Nhìn lại chặng đường 69 năm ngày Quốc Khánh

Nhìn lại chặng đường 69 năm ngày Quốc Khánh

Gia Minh, PGĐ Ban Việt ngữ
2014-09-01

RFA

09012014-quockhanh-gm.mp3

000_Hkg10092627.jpg
Panô, bảng hiệu tuyên truyền kỷ niệm 69 năm ngày quốc khánh tại Hà Nội chụp hôm 28/8/2014.
AFP photo

Hà Nội đang kỷ niệm 69 năm ngày quốc khánh khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, nay là Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Câu hỏi thường được nêu ra nhân dịp ngày 2 tháng 9 như thế là sau mấy mươi năm xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đa số người dân Việt Nam được thụ hưởng những quyền và cuộc sống như các dân tộc khác, ít nhất là những nước trong khu vực hay chưa?

Tuyên ngôn độc lập

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, ông Hồ Chí Minh, chủ tịch nước đọc Tuyên Ngôn khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Bản Tuyên ngôn Độc lập có những đoạn trích trong Tuyên Ngôn Độc lập của Hoa Kỳ 1776 với nội dung “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”

Bản Tuyên Ngôn Độc lập do ông Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình cách đây 69 năm cũng trích dẫn Bàn Tuyên Ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách Mạng Pháp năm 1791 với điểm ‘Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi’.

Trước kia đúng là một lòng một dạ, cùng đảng viên với nhau là như một phục vụ dân đến hơi thở cuối cùng. Bây giờ họ không nghĩ đến dân, họ coi thường dân, coi người dân như ‘cái rơm, cái rác’.
– Bà Ngô Thị Đức

Những điểm trên được nêu ra trong Tuyên Ngôn Độc Lập nhằm tố cáo thực dân Pháp suốt 80 năm đô hộ Việt Nam đã tước mất mọi quyền căn bản của người dân Việt Nam, bóc lột họ đến tận xương tủy, thực hiện chính sách ngu dân để dễ bề cai trị…

Đảng Cộng sản Việt Nam cũng luôn lên án thực dân, đế quốc theo chủ nghĩa tư bản chỉ vì lợi nhuận mà bất kể đến tình đồng loại. Đảng cộng sản giương lên ngọn cờ giải phóng giai cấp công nhân và nông dân khỏi ách thống trị của những thế lực như thế.

Thực tế đời sống

Đã 69 năm trôi qua, khoảng thời gian cũng gần bằng 80 năm thực dân Pháp đô hộ Việt Nam trước đây mà theo ông Hồ Chí Minh là một giai đoạn tăm tối, kìm hãm sức phát triển của dân tộc Việt Nam.

Nhiều người từng vì lý tưởng yêu nước, mong muốn giành được quyền sống và ấm no hạnh phúc cho mọi người, đã nghe theo lời kêu gọi của Đảng, đóng góp hết sức mình cho công cuộc cách mạng, nhưng về cuối đời họ lại bị chính những đảng viên cộng sản hiện đang nắm chính quyền trù dập họ vì dám phản đối lại những việc làm bị cho là không đúng pháp luật, đi ngược lại quyền lợi của người dân.

Mới hôm cuối tháng 8 vừa qua, một cựu đảng viên với thâm niên 49 tuổi đảng, bà Ngô Thị Đức tại khu phố Trịnh Nguyễn, thị xã Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh, phải chặt một ngón tay trỏ để phản đối việc bức ép của công an buộc bà nhận tội gây rối trật tự khi cùng nhiều người khác lên tiếng phản đối một dự án xử lý nước thải nhưng sẽ gây hại cho cuộc sống người dân. Bà đưa ra nhận định về những đảng viên hiện nay như sau:

Trước kia đúng là một lòng một dạ, cùng đảng viên với nhau là như một phục vụ dân đến hơi thở cuối cùng. Bây giờ họ không nghĩ đến dân, họ coi thường dân, coi người dân như ‘cái rơm, cái rác’. Họ cho sống thì sống, có nghĩa bắt chết phải chịu! Chẳng hạn như ngày 18 tháng 6 năm ngoái, công an đánh dân, đánh người già, đánh trẻ con mà họ có ‘ấy’ đâu! Nhưng mà họ đánh dân lại không có tội. Công an được ăn, được học, được cơm gạo nông dân sản xuất ra nuôi, ‘manh cơm, tấm áo’ do dân đóng góp vào để làm thế nào phục vụ dân; nhưng bây giờ lại coi dân không ra gì.

Cứ nói thì hay nhưng thực hiện thì không đúng. Đơn giản như chuyện ‘uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây’ nhưng chỉ nói vài hôm vào ngày 27 tháng 7 thôi; chứ còn thực tế chả tạo điều kiện cho gia đình liệt sỹ gì cả. Như gia đình tôi khổ quá, năm ngoái cũng vì ‘nước thải’ này thôi mà giữ xe công nông mất 8 tháng. Bây giờ kinh tế không còn, chính trị mất hết, không có công ăn việc làm gì cả.

Một người dân Hà Nội suốt nhiều năm kêu oan vì bị lấy đất một cách phi pháp nhưng không được giải quyết, trái lại còn bị hành hung đánh đập đến ngã bệnh, bà Nguyễn thị Thanh Hương, nói về tình hình đất nước sau gần 7 thập niên được gọi là độc lập:

Chúng tôi sống và làm việc theo pháp luật nhưng không được pháp luật bảo vệ. Người dân sống không trông vào đâu được. Tài sản bị cướp, nhiều người bị đốt nhà, đánh đập như thế tại phường Hoàng Văn Thụ xảy ra bao nhiêu năm rồi, không ai giải quyết. Nhiều người đi khiếu kiện ức quá, bị nhồi máu cơ tim qua đời!

Tôi không hiểu sao phường Hoàng Văn Thụ, do ông chủ tịch Nguyễn Viết Cương, không có bằng cấp, không có học hành gì, cướp đất công xây nhà ba tầng, rồi dùng đất để đi biếu các lãnh đạo; cuối cùng hại dân. Sự việc rành rành các văn bản, bằng chứng rõ ràng mười mươi như vậy mà không có cấp nào của thành phố ( mà họ còn đồng lõa vào)… nên tôi không hiểu luật pháp của Việt Nam bây giờ như thế nào rồi!

Thực tế một người thương binh như tôi đã cống hiến một phần xương và máu thịt mà bị đối xử như vậy thì mọi người dân bình thường của Việt Nam bị đối xử như thế nào thì anh hiểu.
– Bà Lê thị Ngọc Đa

Bà Lê thị Ngọc Đa, một thương binh, nay là một dân oan và từng bị bỏ tù do khiếu kiện, bảy tỏ hối tiếc vì đã nghe theo cách mạng để tham gia hoạt động từ năm lên 9 tuổi:

Giờ nói tự do tôi không biết tự do theo kiểu gì, đi đâu cũng ‘tai mắt’ nhìn vào, điện tới điện lui, yêu cầu phải đăng ký thế này, thế nọ, thế kia.

Thực tế một người thương binh như tôi đã cống hiến một phần xương và máu thịt mà bị đối xử như vậy thì mọi người dân bình thường của Việt Nam bị đối xử như thế nào thì anh hiểu. Trừ trường hợp dòng họ của họ, ‘đảng dòng, đảng họ’ mà, đảng làm sao cho đông để giành.

So sánh với nước khác

Một số thống kê gần đây cho thấy Việt Nam tụt hậu cả nửa thế kỷ so với Thái Lan trong các công bố về khoa học. Trong lĩnh vực kinh tế, thu nhập bình quân đầu người tại Việt Nam hiện cũng tụt hậu so với các nước khác trong khối ASEAN. Cách đây 5 năm, báo cáo của Ngân Hàng Thế giới đưa ra số năm tụt hậu đó là 158 năm so với Singapore, 95 năm so với Thái Lan và 51 năm so với Indonesia…

Hồi tháng 2 vừa qua, thông tin cho biết Kampuchia sản xuất được ô tô, trong khi đó công nghiệp lắp ráp ô tô tại Việt Nam đến nay vẫn còn ì ạch.

Trong hội thảo nhìn lại nửa chặng đường phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011-2015 được tổ chức vào tháng 9 năm ngoái, các diễn giả tham dự đều đưa ra nhận định là Việt Nam ‘suy yếu, tụt hậu và khoảng cách kém cỏi như thế ngày càng xa so với thế giới’.

Cựu phó thủ tướng Vũ Khoan phát biểu tại hội thảo chính sai lầm chủ quan dẫn đến những bất ổn vĩ mô.

Trong những năm qua, nhiều vị trí thức trong và ngoài nước, ngay cả những đảng viên lão thành cách mạng cũng đã có những kiến nghị tập thể thúc giục đảng và nhà nước phải cải cách, từ bỏ con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa lỗi thời để theo xu thế chung của thời đại… Nhưng rồi những tiếng nói tâm huyết như thế vẫn không được lắng nghe. Đất nước vẫn mỗi lúc một kém cỏi thêm so với những nước mà trước đây họ đã từng ngưỡng mộ Việt Nam dưới thời Cộng hòa được mệnh danh ‘Hòn Ngọc Viễn Đông’.

ĐƯỜNG THÁNH GIÁ

ĐƯỜNG THÁNH GIÁ

Lm. Vinh Sơn, Sài Gòn.

Gr 20,7-9; Rm 12,1-2; Mt 16,21-27

Trong Sổ Tử của thành phố Paris –  thủ đô nước Pháp, người ta đọc thấy: Ông Gustave Busset, qua đời ngày 18 tháng 4 năm 1834. Người quá cố không có con cái nhưng để lại một số gia sản đáng giá. Đám tang ông, chỉ có vài bà con xa đến tham dự. Ngay tại nghĩa trang, họ bắt đầu tranh dành gia tài. Sau cùng, họ quyết định đem bán đấu giá tất cả đồ đạc, lấy tiền chia đều nhau. Ngày bán đấu giá, nhiều người cùng khu phố với ông Gustave Busset kéo nhau đến mua đồ, trong đó có chàng họa sĩ trẻ tên Pierre Piront. Anh rất nghèo, chỉ có tấm nệm rơm để ngủ. Từ lâu anh mơ ước chiếc giường êm nên để dành được 100 quan. Hôm nay dịp may đến. Anh mua cái giường của ông Gustave với giá 75 quan. Anh vẫn còn 25 quan. Khi anh lên nhận chiếc giường thì cùng lúc ấy, ủy viên bán đấu giá cúi xuống đất, nhặt lên Cây Thánh Giá nặng, bám đầy bùn đất dơ bẩn. Với giọng khàn khàn ông cất tiếng la to: “Ai trả bao nhiêu để mua vật này?”

Trong phòng im lặng như tờ. Bỗng vang lên tiếng nói chế nhạo: “Không trả xu nào hết!”. Mọi người cười rộ, như ngầm đồng ý. Chàng họa sĩ trẻ cảm thấy kinh ngạc trước thái độ vô thần hỗn xược của người đồng hương. Bằng một giọng run run vì cảm động, anh nói: Tôi xin trả 25 quan. Rất tiếc tôi chỉ có thế. Nếu có nhiều tiền, hẳn tôi sẽ trả với giá cao hơn!”… Đám đông lại ào ào chế nhạo. Một người đàn bà cao tuổi, chỉ ngón tay vào anh Pierre và nói: “Nó là tên ngu đần nhất trong tất cả các tên ngu đần!”.Tức khắc, mọi người trong phòng cùng nói lớn: Hoan hô bà già nói đúng!

Cuối cùng, cây Thánh Giá thuộc về anh Pierre Piront với giá 25 quan. Anh cảm động tiến lên nhận Cây Thánh Giá với trọn lòng kính cẩn yêu mến. Xong, anh ôm Thánh Giá rời phòng, trước các cặp mắt và lời nói chế diễu của mọi người hiện diện.

Về đến nhà, việc làm đầu tiên là vội vàng chùi rửa Cây Thánh Giá. Vừa lau, anh vừa âu yếm nói chuyện với Đức Chúa Giêsu Kitô – Đấng bị xúc phạm. Nhưng anh Pierre ngạc nhiên biết bao, khi vừa lau chùi xong, anh khám phá tên khắc bên dưới chân Thánh Giá. Với kính lúp, anh đọc: Benvenuto Cellini. Đây là tên của một thợ kim hoàn nổi tiếng người Ý. Lòng tràn đầy niềm vui, anh tiếp tục lau chùi thật kỹ lưỡng. Càng lau, càng chùi, anh càng khám phá ra Cây Thánh Giá và tượng Đức Chúa Giêsu Kitô bằng vàng ròng.

Anh Pierre Piront không còn bình tĩnh nữa. Anh lấy khăn bọc kỹ Cây Thánh Giá rồi chạy như bay tới tiệm kim hoàn gần đó. Anh nhờ chủ tiệm đánh giá cho phẩm vật của anh. Sau khi xem xét cẩn thận, chủ tiệm đánh giá toàn Cây Thánh Giá là 60.000 đồng vàng…

Câu chuyện đến tai vua Louis-Philippe I (1830-1848). Nhà vua cho gọi anh Pierre Piront đến và ca ngợi lòng dũng cảm, dám tuyên xưng Đức Tin Công Giáo của anh. Nhà vua cũng cho mở cuộc điều tra, để biết tại sao Cây Thánh Giá quý báu lại lọt vào tay cụ già Gustave Busset. Qua cuộc điều tra, người ta biết: “Vào năm 1531, vua Francois I nhờ nhà kim hoàn Benvenuto Cellini làm Cây Thánh Giá bằng vàng ròng. Sau đó, tác phẩm nghệ thuật tôn giáo được trưng bày tại điện Versailles. Khi cuộc cách mạng Pháp 1789 xảy ra, dân chúng tràn vào đập phá và ăn cắp của cải vật dụng trong điện Versailles. Có lẽ Cây Thánh Giá bị ăn cắp và bị bán đi với giá thật rẻ…”  Vua Louis-Philippe I đã mua lại Cây Thánh Giá với giá 60.000 đồng vàng và truyền gọi anh Pierre Piront vào làm việc trong hoàng cung. Nhờ cơ may, anh trau dồi, phát triển và tận dụng khả năng nghệ thuật của mình.

Để ghi nhớ biến cố ấy, anh Pierre Piront vẽ bức họa “Cây Thánh Giá bán đấu giá”. Bức họa trở nên một tuyệt tác, tháp tùng anh suốt cuộc đời và an ủi anh ở giây phút cuối đời.

Chọn lựa Thập giá, Chúa Giêsu đi vào cuộc khổ nạn, Ngài tiên báo về sự đau khổ mà Ngài phải đi, Ngài mời gọi các môn đệ của Ngài cùng đối diện với khổ đau qua lời mời gọi: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy”.

Đức Giêsu tiên báo về cuộc khổ nạn và lời mời gọi vác thập giá, trong bối cảnh: Ngài và các môn đệ cùng dân Do Thái tiến về Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua. Lên Giêrusalem là lên Đền thánh Thiên Chúa, luôn mang trong lòng sự hớn hở vui tươi được biểu lộ bằng những Ca khúc Lên đền gồm 15 Thánh vịnh ngắn từ 120 đến 134 (nhưng có lẽ Tv 132 không thuộc nhóm này), mang tâm tình tươi vui, được hát khi người Do Thái tiến lên đền thờ Giêrusalem vào 3 dịp lễ hành hương: Lễ Vượt Qua (Lễ bánh không men nhắc lại biến cố Xuất hành), Lễ Ngũ tuần (Lễ Mùa gặt để dâng của đầu mùa cho Giavê)  và Lễ Lều (Lễ Thu hoạch cuối năm để tạ ơn Giavê) (x. Xh 23,14-17; 34,22-23; Dnl 16,16)

“Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi:

“Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa!”  (Tv 121,1)

Tân ước kể lại cuộc hành hương hàng năm của Ðức Maria, thánh Giuse và trẻ Giêsu lên Giêrusalem (Lc 2,41). Tân ước cũng cho thấy Giêrusalem đã thu hút khách hành hương vào các dịp đại lễ (x. Lc 2,41-45; Ga 12,20; Cv 2,1-10). Các Tin Mừng đều tường thuật những lần hành hương của Ðức Giêsu lên Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua (x. Ga 2,13), lễ Ngũ tuần (Ga 5,1), lễ Lều (Ga 7,2-10). Tuy nhiên Phúc âm Nhất lãm tường thuật chuyến hành hương duy nhất của Ðức Giêsu lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt qua và trong dịp này, Ngài đã bị kết án vác và chết trên thập giá. Chuẩn bị bước hành trình về thành Thánh theo thánh ý của Chúa Cha, Đức Giêsu loan báo ba lần cuộc khổ nạn của Người (x. Mt 16,21; 17,22-23; 20,18-19). Hình ảnh đó đã được nói tiên tri trước bằng hình ảnh Người Tôi Tớ đau khổ mà Ngôn sứ Isaia đã phác họa: “Đức Chúa đã muốn Người phải bị nghiền nát vì đau khổ …. Nhờ nỗi thống khổ của mình, Người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện” (Is 53,10-11). Chúa Giêsu cho các môn đệ biết về bước đường đau khổ này qua cuộc tử nạn, Ngài nói về đường thập giá và mời gọi các môn đệ tiến bước theo.

Đứng trước lời tuyên báo về cuộc tử nạn, thái độ Phêrô: liền kéo riêng… bắt đầu trách … (Mt 16,22): Phản ứng của Phêrô là phản ứng khôn ngoan của con người khi đối diện đau khổ, đứng trước thập giá: sự lẩn tránh. Phêrô muốn thoả hiệp, thích nghi, chấp nhận buông xuôi theo những áp lực của sợ hãi, hoặc khuất phục trước quyền lực. Mới đây ông là gương mẫu của người tin (x. Mt 16,17), nay ông thành người tiếp tay cho Satan, bởi vì ông đã đề nghị cho Đức Giêsu một con đường như tên Cám Dỗ đã đề nghị thỏa hiệp khi Chúa bị cám dỗ ở trong hoang địa (x. Mt 4,1-11).

Chúa Giêsu trả lời Phêrô: Anh cản lối Thầy (Mt 16,23), nếu dịch sát nghĩa:  “Anh đang trở thành tảng đá  làm cho Thầy vấp”. Mới vừa tuyên xưng đức tin, Phêrô trở nên “tảng đá trên đó Thầy sẽ xây Hội Thánh”, bây giờ Phêrô, mang ý nghĩ suy luận của con người nên thành tảng đá “cản lối Thầy [làm cho Thầy vấp]”. Tảng đá xây Hội Thánh là niềm tin của Phêrô đặt nơi Đức Giêsu. Thiếu niềm tin, tảng đá  này trở nên cản trở công trình của Thiên Chúa.

Kinh nghiệm của Phêrô mang hình ảnh thân phận con người của chúng ta. Thật thế, chúng ta rất mong manh, dễ thay đổi, dễ chủ quan ảo tưởng là mình “trước sau như một”. Cho nên, chủ quan trong một tư tưởng thánh thiện có trước, phù hợp với tư tưởng của Thiên Chúa. Điều đó không bảo đảm là tư tưởng tiếp theo cũng thánh thiện, nếu chúng ta không quan tâm tìm biết ý muốn của Thiên Chúa.

Đức Giêsu quả quyết rằng đối với môn đệ của Ngài không có con đường nào khác con  đường thập giá:  “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình”. “Từ bỏ chính mình (Mt 16,24), nghĩa là bỏ cả khát vọng, những đòi hỏi chính đáng của mình mà nhận lấy khát vọng và đòi hỏi của người khác, ở đây chính là đòi hỏi của Thiên Chúa. Cho nên, không chỉ chiến thắng trên cám dỗ, mà còn bỏ ra sau những quyền lợi chính đáng của riêng mình. Để “đi (bước) theo” Đức Kitô (Mt 16,24): đồng nghĩa với “học với; làm môn đệ” (x. Mt 11,29), là bắt chước các phong thái của thầy, lặp lại những chọn lựa của thầy, tức là nối tiếp công trình mà thầy đã bắt đầu với biết bao hy sinh đau khổ…

Khi nghiền ngẫm lời tiên báo đau khổ, tử nạn và lời mời gọi vác thập giá vượt qua đau khổ và sự chết, chúng ta cảm thấy được an ủi và thêm sức mạnh giữa những lúc đương đầu với thử thách, gian nan, khủng hoảng và đau khổ. Vì vậy, chúng ta vẫn tiến bước trong cuộc sống và đối diện với đau thương mà mỗi người chúng ta luôn đối diện trong những nỗi đau của thể xác, hay nỗi đau về tâm hồn, có khi cả hai  nỗi đau về thể xác và tâm hồn…

Chúa Giêsu không chỉ loan báo cuộc khổ nạn mà còn loan báo cuộc phục sinh: “Ngày thứ ba sẽ sống lại”. Thật thế,  Đức Giêsu đến Giêrusalem chịu nhiều đau khổ và bị giết chết, nhưng Ngài sống lại ngày thứ ba như lời tiên báo, Ngài đã vượt qua bằng chiến thắng ở cuối con đường đau khổ. Khi chúng ta vác thánh giá theo Đức Giêsu, sự chiến thắng huy hoàng cũng dành cho người môn đệ trung kiên vác thập giá Chúa, Thánh Phaolô khẳng định: Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người (Rm 6,8). Đức Kitô đã chiến thắng sự dữ, chiến thắng đau khổ, chiến thắng sự chết và cho phép chúng ta cùng Ngài vượt qua đau khổ, vượt qua sự chết như Ngài: “Ngày thứ ba Người sẽ sống lại”.

Cho nên, chúng ta vác thập giá theo Chúa Kitô, không phải giữ mãi đau khổ, đi vào con đường chết, nhưng với Ngài xuyên qua đau khổ, vượt qua sự chết mà đến vinh quang, vì thế thánh Phaolô xác tín:  “Vinh dự của tôi là thập giá Chúa  Kitô”  (Gl 6,14).

Lm. Vinh Sơn, Sài Gòn.

Hãy theo tôi!

Hãy theo tôi!

Chuacuuthe.com

VRNs (31.08.2014) – Follow me! Hãy theo tôi!

Sự đời thì: Hãy theo tôi, tôi sẽ cho bạn được danh vọng! Hãy theo tôi, tôi sẽ cho bạn được giàu sang! V.v…và v.v…

Không ai lại ngược đời như Đức Giêsu Kitô: “Ai muốn theo Tôi thì phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mà theo!”

Thế thì sung sướng gì mà theo cơ chứ? Theo mà phải đón lấy khổ giá, bỏ đi chính bản thân, có mà điên chăng?

Sự đời nó thế! Nhưng vì là Kitô hữu – người mang Chúa Kitô, bạn và tôi phải là những người lội ngược dòng đời, phải là những người điên theo cách hiểu của thế gian. Bởi vì bạn và tôi là những người được gọi – qua Bí tích Rửa tội, như chính Chúa đã gọi các môn đệ ngày xưa: “Hãy theo Tôi!”

Đã là con người, ai cũng muốn có được một cuộc sống sung sướng hạnh phúc, một cuộc sống dễ dãi tiện nghi. Nhưng nếu thế thì ai là người phải chịu thiệt thòi đau khổ, ai là người phải thiếu thốn đói khát thay cho chúng ta? Bởi vì định luật tự nhiên của một kiếp người: “đời là bể khổ” mà!

Không ai trong cuộc sống mà không thiếu những khổ đau, thập giá. Nhưng với người ngoài Kitô giáo, đa phần họ thường than vãn cuộc đời, oán trời trách đất, đổ cho người này kẻ kia là nguyên nhân, mang đến khổ đau cho họ.

Còn chúng ta – những môn đệ theo Chúa Kitô, chúng ta phải xác tín rằng những đau khổ, thập giá trong cuộc đời là những phương tiện hữu ích Chúa gởi đến để giúp chúng ta nên thánh, cho chúng ta được góp phần vào với Thánh giá Chúa, hầu mang ơn cứu độ đến cho bản thân và cho các Linh hồn. Xác tín được như thế để chúng ta không trốn chạy thập giá, nhưng vui vẻ đón nhận, vác lấy trong sự trợ giúp của Đức Giêsu Kitô Tử nạn. Đừng như Thánh Phêrô: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy”, để rồi Chúa phải khiển trách nặng nề, vì “tư tưởng đó là của loài người chứ không phải của Thiên Chúa”.

Bạn và tôi, chúng ta có muốn thuộc về Chúa không, có muốn mang tư tưởng của Chúa không? Nếu muốn, chúng ta phải biết lội ngược dòng đời. Vì nếu không lội ngược dòng đời, cứ mãi tìm kiếm những gì sung sướng hạnh phúc ở đời mà thôi, thì hãy coi chừng! Chúa đã nói rất rõ: “Được cả thế gian mà thiệt mất sự sống, nào được ích gì?” Giữa được và mất, bạn và tôi hãy sáng suốt lựa chọn!

Hãy đừng như những người duy vật, chỉ biết vật chất mà bất kể linh hồn, chỉ biết hôm nay mà bất kể tương lai. Ai trong chúng ta rồi cũng có ngày phải ra đi, chưa biết lúc nào Chúa sẽ “thương gọi về”. Hành trang chuẩn bị cho chuyến ra đi đó, nếu có nhiều thập giá trong đó, chắc chắn Chúa sẽ thưởng công xứng đáng, như Ngài đã kết thúc bài Tin mừng hôm nay (Chúa nhật 22 QN): “Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng với việc họ làm”.

Gieo trong đau thương, sẽ gặt giữa vui mừng!

Thánh Gioan Maria Vianney, Thánh Maximilianô Maria Kolbê, và gần đây nhất, ruột thịt với chúng ta nhất: Đức Hồng y FX. Nguyễn Văn Thuận đều là những người con điên, những vị đã lội ngược dòng đời. Để rồi hôm nay, các Ngài đều là những vị Thánh.

Xin các Ngài cầu thay nguyện giúp cho mọi người chúng ta!

Micae Hữu Liên

Con ong tài ba hơn các nhà khoa học?

Con ong tài ba hơn các nhà khoa học?

Chuacuuthe.com

VRNs (01.09.2014) – Sài Gòn – Học đạo là một trong ba chân kiềng quan trọng của việc sống đạo đối với tất cả mọi Kitô hữu ở khắp nơi trên thế giới nói chung, và với mỗi Cursillista (người đã học khóa ba ngày) của Phong trào Cursillo nói riêng. Kiềng ba chân đó là: Sùng đạo, Học đạo và Hành đạo. Bởi lẽ, nếu ta không học hỏi liên tục hầu hiểu biết về quyền năng tuyệt đối, và lòng yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa đối với chúng ta để chúng ta  có lòng tin tưởng sắt son, mạnh mẽ nơi Ngài thì làm sao ta có lòng Cậy trông, và đặc biệt là lòng Yêu mến Thiên Chúa được.

Ông bà ta đã nói: “Vô tri bất mộ” là như thế. Và hơn nữa, sự học không có trang cuối cùng. Càng học trí tuệ càng được mở mang, và ta lại càng nhận rõ hơn mình quá nhỏ bé trước vũ trụ bao la này. Sự học giúp ta biết mình hơn, biết người hơn, và biết khiêm tốn hơn.

Thánh Vịnh chương 19 (18) câu 2 đã dạy chúng ta: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay người làm”.

Câu Thánh Vịnh trong Kinh Thánh thật ngắn gọn, nhưng hàm chứa ý nghĩa bao la, sâu thẳm đã mời gọi chúng ta cùng ra sức tìm hiểu để thấy được phần nào quyền năng vô biên, và vinh quang cao cả của Thiên Chúa ở ngay trong các tạo vật, do Ngài yêu thương con người mà tạo dựng.

Trong ý hướng đó, trang viết này dành để tìm hiểu một số điều kỳ thú nơi loài ong. Chúng ta biết được bao điều kỳ diệu lạ lùng, thú vị của loài ong là nhờ vào những theo dõi, nghiên cứu, khám pha với bao khổ cực, hy sinh nhiều năm tháng, có khi mất cả đời người của bao người, và các nhà khoa học khắp nơi trên thế giới từ bao đời nay.

Tổ chức đời sống trật tự và “Qui trình dân chủ tối ưu” của loài ong

Tổ chức đời sống trật tự của loài ong

140832009

Ong, loại côn trùng được coi là có tổ chức xã hội cao nhất, hơn cả kiến, mối, mọt. Chúng sống theo đàn, mỗi đàn khoảng từ 25.000 đến 50.000 con. Mỗi đàn chỉ có một con ong chúa, mấy chục ngàn ong thợ, ong đực chiếm khoảng 1% đàn ong, ong non..

Ong chúa cánh ngắn, thân to hơn các loại ong khác, và chỉ có nhiệm vụ đẻ trứng. Trung bình ong chúa đẻ 1500 trứng ong thợ một ngày. Ong chúa chọn ngày thích hợp đẻ ong đực non, và ong chúa non, chuẩn bị tạo vương quốc mới. Ong chúa sống từ 3 đến 5 năm.

Ong thợ thân nhỏ, cánh dài, đông nhất trong đàn, có nhiều nhiệm vụ khác nhau: làm tổ, bảo vệ và giữ điều hòa nhiệt độ tổ từ 33 đến 35 độ C, nuôi ong con, thám thính, tìm vùng có hoa lấy mật, tạo ra mật…

Ong đực không phải làm gì cả, chỉ ra khỏi tổ một lần đuổi theo ong chúa để gieo tinh. Con nào khỏe nhất bay theo kịp ong chúa được giao phối với ong chúa rồi sau đó cả đàn ong đực đều chết hết vì bị bỏ đói.

Hành trình tạo vương quốc mới “chia bầy”,và “qui  trình dân chủ tối ưu”.

Một công trình nghiên cứu thú vị của Thomas Seeley thuộc trường Đại học Cornell (Hoa Kỳ) về tiến trình chia bầy của loài ong khi đàn ong quá đông đã cho ta biết:

Đầu tiên, vài trăm con ong trinh sát tỏa ra các hướng để tìm địa điểm xây tổ thích hợp.

Tiêu chuẩn chọn lựa, ong thường chọn hốc cây rỗng hướng nam, to khoảng hơn 20 lít, ở trên cao cách mặt đất trên 3 met, miệng hốc không quá 30 cm vuông.

Vũ điệu báo tin của ong. Giải thưởng Nobel về Sinh lý và Y khoa năm 1973 đã trao cho 3 nhà khoa học là Karl Ritter Von Frisch (1886-1982), Nikolaas Tinbergen và Konrad Loenz đã cho ta biết loài ong có thể báo các  thông tin  qua các vũ điệu.

Với những vũ điệu khác nhau của ong thám thính vũ trước tổ, đàn ong sẽ nhận ra  khoảng cách từ tổ đến nơi có hoa; các đặc điểm của nơi có thể làm tổ mới …. Bầy ong lại cử từng đoàn đi kiểm tra lại. Những đoàn thám thính tự rút lui khi nhận thấy nơi nhóm mình giới thiệu thua kém các nhóm khác.

Cuối cùng chỉ còn một địa điểm duy nhất được đàn ong thống nhất chọn lựa, không có sự tranh chấp dành dật. Tất cả diễn ra không quá 16 giờ. Sau đó một nửa đàn ong do một ong chúa dẫn đi, một nửa ở lại với một ong chúa đã trưởng thành.

Ong tài ba hơn các nhà toán học, nhà vật lý học, nhà hóa học và nhà kiến trúc

Quan sát tổ ong

Nhìn vào miệng các tổ ong ta thấy, đó là vô số hình lục giác đều (sáu góc, sáu cạnh) được con ong xây dựng liền nhau, mỗi cạnh đo được khoảng  2,7 mm, cạnh chiều sâu mỗi khối lục lăng đo được 11,3 mm. Miệng tổ ăn thông với một khối hình lục lăng. Con ong đã được bẩm sinh làm như thế. Đây quả là một điều kỳ diệu. Nhưng điều kỳ diệu đó còn lạ lùng hơn khi quan sát và đo lường các đáy chung của các khối lục lăng tổ. Các đáy của các khối lục lăng đó không phẳng như miệng tổ; đáy tổ là sự kết hợp của ba hình thoi bằng nhau.

Năm 1712 nhà khảo cứu Maraldi người Ý đã đo được như sau: góc tù hình thoi ở đáy tổ ong là 109 độ 28 phút; góc nhọn là 70 độ 32 phút (Phỏng theo tài liệu Giáo sư Hoàng Xuân Hãn 1908- 1996; HXH tập I trang 1044, và Bachkhoatrithức. VN).

Giải bài toán: thể tích lớn nhất mà diện tích xung quanh nhỏ nhất.

Bài toán có thể tóm tắt như sau: “hãy làm một cái bình theo hình thù như thế nào để chứa được nhiều nước nhất, mà lại tốn diện tích xung quanh ít nhất. Nhiều bình ghép lại chiếm không gian ít nhất?” (hai nhà Vật lý học Réaumur và Leomiule người Pháp đưa ra).

Bài toán trên đã như một thách đố lớn với các nhà toán học trên thế giới. Nhiều nhà toán học đã sử dụng các phép tính cao cấp để tìm kết quả.  Sau nhiều thập niên nghiên cứu, họ đã thống nhất với nhà toán học Kenige người Thụy Sỹ là phải làm cái bình  đúng như tổ ong đã mô tả trên thì chứa được nhiều nước nhất, và tốn diện tích xung quanh nhỏ nhất; chứ không phải khối vuông, khối ống, khối cầu hay khối tam giác…Bởi vì, nếu muốn có một miệng tổ rộng 20 mm vuông như tổ ong, mà làm theo hình tam giác đều thì chu vi mất 20,4mm; làm theo hình vuông thì chu vi mất là 17,9m; làm theo hình lục lăng đều của ong thì chu vi chỉ mất 16,6mm. Các khối ống và khối cầu khi ghép với nhau có nhiều khe hở tốn diên tích, nên không được tính đến.

Kenige cho biết chỉ có một chút khác biệt là góc tù và góc nhọn của ba hình thoi ở đáy tổ ong là 109 độ 28 phút và 70 độ 32 phút thì các nhà toán học tính là 109 độ 26 phút và 70 độ 34 phút. Nhà toán học Kenige kết luận con ong sai 2 phút ở góc tù và nhọn ở 3 hình thoi đáy bình chung.

Năm 1743 nhà toán học người Anh Colin Maclaurin đã tính lại, kết quả cuối cùng hoàn toàn đúng với số đo hai góc của tổ ong như nhà khảo cứu người Ý Maraldi đã đo năm 1712. Lý do Kenige tính sai 2 phút là vì ông dùng bảng Logarithme có số lẻ sai (nguồn: Phỏng theo sách 10 vạn câu hỏi vì sao, nhà xuất bản Mỹ Thuật).

Từ kết quả đo lường trên, các nhà khoa học kết luân phải làm bình đúng như tổ ong sẽ tốn ít diện tích và không gian nhất, mà chứa được thể tích lớn nhất.

Ngoài ra, các nhà khoa học còn cho biết, xây dựng theo khối lục lăng của tổ ong sẽ bền vững nhất, khi có các tác động lực bên ngoài vào tổ. Trong lúc, lực tác dụng vào các hình khối khác thường bị biến dạng và có khuynh hướng biến thành khối lục lăng như loài ong đã làm.

Còn sáp ong được chế tạo ra sao lại là một chuyện lạ nữa! Con ong hút mật vào bụng, sau một ngày một đêm, những hạch sáp ở bụng ong biến hóa mật ong thành sáp rồi tiết ra 4 đôi hạch sáp ở dưới bụng. Sáp được miệng ong nhào nặn, khi ra không khí sáp này trở nên dẻo quánh để đắp tổ ong. Cứ 3kg mật và ít phấn hoa tạo ra 1 kg sáp. Sáp ong là môi trường tinh khiết nhất, kháng khuẩn mạnh nhất. Việc mật ong hóa sáp khiến ta liên tưởng tới con tằm chỉ ăn lá dâu vào trong bụng, mà tạo ra sợi tơ vàng óng ánh cho ta những nén tơ đẹp đẽ giá trị (Nguồn: USAPHA chuyên gia về ong mật).

Mật ong có công dụng ra sao lại là một chuyện dân gian không bao giở kể hết, nào là giúp trẻ còi mau lớn, chữa ho, đau bao tử, chữa lành vết thương… Chính Tiến sỹ Phùng Hữu Chính, Giám đốc Cty ong miền núi cho biết: mật ong có trên 180 chất gồm đường đơn, protein, axit amin….Mật ong và sáp ong có khả năng kháng khuấn kỳ diệu. Người ta đang tìm hiểu hơn 1143 loài thực vật và hoa mà loai ong ưa thích thường lui tới để hút nhụy hầu tìm ra loài cây, loài hoa  nào kháng khuẩn cao nhất.

Loài ong được thiên phú làm như thế theo bản năng chứ ong đâu có trí khôn học hành gì như các nhà khoa học. Như thế, ong quả thực đã hơn cả các Thần Đồng Toán học, Thần Đồng Vật lý, Thần đồng Hóa học , Thần Đồng Kiến trúc và các khoa học khác!

Con người ngày nay đã vận dụng những ưu điểm của tổ ong vào việc xây dựng hiện đại trong thiết kế cánh máy bay, vách vệ tinh, tầu con thoi hay vô số cấu trúc trong nhà, đồ nội thất, gia dụng, thiết bị văn phòng, điện tử và các sản phẩm khác (Nguồn: Báo Nông Nghiệp VN 13-11-2013).

Dẫu nhân loại ngày nay đã tiến bộ nhiều, nhưng hiểu biết của loài người trước vũ trụ muôn loài do Thiên Chúa tạo dựng mới chỉ như một giọt nước giữa đại dương; một hạt cát trong sa mạc; một chiếc lá giữa rừng cây.,.

Inhaxio Đặng Phúc Minh

Chuyện Anh Bốn Thôi & Chị Phạm Thị Lành

Chuyện Anh Bốn Thôi & Chị Phạm Thị Lành

RFA

S.T.T.D  Tưởng Năng Tiến

Việt Nam dứt khoát không để vỡ nợ.

T.T. Nguyễn Tấn Dũng

Tôi đọc đi, đọc lại tập tuỳ bút mỏng (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của nhà văn Nguyễn Khải vài ba lần. Lý do, một phần, có lẽ vì ông viết hơi cô đọng và (phần khác) vì ông có quan tâm ít nhiều đến tình cảnh của đám thường dân vô danh và bé nhỏ – cỡ tôi:

“Người dân ở đâu cũng thế, đều muốn có một cuộc sống bình yên, được tính việc cá nhân và gia đình trong một khoảng thời gian dài, một trăm năm chẳng hạn, không có những thay đổi lớn trong lối sống, trong công ăn việc làm, trong các giá trị, đặt biệt là giá trị của đồng tiền. Chứ cứ phải sống mãi từ năm này qua năm khác trong các phong trào cách mạng, lúc chống tả lúc chống hữu, những hội nghị toàn quốc và địa phương nối nhau không dứt, những hô hào la hét từ trong nhà ra ngoài đường như một lũ hoá rồ, các quan hệ xã hội và các giá trị thay đổi soành soạch thì còn biết đằng nào mà sống…”

Những dòng chữ thượng dẫn, thốt nhiên, lại khiến tôi nhớ đến anh Bốn Thôi trong một tập tuỳ bút khác (Lại Thư Nhà) của nhà văn Võ Phiến:

Anh Bốn Thôi mồ côi cha mẹ, từ nhỏ sống với chú thím. Chú thím anh ta không có con, nên thương mến cháu. Anh chịu chăm chỉ tập làm công việc, nhưng tính thực thà ít lời…

Anh chỉ có niềm tin ở cái quây quần ấm áp của một nhóm vợ con. Trong đời anh đã trầy lên trật xuống, nhục nhã nhiều phen vì vợ con, rốt cuộc là để gầy ra cái tập thể nhỏ bé, trong đó anh cảm thấy yên tâm, không cần biết đến cuộc sống mênh mông. Trong đó anh cũng cảm thấy đầy đủ; dù sống dù chết, anh không muốn rời xa nó…

Thế mà rồi mãi anh ta vẫn không được yên. Lớn lên, gần như hồi nào anh cũng phải cầm vũ khí trong tay: anh né viên đạn của bên này, tránh viên đạn của bên kia, đỡ ngọn roi của bên nọ… Và anh cũng lại đánh trả nữa. Và nét mặt anh thì lúc nào tuồng như cũng rầu rầu, nguội lạnh như của một người ngoại cuộc.

Vậy mà những hoạt động của anh đã làm ra tình hình của xứ sở. Ở Hoa-thịnh-đốn, ở Mạc-tư-khoa, ở Bắc Kinh, Tân Đề-li, Vọng-các, Ba-lê v.v… ở khắp các nơi trên thế giới người ta theo dõi anh, bàn tán về anh. Người ta đem anh ra so sánh với người dân Đức ở Bá-linh, người dân Lào ở Vạn Tượng…, người ta dòm ngó, dò xét cử chỉ của anh, cân nhắc, đánh giá sự can đảm của anh, tài nghệ của anh. Xung quanh hành động anh chắc chắn có những cuộc mặc cả, những trù hoạch bố trí, những mưu mô âm thầm giữa nước này nước nọ. Và cũng có cả những lời hô hào, cổ võ, những tuyên bố lớn tiếng về nhiều vấn đề quan trọng, lý tưởng cao đẹp.

Là công dân của một đất nước đã từng anh dũng đánh thắng mấy đế quốc to,và trở thành lương tâm của thời đại nên anh Bốn Thôi tất bật và vất vả không ngừng (“hồi nào anh cũng phải cầm vũ khí trong tay: anh né viên đạn của bên này, tránh viên đạn của bên kia, đỡ ngọn roi của bên nọ…”) thì cũng phải (giá) thôi!

Nhân loại có biết bao kẻ đã ước ao, khao khát được trở thành dân Việt cơ mà? Chỉ hiềm rằng trong số những người này không ai biết được rằng cuộc sống của Bốn Thôi hoàn toàn và tuyệt đối không có gì vui – theo như nhận xét của nhà văn Nguyễn Mộng Giác:

“Đấy, cuộc đời của Bốn Thôi, nhân vật tiêu biểu nhất của Võ Phiến. Người nông dân cục mịch có nét mặt buồn hiu lạnh lẽo, thiếu hẳn sự vồ vập mãnh liệt nhưng trong lòng, chất chứa không biết bao nhiêu khát vọng tội nghiệp. Người nông dân ấy không có cái bề ngoài coi được. Anh xấu trai, nghèo nàn, chậm chạp, vụng về. Thú vui độc nhất cho cả một kiếp đời dài là trưa trưa, tìm một chỗ dừng chân thật tịch mịch, nghếch mũi lên không mơ màng mằn mò nhổ từng sợi lông mũi … ‘Tiểu thế giới’ của Bốn Thôi, sao mà buồn quá đỗi!”

Nguyễn Khải, Nguyễn Mộng Giác đều đã đi vào cõi vĩnh hằng. Võ Phiến thì chả cần bận tâm gì đến những chuyện phù thế nữa. Còn lớp người Việt kế tiếp nông dân Bốn Thôi thì sống cũng không khác xưa là mấy. Tuy không còn phải “né viên đạn của bên này, tránh viên đạn của bên kia, đỡ ngọn roi của bên nọ” như trong thời chiến nhưng cuộc sống của họ (xem ra) cũng không được an lành hay yên ổn gì cho cho lắm – nếu chưa muốn nói là vất vả, bầm dập, te tua, và tơi tả.

Chị Phạm Thị Lành có thể được coi như lớp con cháu của Bộn Thôi thời hậu chiến – theo như tường thuật của báo Dân Việt, số ra ngày 29 tháng 12 năm 2011:

Vợ chồng chị Lành trước đây sống cùng mẹ ruột là bà Phạm Thị Thèm trong một căn nhà cũ nát rộng chỉ 27m2, dựng nhờ trên đất của một người thân ở xã Long Khánh A, huyện Hồng Ngự, Đồng Tháp.

Hai người anh trai của chị Lành, một người bị tâm thần, một chết sớm trong khi các chị dâu lại bỏ đi, để lại đến 6 đứa bé côi cút cho bà Thèm và chị Lành nuôi dưỡng. Do bà Thèm đau ốm liên miên lại không có đất sản xuất nên vợ chồng chị Lành đang tính tới phương án đưa đại gia đình lên Bến Lức hành nghề bán vé số…

Không có đất sản xuất, đã đành. Vợ chồng chị Lành – tất nhiên – cũng không có học vấn, nghề nghiệp hay vốn liếng gì ráo trọi. Họ cũng trơ trụi y như Bốn Thôi ngày trước, dù đất nước không còn có nhu cầu phải đánh thắng một đế quốc to nào nữa. Bởi vậy, hai người  mới phải “tính tới phương án đưa đại gia đình lên Bến Lức hành nghề bán vé số” thay vì cầm cố chạy chọt để có được những cách mưu sinh “qúi phái” hơn: lao động xuất khẩu hoặc làm ô sin ở Đài Loan hay đâu đó.

Chị Phạm Thị Lành. Ảnh: Dân Việt

Tuy nhiên, trong cái rủi của chị Phạm Thị Lành lại có cái may – vẫn theo tường thuật của phóng viên Hữu Danh, báo Dân Việt:

Dư luận Long An đang xôn xao với thông tin một người bán vé số nghèo đưa cho khách 10 tờ vé số trúng thưởng 6,6 tỷ đồng để nhận lại 200 ngàn đồng tiền xổ số, dù khách chỉ “mua thiếu qua điện thoại. Khoảng 16 giờ ngày 15.11, còn hơn 20 vé bị ế nên chị gọi điện thoại cho mối quen là anh Đỗ Ngọc Tuấn, 41 tuổi, ngụ khu phố 2, đường Bà Chánh Thâu, thị trấn Bến Lức, huyện Bến Lức – hành nghề chạy xe ba gác – nài nỉ mua dùm. Anh Tuấn đồng ý mua 20 tờ, gồm ba số khác nhau. Gọi là “mua” nhưng chỉ là nói qua điện thoại, anh Tuấn cũng chưa trả tiền.

Chiều cùng ngày, lốc vé 10 tờ của công ty XSKT tỉnh Bến Tre mang dãy số đuôi X91207 trúng đặc biệt 4 tờ, trúng an ủi 6 tờ. Nhiều đồng nghiệp bán vé số bảo người mua chưa trả tiền, coi như chưa mua và nói chị Lành toàn quyền định đoạt “số phận” 10 tờ vé số với trúng thưởng với giá trị lên đến gần 7 tỷ đồng này.

Tuy nhiên, chị Lành gạt phăng và cho rằng anh Tuấn là một trong những khách hàng thường xuyên mua vé số ủng hộ chị. Rất nhiều lần anh mua qua điện thoại và dù không trúng lần nào nhưng anh vẫn trả tiền sòng phẳng. Do đó, không thể vì tiền mà chị đánh mất chữ tín.

Ngay lập tức, chị bấm điện thoại gọi anh Tuấn đến quán cà phê để bàn giao số trúng. Cảm kích trước lòng tốt của người bán vé số, anh Tuấn đã tặng 1 tờ trúng giải đặc biệt cho người bán vé số nghèo.

Hôm đó tôi để dành cho mình một tờ, lại được tặng thêm một tờ nên đổi thưởng được gần 3 tỷ đồng. Số tiền này, vợ chồng tôi đem về quê cất nhà mới cho mẹ, số còn lại gửi ngân hàng lấy lãi nuôi các cháu…

Định mệnh, rõ ràng, đã mỉm cười với gia đình Phạm Thị Lành. Cũng như bao nhiêu người khác, tôi đã âm thầm chia vui cùng chị và niềm vui này âm ỉ mãi cho đến sáng nay – trước khi đọc qua  nghiên khảo của Hurun Consulting Group tại Thượng Hải, do tiến sĩ Alan Phan sưu tập và phổ biến trên trang nhà của ông –  vào hôm 21 tháng 8 vừa qua:

“Có 64% nhà giàu tại Trung Quốc đã và đang lên kế hoạch để xin di cư ra nước ngoài. Nhà giàu được định nghĩa là có tài sản hơn 12 triệu RMB (hay khoảng 1.8 triệu USD). Điểm đến mong ước? Mỹ (52%), Canada (21%), Úc (9%) và châu Âu (7%). Hai phần ba số người trên sẵn sàng bỏ quốc tịch Trung Quốc.

Trong 5 năm vừa qua, nhà đầu tư Trung Quốc đã đổ 18 tỷ USD vào địa ốc Mỹ và 8 tỷ chỉ trong 2013. Theo Wealth Insight qua tin của CNBC, người Trung Quốc hiện đang nắm giữ 685 tỷ USD trị giá tài sản tại nước ngoài (không tính đến những đầu tư chính thức của công ty quốc doanh hay tư doanh của Trung Quốc có giấy phép).

Ảnh lấy từ: gocnhinalan.com

Alan Phan cũng ghi lại đôi lời tâm tình của một người bạn đang ở “đỉnh cao” của giới thượng lưu ở Trung Hoa, khi Shangai đang vào lúc hôn hoàng:

“Tôi không biết là kinh tế Trung Quốc đến lúc nào thì vỡ trận? Nhanh hay chậm, nhưng chắc nó sẽ đến. Có quá nhiều bất cập và scandals đang được dấu kín bởi nhiều phe quyền lực mà sẽ được phơi bày trong các cuộc tranh chấp. Dù mang tiếng là tỷ phú, nhưng tôi biết mình chỉ là con tốt thí, cá nằm trên thớt, và tai họa luôn đe dọa.”

…..

“Tôi đã cho gia đình qua Mỹ định cư rồi. Chỉ còn một thân một mình và chỉ cần 30 phút thông báo là tôi biến khỏi Shanghai. Chúng tôi bỏ đi nhưng vẫn yêu xứ sở này vô cùng. Không khí, thực phẩm nhiễm độc, người dân ngu xuẩn và vô văn hóa, quan chức tham lam và ăn cướp…nhưng đó chỉ là chuyện nhỏ. Chuyện quan trọng là với những người giàu có, quyền thế như chúng tôi mà còn cảm thấy bất an thường trực…thì người dân nghèo túng ngoài kia sẽ thấy thế nào. Một ngày gần đây, sức ép sẽ làm vỡ tung nắp đậy…và như anh hay nói…God help.”

Thượng Hải và Bến Lức cách nhau xa lắm. Tài sản và địa vị của ông tỉ phú Shangai so với chị Phạm Thị Lành cũng vậy. Dù vậy, họ có cùng chung một môi trường sống bất minh và bất an cùng “với tai hoạ luôn luôn đe doạ” như nhau – theo như ghi nhận của tác giả Nguyễn Thiện Nhân, trên diễn đàn Việt Nam Thời Báo:

“Báo cáo Kiểm toán Nhà nước vừa “bêu’ tên những doanh nghiệp nhà nước (DNNN) lỗ khủng tới mức báo động đỏ, và danh sách các công ty kinh doanh tới mức âm vốn chủ sở hữu. 5/50 công ty do Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đầu tư thua lỗ 3.702 tỷ đồng, 11/31 công ty do Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đầu tư thua lỗ 6.342 tỷ đồng, 7/24 công ty do Tổng công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị (UDIC) đầu tư lỗ lũy kế 339,6 tỷ đồng; 6/57 công ty thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) lỗ 118,3 tỷ đồng…

Dự án boxite Tây Nguyên (Nhân Cơ và Tân Rai) vẫn tiếp tục lỗ lã, dự kiến năm 2014 sẽ lỗ trên 500 tỷ đồng và còn tiếp tục lỗ tương đương trong 2015.

Kinh tế ảm đạm, thất nghiệp gia tăng, vật giá leo thang, thâm hụt ngân sách, nguy cơ vỡ nợ ngân sách…là bức tranh kinh tế từ đây đến hết 2015 và có khả năng làm đổ vỡ nền kinh tế trước thềm Đại hội XII của Đảng.”

Khi “kinh tế Trung Quốc đến lúc nào thì vỡ trận” thì “chỉ cần 30 phút thông báo” là ông bạn của tiến sĩ Alan Phan sẽ biến khỏi Shangai, sau khi đã chuyển hết tiền ra nhà băng ở nước ngoài còn chị Phạm Thị Lành thì không thể làm như vậy. Chị không thể rời Bến Lức, và e rồi cũng sẽ mất trắng số tiền nhỏ nhoi đã mang “gửi ngân hàng lấy lãi nuôi các cháu!”

Tôi chỉ còn biết cầu mong sao thời gian qua “các cháu” đã tạm đủ lớn để cũng có thể bán vé số tự nuôi thân thôi. Chứ ở Việt Nam, hiện nay, đám thường dân như chúng tôi còn biết mưu sinh bằng cách nào khác nữa?

Chia tay Thương xá Tax

Chia tay Thương xá Tax

“Nếu anh bắn vào quá khứ bằng khẩu súng lục,

tương lai sẽ bắn lại anh bằng một khẩu đại bác”

Bất cứ cuộc chia tay nào cũng mang theo nhiều luyến tiếc. Chia tay giữa người và người thường mang những kỷ niệm riêng tư, những giây phút bên nhau bỗng chốc trở thành kỷ niệm. Nếu như có cơ hội gặp lại nhau thì người xưa đã trở thành “cố nhân” trong muôn vàn khuôn mặt.

Không phải chuyện chia tay chỉ xảy ra giữa người và người. Có những cuộc chia tay ngoài ý muốn và mang tính cách rộng lớn hơn của nhiều người với nơi mình đã sinh sống, thậm chí còn chia tay với cả một đất nước khi phải bỏ xứ ra đi.

Trong bài viết này, tác giả không nói đến những cuộc chia tay như vậy mà chỉ bàn đến sự chia tay Thương xá Tax của những người Sài Gòn đã từng, không ít thì nhiều, gắn bó với một địa điểm thường lui tới tại trung tâm thành phố có tên gọi “Hòn ngọc Viễn Đông”.

Tôi biết đến Thương xá Tax từ năm 1953 khi gia đình từ miền Bắc di cư vào Nam thời Đệ nhất Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Tax đã hiện diện tại Sài Gòn từ năm 1880 trong thời Pháp thuộc với cái tên “Cửa hàng Charner” (Grands Magasins Charner – GMC) tại góc của hai con đường Charner (Nguyễn Huệ ngày nay) và đường Bonard (Lê Lợi).

Những cái tên đường “rặt Tây” như Charner, Bonard được chính phủ Bảo hộ đặt từ năm 1865 để vinh danh Đô đốc Hải quân Pháp, Léonard Victor Joseph Charner (1797-1869) và Louis Adolphe Bonard (1805 – 1867), là những người có liên quan đến việc chinh phục Đông Dương của quân đội Pháp.

Trước đó, đường Bonard mang một cái tên rất bình dân: “Đường 13”. Đó chỉ là một con đường trong một xóm nhỏ mà cư dân địa phương thời đó gọi bằng một cái tên cũng dân dã không kém: “Xóm Thơm”.

Mãi đến năm 1955, Ban Quản lý Định cư dưới thời Tổng thống Diệm mới đổi tên đường Charner thành Nguyễn Huệ, đường Bonard trở thành Lê Lợi. Hai tên đường từ đó mang tên các danh nhân Việt thay thế những ông tướng Pháp và rất may, Nguyễn Huệ – Lê Lợi vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.

Vị trí của “Cửa hàng Charner” (Grands Magasins Charner – GMC) thời Pháp thuộc

“Cửa hàng Charner” do “Công ty Thuộc địa các Nhà hàng lớn” (Société Coloniale des Grands Magasins – SCGM) xây dựng với số vốn ban đầu 12 triệu franc sau lên đến 30 triệu vào năm 1925.

Ban đầu, mặt tiền của tòa nhà Grands Magasins Charner, thường được gọi tắt là GMC, có gắn tháp đồng hồ theo kiến trúc của Pháp nhưng pha trộn những đường nét Á Đông với mái cong trên tháp.

Mặt tiền của GMC với tháp đồng hồ

GMC tọa lạc tại vị trí đẹp nhất của trung tâm Sài Gòn, kinh doanh các mặt hàng mà thời Pháp thuộc gọi là “bazar”, những sản phẩm đắt tiền, sang trọng được nhập cảng từ Pháp và Anh nhằm phục vụ cho người Pháp tại thuộc địa, giới thượng lưu Sài Thành và các đại điền chủ Nam kỳ Lục tỉnh.

GMC thời đó cũng đăng quảng cáo trên báo, tự hào là “Cửa hàng rộng nhất; Nhiều mặt hàng nhất và là Thương xá tốt nhất” (Magasins les plus vastes; Magasins les mieux assortis; Magasins vendant le meilleur marché).

Bên cạnh các cửa hàng buôn bán, GMC còn có “phòng trà” (salon de thé) và “quán bar kiểu Mỹ” (bar Americain) với lời quảng cáo “Vào cửa tự do” (Entrée Libre) như để khuyến khích khách vãng lai đến mua sắm [*].

Quảng cáo của Cửa hàng Charner

Năm 1942, việc kinh doanh lúc này rất thịnh vượng nên “Công ty Thuộc địa các Nhà hàng lớn” xây thêm một tầng lầu và đập bỏ phần tháp đồng hồ ngoài mặt tiền. Thay vào đó là hàng chữ GMC.

Đối với những người Sài Gòn xưa, bộ mặt mới của GMC với 3 tầng lầu trong thập niên 1940 so với 2 tầng lầu nguyên thủy có phần “đồ sộ” hơn nhưng hình như tòa nhà đã đánh mất vẻ “cổ kính” với tháp đồng hồ mang những đường nét kiến trúc Á Đông.

Phải chăng đó cũng là “cái giá” phải trả khi người ta mải chạy theo cái được gọi là “đồ sộ” mà quên đi những nét kiến trúc đặc thù của một công trình cổ. Xin nhắc lại, đó mới chỉ là thay đổi đầu tiên trong thập niên 1940 vì tòa nhà CMG sẽ còn phải đương đầu với nhiều thử thách những năm sau đó.

GMC với 3 tầng lầu vào năm 1942

Tại đây người ta có thể mua các mặt hàng từ bình dân như đồ chơi trẻ con cho con cháu… đến những thứ đắt tiền như đồng hồ, máy ảnh hoặc nữ trang bằng vàng hay kim cương cho vợ hoặc người tình. Nói chung, Tax có thể coi là “thiên đàng mua sắm” của người Sài Gòn vào những thập niên 60 và 70.

Ngày xưa, trong “lộ trình” của người Sài Gòn khi “bát phố Bonard” không thể nào thiếu mục “ghé Tax”, đó có thể vào lúc khởi đầu hay kết thúc của cuộc hành trình dọc theo đường Lê Lợi. Quả thật, bên trong Tax người mua hàng bao giờ cũng ít hơn người “bát phố” với mục đích chỉ muốn được hòa mình vào đám đông. Dân “bát phố” thậm chí trong túi chỉ đủ tiền để uống ly nước mía Viễn Đông nằm ở góc Lê Lợi và Pasteur!

Vào những ngày cuối tuần còn có sự xuất hiện của những bộ kaki vàng, màu áo của sinh viên sĩ quan Thủ Đức được về phép. Họ vào đấy để tìm lại cảm giác được sống giữa Sài Gòn đô hội sau một tuần đổ mồ hôi trên thao trường nắng cháy. Mai đây khi tốt nghiệp, ra trường họ sẽ tỏa đi các đơn vị khắp 4 vùng chiến thuật và sẽ ít có cơ hội nhìn lại hậu phương Sài Gòn!

CMG trở thành Tax từ thập niên 1960

Vào thập niên 60, người Sài Gòn rất hãnh diện với Tax. Hãnh diện từ thiết kế bên ngoài lẫn bên trong thương xá. Đường dẫn lên lầu là hai cầu thang bằng đồng hình vòng cung trông sang trọng như trong một dinh thự quyền quý.

Khách vào đây có thể đứng tựa lan can nhìn xuống cảnh mua bán tấp nập phía dưới hoặc ghé cửa hàng giải khát, gọi ly cà phê đá hay nước ngọt uống để làm dịu cơn nóng nực lúc ban trưa.

Buổi sáng tại Pôle Nord ngay tầng trệt cũng có phục vụ điểm tâm, vừa ăn vừa nhìn thiên hạ qua lại trước mặt. Buổi tối ngồi nhấm nháp chai bia Con Cọp, bia 33… một cái thú tương đối rẻ tiền mà Tax đem lại cho bất cứ ai ghé chơi vào bất cứ lúc nào.

Đó chính là sợi dây vô hình “buộc” người Sài Gòn với Tax cũng như La Pagode, Givral, Brodard, Thanh Thế hay kem Mai Hương đã một thời gắn bó với cuộc sống Sài Gòn. Những cái tên quen thuộc giờ đây đã trở thành hoài niệm đối với những người nay tóc đã điểm sương.

Thương xá Tax năm 1965

Thương xá Tax cũng đã đi vào văn chương, thơ phú và âm nhạc của người Sài Gòn. Trong ký ức một thời của mình, Ngô Thụy Miên ngồi tại hải ngoại viết về những quán hàng quen thuộc của Sài Gòn xưa:

“Em nhớ không, La Pagode, Givral của những sáng hẹn hò, Hoàng Gia, Pôle Nord của những chiều đưa đón, dạo phố tết Nguyễn Huệ, Lê Lợi tấp nập người qua, và những tối ghé quán Bà Cả Đọi, rồi Đêm Mầu Hồng. Cái không khí ấm áp tràn đầy tình thương của quê hương đó, làm sao có thể ngờ được chỉ trong vài tháng đã chỉ còn để lại một mùa Xuân, một mùa Xuân cuối cùng của những đổi thay…”

Bài hát “Chiều trên Phá Tam Giang” của Trần Thiện Thanh lại diễn tả một buổi tối Sài Gòn sắp vào giờ giới nghiêm và Thương xá Tax đang chuẩn bị đóng cửa:

“… Giờ này thương xá sắp đóng cửa, người lao công quét dọn hành lang, giờ này thành phố chợt bừng lên để rồi ta nghỉ sớm. Ôi Sài Gòn, Sài Gòn giờ giới nghiêm, ơi Sài Gòn, Sài Gòn giờ giới nghiêm, ôi em ơi Sài gòn không buổi tối…”.

“Thương xá Tax” của Sài Gòn xưa

Sau ngày Sài Gòn “đổi chủ”, Thương xá Tax cũng được “đổi đời”! Nhu cầu mua sắm của người Sài Gòn được thay thế bằng “hệ thống bao cấp nhu yếu phẩm” của nhà nước cho nên sự nhộn nhịp của một trung tâm mua sắm ngày nào nay không còn lý do để tồn tại. Tax biến thành nơi trưng bày mặt hàng sản xuất của các công ty quốc doanh.

Đến năm 1978, Tax được “cởi trói” và “hóa kiếp” thành “Cửa hàng Phục vụ Thiếu nhi Thành phố”. Người bán hàng, khi đó được gọi là “Mậu dịch viên”, lại “thắt khăn quàng đỏ” như thiếu nhi để bán mặt hàng chính là đồ chơi cho trẻ con được sản xuất bởi các công ty quốc doanh.

Dĩ nhiên là “phục vụ thiếu nhi” như tên gọi của cửa hàng nhưng chắc chắn việc trả tiền là của các bậc phụ huynh. Họ chắt chiu từng đồng trong thời khó khăn bao cấp để “mua” nguồn vui cho trẻ thơ qua những con búp bê bằng nhựa tái sinh hay chiếc xe hơi làm bằng gỗ.

Đến năm 1981 Tax một lần nữa đổi tên thành “Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp Thành phố” trực thuộc Sở Thương Nghiệp và trở thành một trong những cửa hàng lớn nhất Việt Nam thời bấy giờ. Tax khi đó mang cái tên thật lạ lẫm, vừa dài vừa khó nhớ đối với người Sài Gòn nên trong suốt thời gian từ 1981 đến 1990 người ta vẫn dùng cái tên cũ: “… đi lên Tax”“mua cái này ở Tax…”.

Thương xá Tax trở thành “Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp Thành phố”

Đáng chú ý là “Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp Thành phố” đã thu hút một số du khách đến từ các nước Đông Âu nên người Sài Gòn lại có một cái tên “bán chính thức” là “Chợ Liên Xô” hay ngắn gọn hơn, “Chợ Nga”! Khách hàng nhiều khi đóng thành từng thùng để chuyển về nước những mặt hàng… tư bản.

Vào thời điểm “thịnh vượng”, tòa nhà trở thành một trung tâm giao dịch với các mặt hàng phong phú, từ quần áo, may mặc, mỹ nghệ đến những mặt hàng xa xỉ đều xuất hiện.

Hình như nhà nước cũng ý thức được “Thương hiệu Tax” đã ăn sâu vào nếp nghĩ của người dân nên ngày 19/1/1998 dòng chữ “Thương xá Tax” chính thức được đặt trên nóc tòa nhà! Thế là sau bao nhiêu năm “lận đận”, tòa nhà được “phục hồi danh hiệu” đã có từ xưa.

Thương hiệu “Thương xá Tax” xuất hiện trở lại năm 1998

Bước vào thời kỳ “đổi mới” trước sự cạnh tranh từ các trung tâm thương mại do người nước ngoài đầu tư và quản lý, một lần nữa áp lực cạnh tranh đã buộc Thương xá Tax phải tự làm mới mình.

Thương xá từ đó thuộc quyền quản lý của “Công ty Bán lẻ Tổng hợp Sài Gòn”, trực thuộc “Tổng Công ty Thương mại Sài Gòn” với tên thương mại là SATRA (Saigon Trading Group), được thành lập từ năm 1995.

SATRA bên cạnh thương hiệu “Thương xá Tax”

Đọc đến đây chắc hẳn có bạn đọc thắc mắc tại sao bài viết này lại mang tựa đề “Chia tay Thương xá Tax”?

Nếu chú ý theo dõi báo chí trong nước ta sẽ hiểu ngay vì sao sẽ phải chia tay. Báo Tuổi trẻ, ngày 20/8/2014, đưa tin trong một bài viết có tựa đề “Tiểu thương Thương xá Tax “chết đứng”:

“Việc thương xá Tax thông báo kết thúc hợp đồng thuê mặt bằng kinh doanh tại đây trước ngày 1/10 đã khiến các tiểu thương than “chết đứng”. Trong khi đó khu vực kinh doanh trên đường Nguyễn Huệ (Q. 1, TPHCM) bị ảnh hưởng bởi việc xây nhà ga metro cũng kêu trời khi việc kinh doanh bị ảnh hưởng nghiêm trọng”.

Trên Thanh niên Online, tác giả Trần Thùy Linh sau khi nhắc lại việc “xóa sổ” khu vực Passage Eden đã viết:

“… Và mấy hôm nay, có một nỗi đau tưởng đã lên da non, bỗng bùng lên, dữ dội, khi nghe tin thương xá Tax sẽ vĩnh viễn bị xóa sổ. Tôi tin rằng những “vô tri, vô giác” ấy, những “vật cần phải hy sinh cho sự phát triển” trên khu đất vàng ấy, đã đau lắm. Một cao ốc 40 tầng hiện đại, sáng choang sẽ mọc lên, thay thế cho Tax già nua cũ kỹ đã 134 tuổi. Khu trung tâm Sài Gòn sẽ còn gì?” .

Mô hình dự án toà tháp Tax Plaza cao 40 tầng

Kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Dũng trong bài viết “Sài Gòn đang trở nên xa lạ” đưa ra nhận xét mang tính cách chuyên môn:

“Với một diện tích khiêm tốn vài trăm ha, trung tâm Sài Gòn vốn được quy hoạch thành khu trung tâm hành chính và công cộng nay lại đang được nén chặt đến mức ngộp thở. Sài Gòn xưa giờ đang trở thành đô thị của một nước xa lạ nào đó, những bản sắc vốn có và hồn đô thị của thành phố 300 năm tuổi đang bị xóa nhòa.

Liệu bạn có còn tìm được nét Sài Gòn xưa ở những cao ốc mang tên nước ngoài như Royal Garden, Eva Royal Plaza, Avalon, Sailing Tower, Centec Tower hay Kenton Residence, Gemadept Tower, The Manor? Cái tên Sài Gòn cũng được nhắc tới nhưng lại rặt một nét lai căng, ví như Saigon Sky Garden, Saigon Plaza…”

Người Sài Gòn ngồi nhìn Thương xá Tax trước ngày chia tay

Tôi bỗng rùng mình khi nhớ lại một câu nói của ai đó. Câu này đã được dẫn trước bài viết nhưng cũng xin ghi lại một lần nữa để chúng ta đừng quên:

“Nếu anh bắn vào quá khứ bằng khẩu súng lục,

tương lai sẽ bắn lại anh bằng một khẩu đại bác”

***

Chú thích:

[*] Đọc thêm bài viết “Quảng cáo Sài Gòn xưa: Thời Pháp thuộc” tại:

http://chinhhoiuc.blogspot.com/2013/05/quang-cao-sai-gon-xua-thoi-phap-thuoc.html

Con đường lệ thuộc vừa được gia cố

Con đường lệ thuộc vừa được gia cố

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-08-29

08292014-dbtn-nn.mp3

140828014-305.jpg

Chủ tịch TQ Tập Cận Bình tiếp ông Lê Hồng Anh nhân chuyến thăm Trung Quốc hôm 26/8/2014

Photo courtesy of baothainguyen.org.vn

Quan hệ Việt Trung sau sứ mạng Lê Hồng Anh bắt đầu được chi phối từ “nguyên tắc ba điểm” mà hai bên đạt được ngày 27/8/2014 ở Bắc Kinh. Có vẻ cuộc khủng hoảng giàn khoan Hải Dương 981 đã chìm vào dĩ vãng, để hai Đảng Cộng sản khôi phục và tăng cường quan hệ và tất nhiên là sự hợp tác toàn diện giữa hai nhà nước.

Trả lời câu hỏi này, TS Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS một tổ chức tư nhân tự giải thể, từ Hà Nội phát biểu:

“Có lẽ là như vậy bởi vì ba điểm này quay trở lại thỏa thuận tháng 10/2011 giữa ông Hồ Cẩm Đào và ông Nguyễn Phú Trọng thì thực sự nó quay trở lại như cũ. Và cái như cũ đó đã thực sự thất bại không giải quyết được điều gì khi mà Trung Quốc tiếp tục gây hấn trong thời gian vừa qua đặc biệt hồi tháng 5/2014. Tôi nghĩ nó không giải quyết được một cái gì cơ bản.”

Thông Tấn xã Việt Nam và báo chí do nhà nước quản lý đã đưa tin về  nội dung nguyên tắc ba điểm, cho thấy hai Đảng và hai Nhà nước phải làm hết sức để tăng cường hợp tác giữa hai bên trên mọi lĩnh vực như chính trị ngoại giao, quốc phòng, an ninh, kinh tế. thương mại, thực thi pháp luật, nhân văn và nhiều lĩnh vực khác. Hai bên  tuân thủ các nhận thức chung quan trọng của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, nghiêm túc thực hiện “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc,” sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, đồng thời tích cực nghiên cứu và bàn bạc các giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, kể cả vấn đề hợp tác cùng phát triển; kiểm soát tốt những bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp; duy trì đại cục quan hệ Việt Trung và hòa bình ổn định trên Biển Đông.

Không thể quay lưng lại với Trung Quốc. Không nên đẩy họ thành kẻ thù của chúng ta mà luôn luôn giữ tình hữu nghị. Nhưng phải luôn luôn cảnh giác, vì cái bài học lịch sử nó cho thấy như thế.
– TS Nguyễn Thanh Giang

Phải chăng Việt Nam-Trung Quốc hai đảng hai nước sẽ lại tiếp tục con đường cũ, Việt Nam sẽ tiếp tục ràng buộc với Trung Quốc về mọi lĩnh vực từ kinh tế cho tới chính trị và quân sự. Chúng tôi nêu câu hỏi này với TS Nguyễn Quang A và được ông trả lời:

“Tôi rất ngại là nó đúng như thế. Đó là một thảm họa chứ không có một chút gì tích cực cả, bởi vì cả một chính sách như thế đã tỏ ra thất bại. Tất cả những hành động trước chuyến đi của ông Đặc phái viên vài ngày, cũng như trong khi ông ấy ở Bắc Kinh thì đều thấy tình hình rất không thuận lợi đối với Việt Nam. Và tôi nghĩ, gần như là một sự quay trở lại sự qui phục trước khi ông ấy đi, người ta đưa tin về chuyện Việt Nam tự nhận lỗi rồi để cho công nhân Trung Quốc vào rất là đông ở Vũng Áng và các nơi khác; rồi kiểm soát chặt chẽ vấn đề Internet; rồi xử vụ Bùi Thị Minh Hằng một cách hết sức là lố lăng. Tôi nghĩ đấy là những dấu hiệu tất cả chỉ theo một hướng mà tôi nghĩ là không hay ho gì.”

Đối những ý kiến lo ngại về việc Hà Nội và Bắc Kinh trở lại thực hiện ba nhận thức chung, vốn dĩ là những thỏa thuận giữa hai bên từ thời kỳ Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào, có thể dẫn tới việc Trung Quốc và Việt Nam sẽ cùng khai thác tài nguyên ở vùng biển đông thuộc chủ quyền VN, tương tự như thỏa thuận 2011 ở vịnh Bắc Bộ. TS Nguyễn Quang A nhận định:

“Đó là chuyện rất là nguy hiểm và trong trường hợp chưa giải quyết một cách rõ ràng. Tôi đồng ý việc các bên song phương, đa phương phải giữ nguyên trạng và sau đó có một thỏa thuận với nhau như thế nào đó, vạch rõ rằng phần nào là của ai…v..v…Chỉ sau đó mới tính chuyện khai thác như thế nào, phần của ai thì khai thác, lúc ấy phía bên kia cũng có thể tham gia vào như một đối tác quốc tế bình đẳng. Chứ còn ở trong tình trạng nhập nhằng ai cũng bảo của mình mà bảo cùng khai thác, tôi không cũng không hiểu cùng khai thác kiểu như thế nào. Trường hợp này chỉ có kẻ mạnh là lấn lướt áp đảo mà thôi. Nó sẽ là mầm mống của những xung đột tiếp theo và tôi nghĩ cách giải quyết như thế này chỉ là mua thời gian và để cho những xung đột tiềm ẩn vẫn còn nguyên ở đó và nó có thể lại hiện ra dưới dạng này dạng khác và có thể ở mức độ nguy hiểm hơn.”

Ảnh hưởng Trung Quốc quá lớn

baothainguyen.org-250.jpg

Ông Lê Hồng Anh gặp gỡ Trưởng Ban Liên lạc Đối ngoại Trung ương Trung Quốc Vương Gia Thụy trong chuyến thăm TQ hôm 26/8/2014

TS Nguyễn Thanh Giang, một nhà phản biện nhiều kinh nghiệm, nhìn nhận một thực tế là Việt Nam không thể thoát khỏi ảnh hưởng Trung Quốc. Trả lời Kính Hòa Đài ACTD, TS Nguyễn Thanh Giang phát biểu từ Hà Nội:

“Không thể quay lưng lại với Trung Quốc. Không nên đẩy họ thành kẻ thù của chúng ta mà luôn luôn giữ tình hữu nghị. Nhưng phải luôn luôn cảnh giác, vì cái bài học lịch sử nó cho thấy như thế. Đó là một sự cay đắng, đối với hàng xóm láng giềng thì lúc nào chúng ta cũng muốn hữu hảo, nhưng bài học lịch sử lẫn cái thời gian gần đây đều cho thấy là chơi với họ thì nguy hiểm lắm.

Cho nên hữu nghị thì vẫn phải hữu nghị, không nên đặt vấn đề đối chọi với họ. Cho nên tôi rất mong các nhà lãnh đạo đề cao cảnh giác với Trung Quốc, và đề cao cảnh giác với trong cả nội bộ lãnh đạo, xem có những người nào có tư tưởng thần phục Trung Quốc, dựa vào Trung Quốc để giữ lợi riêng, giữ lấy ghế của mình, thì phải loại họ khỏi thành phần lãnh đạo, ra khỏi dân tộc.”

Trong giai đoạn khủng hoảng giàn khoan trên Biển Đông kéo dài 10 tuần lễ, Việt Nam nỗ lực tranh thủ bè bạn quốc tế trong đó Hoa Kỳ, Nhật Bản và những tưởng chính sách xoay trục châu Á của Washington là một cơ hội giúp Việt Nam bảo vệ chủ quyền biển đảo.

Thỏa thuận mang tên “nhận thức chung nguyên tắc ba điểm về tiếp tục phát triển quan hệ Việt-Trung” có thể làm Việt Nam vuột mất cơ hội tạo thế đứng độc lập với sự giúp đỡ của bè bạn quốc tế. TS Nguyễn Quang A nhận định:

“Tôi nghĩ rằng có thể Việt Nam đã bỏ lỡ một cơ hội rất là quan trọng. Và nếu bảo rằng bỏ mất một cơ hội ngả về bên này hay bên kia thì chưa chắc là đúng. Nhưng mà để có một thế đứng vững vàng độc lập hơn có thể có nhiều hơn mối liên kết, nhiều hơn mối liên minh để mà bảo vệ quyền lợi của mình thì tôi nghĩ rằng những khả năng như thế cũng vẫn còn chứ không phải hoàn toàn không có.

Chúng ta chưa biết một cách chi tiết những nội dung đó như thế nào và mới chỉ được báo chí nêu là thống nhất ba điểm ấy. Rõ ràng đánh giá ngay có thể là còn sớm.”

Vấn đề Biển Đông, quan hệ Việt Trung và thỏa thuận nhận thức nguyên tắc ba điểm sẽ vẫn còn tạo ra mầm mống của những xung đột tiếp theo và cách giải quyết này, theo lời TS Nguyễn Quang A, chỉ là mua thời gian và duy trì những xung đột tiềm ẩn. Nó sẽ có dịp hiện ra dưới dạng này hay dạng khác và có thể ở mức độ nguy hiểm hơn.

 

Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thu được kết quả gì?

Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thu được kết quả gì?

Anh Vũ, thông tín viên RFA
2014-08-30

08302014-learn-hcm-result.mp3

Cuộc thi Tuổi trẻ học tập đạo đức Hồ Chí Minh năm 2013

Cuộc thi Tuổi trẻ học tập đạo đức Hồ Chí Minh năm 2013

Courtesy Tuoitrehaiduong.vn

Việt nam đang kỷ niệm 45 năm ngày mất của ông Hồ Chí Minh, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh việc học tập tấm gương của ông. Tuy nhiên, thực tế cho thấy đạo đức xã hội nói chung và đạo đức của các quan chức Đảng viên luôn rêu rao học theo gương chủ tịch Hồ Chí Minh nói riêng ngày càng  xuống cấp trầm trọng.

Việc tổ chức học tập và làm theo tấm gương Hồ Chí Minh đã được Đảng CSVN duy trì thường xuyên và liên tục nhiều năm qua.

Xuống cấp và suy đồi

Trong bài viết trên Tạp chí Cộng sản  ngày 10.08.2014, nhân kỷ niệm 45 năm thực hiện Di chúc của Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cho rằng : “Các cấp ủy, tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên cần phải tiếp tục thực hiện thật tốt việc tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; kiên quyết đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức;”

Điều đó cho thấy rằng việc học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã không giải quyết được tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ đảng viên. Mà nó hầu như ngày càng tăng lên.

Thực trạng đạo đức xã hội xuống cấp hiện nay là sự thật và là điều đáng báo động, nó không chỉ là sự xuống cấp đạo đức của các quan chức, cán bộ đảng viên, mà sự xuống cấp của đạo đức xã hội là hệ quả. Bằng chứng là TBT Nguyễn Phú Trọng đã phải thừa nhận là có một bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng viên đã suy thoái đạo đức

TS. Hán – Nôm Nguyễn Xuân Diện thấy rằng, thực trạng đạo đức xã hội xuống cấp hiện nay là sự thật và là điều đáng báo động, nó không chỉ là sự xuống cấp đạo đức của các quan chức, cán bộ đảng viên, mà sự xuống cấp của đạo đức xã hội là hệ quả. Bằng chứng là TBT Nguyễn Phú Trọng đã phải thừa nhận là có một bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng viên đã suy thoái đạo đức.

Từ Sài gòn TS. Nguyễn Xuân Diện nói với chúng tôi:

“Phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã được phát động từ nhiều chục năm nay trong Đảng viên Đảng CSVN – mà quan chức thì toàn là đảng viên hết. Tuy vậy kết quả cho thấy thu được rất ít ỏi và không có gì là đáng kể. Bằng chứng là đạo đức xã hội và đạo đức của quan chức xuống cấp rất trầm trọng”

Học tập theo gương Hồ Chí Minh từ bé

Học tập theo gương Hồ Chí Minh từ bé. Hội thi“Tuyên truyền viên giỏi” về học tập và làm theo tấm gương đạo đức phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Đối với dân chúng, họ chẳng quan tâm đến việc học tập tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh, Nhà báo Ngô Nhật Đăng, một cựu chiến binh thấy rằng: người dân trông vào cách hành xử của chính quyền đối với ông Hồ Chí Minh qua việc thực hiện Di chúc của ông, trên thực tế đã không diễn ra như họ đã nói, hơn nữa người dân biết ý thức hệ CS nay đã bị nhân loại đào thải thì việc học tập đạo đức Hồ Chí Minh đối với họ chỉ là việc vô bổ và khiến cho người ta chán ngán.

Từ Sài gòn, Nhà báo Ngô Nhật Đăng nói với chúng tôi:

“Tôi nghĩ rằng phần lớn mọi người cũng nghĩ như tôi, mọi người không quan tâm tới vấn đề này. Cá nhân tôi thì cho rằng việc đem nhân thân của ông Hồ Chí Minh ra để gán vào những chuyện khác hoặc thần thánh hóa quá mức là điều rất không nên. Cho nên tôi thấy việc tổ chức học tập tấm gương ông Hồ Chí Minh là việc tốn kém và vô ích. Thậm chí nó phản lại tác dụng mà những người tổ chức họ mong muốn ”.

Tôi thấy đạo đức xã hội suy đồi là do người ta đã xây dựng một cái ý thức hệ, mà cái ý thức hệ ấy được xây dựng bằng sự dối trá, sự sợ hãi, của thông tin một chiều. Những cái đó đã phá hủy tất cả những nền tảng đạo đức xã hội, đạo đức của dân chúng ngày xưa – những cái tốt đẹp nhất của người Việt

Nhà báo Ngô Nhật Đăng

Nguyên nhân

Trả lời câu hỏi nguyên nhân nào đã dẫn đến việc đạo đức xã hội xuống cấp nghiêm trọng như hiện nay?

Nhà báo Ngô Nhật Đăng cho rằng đạo đức xã hội hiện nay không phải là xuống cấp, mà theo ông là đã ở mức suy đồi trầm trọng từ thượng tầng kiến trúc, tới hạ tầng cơ sở.

Nhà báo Ngô Nhật Đăng nói:

“Tôi thấy đạo đức xã hội suy đồi là do người ta đã xây dựng một cái ý thức hệ, mà cái ý thức hệ ấy được xây dựng bằng sự dối trá, sự sợ hãi, của thông tin một chiều. Những cái đó đã phá hủy tất cả những nền tảng đạo đức xã hội, đạo đức của dân chúng ngày xưa – những cái tốt đẹp nhất của người Việt. Tất cả các môi trường từ trong gia đình đến nhà trường và xã hội đã bị phá vỡ đến tận gốc. Nên nó mới dẫn  đến tình trạng đạo đức xã hội suy đồi như hiện nay”.

LS. Nguyễn Văn Đài, một nhà bất đồng chính kiến ở Hà nội thấy rằng sự tuyệt đối hóa quyền lực của Đảng CSVN là nguyên nhân cơ bản khiến đạo đức xã hội băng hoại như hiện nay.

Ông Võ Nguyên Giáp và lãnh tụ Hồ chí Minh năm 1945

Ông Võ Nguyên Giáp và lãnh tụ Hồ chí Minh năm 1945

LS. Nguyễn Văn Đài cho biết:

“Một nhà nước tuyệt đối hóa quyền lực sẽ tha hóa tuyệt đối về đạo đức và lối sống. Ở VN cũng vậy thôi, khi Đảng CSVN tuyệt đối hóa về quyền lực của họ thì tất cả các quan chức Cộng sản thì quyền lợi luôn đi đôi với lợi ích. Và do vậy nó sẽ luôn luôn làm tha hóa đạo đức cán bộ của họ từ trung ương đến địa phương ”.

Đánh giá về việc tổ chức các đợt học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh, TS. Nguyễn Xuân Diện thấy rằng đây là một việc làm mang tính hình thức, tốn thời gian và tiền bạc, chỉ với mục đích tạo hiệu ứng về bề nổi để tuyên truyền. Theo ông đây không phải là biện pháp giáo dục cần thiết và phù hợp.

Một nhà nước tuyệt đối hóa quyền lực sẽ tha hóa tuyệt đối về đạo đức và lối sống. Ở VN cũng vậy thôi, khi Đảng CSVN tuyệt đối hóa về quyền lực của họ thì tất cả các quan chức Cộng sản thì quyền lợi luôn đi đôi với lợi ích. Và do vậy nó sẽ luôn luôn làm tha hóa đạo đức cán bộ của họ từ trung ương đến địa phương

LS. Nguyễn Văn Đài

TS. Nguyễn Xuân Diện nói:

“Sự suy thoái đạo đức trong Đảng ngày càng trầm trọng, cho dù Đảng và nhà nước đã phát động rất mạng mẽ và tốn rất nhiều tiền của cho phong trào học tập đạo đức Hồ Chí Minh.  Nhưng không đem lại mấy kết quả cho việc chấn hưng lại đạo đức của Đảng viên Đảng CSVN nói riêng và đạo đức của toàn xã hội VN nói chung .”

Khi được hỏi cần phải có các giải pháp gì để ngăn chặn việc đạo đức xã hội xuống dốc như hiện nay?

LS. Nguyễn Văn Đài thấy rằng truyền thống đạo đức của người VN đã có và được hoàn thiện từ lâu đời. Đạo đức xã hội hiện nay bị tha hóa cũng bởi đạo đức của đội ngũ cán bộ công chức và quan chức đã làm tha hóa người dân, vì người dân phải dùng tiền để đổi lại dịch vụ mà lẽ ra bất kỳ nhà nước nào cũng phải phục vụ họ vô điều kiện.

LS. Nguyễn Văn Đài nói:

“Cái nguồn gốc của sự tha hóa đó là do quyền lực tuyệt đối, quyền lực tuyệt đối thì sinh ra tha hóa tuyệt đối. Vì thế muốn ngăn chặn sự suy giảm về đạo đức xã hộihay sự suy giảm đạo đức của tầng lớp quan chứ thì phải thay đổi thể chế chính trị. Tức là phải dân chủ hóa xã hội, phải chobaso chí được tự do và độc lập với chính quyền, phải có tổ chức đảng phái chính trị đối lập để giám sát đảng cầm quyền. Đồng thời phải có các cuộc bầu cử tự do để cử trị lựa chọn những cán bộ đại diện cho mình”

Vạn vật đều vận động và phát triển không ngừng, đó là quy luật của tự nhiên. Tư tưởng và đạo đức cũng luôn vận động và phát triển có quy luật của nó. Việc cứ rêu rao kêu gọi học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, một con người có tư tưởng là ý thức hệ Cộng sản đã bị đào thải chỉ nhằm phục vụ cho đảng cầm quyền. Đảng này cho thấy đã mất tính chính đáng từ lâu nên nay họ vẫn phải ‘phong thánh’ cho ông Hồ Chí Minh như là một lãnh tụ vĩ đại để dân chúng tôn thờ.

10 LÝ DO CHỊU ĐAU KHỔ

10 LÝ DO CHỊU ĐAU KHỔ

Trầm Thiên Thu

Horatio G. Spafford là một luật sư giỏi ở Chicago hồi thập niên 1800 và là bạn của nhà truyền giáo Dwight L. Moody.  Luật sư Spafford được kính trọng và tốt lành, nhưng ông vẫn không tránh khỏi những lúc khổ đau.

Trước hết, ông mất đứa con trai vì chứng ban đỏ (scarlet fever).  Rồi vốn đầu tư làm ăn cũng bị thua lỗ.  Không lâu sau đó, 4 cô con gái của ông chết trong một vụ đắm tàu ở Đại Tây Dương, chỉ còn bà vợ Anna của ông sống sót nhờ bám vào chiếc phao rồi được cứu.

Tại sao bi kịch xảy ra với người tốt?  Luật sư Spafford không thể hiểu, nhưng rồi ông vẫn vững tin vào quyền năng của Thiên Chúa.  Mọi người có thể tôn vinh Thiên Chúa ngay cả trong những lúc đen tối nhất của cuộc đời.  Theo Kinh Thánh, đây là 10 lý do để chúng ta chịu đau khổ.

1. Chúng ta chịu đau khổ vì chúng ta phạm tội. Chẳng có ai công chính (Rm 3:10), nghĩa là ai cũng là tội nhân (Rm 3:23). Những người không có đức tin thì sống biệt lập với Chúa, còn những người có đức tin thì trải nghiệm từng khoảnh khắc, từng ngày, từng mùa… về niềm tin vào Thiên Chúa. Quy luật tâm linh được tạo ra để triệt tiêu tội lỗi trong đời sống của tín hữu, quy luật này nghiêm khắc, kể cả cái chết: “Ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình. Vì lẽ đó, trong anh em, có nhiều người ốm đau suy nhược, và cũng có lắm người đã chết.  Giả như chúng ta tự xét mình, thì chúng ta đã không bị xét xử.  Nhưng khi Chúa xét xử là Người sửa dạy chúng ta, để chúng ta khỏi bị kết án cùng với thế gian” (1 Cr 11:29-32).

2. Chúng ta chịu đau khổ vì người khác phạm tội. Vợ chồng và con cái chịu đau khổ vì bị lạm dụng.  Công dân chịu đau khổ vì chính quyền tham những.  Satan xúi giục vua Đa-vít thống kê dân số Ít-ra-en, và có 470.000 người chịu hậu quả (2 Mcb 10:20).  Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết không phải vì lỗi của Ngài mà vì tội lỗi của nhân loại.

3. Chúng ta chịu đau khổ vì chúng ta sống trong thế giới tội lỗi. Tai nạn và tai họa xảy ra, mỗi năm có hàng triệu người chết. Thánh Phaolô nói rằng “muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8:22).  Đó là hậu quả của tội lỗi.

4. Chúng ta chịu đau khổ vì chúng ta được tự do chọn lựa. Quyền năng Thiên Chúa và khả năng của con người là hai sự thật trong Kinh Thánh.  Chúng ta không là robot, chúng ta có thể chọn lựa vì Thiên Chúa cho chúng ta quyền tự do.  Đôi khi sự chọn lựa của chúng ta gây đau khổ – cho mình và cho người khác.  Randy Alcorn viết: “Nếu Thiên Chúa tước hết vũ khí và ngăn chặn các tài xế say xỉn, thế giới này sẽ không là thế giới thật để con người chọn lựa…  Trong một thế giới như vậy, người ta sẽ chết mà không có nhu cầu, chỉ thấy mình ở Địa ngục”.

5. Chúng ta chịu đau khổ vì sự sống đời đời. Thế giới này không là nhà của chúng ta, chúng ta chỉ là khách vãng lai.  Chúng ta là công dân Nước Trời.  Thánh Phaolô nói: “Tất cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa; nhưng từ xa các ngài đã thấy và đón chào các điều ấy, cùng xưng mình là ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất” (Dt 11:13).  Chính đau khổ ngăn cản chúng ta bám víu vào thế gian này, vì thế gian sẽ qua đi.

6. Chúng ta chịu đau khổ để không gặp điều tệ hại hơn. Đau khổ làm cho chúng ta tập trung vào nguyên nhân, để cố gắng sửa đổi trước khi tệ hại hơn.  Cơn sốt dẫn chúng ta tới bác sĩ, tại đây chúng ta được chẩn đoán và chữa trị.  Ở mức lớn hơn, đau khổ cho chúng ta biết có gì đó bất ổn, và dẫn chúng ta tới Chúa Giêsu.  Bóng tối, đau khổ, cô đơn, lo buồn…  Mọi thứ đó giúp chúng ta nắm bắt thực tế cuộc sống, giúp chúng ta cần đến Chúa.

7. Chúng ta chịu đau khổ để thông phần đau khổ với Đức Kitô và nên giống Ngài. Thánh Phaolô nói: “Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3:10-11).  Nhờ kinh nghiệm đau khổ mà chúng ta có thể an ủi người khác khi họ chịu đau khổ.  Khi chúng ta chịu đau khổ là chúng ta được nên giống Đức Kitô.  Thánh Phaolô phân tích: “Một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời” (2 Cr 4:17).

8. Chúng ta chịu đau khổ để tôn vinh Thiên Chúa. Chúa Giêsu động viên chúng ta nếu chúng ta chịu đau khổ vì danh Ngài: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (Mt 5:10-11).  Ngài cảnh báo rằng thế gian sẽ ghét chúng ta vì họ đã ghét Ngài trước (Ga 15:18).  Trong thư gởi giáo đoàn Do Thái, chương 11, có người nhờ đức tin mà được chúc lành bằng của cải và thành công, có người lại được chúc lành bằng đau khổ và cái chết.  Thiên Chúa không phân loại các anh hùng đức tin này tùy trường hợp của họ, Ngài chỉ tôn vinh họ vì vững mạnh đức tin.  Nếu các Kitô hữu có cuộc sống thoải mái thì sẽ làm cho Phúc Âm hấp dẫn vì các lý do sai lệch.

9. Chúng ta chịu đau khổ để trưởng thành tâm linh. Chúa Giêsu là Đấng hoàn hảo, vậy mà Ngài còn phải chịu đau khổ để học được đức vâng phục.  Thánh Phaolô cho biết: “Nhờ Chúa, tôi rất vui mừng vì cuối cùng thấy tình cảm của anh em đối với tôi lại thắm thiết.  Tình cảm đó vẫn sống động, nhưng anh em chỉ thiếu dịp tỏ ra.  Không phải vì thiếu thốn mà tôi nói thế, bởi lẽ tôi đã học sống tự lập trong bất cứ hoàn cảnh nào.  Tôi sống thiếu thốn cũng được, mà sống dư dật cũng được.  Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen cả.  Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết” (Pl 4:10-13).  Thánh Phaolô xác định: “Để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại” (2 Cr 12).

10. Chúng ta chịu đau khổ để hy vọng vinh quan Nước Trời. Kh 21:4 nói: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ.  Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất.”  Thánh Phaolô nói: “Tôi nghĩ rằng những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8:18).

Có nhiều lý do để chúng ta chịu đau khổ, đôi khi khó nhận biết chính xác.   Như trường hợp Thánh Gióp, ông không bao giờ biết việc đánh cược của Satan với Thiên Chúa.  Nhưng đây là sự thật:

  • Thiên Chúa có toàn quyền trên mọi đau khổ của chúng ta.
  • Thiên Chúa vẫn hiện hữu ở bên chúng ta khi chúng ta gặp đau khổ.
  • Thiên Chúa luôn hành động với chúng ta khi chúng ta gặp đau khổ.
  • Nếu Thiên Chúa muốn chúng ta biết lý do, Ngài sẽ nói với chúng ta (qua Kinh Thánh hoặc cách nào đó).
  • Thiên Chúa tác động qua cái ác và đau khổ để sinh ra điều tốt, loại bỏ điều xấu mà Satan và kẻ xấu có thể làm cho chúng ta.

Ngày nào cũng có đau khổ, nhưng hãy nghĩ về hạnh phúc vĩnh hằng ở Nước Trời mai sau.  Randy Alcorn viết: “Số phận của chúng ta không lệ thuộc vào những người kiện cáo, hoặc những chính trị gia, luật sư, giáo viên, huấn luyện viên, sĩ quan quân đội, hoặc chủ nhân.  Họ có thể chống lại chúng ta – và Thiên Chúa hoàn toàn có thể chuyển những điều xấu thành điều tốt nhất cho chúng ta”.

Trầm Thiên Thu

(chuyển ngữ từ OnceDelivered.net)
http://conggiao.info/index.aspx

From: suyniemhangngay1 & Anh chị Thụ Mai gởi

CẢM NHẬN VỀ CUỘC ĐỜI VÀ CON NGƯỜI THÁNH AUGUSTINÔ

CẢM NHẬN VỀ CUỘC ĐỜI VÀ CON NGƯỜI THÁNH AUGUSTINÔ

Tâm Thương

Mỗi lần lắng nghe tiểu sử cuộc đời của nhiều vị thánh, chúng ta thường có những suy nghĩ gì?  Phải chăng chúng ta cảm nhận các ngài dường như là những người không có khuyết điểm gì cả?  Và dường như chúng ta cảm thấy đời sống của các ngài thật cao và thật xa với đời sống của chúng ta?

Bạn thân mến, một tác giả đạo đức Công giáo nào đó đã cảm thấu như sau: “Không có một thánh nhân nào mà không có quá khứ.  Và không có một tội nhân nào lại không có tương lai.”  Nếu đọc lại tiểu sử cuộc đời và con người của thánh Augustinô, chắc hẳn chúng ta sẽ cảm nhận được phần nào câu nói trên.  Cuộc đời của thánh nhân được cắm vào ba cột mốc quan trọng: một con người tội lỗi, một tội nhân biết sám hối, và một thánh nhân hết lòng yêu mến Chúa và Giáo Hội.  Vậy, mỗi Kitô hữu chúng ta đã cảm nhận được gì ở ba khoảnh khoắc quan trọng này nơi của cuộc đời thánh Augustinô?

Một con người đắm chìm trong tội lỗi

Trước tiên, thánh Augustinô là một con người tội lỗi.  Có người đã ví von rằng: nếu trên trần gian này có bao nhiêu thứ tội lỗi thì Augustinô đã phạm hình như gần hết. Vậy, Augustinô đã phạm những tội lỗi nào?  Thiết nghĩ, không cần phải kể hết ra đây.  Nhưng tội mà Augustinô thường phạm nhiều nhất, nặng nhất đó là chạy theo nhục dục của xác thịt. Bởi vậy, trong quyển Tự Thú thánh Augustinô đã viết thế này: “Nhưng khốn thay, đang lúc tình dục sôi nổi, con buông theo sự hăng say của làn sóng bên trong, mà bỏ Chúa và lỗi phạm các giới răn của Chúa…”  Ngoài ra, Augustinô đã nhiều lần chạy theo bè rối chống lại đạo Chúa.  Mất đức tin. Điều đáng nói nhất là tội dâm dục của Augustinô: “Vào năm 16 tuổi, xác thịt của con, khi con chịu quyền cai trị và hoàn toàn vâng phục cơn sốt tình dục, mà sự sỉ nhục của loài người dung túng, còn luật Chúa thì nghiêm cấm.”  Thật vậy, Augustinô đã ngụp lặn và đắm chìm trong những đam mê của xác thịt.

Bạn thân mến, đã là con người ai mà chẳng có tội.  Ai cũng có quá khứ vấp ngã và sai lầm.  Vì thế, thánh Augustinô cũng không ngoại lệ. Điều này cho thấy cuộc đời và con người của thánh Augusitnô thật gần gũi với chúng ta biết bao.  Chúng ta cũng yếu đuối như Augustinô.  Chúng ta cũng nhiều lần khô khan, nguội lạnh và kém đức tin như Augustinô.  Chúng ta cũng là một con người đắm chìm trong tội lỗi như Augustinô.  Chìm đắm trong đam mê xác thịt.  Chìm đắm trong tiền bạc và quyền lực tiếng tăm v.v…  Tuy nhiên, Augustinô đã thức tỉnh và sám hối trở về với Chúa.

Một tội nhân biết quay đầu sám hối

Tiếp đến, điều đáng ca ngợi nơi Augustinô bởi vì ông là một tội nhân biết quay đầu sám hối. Augustinô nhận ra mình đã yêu Chúa quá muộn màng: “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa quá trễ: Chúa ở bên trong tâm hồn, còn con, con sống hời hợt bên ngoài và chỉ chú tâm tìm kiếm Chúa ở đó.  Chúa hiện diện ở trong con nhưng con không sống ở trong Chúa.  Nhiều tạo vật đã kềm hãm khiến con sống xa Chúa.  Chúa đã tỏa ánh sáng chiếu soi và đã phá tan màn đêm tối dày đặc nơi con.”  Vâng, Augustinô đã sám hối nhờ ơn Chúa và tình yêu thương tha thứ của Chúa.  Chúa đã dùng Giám mục Ambrosiô để thức tỉnh lương tâm Augustinô.  Chúa đã dùng những lời dạy của thánh Phaolô để Augustinô nhận ra tội lỗi tày trời của mình: “Ðừng sống theo dục tính và lạc thú dâm ô, nhưng hãy mặc lấy Ðức Giêsu Kitô”.

Vậy, có lần nào bạn và tôi biết sám hối như thánh Augustinô chưa?  Con người ai cũng có vấp ngã. Điều quan trọng là sau những lần vấp ngã chúng ta có quyết tâm đứng dậy bắt đầu lại hay không mà thôi.  Chúa không bao giờ đặt dấu chấm hết cho bất kỳ một tội nhân nào.  Lòng thương xót của Chúa luôn rộng lòng tha thứ cho những ai biết sám hối quay đầu trở về.  Dù vậy, thật không dễ cho chúng ta tí nào.  Nhưng Augusitinô đã làm được điều đó.

Một thánh nhân hết lòng yêu mến Chúa và phục vụ Giáo hội bằng cả tình yêu

Cuối cùng, từ một tội nhân Augustinô đã trở thành một thánh nhân hết lòng yêu mến Chúa và phục vụ Giáo hội.  Sau những tháng ngày đắm mình trong nhục dục xác thịt, Augustinô cảm thấy tâm hồn mình trống rỗng: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con và linh hồn con còn khắc khoải cho đến khi nào được yên nghỉ trong Chúa mà thôi.”  Kể từ giây phút ấy, Augustinô xác tín Chúa là tất cả đời mình.  Từ xác tín sâu xa ấy, thánh Augustinô đã phục vụ Giáo hội.  Phục vụ bằng suy tư sắc bén của trí tuệ.  Phục vụ bằng tài giảng thuyết sâu sắc đánh động lòng người.  Và phục vụ bằng cả tình yêu.  Bởi vậy, thánh nhân nói: “Hãy yêu đi rồi muốn làm gì thì làm.”

Bạn thân mến, một tác giả đã cảm nhận câu nói trên như sau: “Câu nói trên của Thánh Augustinô tự nhiên thoáng vang lên trong trí khiến tôi phải trầm mình và suy nghĩ, đúng là thánh nhân luôn có những cái hơn người như thế!”  Dù vậy, phải chăng chúng ta cũng cảm nhận thánh nhân cũng mang thân phận con người mỏng giòn và yếu đuối như chúng ta.  Thánh nhân thật gần gũi với chúng ta.  Từ một con người trở thành một tội nhân.  Từ một tội nhân trở thành một thánh nhân.  Quả thật, chỉ có Chúa mới có thể làm thay đổi cuộc đời 360 độ như thế.   Mừng lễ thánh Augustinô là dịp để mỗi Kitô hữu chúng ta lắng đọng tâm hồn để suy nghĩ và cầu nguyện về bản thân, về cuộc đời và về Thiên Chúa.

Tâm Thương

From: ngocnga_12 & Anh chi Thụ Mai gởi

Một xã hội sặc mùi kim tiền

Một xã hội sặc mùi kim tiền

Song Chi.

RFA

Câu chuyện thứ nhất là về việc thương xá Tax, một trung tâm thương mại sầm uất và lâu đời nhất của VN, được người Pháp xây dựng vào năm 1880 đến nay đã 134 năm tuổi, sắp bị phá bỏ đế xây dựng Trung tâm Thương mại Dịch vụ Văn phòng Khách sạn cao 40 tầng.

Thông tin này khiến nhiều người Việt trong và ngoài nước gắn bó với Sài Gòn, cảm thấy nuối tiếc. Bởi thương xá Tax không chỉ là nơi để mua sắm, từ lâu, nó đã trở thành một hình ảnh thân thuộc của Sài Gòn, cùng với những công trình kiến trúc xưa khác ở khu vực trung tâm như chợ Bến Thành, Nhà thờ Đức Bà, Bưu điện thành phố, Nhà hát Thành phố (trước kia là Hạ nghị Viện của chế độ Việt Nam Cộng hòa), Trụ sở Ủy Ban Nhân dân TP.HCM (trước kia là Tòa Đô Chính)…

Trong những năm qua, những người yêu Sài Gòn đã phải chứng kiến một phần linh hồn của Sài Gòn xưa dần dần mât đi như vậy.

Theo bài báo “Sài Gòn xưa cần được bảo tồn và phát triển” trên tờ Kinh tế Sài Gòn:

“Tại hội thảo “Bảo tồn di sản và phát triển đô thị bền vững” do Viện Nguyên cứu phát triển TPHCM tổ chức, TS. Fanny Quertamp Nguyễn, Giám đốc Trung tâm Dự báo và Nghiên cứu đô thị (PADDI – một dự án hợp tác cấp địa phương giữa Vùng Rhône – Alpes và TPHCM) cho biết, từ năm 1993-2013, trong khu trung tâm TPHCM có đến 207 công trình xây dựng có giá trị di sản bị phá bỏ hoặc biến dạng”.

Một trong những người lên tiếng trước việc thương xá Tax bị đập bỏ, kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Dũng viết trong bài “Một Sài Gòn đang trở nên xa lạ” (báo Pháp luật TP.HCM):

“…Còn các công trình kiến trúc công cộng tiêu biểu, như là sự kết hợp hài hòa giữa phong cách kiến trúc phương Tây và nét trang trí châu Á của tòa nhà Bưu điện thành phố, phong cách kiến trúc Roman cải biên pha trộn với nét phong cách kiến trúc Gotich của Nhà thờ Đức Bà, cùng các công trình kiến trúc đặc sắc khác như Trụ sở UBND thành phố, Nhà hát thành phố, Khách sạn Continental,… đã và đang bị “đè bẹp” bởi vô số cao ốc như khối nhà Diamond Plaza, ba tòa tháp Kumho…

…Theo thống kê, hiện có khoảng 180 cao ốc đã và đang mọc lên ở khu trung tâm Sài Gòn. Hàng loạt dự án cũng đang tiếp tục triển khai như dự án SJC Tower (diện tích 4.000 m2, cao 58 tầng, chiếm bốn mặt đường Lê Lợi – Nam Kỳ Khởi Nghĩa – Lê Thánh Tôn – Nguyễn Trung Trực). Dự án Sài Gòn Center giai đoạn 2 cũng vừa được chủ đầu tư làm lễ khởi công. Không lâu nữa, gần ngôi chợ Bến Thành đậm chất Sài Gòn xưa sẽ mọc lên cao ốc 45 tầng với 200 căn hộ cùng khu chức năng văn phòng, thương mại.

Chưa hết, góc đường Lê Lợi – Huỳnh Thúc Kháng cũng đang được rào lại để xây một khách sạn to đùng. Rồi BV Sài Gòn cũng được hoán chuyển thành khách sạn năm sao 400 phòng cùng với một khu văn phòng rộng 30.000 m2…

…Đôi khi tôi tự hỏi khu đô thị Thủ Thiêm cứ ì ạch thực hiện đã hơn 10 năm nay nhưng sao ở đó người ta không sớm xây dựng cao ốc, quảng trường, khu phức hợp? Tại sao không dời trung tâm hành chính về đó để tạo động lực thúc đẩy phố đông Sài Gòn, nhất là khi cầu, hầm Thủ Thiêm, đại lộ Đông Tây, đường cao tốc Long Thành – Dầu Giây, sân bay Long Thành đang dần được hình thành? Một phố đông hiện đại, ngăn nắp và một phố tây cổ kính, hoài niệm sẽ cùng phát triển và là một sự bổ sung hoàn hảo cho nhau. Vậy mà…”

Những cá nhân, ban ngành chịu trách nhiệm quản lý, lãnh đạo thành phố này luôn luôn có cách biện minh cho việc phá bỏ những công trình kiến trúc cổ rằng do nhu cầu phát triển, Sài Gòn cần phải hiện đại hóa, người dân phải biết chấp nhận hy sinh v.v….Nhưng câu hỏi đặt ra là trước khi đặt bút ký đồng ý phá bỏ cái cũ, xây cái mới, người ta đã thật tính toán hết mọi phương án khác chưa.

Vâng, tại sao không xây dựng những công trình mới tại Thủ Thiêm hay tại quận 7 nơi có khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng, tại sao cứ phải dồn cục vào khu quận 1, quận 3, phá những công trình cũ đi?

Hãy nhìn sang các thành phố xinh đẹp lâu đời của quốc gia khác, từ Paris, Rome, Athens, London, Warsaw… chính phủ các nước này luôn trân trọng và đặt yếu tố bảo vệ những công trình kiến trúc, những di sản văn hóa cổ xưa lên trên hết, và nếu có xây mới thì cũng phải hài hòa với cái cũ.

Câu chuyện thứ hai là dự án sách giáo khoa điện tử cho học sinh lớp 1-3 tại TP.HCM đang bị người dân phản ứng dữ dội.

Trước hết vì chuyện tốn kém-một cái máy tính bảng phụ huynh phải bỏ ra từ 3-5 triệu đồng để mua cho con em. Nhưng trên thực tế, theo các bài báo “Đề án trang bị máy tính bảng 4.000 tỷ: Kỹ sư tiết lộ tin bất ngờ” (VTC News) và “Lộ máy tính bảng giáo dục AIC giá bèo” (Tuổi Trẻ), thật ra giá tiền của một máy tính bảng chỉ khoảng 900,000 đồng và nếu mua với số lượng lớn như vậy thì chỉ còn 500,000-700,000. Tuổi thọ của cái máy tối đa là 1 năm, chưa kể tiền thay pin, các em tuổi còn nhỏ, hiếu động, xài mau hư mau bể, nào tiền sửa chữa lúc máy bị hư, tiền mua máy mới… Với gia đình nghèo, đây lại thêm một khoản tiền không nhỏ phải lo.

Nếu lấy lý do để cho các em nhỏ khỏi phải mang vác bao nhiêu sách nặng hàng ngày, sao Bộ Giáo dục không nghiên cứu giảm tải chương trình, hoặc cùng lắm, xây thêm những cái tủ, kệ với từng ngăn dành cho từng học sinh để các em có thể để sách tại trường, tại lớp, khóa lại, chỉ cuốn nào cần phải học cho ngày mai mới mang về nhà?

Điều quan trọng hơn, việc cho trẻ nhỏ xử dụng máy vi tính quá nhiều giờ trong ngày có ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe, mắt bị cận thị, rồi ai bảo đảm các em không dùng máy để chơi game? Và còn vô số cái hại khác mà những nhà chuyên môn cũng đã chỉ ra trong những ngày qua.

Ngay cả những quốc gia giàu có, phát triển trên thế giới cũng vẫn sử dụng sách giáo khoa cho trẻ em và không hề khuyến khích dùng sách giáo khoa điện tử, nếu thật sự ích lợi hơn sao họ không làm?

Và cuối cùng là thông tin gần 10,000 lao động Trung Quốc sắp đến Vũng Áng, Hà Tĩnh để đáp ứng nhu cầu công việc của công ty gang thép Formosa.

Việc lao động Trung Quốc tràn ngập ở VN không còn là chuyện mới mẻ gì từ lâu nay. Ai cũng biết, Trung Quốc thắng thầu rất nhiều công trình ở VN, và cứ mỗi công trình được thi công thì nhà thầu Trung Quốc lại đưa người Trung Quốc sang, trong số đó không chỉ những người có chuyên môn, các kỹ sư mà cả lao động phổ thông cũng rất nhiều.

Một nghịch lý là kỹ sư, thạc sĩ, cử nhân VN bị thất nghiệp đầy rẫy. Theo báo Thanh Niên thì “162.000 cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp là con số được Bộ LĐ-TB-XH, Tổng cục Thống kê và Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đưa ra trong bản tin thị trường lao động số 2.2014 vào sáng 1.7.” (“Để không còn cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp”). Và từ nhiều năm qua, người VN phải bôn ba đi lao động xuất khẩu, làm thuê khắp thế giới!

Trên đây chỉ là 3 trong số rất nhiều tin tức, câu chuyện trái tai gai mắt xảy ra ở VN trong những ngày gần đây. Thoạt nhìn tưởng như chẳng liên quan gì đến nhau, thuộc những những đề tài, lĩnh vực khác xa nhau. Nhưng chúng lại vẫn có những điểm chung.

Thứ nhất, hầu hết các quyết định từ phía các cơ quan, bộ máy nhà nước VN hiện nay đều xuất phát từ một chữ Tiền. Vì tiền, vì cái lợi trước mắt, người ta sẵn sàng xóa sổ một công trình kiến trúc xưa, sẵn sàng đưa ra một dự án phi nhân tính đối với trẻ con-thế hệ tương lai của đất nước, sẵn sàng chấp nhận cho người nước ngoài vào giành công ăn việc làm của hàng ngàn, hàng vạn lao động Việt.

Mỗi một chữ ký, một cái gật đầu thông qua như vậy là Tiền với rất nhiều con số 0 phía sau!

Thứ hai, hầu hết các quyết định đều không hề vì dân vì nước. Mà đâu phải chỉ những chuyện “lặt vặt, cỏn con” như vài cái công trình kiến trúc cổ hay sách giáo khoa điện tử cho trẻ em? Cả những quyết định to đùng gây thua thiệt, rủi ro và nguy hiểm cho đất nước, dân tộc về kinh tế, môi trường, sinh thái, an ninh quốc phòng như cho phép khai thác bauxite ở Tây Nguyên, hay cho thuê hàng trăm ngàn hecta rừng đầu nguồn tại các tỉnh biên giới phía Bắc, lớn hơn nữa là những thỏa thuận ký kết song phương, bí mật giữa hai đảng, hai nhà nước cộng sản Việt-Trung v.v… họ còn làm được kia mà.

Và cuối cùng, trong một quốc gia khi người dân không hề được hỏi ý kiến trước mọi quyết định dù nhỏ dù lớn của nhà nước, khi không có các đảng phái đối lập, những tổ chức dân sự, tòa án, báo chí độc lập để lên tiếng ngăn chặn mọi chủ trương, chính sách sai trái từ địa phương đến trung ương, cũng là để kìm hãm, chia sẻ bớt quyền lực của nhà nước đó thì những việc làm sặc mùi tiền, mùi “lợi ích nhóm”, gây thiệt hại nặng nề cho dân cho nước, đã, đang và sẽ tiếp tục ngang nhiên diễn ra. Để rồi người dân chỉ có thể nuối tiếc, than thở, hoặc phẫn nộ đứng nhìn mà thôi.

Bởi, đất nước này không phải của 90 triệu con dân Việt, đất nước này chỉ là của riêng của đảng và nhà nước cộng sản!