẹp của bộ phim.

Trong phim này, có một số điều được rút từ nhiều điển-tích cổ xưa, rất cố-hữu. Thành thử, muốn biết rõ bản-chất mỗi nhân-vật, người xem cần hiểu/biết các điển-tích tuy xưa/cổ đã hàm-ẩn, ở trong phim. Đôi lúc, người thưởng-ngoạn lại có cảm-tưởng là cốt truyện đã bị đảo-ngược không còn giống câu truyện vào lúc ban đầu nữa.

Tuy nhiên, những chuyện như thế đã không làm cho bộ phim nhiều tập Shrek mất đi tính ăn khách, thích thú cần đem đến với người xem. Cuối cùng thì, mọi người vẫn đổ xô, rủ rê nhau xem cho đủ hết mọi tập, dù truyện phim có quá nhiều điển-tích, nhiều chỗ cũng khó hiểu.

Truyện kể về việc Thần Khí Chúa bay là là trên mặt nước cũng tạo yêu-tố gây kinh-ngạc không ít, giống hệt tập phim truyện Shrek. Trong mười một đoạn văn Tin Mừng do thánh Mát-thêu ghi, nhiều chỗ cũng được rút từ nhiều điển-tích rất cổ xưa có sẵn trong Cựu Ước.

Thánh Mát-thêu lại đã đem một số điển-tích ấy vào thể-văn riêng của ngài và diễn-giải thêm cho phù-hợp nhân cách Đức Giêsu Kitô. Ngày hôm nay, đọc trình-thuật của thánh-nhân theo cảm-nghĩ của người đương-thời, hẳn nhiều người sẽ thấy lạc lõng, bơ vơ, không đồng bộ. Họ thưởng thức mỗi cốt truyện, chứ không nắm-bắt được cốt-lõi của bản văn. Thật ra, tín-hữu cộng-đoàn thời tiên-khởi không như thế. Mỗi khi thánh Mát-thêu diễn-giải điều gì ở trình thuật, ai cũng hiểu mọi ý-nghĩa đã kể trong truyện.

Nơi Cựu Ước, tín-hữu kỳ-cựu như ông Giób vẫn thấy văn-bản trình-thuật diễn-tả trọn vẹn ý-nghĩa sự việc Chúa hiện-diện cả trong cơn phong-ba, sóng dồn, vốn là ảnh-hình nói lên các hiểm-họa gặp thấy ở trong đời. Ảnh-hình về “thuyền con” trong trình thuật, là biểu-tượng về Hội-thánh cũng đã gặp nhiều phong-ba/sóng dồn, vào thuở đầu.

Với thánh Mát-thêu, các môn-đệ Chúa đều có mặt trong tình-cảnh đó. Hình ảnh Đức Kitô bay là trên mặt nước, là âm-vang cố-hữu về họat-động của Thần-Khí Chúa trong trình-thuật tiên-khởi ở sách Khởi nguyên. Ngay đến việc Đức Kitô từng khiến cho sóng êm, biển lặng cũng để tiếp-nối công-việc mà ngôn-sứ Giô-nah đã làm vào khi trước.

Thành thử, người đọc nào những muốn say-mê tìm-hiểu Kinh-thánh, sẽ thấy nhiều biểu-tượng vẫn đồng-bộ, ăn khớp với các điển-tích được ghi nhiều trong sách Cựu-Ước, vào thời trước.

Trình thuật hôm nay cũng thế, thánh Mát-thêu đã chứng-tỏ biệt tài viết lên Tin Mừng cách độc-đáo qua ngôn-ngữ riêng-tư của chính ông. Đi vào chi tiết, ta sẽ còn thấy thánh-nhân chú-trọng nhiều đến thông-điệp mang tính thần-học hàm-ẩn như sau: Đức Kitô, là Người Con Độc Nhất của Thiên-Chúa-là-Cha, là Chúa tể mọi Tạo dựng, vẫn trung-kiên với đồ-đệ của Ngài. Chẳng cần biết sông/biển có vỡ ào, sóng nước có dồn dập, hoặc dân con/người phàm có khiếp-sợ nguy-cơ tai-biến đến thế nào đi nữa, Chúa vẫn cứu, đem họ về với công-trình tái tạo-dựng nên người mới, vẫn rất mới.

Cũng hệt thế, Hội-thánh Chúa thừa-nhận rằng Ngài đã hoàn-tất công-trình tạo-dựng mà lâu nay toàn-dân Israel hằng trông đợi nơi Ngài. Họ mong được mục-kích và ôm giấc mộng ấy vào trong lòng. Vẫn cảm-thông với công-cuộc cứu-vớt của Đức Chúa, dù đôi lúc nhận thấy nhiều biểu-tượng và điển-tích cũng không mấy dễ hiểu.

Vấn đề là: hôm nay đây, tất cả các truyện cổ, cùng điển-tích ấy có đem đến cho ta điều gì tốt đẹp, nhiều hay không?

Quả thật, chúng ta đều là kẻ kế-thừa lòng tin của thánh sử Mát-thêu, từng tỏ rõ. Hôm nay đây, vốn có mặt trong buổi Tiệc thánh này, là vì ta tin rằng Đức Giêsu, Người Con Độc Nhất của Thiên-Chúa-là-Cha, Đấng đã cứu-vớt ta ra khỏi chính thân-phận người phàm chốn gian-trần của mình, để sẽ không còn bị lớp phong-ba bão-táp cùng sóng dồn ở cuộc đời những miệt mài, đầy hủy hoại là thế.

Đằng khác, thông-điệp thánh-sử chuyển đến cho ta hôm nay, còn nói lên rằng: trong mọi phong ba bão táp từng đe dọa con thuyền cuộc sống của ta, phải chăng ta vẫn gặp được may dù không biết bơi vì Đức Giêsu chẳng bao giờ học-hỏi để biết bơi, hết?

Cảm-nhận được sự thể như thế, ta lại sẽ ngâm lên lời thơ đang ngâm dở, rằng:

“Ở đây châu báu vô tri hết,

Pho sách quần phương lộ ý nhiều.

Hãy tìm cho được hoa cung cấm,

Xem thử trong hoa có mỹ miều?”

(Hàn Mặc Tử – Nhớ Thương)

Châu báu vô-tri ở trong sách, và hoa cung-cấm có mỹ-miều, lại cũng là những thứ ta có thể tìm ra được trong cuộc sống vẫn rất đẹp, “lộ ý nhiều”. Ý rất lộ, được thánh-sử diễn-tả bằng hình-tượng dân-gian đằm thắm, rất mỹ-miều, vẫn không thiếu ở chốn nhân-gian tình người, rất chân-phương.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

Tư thục hóa nền giáo dục Việt Nam

Tư thục hóa nền giáo dục Việt Nam

Chuacuuthe.com

VRNs (09.08.2014) – Melbourne Úc Đại Lợi – Ngành giáo dục đã trải qua ba lần cải cách, nhưng vì vẫn điều hành lối cũ nên càng cải cách càng rơi vào khủng hỏang. Từ góc nhìn kinh tế muốn tạo cạnh tranh, tạo công bằng và hiệu quả giáo dục cần được tư thục hóa.

140807013

Giáo Dục Là Công Việc Nhà Nho

Tổ chức giáo dục thời xưa được học giả Đào Duy Anh ghi lại trong quyển Việt Nam Văn Hóa Sử Cương như sau:

Ở mỗi huyện có quan Huấn đạo, mỗi phủ có quan Giáo thụ, dạy Tứ Thư Ngũ Kinh cho học trò khá. Ở mỗi tỉnh có quan Đốc học dạy các sinh đồ cao đẳng. Ở Kinh đô có trường Quốc tử giám. Các vị học quan kể trên đều ở dưới quyền giám đốc của bộ Lễ hoặc bộ Học. Trong dân gian thì xưa nay việc học vẫn hoàn toàn tự do. Thầy học thì có thầy khóa, thầy đồ, thầy tú dạy trẻ con, cho đến bậc đại khoa không xuất chính, hay các quan trí sĩ, có người dạy đến trăm nghìn học trò.

Giáo dục có thể xem như là công việc của nhà nho hơn là của quốc gia. Trường học thì phần lớn là nhà riêng của thầy nho, hoặc ở chùa, đình, miễu hay nhà một người giàu có trong làng. Các thầy nho hòan tòan độc lập với công quyền. Họ không được tài trợ và cũng không bị kiểm soát đôn đốc bởi bất cứ cơ quan nào.

Sang Thời Pháp Thuộc

Giáo dục thời Pháp nhằm đào tạo một số người biết tiếng Pháp, biết Quốc Ngữ, có đôi chút hiểu biết để ra làm công chức, làm thông dịch phục vụ cho người Pháp. Mục tiêu xa là đồng hóa người bản xứ biến họ thành những người Pháp về phương diện văn hóa.

Để thực hiện các mục tiêu nêu trên, người Pháp đã mở rộng 1 hệ thống giáo dục công lập rộng khắp Đông Dương. Đồng thờitừ mục tiêu truyền giáo một số trường tư do giáo hội Thiên Chúa Giáo cũng đã xây dựng và điều hành.

Sau năm 1930 một số tư thục do tư nhân mở ra ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và ở một vài tỉnh lỵ lớn đa số là các trường bậc Tiểu Học.  Bậc Cao Đẳng Tiểu Học chỉ có ở Hà nội, Huế và Sài gòn. Bậc Tú Tài chỉ có ở Hà Nội và Sài Gòn.

Nhà nho vẫn được tiếp tục vai trò giáo dục. Nhưng theo quyết định của Toàn Quyền Paul Beau năm 1906-07 thì các thầy đồ, thầy khóa ở xã thôn, các quan giáo huấn, đốc học ở phủ, huyện, tỉnh, ngoài việc dạy chữ Hán phải dạy thêm chữ Quốc Ngữ.

Khi Đông Kinh Nghĩa Thục được thành lập, người Pháp đã không ngăn cấm hoạt động. Người Pháp chỉ giải tán khi biết được đằng sau Nghĩa Thục là phong trào chống lại thực dân.

Tư Thục Trong Nền Giáo Dục Miền Nam

Giáo dục miền Nam nhằm đào tạo những công dân tốt có khả năng phụng sự xã hội. Vì vậy vai trò của chính phủ là làm sao tạo được sự công bằng và hiệu quả trong việc đầu tư cho giáo dục.

Chiến lược giáo dục miền Nam đựơc nêu rõ trong Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa: (1) Quốc Gia công nhận quyền tự do giáo dục, (2) nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí, (3) nền giáo dục Đại Học được tự trị, (4) những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn và giáo dục, và (5) một ngân sách thích đáng phải được dành cho việc phát triển văn hóa giáo dục.

Để thực hiện những mục tiêu trên chính phủ miền Nam đã chia sẻ trách nhiệm với các thành phần khác trong xã hội. Những con số dưới đây có thể nói lên được phần nào sự phát triển của hệ thống tư thục trước đây.

Năm 1964 có chừng 435 ngàn học sinh tiểu học chiếm 28 phần trăm tổng số học sinh tiểu học đã được giáo dục tại các trường tư thục. Đến năm 1970 con số tăng lên 452 ngàn nhưng tỉ lệ đã giảm xuống chỉ còn 18 phần trăm.

Ở bậc trung học cả tỉ lệ lẫn số lượng học sinh đều liên tục gia tăng. Nếu năm 1964 các trường tư thục thu nhận 181 ngàn học sinh hay 62 phần trăm tổng số học sinh, thì đến năm 1970 con số tăng gần ba lần lên đến 484 ngàn học sinh chiếm tỉ lệ 78 phần trăm tổng số học sinh trung học.

Về giáo dục đại học, 6 Viện đại học tư thục cũng đã được thành lập với chừng 40 ngàn sinh viên tốt nghiệp.

Nhận thức giáo dục cơ bản mang lại công ích xã hội cao nhất nên chính quyền miền Nam đã tập trung ngân sách quốc gia cho giáo dục tiểu học. Học sinh công lập được hòan tòan miễn phí. Ở bậc tiểu học học sinh còn được ăn bánh mì và uống sữa miễn phí. Sách giáo khoa bậc tiểu học cũng được phát không.

Các trường tư nhờ cạnh tranh nên học phí thấp và phẩm chất giáo dục cũng không mấy chênh lệch. Bởi thế đa số trẻ em miền Nam đều được đến trường ăn học.

Nhờ chia sẻ trách nhiệm với tư nhân, phía chính phủ đã chu cấp một đời sống căn
bản cho giáo chức và các công chức trong ngành giáo dục. Nhờ đó miền Nam đã xây dựng được một nền giáo dục có giá trị ngang tầm quốc tế.

Đến năm 1975, hằng ngàn trường tư thục và các viện đại học đã bị tịch thu và nhập vào hệ thống giáo dục Xô Viết. Hệ thống này đến nay cũng không mấy thay đổi vẫn độc quyền và chính trị hóa giáo dục.

Trường Công Đã Biến Thành Trường Tư

Ngân sách cho giáo dục hiện nay đã lên đến 20 phần trăm tổng ngân sách quốc gia. Nhưng vì phải trải rộng cho tòan ngành, thiếu cạnh tranh và hiệu quả, nên các cơ sở học đường đều nghèo nàn, xuống cấp, lương giáo viên không đủ sống, có địa phương thiếu lương trả giáo viên,… chưa kể đến tình trạng tham nhũng tràn lan khắp ngành giáo dục.

Các trường công lập cũng thâu học phí và nhiều khỏan phí khác gây không ít khó khăn cho phụ huynh học sinh. Trường công đã trở thành trường tư.

Một vài trường tư được thành lập nhưng vì thiếu môi trường cạnh tranh lành mạnh, thiếu học sinh, nên học phí quá cao. Gia đình trung lưu cũng không đủ khả năng cho con em theo học.

Theo thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định số 49/2010/NĐ-CP, kể từ ngày 15/7/2014 các học sinh tiểu học công lập sẽ không phải đóng học phí. Thông tư không nói các lệ phí khác có được miễn hay không? Không thu được học phí, ngân sách lấy gì bù đắp và thực tế sẽ ra sao?

Tư thục hóa nền giáo dục Việt Nam

Các sinh viên đại học sau vài năm theo học sẽ có công ăn việc làm. Họ sẽ có lợi tức và có khả năng hòan trả các chi phí giáo dục. Người có giáo dục đại học lại thường dễ thay đổi nghề nghiệp và có nhiều khả năng xuất ngọai.

Vì thế một nước chậm phát triển như Việt Nam thay vì đầu tư cho giáo dục Đại Học nên để các khỏan ngân sách cho việc đầu tư vào giáo dục bậc tiểu học.

Cuộc hội thảo về cải cách giáo dục Đại Học do Nhóm đối thoại giáo dục và Lãnh sự quán Hoa Kỳ vừa tổ chức cho thấy việc tự trị đại học được xem như là giải pháp để thúc đẩy việc cải cách giáo dục đại học Việt Nam. Có điều các diễn giả không nói rõ tự do chính trị và tự do giáo dục chính là căn bản của một nền đại học tự trị.

Quyền tự trị đại học đã được nêu rõ trong Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa. Miền Nam không có Bộ Đại Học. Bộ Giáo dục chỉ có một thứ trưởng đặc trách giáo dục đại học, công việc của vị này chủ yếu là lo thực thi những chính sách và ngân sách giáo dục đại học.

Đại học tự trị về học vụ, tài chính và điều hành. Các hội đồng ở cấp viện đại học và cấp trường đại học (hay phân khoa) có quyền thảo luận và quyết định mà không phải trình báo hay xin chỉ thị từ bất cứ ai. Các Khoa trưởng không do Bộ Giáo dục bổ nhiệm mà do các giáo sư của Hội đồng Khoa bầu lên.

Khi Đại Học chưa được quyền tự trị thì khó có sự cạnh tranh công bằng giữa đại học công và tư. Một bên đã có nhà nước bảo hộ phía bên kia cần lợi nhuận để tiếp tục duy trì và phát triển. Thiếu cạnh tranh thì khó có thể nâng cao được phẩm chất của nền giáo dục.

Cũng trong thời gian qua, tranh chấp diễn ra tại đại học tư thục Hoa Sen xoay quanh việc ai quyết định chiến lược và thành quả của chiến lược thuộc về ai? Cuộc tranh chấp nhằm chọn giữa hai phương cách quản lý đại học: vụ lợi hay vô vụ lợi.

Tổ chức vô vụ lợi (phi lợi nhuận) họat động không vì lợi nhuận nhưng về lâu dài việc quản lý cũng cần có thặng dư để tái đầu tư và phát triển. Ở các nước Tây Phương các tổ chức vô vụ lợi họat động trong ngành giáo dục được khuyến khích bằng cách miễn thuế lợi tức. Các cá nhân hay công ty đóng góp cho các tổ chức giáo dục vô vụ lợi cũng được khai giảm thuế lợi tức hằng năm.

Để khuyến khích phát triển giáo dục tư thục, ngòai việc chính phủ cấp học bổng hay ngân sách cho đại học cả tư lẫn công, có quốc gia còn cho các sinh viên vay tiền học phí và chỉ hòan trả lại khi họ đã có công ăn việc làm vững chắc.

Nhiều quốc gia miễn thuế cho các dịch vụ thuộc về giáo dục. Có quốc gia còn khấu trừ thuế lợi tức các chi tiêu cá nhân hay công ty đầu tư cho việc giáo dục và đào tạo.

Chính phủ cũng cần tạo mọi cơ hội để các trường đại học tư thục được sự giúp đỡ của chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế, các công ty liên quốc, các cộng đồng hải ngọai và các mạnh thường quân quan tâm đến giáo dục.

Dựa trên căn bản chiến lược, chính sách và luật pháp quốc gia, các trường đại học tư thục có tòan quyền quyết định giữa tổ chức quản lý đại học bằng cách vụ lợi hay vô vụ lợi.

Các trường tiểu học và trung học tư thục, việc điều tài chính và quản lý tùy thuộc vào
Ban Quản Trị nhà trường. Bộ Giáo Dục chỉ quy định chương trình và giám sát phẩm chất giáo dục các trường.

Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đã tư thục hóa nền giáo dục của họ. Nhiều nước như Úc còn xem giáo dục như mặt hàng xuất khẩu chiến lược.

Trong khi ấy nền giáo dục Việt Nam vẫn lệ thuộc vào tư tưởng giáo dục kiểu Xô Viết trước đây, khi tự do chính trị và tự do giáo dục chưa có, mọi cải cách đều không mang lại kết quả, nền giáo dục càng ngày càng suy thóai, dẫn đến khủng hỏang xã hội.

Năm 1945, chỉ trong vòng vài tháng chính phủ Trần Trọng Kim đã hòan thành cuộc cách mạng giáo dục lần thứ nhất chuyển chương trình giáo dục từ Pháp ngữ sang Việt ngữ. Xây dựng giáo dục trên ba nguyên tắc: dân chủ, dân tộc, khoa học và lấy lý tưởng phụng sự quốc gia làm tôn chỉ.

Giáo dục gắn liền với phát triển quốc gia, bởi thế muốn đưa đất nước đi lên chúng ta cần sửa sọan tư tưởng sẵn sàng lấy việc tư thục hóa làm nền tảng cho cuộc cách mạng giáo dục lần này.

Nguyễn Quang Duy

—-

Bài liên quan:

Nguyễn Quang Duy (3-2014) Giáo dục Việt Nam: cố sửa hay trở về gốc?

Nguyễn Quang Duy (4-2014) Ưu việt của giáo dục miền Nam

Nguyễn Thanh Liêm, Nền giáo dục ở miền nam 1954-1975

 

Vì sao phải thoát Trung?

Vì sao phải thoát Trung?

Thứ năm, 7 tháng 8, 2014

httpv://www.youtube.com/watch?v=_2Ei-qKbErI

BBC Tiếng Việt mở tọa đàm xung quanh các thảo luận về ‘thoát Trung’ nhân những tranh luận gần đây về vấn đề này.

Tọa đàm được phát trực tiếp trên Bấm Google+ và kênh YouTube của BBC từ 19:30 tới 20:00 giờ Việt Nam ngày 7/8/2014.

Tham gia có các nhà quan sát Việt Nam từ Hà Nội, Hong Kong, Geneva và Berlin.

Cựu quan chức ngoại giao Đặng Xương Hùng, một trong các khách mời, bình luận trên Facebook của ông sau khi Trung Quốc rút giàn khoan:

“Hầu hết đều mong mỏi, khi đã được bình tâm, giới lãnh đạo sẽ đánh giá lại toàn bộ sự kiện, điều chỉnh chính sách để có được những quyết sách phù hợp, đưa Việt Nam ra khỏi vòng luẩn quẩn 25 năm thời kỳ đô hộ kiểu mới của Trung quốc. Đây là một cơ hội.

“25 năm sau lựa chọn ‘giải pháp đỏ’ Thành Đô, giàn khoan đã cho một cơ hội, cơ hội cho những ai dù kém cỏi nhất cũng nhìn ra bộ mặt thật của mưu đồ Đại Hán.

“Nói đúng ra, Trung Quốc đã không còn giấu tham vọng bành trướng của mình. Quan sát cách mà lãnh đạo cấp cao Việt Nam đánh giá lại tác động của Thành Đô, xem xét lại cách đối xử với Trung Quốc, chúng ta có thể phán đoán tương lai của đất nước sẽ đi về đâu,” ông Hùng viết.

‘Canh bạc đã thua’

Nhiều người Việt đòi xem xét lại quan hệ với Trung Quốc

Vị cựu quan chức, nguyên phó vụ trưởng và cựu tham tán ở Geneva, bình luận thêm:

“Chưa bao giờ lãnh đạo đảng và nhà nước Việt Nam đứng trước áp lực cần phải thay đổi lớn như hiện nay.

“Mọi thay đổi phải bắt nguồn từ thay đổi tư tưởng, thay đổi cách suy nghĩ và đánh giá sự việc. Liệu các nhà lãnh đạo hiện nay có đủ nghị lực để chiến thắng được chính mình, chiến thắng được ràng buộc về lợi ích cá nhân, phe nhóm. Có đủ can đảm để đưa ra công khai những thỏa thuận sai lầm trong quá khứ.

“Một khi đã nhận sai lầm, minh bạch hóa nó, không phải bỏ công để che dấu và bao bọc nó.

“Chưa bao giờ lãnh đạo đảng và nhà nước Việt Nam đứng trước áp lực cần phải thay đổi lớn như hiện nay. “

“Canh bạc đã thua, càng ham gỡ, càng thua. Hãy từ bỏ nó, chơi một cuộc chơi mới. Một bài toán phải giải theo cách khác mới có một kết quả mới khác trước.”

Bình về quan hệ với Bắc Kinh và Washington, ông Hùng viết:

“Hãy từ bỏ trò chơi cân bằng trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc. Ta chỉ đủ khôn lỏi, chứ không đủ khôn ngoan và không đủ lực để tiếp tục đánh đu trong quan hệ với hai nước lớn này.

“Không dễ gì đạt được TPP và không có cải thiện dân chủ và nhân quyền trong nước. Không dễ gì lúc nào cũng muốn hưởng sự bao che của Trung Quốc mà không phải trả giá của sự lệ thuộc nhẫn nhịn. Hãy chìa tay ra để dựa vào sự hỗ trợ rất nhân bản của nước Mỹ đưa đất nước dần một đi lên và lúc đó câu chuyện quan hệ với ông láng giềng bất hảo phương Bắc sẽ dễ đi rất nhiều.”

“Bài học Miến Điện là bài học dễ học nhất,” ông Hùng viết.

 

Ngôn Ngữ Của Tình Yêu

Ngôn Ngữ Của Tình Yêu

Có lẽ cái tên của Helen Keller, một cô gái câm điếc người Mỹ, đã trở thành bậc khoa bảng, không còn xa lạ với chúng ta nữa.

Vừa được 19 tháng, sau một cơn đau màng óc, cô gái bất hạnh này trở thành mù lòa và câm điếc.  Thế giới của âm thanh và màu sắc đã khép hẳn cánh cửa lại với cô.

Làm thế nào để truyền thụ kiến thức cho một người đã câm điếc lại còn mù lòa?

Cha mẹ của cô bé dường như muốn bó tay.  Nhưng có một cô giáo tên là Anne Sullivan đã không muốn bỏ cuộc.  Hy vọng duy nhất mà cô giáo này còn đó là có thể truyền thông và liên lạc với cô gái mù lòa và câm điếc này qua việc tiếp xúc với bàn tay của cô.

Chỉ có thể tiếp xúc với thế giới bằng đôi tay, nhưng Helen Keller đã có thể học xong Ðại Học.  Helen là người mù, câm và điếc đầu tiên tốt nghiệp Tiến sĩ, trở thành văn sĩ và là người nổi tiếng trên thế giới về ý chí học hỏi và quyết tâm của một người tàn tật tiếp cận được với thế giới bình thường.

Cho người mù lòa và câm điếc chạm vào một sự vật và viết lên tên gọi của sự vật ấy: đó là phương pháp của cô giáo Anne Sullivan.  Dạy về những sự vật cụ thể như cái bàn, cuốn sách, cành cây, con chó… xem ra không hẳn là điều khó.  Nhưng làm thế nào để diễn tả cho Helen hiểu được những ý niệm trừu tượng như tình yêu chẳng hạn?

Ngày kia, cô giáo Anne Sullivan đã viết lên tay của Helen Keller hai chữ “Tình Yêu” rồi ôm chầm lấy cô bé hôn lấy hôn để với tất cả sự thành thật và nhiệt tình của cô.  Lần đầu tiên trong đời, cô gái câm điếc mù lòa bỗng cảm thấy tim mình đập mạnh và cô hiểu được thế nào là Yêu Thương.

Ngôn ngữ của Tình Yêu là những hành động cụ thể.

·      Ánh mắt trìu mến, những âu yếm vuốt ve của người mẹ đối với đứa con mới lọt lòng có giá trị hơn bất cứ một quyển sách biên khảo nào về tình yêu.

·      Những mồ hôi và nước mắt, những hy sinh hằng ngày của người cha giúp con cái hiểu được thế nào là Yêu thương hơn bất cứ lời dẫn giải nào về tình yêu.

·      Và có lẽ cũng thừa thãi để bảo rằng khi hai người yêu nhau thì sự thinh lặng và những cử chỉ âu yếm có sức mạnh hùng hồn hơn những lời nói hoa mỹ, những trống rỗng.

Thiên Chúa là Tình Yêu.  Ngài tỏ tình, Ngài bộc lộ tình yêu với con người không chỉ bằng những lời nói suông, mà bằng cả lịch sử của những can thiệp, những thể hiện cụ thể.  Một tình yêu không được chứng tỏ bằng những hành động cụ thể là một tình yêu giả dối, lừa bịp.

Ðạo Kitô của chúng ta là Ðạo của Tình Yêu.

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Những Trận Chiến Bất Nhân

Những Trận Chiến Bất Nhân

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Nguyễn Trãi

“Ngày 21/7 vừa qua, trong cuộc họp của Hội đồng Bảo an diễn ra ở New York, Ngoại trưởng Hà Lan, ông Frans Timmermans đã có bài phát biểu vô cùng xúc động về vụ việc chiếc máy bay MH17 gặp nạn tại miền Đông Ukraine, khiến toàn bộ 298 người thiệt mạng.

Trong suốt bài phát biểu của mình, khóe mắt ông Frans Timmermans luôn chực trào nước mắt khi bày tỏ sự choáng váng, bàng hoàng trước quy trình xử lý thi thể các nạn nhân cũng như hàng loạt những thông tin nhiễu loạn xung quanh vụ MH17.”

Những dòng chữ trên được trích dẫn từ trang Dân Luận, đọc được vào hôm 27 tháng 7 năm 2014, cùng với lời dẫn nhập (hay nói chính xác hơn là nỗi băn khoăn) của ban biên tập:

“Bài phát biểu xúc động của vị chính khách một nước dân chủ phương tây, thể hiện rõ rằng đất nước của họ luôn quan ngại, lo lắng xót xa cho tính mạng người dân của mình. Không giống như tại Việt Nam, tính mạng của người dân không được quan tâm, đảm bảo, luôn bị đe dọa ở khắp nơi ngay cả ở những nơi công quyền, ví dụ như đồn công an. Chúng tôi tự hỏi, liệu các vị nguyên thủ quốc gia Việt Nam sẽ như thế nào nếu có xảy ra tình huống tương tự?”

Câu trả lời cho nghi vấn thượng dẫn, thực ra, đã có sẵn (cũng trên trang Dân Luận) từ hai ngày trước – hôm 25 tháng 7 năm 2014 –  qua một đoạn văn ngắn của tác giả Nguyệt Quỳnh:

Từ những phát biểu của ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang như:“ngư dân hãy yên tâm bám biển giữ chủ quyền” đến các phát biểu của Trung tướng Tô Lâm: “Ngư dân là cột mốc sống chủ quyền lãnh hải”, và sau đó báo đài đồng loạt lập lại. Nhưng đến khi tàu hải quân Trung Cộng đuổi bắn những “cột mốc sống” này thì sự im lặng gần như tuyệt đối; không còn một quan chức nào đếm xỉa đến họ nữa. Có thể nói, trong những giờ phút đó, Hà Nội đã lạnh lùng xem bà con ngư dân như những “cột bia xi măng” vô tri vô giác. Khi tàu ngư chính Trung Cộng đâm, đánh, bắt họ thì Hà Nội lặng lẽ coi ngư dân như những “cột gỗ mục” vô giá trị.

Và KHỐN KIẾP không kém là khi có ngư dân nào thoát chết, tả tơi vào bờ thì lại có những buổi lễ trao tặng bằng khen kế tiếp cho những “cột mốc sống dở chết dở” ấy để lại đẩy họ và đẩy thêm các “cột mốc còn sống” khác ra khơi trở lại.

Tàu đánh cá việt nam mang số hiệu QNa 90152 bị tàu Trung quốc đâm chìm khi đang đánh bắt hợp pháp trên vùng biển Hoàng Sa, chủ quyền Việt Nam, chiều 26/5/2014. Nguồn ảnh và chú thích: RFA

Những cột mốc sống, cột bia xi măng, cột gỗ mục … ở biển Đông – hôm nay – khiến tôi nhớ đến “Những Cọc Tiêu Sống Trên Đèo Đá Đẽo,” trong cuộc chiến vừa qua:

“Sinh ra trong một gia đình nghèo có bảy chị em. Là con cả, ngày ngày Ðinh Thị Thu Hiệp phải lo bắt tép, mò ốc đỡ đần mẹ cha nuôi các em khôn lớn. Ðến tuổi thanh niên, chị theo phong trào ‘Ba sẵn sàng’ xung phong lên đường, nhưng địa phương không duyệt vì thân hình quá nhỏ. Không còn cách nào khác, chị đã viết đơn vào trận tuyến bằng máu với tất cả tình cảm thống thiết để được kết nạp vào đội hình TNXP và được phân công về làm nhiệm vụ ở đèo Ðá Ðẽo.

Ngày đó, đèo Ðá Ðẽo được xem như lằn ranh giữa sự sống và cái chết, là yết hầu của tuyến chi viện chiến lược 15A vào Nam. Từ năm 1967, không quân Mỹ đã thực hiện chiến dịch 97 ngày đêm xóa trắng, vùi lấp đèo Ðá Ðẽo, Ðinh Thị Thu Hiệp đã không ngần ngại bám sát mặt đường từng ngày, từng giờ, đếm từng quả bom rơi, vác từng thùng đạn chạy băng qua bãi bom nổ chậm. Chỉ nặng chưa đầy 40 kg nhưng lúc đó vác trên mình những kiện hàng, thùng đạn vượt bãi bom dài hơn cây số chạy băng đến điểm tập kết an toàn.

Cuối năm 1967, khúc cua 516+300 mái phía tây đèo Ðá Ðẽo thường xuyên trúng bom nổ chậm, nhiều người không có kinh nghiệm tiếp cận bom đã thiệt mạng. Cấp trên giao Ðinh Thị Thu Hiệp chốt giữ trọng điểm nóng đó nhằm bảo đảm thông tuyến nhanh nhất cho xe ra tiền tuyến.

Ngày đầu tiên, một quả bom nổ chậm rơi đúng tim đường. Lập tức chị yêu cầu mọi người tản ra xa, một mình chị vào kích nổ quả bom. Khi công việc hoàn thành, vừa trở ra khoảng 150 m thì bom nổ, chị bị sức ép khiến một tai bị điếc. Một lần khác, một đoàn xe chở hàng ra mặt trận bị ứ lại do vướng bãi bom ở chân đèo Ðá Ðẽo. Mọi người chưa biết làm sao thông tuyến, trong khi tiếng gọi chiến trường đang hết sức cần kíp thì chị Hiệp đã nhanh trí, quyết định biến mình thành cọc tiêu sống đưa đoàn xe 20 chiếc vượt qua bãi bom an toàn…

Sau những thành tích trong chiến tranh, chị vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân vào năm 1972. Hòa bình, chị trở về sống bình dị với ruộng nương, xóm làng…” (Hương Giang. “Cọc Tiêu Sống Trên Đèo Đá Đẽo.” Nhân Dân 7 July 2010.)

Có vô số những chị Đinh Thu Hiệp (khác) đã vùi thây trong bom đạn, hoặc không bao giờ còn có thể “trở về sống bình dị với ruộng nương, xóm làng …”  mà nhà báo Hương Giang không biết hay không … dám biết.

Các chị bị lãng quên, và chỉ được nhắc đến – với rất nhiều xót sa, cùng với sự trân trọng – bởi một người ngoại cuộc (*) bằng một thiên tiểu luận [Trực Diện Với Cái Chết Và Nỗi Đau: Vấn Đề Thanh Niên Xung Phong Trong Chiến Tranh Việt Nam (1950-1975)] đã được Phương Hoà chuyển ngữ, và đăng thành nhiều kỳ trên diễn đàn talawas. Chúng tôi xin phép ghi lại vài trích đoạn – ngăn ngắn – để rộng đường dư luận, cùng với ước mong được xem đây như một lời tri ân để gửi đến tác giả, cùng dịch giả:

– Đối với những thiếu niên-lính này (thậm chí trong một vài trường hợp là trẻ em-lính), vũ khí chỉ là cuốc chim đơn giản, xẻng lớn và hành trang trí thức ít ỏi mang theo người chỉ là vài năm học sơ cấp ở trường. Họ gặp nhau và chỉ trong mấy ngày là bị đẩy ra tuyến lửa. Không có kiến thức quân sự, tất cả họ đều được huấn luyện tại chỗ như câu khẩu hiệu “Khắc làm, khắc biết” đã tóm ý. Đối với những học sinh nữ ở các thành phố chẳng biết gì ngoài việc cầm bút, tham gia các công việc lặt vặt trong gia đình, hay còn được mẹ nuông chiều và ban đêm vẫn còn sợ ma thì sự hụt hẫng của họ thật dữ dội. Sau khi được tập hợp và biên chế thành đơn vị, những TNXP được nhanh chóng gởi ra tuyến lửa.

– Giống như các đồng nghiệp ở Liên Xô, phụ nữ Việt Nam không những không bị cấm ra mặt trận, mà còn ở ngay chính giữa mặt trận. Các cô gái TNXP trực tiếp tham gia chiến đấu, đặc biệt là trên đường mòn HCM, nơi có sự hoà nhập nhất với quân chủ lực, và với những người trong đội TNXP Giải phóng miền Nam thì chiến đấu là nhiệm vụ chính thức. Như chúng ta thấy, trong phần lớn thời gian, ranh giới giữa bộ đội nơi tiền tuyến và các lực lượng hậu cần không hề tồn tại. Việc lực lượng hậu cần cũng hứng chịu lửa đạn là chuyện bình thường của mọi cuộc chiến, nhưng trường hợp Việt Nam trở nên đặc biệt do một số lý do: độ tuổi tuyển mộ quá trẻ, họ gần như hoàn toàn không được chuẩn bị chút nào, và cách thức quản lý thuần chính trị và quân sự được áp dụng với họ. Sĩ quan trong Quân đội Nhân dân Việt Nam và cựu cán bộ TNXP bị ảnh hưởng nặng nề bởi những đau đớn khủng khiếp thường nhật của các cô gái làm việc cùng họ, hoặc dưới quyền họ, phải chịu đựng. Nhưng tất cả bị tấm màn im lặng phủ kiến, bởi người ta muốn đây phải là cuộc chiến tranh nhân dân.

Sau “cuộc chiến tranh nhân dân” kể trên – nếu sống sót – những cành lan trong rừng cháy, những đoá hoa nhầu nát, hay những quả chanh khô (theo như cách nói của đời thường) sẽ trở thành những con số không tròn trĩnh: không chồng, không con, không nhà, và không chế độ!

Một mái nhà ở “xóm không chồng.” Nguồn ảnh:Báo Mới

Và cái lọai “chiến tranh nhân dân” (bất nhân) này vẫn đang tiếp diễn ở Việt Nam với những ngư dân làm cột mốc sống giữa biển khơi, thay cho những thanh niên xung phong (như cột tiêu sống) trên mọi nẻo đường đầy dẫy bom đạn – giữa thế kỷ trước. Và  ai mà “lỡ dại” lên tiếng  than phiền về thái độ vô trách nhiệm của những kẻ cầm quyền thì thế nào cũng bị nhốt tù, như trường hợp của nhà báo Tạ Phong Tần:

Đại tá Nguyễn Trọng Huyền- Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh Phú Yên cho hay: “Thời gian vừa qua, đặc biệt hơn 10 ngày nay, tàu cá TQ xâm phạm nhiều lần trong vùng biển nước ta. Theo thông tin ngư dân báo về, trung bình mỗi ngày vùng biển ngoài khơi từ Đà Nẵng đến quần đảo Trường Sa có từ 120 đến 150, cá biệt có những ngày lên đến hơn 200 tàu cá TQ khai thác trong vùng biển nước ta”.

Cái đau của người Việt Nam là thông tin này do “ngư dân báo về” chớ không phải do Hải quân hay Cảnh sát biển phát hiện. Câu “ngư dân báo về” khiến người đọc hình dung ra bối cảnh lúc đó ngư dân với những chiếc tàu nhỏ bé trang bị thô sơ đang ở ngoài biển xa đối mặt với tàu to đùng tối tân của Trung Quốc, còn lực lượng có chức năng bảo vệ ngư trường, ngư dân và lãnh hải thì ngồi trong bờ… chờ nghe báo cáo.

Tôi không rõ những vị lãnh đạo đất nước Việt Nam hiện nay như qúi ông Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang, ông Trung Tướng Thứ Trưởng Bộ Công An Tô Lâm, hay ông Đại Tá  Nguyễn Trọng Huyền có bị vấn đề về não bộ hoặc trí nhớ hay không nhưng tôi biết chắc (chắn) điều này: cái thời mà qúi vị huyễn hoặc và lừa mị để đẩy dân Việt vào chỗ chết (rồi thản nhiên phủi tay) đã qua rồi. Không ai có thể lường gạt mọi người mãi mãi.

Tưởng Năng Tiến

(*) Chú thích của talawas: François Guillemot là chuyên viên nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia (CNRS), phụ trách kho tài liệu Việt Nam tại Viện Nghiên cứu Đông Á (IAO, Lyon, Pháp). Ông lấy bằng tiến sĩ về lịch sử tại Ecole pratique des hautes études (EPHE, Paris) năm 2003. Hiện ông nghiên cứu về những vấn đề văn hoá trong chiến tranh của người Việt, và về chủ nghĩa dân tộc phi cộng sản của người Việt, chẳng hạn như về Đảng Đại Việt. Tiểu luận này được thuyết trình lần đầu tại hội thảo quốc tế, “Bản sắc cơ thể ở Việt Nam: Chuyển hoá và Đa dạng”, tại Ecole normale superieure lettres et sciences humaines, Lyon. Tác giả cảm ơn Christopher E. Goscha, Agathe Larcher, Claire và William J. Duiker, Vatthana Pholsena, Tuong Vu, Edward Miller và Trang Cao đã giúp ông dịch (từ tiếng Pháp sang tiếng Anh) và hiệu đính tiểu luận này để đăng trên Journal of Vietnamese Studies vào mùa thu 2009.

Sơn Nam & Cách Mạng Tháng Tám Ở U Minh

Sơn Nam & Cách Mạng Tháng Tám Ở U Minh

RFA

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến

Trước 75, ông viết như thể một người nhập cuộc, kẻ lên đường, kẻ làm chứng, người trí thức dấn thân. Ông viết với một tấm lòng nhiệt huyết. Sau 1975, ông viết như một kẻ đứng bên lề, xem đá banh và vỗ tay.

Nguyễn Văn Lục

Mấy năm trước, sau khi ghé thăm giáo sư Lý Chánh Trung, giáo sư Nguyễn Văn Lục đã có nhận xét như sau về người bạn đồng nghiệp cũ:

“… sau 1975 … có mấy mấy nhà văn, nhà báo trong Nam được cầm bút lại như Lý Chánh Trung. Con số đếm chưa hết một bàn tay… Trước 75, ông viết như thể một người nhập cuộc, kẻ lên đường, kẻ làm chứng, người trí thức dấn thân. Ông viết với một tấm lòng nhiệt huyết. Sau 1975, ông viết như một kẻ đứng bên lề, xem đá banh và vỗ tay”

Tôi có ngồi học với giáo sư Lý Chánh Trung đâu chừng cỡ… nửa giờ, ở trường Văn Khoa Đà Lạt. Nhất tự vi sư, bán tự vi sư. Tôi không dám bàn luận lôi thôi gì (thêm) về chuyện viết lách của một người thầy học cũ.

Nhận xét dẫn thượng, chả hiểu sao, bỗng khiến tôi nhớ đến nhà văn Sơn Nam. Ông cũng là một trong những người may mắn hiếm hoi của miền Nam (trong “con số đếm chưa hết một bàn tay”) vẫn được phép cầm viết, sau 1975, và là một trong những nhà văn mà tôi vô cùng mến mộ.

Ảnh Duy Anh. Nguồn: Người Lao Động

Tác phẩm (có lẽ) đắc ý nhất của Sơn Nam là cuốn Hương Rừng Cà Mau, trong đó có truyện “Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư.” Tác giả kể lại chuyện một người dân ở U Minh Hạ, đặt mua báo dài hạn nhưng không trả tiền nên nhà báo phải cử người đi đòi nợ. Xin trích vài đoạn đọc chơi cho nó … đã:

– Từ đây tới nhà ông Trần Văn Có gần hay xa vậy thầy?

Thầy xã trưởng đáp:

– Ở xóm Cà Bây Ngọp lận! Để tôi ra lịnh cho phó hương ấp đòi tên đó lên công sở…

Thầy phái viên nhà báo “Chim Trời” giựt mình:

– Tôi là phái viên, đâu có quyền hạn đó đối với quí vị độc giả thân mến gần xa.

Thầy xã hỏi:

-Phái viên là gì vậy thầy?

– Là người thay mặt cho tờ báo đi cổ động và thu tiền.”

[(Sơn Nam. “Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư.” Hương Rừng Cà Mau, tr.99) (*)]

Nhân vật chính trong truyện, ông Trần Văn Có, theo như lời dân cùng xóm, là một người độc thân, làm nghề giăng câu, nuôi heo, lấy tổ ong, và hơi ba hoa chút đỉnh: “Anh ta công kích tờ Lục Tỉnh Tân Văn của nhà nước Lang Sa gởi xuống công sở; đi ăn giỗ thì nói chuyện Hít-le, chuyện nước Ý đánh nước Á, chừng hỏi kỹ mấy nước đó ở đâu, anh ta bí lối nói lảng qua chuyện Tầu…”

Nghe nói vậy nhưng không phải vậy. Khi phái viên báo Chim Trời giáp mặt độc giả Trần Văn Có, ngay tại nơi cư trú của ông, cuộc hội kiến – rõ ràng – rất là trang trọng và (vô cùng) thắm thiết:

“Buổi cơm chiều ngon lành làm sao! Ăn cá lóc nướng trui, uống rượu… Tư Có kèm thầy phái viên ở lại ngủ một đêm, chú hứa sáng mai bơi xuồng đưa thầy trở lại công sở mà đón tàu đi. Thếp đèn dầu cá kèo thêm một tim thứ nhì nữa, cháy khá sáng. Bếp un dưới đất tỏa lên cuồn cuộn, tỏ rõ từng sợi khói mịn màng như mành lưới tơ giăng bủa khắp căn chòi nhỏ hẹp.

Tư Có bỏ mùng xuống, chun vô tấn ba phía rồi mời:

– Thầy Hai vô trong này ngồi nói chuyện cho vui. Ở ngoài muỗi cắn. Khói như vậy mà muỗi cứ bu lại rớt lềnh trong thếp đèn dầu cá đó.

Ngượng nghịu, thầy phái viên nhà báo Chim Trời rón rén dở mí mùng, chui lẹ vào ngồi kế bên:

– Xứ gì lạ quá! Anh Tư ở đây hồi sanh bịnh chết.

Tư Có đáp:

– Xứ Cà Bây Ngọp, tiếng Khơ Me nghĩa là trâu chết. Hồi đó nghe nói trâu “len” tới đây thất bại, phong thổ ẩm thấp trâu chết nhiều quá. Họ đặt tên kỷ niệm luôn… Bởi vậy dân tình bịnh hoạn, thưa thớt, làng này chưa cất nổi cái trường học.

Thầy phái viên trố mắt:

– Vậy à? Còn mấy làng khác?

– Ðông Thái, Ðông Hồ, Ðông Hưng, Vân Khánh Ðông… không làng nào có trường hết. Thầy nghĩ coi…

– Hèn chi miệt này chỉ một mình anh Tư là độc giả báo Chim Trời của chúng tôi… Báo có thích hợp không anh Tư?

– Làm báo thì cần nhiều trí óc lắm phải không thầy phái viên? Tiếc là hồi nhỏ cha tôi chết sớm. Hồi đó, ổng làm thầy giáo cũng đặt thơ bát cú, tứ cứ. Cha tôi chết, má tôi giữ mấy pho sách, dạy lại tôi. Ðó là sách Quốc Văn giáo khoa thư, thầy còn nhớ không?

Thầy phái viên cười:

– Nhớ chớ. Làm sao mà quên được! Hồi nhỏ tôi hớt “ca rê”, tay xách toòng teng bình mực đi học ở trường làng. Hồi đó, trí óc minh sáng suốt, nhớ dai lắm. Bây giờ lớn tuổi, đầu bạc hoa râm, đi làm ăn rày đây mai đó, nhớ nhà, nhớ trường học, nhớ làng xưa.

Tư Có nói:

– Chắc là thầy muốn nói bài ‘chốn quê hương đẹp hơn cả’ chớ gì?

Rồi chú đọc một hơi:

– Một người đi du lịch đã nhiều nơi. Hôm về nhà, kẻ quen người thuộc, làng xóm, láng giềng đến chơi đông lắm. Một người bạn hỏi: ông đi du sơn du thủy…

– Ðó đa! Ðó đa! Anh Tư nhớ kỹ quá… Người du lịch mới trả lời: ở chốn quê hương… từ cái bụi tre ở xó vườn cho đến con đường khúc khuỷu trong làng, cái gì cũng gợi cho tôi những mối cảm tình chứa chan… Bài đó có hình ông già mang kiếng, chống gậy nói chuyện với mấy người khăn đống áo dài.

– Thì hình nào cũng khăn đống áo dài. Trừ ra cái hình thằng nhỏ chăn trâu cầm roi: ai bảo chăn trâu là khổ… Không, chăn trâu sướng lắm chứ.

Thầy phái viên phụ họa theo như cùng hợp xướng:

– Ðầu đội nón mê như lọng che, tay cầm cành tre như roi ngựa, ngất nghểu ngồi trên mình trâu, tôi nghe chim hót trong chòm cây, mắt trông bướm lượn trên đám cỏ…

Không ai bảo ai, hai người lại nằm xuống lim dim…

Giọng Tư Có nói nhỏ:

– Ngủ chưa, thầy phái viên?

– Ngủ chưa anh Tư?

– Chưa!

– Tơi nãy giờ cũng vậy, muốn ngủ sớm để mai về nhà, mà không thấy mệt.

Im lặng một hồi lâu, rất lâu, Tư Có nói ngậm ngùi sau một tiếng thở dài:

– Biết lấy gì làm sở phí cho thầy. Thầy nói thiệt tình nghe coi… Chắc thầy tới đây thâu tiền.

– Ðâu có! Ðâu có! Mình là bạn đời với nhau…

– Thầy hiểu cảnh tôi. Không lẽ gởi cá lóc, rùa, mật ong… nhờ thầy đem về Sài Gòn gọi là tiền của tôi trả cho nhà báo. Tôi “đăng” là vì ái mộ báo Chim Trời chớ ít đọc lắm. Mấy thầy viết cao quá. Tôi mua để dành về sau cho đủ bộ.

– Anh Tư đừng ngại chuyện đó. Cứ tiếp tục đọc. Lâu lâu dò nơi mục Thư tín không chừng có lời của tôi thăm hỏi anh Tư. Nếu thấy báo đăng đòi tiền các độc giả, xin anh Tư hiểu rằng đó là nhắc nhở các người khác. Tôi hứa nói lại với ông chủ nhiệm mỗi kỳ gởi tặng anh Tư một số báo, hoài  hoài cho tới số chót.
Chú Tư Có vô cùng cảm động…”  (sđd 111-116).

Tôi đọc truyện “Tình Nghĩa Gíao Khoa Thư” khi còn ở tuổi đôi mươi. Tuổi trẻ bao giờ cũng nhiều lý tưởng. Tôi và bè bạn vẫn tâm nguyện rằng, sau cuộc chiến, thế hệ của mình sẽ cố góp hết sức để dựng xây những phần đất quê hương (bị lãng quên) như vùng U Minh Hạ.

Hòa bình, tiếc thay, đã không mang lại cuộc sống an bình như mọi người mong muốn. Không những thế, nó còn khiến cho hàng triệu kẻ đã phải liều mạng rời bỏ quê hương, để mưu cầu một cuộc sống khả kham hơn – nơi đất lạ quê người.

Tôi là một trong những kẻ đã (đành đoạn) bỏ đi như thế. Vài chục năm sau, khi tóc đã điểm sương, ở một góc trời xa, tình cờ đọc được bài báo (“Tiếng Kêu Giữa Rừng U Minh Hạ”) của phóng viên Hoàng Trí Dũng mà không khỏi băn khoăn nhớ về quê cũ:

“Tôi đã đến nhiều miền quê nghèo khó vùng sông nước ĐBSCL, nhưng có lẽ chưa lần nào tơi bị ‘sốc’ như chuyến đi lần này. Nơi tôi đến là một vùng quê giáp ranh giữa hai tỉnh Kiên Giang – Cà Mau, cách không xa trung tâm hai thành phố Rạch Giá và Cà Mau, vậy mà đã 30 năm sau ngày đất nước thống nhất vùng quê ấy vẫn còn là bức tranh buồn thảm với nhiều nỗi bức xúc: không điện, đường, trường, không trạm xá, không hộ khẩu, không đất sản xuất…”

“Trái ngược với hình ảnh ấy là cơ ngơi của các quan chức địa phương – những người đang giành giật đất đai của dân. Đó là chuyện thật ở ngay một góc Lâm trường U Minh 2, ấp 4, xã Khánh Hịa, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.”

“Cách đây hai năm một cháu bé tên Hằng, 10 tuổi, con của hai vợ chồng trẻ không may bị bệnh viêm ruột thừa cấp tính, nhưng ở giữa rừng không có trạm y tế, mà lòng kênh trơ đáy khô queo, còn trên bờ thì không có đường đi rốt cuộc đành ngồi nhìn con chết mà bất lực vì không cách nào chuyển đi bệnh viện. ..”

“Ông chủ nhà Nguyễn Trung Liệt – một lão nông có uy tín trong vùng – vào chuyện: ‘Trên 60 tuổi rồi, hơn chục năm, ba thế hệ với hơn 30 người sinh ra và lớn lên tại khu rừng này, nhưng ngặt một nỗi nhà tui không ai có được tấm hộ khẩu, cũng chẳng hề có giấy chứng minh nhân dân. Người lớn còn đỡ chứ tội nghiệp sắp nhỏ, năm đứa cháu nội ngoại ra đời trong ruột rừng này hiện tại đều thất học như ông cha nó…’

Chú Ba Vinh thì kêu:“Cả trăm gia đình bà con ở đây khổ lắm, không thua gì thời kỳ Pháp thuộc…”

Chú Ba Vinh (nào đó) tuổi đời – ngó bộ – còn hơi ít nên không biết rõ cảnh sống của dân chúng ở U Minh Hạ vào thời Pháp thuộc. Chớ hồi đó, cứ theo như lời kể của ông già Nam Bộ Sơn Nam, nơi đây đã có người đặt mua dài hạn báo Chim Trời ở tận Sài Gòn, có kẻ giữa bữa giỗ (dám) bàn chuyện quốc sự và lớn tiếng chê bai tờ Lục Tỉnh Tân Văn của nhà nước Lang sa.

Những chuyện “tầm ruồng” như thế, xem ra, có vẻ như một giấc mơ (đã) xa xôi lắm đối với người dân ở U Minh Hạ – bây giờ. Trong bài phóng sự (thượng dẫn) không nghe phóng viên báo Tuổi Trẻ kể lại chuyện có bữa nhậu lai rai mấy con cá lóc nướng trui với người dân địa phương, và dùng chung với họ một bữa cơm chiều (“ngon làm sao”) như đặc phái viên của báo Chim Trời – hồi đó. Chuyện người ta ăn ở cư xử tử tế với nhau, theo kiểu “Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư” (ngó bộ) cũng miễn có luôn.

Ở U Minh Hạ, ngày nay, theo như nguyên văn tường thuật nhà báo Hoàng Trí Dũng:“30 năm sau ngày đất nước thống nhất vùng quê ấy vẫn còn là bức tranh buồn thảm với nhiều nỗi bức xúc: không điện, đường, trường, không trạm xá, không hộ khẩu, không đất sản xuất.” Có chăng chỉ là tiếng kêu gào ai oán, của những người dân khốn cùng và uất hận, vì bị cướp bóc trắng trợn mà thôi.

Sơn Nam, có lẽ, vì tuổi đời đã cao nên không còn nghe và thấy được những tiếng kêu thương và cảnh đời vô vọng (đến thế) từ nơi sinh trưởng của ông. Ngày 18 tháng 8 năm 2008, trên diễn đàn talawas, tôi nghe nhà văn Lê Phú Khải kể chuyện này:

“Có lần tôi nhờ ông viết một bài cho Đài Tiếng nói Việt Nam để kỷ niệm Cách mạng tháng Tám ở Nam bộ. Mấy ngày sau, cũng tại quán café ở Gò Vấp, ông đưa tôi bài: ‘Nhớ ngày Cách mạng tháng Tám ở U Minh’, đánh máy bằng cái máy chữ, chữ nhỏ li ti như con kiến. Ðài phát xong tôi thấy ‘tiếc’ quá! Vì chữ nghĩa phát lên trời rồi gió bay đi… Tôi bèn gửi bài đó cho báo Cà Mau. Khi bài báo đó được in trên giấy trắng mực đen ở Cà Mau thì bạn đọc, cán bộ, đồng bào và các nhà nghiên cứu của vùng đất này đều kinh ngạc về trí nhớ của Sơn Nam. Bài báo đó là một tư liệu lịch sử sống động về Cách mạng tháng Tám ở U Minh, chưa từng được ai ghi chép lại sinh động như thế. Thư gửi về toà soạn tới tấp… Xin trích đăng lại đoạn cuối của bài báo đó:

“Tại dinh chủ quận trước kia, cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. Từ những thôn xóm hẻo lánh, đồng bào đến dự ngày lịch sử trọng đại. Ðã có ban trật tự sắp xếp chỗ đậu xuồng ghe. Ðồng bào người Khmer cũng đến dự với các sãi áo vàng. Xuồng ghe đậu dài hàng kilômét. Nhiều người trung niên ‘quần bao áo bố’ cõng con trên vai để nó trông lên khán đài. Tiếng loa phát ra vang vang, báo tin đại diện của tỉnh bộ Việt Minh đã đến. Có múa lân. Vài ông lão tụ tập lại, dạy võ thuật cho thanh niên. Loa lại vang lên, khuyên đồng bào yên tâm, cứ chịu đói buổi sáng, sau đó sẽ có phân phát bánh tét, ăn thay cơm. Trời chuyển mưa. Ðồng bào vẫn đứng chịu mưa tại chỗ.”

Câu chuyện này cũng lại khiến tôi liên tưởng đến nhận xét của giáo sư Nguyễn Văn Lục về một vị thầy học cũ của mình:

“Trước 75, ông viết như thể một người nhập cuộc, kẻ lên đường, kẻ làm chứng, người trí thức dấn thân. Ông viết với một tấm lòng nhiệt huyết. Sau 1975, ông viết như một kẻ đứng bên lề, xem đá banh và vỗ tay.”

Sơn Nam qua đời vào ngày 13 tháng 8 năm 2008 nhưng ông đã chết (trong tôi) hơi lâu, trước đó.

Tưởng Năng Tiến

(*) Sách được in lại (và in “lậu”) tại Hoa Kỳ, tuyệt nhiên không có ghi một chi tiết nào về nhà xuất bản hay năm tái bản.

 

Cứu Agribank để tránh sụp đổ dây chuyền

Cứu Agribank để tránh sụp đổ dây chuyền

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-08-05

Văn phòng một chi nhánh Agribank

Văn phòng một chi nhánh Agribank

(Photo Anh Quân/ảnh minh họa)

Tổng nợ xấu của Ngân hàng Nông nghiệp-Phát triển Nông thôn Agribank khoảng 40.000 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 1/4 tổng nợ xấu của toàn bộ hệ thống ngân hàng ở Việt Nam. Kiểm toán Nhà nước vừa chính thức báo động tình trạng nguy ngập của Agribank.  Những giải pháp nào có khả năng được nhà nước thực hiện để cứu ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất Việt Nam khỏi bị sụp đổ và gây ảnh hưởng dây chuyền.

Cần bao nhiêu bài học Vinashin, Vinalines nữa

Nếu để cho Agribank phá sản thì chính phủ phải đợi một thời gian nữa. Phải tới ngày 1/1/2015 Luật Phá sản sửa đổi bổ sung mới có hiệu lực thi hành. Luật mới có nội dung qui định vấn đề phá sản của các tổ chức tín dụng.

Tuy vậy vấn đề không đơn giản, Agribank là Ngân hàng thương mại quốc doanh gần như lớn nhất trong hệ thống với tổng tài sản lên tới 500.000 tỷ. Agribank đã có lịch sử 26 năm, qui chế của nó có nhiều lần điều chỉnh nhưng luôn luôn là quốc doanh.  Kể từ 2011 Agribank được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chuyển đổi hoạt động sang mô hình Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu 100% vốn điều lệ. Tổng vốn điều lệ của Agribank là 29.605 tỷ đồng và trên thực tế số vốn này đã bị mất hết, không những thế tổng nợ xấu và nợ khó đòi còn vượt vốn điều lệ khoảng 10.000 tỷ. Điều đáng lưu ý, những khoản cho vay có vấn đề của Agribank không phải là tín dụng phát triển nông nghiệp mà ở các lĩnh vực bất động sản hoặc đầu tư ngoài ngành.

” Không phải chỉ một cái Ngân hàng Nông nghiệp này mà bài học Vinashin, Vinalines một số đơn vị kinh tế nhà nước đã làm thất thoát thâm thủng rất nhiều….Nếu không cải cách lại thì đây là một vấn nạn

Giáo sư Ngô Trí Long”

Theo Phó Giáo sư Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế ở Hà Nội nếu Agribank sụp đổ nó sẽ gây hiệu ứng Domino cho toàn hệ thống, do vậy Nhà nuớc sẽ phải tìm cách cứu vãn. Ông nói:

“ Không phải chỉ một cái Ngân hàng Nông nghiệp này mà bài học Vinashin, Vinalines một số đơn vị kinh tế nhà nước đã làm thất thoát thâm thủng rất nhiều. Nhưng vì cái mục tiêu Hiến pháp đã qui định kinh tế Nhà nước là chủ đạo, phải cải tổ cải cách lại làm sao thực sự có hiệu quả. Nếu không cải cách lại thì đây là một vấn nạn, một gánh nặng cho nền kinh tế đặc biệt là người phải chịu ảnh hưởng lớn nhất là người dân, tiền thuế của dân đóng vào, sử dụng tiền ấy vào những việc làm ăn không có hiệu quả. Hiện nay thực chất ngân sách Việt Nam không lành mạnh, lạm phát, bội chi luôn tăng cao từ 4,8 tới 5,3%. Trong bối cảnh như vậy ngân sách khó khăn mà lại phải đi xử lý những hiện tượng này thì hoàn toàn là một gánh nặng. Một điều mà Nhà nước phải trả giá rất là lớn cho nên đòi hỏi phải cải tổ cải cách đặc biệt về kinh tế quốc doanh làm sao thực sự có hiệu quả để tránh lập lại vết xe đổ.”

Trụ sở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank).

Trụ sở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank).

Yếu kém trong việc quản trị ngân hàng

Trong câu chuyện với chúng tôi, TS kinh tế Phạm Chí Dũng, Chủ tịch Hội nhà báo độc lập hiện sống và làm việc ở Saigon đã nối kết sự kiện Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Phá sản 2014 sửa đổi bổ sung, dành hẳn một chương dài để tuyên bố đánh giá các tổ chức tín dụng có thể lâm vào vòng phá sản và có thể cho phá sản và động thái ít lâu sau của Ngân hàng Nhà nước. Đó là việc lần đầu tiên đưa ra tuyên bố về khả năng giảm một nửa trong tổng số hơn 30 tổ chức tín dụng ngân hàng của Việt Nam. Mô tả sự kiện vừa nêu bằng một nhóm từ dân gian “họ muốn buông” các tổ chức ngân hàng yếu kém. TS Phạm Chí Dũng tiếp lời:

” Hiện nay không chỉ có 9 ngân hàng rơi vào tình trạng yếu kém như Ngân hàng Nhà nước công bố. Thực ra có đến 2/3 số ngân hàng là không bảo đảm khả năng hoạt động, không bảo đảm khả năng thanh toán và cũng khó mà trụ nổi

TS Phạm Chí Dũng”

“Hiện nay không chỉ có 9 ngân hàng rơi vào tình trạng yếu kém như Ngân hàng Nhà nước công bố. Thực ra có đến 2/3 số ngân hàng là không bảo đảm khả năng hoạt động, không bảo đảm khả năng thanh toán và cũng khó mà trụ nổi một khi mối quan hệ sở hữu chéo, chồng chéo với nhau dẫn tới hệ lụy nợ xấu liên quan tới nhau. Khi một ngân hàng đổ bể thì sẽ dẫn tới hàng loạt ngân hàng khác. Tóm lại chỉ có khoảng 1/3 số ngân hàng có thể trụ lại nhưng không phải là hoàn toàn bền vững. Thậm chí người ta đặt vấn đề rằng ngay cả ngân hàng nằm trong tốp 5 như BIDV, Agribank, Vietinbank hay Vietcombank đều có khả năng đội nón ra đi nếu không được quản trị cẩn thận.

Vấn đề quản trị ngân hàng là một trong những yếu kém nhất của Việt Nam. Chúng ta vừa thấy bằng chứng đó là Agribank và nếu như vấn đề Agribank không được giải quyết rốt ráo ngay lập tức, như là lời của một kiểm toán viên cơ quan kiểm toán Nhà nước, thì chắc chắn Agribank phải đối diện với rất nhiều thách thức và lúc đó có khả năng, tôi muốn nói là rất nhiều khả năng Agribank sẽ trở thành trường hợp ngân hàng Lehman Brothers của Hoa Kỳ .”

Xin nhắc lại vụ phá sản của Ngân hàng Lehman Brothers tháng 9/2008 được cho là lớn nhất trong lịch sử với khoản nợ khổng lồ 613 tỷ USD. Nó là một trong các nhân tố của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.

” Nhà nước đẻ nó ra thì nhà nước phải quản lý nó cho tốt. Nó làm thất thoát như thế thì ngân sách phải gánh chịu. Như vậy phải xem ai phải chịu trách nhiệm về hoạt động của những ngân hàng chính sách ấy, đó là chính phủ hay là Ngân hàng Trung ương hay là ai

Chuyên gia Bùi Kiến Thành”

Theo chuyên gia tài chánh Bùi Kiến Thành ở Hà Nội, không thể cho phá sản hay giải thể Agribank vì nó là một dạng ngân hàng chính sách của Chính phủ, nó rất cần thiết cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Ông Thành cho là trong quá khứ Việt Nam lập ra những ngân hàng để lo riêng từng lãnh vực như nông nghiệp, công thương, ngoại thương. Nhưng về sau tất cả các ngân hàng này mở rộng hoạt động trong mọi lãnh vực tương tự như nhau. Vị chuyên gia đặt câu hỏi tại sao không sáp nhập những ngân hàng này lại một cách sớm sủa và có biện pháp quản lý chặt chẽ. Chuyên gia Bùi Kiến Thành đề nghị truy trách nhiệm cao nhất trong vụ việc Agribank, mặc dù nhiều giới chức lãnh đạo của Agribank ở trung ương và địa phương đã lần lượt bị bắt và khởi tố.

“ Nhà nước đẻ nó ra thì nhà nước phải quản lý nó cho tốt. Nó làm thất thoát như thế thì ngân sách phải gánh chịu. Như vậy phải xem ai phải chịu trách nhiệm về hoạt động của những ngân hàng chính sách ấy, đó là chính phủ hay là Ngân hàng Trung ương hay là ai. Ai trách nhiệm trực tiếp về vấn đề hoạt động sái qui định gây ra những thất thoát lớn như thế đối với Ngân hàng Nông nghiệp thì phải làm rõ ràng việc đó ra.”

Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đang đứng trước một nan đề, nếu tăng vốn cho Agribank bằng tiền ngân sách thì càng gây khó khăn hơn và có thể làm nền kinh tế sa lầy thêm. Giải pháp thứ nhì là tái cơ cấu bằng hình thức sáp nhập, nhưng điều này cũng khó vì Agribank quá lớn và ngập trong nợ. Giải pháp thứ ba được đề cập tới là cổ phần hóa Agribank và xem xét tỷ lệ cổ phần mà nhà nước muốn nắm giữ.

Theo các chuyên gia tất cả ba giải pháp đều không trọn vẹn và nói cách khác Agribank chính là con tàu đắm Vinashin của ngành ngân hàng. Cứ trông vào Vinashin và những giải pháp chắp vá để nhìn về tương lai Agribank.

Yêu kẻ thù

Yêu kẻ thù

Vô vàn những người khác mà ta gọi là “kẻ thù” ta phải yêu thương họ.

Yêu kẻ thù

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt” (Mt 5,44-45). “Anh em hãy yêu thương kẻ thù mình”. Việc này thật đòi hỏi: Nó đảo lộn các suy nghĩ của ta và làm mọi người phải thay đổi hướng đi của đời mình! Bởi vì, đừng dấu diếm nữa, tất cả chúng ta đều có một vài kẻ thù… lớn hoặc nhỏ.

Kẻ thù đang ở đàng sau cánh cửa căn nhà bên cạnh, nơi người đàn bà đáng ghét đó mà tôi thường tìm cách tránh né mỗi làn bà ta sắp sửa cùng bước lên cầu thang.

Kẻ thù ở chính nơi người bà con mà cách đây ba chục năm đã đối xử bất công với cha tôi, vì thế tôi không còn chào hỏi nữa.

Kẻ thù ngồi ở bàn đàng sau trong lớp học và từ ngày nó tố cáo cho bạn tôi với thầy giáo, không bao giờ bạn nhìn mặt nó.

Kẻ thù là người bạn gái đó, vì cô ta đã bỏ bạn để đi với người khác.

Kẻ thù là người bán hàng đã đánh lừa bạn.

Cũng có người nhìn các linh mục và Giáo Hội như là thù địch.

Tất cả những người này và vô vàn những người khác mà ta gọi là “kẻ thù” ta phải yêu thương họ.

Phải yêu thương họ sao?

Thưa phải, phải yêu thương họ! Và đừng cho mình có thể làm được bằng cách thay đổi tình cảm oán ghét thành tình cảm nhân hậu hơn. Mà còn hơn nữa. Bạn hãy lắng nghe lời Đức Giêsu dạy:

“Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy, anh em mới thực sự trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt”.

Bạn thấy không? Đức Giêsu muốn một tình thương thể hiện qua việc cầu nguyện và những hành động cụ thể. Ở nơi khác, Ngài cũng dạy: “Anh em hãy làm ơn cho kẻ oán ghét mình, chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình, cầu cho kẻ nhục mạ mình” (Lc 6,27-28).

Ngài giải thích cho ta lý do tại sao Ngài truyền dạy như vậy, và chỉ cho ta mẫu gương là tình thương của Thiên Chúa, Cha Ngài; Ngài dạy ta làm như vậy cùng hành xử theo gương Chúa Cha. Điều đó có nghĩa là trên đời ta không còn cô đơn: ta có một người Cha và phải sống như Người. Không những thế, mà Thiên Chúa còn có quyền đòi ta làm như vậy, bởi vì khi ta còn là thù địch của Người, còn sống trong tội lỗi, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước (x.2Ga 4,19), và sai Con của Người đến với ta, Đấng đã chết cách nhục nhã vì mỗi người chúng ta.

“Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt”.

Bài học ấy chú bé Jery người da đen đã học được ở Washington. Vì có trí thông minh, em đã được nhận vào một lớp đặc biệt gồm toàn thiếu niên da trắng. Nhưng trí thông minh không đủ để làm cho các bạn cùng lớp hiểu rằng em cũng bình đẳng như chúng. Màu da đen đã làm cho tất cả ghét bỏ em, đến độ ngày lễ Giáng Sinh các học sinh tặng quà cho nhau nhưng không thèm để ý tới Jery. Em bật khóc, điều này dễ hiểu! Nhưng khi về nhà em nghĩ đến Chúa Giêsu: “Hãy yêu thương kẻ thù của anh em”, và đồng ý với má, em mua quà vui vẻ tặng cho tất cả những “người anh em da trắng” của mình.

“Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy anh em mới trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt”.

Ngày hôm đó Elizabeth, cô bé có đạo ở thành phố Florence (Italia) thật đau lòng, khi bước lên bậc thang vào nhà thờ dự lễ, vì cô nghe tiếng cười nhạo của một nhóm đồng lứa tuổi. Cho dù muốn chống lại, em mỉm cười và trong nhà thờ em cầu nguyện cho những thiếu niên ấy.

Khi đi ra, các thiếu niên chặn em lại và hỏi lý do tại sao em xử sự như vậy. Em trả lời, mình là người có đạo, nên phải thương yêu luôn luôn. Em nói lên điều đó với niềm xác tín mạnh mẽ.

Chứng ta của em Elizabeth đã được thưởng công: Chúa Nhật sau đó em thấy tất cả các thiếu niên ấy trong nhà thờ, rất chăm chú ở hàng ghế trên cùng. Các thiếu niên chấp nhận Lời Chúa như thế. Do đó các em là người lớn trước mặt Chúa.

Có lẽ ta cũng nên điều chỉnh lại một vài tình trạng, hơn nữa cũng vì ta sẽ được xét xử theo như cách ta xét đoán người khác. Thật vậy, chính ta là người trao vào tay Chúa cái thước mà Ngài phải dùng để đo tình yêu của chúng ta. Ta đã chẳng xin Chúa: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” đó sao? Vậy ta hãy yêu thương kẻ thù! Chỉ khi xử sự như vậy ta mới có thể sửa chữa lại sự chia rẽ, đạp đổ những hàng rào ngăn cách và xây dựng cộng đoàn huynh đệ.

Điều đó khó khăn sao? Nặng nề sao? Nó không để ta ngủ yên, ngay khi mới nghĩ đến sao? Hãy can đảm lên! Điều đó không phải là quá sức: một nỗ lực nhỏ từ phía ta, rồi 99 phần trăm Thiên Chúa sẽ làm, và… trong tâm hồn ta sẽ dâng trào niềm vui.

Vaodoi

Cốt lõi của tôn giáo

Cốt lõi của tôn giáo

Nhân một chuyến công du, vị Tổng Trấn sở tại dừng chân đảnh lễ Minh Sư.

Ông nói: “Thưa ngài, Việc Nước bề bộn không cho phép tôi có nhiều thì giờ luận bàn viển vông. Có thể nào ngài tóm gọn cốt lõi của tôn giáo trong một hai câu, cho một người quá bận rộn như tôi không?”

“Vì lợi ích của Thượng Quan, tôi xin tóm tắt điều cốt yếu đó trong một từ (kép)”

“Tuyệt vời! Và từ siêu việt đó là gì?”

Thinh-Lặng.”

“Và đường nào dẫn tới Thinh-Lặng?”

Chiêm-niệm.”

“Và xin cho phép tôi được hỏi chiêm-niệm là gì?”

Thinh-Lặng.”

Suy tư

Mỗi ngày, trước khi ngủ, cần 15 tới 30 phút thinh lặng để nhìn lại

Suốt một ngày quamối tương quan của tôi với Chúa hiện nay ra sao???

 

“CON LỪA” CỦA THIÊN CHÚA THÁNH GIOAN VIANNEY

“CON LỪA” CỦA THIÊN CHÚA  THÁNH GIOAN VIANNEY

LM Giuse Nguyễn Thành Long

“Thiên Chúa đã chọn những người không ra gì để làm vinh danh Ngài.”
Câu nói này rất đúng với trường hợp của thánh Gioan Vianney.
Nếu so sánh với thánh Augustinô, thánh Toma Aquinô, thánh Bonaventura, thánh Phanxicô Xaviê,…. thì trí thông minh của thánh Gioan Vianney cách biệt một trời một vực.  Người ta nói rằng chưa có vị thánh nào chậm hiểu và học hành kém cỏi như Gioan Vianney, đặc biệt là môn Latinh và Thần học, vốn là hai môn quan trọng cho chức vụ linh mục.   Kém đến nỗi Ban Giám Đốc Chủng Viện khuyên ngài nên hồi tục.   Mười bảy tuổi mới học xong tiểu học.  Tú tài phải thi đến 12 lần mới đậu.  Dưới mắt các vị giáo sư và các cha giáo khó tính, thì ngài thuộc diện “ngu lâu dốt bền khó đào tạo”.  Chẳng phải thế mà đã có lần, một giáo sư thừa lệnh Đức Giám Mục đến khảo hạch xem ngài có đủ khả năng học vấn tối thiểu để làm linh mục hay không.  Vị giáo sư hỏi câu nào ngài cũng không trả lời được.  Nổi nóng, vị giáo sư đập bàn nói: “Gioan Vianney, anh dốt đặc như một con lừa, thì giúp được gì cho Giáo hội”.  Ngài khiêm tốn trả lời:
“Thưa thầy, xưa Samson chỉ dùng một cái hàm của con lừa  mà đánh bại 3000 quân Philitinh.  Vậy với cả một con lừa này, lẽ nào Thiên Chúa không dùng được việc gì sao?”

Lời của ngài nói quả là không sai.  Thiên Chúa đã dùng con lừa đó, dùng con người kém cỏi đó và biến ngài thành vị thánh lừng danh, một vị thánh có thể nói được là đã ghi nhiều “kỷ lục Giuness” đặc biệt nhất trong lịch sử Giáo Hội.

– Kỷ lục thứ nhất: ngài là vị thánh có tài ngồi toà nhất.

Người ta nói không ngoa rằng trong lịch sử Giáo hội chưa từng có một vị linh mục nào có tài ngồi toà lâu giờ, giải tội cho nhiều người và làm ích cho linh hồn người ta nhiều như cha Gioan Vianney.  Ngài ngồi toà không biết mệt mỏi, ngồi tòa không bất kể giờ nào, sáng sớm, giữa trưa, cả lúc nửa đêm về.  Ngoài những giờ dâng lễ, cầu nguyện, đọc sách thiêng liêng và tiếp khách, người ta chỉ thấy ngài nơi toà giải tội.  Ngài say mê ngồi toà đến độ quên ăn, quên ngủ.  Cũng nhờ đó mà trong suốt thời gian ngài làm cha sở họ Ars, đã có đến hàng trăm ngàn linh hồn tội luỵ được ngài cứu giúp.

– Kỷ lục thứ hai: ngài là vị thánh giảng dạy có sức lôi cuốn nhất.

Thành phần đến nghe ngài giảng dạy thuộc đủ mọi hạng người, mọi địa phận, mọi quốc gia; các linh mục, giám mục và cả hồng y, … cũng bị thu hút đến thọ giáo với ngài.  Đến nỗi nhà nước phải mở một tuyến đường xe lửa đến giáo xứ của ngài và lập thêm một nhà ga riêng để phục vụ khách hành hương đến với ngài.  Một linh mục dốt thần học, một cha xứ dở triết học, lại quê mùa, vậy mà lại dạy tu đức, mục vụ cho những người trí thức và những bậc vị vọng trong Giáo Hội.  Chỉ có Thiên Chúa mới làm được chuyện phi thường này!

– Kỷ lục thứ ba: ngoài Đức Mẹ ra, ngài là vị thánh làm cho ma quỷ lo sợ nhất.

Ma quỷ lo sợ phải “thất nghiệp”. Đã có lần ma quỷ nói với nhau rằng trên thế gian này nếu có ba người như cha Gioan Vianney thì chúng thất nghiệp dài dài.  Chính vì vậy mà ma quỷ đã tìm đủ mọi cách để quấy phá ngài và những việc ngài làm.  Đêm đêm chúng làm ồn ào không cho ngài ngủ, có ngày ngài đang ở nhà thờ thì chúng đốt giường của ngài.  Ma quỷ còn lấy cả bùn đất bôi đen thánh giá trên toà giải tội của ngài.  Ma quỷ lo vì nhiều người đã “bỏ mặc” chúng đơn côi mà theo ngài.  Ma quỷ sợ vì ngài đã đem về với Chúa quá nhiều linh hồn tội lỗi mà lẽ ra đã thuộc về chúng.

Dĩ nhiên, có được những kỷ lục có một không hai như thế là nhờ đâu?  Trước hết là nhờ ơn Chúa.  Sau nữa là nhờ ngài có một ý chí hy sinh hãm mình nghiêm nhặt, một tinh thần cầu nguyện liên lỉ, và một lòng kính mến phép Thánh Thể và Mẹ Maria phi thường.  Đó là bí quyết thành công của ngài.

Trong ngày lễ mừng kính ngài hôm nay, một lần nữa, chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa một cách đặc biệt vì Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội một vị thánh, một cha sở “trên cả tuyệt vời”.  Đồng thời chúng ta hãy xin Chúa qua lời cầu bầu của thánh Gioan Vianney ban cho các linh mục, nếu không được hoàn toàn giống như ngài thì cũng được một phần như ngài, đó là luôn nhiệt thành với sứ vụ và sẵn sàng hao mòn vì Chúa và vì các linh hồn. Amen.

LM Giuse Nguyễn Thành Long