ĐI TÌM CHÍNH MÌNH

ĐI TÌM CHÍNH MÌNH

Bạn phải đi ra khỏi nơi mà bạn cảm thấy thoải mái và đi vào vùng hoang dã của trực giác của bạn. Những gì bạn sẽ khám phá hẳn là rất tuyệt vời.  Những gì bạn sẽ khám phá ra chính là bạn – Alan Alda

Trong dụ ngôn viên ngọc quý của Phúc Âm Mát-thêu chương mười ba, Chúa Giêsu ví một người đi tìm nước trời giống như đi tìm viên ngọc quý, và khi tìm được rồi, người ấy bán hết những gì mình có mà đổi lấy viên ngọc quý báu ấy.  Có lẽ trong dụ ngôn này, một trong những điểm mà được Thánh sử nhấn mạnh đến là việc đi tìm.  Chúng ta có thể nói rằng chúng ta là những con người luôn luôn đi tìm. Ngày nào chúng ta còn sống là ngày đó chúng ta còn đi tìm.  Đây cũng là câu hỏi mà Chúa Giêsu hỏi hai người môn đệ đầu tiên trong Phúc Âm Gioan sau khi Ngài chịu phép rửa, “Các anh tìm gì thế?” (Ga 1:38).  Như vậy, có bao giờ chúng ta ngồi nhìn lại xem mình đang đi tìm gì không?  Những gì mà chúng ta đang theo đuổi tìm kiếm có giá trị thật cho cuộc sống hay là chúng ta chỉ đi tìm thú vui chóng tàn?  Chúng ta tìm kiếm ở đâu?

Ở xã hội tiêu thụ này, nơi chúng ta có thể đi tìm là ở những trung tâm mua sắm, hay chúng ta có thể đi tìm những câu chuyện bên lề, những đối thoại vô bổ ở những quán càfe, hay chúng ta đi tìm thú vui ở những cuộc cá độ, ở những nơi hẹn hò chè chén say sưa.  Trong thế kỷ hiện đại này, chúng ta có khuynh hướng đi tìm chính mình qua internet, ở những tin nhắn, hoặc email.  Lúc nào chúng ta cũng chú tâm vào cái điện thoại bên người và mong chờ những lời nhắn, những cuộc gọi để chứng tỏ mình còn được để ý và nhớ đến.  Thậm chí chúng ta bị chi phối đến nỗi gia đình chúng ta trở thành thứ yếu. Ngay cả trong thánh lễ khi mà chúng ta đang cùng với gia đình và cộng đoàn dân Chúa tụ họp để nhớ đến Đấng mà không ngừng ban phát ân sủng cho ta, lòng chúng ta vẫn hướng về một vật vô tri – đó là cái điện thoại.  Chúng ta để cho con người của chúng ta trở nên nô lệ và nghèo nàn đến mức độ đó sao? Thật sự chúng ta tìm được gì ở những nơi này?  Có bao giờ chúng ta tìm được nguồn vui đích thực ở những đam mê, ở một liên hệ mà thật sự không mang lại một chút gì cho cuộc sống, hay ở những vật vô tri vô giác này không?  Chúng ta có biết chúng ta thật sự đi tìm gì không?

Có lẽ điều chúng ta thật sự luôn đi tìm kiếm là chính con người thật của mình vì chúng ta chính là viên ngọc quý mà Thánh sử Mát-thêu muốn nói đến, và viên ngọc quý báu ấy chỉ có thể tỏ sáng qua Ngôi Hai Thiên Chúa.  Chúng ta không thể đi tìm viên ngọc quý của chính mình khi tâm hồn mình còn chưa biết hướng về Chúa Giêsu.  Bởi thế, chúng ta không cần phải bôn ba đi tìm nơi nào khác vì ngay trong tâm hồn chúng ta là một Thiên Đàng.  Tâm hồn chúng ta là thửa ruộng nơi mà Thiên Chúa ẩn giấu món quà cao quý nhất mà Ngài ban tặng cho nhân loại, đó là Ngôi Hai Thiên Chúa.

Khi chúng ta biết hướng về Ngôi Hai Thiên Chúa, lúc đó chúng ta biết hướng về Nước Trời vì Nước Trời đối với mỗi người là nơi mà Thiên Chúa và con người gặp gỡ, nơi mà Chúa Giêsu cùng với chúng ta cày cấy mảnh đất tâm hồn của mỗi người để đơm bông kết trái, nơi mà ta gặp được Đấng đã hạ mình xuống thế để chia sẻ những gì Ngài được mạc khải bởi Thiên Chúa Cha với chúng ta.  Lúc ấy trong ta là nơi mà trời với đất sum họp.  Chúng ta sẽ gặp được chính mình đang được ẩn dấu trong Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể.  Chúng ta chỉ có thể tìm được kho tàng của chính mình đang được bao bọc của ân sủng Thiên Chúa khi mà chúng ta biết mở lòng để cho sự gặp gỡ huyền diệu ấy được thực hiện trong tâm hồn mình.

Điều mỗi người chúng ta cần xin là biết mong mỏi đi tìm chính con người thật của mình, viên ngọc quý của mình, đang được ẩn giấu trong Chúa Giêsu.  Có lẽ chúng ta cũng có những kinh nghiệm tương tự trong cuộc đời đó là những gì chúng ta muốn tìm chỉ có thể thấy được khi chúng ta thật sự đi tìm, và hành trình đi tìm đó giúp chúng ta khám phá ra chính mình và biết chính mình hơn.  Đây là kết quả của vẻ đẹp bí ẩn của con người vì con người chúng ta được dựng nên thật đẹp, đầy Thần Khí Thiên Chúa, và mang vẻ đẹp bí ẩn ngàn đời của Ngài.  Mong rằng chúng ta dám dành thời gian để tìm chút tĩnh lặng trong tâm hồn, biết lắng nghe nhịp đập của con tim mình, và lắng nghe xem tâm hồn mình đang đi tìm kiếm gì.  Chúng ta cần biết tâm hồn chúng ta đang tìm kiếm vẻ đẹp của chính nó ở nơi nào, và nó đang ở đâu.  Hơn nữa, chúng ta cần phải biết tâm hồn chúng ta đang mong mỏi điều gì nơi Ngôi Hai Thiên Chúa và xin Ngài ban ơn để giúp chúng ta lên đường đi vào thửa ruộng nội tâm.

Củ Khoai

Ngocnga & Anh chị Thụ Mai gởi

Đế quốc Trung Quốc

Đế quốc Trung Quốc

Nguyễn Hưng Quốc

18.08.2014

Để chống lại âm mưu bành trướng trên Biển Đông của Trung Quốc, chỉ cần chút tỉnh táo, hầu như ai cũng nhận thấy Việt Nam chỉ có một con đường duy nhất: liên minh với nhiều nước khác, trong đó có Mỹ, hơn nữa, Mỹ phải là trung tâm của khối liên minh ấy. Nhưng, cũng chỉ cần chút tỉnh táo, chúng ta không thể không phân vân: Liệu, một, Mỹ có nhiệt tình giúp Việt Nam hay không; hai, nếu nhiệt tình, liệu Mỹ có thể thắng được Trung Quốc hay không?

Việc Mỹ có nhiệt tình giúp Việt Nam hay không tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Tuy nhiên, điều cần xác định ngay là: Mỹ không bắt buộc phải giúp Việt Nam trong trận chiến chống lại Trung Quốc ở Biển Đông. Thành thực mà nói, việc Trung Quốc công bố con đường chín khúc (hoặc con đường lưỡi bò) bao trùm cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa và một phần khá lớn lãnh hải Việt Nam chỉ có thể ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam và một số quốc gia như Malaysia, Philippines và Brunei chứ không ảnh hưởng gì đến Mỹ. Nhớ, ngày 23 tháng 11 năm 2013, Trung Quốc tuyên bố lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên bầu trời biển Hoa Đông, bao trùm khu vực quần đảo Điếu Ngư/Senkaku mà họ và Nhật Bản đang tranh chấp. Nội dung của tuyên bố này là tất cả các máy bay bay ngang qua khu vực ấy đều phải thông báo và chấp hành mệnh lệnh của Trung Quốc. Ngay sau lời tuyên bố của Trung Quốc, Mỹ cho hai chiếc phản lực cơ chiến đấu bay vào khu vực được gọi là vùng nhận dạng phòng không ấy. Trung Quốc im thin thít. Rồi cả Nhật lẫn Hàn Quốc đều cho máy bay chiến đấu đến vùng đó để tập trận. Mấy tháng sau, Trung Quốc vẫn giữ thái độ im lìm. Dường như họ thấy họ đi quá xa. Một cảnh huống tương tự cũng có thể xảy ra ở Biển Đông: Trung Quốc tuyên bố gì thì tùy họ, nhưng tàu bè của các nước lớn, trong đó, có Mỹ, cứ thản nhiên qua lại.

Dù sao, đó cũng là biện pháp cuối cùng. Cách tốt nhất vẫn là ngăn chận ngay từ đầu để Trung Quốc không hợp pháp hóa con đường lưỡi bò ngang ngược ấy. Trong trường hợp này, họ cần đến sự đóng góp của Việt Nam. Dĩ nhiên, với một điều kiện: Việt Nam phải thực sự muốn và có quyết tâm bảo vệ biển và đảo của mình.

Vấn đề thứ hai phức tạp hơn: Liệu Mỹ có thể thắng được Trung Quốc trên Biển Đông?

Để trả lời câu hỏi ấy, không nên quên sức mạnh của Trung Quốc: Về phương diện kinh tế, Trung Quốc có tổng sản phẩm trong nước (GDP) lớn thứ nhì trên thế giới; và theo dự kiến của nhiều nhà kinh tế học, trong vòng một hai thập niên tới, Trung Quốc sẽ vượt qua Mỹ về phương diện này. Về quân sự, Trung Quốc là nước chi tiêu cho quốc phòng lớn hàng thứ hai, chỉ sau Mỹ. Về dân số, cứ một trong bảy người trên mặt đất là người…Tàu.

Hugh White, một chuyên gia về Trung Quốc tại Úc, cho chưa bao giờ Mỹ đối đầu với một địch thủ đáng gờm như Trung Quốc. Trong lịch sử, tính từ thập niên 1880 đến thời gian gần đây, Mỹ có bốn đối thủ chính: Chủ nghĩa dân tộc ở Đức trong Đệ nhất thế chiến, chủ nghĩa phát xít Đức trong Đệ nhị thế chiến, chủ nghĩa Cộng sản trong thời Chiến tranh lạnh, và các nhóm Hồi giáo cực đoan trong trận chiến chống khủng bố hiện nay. Trong bốn đối thủ ấy, chỉ có Liên Xô là ít nhiều có thể uy hiếp Mỹ, nhưng chỉ có thể uy hiếp về quân sự; còn về kinh tế và nhiều phương diện khác, Liên Xô đều thua xa Mỹ. Trường hợp của Trung Quốc thì khác: Kinh tế của Trung Quốc lớn hơn hẳn kinh tế của Đức và Nhật thời Chiến tranh thế giới lần thứ hai; việc quản lý kinh tế của họ cũng giỏi hơn hẳn Liên Xô thời chưa sụp đổ.

Điểm yếu lớn nhất của Trung Quốc là họ không có đồng minh. Thời Chiến tranh thế giới thứ hai, Đức dù sao cũng có đồng minh (Nhật và Ý); thời Chiến tranh lạnh, Liên Xô càng có nhiều đồng minh, còn Trung Quốc hiện nay thì hầu như không có ai cả, hoặc nếu có, chỉ có một nước duy nhất: Bắc Hàn. Về phương diện này, Mỹ có ưu thế hơn hẳn. Trước, trong khu vực châu Á Thái Bình Dương, Mỹ có bốn đồng minh thân cận nhất: Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Philippines và Úc. Gần đây, trước âm mưu bành trướng của Trung Quốc, khả năng Ấn Độ ngả sang Mỹ là điều rất khả thi (dù giới bình luận còn phân vân vì, một, Ấn Độ có truyền thống trung lập; và hai, họ bị phân hóa rất trầm trọng về cả phương diện sắc tộc lẫn văn hóa và chính trị).

Trung Quốc có thể khắc phục tình trạng cô đơn của họ bằng hai cách: Một, nâng cấp quyền lực mềm bằng các chính sách ngoại giao văn hóa có hiệu quả (một trong các cách ấy là mở rộng các Viện Khổng Tử ở khắp nơi); và hai, vô hiệu hóa các quốc gia có khả năng chống lại họ. Khả năng thứ nhất, về quyền lực mềm, có lẽ còn lâu lắm, may ra, Trung Quốc mới có thể thành công. Một trong những điều kiện để phát huy quyền lực mềm là dân chủ, nhưng đó lại là điều Trung Quốc không có. Khả năng thứ hai gần hiện thực hơn: mua chuộc và dùng kinh tế để gây sức ép lên các quốc gia khác, đặc biệt trong khu vực châu Á để họ đừng công khai chống lại Trung Quốc. Chính sách này rõ ràng là có hiệu quả ít nhất đối với khối ASEAN: hầu như không nước nào dám công khai chống lại, thậm chí, phê phán Trung Quốc (trừ Philippines).

Tương quan lực lượng giữa Mỹ và Trung Quốc, do đó, tuy vẫn nghiêng về phía Mỹ, nhưng Mỹ lại không có sức mạnh áp đảo để có thể tự tin chấp nhận bất cứ một sự đối đầu nào. Một số nhà bình luận chính trị cũng cho một sự đối đầu như thế vừa nguy hiểm vừa khó thắng. Một giải pháp được đề nghị: Mỹ chấp nhận vai trò của Trung Quốc với tư cách một siêu cường và đồng ý san sẻ quyền lực của Trung Quốc, ít nhất, trong khu vực Á châu, đặc biệt ở Đông Á. Một sự thỏa thuận như vậy, nếu được thực hiện, có khi kẻ bị hy sinh đầu tiên là Việt Nam. Chắc chắn Mỹ không thể bỏ Nhật, Nam Triều Tiên và Úc – là những nước đồng minh lâu đời của Mỹ: Mỹ vẫn cần những nước ấy để kiềm chế Trung Quốc.

Nêu lên khả năng trên không phải để chúng ta tuyệt vọng. Nhưng đó là một cách nhắc nhở: Việt Nam không nên ỷ y là Mỹ cần mình. Không, để có được một liên minh cần thiết với Mỹ và các nước khác, Việt Nam cần phải cố gắng hết sức. Trong chính trị thế giới thời hiện đại, nếu chúng ta không có nhiệt tình, không ai tự dưng xông vào cứu mình cả.

 

Đau khổ có giá trị cứu độ

Đau khổ có giá trị cứu độ

Tác giả: Trầm Thiên Thu

Sợ khổ và sợ chết có thể là các điều bí ẩn không thể vượt qua. Nhưng đó là những điều không cần vượt qua. Không có niềm tin nào loại trừ chúng ta khỏi kinh nghiệm đau khổ, cô đơn, và chết chóc. Tiền bạc, quyền lực, và mọi thứ trên thế gian này thường làm cho thêm tệ hại hơn mà thôi.

Theo thiển ý của tôi, tôi bắt đầu thắc mắc lời của Cô-he-lét (Qoheleth) có tiêu cực hay không: “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân” (Gv 1:2). Những thứ trần tục này, dù điều đó tốt hay xấu, sẽ qua đi mà thôi. Nhưng điều này không làm giảm nhẹ nỗi sợ khổ và sợ chết. Mặc dù chúng qua đi, chúng vẫn bám theo chúng ta suốt đời.

Đối với tôi, bí ẩn này chỉ có thể giải quyết bằng Thập Giá. Đối với tôi, thập giá là nền tảng của thần học. Thập giá là khoảnh khắc hóa thân mà tình yêu và đau khổ gặp nhau. YÊU vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 và 16), và KHỔ vì phàm nhân ảnh hưởng bởi tội lỗi và sự chết (St 3:16). Đức Kitô đã tự chấp nhận tình trạng của loài người. Khi mô tả điều này trong ngôi vị của Ngài, tôi tin điều đó được hoàn tất nhờ sự hy sinh của Ngài. Chỉ trong cái chết của Ngài trên Thập Giá mà thôi: “Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1:19-20).

Tại sao tôi tiếp cận thần học này?

Thứ nhất, nếu Đức Kitô chấp nhận mặc xác phàm, Ngài cũng hoàn toàn chấp nhận mọi đau khổ, cô đơn, và cái chết. Ngài không tránh né, nhưng chịu đựng và trải nghiệm một cách trọn vẹn. Như vậy, bất kỳ sứ vụ nào được Chúa Giêsu linh hứng đều là sứ vụ vui vẻ đón nhận và trải nghiệm trọn vẹn thân phận con người.

Thứ nhì, nếu Đức Kitô không hòa giải mọi loài với Ngài thì sao? Nếu vậy, Ngài cũng không hòa giải những gì là hèn hạ đối với sự hiện hữu của phàm nhân chúng ta. Như vậy, gặp phải điều hèn hạ, ghê tởm và phiền toái là cơ hội để chúng ta gặp gỡ Đức Kitô trong tình trạng cao thượng, tốt đẹp và vui mừng. Không có sự phân biệt nào trong những gì Chúa Giêsu đã đưa vào bản tính nhân loại của chúng ta. Ngài trở nên giống như chúng ta hoàn toàn, ngoại trừ tội lỗi (x. Dt 4:15).

Như vậy, tôi cố gắng tiếp cận thần học Công giáo về sự đau khổ. Cách thứ nhất là quan điểm của Công giáo về đau khổ, nói đúng hơn là đau khổ mang tính cứu độ, có giá trị cứu độ.

Có nghĩa gì khi nói đau khổ có giá trị cứu độ? Chỉ có điều này: Đau khổ của chúng ta được kết hợp với đau khổ của Đức Kitô trong sứ vụ cứu độ. Sao lại như vậy? Đức Kitô đã “kết hôn” với Giáo hội là Hiền Thê của Ngài, và “cả hai thành một xương một thịt” (St 2:24). Hơn nữa, “có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người” (Ep 5:29-30). Qua Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được liên kết với Đức Kitô và Giáo hội.

Chúng ta được kết hiệp với Nhiệm Thể Đức Kitô để chúng ta nên MỘT với Ngài. Thánh Phaolô nói: “Mầu nhiệm này thật cao cả: Đức Kitô và Giáo hội” (Ep 5:32). Kinh Thánh nói rằng khi Saolê bắt bớ những người theo Đức Kitô, Chúa Giêsu đã nói: “Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta?”. Ông nói: “Thưa Ngài, Ngài là ai?”. Người đáp: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 9:4-5). Cuối cùng, Thánh Phaolô đã chấp nhận tất cả: “Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1:24).

Đức Kitô đã ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ để thực hiện sứ vụ cứu độ cả thế giới và mọi thời đại. Giáo hội được trở thành Tân Nương và chính Ngài là Đầu của thân mình. Chúng ta là các chi thể trong Nhiệm Thể Ngài. Chúng ta thông phần đau khổ với đau khổ của mọi người và của chính mình. Đức Kitô đồng hóa với chúng ta, nhất là với những người đau khổ: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25:40). Vậy tại sao chúng ta lại không muốn đồng hóa với Ngài?

Đức Kitô mặc lấy nhân tính để cứu độ nhân loại, tôi chắc chắn Ngài cũng cứu độ sự đau khổ. Đau khổ mà chúng ta trải qua có thể được kết hiệp với Đức Kitô ngay cả sau khi sự phục sinh được giải thích cho Saolê rằng “chính Ngài đang bị bắt bớ”. Đau khổ của Đức Kitô vẫn tiếp diễn trong Nhiệm Thể của Ngài là Giáo hội, vì chúng ta sống trong một thế giới được cứu độ nhưng chưa được cứu thoát. Kết hiệp đau khổ của chúng ta với đau khổ của Đức Kitô là chúng ta chịu đau khổ vì Nhiệm Thể Đức Kitô (x. Cl 1:24).

Thật ra “Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ” (Dt 7:27b). Như vậy, chúng ta cũng phải “hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12:1). Nghĩa là tôi trải nghiệm chính mình và người khác cũng được hưởng ơn cứu độ của Đức Kitô dành cho người chịu đau khổ (và cả tôi nữa). Khi tôi thông phần đau khổ của người khác, tôi cố gắng thông phần đau khổ của Đức Kitô và của chính mình.

S.O.S., lạy Thầy Giêsu, con tín thác nơi Ngài, xin cứu độ và cứu thoát con!

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ IgnitumToday.com)

Lễ Chúa Hiển Dung, 6-8-2014

Liều Thuốc Dành Cho Kẻ Chán Ðời

Liều Thuốc Dành Cho Kẻ Chán Ðời

Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

Một người đàn ông chán đời nọ đang đứng nhìn dòng nước từ một chiếc cầu cao.

Ông đốt một điếu thuốc cuối cùng trước khi tự kết liễu cuộc đời.

Ông không còn lối thoát nào khác hơn nữa.

Ông đã làm đủ mọi cách để lấp đầy nỗi chán chường trong tâm hồn.

Ông đã đi đây đi đó, ông đã tìm lạc thú trong các cuộc vui trác táng, ông đã chạy đến với mọi thứ hơi men và khói thuốc.  Nhưng chán chường vẫn cứ chán chường.

Ông thử thời vận lần cuối cùng bằng một cuộc hôn nhân, nhưng không có một người đàn bà nào có thể ở bên cạnh ông được vài tháng, bởi vì ông đòi hỏi quá nhiều, nhưng lại không biết nghĩ đến người khác.

Ông nhận ra rằng ông đã chán chường mà cũng không ai được hạnh phúc bên cạnh ông.  Chỉ có dòng sông may ra mới mang lại cho ông sự thanh thản.

Người đàn ông chưa hút xong điếu thuốc thì cũng có một người hành khất cũng đi qua chiếc cầu.  Con người rách rưới đó dừng lại nhìn người đàn ông và chìa tay xin giúp đỡ.  Người đàn ông chán chường không ngần ngại rút cả ví tiền và trao cho người hành khất.  Ông giải thích rằng bên kia thế giới ông không cần tiền bạc nữa.  Người hành khất cầm lấy chiếc ví một lúc rồi… nhìn thẳng vào đôi mắt của kẻ chán đời và nói: “Thưa ông, tôi không cần một số tiền lớn như thế.  Tuy là một người hành khất, nhưng tôi không là một kẻ hèn nhát.  Ông hãy giữ lại tiền của ông và đem qua bên kia thế giới của ông”.

Nói xong, người hành khất ném cả ví tiền xuống đất rồi lặng lẽ bước đi, bỏ mặc kẻ chán đời tiếp tục gặm nhấm nỗi đắng cay chua xót của mình.

Ðã hút xong điếu thuốc, nhưng kẻ chán đời vẫn muốn chưa kết liễu cuộc đời.  Ông nhìn theo người hành khất đang khuất xa dần.  Tự nhiên, ông không muốn chết nữa, mà chỉ muốn nhặt lại chiếc ví để trao tặng cho người hành khất.  Chưa một lần trong đời, ông biết mở ví trao tặng cho bất cứ người nào.  Giờ phút này. ông muốn mở rộng tâm hồn, mở rộng đôi tay để trao tặng và muốn tiếp tục sống.  Nghĩ như thế, kẻ chán đời đứng thẳng lên, rời bỏ cây cầu và tiếp tục đuổi theo cho kỳ được người hành khất.

Không gì buồn chán cho bằng sống không có định hướng, không có lẽ sống.  Sống mà không biết tại sao mình sống, mình sẽ đi về đâu là điều gì làm cho con người chán chường và đau khổ nhất.

Tài tử hài hước rất nổi tiếng Robin William đã đem tiếng cười đến cho biết bao nhiêu người qua nhiều bộ phim và qua tiếng nói của ông lồng cho những nhân vật trong phim hoạt hoạ của Disney… tưởng là con người vui tính nhất, hạnh phúc nhất… nhưng không ai ngờ ông lại tự ý chọn cái chết khi treo cổ tự tử ngày 11 tháng 8, 2014 vừa qua tại Paradise Cay, California.

Ai cũng khao khát hạnh phúc, ai cũng đi tìm hạnh phúc nhưng lắm khi người ta chỉ chạy theo ảo ảnh của hạnh phúc.  Ai cũng biết rằng tiền tài, danh vọng và lạc thú trong cuộc sống tự nó không phải là hạnh phúc và lắm khi chúng cũng không mang lại hạnh phúc cho con người.

Hạnh phúc không phải là một nơi để đi đến, hạnh phúc là một hướng đi.  Có đi theo hướng đó, con người mới cảm thấy được hạnh phúc. Vậy hướng đi của chúng ta là gì?

Chúa Giêsu, Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống, đã vạch ra cho chúng ta hướng đi ấy. Và hướng đi Ngài đã vạch ra chính là Sống cho tha nhân.

Ai càng  tích  trữ và chiếm giữ cho mình, người đó càng  nghèo nàn và khốn khổ.  Ai càng đóng kín quả tim và khép chặt bàn tay, người đó sẽ không được nhận lãnh.  Hạnh phúc đích thực chính là trao ban, bởi vì như Thánh Phaolô đã ghi lại lời của Chúa Giêsu:

“Cho thì có hạnh phúc hơn nhận lãnh”.

“Cho” là liều thuốc chữa trị được căn bệnh chán sống.  Bệnh chán sống là căn bệnh trầm trọng nhất trong tâm hồn chúng ta.

“Cho” cũng là liều thuốc xoa dịu được mọi khổ đau trong tâm hồn chúng ta.  Chúng ta đang đau khổ vì bị phản bội, vì thất chí, vì bệnh tật hay vì bất cứ một nguyên do nào: chúng ta hãy thử mở rộng tâm hồn để trao ban, để san sẻ; chúng ta sẽ cảm thấy được xoa dịu trong tâm hồn.

Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Đức Phanxicô nói với giáo dân và tu sĩ Đại Hàn

Đức Phanxicô nói với giáo dân và tu sĩ Đại Hàn

Vũ Văn An

Bản tin AP hôm nay cho hay: Đức GH Phanxicô lúc nào cũng lo liệu cách dành đủ thì giờ để cầu nguyện. Do đó, ngài lo thức dậy thật sớm, khoảng lúc 4 giờ 30 sáng để bảo đảm sẽ không bao giờ thiếu thì giờ suy niệm hàng ngày.

Ấy thế nhưng, vào thứ bẩy hôm qua, ngài đã phải yêu cầu bỏ đọc kinh chiều, vì trễ giờ sau một ngày bận bịu cử hành Thánh Lễ cho 800,000 người ở Hán Thành, sau đó, phải du hành 90 cây số tới một cộng đồng Nam Hàn chuyên chăm sóc người khuyết tật.

Đó là cộng đồng Kkottognae. Tại cộng đồng này, ngài dự tính thực hiện ba cuộc gặp gỡ. Nhưng lúc tới giờ thực hiện cuộc gặp gỡ thứ hai gồm một buổi kinh chiều bằng tiếng La Tinh và tiếng Đại Hàn và nói chuyện với 5,000 nam nữ tu sĩ, thì ngài thấy mình không đủ thì giờ. Nên ngài nói với đám đông: “cha gặp vấn đề nho nhỏ. Nếu có điều gì đó mà anh chị em không bao giờ nên làm, thì đó là bỏ giờ cầu nguyện, nhưng hôm nay, chúng ta phải làm điều ấy một mình thôi và cha sẽ cho anh chị em hiểu tại sao: cha tới bằng trực thăng, và nếu trực thăng không cất cánh đúng giờ, thì có nguy cơ sẽ đâm vào núi”.

PopeFrancis-8.jpg

Đám đông cười rộ khi lời xin lỗi bằng tiếng Ý của Đức GH được dịch sang tiếng Đại Hàn. Phát ngôn viên Tòa Thánh, Cha Lombardi, nói rằng lý do Đức Phanxicô trễ giờ hoàn toàn biện minh được: Ngài dành thêm giờ để thăm hỏi và chúc lành cho từng người trong số khoảng 60 trẻ em khuyết tật và người cao niên ngụ tại Cộng Đồng Kkottognae… “Việc này quan trọng hơn đối với ngài, và tôi nghĩ cả với chúng ta nữa”.

Lời xin lỗi của ngài càng được biện minh hơn khi ta hiểu lai lịch cộng đồng này. Một ngày vào năm 1976, Cha John Oh, người vừa tốt nghiệp đại học Công Giáo Gwangju và đang làm cha sở Nhà Thờ Mugeuk, gặp một người đàn ông vô gia cư đã có tuổi với chiếc bát ăn mày trong tay, tên Choi Gui-dong. Điều khiến cha vô cùng ngạc nhiên và thán phục là ông Choi đang chăm sóc cho 18 người vô gia cư khác! Cha khám phá ra sự thật này: dù chỉ có khả năng ăn xin, bạn vẫn có thể là ơn phúc của Thiên Chúa. Được linh hứng bởi trải nghiệm này, cha nhất quyết thành lập Cộng Đồng Kkottognae. Cha bắt tay ngay lập tức vào việc xây dựng một mái ấm gọi là Nhà Tình Thương. Từ mái ấm đơn sơ này, Cộng Đồng Kkottognae đã phát triển đến độ cung cấp chỗ ở cho 4,000 người, với 1,000 nhân viên, tu sĩ nam nữ và linh mục. Đây là cơ sở an sinh lớn nhất của quốc gia, cung cấp chăm sóc và tình thương “từ lúc nằm nôi tới lúc xuống lỗ” cho những ai đến xin ăn cũng không làm được: họ là người vô gia cư, bệnh tâm thần, người cao niên, người khuyết tật, trẻ mồ côi, và cả những người bị bỏ rơi sau khi chết (nghĩa địa riêng).

PopeFrancis-2.jpg

Nói chuyện với giáo dân

Chính tại Trung Tâm Linh Đạo của Cộng Đồng này, Đức Phanxicô đã nói chuyện với giáo dân Nam Hàn tụ tập tại đây lúc 6 giờ 30 chiều thứ Bẩy. Ở đây ngài đã gặp 150 đại biểu giáo dân của Hội Đồng Công Giáo Tông Đồ Giáo Dân, thành lập năm 1968. Lời ngài:

“Anh chị em thân mến,

“ Cha biết ơn vì có dịp gặp anh chị em, những người đại diện cho nhiều biểu thức của tông đồ giáo dân rất thịnh hành tại Đại Hàn […] Cha cám ơn Chủ Tịch Hội Đồng Tông Đồ Giáo Dân, ông Paul Kwon Kil-joong, về những lời chào mừng tốt đẹp nhân danh anh chị em.

“ Như anh chị biết, Giáo Hội tại Đại Hàn là người thừa hưởng đức tin của nhiều thế hệ giáo dân, những người đã kiên trung trong tình yêu Chúa Giêsu Kitô và sự hiệp thông với Giáo Hội, bất chấp việc khan hiếm linh mục và sự đe doạ bị bách hại nặng nề. Chân phúc Paul Yun Ji-chung và các vị tử đạo được phong chân phúc hôm nay tượng trưng cho một trang sử gây rất nhiều ấn tượng. Họ đã làm chứng cho đức tin không chỉ bằng đau khổ và sự chết, mà còn bằng lối sống đầy liên đới yêu thương với nhau trong các cộng đoàn Kitô Giáo được đánh dấu bằng một đức ái gương mẫu.

“Gia tài qúy gía này sống mãi trong các công trình đức tin, đức ái và việc phục vụ của anh chị em. Ngày nay cũng như bao giờ, Giáo Hội luôn cần các chứng nhân giáo dân đáng tin cậy làm chứng cho chân lý cứu rỗi của Tin Mừng, sức mạnh tinh luyện và biến đổi tâm hồn con người của nó, và tính phong phú của nó trong việc xây dựng gia đình nhân loại trong hợp nhất, công lý và hòa bình. Chúng ta biết: chỉ có một sứ mệnh của Giáo Hội Chúa, và mọi Kitô hữu đã chịu phép rửa đều là thành phần sinh tử của sứ mệnh này. Các ơn phúc của anh chị em trong tư cách giáo dân nam nữ thì có nhiều và các việc tông đồ của anh chị em thì đa dạng, ấy thế nhưng mọi việc anh chị em đang làm đều nhằm thăng tiến sứ mệnh của Giáo Hội bằng cách bảo đảm rằng trật tự trần thế được Thần Trí Chúa Kitô thẩm thấu và hoàn hảo hóa và được sắp xếp để Nước Người trị đến.
PopeFrancis-10.jpg

“Một cách riêng, cha muốn cám ơn việc làm của nhiều hội đoàn và hiệp hội trực tiếp dấn thân vào việc vươn tay ra với người nghèo và người túng thiếu. Như gương sáng của các Kitô hữu Đại Hàn tiên khởi vốn chứng tỏ, tính phong phú của đức tin được phát biểu qua tình liên đới cụ thể với anh chị em của mình, mà không chú ý tới văn hóa của họ hay địa vị xã hội của họ, vì, trong Chúa Kitô, “không có Hy Lạp hay Do Thái” (Gl 3:28). Cha hết sức biết ơn những người trong anh chị em, qua công việc mình làm và qua việc làm chứng của mình, đã đem sự hiện diện đầy an ủi của Chúa tới cho những người sống bên lề xã hội chúng ta. Ta không nên hạn chế hoạt động này trong việc giúp đỡ có tính bác ái, mà phải mở rộng nó ra tới việc biết quan tâm một cách thực tiễn tới việc phát triển nhân bản.

Không chỉ trợ giúp mà thôi, mà còn phát triển con người nữa.

Trợ giúp người nghèo là điều tốt và cần thiết, nhưng không đủ.

Cha khuyến khích anh chị em nhân thừa các cố gắng của anh chị em trong lãnh vực cổ vũ con người, để mọi người nam nữ biết được niềm vui vốn phát sinh từ phẩm giá của việc hàng ngày kiếm được cơm áo và nâng đỡ gia đình mình. […]

“Cha cũng muốn cám ơn sự đóng góp rất đáng kể của phụ nữ Công Giáo Đại Hàn vào đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội trên quê hương này trong tư cách làm mẹ, làm giáo lý viên và thầy dạy, và nhiều cách khác không thể đếm được. Cũng vậy, cha chỉ có thể nhấn mạnh tầm quan trọng của chứng tá được các gia đình Kitô Giáo cung hiến. Vào thời điểm có cuộc khủng hoảng lớn về đời sống gia đình, như ta thấy hiện nay, các cộng đồng Kitô hữu của ta được mời gọi nâng đỡ các cặp vợ chồng và các gia đình trong việc họ chu toàn sứ mệnh riêng của họ trong đời sống Giáo Hội và xã hội.

Gia đình vẫn là đơn vị căn bản của xã hội và là trường học đầu tiên trong đó trẻ em học được các giá trị nhân bản, tâm linh và luân lý giúp chúng trở thành hải đăng của tính tốt, của chính trực và công lý trong các cộng đồng chúng ta.

“Anh chị em thân mến, bất kể sự đóng góp đặc thù của anh chị em có như thế nào vào sứ mệnh của Giáo Hội, cha vẫn yêu cầu anh chị em cổ vũ, trong cộng đồng của anh chị em, một cuộc huấn luyện các tín hữu giáo dân trọn vẹn hơn, với một nền giáo lý và một nền linh đạo liên tục.

Trong mọi điều anh chị em làm, cha yêu cầu anh chị em làm trong tình hòa hợp trọn vẹn cả tâm lẫn trí với các mục tử của anh chị em, cố gắng đem các tầm nhìn thông sáng, các tài năng và các đặc sủng của anh chị em vào việc phục vụ phát triển Giáo Hội trong hợp nhất và vươn tay ra truyền giáo. Sự đóng góp của anh chị em là điều chủ yếu vì tương lai Giáo Hội Đại Hàn cũng như trên khắp Á Châu sẽ tùy thuộc phần lớn vào sự khai triển một viễn kiến Giáo Hội học đặt cơ sở trên linh đạo hiệp thông, tham dự và chia sẻ ơn phúc (xem Giáo Hội Tại Á Châu, số 45).

“Một lần nữa, cha tỏ lòng biết ơn đối với mọi điều chúng con đang làm để xây dựng Giáo Hội Đại Hàn trong thánh thiện và nhiệt thành. Ước mong anh chị em không ngừng rút tỉa được từ lễ hy sinh Thánh Thể sự linh hứng và sức mạnh cho công việc tông đồ của anh chị em, nhờ thế “tình yêu Thiên Chúa và tình yêu nhân loại, vốn là linh hồn của việc tông đồ, được thông truyền và nuôi dưỡng” (Lumen Gentium, số 33).

Cha khẩn cầu để anh chị em và gia đình anh chị em và tất cả mọi người tham dự vào các công việc thể xác và tinh thần của giáo xứ, hiệp hôi và phong trào của anh chị em được hưởng hân hoan và bình an của Chúa Giêsu Kitô và sự che chở đầy yêu thương của Đức Maria, Mẹ chúng ta. Một lần nữa, cha xin anh chị em cầu nguyện cho cha…”

PopeFrancis-7.jpg

Đời thánh hiến là hồng ơn qúy giá cho Giáo Hội và thế giới

Trước đó, vào hồi 5 giờ 30 chiều, tại Hội Trường của Cộng Đồng Kkottognae, Đức Phanxicô đã nói chuyện với khoảng 5,000 nam nữ tu sĩ, đại diện các hội dòng Công Giáo tại Đại Hàn. Trong buổi gặp gỡ này, ngài đã đọc bài diễn văn sau đây:

“Anh chị em thân mến trong Chúa Kitô,

“Cha xin chào hỏi anh chị em tất cả với tâm tình âu yếm trong Chúa. Quả là điều tốt đẹp được hiện diện với anh chị em hôm nay và được chia sẻ các giờ phút hiệp thông này. Tính đa dạng lớn lao trong các đặc sủng và việc tông đồ, mà anh chị em đại diện, đang làm đời sống của Giáo Hội tại Đại Hàn và nhiều nơi khác phong phú một cách kỳ diệu… Cha cám ơn anh chị em và tất cả các anh chị em của anh chị em, về các cố gắng xây dựng Nước Thiên Chúa tại xứ sở thân yêu này…

“Lời Thánh Vịnh: ‘Dẫu cho hồn xác suy tàn, thì nơi ẩn náu, kỷ phần lòng con, muôn đời là Chúa cao tôn’ (Tv 73:26)

mời gọi chúng ta suy nghĩ về chính cuộc sống của mình. Thánh vịnh gia tiết ra một niềm tin tưởng hân hoan vào Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều biết rằng dù niềm vui không được phát biểu cùng một cách ở mọi lúc trong đời, nhất là lúc gặp khó khăn lớn lao, nhưng “nó vẫn luôn tồn tại, dù chỉ lấp loé, phát sinh từ niềm chắc chắn bản thân của ta rằng, xét cho cùng, ta được Thiên Chúa yêu thương vô hạn” (Evangelii Gaudium, 6).

Niềm xác tín được Thiên Chúa yêu thương nằm ở ngay tâm điểm ơn gọi của anh chị em: trở thành cho người khác dấu chỉ hữu hình sự hiện diện của Nước Thiên Chúa, một sự nếm trước các niềm vui thiên đàng vĩnh cửu.

Chỉ khi nào chứng tá của ta vui tươi, ta mới lôi cuốn được những con người nam nữ cho Chúa Kitô. Và niềm vui này là một hồng phúc cần nuôi dưỡng bằng đời sống cầu nguyện, suy niệm lời Thiên Chúa, cử hành các bí tích và cuộc sống cộng đoàn. Điều này rất quan trọng. Thiếu những điều này, các yếu đuối và khó khăn sẽ diễn ra làm tan biến niềm vui mà chúng ta đã biết ở lúc bắt đầu cuộc hành trình.

“Đối với anh chị em, những người nam nữ tận hiến cho Thiên Chúa, niềm vui này bắt rễ trong mầu nhiệm thương xót của Chúa Cha đã được mạc khải trong lễ hy sinh của Chúa Kitô trên Thánh Giá.

Bất kể các đặc sủng của anh chị em hướng anh chị em vào chiêm niệm nhiều hơn hay vào đời hoạt động nhiều hơn, anh chị em vẫn bị thách thức trở thành “các chuyên viên” về lòng Chúa Thương Xót qua cuộc sống của anh chị em trong cộng đoàn.

Do kinh nghiệm, cha biết rằng cuộc sống cộng đoàn không luôn dễ dàng, nhưng nó là cơ sở huấn luyện mà Chúa quan phòng đã dành cho trái tim chúng ta. Không chờ đợi tranh chấp là điều không thực tiễn chút nào; các hiểu lẩm sẽ xẩy ra và cần được đối phó. Bất chấp các khó khăn này, chính trong cuộc sống cộng đoàn, chúng ta được mời gọi lớn lên trong từ bi, nhẫn nhịn và bác ái hoàn toàn.

“Cảm nghiệm lòng Chúa thương xót, được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện và cộng đoàn, phải lên khuôn tất cả những gì anh chị em là và anh chị em làm. Đức khiết tịnh, nghèo khó và vâng lời của anh chị em sẽ là chứng tá hân hoan cho tình yêu Thiên Chúa bao lâu anh chị em đứng vững trên tảng đá lòng Người thương xót. Nó là tảng đá. Nhất định đúng như thế với đức vâng lời. Việc vâng lời trưởng thành và đại lượng đòi anh chị em phải bám vào việc cầu nguyện với Chúa Kitô, Đấng, khi mặc lấy thân phận tôi trung, đã học vâng lời nhờ những gì Người chịu đau khổ (xem Perfectae Caritatis, số 14). Không có đường tắt: Thiên Chúa muốn trái tim ta cách trọn vẹn và điều này có nghĩa ta phải “để ta đi” and “đi ra ngoài” chính ta mỗi ngày mỗi hơn.

“Một cảm nghiệm sống động về lòng thương xót vững bền của Chúa cũng nâng đỡ uớc mong đạt được sự hoàn hảo về đức ái vốn phát sinh từ một tâm hồn trong sạch. Sự trong sạch nói lên sự toàn tâm toàn trí tận hiến cho tình yêu của Thiên Chúa, Đấng vốn là “sức mạnh của trái tim ta”. Tất cả chúng ta đều hiểu việc này hàm ẩn một dấn thân có tính bản thân và đòi hỏi đến chừng nào. Các cám dỗ trong lãnh vực này đòi ta phải khiêm nhường tin tưởng vào Thiên Chúa, phải tỉnh táo và kiên tâm. […]

“Nhờ lời khuyên tin mừng về nghèo khó, anh chị em có khả năng nhận ra lòng thương xót của Chúa không những như nguồn sức mạnh mà còn như một kho tàng. Xem ra như mâu thuẫn nhưng sống nghèo khó quả có nghĩa đã tìm ra một kho tàng. Ngay khi ta mệt mỏi, ta vẫn có thể dâng lên Người trái tim nặng chĩu tội lệ và yếu đuối của ta; vào những lúc ta cảm thấy bất lực nhất, ta vẫn có thể vươn tới Chúa Kitô, “Đấng đã tự làm ra nghèo để ta được nên giầu” (xem 2Cor 8:9).

Nhu cầu căn bản này của ta muốn được tha thứ và chữa lành tự nó đã là một hình thức nghèo khó mà ta không bao giờ nên quên, bất kể ta đã tiến bộ bao xa về nhân đức. Cũng nên tìm ra cách phát biểu cụ thể lối sống của anh chị em, cả như các cá nhân lẫn như các cộng đoàn. Cha nghĩ cách riêng tới nhu cầu phải tránh né tất cả những gì làm phân tâm anh chị em và tạo nơi người khác sự ngỡ ngàng và tai tiếng.

Trong cuộc sống tận hiến, nghèo khó vừa là “tường” vừa là “mẹ”. Là tường vì nó che chở cuộc sống tận hiến, là mẹ vì nó giúp cuộc sống này lớn lên và hướng dẫn nó tiến thao đường nẻo chính trực.

Sự giả hình của những người tận hiến nam nữ khấn hứa nghèo khó mà lại sống như người giầu sẽ làm linh hồn tín hữu bị thương và gây hại cho Giáo Hội. Anh chị em cũng hãy nghĩ về việc sẽ là một cám dỗ nguy hiểm xiết bao khi chấp nhận một não trạng chỉ hoàn toàn có tính chức năng, theo trần đời dẫn ta tới chỗ đặt hy vọng vào các phương thế nhân bản mà thôi và tiêu diệt mất chứng tá nghèo khó mà Chúa Giêu Kitô của chúng ta đã sống vã đã dạy dỗ ta […]

“Anh chị em thân mến, với lòng khiêm nhường lớn lao, anh chị em hãy làm tất cả những gì có thể làm được để chứng minh rằng đời sống tận hiến là hồng ơn qúy gía đối với Giáo Hội và đối với thế giới. Đừng giữ nó cho anh chị em; hãy chia sẻ nó, bằng cách đem Chúa Kitô tới mọi ngõ ngách của xứ sở thân yêu này.

Hãy để niềm vui của anh chị em tiếp tục tìm được biểu thức trong các cố gắng của anh chị em nhằm lôi cuốn và nuôi dưỡng các ơn gọi, và thừa nhận rằng mọi người anh chị em đều có phần trong việc đào tạo các người nam nữ tận hiến của ngày mai […]

Bất kể anh chị em hiến thân cho chiêm niệm nhiều hơn hay cho đời sống tông đồ nhiều hơn, anh chị em hãy nhiệt thành trong tình yêu đối với Giáo Hội tại Đại Hàn và ước nguyện được đem các đặc sủng riêng của anh chị em đóng góp vào sứ mệnh công bố Tin Mừng và xây dựng dân Chúa của Giáo Hội này trong hợp nhất, thánh thiện và yêu thương.

“Phó thác tất cả anh chị em, và cách riêng, các thành viên già nua và bệnh hoạn trong các cộng đoàn của anh chị em cho sự chăm sóc yêu thương của Đức Maria, Mẹ Giáo Hội, cha thân ái ban phép lành của cha làm bảo chứng ơn thánh và bình an bền vững trong Chúa Giêsu, Con trai ngài”.

PopeFrancis-1.jpgPopeFrancis-3.jpgPopeFrancis-4.jpgPopeFrancis-5.jpgPopeFrancis-6.jpgPopeFrancis-9.jpg

Vũ Văn An

Sài Gòn qua bao mùa nhạt phai

Sài Gòn qua bao mùa nhạt phai

Song Chi.

RFA

Từ tháng 3.1975 đến khi rời VN vào cuối tháng 4.2009, tôi sống ở Sài Gòn. 34 năm. Chưa kể những khoảng thời gian đứt quãng trước 30.4.1975. Vì vậy, dù gốc Huế, không có gì lạ khi tôi gắn bó với Sài Gòn.

Từ khi xa Sài Gòn, tôi đã có dịp lang thang qua nhiều thành phố của nhiều quốc gia. Và cứ mỗi lần ngắm nhìn những thành phố xinh đẹp, hài hòa từ quy hoạch tổng thể cho tới từng chi tiết, những thành phố có đời sống tinh thần phong phú, thú vị nhưng rất đỗi bình yên…tôi lại chạnh nhớ về Sài Gòn.

Bâng khuâng. Ngậm ngùi. Vì “Hòn ngọc Viễn Đông” một thời đã “ngọc nát, vàng phai” rất nhiều sau gần 40 năm đất nước thống nhất, do những cái đầu, tư duy lãnh đạo, quản lý thiển cận, và cũng có thể, do họ thiếu vắng một tình yêu sâu sắc đối với Sài Gòn. Đó là chưa kể một thiểu số dân chúng cũng chưa thật sự ý thức giữ gìn cái đẹp, cái hồn của thành phố.

Sài Gòn thừa và thiếu

Sài Gòn bây giờ, dù vẫn là thành phố ăn nên làm ra nhất nước, dù vẫn thu hút dân nhập cư từ khắp vùng miền nhất vì có nhiều cơ hội học hành, làm ăn, sinh sống, cũng như sự cởi mở, phóng khoáng trong tính cách của người Sài Gòn khiến dân nhập cư ai cũng có thể trụ lại, hội nhập và thành công nếu chịu khó…Nhưng mặt khác, Sài Gòn cũng bị tàn phá bởi những căn bệnh chung của các thành phố lớn, nhỏ ở VN. Đó là từ quy hoạch tổng thể cho đến kiến trúc, cảnh quan hết sức lộn xộn chắp vá.

So với hồi trước 30 tháng Tư năm 1975, số lượng dân cư Sài Gòn hiện nay đã tăng gấp 3 lần (khoảng hơn 3 triệu so với 9-10 triệu) nhưng cơ sở hạ tầng, đường xá, giao thông công cộng…đều chưa theo kịp với đà tăng dân số.

Môi trường sống bị ô nhiễm khá nặng, mức độ bụi bặm lẫn tiếng ổn trên đường phố đều cao vượt mức cho phép. Tỷ lệ cây xanh, tỷ lệ công viên quá thấp. Đường xá thì quanh năm cứ hết đào lên lại lấp xuống, vá chỗ này vá chỗ kia, tạo ra những ổ gà, hố tử thần… gây tai nạn. Còn khi trời mưa lớn thì rất nhiều khu vực trong thành phố biến thành… sông, khiến người dân đi lại rất vất vả.

Là thành phố lớn thứ nhì VN sau khi Hà Nội được mở rộng, nhưng đông dân nhất và về một số khía cạnh nào đó, ví dụ như nếp sống đô thị của người dân, văn hóa mua bán, phục vụ khách hàng… Sài Gòn còn được đánh giá là văn minh hơn thủ đô Hà Nội. Mặc dù vậy, Sài Gòn vẫn chưa đủ tiêu chuẩn để gọi là một đô thị đúng nghĩa.

Một đô thị đúng nghĩa khi được quy hoạch một cách khoa học, thành từng khu vực riêng biệt: khu hành chính, thương mại, công nghiệp, giải trí, dân cư…Chứ không thể từ quận trung tâm đến những quận ở xa, từ đường lớn, đường nhỏ cho đến từng con hẻm, ngõ cụt, nhà nào cũng mở cửa làm ăn, buôn bán; khu dân cư ở lẫn với khu văn phòng, trường học, nhà máy, quán nhậu…một cách lộn xộn bát nháo.

Một đô thị đúng nghĩa phải có các phương tiện giao thông công cộng hiện đại: xe bus, xe điện, xe điện ngầm, xe lửa…, những làn đường trên cao dưới thấp dành cho các loại xe khác nhau. Và khi các phương tiện giao thông công cộng chưa có hoặc chưa phát triển, thì đừng mơ đến chuyện giảm được nạn kẹt xe và tỷ lệ tai nạn giao thông quá cao như ở VN lâu nay. Đó là chưa nói đến số lượng xăng tiêu thụ cho hàng triệu xe gắn máy mỗi ngày tính ra là bao nhiêu tiền, lượng khí thải từ xăng xe mỗi ngày mà người dân thành phố phải hít vào khi đi ngoài đường.

Nếu kể ra cho hết những cái hạn chế của các thành phố lớn ở VN nói chung và Sài Gòn nói riêng thì rất nhiều. Nếu nói về việc Sài Gòn bị xấu đi, cái hồn của thành phố bị nhạt phai, thì cũng đã nhiều người phân tích. Điều quan trọng hơn, những cá nhân, cơ quan lãnh đạo Sài Gòn bao nhiêu năm qua đã không thực sự quyết tâm làm cho cái thành phố này trở nên đẹp hơn, văn minh hơn và đáng sống hơn.

Với người dân tại chỗ, một thành phố đáng sống không chỉ vì có nhiều cơ hội học hành, làm ăn, mưu sinh, mà bên cạnh đó, phải có một môi trường sống tốt-ít ô nhiễm, phương tiện đi lại tiện lợi, an toàn, nhiều cây xanh, nhiều công viên…

Công viên và các quảng trường là những không gian công cộng nơi người ta có thể ngồi nghỉ, thư giãn, là những khoảng thở cho con người bớt ngộp bởi sự đông đúc chật chội luôn hạn chế tầm nhìn, vây hãm đầu óc, không cho tâm trí được nghỉ ngơi. Quảng trường còn là nơi có những sinh hoạt cộng đồng, biểu diễn văn nghệ đường phố…và du khách khi viếng thăm một thành phố nào đó thường rất thích ghé qua các quảng trường vì bị lôi cuốn bởi những sinh hoạt này.

Còn ở Sài Gòn, đã gần 40 năm sau ngày đất nước thống nhất nhưng một quảng trường rộng, đẹp vẫn chưa có, công viên đã ít mà còn mọc lên đủ thứ hàng quán, chỗ gửi xe, hoặc vào chiều tối, ban đêm, là nơi “chiếm đóng” của những người lang thang, nghiện ma túy, gái bán hoa…khiến người dân ngần ngại ghé qua.

Sống trong một môi trường lúc nào cũng đông đặc người và xe cộ, lúc nào cũng bị vây bủa bởi bụi bặm, khói xăng, ô nhiễm, kẹt xe, tiếng ồn từ sáng đến tối, cộng thêm cái nóng hầm hập của xứ nhiệt đới…rõ ràng không chỉ gây tác hại cho con người về sức khỏe mà cả tinh thần. Không có gì lạ khi con người hay bực bội, và dễ dàng trút nỗi cáu bực đó vào người khác, thậm chí lao vào đánh giết nhau chỉ vì một sự va chạm hay hiềm khích vụn vặt…

Với du khách nước ngoài, phải nói rằng từ ngành du lịch cho tới dịch vụ các loại, người Việt thường chỉ tính chuyện móc túi ngay trước mắt mà không nghĩ đến chuyện giữ khách lâu dài, khiến tỷ lệ du khách quay lại VN lần thứ hai, thứ ba…là rất ít. Mà ngay cả nghệ thuật moi tiền khách, chúng ta cũng kém.

Ví dụ như khách đến Sài Gòn. Ngoài việc đi ăn, uống cafe, vào quán bar hay đi mua sắm hàng giá rẻ, quà lưu niệm, họ biết đi đâu, xem gì ở Sài Gòn?

Nếu là các tour du lịch do các công ty nhà nước hoặc tư nhân tổ chức, thể nào cũng có những địa điểm “có tính chất tuyên truyền chính trị” như đi xem Bảo tàng tội ác chiến tranh VN (trước kia còn gọi là Bảo tàng tội ác Mỹ-ngụy nữa kia), Bảo tàng Hồ Chí Minh và bến Nhà Rồng nơi bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (!), xa hơn nữa thì đi xem địa đạo Củ Chi thời…chống Mỹ!

Khi còn ở Sài Gòn, thỉnh thoảng tôi lại rơi vào thế khó này khi một người bạn, người quen ở nước ngoài đến Sài Gòn lần đầu tiên và muốn nhờ tôi dẫn đi xem “những cái gì chỉ có ở Sài Gòn”. Biết dẫn họ đi đâu đây?

Về mặt này thì Hà Nội, Huế hay Hội An còn có những nét riêng để du khách khám phá.

Quán café, nhà hàng đẹp ở Sài Gòn rất nhiều, nhưng ở thành phố nào mà chả có quán café, quán bar, nhà hàng… Còn các địa điểm văn hóa như bảo tàng, gallery, nhà hát vốn là thế mạnh, là niềm tự hào của một thành phố thì lại thiếu và toàn là những bảo tàng cách mạng!

Rất cần thêm những bảo tàng thú vị, hấp dẫn, ví dụ bảo tàng về các dân tộc thiểu số ở VN, thêm bảo tàng về văn hóa nghệ thuật, sân khấu, điện ảnh VN…để giới thiệu với du khách đã đành, mà đối với người dân, nhất là học sinh, sinh viên, có thể học được rất nhiều từ những bảo tàng bổ ích, có giá trị. Nếu nhà nước không làm nổi thì để tư nhân góp sức làm.

Một trong những địa chỉ văn hóa tư nhân mà tôi còn nhớ, khá thú vị, là “Điểm của một thời” nằm trên đường Lê Thánh Tôn của nhà thiết kế áo dài Sĩ Hoàng, thường tổ chức các chương trình âm nhạc dân tộc Việt Nam kết hợp với trình diễn áo dài từ xưa đến nay, ngoài ra khách còn được thưởng thức trà, chè, bánh mứt VN…Khách nước ngoài rất thích, không biết bây giờ còn không.

Khi du lịch đến các thành phố khác nhau của các nước, một ý thích của tôi là tìm đến những ngôi nhà, những quán café, địa điểm thường lui tới của các văn nghệ sĩ hay chính khách, triết gia…nổi tiếng trong lịch sử. Nhưng ở Sài Gòn thì điều này lại chưa có được.

Còn nhớ khi học giả, nhà sưu tập đồ cổ Vương Hồng Sển mất, ông đã hiến tặng cho nhà nước ngôi nhà cổ (Vân đường phủ) và toàn bộ sưu tập đồ cổ giá trị của mình với hy vọng thành lập một bảo tàng mang tên ông. Thế nhưng, vì những lý do nào đó, có thể vì sự hẹp hòi, thiển cận, không muốn có những bảo tàng mang tên cá nhân nào ngoại trừ bảo tàng Hồ Chí Minh (!), những người lãnh đạo trung ương và thành phố đã không chấp nhận. Những cổ vật sau đó được đưa về Bảo tàng Lịch sử Thành phố, còn ngôi nhà xưa rất đẹp thì không được chăm sóc, bị xuống cấp, hư hỏng nặng theo thời gian.

Rồi còn bao nhiêu nhân vật khác từng sinh sống, thành danh ở thành phố này, gia đình, người thân sẵn sàng biến những ngôi nhà khi họ còn sống thành địa điểm tham quan cho du khách và người dân nếu nhà nước cho phép, nhưng riêng với VN thì lại còn vướng mắc bởi bao vấn đề “tế nhị” khác, mà tất cả là do sự hẹp hòi mà thôi. Ví dụ như ngôi nhà của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nhạc sĩ Phạm Duy…có thể sẽ có nhiều người trong và ngoài nước muốn ghé nhưng đã chắc gì những nhạc sĩ cách mạng khác lại thu hút người đến khi mà nhạc của họ bây giờ còn chẳng mấy ai nghe?

Với du khách là thế, còn với người dân, Sài Gòn cũng như tất cả những thành phố lớn, nhỏ khác ở VN thường rất thừa thãi quán café, quán nhậu, nhà hàng…(chả trách dù nghèo nhưng tỷ lệ tiêu thụ bia, thuốc lá ở nước ta rất cao), song lại thiếu những công trình văn hóa công cộng để nâng cao dân trí, ví dụ thiếu thư viện tốt. Ở Sài Gòn, từ phường, quận cho tới cấp thành phố đều có thư viện, nhưng các thư viện phường, quận thường quá chán, sách đã ít, sách hay lại càng ít.

Tại các thư viện không cho mượn băng đĩa nhạc, phim…miễn phí, càng không thể tìm thấy những băng đĩa nhạc giao hưởng, ca kịch opera, múa ballet hay nhạc quốc tế đủ các thể loại từ các quốc gia khác nhau…để người dân, nhất là giới trẻ có thể mượn về xem và “chống dốt”. Cái gì cũng phải đi mua tiền đâu mà mua, hỏi sao giới trẻ thường rất thiếu hụt kiến thức về opera, ballet, nhạc cổ điển, phim cổ điển…

Sài Gòn hồn xưa phai nhạt

Là một thành phố trẻ chỉ mới hơn 300 năm tuổi, Sài Gòn không có nhiều di tích, di sản văn hóa, ngay cả so với Hà Nội hay Huế. Nhưng điều đáng tiếc là đã ít mà lại không được giữ gìn, mà còn bị phá bỏ.

Theo thởi gian những vết tích của Sài Gòn xưa cứ mai một dần hoặc hoàn toàn biến mất. Đôi khi, người ta cứ nghĩ là chuyện nhỏ.

Từ những viên gạch cũ mộc mạc lát xung quanh Nhà thờ Đức Bà cũng bị đào lên thay bằng loại gạch mới bóng loáng. Một quán café Givral, nơi từng là địa điểm của bao ký giả trong và ngoài nước thời chiến tranh VN đến thu thập thông tin, ngồi viết bài, trong đó có nhân vật tình báo Phạm Xuân Ẩn; nơi từng được nhắc đến trong cuốn sách và bộ phim “Người Mỹ trầm lặng”…Lẽ ra thay vì xây mới, cùng với việc phá bỏ toàn bộ hành lang Eden cũ, nên giữ lại, biến thành một địa chỉ văn hóa du lịch khi treo thêm những bức ảnh của bộ phim này, của Sài Gòn xưa, chẳng hạn.

Một ví dụ nhỏ, như ở ở Paris, quán Café des 2 Moulins sau khi được quay trong bộ phim tình cảm Amélie, 2001 càng trở nên nổi tiếng hơn, du khách ghé đến là thấy ngay hàng loạt hình ảnh của bộ phim treo trong quán.

Mới đây, nhiều người dân Sài Gòn cảm thấy tiếc nuối khi toàn bộ hàng cây cổ thụ ở công viên Lam Sơn phía trước Nhà hát thành phố, có tuổi đời hàng chục năm, đã bị đốn hạ để xây nhà ga ngầm đầu tiên của tuyến metro số 1 (Bến Thành-Suối Tiên). Vòng xoay cây liễu cùng đài phun nước ở giao lộ Nguyễn Huệ với Lê Lợi cũng bị di dời. Rồi cụm tượng đài ở vòng xoay Quách Thị Trang trước chợ Bến Thành.

Và cả thương xá Tax. Theo báo chí, trung tâm thương mại lâu đời nhất tại VN, hơn 130 năm tuổi này, sẽ được phá đi, xây dựng thành cao ốc 40 tầng.

Cùng với chợ Bến Thành, Nhà thờ Đức Bà, Bưu điện thành phố…, những cái tên như Eden, thương xá Tax, quán café Givral, La Pagode, Brodard, những hình ảnh như đài phun nước ở giao lộ Nguyễn Huệ-Lê Lợi…đã trở thành quen thuộc, gắn liền trong ký ức của người dân Sài Gòn bao nhiêu năm…nay đã biến mất.

Nhà thờ Đức Bà, Nhà hát thành phố (trước đây là Hạ Nghị Viện của chính quyền VNCH), và sắp tới sẽ là chợ Bến Thành, thì đều đang và sẽ bị đè bẹp xuống, trở nên bé nhỏ thảm thương vì những công trình mới xây cao hơn nhiều lần.

Tất cả đều được lấy lý do vì nhu cầu phát triển, thành phố cần phải hiện đại hóa, người dân cần phải hy sinh! Biết là thế, nhưng thật ra, đập bỏ luôn là phương án nhanh nhất, dễ nhất!

Giá trị của một thành phố không chỉ ở những công trình kiến trúc mới. Linh hồn của một thành phố nhiều khi nằm trong từng viên gạch cũ, từng hàng cây cổ thụ, một quán café xưa…Ở đó những dấu ấn lịch sử, những dấu vết thời gian đi qua còn in lại. Và người ta gắn bó với một thành phố lắm khi chỉ từ những thứ nhỏ nhặt như thế.

Sài Gòn ơi hồn ở đâu bây giờ?

Phê phán chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam hiện nay

Phê phán chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam hiện nay

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-08-18

081892014-dcs-kh.mp3

000_Hkg2678165.jpg

Công nhân đô thị chăm sóc công viên Lê Nin ở Hà Nội.

AFP photo

Một trong những khía cạnh mà những người tham dự hội thảo nhan đề “Thoát Trung” ở Hà Nội vừa qua đề cập tới là chủ nghĩa cộng sản, cũng như những biến thái của nó là chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mao. Mặc dù trong hội thảo này, tranh luận về văn hóa được đưa lên hàng đầu nhưng không tránh khỏi những bàn luận về chính trị xoay quanh ba thứ chủ nghĩa vừa nêu.

Điều trớ trêu là ngay giữa lòng Hà Nội, dưới câu khẩu hiểu ca tụng chủ nghĩa cộng sản và các nhà lý luận của nó như Marx, Engels, Lenin, người ta công khai thách thức tính đúng đắn của chủ nghĩa cộng sản.

Sự thách thức chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam có lịch sử dài lâu chứ không phải mới đây, từ những ngày đầu tiên chủ nghĩa này bám rễ vào Việt Nam. Sự thách thức đó vẫn tồn tại trong lúc chủ nghĩa này lên đến đỉnh điểm hùng mạnh nhất. Và khi hệ thống cộng sản đổ vỡ khắp nơi, cộng với bùng nổ của công nghệ thông tin thì sự thách thức đó ngày càng lớn.

Một trong những người thách thức chủ nghĩa cộng sản ngay trước khi đảng cộng sản chấp nhận nền kinh tế thị trường là tiến sĩ Hà Sĩ Phu, người học hành và lớn lên trong lòng chế độ cộng sản. Trước cuộc hội thảo ở Hà Nội trong tháng tám này, cũng có một cuộc hội thảo khác tương tự, ông Hà Sĩ Phu nói với chúng tôi sau cuộc hội thảo ấy rằng vấn đề chung của cả hai dân tộc Việt và Hoa là chủ nghĩa cộng sản.

Năm 2013 chủ nghĩa cộng sản chứng kiến một thách thức lớn là 72 nhân sĩ trí thức gửi kiến nghị đòi bỏ điều bốn trong Hiến pháp quốc gia về sự độc tôn của chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam.

Tháng bảy 2014 đến lượt 61 đảng viên hiện vẫn còn sinh hoạt đảng kiến nghị kêu gọi từ bỏ chế độ toàn trị.

Cũng trong tháng bảy 2014, luật sư Nguyễn Đăng Trừng tại Sài Gòn bị khai trừ ra khỏi đảng. Lý do được nhiều người nói đến chính là việc luật sư Trừng không đồng ý sự can thiệp quá nhiều của đảng bộ TP HCM vào công việc của đòan luật sư Thành phố HCM.

Con đường đến Việt Nam của CNCS

Chủ nghĩa cộng sản đến Việt Nam với lý do làm phương tiện cho việc đòi độc lập. Lý do lớn này làm cho ngay chính những đảng viên cộng sản không coi trọng phương diện ý thức hệ của nó bằng những vấn đề thực tế. Ông Trần Đức Nguyên, từng là thư ký của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt nới với chúng tôi sau khi ký tên vào bản kiến nghị 61:

Cái việc mà đưa ra yêu cầu sửa đổi chế độ toàn trị thì đã nói từ thời kiến nghị 72 rồi. Sau đó có những ý kiến đã nói rõ là đất nước phải chuyển từ chế độ toàn trị sang dân chủ một cách ôn hòa. Và như thế là không đụng đến những vấn đề về chữ nghĩa. Cái đó là cái thực trạng thì cần phải thay đổi.

Mới đầu thì họ chống ở một chừng mực nào đó nhưng thật ra họ bị ảnh hưởng của Khổng giáo mà chính họ không biết bởi vì nó ăn vào trong máu, và điều đó làm cho chính quyền hiện nay hưởng lợi.
– Nhà văn Thùy Linh

Trên con đường đến Việt Nam nói riêng và đến châu Á nói chung chủ nghĩa cộng sản đã gặp phải một thực trạng mà nhiều người cho là thuận lợi để phát triển, đó chính là khía cạnh chuyên chế của ý tưởng xã hội Khổng Giáo.  Nhà văn Thùy Linh, từ Hà Nội nói với Mặc Lâm của đài RFA, sau hội thảo “Thoát Trung” trong tháng tám:

Sau khi chủ nghĩa cộng sản nắm quyền thì đạo Khổng rất có lợi cho sự tồn tại của họ. Mới đầu thì họ chống ở một chừng mực nào đó nhưng thật ra họ bị ảnh hưởng của Khổng giáo mà chính họ không biết bởi vì nó ăn vào trong máu, và điều đó làm cho chính quyền hiện nay hưởng lợi.”

Phản hồi của ĐCS và ảnh hưởng của sự thách thức

Sau khi kiến nghị 72 ra đời hồi năm 2013, đảng cộng sản im lặng một thời gian rồi lên tiếng chỉ trích những người đưa kiến nghị 72 là chống lại sự cai trị của đảng. Hiến pháp Việt nam sửa đổi 2013 vẫn duy trì đảng cộng sản và ý thức hệ của nó ở vị trí độc tôn.

Sau khi ký kiến nghị 61, Giáo sư Tương lai nói rằng ông chờ đợi sự phản hồi của đảng. Từ đó đến thời điểm chúng tôi hoàn thành bài viết này thời gian đã hơn một tháng, người ta chưa thấy truyền thông của đảng cộng sản lên tiếng. Còn ông Hà Sĩ Phu thì nói rằng đảng cộng sản cũng sẽ bỏ ngoài tai kiến nghị 61:

Có thể nói chắc chắn rằng họ không nghe gì cả. Điều đó là đương nhiên, họ không nghe một tí gì, không nghe một phần trăm nào. Bởi vì cái lập trường của đảng thì quá rõ rồi, vì đối với đảng cộng sản chân lý là vô nghĩa, lòng tốt là vô nghĩa, đặt trên bàn của họ chỉ là lợi ích.”

Tuy nhiên cũng có người, như Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng người theo dõi sát chính trị Việt nam cho rằng mặc dù có thể không được lắng nghe, nhưng những kiến nghị như thế là rất tốt. Nhà văn Phạm Đình Trọng thì hy vọng tác động của kiến nghị 61 đến các đảng viên của chính đảng cộng sản:

Có thể nói chắc chắn rằng họ không nghe gì cả. Điều đó là đương nhiên, họ không nghe một tí gì, không nghe một phần trăm nào.
– TS. Hà Sĩ Phu

Cái kiến nghị này là văn bản chính thức của một số đảng viên, họ đã dứt khoát lên tiếng đoạn tuyệt với chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa cộng sản. Đoạn tuyệt với chủ nghĩa Marx tức là cái lõi lý luận của chủ nghĩa cộng sản. Đây là một tiếng nói rất rõ ràng. Còn lại là những người kiếm lợi từ chủ nghĩa cộng sản, những người bất tài, kém cỏi, và nhờ có chủ nghĩa cộng sản họ mới có vị trí như thế, thì họ sẽ cố duy trì, nhưng đây là một đợt tấn công mạnh mẽ vào cái thành trì bảo thủ ấy.”

Những lời phát biểu này thể hiện rằng sự thách thức chủ nghĩa cộng sản tại Việt nam theo năm tháng đã chuyển từ sự thách thức trên phương diện ý thức hệ sang sự thách thức về quyền lực và quyền lợi không còn mang màu ý thức hệ nữa. Chỉ trích ý thức hệ vẫn có thể diễn ra một cách công khai khi mà nó chưa xuống đường để đụng chạm tới quyền lợi của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Điều này được thấy rõ trong một tương quan so sánh sau đây: chỉ sau hội thảo “Thoát Trung” vài ngày, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong buổi nói chuyện với lực lượng công an đã nhắc đến thế lực thù địch và sự chuyển hóa chính trị nguy hiểm cho chế độ. Tuy nhiên trước đó, trong hội trường diễn ra hội thảo “Thoát Trung” nhiều người nêu lên sự không đúng đắn của chủ nghĩa Marx ngay dưới chân dung ông.

Của Thiên Trả Địa – Easy Come, Easy Go

Của Thiên Trả Địa  –   Easy Come, Easy Go

Trong khi nhiều người dân nước Mỹ “thèm thuồng” nhìn một công dân ở bang Florida (Mỹ) hồi tháng 5 vừa qua ẵm giải độc đắc Powerball trị giá hơn 590 triệu USD, mức trúng thưởng cao nhất từ trước đến nay, trang tin Business Insider  (Mỹ) đã điểm lại danh sách 10 người từng trở nên siêu giàu nhờ trúng số triệu đô nhưng sau đó lại nhanh chóng lâm vào cảnh túng bấn hoặc tự kết liễu cuộc đời mình.

Trúng số chưa hẳn là may?

1. Gia đình Griffith (Anh)
Giải độc đắc: 2,76 triệu USD
Thời gian từ lúc trúng số đến lúc khánh kiệt: 6 năm

Trước khi trúng giải độc đắc trị giá 2,76 triệu USD hồi năm 2006, hai vợ chồng Lara và Robert Griffith hiếm khi gây gổ.  Họ đã mua một căn nhà trị giá một triệu USD và một chiếc xe Porsche sang trọng sau khi lãnh giải.

Tuy nhiên, vào năm 2012, Robert lái chiếc Porsche bỏ đi sau khi Lara chất vấn chồng về những email cho thấy anh này đang có tình cảm với một người phụ nữ khác.

Thế là cuộc hôn nhân kéo dài 14 năm của họ tan vỡ, rồi một trận hỏa hoạn lớn đã thiêu hủy toàn bộ căn nhà. Giờ thì Lara chẳng còn lại một xu nào từ khoản tiền trúng số đó nữa.

2. Sharon Tirabassi (Canada)
Giải độc đắc: hơn 10 triệu USD
Thời gian từ lúc trúng số đến lúc khánh kiệt: khoảng 9 năm

Vào năm 2004, Sharon Tirabassi, một bà mẹ độc thân phải sống nhờ trợ cấp xã hội tại Canada, trúng độc đắc hơn 10 triệu USD.

Cô này vung tiền trúng số cho việc mua một căn nhà lớn, những chiếc xe sang, quần áo hiệu, những chuyến du lịch đắt giá, tiệc tùng, tặng người thân, cho bạn bè vay.  Kết quả là chưa đến 10 năm sau, Tirabassi giờ đây phải quay lại kiếm sống bằng nghề lái xe buýt, làm thêm giờ và sống trong một căn hộ cho thuê.

May mắn là cô còn để lại được một số tiền cho sáu đứa con của mình với điều kiện chúng chỉ được phép lấy khi tròn 26 tuổi.

Xếp hàng mua vé số Powerball
– Ảnh: Reuters

3. Suzanne Mullins (Mỹ)
Giải độc đắc: 4,2 triệu USD
Thời gian từ lúc trúng số đến lúc khánh kiệt: 8 năm

Khi trúng thưởng khoản tiền 4,2 triệu USD vào năm 1993 tại bang Virginia (Mỹ), Suzanne Mullins quyết định chọn hình thức nhận tiền trúng thưởng hằng năm, thay vì lãnh trọn một lần.

Bà này ban đầu mượn một số tiền trị giá 200.000 USD và dùng những khoản tiền trúng giải hằng năm để thanh toán.

Sau đó, Mullins đã đổi qua nhận tiền thưởng luôn một lần và ngưng không tiếp tục trả nợ, dẫn đến tình trạng nợ nần ngập đầu do lãi mẹ đẻ lãi con.  Các chủ nợ đã đâm đơn kiện và tòa đã yêu cầu bà này nộp 154 triệu USD. Tuy nhiên, bà đã không còn “một xu dính túi”.

4. Evelyn Adams (Mỹ)
Giải độc đắc: 5,4 triệu USD
Thời gian từ lúc trúng số đến lúc khánh kiệt: 15 năm

Evelyn Adams, ngụ tại bang New Jersey (Mỹ), trúng độc đắc đến hai lần, một lần vào năm 1985 và lần thứ hai một năm sau đó, với tổng số tiền là 5,4 triệu USD.

Bà này sau đó đã nướng sạch tiền vào trong các sòng bạc ở thành phố Atlantic. Giờ thì bà đang sống lang thang trong công viên.

5. Jack Whittaker (Mỹ)
Giải độc đắc: 315 triệu USD
Thời gian từ lúc trúng số đến lúc khánh kiệt: 4 năm

Trước khi trúng giải độc đắc trị giá 315 triệu USD của vé số Powerball vào năm 2002, Jack Whittaker đã có một cuộc sống khá giả tại bang West Virginia, với một công ty dịch vụ trị giá hơn 1 triệu USD.

Ông này sau đó đã trích một phần tiền trúng thưởng để xây nhà thờ, bỏ ra 10% để làm từ thiện và thành lập một quỹ từ thiện của riêng mình.  Whittaker có lẽ sẽ không có tên trong danh sách này nếu như vận rủi liên tục đến với ông.

Ông bị trộm cuỗm mất hơn 500.000 USD khi đậu xe bên ngoài một câu lạc bộ thoát y. Ông trở nên nghiện rượu, ly dị vợ và thường xuyên gây gổ với những người xung quanh.  Chỉ trong vòng 4 năm, toàn bộ tài sản của Whittaker đã tiêu tan và ông này từng tuyên bố rằng lấy làm tiếc phải chi mình xé tờ vé số trúng đi.

6. Janite Lee (Mỹ)
Giải độc đắc: 18 triệu USD
Thời gian từ lúc trúng số đến lúc khánh kiệt: 8 năm

Janite Lee, một người nhập cư gốc Hàn Quốc sống tại Mỹ, có một quyết định lạ lùng khi chọn cách chi 18 triệu USD tiền trúng số cho người khác hơn là cho bản thân.

Sau khi trúng số hồi năm 1993, bà này đã dùng phần lớn tài sản mà mình vừa may mắn có được để tài trợ cho các chương trình của chính phủ và cho các tổ chức chính trị.  Lee từng được ăn tối cùng cựu Tổng thống Bill Clinton nhờ những khoản đóng góp kếch xù của mình.  Lee còn cho Đại học Washington (Mỹ) 1 triệu USD để xây một thư viện. Nhà trường đã lấy tên bà để đặt cho thư viện mới này.

Ngoài ra, bà cũng rất mê cờ bạc. Với thói quen chi 347.000 USD/năm, bà nhanh chóng ngập trong nợ nần và phải tuyên bố phá sản vào năm 2001.

7. Michael Carroll (Anh)
Giải độc đắc: 15,5 triệu USD
Thời gian từ lúc trúng số đến lúc khánh kiệt: 8 năm

Vào năm 2002, Michael Carroll, một thanh niên 19 tuổi làm nghề dọn rác, trúng độc đắc khoảng 15,5 triệu USD.Sau khi trở nên giàu có, Carroll bắt đầu vung tiền vô tội vạ, mua quà cho gia đình và bạn bè, hút ma túy, rượu chè, cờ bạc và thường ngủ với bốn gái mại dâm/ngày.

Tám năm sau, anh này quay lại nghề dọn rác.

Mega Millions grows to $640M

8. Billie Bob Harrell Jr. (Mỹ)
Giải độc đắc: 31 triệu USD
Thời gian từ lúc trúng số đến lúc khánh kiệt: 20 tháng

Billie Bob Harrell Jr. trúng giải thưởng độc đắc 31 triệu USD vào năm 1997 khi đang là một người bán hàng rong.  Ban đầu, ông này mua một trang trại, tậu thêm 6 căn nhà và nhiều xe hơi.

Nhưng cũng giống như những người trúng vé số khác, Harrell không thể từ chối những lời cầu khẩn vay tiền từ bạn bè và người thân, để rồi trở nên khánh kiệt chỉ trong vòng 20 tháng.

Harrell tự sát vào năm 1999.

9. Callie Rogers (Anh)
Giải độc đắc: 3 triệu USD 9.
Thời gian từ lúc trúng số đến lúc khánh kiệt: 6 năm

Khi trúng độc đắc 3 triệu USD vào năm 2003, Callie Rogers chỉ mới 16 tuổi. Cô này tung tiền vào mọi thứ, từ quần áo, các chuyến du lịch, tiệc tùng, phẫu thuật thẩm mỹ để tăng kích cỡ vòng ngực và ma túy.

Sáu năm sau, cô lâm vào cảnh nợ nần và đã hai lần tìm cách tự sát. Cuối cùng, Rogers phải đi làm người ở để có tiền nuôi sống bản thân và hai đứa con.

10. Gerald Muswagon (Canada)
Giải độc đắc: 10 triệu USD
Thời gian từ lúc trúng số đến lúc khánh kiệt: 7 năm

Vào năm 1998, Gerald Muswagon trúng độc đắc 10 triệu USD tại Canada. Tuy nhiên, anh này nướng hết tiền vào rượu và tiệc tùng trong vòng vỏn vẹn có 7 năm.

Đến năm 2005, Muswagon tìm đến cái chết bằng cách tự treo cổ trong nhà xe của cha mẹ.

NIỀM TIN CỦA MỘT “DÂN NGOẠI”

NIỀM TIN CỦA MỘT “DÂN NGOẠI”

Tác giả: JM. Lam Thy ĐVD.

Bài Tin Mừng hôm nay lại một lần nữa biểu lộ lời nói và hành động khó hiểu của Đức Giê-su. Miền Tia và Xi-đon vốn được người Do thái coi là dân ngoại. Người đàn bà từ Ca-na-an ở miền ấy tới gặp Đức Ki-tô, xin Người chữa bệnh cho con mình. Lần thứ nhất bà cầu xin, nhưng Đức Ki-tô không trả lời. Không trả lời thì cũng có nghĩa là không đáp ứng lời cầu xin của bà ta. Nhưng với một niềm tin vững vàng, bà vẫn tiếp tục năn nỉ. Các môn đệ có vẻ không hài lòng về bà và xin Đức Ki-tô đuổi bà ấy đi, thì Người lại nói: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.” (Mt 15, 24). Câu nói này của Đức Ki-tô trái ngược hẳn với thái độ trước đó của Người, đồng thời còn cho biết bà Ca-na-an là dân ngoại và Người được sai đến với họ.

Sự kiện mâu thuẫn không dừng lại ở đây. Người đàn bà vẫn tiếp tục năn nỉ “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” và Đức Ki-tô đã nặng lời với bà ấy: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15, 26). Với câu trả lời này, Đức Ki-tô đã ví việc chữa bệnh như đem bánh cho người ta ăn và bánh đó không được cho “lũ chó con” ăn. Bà bị coi như chó và nếu giả thử gặp cỡ các kinh sư hay Pha-ri-sêu chắc chắn sẽ phản ứng rất mạnh. Nhưng bà này vẫn không buồn rầu bỏ đi, mà nhất định ở lại cầu xin cho bằng được. Lời cầu xin quả thật khiêm tốn và tin tưởng: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt 15, 28). Tuyệt vời!

Phải nói rằng bà này là típ người thông mình, rất thông mình. Nếu không, bà sẽ thấy lời của Đức Ki-tô không dính dáng gì tới việc bà cầu xin, và sẽ xảy ra 2 trường hợp: Một là thấy người mình cầu xin không hiểu được ý mình. Đã không hiểu được mình, thì cầu xin cũng vô ích, bỏ đi cho rảnh. Trường hợp thứ hai, sẽ cho là Đức Ki-tô không nghe rõ lời cầu xin nên mới nói về bánh, và nếu còn tin tưởng, bà ta sẽ cứ một mực xin Người chữa bệnh cho con mình. Cả 2 trường hợp đều không đúng với bà, vì bà đã hiểu ngay Lời dạy của Người mà bà tin tưởng. Khẳng khái nhận mình là “lũ chó con” (Người Do-thái vẫn coi những dân ngoại như lũ chó con), không dám xin ăn bánh trực tiếp, mà chỉ khiêm tốn xin được ăn những mảnh vụn rơi vãi.

Thêm một đức tính đặc biệt của bà nổi bật lên: Tuyệt đối khiêm nhường! Dù có bị coi là chó, bà cũng xin vâng (“Thưa Ngài, đúng thế!”), vì bà nghĩ rằng Người mà bà đang cầu xin đích thị là Đấng Quyền Năng, là Thiên Chúa. Là Thiên Chúa mà chấp nhận xuống phàm trần làm một con người bình thường như bao người khác, thì mình có bị coi là chó cũng xứng đáng thôi. Đức tình khiêm tốn tuyệt vời ấy chắc chắn không thể có được nơi những thượng tế, những kinh sư, luật sĩ, những Pha-ri-sêu, những con người vẫn luôn miệng nói “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” và tự coi mình mới là “hàng nội” chính tông, là con dòng cháu giống của Thiên Chúa; những con người luôn kiêu ngạo tự cho mình là đệ nhất thông minh và chỉ thích được “ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy” thiên hạ. Vậy đó!

Thông minh nhưng khiêm tốn,  người đàn bà Ca-na-an đã khiến Đức Giê-su Thiên Chúa động lòng trắc ẩn, buột miệng khen ngơi: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật”. Và thế là: “Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó, con gái bà được khỏi” (Mt 15, 28). Quả thực, bài học rút ra được ở đây là đức tính khiêm nhường, đức tính đứng hàng đầu trong bảy đức tính căn bản của Ki-tô giáo. Phải luôn nghĩ rằng tất cả những gì con người có được nơi trần thế đều là ân sủng của Thiên Chúa ban tặng. Những ân sủng đó Thiên Chúa ban cho mỗi người mỗi khác là vì ich chung (1Cr 12, 4-10). Không tự kiêu, tự mãn khi mình có được sự thông minh hơn người, hoặc có được những đặc ân khác những người xung quanh; nhưng cũng không tự ti mặc cảm khi thấy mình không có được những ân sủng như những người khác Tuy nhiên, bài học lớn nhất, bao trùm lên tất cả là đức tin của người đàn bà ở Ca-na-an.

Bà thực sự tin tưởng Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ và bà vững tin rằng Thiên Chúa không thiên vị một ai, không phân biệt “nội hay ngoại”, nếu chân thành cầu xin với một niềm tin vững vàng, thì dù xin gì, Người cũng sẽ ban cho (“Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho.” – Mt 7, 7-8). Bà không chỉ tin ở trên môi miệng, mà chính là ở chỗ đối diện với thử thách nghiệt ngã (bị dân Do thái coi là dân ngoại và chính Người mà bà tin tưởng mãnh liệt nhất lại coi bà và con gái bà là chó), vậy mà bà vẫn trung kiên với niềm tin của mình.

Với một người chưa được coi là Ki-tô hữu, mà đã có một niềm tin sắt đá như vậy, thiển nghĩ cũng rất đáng xấu hổ cho những người đã được coi là Ki-tô hữu (đã nhận lãnh Phép Rửa) mà chỉ hơi chạm đến tự ái, hoặc chỉ mới phỏng đoán mình sẽ bị “thử lửa”, đã vội vàng chối bay chối biến Chúa của mình một cách ngon lành. Hoá cho nên, chính trong cuộc sống đời thường, trong gian truân thử thách, trong tất cả mọi nghịch cảnh, người Ki-tô hữu vẫn sống đức tin một cách chân thực như bà mẹ người Ca-na-an trong bài Tin Mừng, không màu mè sáo rỗng, ấy mới thực sự xứng đáng với danh hiệu mà Đức Giê-su Ki-tô đã ban tặng: Ki-tô hữu (“Thầy không gọi anh em là tôi tớ, mà gọi anh em là bạn hữu” – Ga 15, 15).

Cho đến hôm nay, phần đông người Công Giáo Việt Nam vẫn giữ được đời sống đức tin rất tốt, được cụ thể hóa qua việc tham dự Thánh Lễ cũng như lãnh nhận các bí tích. Tuy nhiên, đời sống đức tin ấy nhiều khi chỉ là những thói quen do ảnh hưởng của gia đình, xứ đạo hơn là một chọn lựa và dấn thân cá nhân. Một đức tin như thế sẽ khó lòng đứng vững trong khung cảnh đô thị hóa và xã hội hóa đang và sẽ diễn ra mỗi ngày một nhanh hơn. Vì thế, cần xây dựng một đức tin mang tính cá vị, hiểu như một chọn lựa tự do và ý thức trước tiếng gọi của Thiên Chúa (Thư Chung của Hội Đồng Giám Mục VN về Năm Tân Phúc Âm Hóa, số 3). Đức tin là lời đáp trả của con người toàn diện trước tiếng gọi của Thiên Chúa. Con người toàn diện ấy bao gồm cả lý trí, tình cảm, ước muốn và hành động. Vì thế, để sống đức tin, người tín hữu không chỉ ngừng lại ở những hiểu biết thuần lý, nhưng phải bước vào hành động – hành động và liên lỉ cầu nguyện – bởi vì “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2, 17).

Xin đừng bao giờ quên Lời Thầy Chí Thánh: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: “Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc”, nó cũng sẽ vâng lời anh em.” (Lc 17, 6); “Thầy bảo thật anh em, nếu anh em tin và không chút nghi nan, thì chẳng những anh em làm được điều Thầy vừa làm cho cây vả, mà hơn nữa, anh em có bảo núi này: “Dời chỗ đi, nhào xuống biển!”, thì sự việc sẽ xảy ra như thế. Tất cả những gì anh em lấy lòng tin mà xin khi cầu nguyện, thì anh em sẽ được.” (Mt 21,21-22). Vâng, nhờ cầu nguyện, chúng ta gặp gỡ chính Đấng mà chúng ta tin. Và niềm tin đích thực được thể hiện qua đời sống hằng ngày là “Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa, đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người” (1Ga. 2, 3). Ước được như vậy. Amen.

JM. Lam Thy ĐVD.

KHI NGHỊCH CẢNH ĐẾN, BẠN CÓ THÁI ĐỘ NÀO?

KHI NGHỊCH CẢNH ĐẾN, BẠN CÓ THÁI ĐỘ NÀO?

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Trong cuộc sống, rất nhiều người sợ lâm vào khó khăn, nghịch cảnh. Vì thế, họ luôn đặt ra cho mình những câu hỏi như: “Sao mọi thứ lại không trôi chảy?”; “Sao cuộc đời lại đầy rẫy khó khăn, trở ngại?”; “Tại sao điều này lại xảy ra với mình?”; “Tại sao đời bất công đến vậy?”; hay “Tôi đã làm gì để ra nông nỗi này?”. Nhưng nếu suy tư một chút, chúng ta sẽ thấy: nghịch cảnh cuộc đời là điều không thể tránh. Không ai tránh được những bất trắc trong cuộc sống. Thật thế, người thì bị mất việc, kinh doanh thất bại, mất đi người thân, khủng hoảng tài chính, người thì đổ vỡ trong các mối quan hệ, hoặc thậm chí sức khỏe sa sút. Đôi khi những thử thách đó lại nằm ngoài tầm kiểm soát của ta, nên dù cố gắng đến mấy, nó vẫn tan thành mây khói.

Điều đáng bàn ở đây là: chúng ta sẽ phải ứng xử với những nghịch cảnh đó như thế nào cho đúng mực, hầu đem lại hiệu quả tối ưu!

  1. Những thái độ khác nhau khi gặp nghịch cảnh

Thật ra, mỗi khi thử thách đến trong đời, chúng ta thấy có rất nhiều thái độ khác nhau, mỗi người đối diện và phản ứng một kiểu, chẳng ai giống ai. Có người thì quay lưng lại với chúng. Có người lại không dám tiến lên vì sợ thất bại. Lại có người không bao giờ hành động… vì lo không đạt được mục tiêu.

Tuy nhiên, cũng có những người khi thất bại đến, họ coi đó như là một điều kiện cần để tiến đến thành công. Lại có những người coi việc thất bại như là một phần của cuộc sống để làm cho cuộc đời này ý nghĩa, giá trị hơn. Những người đó, họ coi thất bại như là chút mắm, muối, gia vị… để làm cho “tô phở cuộc đời” được mặn mà, thơm ngon hơn. Ralph Waldo Emerson đã nói: “Vinh quang lớn nhất của chúng tôi không phải là không bao giờ thất bại, nhưng tăng lên mỗi khi chúng tôi thất bại”; “Chẳng ai trở nên hoàn hảo và tốt đẹp mà chưa từng mắc lỗi lầm nào cả” (William E. Gladstone).

Thật thế, những người có thái độ tích cực đối với thất bại thì trong đầu họ luôn nghĩ: “Nghịch cảnh không phải là một tảng đá cản lối bước chân bạn. Hãy xem đó như một thềm đá nâng bạn bước cao hơn” (Fanco Molinary).

“Thất bại chỉ là cách chúng ta học hỏi qua phương pháp thử và sai. Chúng ta không chỉ cần chấm dứt ngay nỗi sợ hãi thất bại mà còn cần sẵn sàng chấp nhận thất bại – thậm chí hào hứng đón nhận thất bại. Họ gọi phương pháp đón nhận thất bại này là ‘thất bại để tiến lên’. Bạn chỉ cần bắt tay thực hiện, phạm sai lầm và tiếp tục tiến về phía mục tiêu của mình. Tất cả những kinh nghiệm thu được đều là những thông tin hữu ích bạn có thể sử dụng cho những lần sau” (Jack Canfield – trích trong “những nguyên tắc thành công”). Nghe có vẻ hơi điên rồ, nhưng nếu nhìn lại cuộc đời mình, bạn sẽ nhận ra những món quà quý giá bạn đang tận hưởng trong hiện tại lại “đâm chồi nảy lộc” từ nơi nghịch cảnh bạn phải hứng chịu trong quá khứ.

Tại sao thế? Thưa vì: “Bạn không thể học được ít hơn, bạn chỉ có thể học được nhiều hơn. Tôi có kiến thức sâu rộng chính là bởi tôi đã phạm rất nhiều sai lầm” (Buckínter Fuller – Nhà toán học và triết gia). Thất bại là chậm trễ, nhưng không đánh bại. Đó là một đường vòng tạm thời, không phải là một ngõ cụt.

Tuy nhiên, “nghịch cảnh chỉ mang đến lợi ích trong tương lai nếu bạn giữ được thái độ tích cực, chủ động tìm kiếm những cơ hội mới và không ngừng bước tới. Nếu bạn cho phép nghịch cảnh nhấn chìm bạn vào những suy nghĩ tiêu cực và thôi không phấn đấu thì đương nhiên, chẳng điều tốt đẹp nào đến với bạn cả” (trích trong “3 món quà đến từ nghịch cảnh” đăng trên: http://www.hoclamgiau.vn/skill/1641/mon-qua-den-tu-nghich-canh)

  1. Câu chuyện thành công từ những nghịch cảnh

Có một câu chuyện kể rằng:

Những nông dân ở miền Nam Alabama đã quen trồng chỉ mỗi một thứ là cây bông (dùng để se chỉ, dệt vải).

Một năm kia, những con sâu bọ đã tàn phá cả vùng. Năm sau những người nông dân đem nhà cửa của họ đi cầm cố để có tiền và lại tiếp tục trồng cây bông, hy vọng vào một kỳ gặt hái tốt đẹp. Thế nhưng, khi những cây bông bắt đầu mọc, những con sâu bọ đó lại đến và phá sạch hầu hết các cánh đồng.

Một số ít những người “sống sót” qua 2 năm đó đã quyết định trồng thử một thứ mà trước đây họ chưa bao giờ trồng, đó là cây lạc (đậu phộng). Và kết quả là cây lạc của họ nhanh chóng được thị trường ưa chuộng, đến nỗi lợi tức của năm đó đủ để họ trả hết nợ của 2 năm trước. Kể từ đó họ trồng cây lạc và rất phát đạt.

Và rồi bạn biết những người nông dân đó làm gì không? Họ trích một phần trong tài sản của mình để dựng một đài kỷ niệm ngay giữa trung tâm thành phố để ghi công “những con sâu bọ”. Bởi nếu không vì những con sâu đó họ sẽ không bao giờ khám phá ra cây lạc. Họ sẽ mãi mãi đủ ăn với nghề trồng cây bông từ thế hệ này qua thế hệ khác.

  1. Đứng trước nghịch cảnh, người Công Giáo cần có thái độ nào?

Khởi đi từ nguyên tắc cứu độ của Đức Giêsu trong nguyên lý của hạt lúa mì: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24); rồi chính Đức Giêsu đã đi trên con đường tự hủy đó để cứu độ con người. Đỉnh cao của mầu nhiệm này là cái chết trên thập giá như Ngài đã tiên báo: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại” (Mc 8, 31). Tinh thần này đã được thánh Phanxicô Assisi lựa chọn và sống, ngài viết: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.

Quả thật, con đường này là con đường nghịch lý của thập giá mà chính Đức Giêsu đã lựa chọn. Tuy nhiên, đằng sau sự mục nát của hạt lúa, chúng ta thấy trổ sinh nhiều cây và bông hạt khác. Cũng vậy, nếu không có thập giá hôm nào thì không có sự phục sinh của Đức Giêsu và niềm hy vọng của chúng ta. Chính Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận cũng đã nói: “Đừng nản lòng vì thất bại. Nếu con tìm ý Chúa thực sự, thì chính sự thất bại đó là thành công. Chúa muốn như vậy. Xem gương Đức Giêsu trên thánh giá”; “ Chỉ có một sự thất bại là không hy vọng vào Chúa. Con đã hy vọng vào Chúa và con sẽ không hổ thẹn đến muôn đời” (ĐHV., số 41. 43).

“Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Trong hành trình sống đạo, hẳn không thiếu những nghịch cảnh. Tuy nhiên, khi đối diện với chúng, mỗi người chúng ta hãy kiên trì và trung thành với ơn gọi mà mình đã khám phá và cảm nghiệm. Mỗi khi khó khăn thử thách đến với chúng ta, đừng vì thất vọng mà buông xuôi. Nhưng hãy trung thành đến cùng. Nếu bỏ cuộc, chúng ta đã làm việc này việc nọ vì hứng chứ không phải vì lòng yêu mến Chúa.

Tuy nhiên, lòng yêu mến Chúa thì không phải là hứng mà làm, nhưng là vì cảm nghiệm. Khi đã cảm nghiệm thì không còn chuyện bàn tán nên hay không nên, mà tất cả đều có ích cho những người yêu mến Chúa.

Hình ảnh người trộm lành cho chúng ta thấy, anh ta hạnh phúc ngay trong sự thất bại. Anh ta được hạnh phúc là vì anh ta tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu của Thiên Chúa. Còn Giuđa thì thất vọng khi đang sống trong tình yêu nhưng lại nghi ngờ, nên ông đã là người thất bại thê thảm.

Nếu không bền chí thì không phải là người tài đức song toàn. Người tài là người được lớn lên trong thử thách. Người có đức là người bền chí, trung thành và can đảm. Bền chí là dấu hiệu của người đang dồi dào ân sủng.

Nếu thiếu đi hai yếu tố trên thì không phải là mình “hiền” như mình vẫn lầm tưởng, mà là “hèn”. Cần hiểu và phân định rõ rằng: “hiền”“hèn” là hai lối sống và biểu hiện khác nhau.

Nếu không có lòng yêu mến Chúa, thì không thể kiên trì, trung thành được, bởi vì, họ sẽ không thể tìm ra ý nghĩa của đau khổ, thất bại. Họ sẽ không thấy sự sống trổ sinh từ cây thập giá chết. Họ sẽ không thể hy vọng về một tương lai tươi sáng khi đang phải đối diện với tối tăm mù mịt.

Giuđa và Gioan chỉ khác nhau ở lòng mến mà thôi. Trong tâm hồn chúng ta cũng vẫn còn đó hai hình ảnh và hai lối sống lẫn lộn: Gioan và Giuđa. Bao lâu chúng ta còn kiên trung, bền chí, và hy vọng, ấy là dấu chỉ ta theo Gioan để đi trọn con đường tình yêu dưới chân thập giá. Còn giờ phút nào chúng ta nhát đảm, sợ sệt, ham tiền, ham danh, ấy là lúc chúng ta đã chọn Giuđa làm quan thầy và thắp hương tôn thờ vị “quan thầy phản bội”.

Bạn thân mến,

Chúng ta thường than oán mỗi khi rơi vào nghịch cảnh. Thế nhưng, chúng ta quên rằng Chúa là Cha của chúng ta ở trên trời, Chúa luôn yêu thương chúng ta, Ngài biết trước những gì chúng ta cần, vì thế chúng ta nên phó thác trong tay Ngài. Hãy tin tưởng vào Chúa quan phòng (x. Mt 6,25-34). Mỗi khi gặp nghịch cảnh , khó khăn xảy đến, chúng ta đừng quá bận tâm cho câu hỏi tại sao? Mà hãy chú tâm và khám phá ra ý định của Thiên Chúa trong nghịch cảnh đó.

Khi thinh lặng nội tâm, Ngài sẽ cho biết lý do tại sao, hay cần làm gì để chúng ta nhận biết được những hồng ân quý báu Chúa ban cho trong nghịch cảnh đó.

Thật vậy, mọi sự đều trở nên ích lợi cho những người yêu mến Chúa. Vì thế, không còn chuyện than thân trách phận hay buồn bực, chán nản và thất vọng vì những điều không hợp với ý của ta nữa. Các thánh là những người đã sống mầu nhiệm thập giá qua những nghịch cảnh cách xuất sắc. Có những đấng đã xin Chúa cho chịu thật nhiều đau khổ để đến vì tội mình. Lại có đấng sẵn lòng chịu khổ cực thay cho người khác. Và cũng có những đấng đón nhận mọi khổ cực đắng cay, hiểu lầm vì lòng yêu mến Chúa. Các thánh là những người phải chiến đấu với sự yếu đuối bản thân, với những nghịch cảnh từng ngày từng giờ, từng phút, từng giây trong cuộc sống.

Xin hãy nhớ rằng: những điều tốt đẹp ngày hôm nay là kết quả của những thử thách ngày hôm qua.

Để kết thúc, xin bạn cùng với tôi, chúng ta cùng nhau suy ngẫm câu nói sau: ” ‘Khổ’. Đúng vậy. Thương khó, bỏ dễ. Khó mới quí, bỏ là quỉ” (ĐHV., số 60).

Vậy bạn và tôi, chúng ta muốn làm thánh hay là quỷ???

Jos. Vinc. Ngọc Biển

SỨC MẠNH CỦA LÒNG TIN

SỨC MẠNH CỦA LÒNG TIN

LM Ignatiô Trần Ngà

Norman Vincent Peale (1898-1993) là một mục sư danh tiếng trong Giáo Hội Tin Lành Methodist, đồng thời cũng là nhà tâm lý trị liệu danh tiếng ở Mỹ, đã xuất bản nhiều tác phẩm thuộc hạng ăn khách nhất (best-selling books), trong đó có cuốn “sức mạnh của tư tưởng tích cực” (The Power of positive thinking) xuất bản năm 1952, được dịch ra đến 41 thứ tiếng, bán ra hơn 20 triệu cuốn và còn được thu vào băng dĩa để phát hành.

Cuốn sách nầy lôi cuốn được nhiều độc giả đến thế vì nó giúp cho người ta tìm thấy bí quyết tránh thất bại và đạt tới thành công.  Bằng cách nào?  Tác giả cuốn sách viết: người ta thất bại vì người ta thiếu lòng tin, thiếu lòng tin nơi Thiên Chúa và thiếu tin tưởng vào khả năng của mình.  Vậy muốn thành công, hãy gầy dựng cho mình một niềm tin mạnh mẽ.

Tác giả dùng một câu lời Chúa, trích trong Tin Mừng Mat-thêu làm nên bí quyết để thành công trong cuộc đời, để giành lấy thắng lợi.
Câu đó là:
“nếu bạn có lòng tin thì chẳng có việc gì mà bạn không làm được.” (Mt 17, 20)

Chân lý đó được chứng tỏ qua sự kiện sau đây:

Khi Chúa Giêsu vượt qua biên giới Do-thái qua miền Tia và Xi-đôn, có một người đàn bà xứ Canaan, là người ngoại bang đến gặp Chúa Giêsu và thống thiết nài xin Người: “Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!  Con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”

Chúa Giêsu lặng thinh không đáp.

Nếu ở trong hoàn cảnh người đàn bà nầy, chắc chúng ta tức tối bỏ đi, thầm oán trách Chúa vô tâm.  Đó là bức tường thứ nhất người đàn bà Canaan đụng phải, nhưng bà không thối lui.

Bà cứ liên lỉ nài van, còn Chúa Giêsu thì cứ tiếp tục lặng thinh.  Bà kêu xin bền bỉ đến độ các tông đồ đi theo chịu hết nổi, nên mới xin Chúa Giêsu đáp lại ước vọng của bà: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!”

Chúa Giêsu lại từ chối: “Thầy chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Israel”.

Sứ mạng của Chúa Giêsu vào thời điểm đó chỉ dành cho dân Israel mà thôi.  Chưa đến lúc, chưa đến giờ đem ơn cứu độ cho mọi dân tộc.

Bị từ chối thẳng thừng, bị đụng vào bức tường thứ hai, nhưng bà không nhụt chí.  Bà vẫn tiếp tục van xin.  Bà bái lạy Người cách thành khẩn: “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi”.

Lần nầy, Chúa Giêsu trả lời cách cứng cỏi và quyết liệt: “Không nên lấy bánh của con cái mà cho chó con.”  Thế là bà lại đụng phải bức tường thứ ba, tưởng như còn cao hơn, dày hơn hai bức tường trước.  Vẫn không thoái chí, bà khiêm nhường chấp nhận thân phận thấp hèn của mình và khiêm tốn cầu xin: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.”

Đến đây thì Chúa Giêsu không thể chối từ được nữa và nguyện vọng của người phụ nữ Canaan đã được đáp ứng hoàn toàn.  Con gái bà đã được cứu chữa.

Chúa Giêsu xác nhận rằng bà được như ý bà muốn là nhờ lòng tin: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật.  Bà muốn sao thì sẽ được vậy.”

Vì muốn cho chúng ta biết rằng lòng tin có sức cứu chữa và làm nên phép lạ, nên sau mỗi lần cứu bệnh nhân lành bệnh, Chúa Giêsu không nói: “Ta đã chữa lành con, hãy về bình an,” nhưng Ngài lại nói: “Đức tin của con đã cứu chữa con.”

Tin Mừng Mátthêu cũng nhấn mạnh rằng nếu không có lòng tin, thì người ta chẳng đạt được gì cả, bằng chứng là khi Chúa Giêsu về thăm quê hương Ngài là Nadarét, người đồng hương không tin vào Ngài, nên không có phép lạ nào xảy ra. “Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin” (Mt 13, 58) hay như tường thuật của thánh Máccô: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó… Người lấy làm lạ vì họ không tin” (Mc 6, 5-6)

Chúa Giêsu khẳng định rằng ai có lòng tin thì có thể làm được bất cứ việc gì.  “Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi nầy: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được.” (Mt 17, 20)

Một sự kiện điển hình chứng tỏ niềm tin làm nên phép lại là khi Phê-rô thấy Chúa Giêsu đi trên mặt nước, ông cũng muốn được như Thầy và đã xin Chúa Giêsu cho ông thực hiện điều đó.  Chúa Giêsu chấp thuận.  Tin vào quyền năng Chúa Giêsu, Phêrô làm nên được điều kỳ diệu: ông đi được trên mặt nước để đến với Thầy.  Thế nhưng khi thấy gió thổi mạnh, ông đâm ra lo sợ và nghi ngờ.  Chính vì mất niềm tin nên ông bị chìm đắm.  Ông hốt hoảng la lên.  Chúa Giêsu nắm lấy tay Phêrô kéo lên và trách ông: “Người đâu mà kém tin vậy!  Sao lại hoài nghi!”  (Mt 14, 22 – 33).

Lòng tin là bí quyết của thành công, đó là bài học quan trọng mà Chúa Giêsu muốn gửi đến chúng ta hôm nay, tiếc thay chúng ta không biết tận dụng bài học đó để thu hoạch những thành quả tốt đẹp trong cuộc đời.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đề cao lòng tin, khen ngợi những người mạnh tin và chê trách các môn đệ yếu lòng tin.  Xin ban thêm Đức tin cho chúng con để nhờ đó, chúng con vững vàng thắng vượt gian nan thử thách và giành lấy những thành tựu tốt đẹp trong cuộc đời.

LM Ignatiô Trần Ngà

Mưa với nắng dẫu chung trời, chung đất,

“Mưa với nắng dẫu chung trời, chung đất,

Mà quanh năm bắt buộc tránh nhau hoài.”

(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mt 16: 13-20

Chung trời đất, nhưng cuộc đời nào có chung. Tránh nhau hoài, là tư-thế của người đời thường ứng-xử với nhau trong đời người.

Trong đời người đi Đạo và sống Đạo cũng thế. Cũng có những cảnh người người tránh né nhau, như người dưng nước lã, khó làm thân. Chả thế mà, Đức GIêsu hôm nay cứ lần lữa hỏi đồ-đệ xem người người gọi Ngài là ai? Có biết gì về Đấng Mêsia không? Có biết Ngài là Đấng được gửi đến sống chung đụng, gần gũi trong trời đất, vẫn thương-yêu, gần cận biết bao người, như trình-thuật thánh Mát-thêu còn ghi chép.

Trình-thuật thánh Mát-thêu hôm nay ghi về cung cách sống rất chung đụng của người trần-thế, rất ở đời. Trong đời trần thế, sống đúng tư cách của người đi Đạo là sống cho ra sống. Dù cuộc sống có trần ai/bĩ cực, người tín hữu Đức Kitô vẫn phải sống có căn cước của nhà Đạo. Chứng tỏ căn cước nhà Đạo, là ưu tư của người đi Đạo.

Ở đây, “danh xưng” Kitô-hữu vẫn được coi như một căn cước. Ở đây, “căn cước” người tín hữu, vẫn nói lên cả một hiện tượng, thường xảy ở nhiều nơi.

Tại giáo phận miền quê hôm ấy, xảy ra một vụ nổ lớn về cách thức vị linh mục chánh xứ tổ chức buổi tĩnh tâm cuối tuần, cho các học sinh trung học. Đêm thứ sáu của tuần lễ trầm mặc, là đêm căng thẳng nhất, khi vị linh hướng thông báo với các người trẻ, rằng: họ phải có quyết định dứt khoát, về niềm tin tôn giáo của mình.

Nhiều phụ huynh đã sững sờ, khi biết là đám trẻ nhà mình, đã nhận được tối hậu thư rất gay, có thể dẫn tới hậu quả là chúng sẽ chối bỏ đức tin. Vị linh hướng hôm ấy, còn quả quyết rằng: người trẻ Kitô-hữu vẫn phải có quyết định chọn nghề, chọn lối sống; chọn nơi ăn chốn ở, môn học và các tương quan ở đời thường.

Vị chủ trì buổi tĩnh huấn, còn quả quyết: tôn giáo lâu nay bị đẩy lùi ra ngoài xã hội, và cuộc sống. Và, đây là chuyện khá quan trọng, để giới trẻ nên quan tâm suy nghĩ, hầu có quyết định chọn lựa trước khi bước vào cuộc đời đích thật. Và, nếu không có quyết định dứt khoát về niềm tin tôn giáo, thì Đạo của ta sẽ đắm chìm trong quên lãng. Hoặc, bị phủ vùi trong lớp ẩm mốc, cát bụi; để rồi, cuối cùng cũng làm mồi cho củi lửa, thiêu đốt.

Linh mục ấy còn thêm: đòi hỏi giới trẻ có thái độ như thế, vẫn chưa đủ. Sau 12 năm thấm nhuần nền giáo dục mang tính Kitô-giáo; và sau nhiều năm học hỏi giáo lý, Hội thánh vẫn kêu gọi giới trẻ phải có thái độ đối với niềm tin của mình. Một số người trẻ, đã quyết định một cách có ý thức, dứt khoát tiến bước dấn thân làm thành viên của Giáo hội.

Và, khi quyết định tạo cho mình một nghề đầy lòng tin như thế, nhiều bạn trẻ cho biết: họ đã phải đối đầu cả với Chúa. Họ đã kinh nghiệm trực tiếp giáp mặt với Ngài. Có người đã không ngại ngần phản chống lại Giáo hội, đến độ về sau, họ không thể nào rút lại quyết định của mình, được nữa.

Tiến-trình tĩnh tâm, cũng dựa trên nền tảng được nêu ra trong Tin Mừng, hôm nay: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Đáp lại câu hỏi này, các môn đệ muốn phản ánh kinh nghiệm mình đã sống với Đức Kitô, nên đã đưa ra những giải đáp khác nhau. Duy có Simôn Phêrô, lại quả quyết: Đức Kitô là sự mặc khải của Chúa gửi đến cho con người. Đây là tuyên ngôn nền tảng, mà qua đó Giáo hội của Chúa được thiết lập, chốn gian trần.

Những gì khi xưa là chân lý, nay vẫn là sự thật. Rất hoàn toàn. Có một vài điểm, nếu ta vẫn muốn cho niềm tin chuyển đổi từ lề luật, rất ý niệm hoặc những quan điểm riêng tư, thành những gì ta có thể cảm nghiệm được, thì ta phải gánh vác niềm tin mà Giáo hội hằng nuôi dưỡng ta, mãi đến hôm nay.

Và, phải coi đó như trọng trách hoặc nghề nghiệp, của chính ta. Làm thế, khi giáp mặt Đức Kitô, ta mới thực sự cộng tác vào công cuộc tái tạo Hội thánh, cùng với thế hệ đương đại.

Ý thức tận hiến đời mình, làm thành viên “cộng đoàn Hội thánh”, có lẽ là thách thức lớn Đức Chúa đem đến cho môn đệ, trong Tin Mừng. Như môn đệ xưa, chúng ta được kêu mời làm chứng tá cho tình yêu của Chúa tại nơi mình công tác hay làm lụng.

Hoặc, khi hòa mình sống với bạn bè/người thân trong gia đình. Còn lại, là chuyện nhắc nhớ: chúng ta vẫn đại diện cho Hội thánh. Một Hội thánh duy nhất. Thánh thiện. Mà, tất cả mọi người chúng ta đang giáp mặt, sống chan hòa.

Đường lối ta đeo đuổi, có thể sẽ cột thắt hoặc giải phóng mọi người, sẽ được đo lường bằng niềm tin yêu của ta. Mọi người sẽ nhìn qua ta, để phán đoán xem Hội thánh có còn phản ảnh Đức Kitô, sống với thế giới gian trần, hôm nay không. Mọi người sẽ tìm hiểu xem Hội thánh có còn là căn nhà chung, mọi người chúng ta đang sống.

Và, tất cả đều được coi như thực chất/bản-lề đặt ở câu hỏi gửi đến mỗi người, trong cộng đoàn. Câu hỏi, là: “Thế còn bạn, bạn bảo Tôi là ai?” Cách thức ta trả lời cho câu hỏi, sẽ bộc lộ thật nhiều điều. Và, điều rõ nét nhất, vẫn là:  Đức Kitô có còn lý tưởng ta yêu thích. Có còn là, đối tượng ta mê say, phục vụ, nữa hay không?

Một lần nữa, hỏi tức là trả lời. Một trả lời ở đâu đó, nơi lời kinh/nguyện cầu rất hăng say. Trong cảm-nghiệm về câu trả lời cho tình thương yêu gần cận với Thày, cũng nên ngâm lại lời thơ trên còn bỏ dở, rằng:

“Mưa với nắng dẫu chung trời, chung đất,

Mà quanh năm bắt buộc tránh nhau hoài.

Ta với người bắt buộc phải chia hai,

Làm sao em biết trời đau đớn

Làm sao em lớn bằng ta lớn.

Để chung cùng công việc: đứng than thân…”

(Nguyễn Tất Nhiên – Vài Đoạn Viết Ở Đinh Tiên Hoàng)

Viết ở đâu cũng là viết. Viết về tư thế của mưa với nắng, tránh nhau hoài. Đứng ở đâu, cũng là đứng trong trời đất, mà cứ bắt buộc tránh nhau hoài, thế đó đâu phải là đời người. Chí ít là đời của người đi Đạo và sống Đạo, vẫn có Chúa thương yêu ở chung cùng mình, rất an bình.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch