Nếu Đảng vì tổ quốc thì mọi việc đã khác !

Nếu Đảng vì tổ quốc thì mọi việc đã khác !

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-07-22

07222014-vn-comm-at-turn-poin.mp3

Lá cờ đỏ sao vàng

Lá cờ đỏ sao vàng

AFP

Trung Quốc âm mưu thôn tính biển Đông khóa chặt Việt Nam trong vòng lệ thuộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đang đứng giữa ngã ba lịch sử, thân Trung Quốc để giữ đảng và vai trò độc quyền cai trị hay chấp nhận cải tổ chính trị, dân chủ hóa đất nước tìm chỗ dựa bảo vệ chủ quyền.

Liên minh và không liên minh

Sự kiện Nhà nước Việt Nam khẳng định không liên minh với ai để chống nước thứ ba, được các nhà phản biện gọi là sự không tưởng trong tư duy chiến lược, hoặc biểu lộ sự nhu nhược chủ hòa với kẻ xâm lăng bá quyền Trung Quốc.

Ông Lê Phú Khải, nhà báo kỳ cựu từng ở trong guồng máy thông tin tuyên truyền của nhà nước Việt Nam từ Hà Nội nhận định:

“ Một nước bé như nước mình, nước Việt Nam mà không liên minh với một nước thứ ba không có một chỗ dựa thì làm sao mà có thể đương đầu với Trung Quốc mạnh hơn mình. Rõ ràng là không tưởng và điều này chứng tỏ nhà nước Việt Nam cũng chưa thoát Trung được, chưa nhìn thấy rõ kẻ thù thâm độc như thế nào, vẫn còn lấn cấn không thoát Trung ra được, không dứt khoát nên mới đưa ra chiến lược như thế.”

Theo ông Nguyễn Trung, một cựu Đại sứ của chế độ Hà Nội, Việt Nam trong thể chế hiện nay, nếu có nài xin cũng chẳng có nước nào muốn liên minh. Trong bài viết được phổ biến trên các trang mạng xã hội, ông Nguyễn Trung cho rằng: “… Nếu dân tộc ta, nước ta còn chưa đủ bản lĩnh sống vì chính ta, thì ai dám liên minh với ta? Xin hãy tự hỏi mình: Bản thân chúng ta có dám kết thân với kẻ ba, bốn mặt, hư, ăn bám và èo uột không.”

” Một nước bé như nước mình, nước Việt Nam mà không liên minh với một nước thứ ba không có một chỗ dựa thì làm sao mà có thể đương đầu với Trung Quốc mạnh hơn mình. Rõ ràng là không tưởng và điều này chứng tỏ nhà nước Việt Nam cũng chưa thoát Trung được

nhà báo Lê Phú Khải”

Cùng về vấn đề liên quan, TS Phạm Chí Dũng thành viên sáng lập Hội Nhà Báo Độc Lập từ TP.HCM phân tích:

“ Trừ phi người Việt Nam biến thành người Philippines và tự đứng bằng đôi chân của mình và sau đó thì mới nhờ tới người Hoa Kỳ. Khi người Hoa Kỳ thấy người Philippines tự đứng bằng đôi chân của họ, tự dám bắt tàu cá Trung Quốc xâm phạm lãnh hải thì lúc đó Manila mới có được Hiệp định tương trợ quốc phòng đối với Mỹ. Còn Việt Nam bản lĩnh quá kém, cả thế giới coi thường không muốn có bất kỳ mối tương trợ quân sự nào về mặt thực chất, cho dù Việt Nam đã có hàng chục đối tác chiến lược toàn diện mà trong đó đối tác chiến lược toàn diện lớn nhất, có ý nghĩa nhất chính là Trung Quốc và Trung Quốc đang trở mặt với Việt Nam.”

Trong bài viết góp ý với Đại hội Đảng khóa XII sắp tới được phổ biến trên mạng, cựu Đại sứ Nguyễn Trung cảnh báo những kịch bản đen tối nhất có khả năng xảy đến cho Việt Nam. Ông Nguyễn Trung kêu gọi Đảng đấu tranh, cắt đứt cái thòng lọng ý thức hệ và sự nô lệ của quyền lực, cũng như sự cám dỗ của của mọi lợi ích tội lỗi, trả lại quyền làm chủ đất nước cho nhân dân. Từ đó Việt Nam cùng các nước trong khu vực tranh đấu thắng lợi trước bá quyền Trung Quốc, tránh được chiến tranh. Vẫn theo ông Nguyễn Trung, nếu chọn lựa con đường này, chế độ toàn trị cùng với mọi quyền lực và đặc quyền của nó sẽ không còn nữa, Đảng CSVN phải trở thành một đảng khác, hoặc sẽ không tồn tại nữa.

Không còn cách nào khác

Trò chuyện với chúng tôi, nhà báo Lê Phú Khải nhận định:

“ Nếu mà bảo vệ toàn trị thì không thể đi với dân chủ được. Dân chủ là minh bạch là công khai là đa nguyên. Khi mà toàn Đảng hô lên tổ quốc trên hết thì nó khác, còn nếu bây giờ lại chế độ trên hết thì nó khác. Nếu bây giờ bảo hộ chế độ thì Đảng rất là cô đơn không có nhân dân cũng không có đồng minh. Đây là điều Đảng Cộng sản Việt Nam phải lựa chọn không có cách nào khác.”

” Nếu mà bảo vệ toàn trị thì không thể đi với dân chủ được. Dân chủ là minh bạch là công khai là đa nguyên. Khi mà toàn Đảng hô lên tổ quốc trên hết thì nó khác, còn nếu bây giờ lại chế độ trên hết thì nó khác. Nếu bây giờ bảo hộ chế độ thì Đảng rất là cô đơn không có nhân dân cũng không có đồng minh

nhà báo Lê Phú Khải”

Đáp câu hỏi của chúng tôi là, có khả năng nào cho thấy Đảng Cộng sản Việt Nam vào kỳ Đại hội Đảng lần thứ XII sắp tới sẽ chọn lựa tổ quốc thay vì độc quyền cai trị. Nhà báo Lê Phú Khải nhận định:

“ Đây là câu hỏi khó vì nó là chính trị, nó biến động, đa dạng và nó bất ngờ, không ai có thể đoán được. Nhưng tôi nghĩ và theo những gì tôi cảm nhận được thì Đảng Cộng sản không thay đổi đâu, bây giờ số phận của đất nước tùy thuộc vào nhân dân thôi.”

Vận mệnh đất nước đang ở trong tay nhân dân như cách nhìn thế sự của nhà báo lão thành Lê Phú Khải. Nhưng nhân dân đâu có quyền lực cũng chẳng có lãnh tụ để đấu tranh. Tuy vậy ông Lê Phú Khải nói là ông vẫn tin vào xu thế thay đổi của thời đại. Ông nói:

“ Tôi nghĩ là thời đại này là thời đại thông tin, xã hội dân sự nó sẽ hình thành và nó sẽ phát triển, nhưng tất nhiên sẽ chậm. Dân trí như thế này thì nó chậm nó lâu, còn nếu đảng cầm quyền đứng ra cải tổ thì nó mau. Nhất định xu thế của thời đại là xu thế dân chủ rồi. Ngay cả Trung Quốc cũng không mạnh và chế độ toàn trị cũng không mạnh, sớm muộn cũng phải thay đổi không thể như thế này mà tồn tại được.”

Khi cảnh báo với Đại hội Đảng khóa XII sắp tới, cựu Đại sứ Nguyễn Trung cũng đề cập tới khả năng Đảng Cộng sản Việt Nam chọn con đường chủ hòa theo kiểu đầu hàng, không kiện ra quốc tế, chấp nhận đàm phán song phương cho vấn đề Biển Đông, gác tranh chấp cùng khai thác, để tạm thời tránh được chiến tranh bảo vệ quyền lực và tài sản của riêng họ. Ông Nguyễn Trung gọi cách chủ hòa như thế là phương án chấp nhận chết dần từng nấc về thể xác, nhưng chết ngay và chết hẳn về nhân cách một quốc gia, một dân tộc. Nhân dân Việt Nam sẽ phản kháng quyết liệt và dù Đảng có dùng nội chiến để đàn áp nhân dân đi nữa, thì theo vị cựu Đại sứ, trước sau và cuối cùng vẫn sẽ là cái chết nhục nhã của quyền lực.

Về phần nhà báo Lê Phú Khải, ông nói  người dân Việt Nam sẽ không chấp nhận đầu hàng Trung Quốc dưới bất cứ hình thức nào. Cho nên sẽ là thảm họa khi nhân dân không còn chấp nhận chính phủ của mình.

 

HD-981 : Việt Nam không nên sập bẫy ‘song phương’ và ‘không kiện’ Trung Quốc

HD-981 : Việt Nam không nên sập bẫy ‘song phương’ và ‘không kiện’ Trung Quốc

Nghe (20:24)

RFI

Dàn khoan Hải Dương HD-981 (DR)

Dàn khoan Hải Dương HD-981 (DR)

Trọng Nghĩa

Sau hơn hai tháng cho giàn khoan HD-981 vào hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ngoài Biển Đông, khuấy động quan hệ giữa Bắc Kinh và Hà Nội, ngày 15/07/2014 vừa qua, Trung Quốc đã di chuyển giàn khoan về hướng đảo Hải Nam. Quyết định – được Bắc Kinh loan báo một hôm sau đó – đã làm cho tình hình bớt căng thẳng – nhưng cũng làm dấy lên nhiều câu hỏi về dụng tâm thực sự của Trung Quốc.

Giới chuyên gia đều ghi nhận là việc Bắc Kinh « cho rút » giàn khoan diễn ra ít lâu sau khi Thượng viện Mỹ, trong một cử chỉ hiếm thấy, đã bỏ phiếu nhất trí thông qua một Nghị quyết lên án hành vi khiêu khích của Trung Quốc, và yêu cầu Bắc Kinh trả lại hiện trạng cho khu vực, và sau một cuộc điện đàm giữa Tổng thống Mỹ Barack Obama và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.

Quyết định rút sớm hơn thời hạn dự trù ban đầu cũng được đưa ra một tháng trước Hội nghị Ngoại trưởng thường niên của Khối ASEAN và các đối tác tại Miến Điện, đặc biệt là hội nghị thường niên của Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN (ARF), trong bối cảnh có tin là Mỹ sẽ nêu bật các hành động của Trung Quốc.

Còn đối với Việt Nam, việc Trung Quốc hạ nhiệt căng thẳng cũng diễn ra vào lúc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam chuẩn bị hội nghị bàn về Biển Đông và cân nhắc khả năng kiện Trung Quốc ra trước quốc tế.

Trong những ngày qua, đã có rất nhiều chuyên gia phân tích về động thái hạ nhiệt của Trung Quốc ngoài Biển Đông. Hôm nay, RFI xin giới thiệu nhận định của Giáo sư Ngô Vĩnh Long, một nhà nghiên cứu kỳ cựu về Biển Đông tại trường Đại Học Maine, Hoa Kỳ.

Đối với Giáo sư Long, tham vọng khống chế toàn bộ Biển Đông của Trung Quốc không thay đổi, và Việt Nam vẫn là đối tượng cần tấn công để thực hiện ý đồ đó. Theo Giáo sư Long, quyết định rút giàn khoan còn nằm trong một âm mưu lôi kéo Việt Nam vào con đường đàm phán song phương để giải quyết căng thẳng do chính Bắc Kinh tạo ra, đồng thời thúc giục Việt Nam từ bỏ ý định kiện Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế về vấn đề Biển Đông.

Đó là những cái bẫy mà Việt Nam không nên rơi vào nếu muốn bảo vệ lợi ích dân tộc.

Mời quý vị nghe toàn văn bài phỏng vấn Giáo sư Ngô Vĩnh Long.

Giáo sư Ngô Vĩnh Long – Đại học Maine (Hoa Kỳ)

 

21/07/2014
by Trọng Nghĩa

 

Nghe (19:59)

 

 

 

Giàn khoan đến và đi đều nhằm mục tiêu chính trị : Uy hiếp Việt Nam

Ngay từ đầu khi Trung Quốc cắm giàn khoan cách đảo Tri Tôn khoảng 18 dặm, và nói rằng nó hoạt động trong vùng biển “không có tranh chấp” của quần đảo Hoàng Sa “của Trung Quốc”, lý do chính là lý do chính trị : Uy hiếp Việt Nam, đặc biệt là chính quyền Việt Nam, cũng như để dò xét phản ứng của các nước trong khu vực và trên thế giới.

Động thái dịch chuyển giàn khoan hiện nay của Trung Quốc cũng là để thử xem phản ứng của Việt Nam và của các nước khác trên thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ, để Trung Quốc quyết định các bước tiếp theo.

Nếu Trung Quốc thực sự rút giàn khoan về đảo Hải Nam, đó cũng là để chứng minh rằng Trung Quốc đã hoặc đang hạ nhiệt, do đó Việt Nam không nên kiện Trung Quốc nữa mà nên đàm phán tay đôi với Trung Quốc.

Hạ nhiệt để “dụ dỗ” Việt Nam đàm phán tay đôi và không kiện Trung Quốc

Tôi nghĩ rằng đây là việc dẫn dụ, dụ dỗ Việt Nam, và tôi cũng hơi lo là vì ngày 16/07, ông Lê Hải Bình, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết là Việt Nam mong muốn thông qua đàm phán hữu nghị để giải quyết các vấn đề tranh chấp, bất đồng ở Biển Đông với Trung Quốc – lẽ dĩ nhiên là trên cơ sở luật pháp quốc tế – và cũng yêu cầu Trung Quốc không đưa giàn khoan HD-981 quay trở lại.

Nhưng nếu Trung Quốc không đưa HD-981 mà đưa bốn, năm cái giàn khoan nhỏ trở lại thì lúc đó Việt Nam làm gì ? Cho nên tôi nghĩ đây là vấn đề Trung Quốc muốn thử xem Việt Nam phản ứng như thế nào.

Nếu Việt Nam đàm phán song phương với Trung Quốc, việc này sẽ giúp cho Trung Quốc biện hộ rằng tranh chấp ở Biển Đông chỉ liên quan đến hai nước Việt Nam và Trung Quốc mà thôi, và không một nước nào khác được can dự vào.

Trung Quốc đã nhiều lần nói công khai với Mỹ là không được xía vào công việc nội bộ của các nước trong khu vực. Cho nên, nếu Việt Nam cho thế giới biết, hay là thế giới nghĩ lầm Việt Nam muốn thông qua đàm phán song phương để giải quyết vấn đề, thì việc đó sẽ làm hỏng cẳng Mỹ và đồng minh, đặc biệt trong vấn đề họ muốn đưa căng thẳng ở Biển Đông ra Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN (ARF), vào tháng tới ở Miến Điện.

Mưu đồ của Trung Quốc : Làm Mỹ hụt chân

Ngoài việc muốn làm hụt cẳng Mỹ tại Diễn đàn ARF vào tháng tới, Trung Quốc cũng muốn làm cho Việt Nam mất đi sự ủng hộ của các nước khác ở trong khu vực nếu đi đàm phán song phương với Trung Quốc, đặc biệt là chia rẽ quan hệ giữa Việt Nam và Philippines.

Ngoài ra, vừa qua, Thượng viện Mỹ đã bỏ phiếu hoàn toàn nhất trí nói rằng Trung Quốc không nên tiếp tục gây hấn và hy vọng rằng Trung Quốc đưa mọi việc trở về vị trí cũ, tức là trước ngày 02/05. Thì Trung Quốc di chuyển giàn khoan như để nói với Thượng viện Mỹ rằng « tôi đã hạ nhiệt rồi, thì các anh không nên tiếp tục làm áp lực trên tôi »….

Nếu Thượng viện Mỹ thấy rằng không cần phải làm áp lực trên Trung Quốc nữa, có thể là chính quyền Obama cũng không làm áp lực trên Trung Quốc nữa. Mà áp lực của Mỹ là quan trọng nhất, Mỹ mà nới tay thì Trung Quốc thấy rằng họ có cớ lấn tới thêm, không những đối với Việt Nam, mà cả đối với Mỹ.

Bài học cho Việt Nam : Trung Quốc mềm nắm rắn buông

Bài học đầu tiên là Trung Quốc thường “mềm nắn rắn buông”. Trung Quốc hiện tỏ thái độ « buông » trước hết là vì phản ứng của người dân Việt Nam. Tôi nghĩ là Trung Quốc biết phản ứng của các lãnh đạo Việt Nam như thế nào, nhưng họ không ngờ rằng phản ứng của người dân Việt Nam mạnh như thế.

Thành ra lúc này Trung Quốc hạ nhiệt chút xíu để cho giới lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là thành phần thiên về Trung Quốc – đang trong thế yếu – có tiếng nói mạnh hơn.

Ngoài ra, Việt Nam sắp có Hội nghị Trung ương để bàn riêng về tình hình Biển Đông và về việc có nên kiện Trung Quốc ra Tòa án Quốc tế hay không. Trung Quốc hạ nhiệt để chính quyền Việt Nam và Hội nghị Trung ương thôi không bàn đến chuyện kiện Trung Quốc nữa, và như vậy, Trung Quốc có thể tiếp tục ép Việt Nam.

Bài học là Việt Nam mà yên lặng hơn, thì Trung Quốc sẽ đẩy tới hơn. Và nếu chính phủ Mỹ, Quốc hội Mỹ và các nước khác Nhật, Úc cũng thấy là vấn đề đã tạm yên rồi thì họ có thể cứ để cho yên và Trung Quốc trước sau gì cũng sẽ quay trở lại, và lần sau sẽ làm mạnh hơn một chút.

Xu hướng thân Bắc Kinh trong giới lãnh đạo Việt Nam

Việc cắm giàn khoan trong thềm lục địa Việt Nam là một chính sách uy hiếp giới lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam.

Bộ Chính trị chia thành ba nhóm, số đông thân Trung Quốc, số « trung lập » không biết nghiêng về ai, và số ít hơn thì muốn kiện Trung Quốc. Cho nên khi cắm giàn khoan, Trung Quốc muốn thử xem phản ứng của Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam như thế nào…

Phản ứng của Việt Nam cho thấy là Bộ Chính trị chưa có một chính sách đàng hoàng để kiện Trung Quốc.

Đó là trong lúc tình hình đang căng thẳng. Còn bây giờ Trung Quốc hạ nhiệt và làm giảm sự căng thẳng đi, thì có thể là Việt Nam sẽ không quyết định kiện Trung Quốc ra tòa án trọng tài theo phụ lục 7 của UNCLOS, chung với Philippines hay là riêng rẽ.

Nguy cơ mất đi hậu thuẫn của người dân Việt Nam và của quốc tế

Nếu như vậy, Chính quyền Việt Nam không những mất đi sự ủng hộ của dân chúng trong nước, mà cũng sẽ mất sự ủng hộ của các nước trong khu vực và của nhân dân trên thế giới. Việc đó sẽ làm suy yếu các lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, và Nhà nước Việt Nam nói chung.

Và nếu như vậy thì Trung Quốc đã kéo thêm được Việt Nam sâu thêm vào quỹ đạo của Trung Quốc, và nếu mọi người đều nghĩ rằng Việt Nam đã bị  kéo sâu thêm vào trong quỹ đạo của Trung Quốc, thì có thể là họ sẽ từ bỏ Việt Nam và đi đêm với Trung Quốc…

Vấn đề kiện Trung Quốc không phải là vấn đề thắng hay là thua, mà là vấn đề vận động chính trị. Nếu Việt Nam không kiện Trung Quốc, tức là Việt Nam đã chứng minh cho thế giới là Việt Nam chịu thua Trung Quốc, và nếu như vậy thì những nước khác sẽ suy nghĩ lại và có chính sách riêng của họ…

 

BỆNH VÔ CẢM

BỆNH VÔ CẢM

BÀI VĂN 9,5 ÐIỂM VỀ “BỆNH VÔ CẢM”

Những câu văn của em Phan Hoàng Yến , học sinh lớp 9A2 trường trung học Chu Văn An, Hà Nội đã gây ấn tượng mạnh với người đọc không chỉ bởi đề tài em lựa chọn mà còn bởi cách hành văn rất tinh tế và sắc sảo. Bài văn được cô giáo cho 9,5 điểm với nhận xét :”Em có những phát hiện và suy nghĩ sâu sắc về hiện tượng đáng buồn này. Một người có trái tim nhân hậu, đa cảm và tư duy sắc sảo như em thật đáng quý.”

—————————————–

ÐỀ BÀI :

TRÌNH BÀY SUY NGHĨ CỦA EM VỀ MỘT SỰ VIỆC HOẶC HIỆN TƯỢNG Ở ÐỊA PHƯƠNG HOẶC TRƯỜNG, LỚP (ÐẶT NHAN ÐỀ CHO BÀI VIẾT)

BỆNH VÔ CẢM

Có được một xã hội văn minh, hiện đại ngày nay một phần lớn cũng là do những phát minh vĩ đại của con người. Một trong số đó chính là sự sáng chế ra rô-bốt, và càng ngày, rô-bốt càng được cải tiến cao hơn, tỉ mỉ hơn làm sao cho thật giống con người để giúp con người được nhiều hơn trong các công việc khó nhọc, bộn bề của cuộc sống.

Chỉ lạ một điều: Ðó là trong khi các nhà khoa học đang “vò đầu bứt tóc” không biết làm sao có thể tạo ra một con chip “tình cảm” để khiến “những cỗ máy vô tình” biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận thì dường như con người lại đi ngược lại, càng ngày càng vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh. Ðó chính là căn bệnh nan y đang hoành hành rộng lớn không những chỉ dừng lại ở một cá nhân mà đang len lỏi vào mọi tầng lớp xã hội – bệnh vô cảm.

Nhìn thấy cái xấu, cái ác mà không thấy bất bình, không căm tức, không phẫn nộ. Nhìn thấy cái đẹp mà không ngưỡng mộ, không say mê, không thích thú. Thấy cảnh tượng bi thương lại thờ ơ, không động lòng chua xót, không rung động tâm can. Vậy đó còn là con người không hay chỉ là cái xác khô của một cỗ máy?

Trước hết là về cái đẹp, bây giờ ra ngoài đường, hiếm ai có thể bắt gặp một người đàn ông đạp xe ung dung dạo mát, thưởng ngoạn cái không khí trong lành, tươi mát dưới những hàng cây cổ thụ vàm bóng quanh bờ hồ; một người con gái dịu hiền, yêu kiều trong chiếc váy thanh thoát tản bộ trên những con đường hoa sấu, hoa sữa đầy mộng mơ mà hầu hết là những dòng người tấp nập, vội vã, chen lấn xô đẩy trên đường, xe buýt.

Lúc ấy cũng chính là lúc mà con người ta mất một phần tâm hồn đẹp đẽ đã bị chôn vùi dưới lớp cát. Phải chăng cũng vì như thế mà họ càng lúc càng khép chặt cánh cửa trái tim mình lại, không còn biết hưởng thụ cái đẹp mà chỉ nghĩ đến tiền, đến công việc ngày mai?

Vô cảm với cái đẹp mới chỉ là bước đầu.

Một khi người ta đã không biết ngưỡng mộ, không biết say mê, rung động trước những điều đẹp đẽ thì trái tim cũng dần chai sạn rồi đến đóng băng. Khi ấy, không chỉ là cái đẹp mà đứng trước những hành động ác độc, vô lương tâm, con người ta cũng cảm thấy bình thường, không oán trách cũng không cảm thông, động lòng với những nạn nhân bị hại.

Một tháng trước, tôi đọc được một bài báo trên mạng có đưa tin về vụ một đứa bé Trung Quốc hai tuổi bị xe tải cán. Thương xót, đau lòng làm sao khi nhìn cô bé đau đớn nằm trên vũng máu mà không một người nào qua đường để ý, cuống cuồng gọi cấp cứu. Họ nhìn thấy rồi đấy nhưng họ lại cố tình như không thấy, đi vòng qua cô bé để tiếp tục con đường nhạt thếch, sáo mòn của mình.

Càng chua xót, đau lòng, phẫn nộ hơn khi chiếc xe tải tiếp theo nhìn thấy cô bé nằm đó, vẫn thoi thóp thở, bám víu lấy cuộc đời lại vô tình chẹt cả bốn bánh xe nặng trịch đi qua người cô bé, thản nhiên đi tiếp. Người qua đường vẫn thế, vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra. Cô bé xấu số chỉ được cấp cứu khi một người phụ nữ nhặt rác đi qua, thấy cảm thông, đau lòng nên đã bế cô đi bệnh viện.

Có những con người ích kỷ, vô tâm, tàn nhẫn như vậy đấy.

Không những thế, bây giờ ra đường gặp người bị cướp, bị trấn lột, bị đuổi chém nhưng lại không thấy anh hùng nào ra can ngăn, cứu giúp hay chỉ một việc nhỏ nhoi thôi là báo công an. Ðó là những con người “không dại gì” và cũng chính “nhờ” những người “không dại gì” đó mà xã hội ngày càng ác độc, hỗn loạn. Chính lẽ đó mà căn bệnh vô cảm càng được thể truyền nhiễm, lây lan. Vô cảm còn là con đường trực tiếp dẫn đến những cái xấu, cái ác.

Nó là một căn bệnh lâm sàng (sơ khởi) mà trong đó, não của người bệnh vẫn hoạt động nhưng trái tim lại hoàn toàn băng giá. Người ta đã vô cảm thì làm sao có thể thấu hiểu được nỗi đau, tình cảm của người khác. người ta chỉ nghĩ đến mình và lợi ích của riêng mình mà thôi. Nếu không vô cảm, tại sao các cô giáo ở trường mầm non lại nhẫn tâm giật tóc, đánh đập, bịt miệng các cháu bé còn ngây thơ, nhỏ tuổi?

Tại sao một người còn chưa qua tuổi trưởng thành lại vô tư chém giết cả nhà người ta để lấy của cải? Xa hơn nữa là các công chức bình thản ăn tiền ủng hộ, trợ giúp những số phận đau thương, bất hạnh của người dân để kiếm lợi cho riêng mình. Và còn nhiều, còn nhiều hành động xấu xa hơn nữa. Tất cả những điều vô lương tâm ấy đều xuất phát từ căn bệnh vô cảm mà ra.

Chúng ta biết bệnh vô cảm vô cùng nguy hiểm nhưng lại đặt ra câu hỏi: Rốt cuộc thì nguyên nhân tại sao? Suy cho cùng, tình cảm là điều chi phối tất cả. Những người vô cảm là những người bị thiếu hụt tình yêu thương. Chính vì không cảm nhận được tình yêu thương mà người ta ngày càng lạnh giá. Một phần nữa cũng là do xã hội hiện đại quá bận rộn và đòi hỏi con người phải làm việc, làm việc và làm việc mà bỏ quên thời gian để trao nhau hơi ấm của tình thương, để ươm mầm cảm xúc.

Tình cảm như những hạt mưa, hạt mưa càng to, càng nặng thì càng dập tắt được những ngọn lửa của lòng thù hận, ghen ghét, bi ai và nó cũng như một ngọn lửa thổi bùng cháy mãnh liệt trong tâm hồn để nuôi dưỡng tiếp nguồn sống cho chúng ta. Vì vậy, điều duy nhất chúng ta có thể làm để cho căn bệnh vô cảm “không còn đất sống” là hãy biết mở cửa trái tim để biết cảm nhận, biết yêu ghét, thương giận và chia sẻ những điều tinh túy đó cho những người xung quanh mình.

“Con người ta không phải là cái đồng hồ và trái tim ta cũng không phải là cái lò xo”- một giáo sư người Anh đã nói như thế.

Tóm lại, ta nhận thấy rằng căn bệnh vô cảm đang lan tràn ngày càng rộng lớn và trở nên vô cùng nguy hiểm, biến con người thành một cỗ máy vô tri chỉ biết vận động. Ðừng để điều đó xảy ra mà hãy đấu tranh để giành lại phần “người”, giành lại “trái tim” mà Thượng Ðế, mà tạo hóa đã ban cho chúng ta, đào thải căn bệnh vô tình quái ác ra khỏi xã hội.

Giàu có trong nỗi bồn chồn: Tiền bạc và đạo lý của giới đại gia mới nổi tại Trung Quốc

Giàu có trong nỗi bồn chồn: Tiền bạc và đạo lý của giới đại gia mới nổi tại Trung Quốc

Andrew J. Nathan, Foreign Affairs, số tháng Năm/ tháng Sáu, 2014

Trần Ngọc Cư dịch

Một bài điểm sách cực ngắn xuất hiện trên Foreign Affairs, cho chúng ta vài nét chấm phá về của cải và đạo lý tiêu biểu cho giới đại gia mới nổi tại Trung Quốc. Và ở Việt Nam chắc cũng chẳng khác gì.

Người dịch

clip_image002

Tham nhũng tại Trung Quốc cần lắm công phu. Osburg, một nhà nhân học Mỹ, đã dành nhiều thì giờ để tiếp xúc và quan sát giới doanh nhân Trung Quốc tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên. Những người này gần như dành hết thì giờ để vun xới quan hệ với các quan chức chính phủ và các đầu nậu băng đảng tại các trà đình tửu điếm, các phòng ca nhạc karaoke, và các câu lạc bộ của giới ăn nhậu. Họ thể hiện các cung cách gắn bó giữa nam giới với nhau, việc này đòi hỏi phải chơi trội trong việc sử dụng các loại xe đắt tiền, các đồ ăn thức uống ngoại lai, và các dịch vụ tính dục. Những hoạt động qua lại này đang biến các quan hệ có giá trị công cụ thành tình bạn, các món hối lộ thành quà tặng, và các phạm nhân hình sự thành những kẻ tình nguyện giúp cảnh sát duy trì trật tự xã hội. Phụ nữ có chức năng làm người chiêu đãi, làm đối tác tính dục được trả tiền, làm biểu tượng địa vị, và đôi khi làm người đồng lõa trong các âm mưu của đàn ông. Những đại gia mới nổi, đối tượng nghiên cứu của Osburg, đang bị bóp nghẹt giữa nỗi sợ hãi là các địch thủ của mình có quan hệ với giới chức quyền thế hơn và cái cảm thức là mình đang gắn bó với một hệ thống chính trị đang trên đường đi đến sụp đổ. Họ cảm thấy mình bị kẹt vào trong một lối sống làm kiệt sức và lắm lúc chán phè, mặc dù phần còn lại của xã hội coi họ là những tấm gương thành công. Cách ứng xử của họ đang làm gia tăng một cảm thức phổ biến về tình trạng suy đồi đạo lý trong xã hội Trung Quốc đương đại.

A. J. N.

Bài học từ Hiệp định Geneva 1954

Bài học từ Hiệp định Geneva 1954

Gia Minh, PGĐ Ban Việt ngữ RFA
2014-07-19

giaminh_07192014.mp3

geneva1954-305.jpg

Ông Tạ Quang Bửu, trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại buổi ký Hiệp định Genève 1954.

Photo courtesy of wikipedia

Hiệp định Geneva năm 1954 được ký kết nhằm giúp chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam và cả Đông Dương. Thế nhưng mục tiêu đó đã không đạt được; trái lại chiến tranh lại diễn ra suốt trong mấy mươi năm sau đó, ngăn chặn sự phát triển của Việt Nam về mọi mặt.

TQ nhượng bộ Pháp và miền Nam?

Gia Minh hỏi chuyện sử gia Phạm Cao Dương hiện ngụ tại California, Hoa Kỳ về những điểm đáng chú ý của Hiệp định Geneva 1954 và bài học cần rút ra. Trước hết ông cho biết:

Phạm Cao Dương: Trước hết Hội nghị Geneva năm 1954 không phải được nhóm họp sau ngày sự kiện Điện Biên Phủ chấm dứt, mà nó đã được triệu tập từ trước rồi (từ ngày 26 tháng 4). Mục tiêu của hội nghị ban đầu không phải bàn về Việt Nam mà bàn về chiến tranh Cao Ly (Triều Tiên). Việc bàn về Việt Nam vào ngày 8 tháng 5 mới bắt đầu và không phải là chính. Nhưng vì tình hình tại Việt Nam thay đổi: biến cố, trận chiến Điện Biên Phủ chấm dứt nên người ta họp vào ngày đó.

Thứ hai, sách trong nước thường ca ngợi đó là chiến thắng của phía Việt Minh. Điều đó không hoàn toàn đúng, vì nếu chúng ta theo dõi những gì xảy ra trước đó khi ông Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp sang họp với Chu Ân Lai ở Liễu Châu, người ta thấy phía Việt Minh tức tối lắm. Sau này ông Võ Nguyên Giáp có nói rằng khi ông thuyết trình thì bản đồ đưa ra ‘đỏ’ hết tất cả; nhưng đến khi Chu Ân Lai thuyết trình thì theo lời ông Võ Nguyên Giáp ‘Bác và tôi rất ngỡ ngàng’ vì sự nhượng bộ mà Chu Ân Lai dành cho phía Pháp và miền Nam.

Cần phải để ý là Trung Quốc trong thời điểm đó mới làm chủ được lục địa Trung Hoa và chưa có vai trò quốc tế nào nên họ muốn vai trò nào đó, và Hội nghị Geneva là cơ hội để họ đóng vai trò đó.
-Sử gia Phạm Cao Dương

Lý do hai ông Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp không vừa ý vì hai ông tin tưởng được nhiều lợi thế hơn những gì mà phía Chu Ân Lai và Molotov (ngoại trưởng Nga lúc đó) buộc phía Việt Minh phải chấp nhận. Trước hết là sự hiện diện của bộ đội Việt Minh ở Miên và Lào. Chủ trương của Việt Minh hồi đó là muốn nâng đỡ hai tổ chức cộng sản bên Miên và Lào (Pathet Lào và Khmer Issarak). Phía đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa luôn phủ nhận không có sự hiện diện của bộ đội bên hai nước đó, nhưng cuối cùng Chu Ân Lai và Molotov ép buộc Việt Minh phải phần nào chấp nhận điều đó, và sau đó chấp nhận luôn. Có nghĩa chấp nhận đã rút rồi nhưng vẫn còn một phần ở lại bên Miên và Lào. Do vậy Pháp và phía Miên, Lào không chấp nhận nên cuối cùng chấp nhận ‘nếu còn sẽ rút đi’.

Điểm nữa về phân chia lãnh thổ. Khi có sự chia đôi, bên phía người Pháp đề nghị vĩ tuyến 19 và phía Việt Minh muốn vĩ tuyến 13 hay ít ra là vĩ tuyến 16; nhưng cuối cùng cũng hai ông Chu Ân Lai, Molotov và phía người Pháp – Mendes France, thỏa thuận vĩ tuyến 17.

Đến chuyện ngày bầu cử thống nhất, đầu tiên Phạm Văn Đồng muốn 6 tháng, nhưng sau đó lên 1 năm và 2 năm. Quyết định cuối cùng là năm 1956, tức 2 năm sau.

Cần phải để ý là Trung Quốc trong thời điểm đó mới làm chủ được lục địa Trung Hoa và chưa có vai trò quốc tế nào nên họ muốn vai trò nào đó, và Hội nghị Geneva là cơ hội để họ đóng vai trò đó.

Gia Minh: Việc tuyển cử như ông nói được thống nhất vào năm 1956, sau đó Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa có đề nghị với phía miền Nam, nhưng miền Nam từ chối. Lý do vì sao thưa ông?

Phạm Cao Dương: Thực ra phía miền Nam mà buổi đầu là Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại và sau này là Việt Nam Cộng Hòa của ông Ngô Đình Diệm, không chấp nhận bản Tuyên bố Cuối cùng. Chúng ta nên nhớ sự thỏa thuận ở Geneva gồm hai phần: phần thứ nhất là đình chiến và phần thứ hai là chính trị. Phần đình chiến được ký kết hẳn hoi, có nhiều bản thỏa ước; còn phần chính trị không có bản thỏa ước được ký kết mà chỉ là Bản Tuyên bố Cuối cùng được các bên chấp nhận bằng miệng mà thôi.

Phía Quốc gia Việt Nam lúc đó và sau này là Việt Nam Cộng Hòa thì không chấp nhận Bản Tuyên bố Cuối cùng đó. Phía Mỹ cũng không chấp nhận. Nên nếu không chấp nhận thi hành cuộc bầu cử đó chẳng qua vì họ không bị ràng buộc về phương diện pháp lý.

Thứ hai nữa, nếu có bầu cử phải cần những điều kiện tối thiểu để có sự công bằng. Đằng này chưa chắc có sự công bằng đó, thành ra miền Nam không chấp nhận cũng có lý của họ.

Bài học kinh nghiệm

Trong những hoạt động bang giao quốc tế, các quốc gia luôn đặt quyền lợi của mình lên trên, kể cả đồng minh cũng đứng hàng thứ không quan trọng.
-Sử gia Phạm Cao Dương

Gia Minh: Sau 60 năm rồi, ông thấy có những bài học gì?

Phạm Cao Dương: Trong những hoạt động bang giao quốc tế, các quốc gia luôn đặt quyền lợi của mình lên trên, kể cả đồng minh cũng đứng hàng thứ không quan trọng. Nếu bên Trung Quốc vì quyền lợi riêng mà hy sinh đồng minh là Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa thì đó cũng là điều tự nhiên mà thôi. Nhưng Hà Nội không thấy điều đó!

Thứ hai nếu nhìn vào thế giới trong thời gian đó và những năm tiếp theo, không phải chỉ có Việt Nam bị chia đôi. Còn nhiều nước khác bị chia đôi nữa nhưng không có nước nào dùng võ lực để tiến chiếm nước kia. Còn Việt Nam thì chuyện đó đã xảy ra.

Nhưng hậu quả là Hà Nội không có đủ thực lực để tự mình đánh xuống miền Nam nên phải dựa vào thế của Trung Quốc; Hà Nội và cả miền Nam đều không nhận ra điều, không biết đánh lá bài của Trung Quốc. Vì hồi đó Trung Quốc không muốn người Mỹ vào miền Nam và hiện diện tại miền Nam, họ muốn dùng người Pháp để giữ không cho Mỹ can thiệp vào Việt Nam.

Gia Minh: Cám ơn sử gia Phạm Cao Dương.

Nghiện internet

Nghiện internet

Chuacuuthe.com

VRNs (22.07.2014) – Sài Gòn – Cái gì cũng có thể gây nghiện: Nghiện đường, nghiện ma túy, nghiện cờ bạc, nghiện tình dục, nghiện phim (dù trắng hay đen), nghiện rượu, nghiện thuốc lá,… Thời @ có điều lưu ý khác: Hãy coi chừng chứng nghiện Internet!

Nếu bạn là game thủ hoặc nghiện game, bạn sẽ không thích bản tường trình tại cuộc họp thường niên của Hội Tâm Lý Hoa Kỳ năm 2014. Bản tường trình cho biết rằng những người nghiện Internet bị chứng rối loạn nghiện Internet (IAD – Internet Addiction Disorder), nhất là những người nghiện game, và bị chứng não bất thường.

Nhiều cuộc nghiên cứu cho thấy rằng những người nghiện Internet dễ bị trầm cảm, tự tử, rối loạn ăn uống, rối loạn ám ảnh, và các chứng khác. Giới trẻ Mỹ nghiện Internet (26.3%) hơn nghiện ma túy và rượu. Các thiếu niên nghiện Internet có nguy cơ cao bị trầm cảm và tự tử.

140721005

Đây là bốn phát hiện về chứng nghiện Internet:

LƯỢNG MÁU

Việc nghiện Internet liên quan việc thay đổi lượng máu trong não. Khi hưng phấn, lượng máu TĂNG xung quanh trung tâm não, nhưng lượng máu GIẢM xung quanh vùng xử lý thính thị (nghe và nhìn).

DOPAMINE

Việc nghiện Internet liên quan mức dopamine thay đổi trong não. Mê Internet có thể làm giảm mức chuyển đổi dopamine, một trạng thái xảy ra ở những người nghiện.

MƠ HỒ

Mê Internet cũng có thể khiến mất cảm giác về cơ thể và trạng thái mơ hồ.

LÃNH CẢM

Mê Internet có thể khiến bạn cảm thấy hờ hững với cách cư xử của người khác, và bạn còn cảm thấy “nuối tiếc” vì tốn tiền tốn bạc do mê game.

Cần nghiên cứu thêm để biết chính xác về chứng nghiện Internet, nhưng thực tế đã và đang cho chúng ta thấy các hậu quả của Internet, dù Internet vẫn có những giá trị tích cực. Chứng nghiện làm teo não, vì thế mà các “con nghiện” không bỏ được loại hình mà họ mê đắm – dù đó là chứng nghiện gì!

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Internet Addiction Changes the Brain)

 

TÀU CỘNG: KẺ THÙ RẤT NGUY HIỂM CỦA NHÂN LOẠI VĂN MINH TIẾN BỘ

TÀU CỘNG: KẺ THÙ RẤT NGUY HIỂM CỦA NHÂN LOẠI VĂN MINH TIẾN BỘ !

(Tin lan truyền trên Internet. Tin hay không tùy bạn!) 

Bài dài, ráng đọc, rất quan trọng vì ảnh hưởng đến mạng sống chúng ta!

TRUNG CỘNG ĐẦU ĐỘC CẢ THẾ GIỚI VỚI NHỮNG SẢN PHẨM NGUY HIỂM.

Để trả lời câu hỏi: “Nhưng chết dưới tay Trung Cộng như thế nào?” Tiến sĩ Peter Navarro nói: “Nhiều cách lắm, bằng hàng hóa độc hại, bằng cạnh tranh bất chánh, bằng cách cướp công ăn việc làm của nhiều quốc gia, bằng các hoạt động gián điệp, chiếm tài nguyên thiên nhiên của các nước láng giềng, chiếm lãnh nhiều thuộc địa bằng mặt trận kinh tế, đánh cắp bí mật quốc phòng và tăng đầu tư vào quân đội toàn là những thủ đoạn hiểm độc.”

Câu hỏi khác: “Có biện pháp nào để tránh hiểm họa “Chết dưới tay Trung Cộngkhông?” Tiến sĩ Peter Navarro đáp: “Có chứ! Nhưng, nó đòi hỏi Hoa Kỳ phải có một chánh sách khác và người dân Hoa Kỳ phải hiểu rõ thảm họa lớn nhất thế giới nầy!”. Trong cuốn “Death By China” (Chết vì Tàu cộng) đưa ra một số thống kê tiêu biểu: 1) Trung Cộng hiện cung cấp cho Hoa Kỳ 60% nước táo đặc, 50% tỏi, 70% thuốc trụ sinh Penicillin, 50% aspirin, 33% thuốc, Tylenol và 99% vitamin C; 2) Vật liệu xây dựng “drywall” của Trung Cộng chứa chất Sulfurous gas bốc mùi trứng thối làm cho người cư ngụ bị sưng phổi, ngứa cổ, nghẹt thở mà còn làm hư hỏng các ống nước làm hệ thống HVAC như máy lạnh, máy sưởi không làm việc được. Mỗi năm, hàng ngàn căn nhà của dân Mỹ phải tốn tiền sửa chửa khoảng 15 tỉ USD; 3) Về mặt gián điệp, “Death by China” cảnh báo rằng: mỗi năm có khoảng 750.000 người Hoa ngành tình báo vào Hoa Kỳđánh cắp kỹ thuật quốc phòng đưa về Hoa Lục.

IV. VŨ KHÍ SINH HỌC DƯỚI HÌNH THỨC HÀNG ĐỘC:
Rõ ràng Trung cộng đã và đang dùng “vũ khí sinh học” dưới hình thức “hàng độc” để đầu độc nhân loại và dân chúng Hoa Kỳ, đó là loại vũ khí hủy diệt con người một cách tiệm tiến. Hiện nay, ngành công nghệ sinh học đang nở rộ tại Trung Hoa Lục Địa và phát triển nhanh chóng, các sản phẩm độc hại được xuất khẩu ồ ạt, tràn ngập trên khắp thế giới.

Xin liệt kê vài hàng độc đã được tìm thấy THUỐC TÂY GIẢ:

– Tại PANAMA, hơn 300 người tử vong vì uống thuốc ho Made in China có độc tố gây bệnh là một loại độc tố cao, thường tìm thấy trong nước chống đông đặc của xe hơi.

– Tại HAITI: trên 76 trẻ em, phần lớn dưới 5 tuổi chết vì thận bị hủy hoại một cách kỳ lạ giống như nạn nhân ở Panama. Nhờ sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, người ta khám phá ra nạn nhân tử vong vì thuốc trị sốt cho trẻ em có độc chất “Diethylene Glycol” phát xuất từ Xingang và qua công ty giao dịch SinochemInternational.

– Không chỉ trong dược phẩm có chất Diethylene GlycolTàu cộng còn đưa độc chất nầy vào kem giả mạo dưới nhãn hiệu Colgate. Chính quyền Canada khuyến cáo dân chúng ngưng sử dụng kem đánh răng giả mạo độc hại Made in China.Dưới chủ đề “TRUY LÙNG THUỐC CỦA TỬ THẦN”, phóng viên của tạp chí Le Nouvel Observateur kể lại cuộc điều tra của một nhân viên bào chế dược phẩm Thụy Sĩ, hầu tóm cổ những kẻ sát nhân đã giết hại hàng ngàn bệnh nhân bằng thuốc giả đến từ Trung cộng. Cuộc săn lùng chỉ trên địa bàn các quốc gia Cận Đông: Ai Cập, Jordanie, Syrie.Mở đầu bài viết, phóng viên Jean Paul Mari kể lại câu chuyện của ADEL, một người Palestine: Vợ của anh bị ung thư vú, nhờ biết bệnh rất sớm và các bác sỹ lạc quan sẽ chữa được bệnh. Vấn đề là thuốc “Imanitib” rất đắt, giá hộp. Để chữa trị cho vợ, Adel đã huy động gia đình bạn bè giúp đỡ đưa vợ sang Israel điều trị. Thời gian đầu, bệnh của vợ anh có vẻ ổn định. Sau đó, anh đưa vợ trở lại Palestine vào bệnh viện tối tân ở Ramallah. Bác sỹ Baker sử dụng loại thuốc Imanitib nhưng giá thành chỉ bằng một nửa thôi. Sáu tháng sau, vợ của Adel chết vì thuốc sử dụng tại đây là thuốc giả được pha chế chỉ có nước, pha với một ít đường, phẩm màu và một ít aspirine. Giá thành của mỗi họp thuốc nầy là 2 USD.
Điều nầy đã thúc giục JEAN LUC mở cuộc điều tra. Nhân vật trung tâm mạng lưới mà Jean Luc tìm ra được tên WAJEE ABU ODEH, một người Jordanie đến từ Thẩm Quyến Hoa Lục. Tại vùng Cận Đông, mạng lưới do Wajee Abu Odeh điều khiển, chuyên cung cấp thuốc giả cho Jordanie, Ai Cập, Syrie… Họ cung cấp thuốc giả tới 50% thuốc chữa trị ung thư. Không kể các loại thuốc giả chết người nầy tràn lan ở những vùng ngoại ô nghèo và qua nhiều môi giới, nó hiện diện tại những bệnh viện có uy tín ở thủ đô.

. 

TRÀ TÀU TẨM CHẤT ĐỘC CHÌ:
Theo The New Chenese Take Out, Michael E. Telzrow cho biết: Kỹ nghệ sấy khô lá trà tại Trung cộng đã đạt tới trình độ tinh vi chưa từng có: Các hãng sản xuất trà dùng khí thải từ xe ô tô để làm khô lá trà nhanh chóng bằng cách trải lá trà tươi trên sàn của nhà kho rồi lái những xe vận tải vào trong, nổ máy để khí thải từ ống khói xe làm khô lá trà. Vấn đề là xăng pha chì và những chất chì độc hại thoát ra theo khói xe bám trên lá trà. Chất độc chì sẽ ngấm dần dẫn đến việc hủy hoại thận và còn nhiều nguy cơ khác.

NƯỚC TƯƠNG LÀM BẰNG TÓC:Bài viết nầy của GS Tse-Yan Lee, B.H.Sci nhằm trình bày cho độc giả biết về một loại nước tương được sản xuất tại Hoa Lục không an toàn và được bày bán khắp nơi tại Hoa Lục và trên thế giới. Nước tương được chế biến từ đậu nành, gồm có hợp chất protein,carbohydrate không chất béo, dồi dào chất riboflavin (B2) và các chất khoáng như sodium, calcium, phosphorus, sắt, selenium và chất kẽm. Hàng năm, trên khắp thế giới, người ta đã sản xuất ra hàng ngàn triệu tấn nước tương để cung ứng cho thị trường tiêu thụ.
 

Vào năm 2003, tại Trung cộng, người ta sản xuất hàng loạt nước tương mang nhãn hiệu “HONG SHUAI SOY SAUCE”, áp dụng theo phương pháp sinh hóa và kỹ thuật tân tiến bởi một nhà máy chế biến thực phẩm gia vị không theo phương pháp chế biến cổ điển bằng đậu nành và lúa mì nên giá thành rất rẻ và được các nhà hàng và nhà trường sử dụng rất nhiều. Tháng giêng năm 2004, viên quản lý cho một nhóm ký giả của chương trình TV “Weekly Quality Report” biết thành phần của nước tương gồm có “amino acid”, “sodiumhydroxide”, “hydrochloric acid” và mật đường (loại dung dịch phế thải sau khi đã quay ly tâm thành đường cát trắng) và vài chất hóa học khác hòa tan với nước. Nhu cầu chế biến nước tương, hàng tháng nhà máy phải sử dụng đến hàng chục ngàn tấn “amino acid” dưới dạng bột từ một nhà máy sản xuất hóa chất khác. Sau đó các ký giả đã tìm ra nguyên liệu để bào chế ra loại xi-rô amino acid này tại một nhà máy sinh hóa ở tỉnh Hồ Bắc. Họ trả lời các ký giả rằng “amino acid” chủ yếu chế biến từ tóc con người, thu nhặt được từ các tiệm hớt, uốn tóc và từ các đống rác thải ra ở các bệnh viện khắp nơi trong nước rất dơ bẩn và mang nhiều loại vi khuẩn gây nhiều mầm bệnh khác nhau. Tóc con người chứa nhiều loại hóa chất độc hại như thạch tín “arsenic” và chì “lead” sẽ gây phương hại trầm trọng đến hệ thống tiêu hóa, gan, thận, tim mạch, hệ thần kinh và sinh dục. Sau khi tin tức ghê tởm nầy được phổ biến trên toàn thế giới khiến Hiệp Hội Các Quốc Gia Châu Âu, HongKong, Đài Loan, Nhật, Hoa Kỳ,… đã từ chối nhập cảng một số hiệu nước tương và nhiều loại thực phẩm khác sản xuất từ Trung Hoa Lục Địa vì lý do an toàn cho sức khỏe dân chúng.

TỎI BỘT, ỚT BỘT NHIỄM PHÓNG XẠ: Do khả năng công nghệ bảo quản thực phẩm quá kém nên tỏi bột và ớt bột là sản phẩm nổi tiếng của quận Qixian, tỉnh Henan do cơ xưởng Limin sản xuất phải sử dụng chất phóng xạ Cobalt-60 để giữ lâu cho tỏi bột và ớt bột khỏi bị hư hỏng. Ngày 7/6/ 2009, chất Cobalt-60 bị rò rỉ thấm qua quần áo bảo hộ của công nhân và chất phóng xạ Cobalt-60 tuôn ra ngoài không khí, xưởng Limin bị phát hỏa, gây chết chóc cho nhiều người. Có khoảng 800.000 người trong vòng bán kính 50 km đã bỏ của chạy lấy thân. Hàng quán tại Qixian đóng cửa, đường xá vắng tanh như một thành phố chết.

HOA KỲ BÁO ĐỘNG NHIỀU MẶT HÀNG NHẬP TỪ HOA LỤC CÓ CHẤT ĐỘC:
Hoa Kỳ liên tiếp báo động về hàng hóa nhập cảng từ Trung cộng có chứa kim loại Cadmium độc hại tiềm ẩn trong những kiểu trang sức thời trang. Quốc Hội Mỹ đã cấm các sản phẩm chứa chì nhập cảng vào Mỹ dưới dạng nữ trang cho trẻ em nhưng cadmium còn độc hại hơn chì nhiều. Cadmium có thể gây bệnh ung thư. Thượng Nghị Sĩ MarkPryor báo động: “Sẽ có nhiều phụ huynh tức giận khi biết nữ trang nhập cảng như thế có thể làm tổn hại sức khỏe con em họ.”Nhiều sản phẩm may mặc dành cho trẻ em không bảo đảm an toàn, chứa nhiều hóa chất “formaldehyde”, “cadmium” và “chromium” độc hại vượt mức cho phép, gây nhiễm trùng da và đường hô hấp cho trẻ em. Trong khuôn khổ bài báo nầy, chỉ liệt kê những mặt hàng độc có tính cách tượng trưng mà thôi, còn nhiều mặt hàng độc khác như trái cây có tẩm hóa chất bảo quản Carbendazim hoặc còn dính thuốc trừ sâu, đũa ngâm hóa chất…Một khi các hóa chất độc hại nầy bám vào các bộ phận trong cơ thể con người sẽ công phá tiến trình thoái hóa và tăng trưởng tế bào tự nhiên mà sinh ra nhiều TẾ BÀO DỊ HÌNH không cần thiết, dư thừa, đan kết vào nhau, tích tụ lại làm thành bướu độc, cục u… là tiến trình của nguy cơ dẫn đến nhiều căn bệnh ung thư.

 

 

 

Vì thế, tất cả mặt hàng tươi, khô, đông lạnh hoặc đóng gói mang nhãn hiệu MADE IN CHINA là người tiêu thụ rùng mình kinh sợ. Trung cộng thay đổi chiến lược để lừa người tiêu thụ bằng cách thay thế nhãn hiệuMade in Chinabằng nhãn hiệu mới trên các bao bì của thực phẩm hàng hóa là MADE IN P.R.C – viết tắt cụm từ “People Republic of China” (Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc).

Nhưng, nhãn hiệu “Made in P.R.C” đánh lừa giới tiêu thụ không được bao lâu thì bị phát giác làm mức tiêu thụ hàng hóa Trung cộng lại bị thế giới tẩy chaytụt dốc thê thảm. Trung cộng lại giở thói gian manh, tiếp tục đánh lừa người tiêu thụ, không nhận diện được các mặt hàng độc của Trung cộng bằng những phương cách xảo quyệt khác. Một thí dụ điễn hình: WAL-MART là một trong những siêu thị lớn nhất nước Mỹ. Nếu nhập hàng từ Trung cộng do công ty Wal-Mart đặt mua, Trung cộng sẽ ghi “MADE FOR WAL-MART USA” hoặc “PACKAGED IN USA”.Hàng hóa nhập từ Trung Cộng bằng những kiện hàng lớn, được ghi rõ ràng xuất xứ “Made in China” đúng theo qui định của chánh phủ Hoa Kỳ nhưng khi những kiện hàng được tháo ra bán lẽ trên các quày hàng thì mang nhãn hiệu khác như “MADE FOR WALMART USA” hoặc “PACKAGED IN USA” và hàng chữ nhỏ li ti như “Made in China” hoặc “Made in P.R.C” nằm ở góc nào đó rất khó nhìn thấy. Xin hãy cẩn thận khi mua hàng để đừng bị Trung cộng lừa bằng những mánh khóe bẩn thỉu nầy.

BÀI HỌC CỦA ĐÀI LOAN TẨY CHAY HÀNG ĐỘC CỦA TRUNG CỘNG: Một thành phố Đài Loan, thị trấn Chitung, nơi trận bão Morakot ập vào làm 500 người chết trong một vụ lở đất lớn và 700 người phải di tản sau cơn bão nhiệt đới tồi tệ nhất trong vòng 50 năm qua đã xảy ra vào ngày 8/8/ 2009. Chánh quyền địa phương đã từ chối nhận 100 “nhà lưu động” lấp ráp nhanh do Trung Cộng viện trợ vì lo sợ hóa chất độc hại vì những căn nhà nầy có chứa chất “formali”, một loại hóa chất nguy hiểm. Phó Quan Hành Chánh quận tên Chung Chia nói: “Mặc dầu những ngôi nhà là trợ giúp nhân đạo nhưng chúng tôi cần phải đặt an toàn làm ưu tiên hàng đầu.” Ngoài ra, họ cũng từ chối hàng viện trợ của Trung cộng gồm: 10.000 túi ngủ, 10.000 chăn đấp cùng với 176 triệu nhân tệ (26 triệu USD).

 

Người dân Đài Loan đã mất tin tưởng vào hàng hóa Trung cộng từ năm trước khi sản phẩm sữa bột của Trung cộng của một số hãng Trung cộng bị tìm thấy nhiễm melamine làm chết ít nhất 6 trẻ em và khiến hàng chục nghìn trẻ em lâm trọng bệnh. Đây là một cái tát vào mặt bọn lãnh đạo Trung Nam Hải.

V. VIỆT NAM LÀ THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ HÀNG ĐỘC CỦA TRUNG CỘNG

Tất cả mặt hàng độc chết người do Trung Cộng sản xuất bị thế giới tẩy chay vứt vào thùng rác. Những con chó lãnh đạo Trung Nam Hải dùng Việt Nam làm thị trường tiêu thụ những hàng độc nầy vừa để thu lợi nhuận và vừa dùng nó làm vũ khí giết người thầm lặng, không tiếng súng để giết dân Việt Nam chết dần chết mòn. Sách lược dã man nầy được Trung cộng chia ra làm hai giai đoạn:

GIAI ĐOẠN I:Ngày 30 tháng 6 vừa qua, nhiều tờ báo trong nước đồng loạt lên tiếng báo động về hiện tượng nầy, từng đoàn doanh nhân Tàu Cộng vượt biên giới bỏ ngỏ, ào ạt sang Việt Nam từ Bắc vào Nam, tung tiền mua giá cao, vơ vét hàng nông sản, thu hút hàng sạch nhu yếu phẩm từ thủy sản, đường cát, heo, gà, vịt, trứng gà, vịt cũng bị thu mua chất hàng đống. Đặc biệt là vịt sống là sản phẩm bị chiếu cố tận tình nhất, khiến giá mỗi con từ 60.000 đồng/con, tăng vọt lên 120.000 đồng, tức là tăng gấp đôi. Cho đến nay, chiến dịch vét hàng đã lên đến cao điểm nhưng chưa biết chừng nào mới chấm dứt. Hiện tượng nầy khiến vật giá trong nước tăng tốc leo thang không ngừng vì thiếu hàng để bán, làm dân nghèo khốn đốn. Theo nhận định của bà Nguyễn thị Thu Sắc, Phó chủ tịch Hiệp hội Hàng Xuất Cảng Thủy Hải Sản VN (VASEP) nói rằng: những năm trước thương gia Tàu sang Việt Nam thu mua tôm trực tiếp từ các trại nuôi tôm của người Việt mình. Còn bây giờ, họ ra tận bến cá, đón tàu đánh cá vừa từ ngoài khơi vào, tung tiền thu mua trực tiếp, gom sạch các loại hải sản. Các công ty Việt Nam chế biến thủy sản và hải sản thiếu hàng xuất cảng, nâng giá mua lên để cạnh tranh mà vẫn chào thua các doanh nhân Tàu cộng lắm tiền nhiều bạc nầy. Tại miền Trung, các tay thương gia Tàu cộng nầy chiếu cố tận tình. Hậu quả, là giá tôm trắng hồi nằm ngoái chỉ có 57.000 đồng/kí bây giờ vọt lên 90.000 đồng/kí. Bà Sắc báo động: Tình trạng nầy sẽ giết các công ty xuất cảng thủy sản và hải sản trong nước. Từ đầu năm đến giờ đã có 147 công ty loại nầy ở VN đã phải đóng cửa vì không mua được hàng. Bà Sắc cho biết đã đến lúc chánh phủ VN nên bắt chước Indonesia vì quốc gia nầy đã cấm xuất cảng nguyên liệu thủy, hải sản kiểu đó. Việt Nam cần phải bảo vệ thị trường nội địa nhưng, biết bao giờ Đảng và nhà nước CSVN học được bài học khôn nầy?Ngoài ra, các tên thương gia trọc phú nầy còn nhắm vào hồ tiêu. Theo lời ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch Hiệp Hội Tiêu VN (VPN), cho biết: Đã có 20% toàn bộ sản lượng tiêu VN bị thương lái Tàu Cộng thu vét. Cao su cũng vậy, có đến 70% số cao su làm ra ở VN đã vượt biên vào Hoa Lục.

GIAI ĐOẠN II: Sau khi hút hết “HÀNG SẠCH” của thị trường Việt Nam, bọn Trung Nam Hải cho các thương buôn Tàu cộng tuôn “HÀNG ĐỘC” vượt qua biên giới vào Việt Nam bán với giá rẻ mạt vừa túi tiền của đại đa số đồng bào lao động để đầu độc dân Việt Nam trên qui mô cả nước, gây ra hiện tượng “GIÀU ĂN SẠCH, NGHÈO ĂN ĐỘC”. Xin liệt kê một số hàng độc của Trung cộng tượng trưng:

GẠO NHỰA TÀU: Sau khi tung tiền vơ vét cả triệu tấn gạo của VN chở sang Tàu, liền sau đó, “gạo nhựa Tàu” được Trung cộng tung vào VN đã xuất hiện trên thị trường, đó là một loại giả làm bằng khoai lang /khoai tây xay nhuyển rồi trộn với bột nhựa (resin). Gạo nhựa Tàu nấu trên 30 tiếng vẫn không làm hạt gạo nát nhừ, hột cơm vẫn nguyên vẹn và không dính vào nhau. Tất cả các gạo nhựa Tàu đều 

cùng kích thước và màu sắc giống nhau.

 

SỮA ĐỘC MELAMINE: Melamine là hóa chất dùng để sản xuất nhựa, được trộn vào các sản phẩm sữa để chúng trông giàu protein hơn nhằm dánh lừa thị giác giới tiêu thụ khiến các em nhỏ uống vào sẽ mắc bệnh “sạn thận”. Các hãng thông tấn nước ngoài đưa tin scandal về sữa độc melamine làm tử vong 4 em bé và làm hơn hàng trăm ngàn trẻ em khác bị bệnh vào năm 2008. Sau đó, chánh quyền Trung cộng đã tìm thấy và tịch thu 170 tấn sữa bột độc hại nầy. Số 170 tấn sữa độc melamine không được Trung Cộng thiêu hủy và tái phối trí để đưa vào thị trường Việt Nam tiêu thụ với giá rẻ khoảng 62.000 đồng/ký so với sữa bột Tân Tây Lan (New Zealand) rẻ hơn 20.000 đồng /ký. Nguồn tin cho biết, sữa độc melamine tràn ngập ở các chợ biên giới phía Bắc, đưa vào bán ở các chợ đầu mối tại Sài Gòn như chợ Kim Biên, Bình Tây và các đại lý chuyên doanh phân phối thực phẩm.

“Em đến từ trong giấc hỗn mang,”

“Em đến từ trong giấc hỗn mang,”

Lời ca không mở cửa thiên-đường.”

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mt 13: 44-52

Lm Richard Leonard sj

Thiên đường hạ-giới rày không mở, làm sao đến được từ hỗn mang. Thiên-quốc Nước Trời nay không đóng, người người hân-hoan cứ tiến vào.

Trình-thuật hôm nay, thánh-sử Mát-thêu cũng đề-cập đến thiên-đường là Nước Trời ở trần gian trong đó có kho tàng quý-giá vẫn chôn-giấu nơi ruộng đồng cuộc sống, rất bon chen.

Nơi ruộng đồng cuộc sống, có những thực-tại sờ sờ ngay trước mắt, nhưng con người không nhận ra. Trong đời người đi Đạo, có những chân-lý được Đức Chúa mặc-khải, nhưng các tín-hữu Đạo Chúa lâu nay ra như chưa một lần cảm nghiệm Nước Trời ở trần gian là thực-tại trong chân-lý ấy.

Vào những tháng ngày rất xưa, nhiều vị thừa-sai Đạo Chúa vẫn sử-dụng bài Tin Mừng hôm nay như một bằng-chứng hùng-hồn để giảng-thuyết về thiên-đường. Khi dẫn giải thế nào là Thiên-đường, các ngài có thói quen đưa ví-dụ kho-tàng chôn nơi ruộng đồng và viên ngọc quý-giá làm bằng.

Không những thế, các ngài còn thêm-thắt về hỏa-ngục hầu minh-họa lời mình trần-tình qua ảnh-hình một lò lửa cháy bừng bừng, ở đó toàn những “khóc lóc nghiến răng” đến khiếp sợ. Tất cả các yếu tố nói ở đây đều là chuyện kể hằng ngày, ở huyện nhà.

Đằng khác, một số vị giảng-thuyết làm như thể mình biết rất nhiều điều về địa-ngục bừng cháy rất nóng-nảy. Làm như thể chính các ngài là những cây viết sáng-giá đã từng hơn một lần tham-quan/vãn-cảnh chốn địa-ngục trần-gian, rất nhiều lần. Và, các ngài còn cảnh-giác người nghe lo chuẩn-bị hành-trang để một mai lỡ có một lần trót dại, cũng không sao.

Có dạo nọ, nhân mùa thuyết-giảng ở giáo xứ mình, vị linh-mục đứng bục giảng đã hùng-hồn dẫn-giải cho giáo-dân hiểu/biết thế nào là hỏa-ngục lửa bỏng bằng cột miêu-tả rất khúc-chiết, gẫy gọn. Vị ấy còn khẳng định thêm: “Giả như anh chị em ra khỏi nhà thờ mà không chấm nước thánh và làm dấu thánh kêu tên Cực trọng, thì sẽ bị chết bất đắc kỳ tử và rồi sẽ đáp chuyến tầu suốt đi thẳng vào cõi địa-ngục ngàn đời, cho mà xem!”

Vào cuối bài giảng hôm ấy, người chị họ của chúng tôi đứng cạnh giếng thánh nhà thờ quan-sát thấy mọi người lần lượt tiến ra cửa nhà-thờ làm động-tác chấm chấm rất nhiều lần, rồi cứ thế không ngớt mời chào và nhường bước. Cuối cùng, chị không chấm nước thánh-thiêng, vẫn cứ về nhà mà vẫn chẳng bị đẩy vào chốn hoả-ngục lửa cháy đùng đùng đền tội chi hết.

Những ưu-tư thúc-bách như thế, chẳng làm giảm đi thực-chất của thứ địa-ngục nơi trần-thế. Nhưng, nếu tin vào thiên-đường và ý-chí tự-do cho đúng cách, có lẽ ta phải xác-quyết rằng hỏa-ngục-nơi-con-người vẫn có thật. Và, ta phải minh-xác với những ai từng phản-bác một cách có tự-do hiểu-biết và nghiêm-chỉnh chống lại sự-kiện Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu vẫn hiện-diện trong đời mình. Có như thế, ta mới cương-quyết định-đọat số-phận mình cho thế-giới ở đời sau.

Tuy nhiên, vẫn có sự khác-biệt rất lớn giữa các nhận-định của chúng ta, khi trước và vào lúc này, về thiên-đường cùng hỏa-ngục. Chắc hẳn, mọi người đều hiểu-biết ý-nghĩa của truyện kể về kho-tàng giấu nơi ruộng và viên ngọc quý-giá đều là ví-dụ súc-tích về thiên-đường. Các ví-dụ ấy tuyệt-diệu đến độ nó đã để lại những mấu-chốt giúp ta hình-tượng được các ý-niệm mà đầu óc con người không thể diễn-nghĩa được. Về hỏa ngục, cũng thế. Cuối cùng, vấn-đề đặt ra là: làm sao hình-dung được cuộc sống con người, mà lại không bao gồm tình-thương và sự hiện-hữu của Đức Chúa?

Đọc các sách tu đức, ta được hướng-dẫn về thứ hỏa-ngục tô vẽ bằng đường nét chấm-phá quanh-co cốt cho thấy đích-điểm và tình-huống mà trong đó tình thương không thể nào hiện-diện được vào lúc nào hết. Nói một cách xác tín hơn, có lẽ ta nên khẳng-định rằng: hỏa-ngục chính là tình-trạng “vô-thượng” hoặc đối-nghịch với Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu rất thương mến người đồng-loại, tức: không còn lòng xót-thương người khác nữa.

Thêm một khác biệt nữa, là: ngày nay ta đã thận-trọng hơn khi trước rất nhiều, không còn tự tiện quyết-đoán xem ai sẽ là người phải vào chốn “khóc lóc và nghiến răng” ấy, trước nhất? Trong khi đó, ta còn phải nhớ lời Đức Kitô luôn khẳng-định rằng: ý-định của Thiên-Chúa là: mọi người đã được cứu rỗi, từ lâu rồi. Ta không thể coi đây là chuyện nghiêm-chỉnh nếu ta cứ muốn  cho người nào khác phải rơi tuột vào chốn “nóng bỏng” ấy, vì họ dám vi-phạm chỉ một lỗi-lầm rất nhỏ nghịch-chống lại lề-luật ta ban ra.

Đọc Tin Mừng của Chúa theo hướng tích-cực, ta có thể dùng bài Phúc Âm hôm nay như bằng-chứng cho thấy Chúa đối-xử với ta vẫn thật tốt. Ngài luôn ban tặng cho ta Nước Trời mà Ngài từng tuyên-hứa. Hiểu như thế, thì: nhân-loại chính là kho-báu được chôn nơi ruộng mà Chúa đã bỏ tất cả mọi sự để mở rộng vòng tay ôm, đón nhận ta vào lòng. Đồng thời, con người phàm-trần chính là viên ngọc quý-giá được Chúa đổi cả thiên-đường lẫn trái đất để nhận lấy cho riêng Ngài. Và, bản thân ta phải được coi như lớp cá chất đầy mẻ lưới tình-thương do Chúa từng thâu gom thành cộng-đoàn đầy mến-mộ.

Chúa của ta, là Đấng dám trở nên con người phàm-trần giống như ta ngang qua và nhờ vào bản-thể Đức Kitô, ngõ hầu ta biết thông-cảm, yêu-mến và phục-vụ Ngài. Đó, là ý-nghĩa đích-thực của Tin Mừng. Đó, mới là điều mà Ngài nhắc nhở: môn đệ nào biết nhìn-nhận các sự việc của thiên-đường thì phải xử-sự như chủ nhà được kể ở dụ-ngôn hôm nay.

Đây là hình-ảnh súc-tích, đầy đủ ý-nghĩa về những người biết yêu thương, trân-trọng. Thời Đức Giêsu sống, chủ nhà phải là người biết thương-yêu đùm-bọc và tạo được an-bình/hài-hoà cùng sự công chính cho hết mọi người.

Lâu nay Đức Chúa vẫn phú ban cho ta mọi thứ tự do ngõ hầu ta có thể quyết-định mọi chuyện. Ngài vẫn trao-tặng ta kho tàng giấu nơi ruộng và viên ngọc quý-giá ấy, hầu giúp ta biết thương-yêu, đùm bọc lẫn nhau; biết tân-tạo an-bình/hài hòa cho nhau; đối xử với nhau vui vẻ, công bằng hơn. Mọi quyết-định đều do ta tự ý chọn-lựa. Một lựa-chọn vẫn được trân trọng, từ trước đến nay. Nhưng, lựa-chọn này bao-hàm sự cốt-thiết sống phù-hợp với Đạo Chúa, bây giờ và mãi mãi.

Đó, mới là thiên-đường. Đó, mới là Nước Trời ở trần gian, đang diễn-tiến trong cuộc sống thường nhật của ta và mọi người.

Trong tinh-thần cảm-nghiệm một sự thật như thế, ta lại sẽ ngâm lên lời ở trên, rằng:

“Em đến từ trong giấc hỗn mang,

Lời ca không mở cửa thiên-đường.

Thời-gian bốn phía nhoà gương mặt,

Ảo-tưởng nghiêng vầng trán khói sương.”

(Đinh Hùng – Gặp Em Huyền Diệu)

Em huyền-diệu gặp được ở Nước Trời trần-gian, vẫn là mộng giấc xưa hỗn mang nay hiện thực. Thiên-đường ấy, nay hiện-thực ở Nước Trời vẫn rộng mở để đón chờ cả người anh lẫn người chị cùng đàn em thương nhớ vầng trán khói sương, không ảo-tưởng. Đó, chính là lời ca ta vẫn hát ở mọi thời, trong Nước Trời.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

“Muốn một lần tạ ơn với đời,”

“Muốn một lần tạ ơn với đời,”
Chút mặn nồng cho tôi
Có những lần nằm nghe tiếng cười
Nhưng chỉ là mơ thôi.”

(Trịnh Công Sơn – Như Một Lời Chia Tay)

(Lc 6: 21)

Trần Ngọc Mười Hai

“Nằm nghe tiếng cười” rất nhiều lần, mà nghệ sĩ mình lại bảo, đó: “chỉ là mơ thôi”, sao? Chao ôi, phải chăng đấy là thi-ca và âm-nhạc? Hay, ngày nay người mình “có những lần nằm nghe tiếng cười”, lại cứ nghĩ: đó chỉ là mơ/là mộng và còn phán: đó như một lời chia tay.” Rồi cứ thế, nghệ sĩ mình, lại hát tiếp những “lời chia tay” cũng rất buồn, như sau:

“Những hẹn hò từ nay khép lại
Thân nhẹ nhàng như mây
Chút nắng vàng giờ đây cũng vội
Khép lại từng đêm vui
Đường quen lối từng sớm chiều mong
Bàn chân xưa qua đây ngại ngần
Làm sao biết từng nỗi đời riêng
Để yêu thêm yêu cho nồng nàn
Có nụ hồng ngày xưa rớt lại
Bên cạnh đời tôi đây
Có chút tình thoảng như gió vội
Tôi chợt nhìn ra tôi.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Hôm nay, bần đạo đây cũng có nằm và có nghe thấy “tiếng cười”; nhưng không là “lời chia tay” và chẳng là “hẹn hò từ nay khép lại, khép lại từng đêm vui”, nhưng “chợt nhìn ra (những) tôi” và tôi. Chính tôi và tôi, là những người vẫn biết cười và/hoặc chỉ những cười là cười. Bởi, cười là “bản tính của người mình” như học giả Nguyễn Văn Vĩnh vẫn cứ bảo: gì cũng cười!

Cười, còn là và vẫn là: điểm son và là sự sống rất tin-yêu của nhà Đạo mình, nữa đấy bạn ạ! Không tin ư? Thế thì, mời bạn và mời tôi, ta quay về với đấng bậc vị-vọng trong Đạo từng quả quyết, qua suy-niệm và sẻ san Lời Chúa ngày hôm ấy, rất “thường niên” Chúa nhật 16 năm A như sau:

“Nghe kể về dụ-ngôn Chúa nhật hôm nay, người người được khích-lệ sống tích-cực điều Chúa dạy. Sống tích-cực, kèm theo nụ cười hạnh-đạo, bởi nơi Lời Chúa nói, vẫn có âm-nhạc được diễn-tả theo điệu kể của thánh Mát-thêu. Đó, còn là cung-cách rất riêng-tây của thánh-nhân khi sử-dụng dụ-ngôn do vị tiền-nhiệm kể, để mọi người thấy được Đức Giêsu đích-thực là người Do-thái đã biết vui tươi, mỉm cười, rất dễ chịu.

Về cung-cách biết mỉm cười trong cuộc sống, cũng nên tìm hiểu xem thế nào là cười mỉm, vui tươi trong sống đời thường-tình, bằng các định-nghĩa ở bên dưới:

-Cười, để học biết chấp-nhận tầm-kích ân-huệ của cuộc sống khó có thể kiểm soát;

-Cười, là ý-nghĩa thần-học của việc mất đi mọi hiểu-biết chính con người mình;

-Cười, là ngày sống có dấu-chỉ của sự đồng-thuận cuối cùng và mãi mãi với thực tại;

-Diễu cợt, là điều để ta cười vào đó, cho bõ kiếp sống này; chỉ những ai làm thế mới là người không áp-đặt mọi thứ vào chính con người mình;

-Cười, là để sống thân-thiện với mọi thứ;

-Cười là niềm cảm-thông huyền-nhiệm với mỗi thứ và mọi thứ trong đời;

-Đứng trước những người biết cười như thế, ai cũng có dịp để đổi thay để ăn nói;

-Chỉ những ai đã yêu và từng biết yêu mới cảm-thông được như thế;

-Cười, khiến cho con người trở thành người đáng yêu;

-Cười, là cung-cách của những người không lo-lắng nhiều về phẩm-cách của mình;

-Cười, là cách gom mọi sự và mọi người vào với nhau để sẽ không mất nhau trong đời;

-Cười, đôi khi khiến ta có nguy-cơ bị người đời coi là hời-hợt, sống ngoài mặt; nhưng

cười, ít ra cũng làm bớt đi những gì tầm-thường, vào mỗi ngày;

-Cười trong đời sống hằng ngày là các cảnh-báo để mình sống tốt trong thực-tế ở đời;

-Cười, giúp ta hướng về tương-lai bằng lòng chấp-nhận có uy-lực về mọi mặt, qua đó người được cứu sẽ nói lời Amen với tất cả những gì mình từng làm;

-Cười, là thành-phần của nghệ-thuật góp mặt với mọi sự;

-Biết cười thực-sự và cười rộn-rã là lối sống khiến người người lướt vượt được khó-khăn và là loại-hình sống cuốn trôi nước mắt và đem những chuyện vui vào con người, dù đang cay đắng, nóng giận.

-Cười phản-ánh rằng con người không còn nghi ngờ những gì mang tính trẻ con hoặc thuộc về con trẻ nữa.” (xem Lm Karl Rahner, The Content of Faith, Crossroad 1994, tr. 148-153)

Vâng. Với nhà Đạo rất chính-tông, chính-cống thì như thế. Với người đời, tiếng cười hay nụ cười được diễn-nghĩa và diễn-tả tùy mỗi tác-giả, rất như sau:

-Với Sách Châm Ngôn Đoạn 15 có câu: “Lòng mừng vui làm hân hoan nét mặt,”

-Với Herbert Samuel thì: “Thế-giới này như thể chiếc gương, nhăn mặt với nó, nó sẽ

nhăn lại với mình; cười với nó, nó sẽ cười lại với mình thôi”.

-Vô-danh:“Cười, là hào-quang chiếu sáng qua cửa sổ tâm-hồn cho biết mình đang ở nhà.”

-Vô danh:“Cười, là hệ thống chiếu sáng diện mạo và là hệ-thống nghe ngóng của con tim.”

-Tác-giả Les Gibbin: “Không sử-dụng nụ cười, bạn chỉ như người có cả triệu đô gửi ngân-hàng nhưng lại không có sổ chi-phiếu.”

-Fran A. Clark: “Hầu hết mọi nụ cười đều do nụ cười nào khác dấy lên.”

-Vô danh: “Khi bạn cười với ai đó, thì 90% người ấy sẽ mỉm cười đáp-lễ bạn và ngày hôm ấy ít nhất có đến hai người đều vui-tươi, chói sáng”.

-Vô-danh: “Thế-giới nay có cả trăm ngôn-ngữ khác nhau, nhưng duy chỉ có mỗi nụ cười là nói đủ hết bấy nhiêu thứ tiếng”.

-Với David Hare, thì: “Cười, là ngôn-ngữ của yêu-đương, hài-hoà”.

-Vô-danh: “Không ai cần nụ cười cho bằng những người chẳng cho ai thứ gì”.

-Mark Twain: “Vết nhăn trên mặt là dấu hiệu nụ cười đã trụ ở đó, rất lâu”.

-Joseph Addison:“Hoa-trái cần ánh sáng thế nào, thì con người cần nụ cười cũng như thế”.

-Dough Horton:“Cười, là thuốc trị-liệu hết mọi bệnh mà không phải trả đến một xu”.

-Với Mẹ Têrêxa Calcutta, thì: “Hãy cười nhiều với nhau và cho nhau! Cười với vợ, với chồng và con cái mà không cần biết người đó là ai. Nội sự việc ấy thôi cũng giúp người và giúp mình tăng-trưởng trong tình yêu lan rộng dần”.

-Wilbur D. Nesbit: “Thứ làm cho con người tiến xa nhất và cho cuộc sống của mọi người đáng sống, vừa ít tốn kém lại làm lợi cho nhiều người nhất, chính là: nụ cười. Nó đầy thần-khí nhưng lại không là thần-linh. Nó nhào-trộn mọi sự tốt-lành của con người. Nó đáng giá cả triệu đô, nhưng lại không mất tiền mua, nhưng vẫn đáng giá”.

Santosh Kalwar: “Hôm qua tôi đã cười, hôm nay tôi đang cười và ngày mai, tôi cũng sẽ cười nhiều hơn nữa, đơn giản, chỉ vì cuộc sống quá ngắn để ta khóc về mọi thứ”.

Charles Chaplin: “Bạn sẽ thấy giá trị thực của cuộc sống, nếu cứ cười”.

Freida Martinez: “Nụ cười nở trên môi, sẽ không bao giờ lịm tắt. Tôi đang cùng nó đứng đây chờ bạn đến ở bên cạnh chúng tôi đấy”.

Bei Maejor: “Bạn sẽ không bao giờ nuối tiếc những gì làm mình mỉm cười”.

Vô danh: “Hãy dùng nụ cười của mình để thay đổi thế giới, chứ đừng để thế giới thay đổi nụ cười của mình”.

Vô danh: “Nụ cười có thể làm bừng sáng một ngày đen tối nhất.

Nylle: “Mỗi người trong ta đều có vết thương lòng, một số người giấu nó trong đôi mắt, người khác lại giấu nó trong nụ cười”.

Vô danh: “Nụ cười, là khoảng cách ngắn nhất giữa hai tâm hồn”.

Maya Angelou: “Nếu bạn có duy nhất chỉ một nụ cười hãy dành nụ cười đó cho người mình yêu thương”.

Vâng. Quả nhiên là như thế. Quả thật là như vậy. Cứ cười nhiều, bất kể nụ cười đó có là cười điệu, cười tiền, cười trừ hoặc vô duyên cũng cứ cười, nhé anh. Nhiều danh-y trên đời từng quả-quyết: cười là liều thuốc bổ không tốn đến một xu. Vậy thì, mời bạn và mời tôi: ta hãy cười. Cười hoài cười mãi, rất khôn nguôi!

Vâng. Ai cũng quyết tâm làm như thế. Nhưng, chữ “nhưng” đây thật vô lối, nhưng lại rất giá-trị, là hỏi rằng: tại sao người nhà Đạo ít cười, không chịu cười nhiều hoặc để mất nụ cười tươi-tắn, cũng đã lâu?

Để trả lời câu hỏi khá “hóc búa” này, lại cũng mời bạn và mời tôi, ta đi vào vườn “thượng-uyển” có giòng chảy tư-tưởng của đấng bậc, rất nhiều vị, để minh-chứng hoặc xác-minh một khẳng-định rất hợp lẽ. Nhưng –(lại chữ “nhưng” cũng hơi kỳ)- là: trước khi tìm đến câu trả lời thật thoả đáng, thiết tưởng ta cũng nên xem thử Kinh Sách từng nói gì về “nụ cười” rất cần-thiết cho nhà Đạo, qua lời khuyên. Lùng tìm cho lung, chỉ thấy mỗi đôi giòng:

“Phúc cho anh em

là những kẻ bây giờ đang phải khóc,

vì anh em sẽ được vui cười.”

(Lc 6: 21)

Nghe thế, chắc hẳn người nghe những tưởng rằng: nụ cười rộn rã chỉ mỗi đến sau khi nhà Đạo mình đã khóc ròng, nhiều ngày. Sự thật thì, không phải thế. Bởi, đời người có khổ đau nhiều như thánh

“Nếu con nói:

con sẽ quên đi lời than thở,

đổi nét mặt mà hớn hở vui tươi.”

(Gióp 9: 27)

Hoặc, đoạn khác:

“Họ chẳng dám tin,

dù tôi có mỉm cười với họ,

nét mặt tôi thay đổi thế nào,

họ chẳng bỏ qua.”

(Gióp 29: 24)

Vâng. Đạo mình, vẫn chỉ như thế. Như thế, tức bảo rằng: trong nỗi buồn cuộc đời dài, người đời cũng sẽ thấy đời mình kết thúc bằng niềm vui tươi, rất muốn cười.

Vâng. Người nhà Đạo mọi thời, vẫn cứ cầu và cứ xin rất nhiều thứ, nhưng lại chẳng bao giờ nguyện và ngắm để mình nhớ mãi việc cần-thiết nhất với người nhà Đạo, là “cho đi”. Cho, những gì mình đã có nhưng người khác vẫn chưa có. Cho, là không nghĩ đến riêng mình mà nhớ nguời khác dù điều cần thiết đó có là niềm vui nho nhỏ, trong đời mình.

Nói theo kiểu nhà Đạo, thì: “cho đi” là bí-kíp sống giúp mọi người vui-tươi, sống tốt-lành/hạnh-đạo trong đời người đi Đạo rất Kitô thôi. Nói theo kiểu người đời rất buồn rười rượi, chắc cũng chỉ nói bằng lời ca/tiếng hát, rất như sau:

“Tình như nắng vội tắt chiều hôm

Tình không xa nhưng không thật gần

Tình như đá hoài nỗi chờ mong

Tình vu vơ cho ta muộn phiền

Tiếng thì thầm từng đêm nhớ lại

Tưởng chỉ là cơn say

Đóa hoa vàng mỏng manh cuối trời

Như một lời chia tay…”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Giả như nghệ-sĩ ngoài đời cứ say sưa hát nhạc đời, rồi còn gọi đó là cơn say “đoá hoa vàng mỏng manh cuối trời” những muốn cười, suốt một đời, thì: chắc hẳn đời nghệ-sĩ sẽ rất vui, không còn tả oán/vãn than, điều gì nữa.

Giả như người đi Đạo lại cũng mê-say sống đời hạnh-đạo mà “cho đi” rất nhiều điều, chẳng kiếm tìm lợi-lộc gì cho riêng mình, thì đời người và đời mình cũng sẽ khác?

Giả như người ngoài Đạo, vẫn cứ hỏi: người Đạo Chúa cứ mê-say sống đời tìm-kiếm vui-tươi hạnh-phúc, thì sao nhà Đạo mình lại ôm-ấp truyện buồn thập-giá, đấu-tranh, khắc-kỷ, khổ-hạnh và tử-đạo như thế, há nào Đạo Chúa cũng buồn phiền, ít vui tươi?

Và, giả như có người nào đó muốn tìm-hiểu chuyện đời đi Đạo với đấng bậc vị-vọng chuyên suy-tư rao-giảng toàn những chuyện buồn-sầu, chán-ngán hoặc cấm-kỵ, thì nhà Đạo mình nghĩ sao về mục-tiêu của Đạo? Và, trả lời làm sao, khi có người vẫn cứ vấn-nạn về cuộc sống và lời dạy của “Đức Giêsu lịch-sử” bằng đôi giòng vắn gọn, mà thôi không?

Bần đạo bày tôi, thấy mình không có tư-cách trả lời cho vấn-nạn nói trên, như thế, bèn vời đến đấng bậc thày dạy Kinh thánh/thần-học, có được câu trả lời, như sau:

“Theo tôi, mình nên kể về: Đức Giêsu là Đấng từng sống ở đất miền bị ngoại-bang chiếm đóng rất nhiều năm. Ngài sống chung đụng với giới nông-gia lao-động tới mức chỉ đủ sống và Ngài cũng thuộc vào thành-phần dân lành bị ức-hiếp ngày càng tệ. Xứ sở Ngài sống, là thế-giới có qui-chế không công-bằng và chẳng đồng đều. Với thế-giới như thế, Ngài đề ra lối sống thực-thụ mang thị-kiến thật rất khác.

Ngài mời mọi người hãy cùng Ngài chung sống cuộc đời như thế trong cộng-đoàn tự-do có  biết chữa-lành và sẻ-san cho nhau mọi của ăn/thức uống, ngang đồng và giống hệt nhau. Cộng-đoàn Ngài đề-xướng, có quyền-lợi ngang bằng nhau trước mặt Thiên-Chúa cũng như mọi người. Với đám con trẻ cùng nam phụ lão ấu, những người bị phong cùi cả những người cùng-cực, sầu-khổ vì nhiều thứ, Ngài vẫn mời họ cùng một kiểu: hãy đến ngồi cùng bàn ăn uống với Ngài, để được cứu-chữa và lĩnh-nhận những gì mình từng đem cho người khác. Cộng-đoàn Ngài thiết-lập, cũng tương-tự như Vương Quốc Nước Trời của Thiên-Chúa. Và, toàn dân gian cùng thế-giới cũng đều thế. Giả như Chúa, chứ không phải vua quan người phàm, đều trực-tiếp chịu trách-nhiệm. Đó, chính là ý Thiên-Chúa muốn thực-hiện ở dưới đất cũng như nơi Vương Quốc của Ngài.

Vương-quốc của Ngài được định-hình rất đúng cách, nên thế-gian phàm-trần mới là vấn-đề. Chính vì thế, Đức Giêsu không chỉ nói đến mỗi Vương Quốc, nhưng là thực-tại từng-trải cho mọi người. Ngài cắm chặng thị-kiến Vương Quốc vào đất miền của xã-hội do Ngài thiết-lập. Chính vì thế, thiên-hạ mới coi Ngài là nhân-vật lập ra cuộc cách-mạng không theo nghĩa quân-đội nhưng là xã-hội. Và, Ngài đã chết vì thị-kiến Vương Quốc ấy. Dù Ngài thách-thức rất mực sự sắp-xếp thông-thường về thế giới Ngài thiết-dựng cũng đã làm Ngài bị bắt giam bất cứ khi nào. Chỉ mỗi biểu-tượng Ngài đưa ra về việc phá-hủy đền thờ thôi, cũng đủ tạo cớ cho người Do-thái và quan quân La Mã đã xúi-giục dân-quân mọi người chống lại Ngài. Thật cũng khó tưởng tượng trường-hợp một nông-gia không tên tuổi như Đức Giêsu lại bị chà đạp đến nát bẹp ở đền Giêrusalem dưới thời Caipha và Philatô trị vì.

Những chuyện không ngờ như thế vẫn xảy ra vào cuối đời của bậc nông-dân chân-chính người Do-thái là Đức Giêsu vẫn không là đoạn-kết của mọi sự. Những người từng có kinh-nghiệm về quyền-uy của Thiên-Chúa qua cuộc sống với Đức Giêsu, vẫn tiếp tục trải-nghiệm như thế cả sau khi Ngài chết đi, nữa. Nay thì, quyền-uy ấy không bị giới-hạn bởi thời-gian và không-gian, nhưng vẫn được áp-dụng ở bất cứ nơi đâu với những người nhận ra Thiên Chúa sống-động nơi Đức Giêsu. Đó, là lý-do cho thấy: tại sao sử-gia ngoài đời khôn-khéo và trung-lập như Josephus lại đã chép sử vào cuối thế-kỷ thứ nhất, rằng: “Những người từng đến với Ngài đã yêu thương Ngài ngay từ đầu, vẫn không từ-bỏ tâm tình yêu thương Ngài và dân con của Ngài mãi đến hôm nay, không biến dạng”. (x. Richard G. Watts & John Dominic Crossan, Who is Jesus, w.w.w.wjkbooks.com)

Phối hợp đời đi Đạo vui tươi/cười nhiều với cuộc sống của Đức Giêsu lịch-sử, không là chuyện dễ làm. Không dễ, là bởi hai vấn-đề lâu nay chưa được các đấng bậc “bật đèn xanh“ cho phép, nên cũng khó. Khó hơn cả, là chuyện thuyết-phục mọi người trong/ngoài nhà Đạo vẫn vui tươi sống đời đạo-hạnh cách tươi vui/hấp-dẫn, vẫn là chuyện cần-thiết, rất nên làm.

Rất nên làm, không có nghĩa có thể làm được và được làm ngay trong lúc này. Tất cả vẫn phải chờ mình có quyết-tâm chọn lựa cuộc sống giống như thế, hay không. Chọn và lựa, rồi sau đó sẽ cộng thêm vào mình sức mạnh của Thần-khí vẫn yểm-trợ mỗi người và mọi người, trong đời. Nghĩ thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta cứ hiên-ngang đứng dậy mà hát lời tâm-huyết, những ca rằng:

“Cười lên đi em ơi!
Dù nước mắt rớt trên vành môi.
Hãy ngước mặt nhìn đời.
Nhìn tha-nhân ta buông tiếng cười.
Ta không cần cuộc đời.
Toàn những chê bai và ganh ghét.
Ta không cần cuộc đời.
Toàn những khoe khoang và thấp hèn.

Cười lên đi em ơi!
Cười để giấu những dòng lệ rơi.
Hãy ngước mặt nhìn đời.
Nhìn đổi thay ta vang tiếng cười.
Ta không thèm làm người.
Thà làm chim trên rừng hoang vắng.
Ta không thèm làm người.
Thà làm mây bay khắp phương trời.”

(Lê Hựu Hà – Cười Lên Đi Em Ơi)

Vâng. Hỡi bạn và hỡi tôi, dù ta không là người “Em” của nghệ-sĩ, hãy cứ cười. Cười, không phải để “che giấu những giọt lệ rơi”, dù không có. Nhưng, là tỏ cho mọi người thấy: mình “không cần cuộc đời, toàn những chê-bai và ganh ghét”, mà chỉ cần nụ cười trong mọi buổi vui. Vui, với mọi người, dù phút chốc có nụ cười góp giọng, trong chuyện đời nhiều lúc cũng đáng cười và rất vui. Vui, như truyện kể ở bên dưới, như sau:

“Hai vợ chồng Giám đốc nọ đang kể với nhau về đủ thứ chuyện trên đời, vui buồn lẫn lộn, bỗng dưng có tiếng chuông điện-thoại reo trên bàn giấy của Giám đốc. Ông bèn chậm rãi lấy tư-thế của một vị Giám đốc, dõng dạc hỏi:

-Ai đó, Giám đốc nghe đây.

Đầu giây bên kia, có tiếng rất trong lại lanh lảnh, hỏi nhỏ chỉ mỗi câu:

-Anh yêu của em đó hả?

Giám-đốc nhà ta thoáng chốc thấy tâm can mình rối bời, nhưng đã tự-chủ mà hỏi lại:

-Alô! Ai đó? Danh-sách khen thưởng công-nhân-viên hả? Có rồi đây!

-Sao anh cứ đùa với em hoài mãi thế, Anh còn thương em nữa không, em hỏi thiệt đó?

-Thứ nhất: Nguyễn Hoài Thương, nhé!

-Em đến với Anh ngay bây giờ được không?

-Thứ hai: Lê Văn Kẹt.

-Hay là, Anh qua đây với em lập tức có được hôông?

-Thứ ba, là: Đỗ Thị Bận.

-Thế thì, khi nào Anh mới đến được với em cứ nói đi!

-Thứ tư: Mai Tấn Tới.

-Thế cũng được, mấy giờ Anh tới được hả Anh?

-Cuối cùng, là: Nguyễn Văn Mười Hai.

Tay này, khi xưa là Giám-đốc hãng nước hoa Thanh-Hương, làm ăn lỗ lã nay về làm với hãng mình đấy. Được cái, hắn cũng chịu khó chịu cực.

Nói đến đó, ông Giám-Đốc quay sang người vợ hiền vừa cười vừa nói: Nhân viên văn-phòng, lúc này làm việc bê bối quá, căn dặn đủ điều là thế mà bọn họ cứ ngồi đùa giỡn nói nói cười cười, suốt cả ngày. Bận như thế mà còn cười được, kể cũng lạ, Anh đành chịu!”

Thế đấy! Quan-niệm của quan-chức ở cấp cao vẫn cứ bảo như thế. Như thế, tức như thể khi đã bận rộn, thì dù có siêng năng làm việc hoặc vui chơi/ca hát, cũng cấm cười.

Thế mới biết, trong cuộc đời bận rộn suốt quanh năm, nhiều người dù có muốn cũng chẳng dám cười. Chí ít, là người đi Đạo và giữ Đạo ở nhà thờ.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn chủ-trương

đi Đạo phải thoải-mái, vui tươi

Vẫn cứ cười.

Thế mới vui.

Trốn Trại (Phần 2)

Trốn Trại ( Phần 2)

Ngoài hai chỉ vàng của chị Đồ cho muợn, vợ tôi đưa luôn chiếc nhẫn cuới đang đeo ở tay đưa cho tôi, như vậy tôi mang luôn hai chiếc nhẫn cuới. Lúc đó cũng khoảng 3,4 giờ sáng, vợ tôi và má của Nghĩa cũng vẫn còn ngồi đâu đó để chờ sáng ra xe chạy. Long ngồi ở ngoài nên có cho tụi tôi biết là vợ tôi và má của Nghĩa khóc nhiều lắm, vì không biết chúng tôi đi làm sao, vì không ai có tiền hay có vàng đem theo, không biết rồi sẽ đi đến đâu. Riêng tôi thì tôi quyết ra đi mặc dầu không biết ra sao, nhưng vẫn còn tốt hơn là ở lại Việt Nam.

Sáng sớm hôm sau xe rời bến để đi Nam Vang, nhìn qua khe ván ở sàn xe trời còn lờ mờ nghe tiếng nguời nói lao xao mới biết là vừa qua khỏi Ngã Tư Bảy Hiền. Khi đến trạm kiểm soát biên giới thì họ chỉ xét qua loa vì đây là chuyến xe công tác chở đồ cho bộ đội VC. Xe chạy càng nhanh đống chiếu trên đầu càng đe nặng, vì cây gỗ chận trên đầu không còn ở nguyên vị trí củ, mà vì sự lúc lắc của chiếc xe đa làm lệch đi và hai đứa tôi phải đưa lưng chống đở sức nặng bên trên đè xuống. Tệ hại hơn nữa là dọc đuờng VC đón xe đi quá giang nên họ ngồi trên đầu chúng tôi. Nghe tiếng họ nói chuyện với nhau thì biết là VC đang ngồi ở ngay trên đầu mình. Chúng tôi phải rán đưa lưng ra chịu đựng, vì chỉ sợ nó sụp xuống thì bị lộ ngay, rất là nguy hiểm. Khi tiểu tiện thì phải đợi lúc xe chạy nhanh rồi mới dám tiểu qua khe hở của ván sàn xe mà phải tiểu từ từ để bên ngoài không thấy không biết.

Đến chiều thì xe tới nơi đậu vào một chổ nào đó mà tôi nghe có tiếng nhạc của những bản nhạc ngày xua. Tôi mừng thầm vì được nghe lại những tiếng hát quen thuộc đầm ấm nồng nàn tràn đầy kỷ niệm của ngày truớc. Tiếng nhạc hòa lẫn tiếng nguời nói chuyện lao xao gần bên cạnh xe. Chúng tôi vẫn nằm im trong xe chờ khi nào có hiệu lệnh của Long thì mới ra đuợc. Một hồi lâu sau khi bên ngoài hoàn toàn im vắng và khi nghe ba tiếng hiệu lệnh của Long thì chúng tôi chui ra. Khi nhảy xuống xe, tôi không thể đứng được vì bị ngồi lâu trong thế co ro nên chân bị tê cứng, mà Long thì thúc hối phải đi khỏi nơi đây ngay vì sợ tài xế và an ninh đoàn xe họ biết, nên tôi và Nghĩa phải cố lết đi ra khỏi xe thật xa.

Nhìn chung quanh, đây là một bồn binh khá lớn ở cuối đại lộ, bên cạnh một sân vận động, xe đậu một đoàn dài chừng vài chục chiếc, tài xế và lơ xe khá đông, có nhiều xe họ mang theo cả gia đinh vợ con với đồ đoàn nồi niêu soong chảo, nên tôi thấy cũng dễ trà trộn ẩn thân. Tối đó tôi và Nghĩa ngủ ở một đám cỏ bên cạnh đường khoảng giữa đoàn xe và không dám gần xe nào cả vì sợ họ báo với an ninh đoàn xe.

Ngay tối hôm sau, tôi bán chiếc nhẩn cuới đuợc 75 đồng Riel, tiền Kampuchia, và nhờ Long môi giới mời một số tài xế lơ xe ra quán nuớc uống cà phê nghe nhạc, để tìm cách lân la làm quen gây cảm tình với họ. Tôi và Nghĩa đóng vai lơ xe, bạn với Long. Vì Nghĩa cũng là lơ xe nên nói chuyện dễ dàng, còn tôi thì cảm thấy hoàn toàn xa lạ, nên trong các câu giao tiếp tôi thuờng cuời nhiều hon là nói vì sợ bị bại lộ tông tích.

Ban ngày thì ra chợ Nam Vang, bữa đầu thì đi bằng xe lôi cho mọi nguời thấy, và vì không biết đường, mấy lần sau thì đi bộ. Đi ngang qua mấy con đuờng rất đẹp với hai hàng cây phủ mát bên đuờng, với những ngôi biệt thự sang trọng kiến trúc theo kiểu villa của Pháp, giống nhu khu đường Duy Tân, Yên Đổ ở bên xứ mình. Mấy ngôi nhà sang trọng đó bây giờ là dinh của VC, treo cờ đỏ sao vàng và có lính canh truớc cổng. Mỗi khi đi ngang qua thấy hơi chùng chân vì sợ nó hỏi giấy tờ bất tử.

Uống nuớc phong tên ở gần đó, ăn cơm thì mua của mấy gánh bán hàng rong, cơm một dĩa 10 đồng Riel. Ra ngoài chợ thì đi lòng vòng coi nhìn cái này cái nọ cho hết thì giờ, thỉnh thoảng công an chạy ruợt đuổi bắt người ở trong chợ, làm mình cũng sợ giật mình. Tôi thì có ý định tìm mua một quyển sách địa lý để coi bản đồ vùng Battambang, Siem Rệp, vùng biên giới Thái Lan. Họ bày bán sách cũ rất nhiều nhưng đều là tiếng Miên. Tôi lựa xem mấy cuốn sách có hình bản đồ rồi mua một quyển. Nhưng vì tôi không biết tiếng Miên mà mua sách Miên trong đó có hình bản đồ địa lý, nên họ có ý nghi ngờ. Mua xong tôi lật đật đi bộ về chổ đậu xe vì sợ họ báo với công an chợ. Sau khi nghiên cứu bản đồ để biết địa thế, đường đi nuớc buớc, cũng như khoảng cách bao xa. Tôi cố học thuộc lòng vùng Battambang, Siem Rep, vùng gần biên giới Thái Lan, rồi xé bỏ quyển sách đó ngay.

Lúc bấy giờ bên Miên hoàn toàn do VC kiểm soát, thỉnh thoảng có mấy tên lính Miên trẻ mặt còn non choẹt, mang khẩu AK dài đụng tới đất. Ở đây họ mắc loa phóng thanh cứ sáng sớm và chiều tối là nghe tiếng nhạc Miên, một âm điệu đều đều nghe buồn não ruột, nghe nhớ nhà, nhớ vợ nhớ con, nhớ quê hương mình vô cùng. Cuộc đời tôi cũng không ngờ lại lưu lạc đến noi đây, xứ lạ quê nguời, rồi cũng không biết ngày mai sẽ ra sao. Nghĩ lại thân phận mình, lêu bêu bình bồng, mà cảm thấy buồn vô hạn.

Tôi lân la mấy quán nuớc làm quen hỏi chuyện để tìm đuờng đi, thì đuợc biết là xe lửa chạy từ Nam Vang lên Battambang đã bị giật mìn không còn chạy nữa, bây giờ chỉ còn đuờng xe, nhưng VC đặt rất nhiều nút chận kiểm soát để chận bắt đào binh, nên rất khó mà lọt qua đuợc. Tôi ra phía đầu thành phố đường đi về huớng Battambang để xem trạm kiểm soát họ xét ra sao. Tôi thấy rất ít xe đi về phía đó và họ kiểm soát rất kỹ. Xe thì không thấy loại xe đò chở khách, mà toàn là xe chở hàng hay xe quân sự. Vả lại tôi không biết tiếng Miên nên rất ít hy vọng thoát qua đuợc, giá mà còn xe lửa thì tốt hơn.

alt

Ở đây đuợc ba ngày thì nghe tin đoàn xe được lệnh đi xuống hải cảng Kompong Som tức là Sihanoukville. Tôi không biết hải cảng này ra sao, nhưng nghe nói ở đó có tàu ngoại quốc ra vào. Trước đó tôi có dọ hỏi đuờng lên Battambang, thì họ nói là phải có nguời dẫn đuờng và phải trả bằng vàng, ít nhứt là hai lượng.  Trong mình tôi chỉ đuợc hai chỉ vàng thì làm sao mà đi và hơn nữa chúng tôi không biết tiếng Miên nên rất khó khăn, thành ra tôi đã bỏ ý định đi lên Battambang. Bây giờ nghe tin đi xuống hải cảng Kampong Som thì tôi thấy cứ đi đại xuống đó rồi sẽ tính sau, dầu sao ở hải cảng cũng còn có hy vọng hơn.

Buổi trua hôm đó tôi và Nghĩa ra chợ mua một nải chuối, lên chùa Năm Tháp gần đó để cúng Phật, để cầu xin Đức Phật Từ Bi độ trì đưa đuờng dẫn lối cho chúng tôi thoát ra đuợc khỏi nạn cộng sản. Sau khi quỳ lạy cầu nguyện Đức Phật xong, khi đứng lên là không còn thấy nải chuối đâu hết, mà trong lúc chúng tôi quỳ lạy thì có nguời tới chớp nải chuối đi mất thật là nhanh.

Đêm đó suy tính cách theo xe để đi, vì Long bảo phải tìm xe khác mà đi, chứ không được đi theo xe cũ vì sợ tài xế biết. Trong thời gian mấy ngày ở đó tôi cũng đã quen biết nhiều nên họ nhận cho tôi đi theo. Đoàn xe đi đến trạm kiểm soát thì ngừng lại để xét truớc khi ra khỏi thành phố, nhưng vì đoàn xe này có sự vụ lệnh đi công tác xuống hải cảng để chở hàng cho bộ đội VC nên không bị lục soát hay hỏi han gì và qua trạm kiểm soát này một cách dễ dàng.

Trên đuờng đi VC đóng đồn dọc theo đường, thỉnh thoảng đón xe quá giang, nhưng tôi ngồi phía trước chung với tài xế và lơ xe, nên rất là yên tâm. Trên xe bác tài có khoe một khẩu súng AK47 đuợc phát cho mỗi xe, nhưng chưa chắc là bác tài đã biết sử dụng. Tôi nhớ bữa đó trời mua tầm tả và xe bị hư máy phải dừng lại để sửa chữa, nhưng bác tài rất rành nghề chỉ sửa một chút là xong ngay, nhưng phải câu một bình xăng phụ ở bên ngoài. Đến chiều thì xe đến hải cảng Kampong Som, xe dừng trước cổng trên con đường lộ đá dẫn vào hải cảng. Khi xe vừa đến nơi thì tài xế và lơ xe đi vô cổng một cách tự nhiên mà không bị hỏi giấy tờ gì hết, nên tôi, Long và Nghĩa cũng đi theo vô trong hải cảng một cách dễ dàng.

Hải cảng này ở xa khu dân cư, có mấy lớp hàng rào kẻm gai bao bọc chung quanh, và một trạm kiểm soát tại cổng chính ra vào, với một số công an biên phòng VC canh gác. Đóng trên một ngọn đồi gần đó là một đồn công an biên phòng. Bên trong hải cảng là một bến đá, xây bằng đá tảng, để tàu cặp bến. Tôi cố nhìn thật kỹ quanh bến tàu để tìm xem có chiếc tàu nào của nuớc tự do, nhưng tôi chỉ thấy toàn cờ đỏ búa lìềm, toàn cờ cộng sản, thật là thất vọng vô cùng. Gần bến tàu là hai nhà kho rất lớn bằng sắt cất theo kiểu tiền chế của Mỹ. Có một đuờng rầy xe lửa, và ở phía trong xó góc có vài toa xe lửa bỏ không, không thấy nguời lai vãng, gần đó có một phong tên nuớc. Ở phía ngoài cổng bên cạnh con đuờng lộ đá là một cái ao khá lớn, mà thỉnh thoảng thấy có công an đến câu cá. Chiều tối đó tôi trở ra xe để ngủ qua đêm.

Sáng sớm hôm sau xe vô đậu truớc nhà kho lớn để chất hàng lên. Họ chất lên những bao bắp hột do nhân đạo quốc tế viện trợ để cứu đói cho dân Kampuchia, nay thực phẩm đó đuợc dùng để nuôi ăn cho bộ đội VC. Tôi chỉ còn bửa nay để đi lại thong thả trong hải cảng này, đến sáng mai khi đoàn xe đi rồi thì tôi không còn chuờng mặt ra đây đuợc nữa, vì bọn công an thấy sẽ biết ngay.

Chúng tôi đang lân la trong hải cảng thì bỗng có một chiếc tàu tuần của công an biên phòng VC vào cặp bến để lấy nước ngọt ở cái phong tên nuớc. Khi đó họ có hỏi tụi tôi, có muốn mua mấy món đồ lậu như ruợu, thuốc lá, đồng hồ, máy radio cassette v.v….Chúng tôi làm bộ nhận chịu, nhưng hẹn với họ ngày mai sẽ gom tiền cho nhiều để mua một lần cho tiện. Họ nghe nói thế tuởng là trúng mối to. Sau khi lấy nuớc xong là họ đi, truớc khi rời bến họ rủ chúng tôi lên tàu. Long nhanh chân nhảy lên truớc, tôi còn đang luỡng lự ngần ngừ, vì không biết họ đi đâu và đi làm cái gì, họ không nói gì cả, chỉ rủ lên tàu để đi thế thôi. Long đã ở trên tàu rồi nên thúc hối tôi lên tàu. Khi tàu mở dây cột tàu sắp chạy và vì sự thúc hối của Long nên tôi cũng nhảy lên theo, còn Nghĩa thì không đi.

Tàu chạy ra ngoài, nghe họ kể về những chuyện đi bắt ghe tàu vuợt biên. Họ đã bắt rất nhiều ghe tàu vuợt biên và lên giọng rất là sắt máu. Nguyền rủa những nguời vuợt biên là bọn phản quốc, chạy ra nuớc ngoài, bám chân đế quốc để ăn bơ thừa sữa cặn v.v… Tôi thầm nghĩ đến những chiếc ghe tàu vuợt biên nếu bị chiếc tàu tuần này bắt, thì coi như là thân tàn ma dại. Có những chuyến ghe tàu vuợt biên bị công an VC xả súng tàn sát mặc dầu họ biết đa số là đàn bà con trẻ.

Họ dẫn chúng tôi xuống hầm tàu để quảng cáo mấy món hàng mà chúng tôi hứa sẽ mua. Tàu chạy một lúc rồi cặp bến vô đậu trong căn cứ hải quân của chúng, rồi bảo chúng tôi lên bờ. Tôi cứ tuởng là tàu trở lại bến cũ cho mình lên, ai dè lại vô căn cứ VC nên cũng hơi ngại ngại. Hai đứa tôi đi ra cổng và đi theo con đuờng lộ đá dẫn vô bờ. Căn cứ này nằm xa bờ chừng vài chục thuớc, có con đuờng lộ đá làm bằng những tảng đá núi mà xe loại lớn có thể chạy đuợc.

Vô tới bờ đi bộ nguợc trở về hải cảng, dọc theo bờ biển thấy có một xóm chài, có một số tàu đánh cá, hai đứa tôi vô hỏi thăm. Lên một chiếc tàu thì gặp một nguời có mang một khẩu súng AK47, lỡ rồi nên tôi làm bộ hỏi để mua cá. Anh này nguời Miên gốc Việt nên nói được tiếng Việt. Anh ta ngó tới ngó lui rồi hỏi tụi tôi có muốn vuợt biên không. Chắc có lẽ họ thấy bộ dạng mình vô đây là định tìm đuờng vuợt biên nên mới hỏi thẳng như vậy. Thấy anh ta có súng thì hơi sợ, nhưng trong bụng thì muốn tìm cơ hội để đi, nên tôi cũng trả lời lưng chừng là bây giờ mà tính chuyện vuợt biên đâu phải dễ, tụi tôi ở đoàn xe vận tải đang đi công tác ở hải cảng. Ông ta tiếp thêm là nếu muốn vuợt biên thì ba ngày nữa trở lại đây rồi họ sẽ đưa ra hải đảo, ở đó họ sẽ chuyển qua tàu đánh cá Thái Lan, mỗi nguời hai lượng vàng, ba ngày nữa tàu sẽ ra khơi, nếu muốn đi thì lại đây. Nói xong ông ta cho một con cá to và hối tụi tôi đi ngay, vì ở đây lâu không tiện dễ bị nghi ngờ.

Tôi và Long trở về hải cảng, trên đuờng đi thỉnh thoảng gặp các toán tuần tiểu của công an biên phòng, họ đi tuần tra dọc theo bờ biển. Chúng tôi giả vờ mò cua bắt cá trong các hóc kẻ đá, khi họ đi qua khỏi rồi thì tiếp tục đi. Đi bộ một đoạn đường khá xa chừng vài cây số. Khi về đến chỗ đậu xe thì thấy có gánh bán cơm, tôi đổi cho họ con cá để lấy hai dĩa cơm. Sau khi ăn xong, tôi bàn với Long và Nghĩa là tối nay phải vô ngủ ở trong hải cảng, vì sáng sớm đoàn xe sẽ chạy trở về Nam Vang, khi đó thì mình không còn có chỗ ẩn thân ở bên ngoài đuợc. Long và Nghĩa thì có ý định trở lại Nam Vang, rồi trở về Việt Nam kiếm thêm tiền, vàng rồi trở qua đây, để đi theo mấy ghe tàu đánh cá. Riêng tôi thì tôi quyết tâm ở lại, kiếm chỗ ẩn náu quanh đây, may ra có dịp tìm đường đi, chớ quay trở lại Việt Nam thì không thể đuợc. Tôi quyết tâm là sẽ đi tới mãi chớ không quay lui. Riêng Long và Nghĩa đều là lơ xe nên chuyện đi hay trở về đều không có gì là nguy hiểm cả. Sau khi bàn tính một lúc thì Long và Nghĩa đồng ý ở lại vì thấy tôi quá quyết tâm. Chúng tôi mua ba ỗ bánh mì và lấy theo một bình nuớc rồi vô trong hải cảng ngay, truớc khi trời tối.

Tôi đã để ý từ truớc thấy có mấy goong xe lửa bỏ không ở một xó góc không có nguời lui tới. Vì vậy chúng tôi đợi đến khi trời tối, kín đáo lẻn vô trong toa xe đó và trốn luôn trong đó. Ngồi trong goong xe nhìn qua khe ván thấy đồn công an canh gác ở cổng cũng không xa lắm, vì vậy chúng tôi phải giữ gìn thật hết sức im lặng, đề phòng thật kỹ luỡng. Trong những lúc nguy hiểm tôi thuờng cảnh giác thức suốt đêm, quan sát nghe ngóng mọi động tịnh bên ngoài. Sợ khi ngủ hết, lỡ mà có nguời nào ngủ mớ la hoảng hay phát ra tiếng ngáy thì nguy hiểm lắm.

Khi trời sáng hẳn, tiếng đoàn xe rời hải cảng để trở về Nam Vang. Lúc bấy giờ bên ngoài không còn nguời lui tới, không còn thấy bóng dáng tài xế hay lơ xe nữa, vì vậy chúng tôi phải ẩn mình cho thật kỹ.  Chúng tôi nằm im trong toa xe lửa đó, buổi trưa trời nóng như thiêu, chúng tôi cởi trần, nhờ khe ván hở nên cũng không đến đỗi nào. Tôi chỉ sợ nếu có nguời muốn sử dụng goong xe này, họ đến kéo đi thì rất là nguy, chúng tôi sẽ bị phát giác ngay.

Cho đến chiều thì may quá có một đoàn xe khác xuống cùng vào đậu ở phía cổng như truớc. Tôi mừng quá vì lại có dịp ra ngoài trà trộn với đám tài xế lơ xe mà không ai để ý. Và cũng vào khoảng  4 , 5 giờ chiều hôm đó, bỗng đâu xuất hiện một chấm đen từ ngoài biển khơi đang tiến dần vô bờ, càng lúc càng lớn dần và sau cùng hiện rõ ra một chiếc tàu đang huớng vô hải cảng, rồi từ từ cặp vào bến đá. Một chiếc thương thuyền quá lớn mang tên PEP STAR, đặc biệt là lá cờ trên tàu không phải là cờ đỏ búa liềm, chắc chắn không phải là tàu cộng sản. Hơn nữa chữ PEP STAR có vẻ là tiếng Anh hơn là tiếng Nga.

alt

Sau khi tàu cặp bến xong xuôi, thấy có nhiều nguời đi lại gần chiếc tàu, khi đó tài xế và lơ xe ra vô tấp nập. Trời đã tối chúng tôi chui ra khỏi chỗ trốn và tìm cách lại gần chiếc tàu. Lúc đó có nhiều công nhân nguời Miên đang lên tàu, tôi liền hỏi nguời thủy thủ trên tàu họ cho biết là tàu của nuớc Đan Mạch, mà Đan Mạch là một nuớc ở Âu Châu, nên tôi yên trí chắc chắn không phải là một nuớc cộng sản, tôi mừng quá vì có thể xin tị nạn đuợc.

Trong bóng tối chúng tôi ngồi ở xa xa nhìn lên chiếc tàu thấy công nhân nguời Miên lên xuống theo chiếc cầu sắt cặp sát bên hông tàu. Ở trên tàu ngay chỗ đầu cầu lên xuống có hai tên công an đang đứng canh gác kiểm soát mọi nguời lên xuống rất là kỹ lưỡng. Tôi tập trung quan sát mọi hoạt động trên tàu để tìm cách lẻn trốn lên tàu, nhưng rất là khó khăn vì hai tên công an đang canh gác quá kỹ. Nếu lở lên tàu mà chúng bắt tại trận thì hết đuờng chối cãi chỉ có nuớc vô tù, mà riêng tôi thêm tội trốn trại nữa thì chắc chúng sẽ không tha.

Kể từ khi chui ra khỏi hàng rào ở trại tù Tống Lê Chân cho đến bây giờ là tôi đã vuợt đuợc một quảng đuờng khá xa, đã ra khỏi nuớc và ra đến biển và con đuờng duy nhất là phải lên cho bằng đuợc chiếc tàu này.  Nhìn lên trên tàu mà thèm thuồng uớc gì mình đuợc trốn vô nằm trong chiếc thuyền cấp cứu đang treo lủng lẳng đong đưa trên đó thì quá kín đáo. Tôi cứ nhìn hoài, tàu này chở những chiếc xe truck, chỉ có phần đầu máy với cái suờn phía sau. Đây là những chiếc xe viện trợ nhân đạo của Liên Hiệp Quốc. Cần trục trên tàu đang hoạt động liên tục đang bốc hàng xuống, mỗi lần một chiếc xe, cho nên rất là nhanh. Theo tôi nghĩ thì trong đêm nay sẽ bốc hàng xong và ngày mai tàu sẽ đi, mà tàu của các nuớc Âu Châu thì hiếm khi vào hải cảng của nuớc cộng sản này.

Trời tối dần mà Long và Nghia thì cứ hối thúc hoài, định leo đại theo dây cột tàu mà ra tàu. Nhưng đèn pha chiếu sáng khắp tứ phía thì làm sao mà leo ra đuợc, mà làm sao thoát hết đuợc ba đứa. Rồi Long lại tính đuờng nhảy xuống nuớc bơi qua bên kia thành tàu rồi tìm cách leo lên tàu. Tàu thì cao sừng sững đâu có dễ gì leo lên được, mà chung quanh đèn chiếu sáng choang, vừa nhảy xuống nuớc là bị bắn liền chứ đừng nói gì tới bơi ra tàu.

Tôi cứ chờ đợi dịp thuận tiện, mắt tôi cứ dán sát vào hai tên công an đang đứng gác trên tàu, một tên mang súng AK47, còn một tên mang K54 có lẽ là cán bộ. Quan sát theo dõi họ thật kỹ để mong tìm một chút sơ hở, nhưng mỗi lần có ai lên tàu là nó chận lại xét hỏi rất kỹ càng. Với lại mình không biết tiếng Miên, không giống nguời Miên, nên khó qua mặt đuợc nó.

Bỗng dưng trời xui đất khiến hai tên công an này đồng lúc rời bỏ vị trí buớc vô trong cabin tàu. Tôi vụt chạy lên tàu tức khắc kéo theo Long và Nghĩa. Khi lên đuợc trên tàu chúng tôi chạy băng qua bên kia thành tàu và tìm chỗ ẩn trốn, thì khi đó hai tên công an lại trở ra canh gác như cũ, nhưng chúng chỉ nhìn về phía cầu thang lên xuống, chứ không để ý gì về phía chúng tôi. Tôi nhìn quanh quất không thấy có chỗ nào để ẩn thân, không thể chui vô đống dây luột hay đống cây gỗ bên cạnh đó, vì dấu đầu lòi đuôi không thể che dấu hết ba nguời. Nhìn xuống hầm tàu thì thấy nhân công Miên đang làm ở duới đó và không thể lẫn quẫn ở đây lâu đuợc vì thủy thủ hay công nhân Miên bất chợt họ thấy họ sẽ nghi.

Ở trên tàu có hai cần trục một cần trục ở phía bên kia đang hoạt động liên tục, còn một cần trục phía gần bên tôi thì không hoạt động. Ở phía trên là phòng điều khiển bằng kiến, ở bên duới là phòng máy, có một lỗ tròn vừa nguời chun vô, tôi liền thử chui vô rồi kéo Long và Nghia vô theo. Tôi cố ép sát nguời vô trong để vừa đủ chỗ cho ba đứa ẩn mình. Lần lần tôi dọn dẹp các lon dầu, đồ đạt dụng cụ để chui sâu vào trong. Nếu có ai bất chợt đi ngang qua thì sẽ không thấy chúng tôi đuợc, nhưng nếu ló đầu vô trong thì sẽ thấy ngay. Hơi yên tâm một chút, lúc đó chắc cũng vào khoảng 11, 12 giờ đêm.

Cần trục bên kia vẫn còn đang tiếp tục hoạt động, độ một giờ sau thì chấm dứt. Sau đó công nhân lần luợt rời khỏi tàu, duy chỉ còn hai tên công an vẫn đi tới đi lui canh gác bên kia thành tàu. Sau đó nắp hầm tàu đuợc đóng lại, nắp hầm tàu làm bằng những lá sách bằng sắt nó chạy từ trong ra ngoài nghe rền vang. Sau khi nắp hầm tàu đậy xong, bây giờ chúng tôi có thể chui vô sâu thêm nằm truờn mình trên nóc hầm tàu và mọi sự trở lại vắng lặng hoàn toàn.

Tôi suy nghĩ, truớc khi tàu rời bến chắc chắn công an biên phòng và quan thuế sẽ kiểm soát rất kỹ, cho nên tôi phải tìm chỗ trốn khác kín đáo hơn, chớ không thể trốn ở đây đuợc. Lúc còn ở duới nhìn kỹ mọi hoạt động trên tàu, tôi thấy thỉnh thoảng có thủy thủ lên xuống ở phía truớc mủi tàu, như vậy phải có cầu thang lên xuống ở mũi tàu.

Đợi đêm thật khuya vắng lặng, tôi dặn dò Long và Nghĩa từng nguời một lần luợt chui ra và phải chờ khi nào công an quay lưng lại thì mới cho chui ra. Bò theo thành tàu, bò ra phía truớc mũi tàu để tìm cầu thang đi xuống hầm tàu. Trên tàu rất trống trải mà đèn thì sáng choang, do đó phải bò thật thấp để không thấy lộ hình lên trên nền trời. Sau cùng tôi đợi khi tên công an vừa xây lưng lại là tôi chui ra sau cùng, bò dọc núp duới thành tàu đến gần mủi tàu thì thấy có một cửa nhỏ, tôi mở chốt cửa rồi chui vào trong, có một cầu thang bằng sắt hình khu ốc, tôi lần theo xuống.

Xuống đến hầm tàu thì tôi thấy Long và Nghĩa nằm dài ở đó. Đây là khoang tàu nơi chứa hàng, sau khi hàng bốc đi rồi thì trống trơn không có chỗ nào để ẩn thân, mấy cây cột bằng sắt cũng không lớn đủ để che thân. Tôi thấy trốn ở đây không đuợc vì sẽ bị lộ ngay. Tôi lần theo cầu thang khu ốc để đi xuống nữa, thì khi xuống duới đáy hầm tàu, tôi thấy có một đống cây gỗ ở ngay mũi tàu, tôi mừng quá vì tìm đuợc chỗ trốn tốt. Tôi sắp lại đống cây gỗ để chừa ra một lỗ trống, đủ chỗ để cho ba đứa chui vào, xong rồi kéo thanh gỗ đậy lại, trông giống như cũ, không có dấu vết gì khả nghi. Lúc đó chắc khoảng 3, 4 giờ sáng, tôi nằm im trong đó, không dám ngủ và dặn kỹ Long và Nghĩa phải giữ thật im lặng, không được thở mạnh hay ho hen.

Độ khoảng 6 giờ sáng, tôi nghe tiếng lộp cộp đi xuống cầu thang, họ quét đèn lên trên đống cây, nhưng không thấy gì khả nghi, họ bỏ đi trở lên. Một lúc sau nữa tôi nghe tiếng còi tàu hụ lên ba tiếng, tôi mừng quá vì “tàu souffler ba là tàu ra cửa biển”. Một hồi sau tôi nghe tiếng sóng nước rào rào ở mủi tàu, tôi chợt biết là tàu đã chạy. Vì đang ở mủi tàu nên tôi không nghe tiếng máy tàu, mà chỉ nghe tiếng sóng nước đập vào thân tàu nghe rào rào và càng lúc càng mạnh. Đến một hồi nữa nghe ầm ầm, tôi biết là tàu đang chạy nhanh, đang rẽ sóng ra khơi. Một hồi sau chúng tôi chui ra khỏi đống cây gỗ.

Tôi định chờ một ngày một đêm rồi mới lên trình diện vì sợ nếu còn trong hải phận Kampuchia hay Việt Nam, thì họ có thể kêu tàu tuần đến bắt chúng tôi. Nhưng đến chiều thì Long bị ói mửa vì say sóng, càng lúc càng nặng, mặc dù trong bụng không còn thức ăn, chỉ ói ra nuớc, ói ra mật xanh. Sau cùng Long năn nỉ tôi phải lên trình diện, nếu không sẽ chết. Lúc đó tôi nghĩ là tàu đã chạy đuợc khoảng 8, 9 tiếng đồng hồ, chưa được xa lắm, chắc là còn trong hải phận Việt Nam, nhưng vì Long năn nỉ quá, nên sau cùng tôi đành phải lên trình diện.

Một mình tôi lên truớc, theo cầu thang khu ốc để lên và khi vừa chui ra khỏi cửa ở mủi tàu nhìn lên phía phòng lái bằng kính, tôi thấy nguời hoa tiêu đang nhìn xuống phía chỗ tôi, chỗ mũi tàu. Tôi tức tốc tìm cách đi thật nhanh lên đó ngay, vì sợ họ kêu tàu tuần đến bắt. Tôi đi thật nhanh, leo lên cầu thang lên tầng trên cùng và đi thẳng vô phòng lái.

Thấy tôi vừa buớc vô phòng hoa tiêu, ông ta nỗi giận dậm chân đùng đùng, bấm còi báo động. Ông hỏi tôi là ai, làm gì vô đây. Tôi liền trả lời tôi là sĩ quan Việt Nam trốn từ trại tù ở Việt Nam sang Kampuchia và trốn xuống tàu hồi đêm qua, tôi xin được tị nạn. Nhờ tôi nói bằng tiếng Anh, mặc dù không được trôi chảy, nhưng cũng hiểu đuợc phần nào. Lúc đó quần áo mặt mày tôi lem luốt dính đầy dầu nhớt, mạt cưa trông không giống ai. Tôi nói tiếp tên họ số quân của tôi và tôi đã học khóa Bộ Binh Cao Cấp tại truờng Fort Benning, tiểu bang Georgia, Hoa Kỳ và xin ông vui lòng liên lạc với tòa đại sứ Mỹ nào gần đây thì sẽ xác đinh đuợc lý lịch của tôi. Tôi xin ông một điều là nếu ông không nhận cho tôi tị nạn, thì xin ông bỏ tôi xuống biển, chớ đừng gọi tàu tuần đến bắt tôi, vì họ sẽ giết tôi.

Sau khi nghe tôi trình bày sự việc, tình hình bắt đầu lắng dịu, tôi liền nói thêm là hiện còn có hai nguời nữa còn đang trốn duới hầm tàu. Ông ta lại nỗi giận lên, kêu nguời đi xuống dẫn Long và Nghĩa lên. Long và Nghĩa đuợc dẫn lên ngồi trong góc, trông rất thãm não, mặt mày xanh xao, quần áo lem luốc bẩn thỉu. Xong rồi ông Thuyền truởng gọi báo về công ty, một lúc sau thì công ty chấp nhận cho chúng tôi tị nạn. Tôi mừng quá đỗi, coi như được sống lại và tôi có hỏi ông là hiện giờ tàu đang ở đâu, có còn trong hải phận Việt Nam không, thì ông chỉ cho tôi thấy một hòn đảo trông mờ mờ từ xa đó là đảo Thổ Chu của Việt Nam và ông cũng nói thêm rằng là kể từ bây giờ không ai có quyền lên tàu này để bắt chúng tôi lại, vì đây là tàu của Đan Mạch là đất nuớc Đan Mạch.

Một số thủy thủ đứng chung quanh, nghe thấy, dần dần họ có cảm tình với chúng tôi, họ đưa cho quần áo giày dép rồi dẫn chúng tôi đi tắm. Cho chúng tôi vô ở trong một căn phòng, đây là phòng của một ông kỹ sư đã đi phép. Trên giường nệm có hai tấm nệm tôi lấy một tấm đặt xuống sàn nằm ngã lưng xuống một cách thoải mái tuyệt trần. Một lúc sau chúng tôi được dẫn đi ăn, một bửa ăn thật tuyệt diệu trong đời, trong đó có cơm chiên dương châu và mấy khúc cá thu hấp rất thơm ngon chưa từng có. Đây là một bửa ăn tuyệt diệu nhất, tự do nhất, thoải mái nhất, mà tôi cảm thấy như đuợc sống lại sau bao nhiêu ngày trốn tránh lang thang vất vả căng thẳng tột cùng, có đôi khi gần nhu tuyệt vọng.

Sau khi ăn xong bửa cơm tuyệt diệu đó, chúng tôi đuợc dẫn đi thăm viếng tàu. Truớc hết đến phòng ông thuyền truởng, ông rót ruợu uống mừng cho chúng tôi đã thoát nạn cộng sản và chụp hình lưu niệm. Sau đó đi tiếp qua các phòng và được biết trên chiếc tàu này có nhiều nguời thuộc quốc tịch khác nhau như Hòa Lan, Đan Mạch, Ba Tây, Phi Luật Tân v.v….Các thủy thủ trên tàu cho chúng tôi xem hình ảnh gia đình của họ và chuyện trò rất là thân mật, thật là hết sức lịch sự và đầy tình nhân ái. Nghĩa có mang theo một số tiền Việt Nam không còn xài được nữa, nên mới đưa cho các thủy thủ. Họ rất tốt bụng đã cho lại chúng tôi mỗi nguời 20 US dollars và chọn cho chúng tôi mỗi đứa một bộ đồ vừa vặn đẹp đẽ để mặc khi lên bờ.

Chúng tôi được cho lên phòng hoa tiêu để ngắm nhìn hoàng hôn trong buổi chiều tàn, nhìn mặt trời lặn trong cảnh nuớc trời bao la, thật là tuyệt đẹp, mà tuởng chừng như trên chốn bồng lai tiên cảnh nào vậy, trong khi con tàu đang luớt sóng thật êm đềm. Đây là một chiếc thương thuyền rất lớn nên chạy thật là êm ái, khác xa với cảnh tuợng của những chiếc ghe vuợt biên bé nhỏ, chở đầy nguời, bập bềnh trên biển cả mênh mông, sóng gió hãi hùng, và còn phải lo sợ bị hải tặc hảm hiếp, cuớp của giết nguời thật là ghê rợn.

Buổi tối hôm sau tàu tiến vô một hải cảng với muôn ngàn ánh đèn rực rỡ, trong một vùng vịnh bao la, với vô số thương thuyền tàu bè đủ loại, trông thật hùng vĩ huy hoàng tráng lệ. Đó là hải cảng Singapore. Theo thủ tục của luật di trú thì chúng tôi phải vô trong phòng và thuyền truởng sẽ khóa cửa lại, để giử chúng tôi trong đó. Tuy nhiên nếu có cần gì thì cứ gọi, thỉnh thoảng có nguời đến thăm chừng, thật là hết sức lịch sự tử tế và chu đáo vô cùng.

Chừng vài tiếng đồng hồ sau thì có hai nhân viên của sở di trú Singapore đi xuồng máy ra lên tàu và mở khóa cửa phòng, thẫm vấn chúng tôi và làm thủ tục giấy tờ, xong rồi họ đi ngay. Sau đó thì có một phái đoàn của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, UNHCR, xuống phỏng vấn và làm thủ tục. Tôi trình bày bằng tiếng Anh, nhưng bất ngờ nguời đó trả lời bằng tiếng Việt và bảo tôi cứ nói bằng tiếng Việt Nam đuợc rồi. Tôi mừng quá vì đuợc gặp nguời đồng hương, sau này tôi đuợc biết đó là cô Bích làm việc trong văn phòng Cao Ủy Tị Nạn ở Singapore. Khi làm thủ tục giấy tờ, và trong nguyện vọng xin đi định cư nuớc nào, thì tôi xin đuợc đi Mỹ, vì hiện tôi có một đứa em đang ở Mỹ, và tôi cũng đã từng du học ở Mỹ, nên nghĩ rằng sẽ đuợc cứu xét dễ dàng hơn. Chúng tôi ngủ thêm một đêm trên tàu và sáng hôm sau thì có nguời của Cao Ủy Tị Nạn ra đón ba đứa tôi lên bờ, tôi còn nhớ đó là cô Robin, nguời nuớc New Zealand.

Sau một thời gian 22 ngày đêm vuợt thoát từ trại tù Tống Lê Chân, nay tôi được đặt chân lên một đất nuớc tự do là nuớc Singapore vào ngày 27 tháng 6 năm 1980. Chúng tôi đuợc đưa về tạm trú ở khách sạn YMCA. Ở đây hiện có chừng muời nguời Việt Nam tị nạn cũng mới đến chừng vài ngày truớc và họ giao nhiệm vụ cho tôi làm thông dịch viên. Điều đầu tiên là tôi ra Bưu điện để đánh điện tín về Việt Nam cho gia đình tôi biết tin. Vì có tiền 20 dollars nên tôi gọi taxi ra Bưu điện và gởi điện tín về cho vợ tôi với nội dung nhu sau: “Đã giải phẩu xong bình an” , đó là câu mật hiệu để cho vợ tôi biết là tôi đã thoát nạn và đã đến nơi an toàn. Điện tín này đã đến nhà tôi vào ngày 30 tháng 6 năm 1980. Vợ tôi hết sức vui mừng khi nhận đuợc điện tín này, phân vân không biết Singapore là nước nào ở đâu. Vợ tôi liền đi xuống Mỹ Tho để báo tin mừng và vô Trung Lương, nơi đất hương quả mồ mã tổ tiên để cúng tạ.

Chúng tôi ở khách sạn YMCA vài ba ngày để làm thủ tục. Buổi chiều rỗi rảnh chúng tôi dắt nhau ra chợ Tàu. Đi bộ chừng 15 phút là đến, một dãy kios quán ăn rất là đông vui và ngon miệng. Long biết nói tiếng Tàu nên rất dễ giao tiếp. Ở Singapore 80% là người Hoa, còn lại là nguời Ấn và người Mã Lai.

Sau đó chúng tôi đuợc đưa vào Trại Tị nạn Sambewang, còn gọi là trại Hawkins. Khi vừa buớc vô văn phòng trại tị nạn, tôi chợt thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ thật lớn treo trên tường mà lòng hân hoan vui mừng quá độ. Tôi và nhóm nguời mới tới đều vui mừng sung suớng đến rơi nuớc mắt, đuợc hôn lên Lá Cờ  Quốc Gia Dân Tộc và biết chắc rằng mình đã thật sự thoát khỏi ngục tù cộng sản và đã đến đuợc bến bờ tự do.

Chúng tôi đuợc lãnh tiền trợ cấp mỗi nguời 2.50 đồng một ngày, một đồng Singapore lúc đó trị giá vào khoảng 0.8 dollar Mỹ. Ngoài ra còn đuợc phát mỗi nguời một chiếc chiếu, và cứ 6 nguời thì đuợc phát một cái lò nấu ăn. Đây là một trại lính với nhiều tòa nhà có hai tầng khang trang, trại viên trải chiếu trên sàn gạch rất mát mẻ sạch sẽ, không có ruồi muỗi. Phía ngoài là sân cỏ, đuợc giử gìn chăm sóc cắt xén rất đẹp như một tấm thảm xanh.

Cuộc sống ở trại tị nạn này rất là thoải mái, có khu chợ nhỏ ngay trong trại, đa số là nguời Ấn độ, bán đủ loại thực phẩm, rau cải, trái cây, đặc biệt là trái sầu riêng ở đây có rất nhiều. Ở ngoài vòng rào và cách trại chừng vài trăm thuớc, có một con rạch rất lớn, có nhiều cá, nhứt là cá rô Phi. Có nguời chui rào ra, luới đuợc rất nhiều cá, đem về bán chui qua các nhà.

Những nguời đuợc đưa về trại này thuờng là chỉ đuợc tạm trú ở đây khoảng 3 tháng, để làm thủ tục đi định cu, hoặc là những nguời từ trại đảo Galang đưa đến chờ máy bay để đi định cư. Hàng ngày công việc của trại là theo dỏi tin tức phát thanh trên loa, để biết khi nào đuợc gặp phái đoàn để đuợc phỏng vấn và khám sức khỏe.

Khi mới đến trại khai hồ sơ lý lịch, vì tôi đã từng du học bên Mỹ nên được Ban Chỉ huy trại giao nhiệm vụ làm Thông dịch viên. Công việc thường ngày của tôi là giúp thông dịch nếu có phái đoàn vô trại. Còn không thì phải đưa người đi ra các toà Đại Sứ Anh, Mỹ, Úc v.v…Hoặc đưa người đi bệnh viện, để khám sức khỏe để đi định cư. Ở trong trại cũng có bệnh xá để điều trị các bệnh nhẹ thông thường như ho, đau bụng, nhức đầu, nóng lạnh v.v…Lúc đó có Bác sĩ Rạng trách nhiệm bệnh xá, ông cũng là người tị nạn và trước kia ông từng là bác sĩ của Bệnh viện 3 Dã chiến ở Phú lợi Bình Dương.

Ở trong trại tôi thấy có nhiều hoàn cảnh rất là thương tâm. Có nhiều nguời mất vợ mất con mất cha mất chồng trên đường vượt biển. Như có một ông bác sĩ, tôi nhớ mang máng tên là Phùng, Bác sĩ Phùng, ông bị khủng hoảng tinh thần gần như điên loạn, vì cả gia đinh vợ con đều bị chết. Tôi thấy ông cứ đi lang thang nói nhảm suốt cả ngày.  Vì ông mắc bệnh tâm thần như vậy nên không được phái đoàn nào phỏng vấn, rồi không biết sau này ra sao.

Sau khi đến trại đuợc một tuần, tôi liền gởi gói quà nhỏ đầu tiên về cho gia đình, trong đó có vài thước vải đen, chai dầu xanh và kẹo bánh. Ba tháng sau vào tháng 10 năm 1980 thì tôi được đi định cư qua Mỹ. Long và Nghĩa thì được định cư ở Đan Mạch.

Với lòng tri ơn sâu xa, tôi xin ghi lòng tạc dạ công ơn cứu tử của thuyền trưởng và toàn thể thủy thủ đoàn trên chiếc thương thuyền Pep Star, thuộc công ty hàng hải của nước Đan Mạch, đã cứu vớt tôi và giúp cho tôi thoát khỏi ngục tù cộng sản và cho tôi đến được bến bờ tự do. Đây quả là một công ơn quá lớn lao mà suốt đời tôi không bao giờ quên đuợc.

Tôi cũng không bao giờ quên nghĩa cử cao đẹp, đầy lòng nhân đạo của Cơ quan Tị nạn Liên Hiệp Quốc UN/HCR và dân tộc các nuớc trên thế giới, đã mở rộng vòng tay cứu vớt, trợ giúp và cưu mang chúng tôi, những người tị nạn trốn chạy khỏi chế độ cộng sản bạo tàn phi nhân bản.

Sau khi đến Hoa Kỳ được một năm thì tôi đuợc vào quy chế thường trú, năm năm thì đuợc vào quốc tịch. Ngay khi đến Hoa Kỳ, tôi lo ngay việc nạp đon xin bảo lãnh gia đình qua chương trình ODP và 9 năm sau thì vợ tôi và ba đứa con đã đến được Hoa Kỳ. Sau hơn 14 năm xa cách kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày miền Nam rơi vào tay cộng sản, nay gia đinh tôi đuợc đoàn tụ lại như xưa, đã thoát khỏi gông cùm cộng sản và được sống trên quê hương mới đầy lòng nhân ái bao dung.

Đây quả như là một phép lạ do Ơn Trên ban phuớc cho./.

Nguyễn Ngọc Thạch, K20

Từ Nguyễn C. Hoà gởi

Sách vở và hạnh phúc!

Sách vở và hạnh phúc!
July 13, 2014 4

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Tôi có một người bạn rất yêu văn chương, suốt cuộc đời ông, tuy là một người lính trận, tay súng tay viết, ông viết văn làm thơ. Yêu văn chương tất nhiên là phải yêu sách vở. Lúc về già, ra hải ngoại, ông hết mình bỏ công sức sưu tập tài liệu về văn học và tự xây dựng một nhà in bỏ túi, tự in lấy sách mình và của bạn bè. Ông có một cái tên do cha mẹ, kỳ vọng nơi con sẽ là người yêu sách, tên ông là Trần Quí Sách. Lớn lên khi biết yêu văn chương, thích sách vở, ông đặt bút hiệu cho mình là Trần Hoài Thư theo chí hướng “quí sách” của đấng sinh thành đã kỳ vọng nơi ông.


Ðộc giả đọc sách trong một nhà sách ở Hà Nội, Việt Nam. (Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Tôi lớn lên trong buổi giao thời của Hán-Nôm và chữ quốc ngữ. Sách vở thời ấy còn hiếm và đắt, không phải ai cũng có sách trong tay, học sinh đến trường có được một vài cuốn sách giáo khoa đã là quý. Theo quan niệm cổ lỗ của bà nội tôi, sách là tư tưởng của thánh hiền phải đem lòng kính trọng, những trang sách chữ Hán không dùng thì đem đốt trong lò hương (khác với dùng để nhúm lò hay làm đóm thuốc lào) hay tốt hơn hết là nhai rồi nuốt vào bụng!

Thời “cách mạng,” sách là nọc độc. Sách Tây sách Anh là sản phẩm đế quốc, sách tiếng Việt là tàn dư của văn hóa đồi trụy, không thì cũng là của “bọn biệt kích văn hóa.” Cộng Sản Bắc Việt bắt chước bạo chúa Tần Thủy Hoàng, đốt sách và cầm tù kẻ sĩ. Sách đốt không hết thì xé vụn đem cân ký lô hay dấm dúi bán rẻ cho bà bán xôi, bán mắm phục vụ quần chúng. Ðó là thời sách vở tan nát dưới bàn tay bạo chúa, nhân dân phải chịu ngu dốt một thời gian mói phục hồi được trí tuệ, do đó mấy người biết yêu quí sách vở, thứ văn hóa đó khó mà gột rửa.

Nếu hoa hậu Singapore, Pilar Carmelita Arlando, hiện là sinh viên đại học ngành du lịch, vừa bị gán biệt danh là “óc bã đậu” khi trả lời sai ngay cả những kiến thức sơ đẳng về đất nước mình, thì thí sinh tham dự Hoa Hậu Ðại Dương của Việt Nam với câu trả lời ngô nghê: “Em muốn người Trung Quốc hãy… mở giàn khoan đó ra… để cho đất nước Việt Nam của em ngày càng xinh đẹp hơn!” làm thiên hạ cười lăn. Nếu nhà báo, nhà văn, sinh viên, đảng viên hay viên chức chính phủ coi thường sách, chúng ta cũng nên thông cảm vì ở đời có nhiều thứ quý hơn sách, như điện thoại đời mới, xe đắt tiền, chỗ làm thơm, gái đẹp, đô la. Ðến như hoa hậu, thì đâu còn cần đến sách, họ cần y phục, phấn son, tước vị, đại diện cho các công ty mỹ phẩm và… đại gia.

Mới đây, lại có chuyện liên hệ giữa sách và hoa hậu. Số là một bức ảnh chụp cảnh đạo diễn Lê Hoàng và hoa hậu các dân tộc Việt Nam, Triệu Thị Hà, ngồi đối thoại với nhau trên hai chiếc ghế kê bằng các cuốn sách lộ ra ngoài, khiến khán giả “yêu sách” cảm thấy bất bình. Hoa hậu thì phân bua không có trách nhiệm (đương nhiên) vì quá vội vàng, vì sau đó phải bay đi Hà Nội, rồi để sau đó về Cao Bằng thăm nhà (hoa hậu nào trên trái đất này mà không bận rộn). Ông đạo diễn thì ngụy biện “đây chưa phải là thành phẩm, chưa phát hình mà chỉ như một bản nháp (nghĩa là chưa được edit, cắt xén) thì không thể phán xét, phê bình.

Nghĩa là ông có thể ngồi xổm lên sách vở, miễn là trước khi đoạn phim đem ra trình làng, không ai thấy cảnh ấy là được! Như vậy, nghĩa là chúng ta có thể làm bất cứ điều gì, miễn là đừng cho ai trông thấy.

Không ai trông thấy thì không có gì phải hổ thẹn. Dư luận lên án họ là “vô học,” “vô văn hóa,” “vô đạo đức”… rất nhiều bình luận phẫn nộ nhắm vào hành động dùng sách thay cho cục gạch kê bốn chân ghế.

Lẽ cố nhiên các cuốn sách này không phải là của các tác giả làm trong đài truyền hình, mà của các nhà văn cầu cạnh muốn gửi sách đến cho đài, để đài giới thiệu hay tặng cho nhân viên trong đài, không phải nơi và là đối tượng để tặng sách, cuối cùng không có giá trị bằng một cục gạch, nhân viên đài truyền hình dùng để đệm ghế cho hoa hậu ngồi. Kinh nghiệm này giúp cho các tác giả thận trọng khi hạ bút ký sách tặng cho đài phát thanh, truyền hình, đạo diễn, ca sĩ, xướng ngôn viên và nhất là các hoa hậu.

Khổng Tử nói, “Quân tử ba ngày không đọc sách, soi gương mặt mũi đáng ghét, nói chuyện nhạt nhẽo khó nghe,” nhưng thời nay, cỡ hoa hậu son phấn che lấp, dung nhan kiều diễm, nói nhăng nói cuộc cũng lắm người nghe!

Báo Công An Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Ðảng Ủy Công An Trung Ương và Bộ Công An, đã viết một câu nguyên văn như sau, “Ðội tuyển Anh là đội bóng mà tôi rất yêu thích. Thế nhưng, cái cách mà đội tuyển Anh thi đấu, lại khiến tôi nhớ đến câu nói rất cũ của người Trung Hoa: “Quân tử ba ngày không đọc sách, lời nói đã nhạt. Quân tử ba ngày không soi gương, mặt mũi đáng ghét.” Ban biên tập này cũng là loại chê sách hay loại viết càn, không chịu tra cứu, phịa lời Không Tử là “ba ngày không soi gương, mặt mũi đáng ghét.” Như vậy, theo lời khuyên của Ðảng Ủy Công An Trung Ương, hoa hậu chỉ cần soi gương mỗi ngày, đâu có cần đọc sách!

Thực tế là theo thống kê của Petrotimes Việt Nam, thì người Việt mỗi năm không đọc nổi được một cuốn sách. Cụ thể, dựa trên báo cáo hàng năm của các thư viện gửi về Bộ Văn Hóa, Thể Thao và Du Lịch, trung bình người Việt đọc 0.8 cuốn sách mỗi năm trong khi đó ngay tại các thư viện công cộng tỷ lệ này cũng chỉ đạt 0.38 cuốn.

Nhưng sách vở mà làm chi, sách đôi khi là kẻ thù của chế độ.

Theo Trần Thành Nam trên Blog Danlambao, thì lý do dân ít đọc sách do nhà nước: “Chỉ hơn nửa thế kỷ qua chính quyền này đã làm hỏng dân tộc ta, đã tạo ra xã hội rẻ rúng sách, dị ứng sách như hiện nay.”

Người Việt càng lười đọc sách, chế độ ta hôm nay càng an toàn. Cũng như, vì chúng ta ít đọc sách mà xã hội ta đã có chỉ số hạnh phúc cao nhất thế giới đó thôi?

Ðọc sách đòi hỏi tư duy. Tôi tư duy nên tôi tồn tại. Chúng ta có tư duy không nhỉ? Có, chúng ta đang phải và được phép tư duy trung bình với tốc độ 0.8 lần trong một năm!

Người Việt sẽ giữ vững ngôi đầu bảng hạnh phúc trên thế giới vì tốc độ tư duy đó. Mỗi năm chỉ cần phải tư duy gần một lần thôi, còn lại là chúng ta hạnh phúc!

Thì ra không đọc sách, cuộc đời này hạnh phúc biết mấy! Càng ngu si lại càng hưởng thái bình!