Ném nhân-cách vào ngàn sâu ký-ức

“Ném nhân-cách vào ngàn sâu ký-ức,”

Trát bùn tanh lên mặt đã bao năm”.

(dần từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mt 22: 15-21

Mai Tá diễn dịch

Ném sao được nhân-cách của mọi người, như nhà thơ từng cảnh-báo. Nhân-cách và nhân-vị của con người chỉ có thể trao-trả cho con người, dù người ấy ở nơi cao tít chốn cầm-quyền cai trị muôn dân. Nhân-cách và nhân-vị của con người vẫn là ý-tưởng chỉ-đạo mà khi xưa bậc thánh-hiền đã ghi lại nơi trình thuật, để cảnh-giác người nghe biết Tin-Mừngh CHúa bảo ban.

Trình thuật Tin Mừng hôm nay, thánh-nhân hiền-từ lại cũng ghi chép lời bảo-ban mà các nhà hiền-triết khi xưa tóm gọn bằng một triết-thuyết rất “con người” qua nhận định: “Sống trước đã, triết lý sau”. Triết lý sống và sống triết lý, hoặc chính trị-tà trị vẫn là cách thế, để sống. Sống đúng đường lối, hợp với đạo làm người.

Chính vì thế, nên: dân thường ở huyện, nay dù vẫn còn ở trong hay đã ra khỏi cộng-đoàn kẻ tin vào Đức Chúa, lại vẫn nghĩ: Ngài chẳng khi nào uỷ thác cho Giáo hội trọng trách kinh-bang tế-thế, hoặc chính-trị nào hết, để hỗ-trợ cho lập-trường của mình, dù nhiều người cứ viện-dẫn đoạn trình-thuật Tin Mừng hôm nay, để làm bằng.

Nhận thức ý-nghĩa cũng như bối-cảnh của đoạn Tin mừng nay viết lên, chắc hẳn chẳng ai muốn cho Giáo hội cứ “ru rú” ngồi trong “góc khuất” xa khỏi cửa để suy-tư, dẫn dụ nhau về những thực-tại của chân-lý vĩnh-cửu. Và, cũng chẳng thấy ai reo hát lời thánh vịnh cũng rất xưa, nhưng chỉ lưu tâm để ý đến thánh ca hợp thời đại, thôi.

Thời Chúa sống, ta hẳn cũng rõ biết nhiều lãnh đạo hội đoàn vẫn tự hào cho rằng mình thuộc giống giòng đạo hạnh, siêng chăm như nhóm Biệt Phái, rất nhiệt thành. Biệt Phái hay Nhiệt thành, là đám người mộ đạo quá mức bình thường, được tổ chức rất qui củ, lớp lang vào cuối thời kỳ người La Mã còn đô hộ Do thái.

Một trong những cố gắng mà nhóm Nhiệt thành cổ vũ đến cùng là duy trì việc nộp thuế cho đám dân quân đô hộ. Lúc ấy, chắc cũng có một số người dám nghi ngờ Đức Kitô thuộc nhóm này nên mới tìm đến gạn hỏi, đặt bẫy. Nhưng, Ngài luôn chứng tỏ là Ngài đứng về phía những người nghèo hèn, ốm đau bệnh tật,  những nữ phụ tai tiếng và cả đám người sống bên lề xã hội nữa.

Tin Mừng cho thấy Đức Kitô luôn công kích các tay đầu nậu tôn giáo đương thời. Ngài cũng đã nhiều lần khuấy động, thức tỉnh bọn người còn ngủ vùi tại những nơi Ngài đặt chân đến. Ngài chống đối mọi hình thức bạo động, khủng bố; luôn khuyên dạy các đồ đệ dõi theo bước chân dài truyền giáo, biết quên mình đi mà yêu thương và nguyện cầu cho những kẻ hãm hại chính mình. Các tay ma đầu, tác oai tác quái luôn rình rập sơ hở để báo cáo lấy điểm với phe nắm quyền.

Đức Kitô còn muốn mọi người phải tỏ ra công minh chính trực như Đức Chúa vẫn trông chờ nơi thế giới phàm trần. Đã nhiều lần, Ngài hằng minh định rằng không nên dựa vào vũ khí hoặc sự khiếp sợ, trả thù, mà chỉ có tình thương mới có thể biến đổi được tâm can những người làm chính trị, nắm giữ quyền hành.

Chính trị của Đức Chúa chính là tình yêu ngự trị chứ không phải thứ tà trị hay tà ma, ác thần đang còn ngự trị nơi lòng dạ của kẻ xấu. Dứt khoát không thể nghi ngờ được là Ngài thuộc nhóm “Nhiệt thành” bợ đỡ đám quỷ ma thống trị.

Tin Mừng hôm nay diễn tả, Đức Kitô, thay vì xoáy mòn, đảo lộn uy quyền của người trần thế, ngược lại, Ngài vẫn nâng đỡ và yểm trợ họ. Ngài không chỉ làm có thế, mà còn làm hơn thế nữa. Ngài không chỉ nói “Những gì của Xêda, hãy trả lại cho Xê-da” mà còn thêm: “và đem về với Đức Chúa những gì thuộc về Đức Chúa”. Chân lý thực tiễn này gồm tóm mọi vua quan, tiến chức nơi trần thế.

Mọi quyền năng, đất nước, mọi giới chức nắm giữ quyền hành, xuất tự Đức Chúa, phải được đưa về với Đức Chúa. Điều này có nghĩa: với tư cách là con dân của Đức Chúa, chúng ta chẳng thể nào đem nghĩa vụ ta có đối với trần thế để rồi thu về một mối, trao tất cả cho mình Đức Chúa mà thôi. Làm như thế là sai lầm và còn nguy hiểm nữa.

Cứ liên tưởng đến những chương sử đen tối của thế kỷ vừa qua, sẽ thấy nhiều chuyện trái khoáy đã xảy ra với cả những người công chính chuyên đi lễ hằng tuần mà vẫn chẳng biết kết hợp hài hòa giữa thói quen giữ đạo ngày của Chúa với trách nhiệm ngoài đời vào ngày trong tuần.

Trách nhiệm ở ngoài đời tức là thứ chính trị rất chính đáng để ta có thể mãi mãi ngự trị trong tình yêu của Đức Chúa. Có lẽ vì thiếu kết hợp hài hòa mà sự dữ, quái ác vẫn cứ ngang nhiên tồn tại.

Các bậc trưởng thượng trong Giáo hội lâu nay phụ trách việc công bố Tin Mừng cho người trần thế vẫn có bổn phận dùng mọi cơ cấu chính trị, hoặc diễn đàn thế giới để làm công tác mà Bề Trên giao phó. Đó là công tác phối hợp hài hoà sao cho Tình yêu của Đức Chúa với con người được thể hiện với toàn thể tạo vật và người đời. Đời cũng như Đạo. Bên trong cũng như bên ngoài dân được chọn.

Bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Ysaya đã sử dụng cùng một thông điệp tương tự để nhắc nhở chúng ta về Tình yêu của Đức Chúa khi Ngài gọi chúng ta bằng tên riêng của mình. Đôi lúc, có thể có người trong chúng ta sẽ không đồng ý với các bậc trưởng thượng trong Giáo hội và e ngại rằng các đấng không nắm được thông tin chính xác, nên đôi lúc có thể đã dẫm chân lên nhau, vượt phạm vi, giới hạn của quyền bính.

Nếu quả có thế, chúng ta cũng nên nói cho các vị ấy biết. Đồng thời cũng phải nâng đỡ, hỗ trợ để các đấng có được một lập trường thông thoáng, biết uyển-chuyển khả năng suy xét, phán đoán của mình.

Tuy nhiên, cũng đừng bao giờ nhẹ dạ nghe theo lời dụ dỗ của những kẻ phóng đãng chỉ muốn Hội thánh xa rời truyền thống chân chính của Đạo. Những người này chỉ cù cưa biện luận, muốn đưa ra một định hướng phóng túng khiến ta dễ nghe theo, bằng những bánh vẽ đủ mầu sắc đa dạng hoặc còn tô điểm thêm bằng những ưu tiên hấp dẫn, vẫn ban phát cho cộng đồng nhân loại.

Nếu Hội thánh tỏ dấu không muốn tham dự tích cực vào những chuyện chuyển đổi xu hướng xấu xa, thì việc Đức Kitô đã sống, chết đi và sống lại từ cõi chết cho con người sẽ trở nên hư luống, vô bổ. Điều chắc chắn là: chúng ta vẫn phải đem đến cho đời (tức Xê-da) những gì người đời có quyền được hưởng nhân danh mọi tốt lành, của chung.

Nói cách khác, mọi người vẫn phải tỏ ra trung thành với Đức Chúa, là Đấng đã kêu mời tất cả các Xê-da trên trần thế, hãy cứ trông chờ vào những gì mình đã thực hiện hoặc chưa kịp đưa vào hiện thực.

Bởi vì, lúc ấy có thể chúng ta sẽ được yêu cầu giải thích lý do tại sao vẫn để cho một số người rời bỏ cộng đoàn. Vẫn còn có những người bỏ cuộc, thiếu kiên nhẫn trông chờ quà tặng của Đức Chúa, ngay từ đầu.

Cuối cùng, dù ta có tự hào mình thuộc thành phần đứng đắn hoặc chính quy, thì việc ra đi hoặc phân tán cộng đoàn đều là dấu hiệu không tốt; đều là thứ chính trị trái với kỳ vọng của mọi người. Chí ít, đối nghịch với lời truyền của Đức Chúa.

Vì thế, chính trị chẳng bao giờ chống đối ý định của Đức Chúa. Chí ít, là của Đạo. Đó chỉ là tà trị.

Trong cảm-nghiệm những gì Chúa tỏ-bày, tưởng cũng nên ngâm lại lời thơ ở trên, rằng:

“Ném nhân-cách vào ngàn sâu ký-ức,

Trát bùn tanh lên mặt đã bao năm.

Mới ngoài hai mươi mà trầm-trọng chứng đau lưng,

Bởi luồn cúi mỗi ngày dăm bẩy bận”.

(Nguyễn Tất Nhiên – Lần Cuối)

Nhà thơ, luôn ghi nhớ sự việc thiếu nhân-cách nơi đám người “nhiệt-thành”/“báng bổ” chỉ biết luồn cúi, nịnh-bợ giới cầm quyền, mất nhân-cách. Thứ nhân-cách đầy tính-chất đạo-hạnh của bậc hiền-nhân quân-tử đà biến dạng cả chốn thiền-môn, rất Đạo.

Trình-thuật, nay còn là lời cảnh-tỉnh gửi mọi giới, ở khắp nơi, để người người lo chỉnh-đốn sống đích-thực thứ triết-lý nhân-hiền nhà Đạo, rất chính-mạch còn tồn-tại. Và, đó còn là lời nhắn-nhủ “cứ trả về cho Thiên-Chúa, những gì là nhân-lành/hạnh-đạo của Thiên-Chúa, để người người nhờ đó sống yên vui, suốt đời mình.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá diễn dịch

Hầu hết người Việt, người Hoa đều muốn theo tư bản

Hầu hết người Việt, người Hoa đều muốn theo tư bản
October 09, 2014

Nguoi-viet.com


WASHINGTON DC (NV) .-
Lòng ham muốn của người dân có thị trường tự do ở những nước cộng sản như Việt Nam và Trung Quốc cao hơn những nước tư bản truyền thống như Mỹ, Anh quốc, theo tổ chức Pew nghiên cứu.

Một phụ nữ và một ông bước vào một khu thương xá ở Bắc Kinh. Lòng ham muốn thị trường tự do rất cao ở Việt Nam và Trung Quốc so với các nước khác. (Hình: AP Photo/Ng Han Guan)

Có đến 95% các người dân ở Việt Nam được phỏng vấn nói rằng hầu hết mọi người sẽ khá hơn nếu sống trong nền kinh tế thị trường. Trong khi đó, có 76% người Trung Quốc cũng nghĩ như thế, theo cuộc khảo cứu dư luận toàn cầu của tổ chức Pew thực hiện với các cuộc phỏng vấn gần 49,000 người trên khắp thế giới.

Kết quả như thế chắc chắn làm giới lãnh đạo các chế độ độc tài đảng trị tại Việt Nam cũng như tại Trung Quốc khó chịu dù họ thừa biết nhân dân chẳng ưa gì guồng máy thống trị.

Tại Việt Nam, nhà cầm quyền cố gắn cái đuôi “Xã hội chủ nghĩa” vào chủ trương theo đuổi kinh tế thị trường khi chen chân vào chuỗi sản xuất và tiêu thụ toàn cầu.

Chỉ vì cái chủ trương đầu ngô mình sổ ấy mà nền kinh tế Việt Nam ngày càng tụt hậu so với các nước khu vực, khoảng cách giầu nghèo giữa tầng lớp cai trị và tham nhũng bắt tay với đám “tư bản thân hữu” so với đại đa số quần chúng thì càng ngày càng cách biệt lớn lao.

Pew là một tổ chức nghiên cứu xã hội trụ sở ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn do tổ chức Pew Charitable Trusts tài trợ thực hiện các dự án nghiên cứu khác nhau, trong đó có dự án nghiên cứu thái độ sống của người ta trên thế giới (Global attitudes project).

Sự mở rộng giao thương giữa các nước đã kích thích sản xuất và tiêu thụ toàn cầu, giúp tăng trưởng kinh tế nhanh ở một số nước trong đó có Việt Nam và Trung Quốc vốn là những nước nông nghiệp và thiếu ăn. Nhờ vậy, nhiều người dân đã thoát cảnh thiếu đói thường xuyên. Một số người trở thành tầng lớp trung lưu trong xã hội, thậm chí giầu có nổi bật trong xã hội.

Trong khi đó, nền kinh tế tại những nước tư bản cố cựu như Hoa Kỳ và Anh quốc thì tăng trưởng rất thấp hoặc có những giai đoạn đối phó với suy thoái kinh tế rất khó khăn. Nạn thấp nghiệp cao và lương bổng thì cũng không tăng.

Những kinh nghiệm sống ở những nước đang phát triển, muốn thoát ra khỏi tình trạng chậm tiến và tại những nước vốn có nền kỹ nghệ tiên tiến và mức sống khá cao, có thái độ khác nhau về thị trường tự do hiện nay cũng như tương lai.

Đến 65% những người ở các nước kỹ nghệ tiên tiến nói rằng con cháu của họ sẽ nghèo khổ hơn cha mẹ của chúng. Nhưng trái lại, tại những quốc gia lương bổng thấp hay trung bình, ít nhất là phân nửa những người được phỏng vấn cho rằng con cái của họ sẽ khá hơn cha mẹ.

Sự lạc quan về tương lai cao nhất là tại Việt nam khi có đến 94% người ta cho rằng đời con họ tốt đẹp hơn, trong khi tỉ lệ lạc quan 85% tại Trung Quốc. Trong khi đó, chỉ có 30% người ở Hoa Kỳ, 23% người Anh Quốc, 15% người ở nước Ý, 14% người Nhật, và 13% người Pháp tiên đoán tương lai sẽ tốt đẹp hơn cho đám trẻ con của họ hiện giờ.

Trên toàn thế giới, đến 60% người được phỏng vấn nói rằng khoảng cách giữa giàu và nghèo là “vấn đề rất lớn” ở nước của họ. Thiếu công ăn việc làm được coi là vấn đề nghiêm trọng hơn. Nói chung, có đến 66% người trên thế giới cho là người ta sẽ khá hơn dưới chế độ tư sản cho dù có khoảng cách giữa giàu và nghèo với một số người.

“Người ta sẵn sàng chấp nhận một mức độ bất cân bằng nào đó để có thị trường tự do”. Bà Katie Simmons, một chuyên viên nghiên cứu cấp cao của tổ chức Pew phát biểu.

Quan ngại về sự bất cân bằng (khoảng cách giàu nghèo) lên cao nhất ở Hi Lạp và Lebanon. Đến 84% người được phỏng vấn ở hai nước này coi đó là vấn đề lớn trong khi tại Nhật Bản chỉ có 28%.

Dù xếp hạng sau Việt Nam và Trung Quốc về ưa chuộng thị trường tự do, người Mỹ vẫn tin tưởng vững chắc rằng mọi cá nhân chịu trách nhiệm cho chính số phận của mình. Tại Hoa Kỳ, 57% người ta (chỉ đứng sau Venezuela với 62%) từ chối ý tưởng cho là “sự thành công trong đời sống được quyết định bởi các lực lượng bên ngoài sự kiểm soát của chúng ta”.

Người Mỹ cũng nhiều phần (73%) tin tưởng hơn các người ở những quốc gia khác nói rằng nỗ lực làm việc rất quan trọng để khá hơn trong đời sống.

Được biết, Pew phỏng vấn khảo sát với 48,643 người lớn tại 44 nước trên thế giới bằng cả hai phương pháp là qua điện thoại và phỏng vấn trực tiếp từ Tháng Ba đến Tháng Sáu.(TN)

Bàn Thờ Cho Người Nô Lệ

Bàn Thờ Cho Người Nô Lệ

Du khách đến viếng thăm nước Tanzania bên Phi-Châu không thể không dừng chân trước Nhà Thờ chính tòa Anh-Giáo tại Zanzibar.

Bước vào nhà thờ, người ta có thể đọc ngay lời chào đón được viết trên tường như sau: “Bạn đang ở trong nhà thờ chính tòa của Ðức Kitô.  Nơi đây đã từng là chợ buôn người nô lệ”.

Ngôi thánh đường này đã được xây ngay trên chính khu đất mà ngày xưa người da trắng đã tập trung không biết bao nhiêu người Phi-Châu để buôn bán đổi chác như những con thú.

Ðặc biệt nhất là bàn thờ của ngôi thánh đường:  đây là nơi mà trước khi được bán, người nô lệ phải chịu đánh đòn.  Sở dĩ người ta phải dùng roi để quất vào người nô lệ là để xem người ấy còn khỏe mạnh không.

Cột trụ ở ngay lối vào nhà thờ là một cây thánh giá gỗ có mang tên của nhà giải phóng Livingstone, một nhà thám hiểm người Anh, đã hô hào chống lại cuộc buôn bán vô nhân đạo này.  Cây thánh giá mang tên ông đã được chạm trổ từ gốc cây nơi ông thường đứng để hô hào cuộc chiến bãi bỏ việc buôn bán người nô lệ.

Mãi đến ngày 06 tháng 6 năm 1873, việc buôn bán người nô lệ mới chính thức bị cấm chỉ bằng một đạo luật.  Kể từ đó, phẩm giá đích thực của người da đen mới được nhìn nhận.

Cũng như một Đan-viện dòng kín đã được dựng lên ngay bên cạnh trại tập trung Auschwitz bên Ba Lan để âm thầm nhắc nhở về những độc ác dã man mà con người đã có thể làm cho người khác, thì nhà thờ chính tòa Anh-Giáo tại Zanzibar cũng là một nhắc nhở về một quá khứ vô cùng đau thương và đen tối của cả nhân loại, khi con người chỉ xem những giống người khác như thú vật để đổi chác.

Nhưng một tưởng niệm không chỉ dừng lại ở khía cạnh kết án, nó còn là một mời gọi để cam kết sống đích thực hơn.

Ðối lại với chà đạp dã man phải là sự tôn trọng yêu thương mà con người phải có đối với tha nhân.

Cuộc sống của người Kitô chúng ta được xây dựng trên một tưởng niệm vô cùng cao cả: đó là cái chết của Ðức Kitô được thực hiện trong Thánh Lễ.

Thánh lễ vừa là một nhắc nhở về cái chết vô cùng dã man mà Ðức Kitô đã trải qua, vừa là một tưởng niệm về Tình Yêu vô bờ của Thiên Chúa đối với con người, vừa là một mời gọi sống yêu thương, yêu thương đến nỗi có thể chết thay cho người khác…

Chúng ta không thể tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu mà vẫn tiếp tục cưu mang hận thù, mà vẫn nuôi dưỡng sự khinh rẻ đối với tha nhân.

Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Lá thư quá hay !!!

Lá thư quá hay !!!

Bạn thân mến,
Lâu lắm rồi giới trẻ chúng tôi mới nhận được một bài viết nói lên sự thật ở đất nước tôi, dù sự thật ấy làm chúng tôi hết sức đau buồn.
Xin cám ơn bạn. Ở đất nước tôi có câu
“sự thật mất lòng” nhưng cũng có câu “thương cho roi cho vọt”, “thuốc đắng dả tật”.
Bức thư của bạn đã làm thức dậy trong tôi niềm tự ái dân tộc lâu nay được ru ngủ bởi những bài học giáo điều từ nhà trường như “Chúng ta tự hào là một nước nhỏ đã đánh thắng hai cường quốc Pháp và Mỹ”.

Bạn đã nói đúng: “Tôi đang nhìn thấy một thế hệ, họ không còn biết phải tin vào điều gì, thậm chí còn không dám tin vào chính mình. Là một người Việt, khó lắm. Thật vậy sao?”
Bạn biết đặt câu hỏi như thế là bạn đã có câu trả lời rồi. Những gì tôi viết sau đây chỉ là những lời tâm tình của một người trẻ thiếu niềm tin, với một người bạn đến từ một đất nước vững tin vào dân tộc mình, vào chính bản thân mình.
Bạn nói đúng. So với nước Nhật, nước Việt chúng tôi đẹp lắm. Đối với tôi không có tấm bản đồ của nước nào đẹp như tấm bản đồ của nước tôi. Tấm bản đồ ấy thon thả đánh một đường cong tuyệt đẹp bên bờ Thái Bình Dương ấm áp. Trên đất nước tôi không thiếu một thứ gì cho sự trù phú của một dân tộc. Nhưng chúng tôi thiếu một thứ. Đó là Tự Do, Dân Chủ.

Lịch sử của chúng tôi là lịch sử của một dân tộc buồn.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Người đã từng nhận được đỉa vàng tại đất nước Nhật của các bạn năm 1970 (bán được trên 2 triệu bản) với bài hát “Ngủ Đi Con” đã từng khóc cho đất nước mình như sau:

“Một ngàn năm nô lệ giạc Tàu
Một trăm năm nô lệ giạc Tây
Hai mươi Năm nội chiến từng gày
Gia tài của mẹ để lại cho con
Gia tài của mẹ là nước Việt buồn”.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong “hai mươi Năm nội chiến từng ngày” ông sống tại miền nam Việt Nam nên nỗi đau của ông còn nh hơn nỗi đau của người miền Bắc chúng tôi. Ông còn có hạnh phúc được tự do sáng tác, tự do gào khóc cho một đất nước bị chiến tranh xâu xé, được “đi trên đồi hoang hát trên những xác người” được mô tả người mẹ điên vì đứa con “chết hai lần thịt xương nát tan”.
Nếu ông sống ở miền Bắc ông đã bị cấm sáng tác những bài hát như thế hoặc nếu âm thầm sáng tác ông sẽ viết như sau:

“Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm nô lệ giặc Tây
Bảy mươi năm Cộng Sản đọa đày
Gia tài của mẹ, để lại cho con
Gia tài của mẹ là nước Việt Buồn”

Bị đô hộ bởi một nước Tàu tự coi mình là bá chủ ở phương Bắc, bị một trăm năm Pháp thuộc. Một ít thời gian không bị ngoại bang đô hộ chúng tôi không có minh quân như Minh Trị Thiên Hoàng ở nước bạn. Huống gì thay vào đó chúng tôi bị cái xui là một trong những nước hiếm họi bị thống trị bởi một chế độ bị coi là quái vật của thế kỷ.

Tại sao người Việt tham vặt.

Vì họ đã từng đói kinh khủng.Trong cuộc chiến tranh gọi là chống Mỹ chống Pháp người dân miền Bắc chúng tôi đã đói đến độ mất cả tình ngườiVì một ký đường, một cái lốp xe đạp, vài lạng thịt người ta tố cáo nhau, chơi xấu nhau dù trước đó họ là người trí thức. Cho nên ăn cắp là chuyện bình thường.
Tôi cũng xin nhắc cho bạn, năm 1945 hàng triệu người Việt miền Bắc đã chết đói vì một lý do có liên quan đến người Nhật các bạn đấy. Xin bạn tìm hiểu phần này trong lịch sử quân Phiệt Nhật ở Việt Nam.

Tất nhiên người Việt vẫn nhớ câu “nghèo cho sạch, rách cho thơm” nhưng “thượng bất chính , hạ tắc loạn”.
Khi chấm dứt chiến tranh. Người Việt biết họ phải tự cứu đói mình chứ không ai khác. Kẻ có quyền hành tranh dành nhau rừng vàng biển bac, kẻ nghèo xúm lại hôi của những xe chở hàng bị lật nhào .

Thật là nhục nhã, thật là đau lòng.

Bạn bảo rằng ở nước bạn người dân giữ gìn vệ sinh công cộng rất tốt. Còn ở Việt Nam cái gì dơ bẩn đem đổ ra đường.
Đúng vậy. Nhưng Tự Do, Dân Chủ đã ăn vào máu của các bạn để các bạn ý thức rõ đây là đất nước của mình.

Còn chúng tôi? Chúng tôi chưa thấy nước Việt thực sự là của mình.
Ngày trước Nước Việt là của Vua, Có khi nước Việt thuộc Tàu, rồi nước Việt thuộc Pháp, rồi nước Việt là của Đảng Cộng Sản.

Rung của cha ông để li đã từng trở thành của của hợp tác xã, rồi ruộng là của nhà nước chỉ cho dân mượn trong một thời gian nhất định. Đất là của nhà nước nếu bị quy hoạch người dân phải lìa bỏ ngôi nhà bao năm yêu dấu của mình để ra đi.

Cái gì không phải là của mình thì người dân không cảm thấy cần phải gìn giử.
Nhưng sự mất mát đau lòng nhất trên đất nước chúng tôi là mất văn hóa và không còn nhuệ khí. Biết làm sao được khi chúng tôi
được dạy để trở thành công cụ chứ không được dạy để làm người.

Tiếc thay bản chất thông minh còn sót lại đã cho chúng tôi nhận ra chúng tôi đang bị dối gạt. Nhất là trong những giờ học về lịch sử, văn chương.
Lớp trẻ chúng tôi đã mất niềm tin và tìm vui trong những trò rẻ tiền trên TV trên đường phố.
Nhớ năm nào nước của bạn cất công đem hoa anh đào qua Hà Nội cho người Hà Nội chúng tôi thưởng ngoạn. Và thanh niên Hà Nội đã nhào vô chụp giựt, bẻ nát cả hoa lẩn cành, chà đạp lên chính một nơi gọi là “ngàn năm Thăng Long văn hiến”.
Nhục thật bạn ạ. Nhưng lớp trẻ chúng tôi
hầu như đang lạc lốithiếu người dẫn đường thật sự chân thành thương yêu chúng tôi, thương yêu đất nước ngàn năm tang thương, đau khổ.
Thật buồn khi hàng ngày đọc trên báo bạn thấy giới trẻ nước tôi hầu như chỉ biết chạy theo một tương lai hạnh phúc dựa trên sắc đẹp và hàng hiệu. Họ không biết rằng nước Hàn có những hot girls, hot boys mà họ say mê còn là một quốc gia cực kỳ kỷ luật trong học hành, lao động.
Bạn nói đúng. Ngay cả bố mẹ chúng tôi thay vì nói với chúng tôi “con hãy chọn nghề nào làm cuộc sống con hạnh phúc nhất” thì họ chỉ muốn chúng tôi làm những công việc, ngồi vào những cái ghế có thể thu lợi tối đa dù là bất chính.
Chính cha mẹ đã chi tiền để con mình được làm tiếp viên hàng không, nhân viên hải quan, công an giao thông… với hy vọng tiền thu được dù bất minh sẽ nhiều hơn bội phần.
Một số người trẻ đã quên rằng bên cạnh các ca sĩ cập với đại gia có nhà trăm tỉ, đi xe mười tỉ còn có bà mẹ cột hai con cùng nhảy sông tự tử vì nghèo đói. Mới đây mẹ 44 tuổi và con 24 tuổi cùng nhảy cầu tự tử vì không có tiền đóng viện phí cho con. Và ngày càng có nhiều bà mê tự sát vì cùng quẩn sau khi đất nước thái bình gần 40 năm.
Bạn ơi.
Một ngày nào chúng tôi thực sự có tự do, dân chủ chúng ta sẽ sòng phẳng nói chuyện cùng nhau. Còn bây giờ thì :

“Trải qua một cuộc bể dâu
Những đều trông thấy mà đau đớn lòng”.

Dù sao cũng biết ơn bạn đã dám nói ra những sự thật dù có mất lòng.
Và chính bạn đã giúp tôi mạnh dạn nói ra những sự thật mà lâu nay tôi không biết tỏ cùng ai.

Thân ái.
Tiểu My

Chống tham nhũng có giới hạn thì có chống được không?

Chống tham nhũng có giới hạn thì có chống được không?

Anh Vũ, thông tín viên RFA
2014-10-08

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng chống tham nhũng thì phải như đánh chuột đừng để vỡ bình

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng chống tham nhũng thì phải như đánh chuột nhưng đừng để vỡ bình

nguyenphutrong.net

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa qua  khi tiếp xúc cử tri Hà Nội lại có phát biểu về công tác chống tham nhũng tại Việt Nam. Ý kiến mới đưa ra đó tiếp tục gây nhiều phản ứng trong dân chúng về vấn nạn bị cho là ‘chưa có thuốc chữa’ này.

Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế công bố năm 2013, thì Việt Nam xếp hạng 116/177 quốc gia và bị coi là quốc gia có tình trạng tham nhũng cao.

“Chữa ung thư bằng thuốc nhức đầu”

Đánh giá về thực trạng tham nhũng ở VN,  TS. Đinh Văn Minh Phó Viện trưởng Viện Khoa học Thanh tra – Thanh tra Chính phủ thấy rằng ở VN tham nhũng là tình trạng phổ biến ở mọi ngành, mọi cấp, mọi lĩnh vực. Tuy vậy theo ông Đảng và nhà nước VN đã hết sức coi trọng và có nhiều biện pháp cụ thể để xử lý vấn nạn này.

Từ Hà nội, TS. Đinh Văn Minh nói:

“Ở VN tham nhũng có rất nhiều, đã gây ra sự bức xúc cho người dân, bởi vì tham nhũng nhỏ đa số ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người dân trong việc liên hệ với các cơ quan công quyền. Cái đó làm cho hình ảnh cơ quan hành chính công bị méo mó và người dân thiếu sự tin tưởng, thậm chí là họ rất khó chịu. Nguyên nhân không phải do nhà nước không quan tâm đến cái đó đâu, mà vấn đề là thiếu giải pháp đồng bộ”  TS. Nguyễn Quang A .

” Ông TBT có nhầm một chút khi coi đó là cái bình quý, nhưng tôi và người dân nghĩ đấy là cái bình vôi. Mà trong cái bình vôi ấy đầy rẫy lũ ma quỷ và chính cái lũ ma quỷ do cái bình vôi ấy sinh ra nó đã hoành hành, không chỉ tham nhũng mà chúng nó còn làm đủ các điều tác oai tác quái khác

TS. Nguyễn Quang A”

Nói về những hạn chế của công tác phòng chống tham nhũng, ngày 6.10.2014, khi tiếp xúc với cử tri Hà Nội TBT Nguyễn Phú Trọng nói rằng: “Chống tham nhũng đòi hỏi khôn ngoan, cần có con mắt chiến lược. Bác Hồ dạy rồi, cha ông ta dạy rồi, đánh con chuột đừng để vỡ bình, làm sao diệt được chuột mà bảo vệ được bình hoa. Không phải xới tung lên tất cả, gây mất niềm tin, nghi kỵ lẫn nhau, rối loạn sẽ rất nguy hiểm.”

Đánh giá về phát biểu của TBT Nguyễn Phú Trọng, TS. Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện phản biện IDS thấy rằng đây là việc đáng mừng, theo ông đó là việc thú nhận sự thất bại hoàn toàn của việc chống tham nhũng từ người đứng đầu Đảng CSVN.

Từ Hà nội, TS. Nguyễn Quang A nói:

“Ở đây ông TBT có nhầm một chút khi coi đó là cái bình quý, nhưng tôi và người dân nghĩ đấy là cái bình vôi. Mà trong cái bình vôi ấy đầy rẫy lũ ma quỷ và chính cái lũ ma quỷ do cái bình vôi ấy sinh ra nó đã hoành hành , không chỉ tham nhũng mà chúng nó còn làm đủ các điều tác oai tác quái khác. Cho nên theo tôi nên tìm cách vứt cái bình vôi đó đi là cách hay nhất. Rất đáng tiếc là ông TBT tuy đã chân thành thừa nhận sự thất bại của cuộc đấu tranh chống tham nhũng, nhưng ông ấy vẫn cố bám vào cái bình vôi ấy thì vô phương cứu chữa”.

Khi được hỏi về những nguyên nhân khiến cho việc chống tham nhũng ở VN không có hiệu quả, tình trạng tham nhũng ngày càng tăng, không có dấu hiệu suy giảm.

” Có vị đại biểu tâm sự mỗi lần ra họp Quốc hội là lãnh đạo địa phương căn dặn rất kỹ: phát biểu gì cũng được, trừ tham nhũng, vì nếu còn cơ chế xin cho thì mình xin ai cho. Càng không nên phát biểu tham nhũng ở địa phương vì dại gì vạch áo cho người xem lưng

ông Lê Như Tiến”

TS. Đinh Văn Minh thấy rằng đây là vấn đề nhạy cảm vì có liên quan đến tiền bạc và quyền lực. Theo ông người tham nhũng hầu hết là người có chức vụ, có quyền lực và cả một hệ thống nên không dễ có thể làm được. Song theo ông quan trọng là nhà nước chưa có các biện pháp xử lý thích đáng.

TS. Đinh Văn Minh nói:

“Chúng tôi dưới góc độ nghiên cứu trong quá trình cải cách thể chế và tình hình thực tế diễn ra thì có một nhận xét là hiện nay chúng ta chống tham nhũng nhưng tham nhũng “chay”nhiều quá. Tham nhũng thực chất là hành vi hướng tới chiếm đoạt tiền và tài sản, cho nên chống tham nhũng là chúng ta phải hướng tới việc đòi lại hay giành lại những cái tài sản mà những kẻ tham nhũng lấy lại của nhầ nước và nhân dân. Mục đích của nó phải là như vậy và điều đó phải được nhấn mạnh, nhưng tiếc rằng do các thiết chế từ trước tới nay của chúng ta chưa được quan tâm đến một cách đúng mức và thỏa đáng cho nên kết quả hết sức hạn chế.”

Không thể chống tham nhũng trong chế độ độc đảng

Theo báo Tuổi trẻ, ông Lê Như Tiến, Phó Chủ nhiệm UB Văn hóa , giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng cho biết: “Có vị đại biểu tâm sự mỗi lần ra họp Quốc hội là lãnh đạo địa phương căn dặn rất kỹ: phát biểu gì cũng được, trừ tham nhũng, vì nếu còn cơ chế xin cho thì mình xin ai cho. Càng không nên phát biểu tham nhũng ở địa phương vì dại gì vạch áo cho người xem lưng. Vậy là cuộc chiến chống tham nhũng có nguy cơ triệt tiêu trên diễn đàn Quốc hội”.

” Muốn chống tham nhũng thì phải có tự do ngôn luận, phải có sự kiềm chế quyền lực từ bên ngoài hoặc là giữa các bên ở bên trong, như các bên trong nội bộ của Đảng. Nhưng kiềm chế thì phải cương quyết, chứ không phải là sợ vỡ cái bình vôi. Và những người ấy phải được lựa chọn theo tài năng và đức độ

TS. Nguyễn Quang A”

TS. Nguyễn Quang A cho rằng trong chế độ độc đảng cai trị như ở VN, thì một khi bản thân thể chế chính trị đã tạo điều kiện sinh ra và khuyến khích tham nhũng thì không bao giờ có thể chống tham nhũng được.

TS. Nguyễn Quang A nhận định:

“Muốn chống tham nhũng thì phải có tự do ngôn luận, phải có sự kiềm chế quyền lực từ bên ngoài hoặc là giữa các bên ở bên trong, như các bên trong nội bộ của Đảng. Nhưng kiềm chế thì phải cương quyết, chứ không phải là sợ vỡ cái bình vôi. Và những người ấy phải được lựa chọn theo tài năng và đức độ chứ không phải theo tiêu chuẩn vừa Hồng vừa Chuyên. Các điều kiện như thế đã không có ở chính quyền hiện nay ở VN thì làm sao mà chống tham nhũng được? Do vậy những hô hào chống tham nhũng từ trước đến nay chỉ là mị dân mà thôi.”

Nói về giải pháp nhằm diệt trừ vấn nạn tham nhũng ở VN, TS. Nguyễn Quang A thấy rằng, ở một thể chế chính trị tương đối độc đoán như Singapore ngay từ đầu họ đã đào tạo và lựa chọn một đội ngũ quan chức có trình độ, tài năng, có trách nhiệm, liêm khiết và coi việc được phục vụ nhân dân là một vinh dự. Còn ở VN với thể chế như hiện nay thì vô phương.

TS. Nguyễn Quang A nói:

“60 năm vừa qua Đảng CSVN không có một sự lựa chọn con người như thế, những kẻ leo lên đỉnh chót của quyền lực không phải là người tinh hoa thì làm sao có thể. Trừ khi có một người thực sự có tài năng và uy quyền, nhưng khả năng ấy chỉ có thể khi người ta bắt đầu xây dựng một chính quyền. Chứ còn ở một chính quyền đã tồn tại 60 năm nay và ngày càng thối nát ra thì tôi nghĩ là vô phương cứu chữa. Chính vì vậy tôi nói Đảng CSVN không còn tương lai ở đất nước này nữa ”.

Ở VN hiện nay, Đảng CSVN cho rằng tham nhũng là một nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ. Tuy vậy, điều đó chỉ là sự biện hộ cho sự không trong sáng của chính quyền hiện tại trong thể chế chính trị độc đoán và độc đảng lãnh đao. Không thể chống tham nhũng nếu không có các thiết chế cần thiết để tăng cường sự kiểm soát sự công khai và minh bạch của một nhà nước pháp quyền.

‘Bộ não’ điều khiển biểu tình ở Hồng Kông, qua lời người trong cuộc

‘Bộ não’ điều khiển biểu tình ở Hồng Kông, qua lời người trong cuộc
October 07,  2014

Nguoiviet.com

Hà Giang/Người Việt

WESTMINSTER, Calif (NV) – Cho đến giờ, chưa ai biết kết quả cuộc biểu tình đòi phổ thông đầu phiếu cho người dân Hồng Kông vào năm 2017 tới đây có đưa đến kết quả mong muốn không, nhưng cách hành xử của các sinh viên biểu tình trong vòng mười ngày qua đã để lại trong lòng mọi người những ấn tượng rất đẹp.

Nhiều hình ảnh tiêu biểu cho cuộc biểu tình được cho là “tuyệt vời” của các em, được giới truyền thông cả chuyên nghiệp lẫn tự do đưa lên làm tràn ngập các trang mạng xã hội, gồm: cảnh các sinh viên học sinh ngồi ở ngoài đường giúp nhau làm bài tập, dùng bình điện dự trữ charge phones và tablets cho người tham dự, làm thông dịch cho giới truyền thông, phát thức ăn nước uống cho nhau, và thức đến khuya để đi nhặt từng cọng rác nơi giới biểu tình  “chiếm đóng.” Thậm chí trong lúc trời đổ mưa tầm tã, sinh viên biểu tình còn cầm dù che cho người cảnh sát đứng đối diện, qua hàng rào cản.

Một sinh viên biểu tình cố thủ tại khu vực Mong Kok, đợi chờ kết quả cuộc thảo luận giữa sinh viên và chính phủ vào ngày thứ Sáu, 10 tháng Mười, 2014. (Hình: XauMe Olleros/Getty Images)

Nhưng chen lẫn giữa những lời khen, những cái lắc đầu khâm phục, là câu hỏi ai cũng phải đặt ra là làm sao sinh viên Hồng Kông lại nhất loạt có cách cư xử lịch sự, đầy tình người như vậy, và làm thế nào mà những nhà lãnh đạo trẻ như Joshua Wong, 17 tuổi, và Alex Chao, 24 tuổi, có thể nhịp nhàng điều động đoàn biểu tình, có lúc lên đến hàng trăm ngàn người như thế, mà không để cho sự đáng tiếc nào xẩy ra?

* Bất Tuân Dân Sự, qua lời người trong cuộc

Phần nào giải đáp thắc mắc này, một số báo chí, như tờ South China Morning Post, trang báo mạng Asia News, đề cập đến một tài liệu có tên “Cẩm Nang Bất Tuân Dân Sự” (Manual of Disobedience) được viết bằng hai thứ tiếng Anh và Trung Hoa, do tổ chức Occupy Central soạn, và phân phối vài ngày trước khi chiến dịch biểu tình được phát động.

Cẩm Nang Bất Tuân Dân Sự dài 8 trang, là một tài liệu hướng dẫn người tham dự từng bước phải làm gì trước và trong khi biểu tình, phải làm gì khi đối diện với cảnh sát và khi bị bắt, nhưng quan trọng hơn, là để họ thấu hiểu triết lý và chiến lược chính yếu của cuộc đấu tranh bất bạo động, mà họ tự nguyện tham dự.

“Cẩm Nang Bất Tuân Dân Sự” (Manual of Disobedience) do tổ chức Occupy Central soạn, và phân phối vài ngày trước khi chiến dịch biểu tình được phát động. (Hình: Người Việt)

Tình cờ, qua một trang mạng xã hội, phóng viên nhật báo Người Việt liên lạc được với cô Hellen Phạm, một thành viên của Occupy Central, và được cô kể lại những yếu tố đã giúp cho sinh viên Hồng Kông thực hiện được cuộc biểu tình quy mô mà hết sức ôn hòa, trật tự và ngăn nắp vừa qua.

Hellen Phạm (tên đã được đổi theo yêu cầu), năm nay 22 tuổi, cho biết cô sinh ra và lớn lên ở Hồng Kông, có cha mẹ từ Việt Nam đến đây tị nạn vào giữa thập niên 1980s, cho biết bạn trai của cô là một thành viên của tổ chức Occupy Central with Love and Peace.

“Em muốn đi theo anh ấy (bạn trai) tham dự biểu tình, phần vì ủng hộ dân chủ, phần cũng vì tò mò muốn coi họ làm việc ra sao, sau khi thấy họ có cuộc biểu tình vĩ đại với hơn 500,000 người tham dự vào ngày 1 tháng Bảy vừa qua.” Hellen tâm sự.

Hellen cho biết những điều thấy được khiến cô vỡ lẽ ra bạn trai mình và bạn bè của anh không chỉ là những người trẻ có lý tưởng, mà “là những người hiểu rất rõ bí quyết của đấu tranh bất bạo động.”

Nói về vai trò quan trọng của “Cẩm Nang Bất Tuân Dân Sự,” Hellen kể: “Khi em nói với bạn là muốn tham gia phòng trào, anh ấy đưa cho em tập cẩm nang, bảo về đọc kỹ đi trước khi quyết định dấn thân, vì phải hiểu là khi chấp nhận dấn thân thì có thể bị nguy hiểm đến bản thân, và bị dính dáng tới pháp luật.”

“Càng đọc em càng thấy mê Occupy Central.” Hellen nói.

Có nhiều thứ để mê, Hellen dẫn chứng, chẳng hạn như trong phần triết lý, cẩm nang viết:

“Dùng bạo lực để chống bạo lực không chỉ làm tăng thêm sự sợ hãi, mà cho nhà cầm quyền có lý do để đàn áp, và củng cố địa vị của kẻ độc tài. Bất tuân dân sự là phương pháp dùng thương yêu để thắng hận thù. Người tham gia sẽ phải đối mặt với đau khổ bằng một thái độ cao quý, để thu phục lương tâm của kẻ đàn áp, và giảm thiểu sự thù hận do hành vi tàn bạo gây ra. Quan trọng hơn cả, bất bạo động sẽ thu hút được sự cảm thương của những người bàng quan (công luận), và làm nổi bật sự thiếu chính nghĩa của việc đàn áp có hệ thống của người (chính quyền) sử dụng bạo lực. Sự hy sinh của người đấu tranh là cách hay nhất để làm công chúng thức tỉnh.”

Và: “Chúng ta đấu tranh để chống lại một hệ thống bất công, chứ không chống lại cá nhân. Chúng ta không tiêu diệt hay làm bẽ mặt các nhân viên công lực, thay vào đó, chúng ta phải chiếm được lòng tôn trọng và sự cảm thông của họ. Chúng ta không chỉ cần phải tránh dùng bạo lực để đối đầu, mà còn cần phải tránh để cho lòng thù hận có thể nẩy mầm trong trái tim.”

Hellen cho biết là một sinh viên luật, cô không chỉ “mê” triết lý của phong trào, mà còn  để ý đến cách tổ chức Occupy Central.

Cô kể tiếp: ‘Khi em nói là đã hiểu và chấp nhận sự nguy hiểm thì anh ấy bảo em lên trang mạng của Occupy Central để download một đơn có tên là “Letter of Intent” để điền vào.”

‘Letter of Intent’ là một đơn rất ngắn, đòi hỏi người muốn tham gia phải cam kết ba điều: a) đồng ý rằng việc phổ thông đầu phiếu là có lợi cho Hồng Kông, b) thủ tục phổ thông đầu phiếu bầu cử phải được đa số người dân Hồng Kông có ý kiến và đồng ý, và c) hoàn toàn tuân theo quy tắc đấu tranh bất bạo động mà phong trào đề ra.

Cũng qua Letter of Intent, người làm đơn có thể chọn một trong ba cách tham gia:

1. Hỗ trợ vòng ngoài cho những người đi biểu tình, như phân phối thức ăn, làm những việc hậu cần, nhưng không biểu tình, hoặc
2. Tham dự biểu tình, nhưng không tự nguyện bị bắt, và không khức từ quyền có luật sư bào chữa nếu bị bắt, hoặc
3. Tham dự biểu tình, và tự nguyện bị bắt, và khước từ quyền có luật sư bào chữa.

Thật ra thì Occupy Central không phải là phong trào duy nhất có cuốn cẩm nang bất tuân dân sự. Cái hay của phong trào, theo Hellen, nằm ở chỗ ban lãnh đạo rất biết cách “dưỡng quân” và “điều quân.”

Cả đối với những đơn mà người tham dự chọn đi biểu tình, ban tổ chức cũng xét kỹ xem họ có từng bị bắt vì một trong bốn tội như làm tắc nghẽn nơi công cộng, tụ họp không có giấy phép, tụ họp bất hợp pháp, hay gây rối nơi công cộng chưa, vì thường thì vi phạm những tội này lần đầu chỉ bị nộp phạt rồi được thả về, chứ không bị đi vào hồ sơ. Nhưng nếu tái phạm thì có thể sẽ bị tù, vì thế những ai đã từng bị cảnh cáo (vì những tội này) thường được giao trách nhiệm “tình nguyện viên” chuyên lo thực phẩm, dán bích chương, hay làm vệ sinh, v.v… thay vì biểu tình.

“Làm như thế để giảm thiểu tối đa sự nguy hại cho thành viên!” Hellen giải thích.

Hay hơn thế nữa, vẫn theo lời Hellen, người tham gia được khuyến khích sinh hoạt trong những nhóm nhỏ, và rủ thêm từ một đến hai người bạn khác vào phong trào, rồi khi cần biểu tình thì không rủ nhau đi hết, mà cần phải thay phiên nhau biểu tình để phong trào có thể kéo dài.

Trả lời câu hỏi làm sao phong trào có thể điều động được những người bất chợt đến tham gia biểu tình, Hellen nói “thường thì ở mỗi địa điểm, nhờ sinh hoạt với nhau trong nhóm nhỏ, đều có người nhận diện người mới và phát cẩm nang tại chỗ.”

Một đoạn trong cẩm nang đưa ra những lời khuyên chi tiết như trước khi tham dự biểu tình thì viết sẵn một text message trong phôn, ghi rõ tên tuổi địa chỉ, và khi bị bắt thì gửi ngay cho Occupy Central để họ cử luật sư giúp đỡ. Hay khi sắp bị cảnh sát giải tán thì nắm tay nhau nằm hàng loạt xuống đường để bày tỏ sự phản đối, và làm cho việc bắt bớ khó hơn, nhưng nếu có bị còng tay thì “nhũn người ra” để làm giảm thiểu sự đau đớn.

Một đoạn viết: “Trước khi bắt, cảnh sát đầu tiên sẽ hỏi người đó có tự nguyện lên xe cảnh sát không. Nếu người biểu tình tự nguyện, cảnh sát sẽ không dùng vũ lực; nếu người biểu tình không tự nguyện lên xe, cảnh sát sẽ bắt bằng một nhóm bốn người nắm lấy 2 chân và 2 tay người biểu tình bỏ lên xe.”

Đoạn khác giải thích về luật tạm giam, cho biết trước những gì sẽ xẩy ra khi bị đưa về bót, và dặn dò người tham dự nên nói gì và không nên nói gì khi bị đưa về bót cảnh sát.

Ngoài cuốn Cẩm Nang Bất Tuân Dân Sự, cuộc biểu tình của sinh viên Hồng Kông vừa qua xem ra còn được sự hỗ trợ tối đa của những người lớn có địa vị trong xã hội.

Chẳng hạn, Hellen cho biết, nhóm lãnh đạo của phong trào được các vị trong giới lập pháp danh cho một số phòng ngay tại tòa nhà của Hội Đồng Lập Pháp (Legislative Council, gọi tắt là Legco), nơi ba nhóm chính của phong trào liên đới với nhau một cách chặt chẽ.

Nhóm Hong Kong Federation of Students, do Alex Chao, 24 tuổi lãnh đạo, chuyên lo việc giao tiếp với chính quyền, và theo tin của tờ South China Morning Post, hiện đang chuẩn bị để hội đàm vào thứ Sáu tuần này.

Nhóm Scholarism, do sinh viên Joshua Wong 17 tuổi lãnh đạo, giữ nhiệm vụ huy động đám đông với một đội ngũ giỏi về các phương tiện truyền thông xã hội, làm việc gần như 24 giờ một ngày. Nhóm Scholarism cũng có trách nhiệm liên lạc và kêu gọi sự hỗ trợ của các nhóm lợi ích khác, như cựu sinh viên, để “củng cố hàng ngũ.”

Trên nguyên tắc, nhóm Occupy Central, mà thành viên đa số là những người lớn, do ông Benny Tai, giáo sư luật tại University of Hong Kong lãnh đạo, tuy là một tổ chức hỗ trợ, và theo lời một phát ngôn viên của tổ chức, thì “phong trào đòi dân chủ khởi đầu từ các sinh viên,” nhưng cuốn Cẩm Nang Bất Bạo Động, và cách làm việc của họ, cho thấy vai trò của Occupy Central không nhỏ.

Liên lạc tác giả: Hagiang@nguoi-viet.com

Trẻ em vào đời và cạm bẫy xã hội

Trẻ em vào đời và cạm bẫy xã hội

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2014-10-07

RFA

tre-em-622.jpg

Hai đứa trẻ đi bán vé số ở khu công nghiệp Sóng Thần II – Bình Dương.

RFA PHOTO

Trẻ em sớm vào đời, học hành dang dở và luôn phải đối mặt với nhiều cạm bẫy xã hội luôn là vấn đề nan giải hiện nay tại Việt Nam. Một phần do nghèo đói, phần khác do cha mẹ không ý thức được trách nhiệm làm cha làm mẹ cũng như không thấy được giá trị của việc học tập bởi bản thân họ cũng chưa bao giờ được học tập cho đàng hoàng. Có hàng trăm nguyên nhân dẫn đến trẻ em sớm bỏ học vào đời. Nhưng có hai nguyên nhân chi phối nhiều nhất, đó là sự nghèo khổ, bất công xã hội cũng như sự tăm tối của một bộ phận dân cư bị đẩy xuống tầng đáy xã hội.

Các thành phần trẻ em vào đời

Một nhà giáo gốc Quảng Nam, tên Trung, hiện đang dạy môn toán ở quận Tân Bình, Sài Gòn, chia sẻ:

” Rõ ràng bỏ học sớm và vào đời sớm là hoàn toàn không tốt rồi. Vấn đề đó mang tính xã hội nhiều, vấn đề học ở trong nhà trường và giáo dục không tạo được cơ hội cho các em học.
-Một nhà giáo”

“Bây giờ, rõ ràng bỏ học sớm và vào đời sớm là hoàn toàn không tốt rồi. Vấn đề đó mang tính xã hội nhiều, vấn đề học ở trong nhà trường và giáo dục không tạo được cơ hội cho các em học. Vì việc đẩy thành tích như hiện nay, như các em học bình thường mà được lên hai lớp, rồi càng lên thì các em càng không thể học, rồi chán học, đâm ra mất hứng thú, bỏ học. Thứ hai là tác động ngoài xã hội, các em chưa đủ khôn ngoan nên dẫn đến ham chơi, bỏ học.”

Theo thầy giáo Trung, nói về vấn đề bỏ học và sớm vào đời của trẻ em, cần phải chia thành hai nhóm, nhóm con nhà giàu, nhà quan chức và nhóm con nhà nghèo. Nếu như nhóm con nhà giàu, nhà quan chức bỏ học để chơi bời lêu lổng ở các quán, các tựu điểm và gây ra nhiều tai ương cho xã hội thì nhóm con nhà nghèo bỏ học sớm sẽ đi làm thuê rày đây mai đó, bữa được bữa mất, đi bán vé số, đi lượm ve chai, thậm chí đi xin.

Giữa hai nhóm bỏ học sớm gồm con nhà nghèo và con nhà giàu có một điểm chung là nguy cơ cướp giật, con đường đồi trụy và tương lai mịt mùng đang chờ đón chúng. Và nếu như nhóm con nhà giàu bỏ học sớm một thời gian quay về phá gia bằng cách trộm cắp tiền của cha mẹ thì nhóm con nhà nghèo sẽ mang tiền về phụ giúp cha mẹ bằng nhiều cách. Nhưng có một điểm chung là cả hai nhóm này có thể kết hợp trở thành nhóm trộm cướp, đầu lĩnh sẽ thuộc về nhóm con nhà giàu và tham mưu cho đầu lĩnh sẽ thuộc về nhóm con nhà nghèo.

tre-em-400.jpg

Trẻ em đi bán vé số ở Lái Thiêu. RFA PHOTO.

Và còn một vấn đề khác là có thể nói rằng tỉ lệ 100% các học sinh, trẻ em bỏ học sớm đều có gia đình không được ổn định, nếu không phải là thiếu ổn định về kinh tế thì tính ổn định về văn hóa của gia đình đó cũng có vấn đề trầm trọng. Ví dụ như con nhà nghèo quá, kinh tế có vấn đề trầm trọng, buộc lòng cha mẹ phải cắn răng cho con nghỉ học để lao động phụ giúp họ. Ngược lại, những gia đình có kinh tế khá giả nhưng bản thân cha mẹ lại có vấn đề,  nếu không có người ngoại tình thì bản thân họ cũng là những hàng cha mẹ vô ý thức, không quan tâm đến tương lai con cái mà định giá cuộc đời này bằng tiền bạc, mãi mê lao đầu kiếm tiền, để con hư hỏng.

Nói đến đây, vị thầy giáo này lắc đầu chua chát, đưa ra kết luận là hầu như Việt Nam thuộc vào diện có trẻ em mù chữ đứng đầu khu vực, và không dừng ở đó, mọi cạm bẫy xã hội luôn nhắm vào trẻ em. Điều này cho thấy tương lai đất nước sẽ rất tăm tối khi mà hàng hàng lớp lớp thanh niên tử tế phải sống bên cạnh hàng hàng lớp lớp thanh niên kém ý thức, vô văn hóa và quen với cuộc sống đầu đường xó chợ, lấy đường phố làm nhà, lấy trộm cắp, cướp bóc và buôn bán ma túy làm kế sinh nhai.

Những cạm bẫy xã hội

Một người mẹ có con bỏ học sớm, lêu lổng và theo băng nhóm, yêu cầu giấu tên, buồn rầu chia sẻ:

“Kinh tế đóng vai trò quyết định, do kinh tế gia đình nên nó không coi trọng việc học, do bản thân nó không thấy hứng khởi khi học, xã hội, bạn bè đưa đẩy, đàn đùm, bản thân nó không quý sự học mà muốn có tiền.”

” Kinh tế đóng vai trò quyết định, do kinh tế gia đình nên nó không coi trọng việc học, do bản thân nó không thấy hứng khởi khi học, xã hội, bạn bè đưa đẩy.
-Một người Mẹ”

Theo người mẹ này, cái sự nghèo đôi khi đưa đẩy con người vào chỗ không lối thoát, như con trai của bà chẳng hạn, từ lớp vỡ lòng cho đến lớp sáu, cháu là một học sinh ngoan, hiền và có thành tích học tập luôn giỏi. Thế nhưng khi bước vào lớp bảy, do yêu cầu phải đi học thêm nhiều môn nhưng gia đình bà không có đủ tiền cho cháu đi học, đến lớp, cháu thường bị gọi lên dò bài đầu tiên và bị hỏi những câu rất lạ, rất khó, kết cục là học kỳ một của lớp bảy, cháu tuột hạng từ học sinh giỏi xuống còn học sinh trung bình khá. Và rồi mọi bất bình, hư hỏng manh nha.

Ban đầu cháu chỉ giấu bà chuyện tranh thủ đi bán vé số, về sau, cháu cúp tiết để đi bán vé số vì nghĩ rằng giờ học chính không quan trọng mà làm thế nào để có tiền học thêm. Khi người mẹ phát hiện con mình đi bán vé số cũng là lúc đã quá muộn màng, gần hai tuần bươn chải với gió sương cuộc đời, tâm tính và nhân cách của đứa bé đã hoàn toàn thay đổi.

Từ một đứa bé ngoan hiền, dễ thương, con của bà trở nên khó tính, hung hăng và cáu gắt. Tìm hiểu ra bà mới biết là trong quá trình đi lang thang bán vé số, đứa bé đã va chạm quá nhiều, hai lần bị du đãng hù dọa lấy mất vé số, một lần đánh nhau với một đứa bán vé số khác. Chính cuộc sống quay cuồng và khốc liệt nơi đầu đường xó chợ trong những ngày cúp học đã đẩy con bà đến chỗ hung hãn và phản kháng.

Khi bà biết chuyện thì mọi việc đã quá muộn màng. Đứa con ngoan và chăm học đã hoàn toàn thay đổi, chẳng còn ham học, không những chán học mà nó luôn coi trọng đồng tiền và nghĩ rằng chỉ có tiền mới giải quyết được mọi thứ trong cuộc sống. Bà rất buồn phiền vì chuyện này nhưng chưa biết tính làm sao với con mình. Chung qui, mọi chuyện cũng do cái nghèo và sự nhạy cảm của con bà mà ra. Chứ nếu con bà kém thông minh một chút, không sớm bị mặc cảm vì nghèo thì câu chuyện đã hoàn toàn khác. Bà buồn bã đưa ra kết luận.

Hiện nay, vấn đề trẻ em sớm bỏ học để bươn chải với cuộc sống và có nguy cơ sa vào những cạm bẫy cuộc sống đang là vấn đề có chiều hướng nảy nở tại Việt Nam, đặc biệt là tại một số khu vực dân nghèo, vùng sâu vùng xa Việt Nam.

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

TÁC HẠI CỦA THIỀN YOGA -phần một

TÁC HẠI CỦA THIỀN YOGA – phần một

Tác giả: Phan sinh Trần

Tuần trước ngày 17 tháng 9 năm 2014,  trong nhóm chia sẻ lởi Chúa, Houston Texas,  Chị Oanh có lên làm chứng và cho biết có một chị quen đến xin cầu nguyện vì khi di tập thiền được vài lần  thì bị một sự lạ, mối khi chị hát kinh Vinh Danh Chúa trong Thánh Lễ Misa  ở nhà thờ thì hai chân bủn rủn và muốn té khụy, không tài nào giữ thăng bằng, tâm hồn bất an và luôn lo âu sợ hãi. Chị  muốn tìm Cha  để được cầu nguyện xin Chúa giải thoát .

Chị Oanh nói , vì chưa có thể gặp Cha ngay nên chị cần hết lòng tuyên danh Chúa và tôn thờ Ngài duy nhất , xin Chúa chữa lành là sẽ được bình an và nếu may mắn thì sẽ có thể hết.

Chị bị ám đã làm như lời Chị Oanh . Cám ơn Chúa, cho đến nay, người bị ám đã lành được hơn 90%.

Cũng may đây là con quỉ xoàng không mạnh mẽ lắm  và Chị này vốn rất sốt sắng đạo đức nên lực lượng tối tăm chưa thể chiếm hữu Chị hoàn toàn.

Thiền Yoga là phương cách làm cho tâm trí trống rỗng và chú tâm vào giây phút mình đang hiện hữu bỏ qua tất cả các ý thức khác (Thiền Minh Sát, Vipassana), bỏ qua mọi hiện hữu chung quanh ta. Trong khi thiền , đọc câu niệm bằng tiếng Phạn hoăc Hindu để tập trung, ý nghĩa của câu niệm có thể là: hư vô, Phật, Thượng Đế, Thần Govinda,Yêu thương,  …

Khi Thiền đã trở thành chủ quan, nghĩa là khi tâm trí của người Thiền mở rộng vô hạn đến nỗi không ý thức cá nhân nào còn tồn tại, đó là lúc đã đạt được Đồng Nhất Vũ Trụ, đồng hoá vào Ý Thức Duy Nhất mênh mang trong vũ trụ …

–  Giáo hội Công Giáo , Thanh Bộ Giáo Lý Đức Tin có giáo huần về thiền tháng 10, năm 1989, ký bỏi Đức Hồng Y Ratzinger , sau này là Đức Thánh Cha Benedict XVI:

Tôi đã tìm thấy rằng  kỹ thuật Yoga không hữu dụng và có tiềm năng làm tổn hại tinh thần lớn lao, đáng kể. Bất kỳ là ai , một khi đã dâng đời mình cho Chúa Giê Su Ki tô và có tương quan gần gũi với Chúa trong Chúa Thánh Thần thì không cần những kỹ thuật có nguồn gốc từ các tôn giáo không phải là Ki tô.

https://forums.catholic.com/attachment.php?attachmentid=15565&d=1354124166

– – Đức Thánh Cha John Paul II trong “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng” năm 1994, khi nhận định về thiền tập  tiếp tục nhấn mạnh vể sự dậy dỗ của Thánh bộ Giáo Lý Đức Tin đã nêu ở trên.

Các lời chứng khác của Ki tô hữu vốn là bệnh nhân Thiền , do Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt sưu tầm được  ở Pháp nơi mà Thiền rất phổ biến từ những năm 1970, đáng kể có lời chứng của Linh mục Robert Thorn :

http://niemhyvong.net/forum/archive/index.php?t-7486.html

– Tôi (Cha Robert Thorn) có một người bạn thân, một người luôn rất điềm đạm và an hoà và tôi hỏi anh làm thế nào mà được như thế. Anh ta đáp: ‘À, tôi tập Siêu Nghiệm Thiền.’ Tôi biết một chút ít nhờ anh chỉ dạy, và quyết định tập thử. Từ khi khởi sự, tôi cảm thấy một sự an bình tràn ngập thân tôi. Tôi thực sự cảm thấy một sự bình an lớn lao lạ thường…

Cuối cùng, tôi trở thành huấn luyện viên môn Siêu Nghiệm Thiền….
… Tôi vẫn còn tập thiền và cảm thấy bị phụ nữ cuốn hút không cưỡng. Lúc đó, tôi vẫn còn đang sống trong tội. Tôi trở lại Mễ du (trên đường đến chỗ hẹn hò với một phụ nữ Thổ Nhĩ Kỳ để làm một cuộc chạy trốn đầy lãng mạn ở Istanbul).
…Vào một tối nọ, tôi được một cảm nghiệm khi tham dự nghi thức chữa lành ở trong nhà thờ ngay sau thánh lễ. Tôi đang quỳ gối, tưởng tượng như Máu Đức Kitô đang đổ tràn trên tôi. Tôi nhắm mắt lại và bất thình lình tôi nhìn thấy một con vật đen thui xấu xí, một thứ gì đó giữa cua càng và ong, đi qua lại trước con mắt tâm trí tôi.
Tôi nói theo bản năng: ‘Đó là một thần khí xấu. Tôi cần thoát khỏi nó’.

… Khi một linh mục nghe tôi xưng tội về chuyện đó, ngài nói: ‘Á à, nghe hấp dẫn chứ nhỉ. Kể tôi nghe anh có ăn chay không?’ Tôi đáp: ‘Dạ, có’ và vị linh mục nói tiếp: ‘Tốt, vì quyền năng của Chúa Thánh Thần sẽ mạnh hơn khi anh có ăn chay.’

Vị linh mục đó trừ  quỷ cho tôi,  qua một đêm dài sốt sắng cầu nguyện, chúng tôi tuyên bố từ bỏ mọi gắn bó với những thần khí xấu ở bên trong tôi nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Tôi cảm thấy đau đớn lạ thường ở trong ruột (chú thích: như trường hợp của anh Chánh học Yoga và thiền theo phái “Con đường chân phúc (Ananda Marga)”. Nó bắt đầu thoát khỏi cổ họng tôi giống như bị ợ chua liên tục, có lúc tôi thực sự nhìn thấy một luồng khí thoát ra ngay khỏi miệng tôi ! Tôi bị lê trên sàn nhà trong khi vị linh mục rảy nước phép trên người tôi, ngài đặt tượng chịu nạn trên bụng tôi và tôi đau đớn kinh khủng…

Lời chứng của chị Sylvie:

…Một buổi tối, người bạn gái hỏi con có muốn dự buổi thực tập ngồi thiền không. Cô bạn giải thích: “Đây là lối suy niệm siêu hình, hay đúng hơn, là kiểu ngồi thiền tìm kiếm hư vô”. Con tự nhủ: “Mình cứ thử xem sao. Biết đâu sẽ gặp được Thiên Chúa, thay vì đi đến nhà thờ!” Nghĩ thế nên con theo bạn dự buổi ngồi thiền. Người hướng dẫn buổi ngồi thiền là một phụ nữ. Bà nói với chúng con: “Suy niệm kiểu này sẽ mang đến cho con người sự điềm-tĩnh, sự tự-chủ, niềm bình-an, trở về với nguồn cội của tư tưởng và đạt được những sức mạnh phi thường, kể cả các bí thuật thần thiêng!” Lời giải thích nghe thật êm tai, đưa hồn giới trẻ chúng con vào cõi mộng .. Nếu chỉ ngồi thiền trong một thời gian không lâu mà đạt được những điều vừa nói, thì quả thật là quá hay và quá dễ! Chúng con phải ngồi thiền mỗi ngày hai lần và mỗi lần 20 phút. Trong vòng 20 phút đồng hồ, con phải ngồi yên và chỉ lập đi lập lại hai tiếng duy nhất là “hư-vô”. Ban đầu, con cảm thấy mình hạnh phúc và hớn hở với ý nghĩ: “Chắc hẳn rồi đây mình sẽ khám phá nhiều điều lạ lùng. Và biết đâu, mình chẳng khám phá được Thiên Chúa?” Nhưng rồi, thời gian qua đi cùng với việc thực hiện phương pháp ngồi thiền, con không hề khám phá ra ánh sáng. Trái lại, con cứ càng ngày càng chìm sâu trong bóng tối đen dày đặc! Thật là hãi hùng kinh khiếp. Cứ mỗi lần con ngồi yên nhắm mắt là đầu óc con quay cuồng giữa hư-vô tư-tưởng, rồi, hư-vô tư-tưởng, rồi, hư-vô tư-tưởng! Sau 20 phút ngồi thiền, thể xác con có phần nghỉ ngơi chút ít, nhưng linh hồn con lại rơi vào lo âu sầu khổ và tràn đầy tuyệt vọng. Tâm trí con cứ bị ám ảnh bởi hai tiếng hư-vô .. hư-vô .. hư-vô! Và vì chỉ lập lại hai tiếng hư-vô nên con không còn cầu nguyện cùng Chúa GIÊSU và Đức Mẹ MARIA nữa. Trong khi đó hai tiếng hư-vô làm con khiếp sợ và chỉ muốn tìm cách trốn thoát.

Trong cơn khốn cùng, Mẹ MARIA đã giơ tay cứu vớt con. Trong phòng con có Bức Tượng Đức Mẹ nhỏ. Con thưa với Đức Mẹ: “Xin Mẹ đến giúp con!” Con chỉ nói với Đức Mẹ có thế thôi…

Rồi con gặp một vị Linh Mục. Ngài giúp con lãnh nhận bí tích Hòa Giải và trao ban ơn tha thứ của Thiên Chúa cho con. Thật là cuộc giải phóng tuyệt diệu! Con được tái sinh trong ơn thánh và tìm được hai vị Chủ Chăn dấu ái của cuộc đời con. Đó là Chúa GIÊSU KITÔ và Đức Mẹ MARIA. Con thay thế hai tiếng hư-vô bằng lời Kinh dấu ái: Kính Mừng MARIA Đầy Ơn Phước. Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ. Và GIÊSU Con lòng Bà gồm phúc lạ. Thánh MARIA Đức Mẹ Chúa Trời. Cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen.

http://www.binhcang.com/yoga.html

Chúng tôi xin phép tường trình và mong được các Anh Chị Em Công Giáo đang tìm kiếm và thực tập thiền định quan tâm đến sự nguy hiểm của Thiền.

Tuy nhiên, thiết nghĩ cũng cần phân biệt giữa Thiển Yoga có hại cho tâm hồn, hại cho tinh thần  vốn khác với  thể dục Yoga vốn là phương pháp tập thở, tập các cử động,  thì không có hại nhưng có lợi cho thân thể.

TÁC HẠI CỦA THIỀN YOGA – phần hai.

TÁC HẠI CỦA THIỀN YOGA – phần hai.

Tác giả: Phan Sinh Trần

“Thiền”vốn là từ gọi chung cho một phương pháp , cách thế trong đó con người định tâm dồn hết tâm trí hướng về một nguồn chân lý nào đó. Cũng giống như thể thao vốn bao gồm rất nhiều bộ môn, thiền cũng vậy, ngày nay ta có thiền của đạo Ấn độ giáo, Phật giáo, Lão giáo, Do Thái giáo, đạo Thời mới, Sikh, rồi đến thiền Yoga, thiền Đại thừa, thiền Nguyên Thủy , thiền Mật tông, …

Theo tự điển Bách Khoa Toàn Thư trên mạng Wikipedia, hầu như các tôn giáo  đều có pháp thiền.

Thiền của Phật Giáo bắt nguồn từ thế kỷ thứ nhất, thực hành tập trung tâm trí vào thời khắc hiện tại của thế giới bên trong (nội tại) từ bỏ hẳn thế giới bên ngoài và liên tiếp lập lại một lời niệm, từ đó làm chuyển đổi hạnh kiểm, thái độ sống của mình .

Thiền của Hồi Giáo, thực hành lần chuỗi và lập lại 99 tên của Chúa,  bắt đầu vào khoảng thế kỷ thứ tám hay thứ chín.

Thiền của Đạo Ba hải bao gồm cầu nguyện và kiểm điểm bản thân qua Lời của Thượng Đế, …

Thiền của Thiên Chúa Giáo, phương tây, tiến triển từ thế kỷ thứ sáu, bằng cách thực hành  Lectio Divina, bao gồm việc đọc và suy niệm Kinh Thánh, bởi các tu sĩ dòng Biển Đức ,

Điều quan trọng là tìm ra sự khác biệt của Thiền Ki tô giáo và các môn Thiền khác.

–          Thiền Ki tô giáo hướng về chủ thể của vũ trụ là Thiên Chúa độc nhất và duy nhất.

–          Thiền Ki tô giáo không bao giờ cho phép linh hồn mình loại bỏ Thiên Chúa và trở nên trống rỗng vì khi không có Chúa ngự trị ở đó thì sẽ có các Tà Thần len lỏi vào. Kinh Thánh nói rất rõ về điều này:

Khi thần ô uế xuất khỏi một con người, thì rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi, mà không ra. Bấy giờ nó nói: “Ta sẽ về lại nhà ta, nơi ta đã bỏ đi”. Ðến nơi, nó thấy nhà đó để trống và đã quét tước, và trang trí hẳn hoi. Bấy giờ nó đi, và đem theo nó bảy thần khác dữ dằn hơn nó; chúng vào mà lập cư ở đó. Và tình cảnh cuối cùng người ấy lại tệ hơn trước. Cũng sẽ xảy ra như vậy cho thế hệ xấu xa này!” ( Mát Thêu 12:43-45)

Ni cô Thích nữ Diệu Tuyết, tu tại Chùa Phổ Hiền, kể rằng, trong một lần đi tụng kinh cho người chết cô đã bị quỉ nhập, tâm thần hoang dại, không còn tỉnh táo, nó làm cô không thiết ăn uống, tắm rửa trong một năm rưỡi trời, rồi cô được Chúa cứu qua sự giới thiệu và cầu nguyện của một Bà Dì theo đạo Chúa đến thăm cô tại nhà. Sau đó, khỏi bênh rồi thì đức tin lung lay, cô lại về Chùa, lại tiếp tục tụng niệm và lần này, tâm hồn trống rỗng cô bị mấy con Quỉ dữ dằn, hung ác hơn rất nhiều nhập vào nhà linh hồn của Cô, chúng miệt thị và nguyền rủa ngày đêm “ Mày chết đi “ làm cô hoàn toàn mất tự chủ và tự tử đến 4 lần trong vòng một tuần lễ. Sau những ngày đó, vào lần cuối cùng, cô mua bốn lưỡi lam, nghiền nhỏ và nuốt vào bụng, Bác sĩ không biết giải phẫu cách nào để cứu vì từ ruột bao tử , ở đâu cũng có mảnh lưỡi lam, chỉ cần cử động hay nuốt nước bọt thì cũng làm cô đau đớn lắm. Lần này thì cô chỉ biết hoàn toàn nhờ cậy duy nhất một mình Chúa Giê su, đấng duy nhất có quyền năng trên Ma Quỉ, đấng duy nhất có thể chữa lành và cô hy vọng Chúa sẽ đến cứu mình. Kết quả là Chúa lại ra tay thêm một lần nữa  làm phép lạ cho cô khỏi cả bịnh thể xác lẫn bệnh tâm linh. Cô bắt đầu một đời sống mới, dâng hiến cho Chúa, cầu nguyện, đọc Kinh Thánh và kết hiệp nên một với Chúa kính yêu của cô và hòa đồng vói các bệnh nhân phong cùi bị người đời từ bỏ. Như vậy, ta có thể thấy rằng, “Cầu nguyện, suy niệm bằng Kinh Thánh”  chính là cách Thiền mới của cô.

–          Thiền Ki tô giáo nhấn mạnh và đòi hỏi sự thực hành Lời Chúa trong cuộc sống để việc Thiền định thực sự mang lại hoa trái tốt lành. Nếu chỉ có thiền mà ta không đi vào trần đời và thực hành Lời Chúa thì không có kết quả nào hết. Cái khác biệt về cơ cấu ở đây, là yếu tố Thiền nhập thế và Thiền hành sự của Ki tô giáo.

–          Tột đỉnh của Thiền Ki tô giáo là sự kết hiệp trở nên một với Chúa. Đó là tình trạng mà “ Linh hồn Con ở trong Chúa và Chúa Ba Ngôi ở trong con”, Đức Chúa Giê Su có lời hứa nguyện sau đây cho những ai hết lòng tìm kiếm và thực hành Lời Ngài:

Phần Con, Con đã ban cho chúng vinh quang Cha đã ban cho Con để chúng nên một như Chúng Ta là một:

Con trong chúng và Cha trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một,…(Gioan 17:22-23)

Xin đơn cử một thí dụ điển hình về Thiền dẫn đến kết hợp với Chúa qua trường hợp của Thánh nữ Faustina, được ghi lại trong nhật ký của Ngài,  bắt đầu bằng giai đoạn thiền ” đi tìm Chúa ” của mình :

–          Sự thinh lặng sâu thẳm bao phủ linh hồn tôi. Không có một áng mây nào che khuất mặt trời khỏi tôi. Tôi tắm mình trong áng sáng mặt trời để tình yêu Thiên Chúa có thể thực hiện việc biến đổi tôi hoàn toàn. Tôi muốn ra khỏi tuần tĩnh tâm này như một vị thánh, bất chấp tất cả; nghĩa là bất chấp tình trạng xấu xa của bản thân, tôi vẫn mong muốn trở thành một vị thánh, và tin vào Lòng Thương Xót Chúa có thể tác thành từ một kẻ khốn cùng như tôi, …

–          Con muốn sống và chết như một linh hồn thánh thiện, với ánh mắt luôn cắm chặt vào Chúa, lạy Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá, mẫu gương các hành động của con. Con thường nhìn quanh để kiếm tìm các tấm gương, nhưng không tìm được gì thỏa đáng, và con nhận ra sự thánh thiện của con dường như chao đảo. Nhưng từ nay về sau, mắt con sẽ cắm chặt vào Chúa, lạy Chúa Kitô, Đấng hướng đạo toàn thiện của con. Con tin tưởng Chúa sẽ chúc lành cho các nỗ lực của con (NK 1333).

Rồi khi đã gặp được Chúa , ta hãy lắng nghe xem Chúa nói gì với Thánh nữ qua thiền chiêm niệm Lòng thương xót Chúa :

Hỡi con nhỏ của Cha, con đừng nản chí. Cha biết niềm tín thác vô hạn con trao đặt nơi cha; Cha biết con ý thức về lòng nhân lành và tình thương xót của Cha. Vậy Cha con mình hãy hàn huyên cho hết những gì đang đè nặng trái tim con.

Linh Hồn: Có đủ thứ đủ chuyện nên con không biết phải nói điều nào và phải trình bày như thế nào.

Chúa Giêsu: Con hãy nói cho thật đơn giản như chỗ bạn bè với nhau. Hỡi con, bây giờ con hãy kể cho Cha biết điều gì cản trở con tiến bước trên đường trọn lành?

Linh Hồn: Sức khỏe yếu nhược đã kiềm hãm con trên đường trọn lành. Con không thể chu toàn các phận sự. Con vô dụng như một bánh xe thừa thãi trên một cỗ xe. Con không ham mình và giữ chay được đến mức các thánh đã làm. Lại nữa, không ai tin là con bệnh tật, thành ra nỗi đau tinh thần làm trầm thống thêm nỗi đau thể xác, và con thường xuyên phải chịu nhục nhã. Lạy Chúa Giêsu, làm sao ai lại có thể nên thánh trong những hoàn cảnh như thế?

Chúa Giêsu: Con nhỏ của Cha ơi, đúng thế, tất cả điều ấy đều là đau khổ. Nhưng đâu còn con đường nào khác dẫn lên trời ngoài con đường thánh giá. Cha là người thứ nhất đã đi con đường ấy. Con phải biết đó là con dường ngắn nhất và bảo đảm nhất…

…Ái nữ của Cha ơi, nếu Cha muốn qua con mà đòi mọi người tôn sùng Lòng Thương Xót của Cha, thì con phải là người trước tiên trổi vượt trong niềm tin tưởng vào lòng thương xót ấy. Cha đòi hỏi con những hành vi nhân ái được thực hiện và yêu mến Cha. Ở mọi nơi trong mọi lúc, con hãy tỏ lòng nhân ái với người lân cận. Con không được thoái thác, kiếm cớ chữa mình hay tự miễn cho mình điều ấy.

Cha ban cho con ba phương thế để sống nhân ái với người chung quanh: thứ nhất – bằng hành vi, thứ hai – bằng ngôn từ, thứ ba – bằng cầu nguyện. trong ba cấp độ này hàm chứa lòng nhân ái sung mãn và bằng chứng không thể nghi ngờ về tình yêu dành cho Cha. Bằng cách này, một linh hồn sẽ tôn vinh và sùng kính Lòng Thương Xot Cha (NK 742).

“Hỡi ái nữ của Cha, con hãy cho cha các linh hồn. Con hãy biết sứ mạng của con là cho Cha các linh hồn bằng lời cầu nguyện và hy sinh. Khuyến giục họ tín thác vào Lòng Thương Xót của Cha (NK 1690).

Chúng ta có một vị thần quyền năng trên hết các Thần, vị Thần đó hoàn toàn có thể thông cảm và có thể gặp gỡ khi ta biết tìm đọc và  suy tư Lời Chúa đến mức Lời trở thành hơi thở của đời sống ta, đến mức Lời trở thành hành động cụ thể ta dâng hiến cho Anh Em mình. Khi đó ta sẽ có kinh nghiệm rất sống động và xác thực về một vị Chúa lưu ngụ trong đời sống của ta. Trong cuộc đời , tôi đã gặp nhiều cao thủ Thiền Lòng thương xót Chúa với kết quả cụ thể không những cho đời sống đơn sơ, vui tươi, đầy ánh sáng của họ mà còn có hiệu lưc trên  nhiều người mà họ cầu nguyện cho.

Chúc bạn qua kinh nghiệm của việc Thiền “Lòng thương xót Chúa” , lúc ba giờ chiều mỗi ngày trong đời , rồi ra , bạn có cơ hội thốt lên từ những trải nghiệm rằng:

Chúa kính yêu ơi ,

Ngài ngọt ngào và tuyệt hảo dường bao !

HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA ĐỨC MARIA

HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA ĐỨC MARIA

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Khi nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta dễ có cảm tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời bình an thư thái.  Vì các nghệ nhân thường tạo ra những hình ảnh về Đức Mẹ đẹp đẽ, hiền từ, dường như siêu thoát mọi cảnh khổ đau ở trần gian.  Khi ngợi ca Đức Mẹ là tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô nhiễm nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ đã được tạo dựng đặc biệt, hoàn hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và mãi mãi là như thế, không tiến, không lùi, đẹp như một pho tượng đúc sẵn.

Nhưng nếu đọc Phúc Âm kỹ lưỡng, ta sẽ thấy hành trình đức tin của Mẹ không phải luôn luôn bằng phẳng, êm xuôi, dễ dàng.  Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ, uốn nắn Mẹ.  Và vì thế đã để Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn đau khi tin nhận và bước theo Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ nhất: Thiên Chúa mời gọi Mẹ bỏ chương trình riêng để sống theo chương trình của Thiên Chúa.  Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong một làng quê nhỏ bé.  Cô muốn cuộc đời mãi mãi bình thản êm xuôi như thế.  Nhưng Thiên Chúa đã đến khuấy động đời cô.  Khi đề nghị Maria làm mẹ, Thiên Chúa đã mở ra trước mặt cô một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng đầy gian khổ chông gai.  Maria đã ngoan ngoãn thưa “Xin vâng.”  Lời thưa “xin vâng” của Maria làm ta nhớ đến tổ phụ Abraham.  Như Abraham đã từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương lai bấp bênh theo tiếng Chúa mời gọi, Maria cũng đã từ bỏ chương trình riêng trong nếp sống bình dị, để đi vào chương trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất ổn, hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ hai: Thiên Chúa gửi đến cho Đức Mẹ nhiều đau khổ.  Vì nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria phải gánh chịu nhiều đau khổ.

Đau khổ thứ nhất là bị Giuse nghi ngờ.  Làm sao giải thích cho Giuse hiểu.  Làm sao tránh được búa rìu dư luận.  Không những bị nghi ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa.  Thời ấy, những cô gái chửa hoang sẽ bị ném đá cho đến chết.  Nhưng vững tin vào Thiên Chúa, Đức Maria đã để mặc Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi chuyện.  Ngài chỉ biết cúi đầu, thinh lặng vâng phục và phó thác.

Đau khổ thứ hai là Đức Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu trong cảnh cơ bần: không nhà cửa, không giường chiếu, không mùng mền.  Thiếu thốn mọi phương tiện.  Chung số phận với súc vật.

Đau khổ thứ ba là bị vua Hêrôđê tìm giết nên phải trốn sang Ai Cập.  Con trẻ sơ sinh yếu ớt.  Sản phụ chưa được nghỉ ngơi lại sức đã phải đi lên đường trốn chạy.  Tuy nhiên, nỗi cực nhọc phần xác không sánh được với nỗi đau đớn trong tâm hồn: Tại sao lại mang lấy thân phận tội đồ?  Tại sao lại bị người đời thù ghét, săn đuổi?

Đối diện với những đau đớn ấy, chắc chắn niềm tin của Đức Maria phải lung lay, nghi hoặc:  Con Thiên Chúa mà phải chịu nghèo khổ, khốn cùng đến thế sao?  Tuy có chao đảo, nhưng Đức Maria vẫn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ ba: Đức Maria bị dứt lìa khỏi Chúa Giêsu.  Niềm vui và hạnh phúc của người mẹ là đứa con, nhất là con một.  Con là tất cả của mẹ.  Con quý giá hơn chính mạng sống của mẹ.  Tách con ra khỏi mẹ khác nào lấy gươm đâm vào tim mẹ.  Thế mà Chúa Giêsu đã tách lìa Đức Maria rất sớm.  Phúc Âm ghi lại hai lần Chúa Giêsu từ chối Đức Mẹ.

Lần thứ nhất: Khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cả nhà đi lên Giêrusalem dự lễ.  Tan lễ, Chúa Giêsu đã tự tiện ở lại, để thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày.  Trong ba ngày đó, Đức Maria đã trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau đớn, cực nhọc.  Vậy mà khi gặp cha mẹ, Chúa Giêsu đã nói: “Cha mẹ tìm con làm gì.  Cha mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con ư?”  Lời này khiến cho Đức Maria buồn phiền không ít vì thấy đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.

Lần thứ hai: Khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Đức Maria và mấy người bà con đến tìm Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu không ra tiếp, lại còn nói những lời như chối từ liên hệ huyết thống:

“Kẻ nghe lời Cha ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ ta”.

Những lời nói và thái độ của Chúa Giêsu như thế chắc chắn khiến cho Đức Maria buồn phiền. Nhưng những lời nói và thái độ ấy cũng giúp thanh luyện Đức Maria khỏi những tình cảm riêng tư, những liên hệ sinh học tự nhiên để bước vào tình yêu rộng lớn của Thiên Chúa và tạo lập những dây liên hệ siêu nhiên với Ngài.

Cuộc thanh luyện cuối cùng: Đức Maria phải chứng kiến cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá.  Còn gì buồn hơn khi mẹ mất con.  Còn gì đau đớn hơn khi mẹ thấy con chết đau đớn, tủi nhục giữa tuổi thanh xuân.  Ở đây ta cũng nhớ lại tổ phụ Abraham.  Để thử thách ông, Thiên Chúa đã truyền cho ông sát tế Isaác, đứa con trai duy nhất.  Đức Maria cũng được mời gọi hy sinh người con duy nhất của mình.  Đau đớn hơn tổ phụ Abraham vì Đức Maria phải chứng kiến hy lễ đó hoàn tất.  Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ Chúa Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân cây thập giá đau nỗi đau của Chúa Giêsu, nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu.  Và khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức Maria như bị mất tất cả, bị tước đoạt tất cả những gì yêu quý nhất.  Đứng dưới chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người nghèo nhất.  Mẹ chẳng còn gì cho riêng mình.  Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu, Mẹ chỉ còn biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa.

Như vậy Thiên Chúa đã dẫn đưa Đức Maria từ bỏ chương trình riêng tư, từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì thân thiết nhất của mình, để đi vào chương trình của Thiên Chúa, để trọn vẹn phó thác cho Thiên Chúa.

Ngày nay khi lần chuỗi Mân Côi là ta ôn lại hành trình đức tin của Mẹ.  Hành trình đầy thử thách gian khổ nhưng cũng đầy chiến thắng vinh quang.

Xưa kia lễ Mân Côi được mừng để kỷ niệm cuộc thắng trận ở Lepante.  Ngày nay, khi mừng lễ Mân Côi ta mừng Đức Mẹ Maria đã chiến thắng chính bản thân, đã vượt qua hết những thử thách và đạt tới đích điểm của hành trình đức tin.

Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Mẹ, biết từ bỏ ý riêng mình để thực hiện ý Thiên Chúa. Xin giúp con can đảm vượt qua mọi thử thách và giữ vững niềm tin tưởng phó thác trong tay Chúa.

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Anh chi Thụ Mai gởi

THĐGM: “Chúng con sẽ làm gì khi đứa con đồng tính muốn đem bạn tình về nhà trong dịp lễ họp mặt gia đình?”

THĐGM: “Chúng con sẽ làm gì khi đứa con đồng tính muốn đem bạn tình về nhà trong dịp lễ họp mặt gia đình?”

Chuacuuthe.com

VRNs (07.10.2014) -Sài Gòn- Theo Vaticaninsider- Tại cuộc họp Thượng Hội Đồng hôm qua, một cặp vợ chồng người Australia là ông Ron và bà Marvis Pirola nói rằng “gia đình phải đối mặt với sự căng thẳng trong việc bảo tồn chân lý đức tin trong khi vẫn phải thể hiện lòng từ bi và thương xót”. Họ kể lại việc có một số bạn bè của họ phải làm như thế nào khi người con đồng tính của họ muốn đem bạn tình về nhà trong dịp lễ Giáng sinh: “Nó là con của con mà!”

Chiều qua, tiếng nói của một cặp vợ chồng người Australia, ông Ron và bà Marvis Pirola, đại diện cho gia đình Công giáo Úc tham dự THĐ, đã chia sẻ với các tham gia viên về vấn đề của gia đình. Lời chứng của họ cho thấy kinh nghiệm thực tế của giáo dân với các vấn đề và thách đố nơi gia đình phải đối mặt hôm nay.

Cặp vợ chồng giải thích rằng “Dần dần chúng con nghiệm thấy rằng có mối liên hệ đặc biệt giữa bí tích hôn nhân của chúng con là do Chúa Kitô thiết lập với mối liên hệ trong đời sống tính dục. Hôn nhân là một bí tích diễn tả trọn vẹn trong quan hệ tính dục.” “Chúng con tin rằng chỉ khi nào các cặp vợ chồng kính trọng việc hợp nhất trong tính dục như là một phần thiết yếu của đời sống tâm linh thì họ mới có thể hiểu rõ được giá trị cao đẹp của giáo lý hôn nhân như được trình bày trong Tông Huấn Humanae Vitae. Chúng con cần những phương pháp mới và ngôn ngữ dễ hiểu để chạm tới trái tim của mọi người. ”

Cặp vợ chồng đại diện cho các gia đình nói tiếp: “giáo hội tại gia” [tức là các gia đình] có thể giúp cho Giáo hội trong vai trò rao giảng Tin Mừng”. “Ví dụ, Giáo Hội liên tục phải đối mặt với sự căng thẳng để bảo tồn chân lý trong khi vẫn phải thể hiện lòng từ bi và thương xót. Các gia đình phải đối mặt với sự căng thẳng này trong mọi lúc.” Đôi vợ chồng làm sáng tỏ hơn bằng cách đưa ra một ví dụ liên quan đến đồng tính luyến ái. “Những người bạn của chúng con đã lên chương trình họp mặt gia đình vào lễ Giáng sinh, khi đó người con trai đồng tính của họ nói rằng anh ta cũng muốn mang bạn tình của mình về nhà họp mặt. Các bậc phụ huynh này hoàn toàn tin tưởng vào giáo lý của Giáo Hội và họ biết rằng con cháu của họ sẽ chứng kiến việc tiếp đón của người con trai này với bạn tình của anh ta trong đại gia đình. Phản ứng của họ có thể được tóm gọn trong câu này: “Nó là con của chúng con mà!”

Về điều này, ông Ron và bà Marvis giải thích thêm: “một mô hình truyền giáo cho các giáo xứ phải trả lời được với các tình huống tương tự như vậy!” “Nhiệm vụ và mục đích chính của Giáo huấn của Giáo Hội là cho thế giới biết về tình yêu của Thiên Chúa.”

Đôi vợ chồng người Australia đã kể lại một kinh nghiệm thực tế khác: “Một người bạn đã ly dị của chúng con nói rằng đôi khi cô ấy cảm thấy mình không hoàn toàn được đón nhận trong giáo xứ của mình. Tuy vậy cô vẫn tham dự thánh lễ thường xuyên và giáo dục con cái rất tốt. Đối lại giáo xứ không có thiện cảm với cô và việc cô ly dị là một chướng mắt cho họ. Từ những người như cô, chúng con ngộ ra rằng tất cả chúng con còn giữ những yếu tố khiếm khuyết trong cuộc sống. Nhận ra sự khiếm khuyết, chúng con sẽ bớt phán xét người khác, phán xét sẽ làm cản trở việc loan báo Tin Mừng.”

Hoàng Minh

Việt Cộng, ‘nòng nọc đã đứt đuôi!’

Việt Cộng, ‘nòng nọc đã đứt đuôi!’
September 28, 2014

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Nòng nọc là cóc mới nở từ trứng ra, sống thành đàn ở đám ruộng, ao, có đuôi ve vẩy, người ta tưởng rằng chúng là họ nhà trê. Nhưng đến thời kỳ nòng nọc đứt đuôi nhảy lên bờ sống trên cạn là giống cóc nhái.

Câu thành ngữ: “Nòng nọc đứt đuôi,” ý nói rõ ràng dứt khoát, việc nào ra việc ấy, không còn che giấu được!

Hình bìa tác phẩm Ðèn Cù của Trần Ðĩnh. (Hình: Người Việt)

Việt Cộng dù ngụy trang dưới chiêu bài, nhãn hiệu nào, khi đứt đuôi thì cũng nhảy lên bờ thành Việt Cộng.

Theo trang web Wikipedia, “Trong các chiến dịch tố Cộng của mình năm 1956, Tổng Thống VNCH Ngô Ðình Diệm đã phổ biến từ Việt Cộng để chỉ những người ‘Cộng Sản Việt Nam,’ viết ngắn gọn của từ Việt Nam Cộng Sản, (Vietnamese Communist). Sau khi Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam được thành lập năm 1960, dân chúng miền Nam Việt Nam cũng gọi những người Cộng Sản miền Nam bằng danh từ này. Khi quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam, họ cũng chịu ảnh hưởng của cách gọi này và gọi một cách ngắn gọn là VC (viết tắt từ “Việt Cộng” và đọc theo tiếng Anh là “vi-xi”), hoặc đọc thành Victor Charlie – do hai chữ cái V và C lần lượt được phát âm là Victor và Charlie theo bảng mẫu tự ngữ âm của NATO.”

Theo khuynh hướng Cộng Sản, Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Ðồng Chí Hội do Nguyễn Ái Quốc tổ chức năm 1925 ở Quảng Châu (Trung Quốc).

Năm 1929 đổi thành Ðông Dương Cộng Sản Ðảng.

Năm 1930, Ðông Dương Cộng Sản Ðảng cùng các tổ chức Cộng Sản khác ở Việt Nam thống nhất lại thành đảng Cộng Sản Việt Nam.

Ngày 19 Tháng Năm, 1941, Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, ra đời, mang danh là một liên minh chính trị, nhưng thực chất cũng chỉ là đảng Cộng Sản Việt Nam của Hồ Chí Minh, đã gây ra bao nhiêu cảnh nồi da xáo thịt, đổ máu, cắt cổ mổ bụng, thả xác trôi sông hãi hùng!

Cuối năm 1945, đảng giải tán trở thành Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác.

Ðến năm 1951, lại thành đảng Lao Ðộng, không còn chữ Cộng Sản hay Ðông Dương. Lúc đổi sang tên Ðảng Lao Ðộng, theo tác giả Trần Ðĩnh của tác phẩm Ðèn Cù, cái tên này nhiều người thắc mắc hơi yếu, thì Hồ Chí Minh bảo đã thỉnh ý Stalin và Stalin bảo lấy tên này, như Mông Cổ đã lấy tên đảng Nhân Dân Cách Mạng vậy! (Ðèn Cù, trang 544)

Năm 1976, sau khi chiếm miền Nam, đảng này trở lại là đảng Cộng Sản Việt Nam.

Cái gọi là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam được Bộ Chính Trị Ðảng Cộng Sản nặn lên trong thời gian chiến tranh chống Mỹ, cũng lập chính phủ, cũng đặt danh quân đội để tỏ ra cuộc chiến tranh này là giải phóng chứ không phải là chiến tranh xâm lược từ miền Bắc, nhưng thực chất, đây là bàn tay dài của Hà Nội thò vào miền Nam, nhân sự lãnh đạo, binh lính, vũ khí ồ ạt chở vào Nam.

Trước 1975, mặt trận này tuyên bố là tổ chức độc lập với miền Bắc, nhưng không độc lập với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa khi đó tuyên bố chủ quyền trên cả nước cho đến khi Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam tuyên bố chủ quyền ở miền Nam năm 1969 (!). Câu văn quả là mâu thuẫn, tối nghĩa khi nói rằng mặt trận này “độc lập với miền Bắc, nhưng không độc lập với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.”

Mặt trận này được thành lập ngày 20 Tháng Mười Hai, 1960, nhưng bị “giải thể” vào ngày 31 Tháng Giêng, 1977, sau khi chấm dứt vai trò cần trình diễn của mình, và sát nhập hoàn toàn với Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam. Khi ẩn, khi hiện, khi bí mật, khi công khai, khi Ðảng Lao Ðộng, khi Ðảng Cộng Sản, khi Ðảng Dân Tộc Việt Nam, khi Mặt Trận Việt Minh, Mặt Trận Tổ Quốc thì cũng là chiêu bài cho một giai đoạn nào đó phải thay họ, đổi tên, nòng nọc phải đến lúc “đứt đuôi” để trở thành cóc…Việt Cộng.

Chiêu bài giải phóng dân tộc là con nòng nọc, đứt đuôi rồi thì thành cóc, cóc Cộng Sản, áp đặt cái đảng đã tàn lụi, thối rữa ở Liên xô, ở Ðông Âu lên dân tộc Việt Nam.

Và dù dưới những danh xưng “Cộng Hòa Nhân Dân” hay “ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa,” kiểu “Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa” hay “Cộng Hòa Nhân Dân Triều Tiên” thì đích thực họ vẫn được cai trị bởi Ðảng Cộng Sản.

Danh từ Việt Cộng để chỉ một nước Việt Nam hiện nay đang bị cai trị bởi một đảng mang tên Cộng Sản, cũng như Trung Quốc hiện nay là Trung Cộng chính danh.

Hai tiếng Việt Cộng viết tắt là VC như ngày trước cả thế giới đều hiểu là “Vietnam Communist.” Vậy thì “Vietnam Communist Party” được hiểu là Ðảng Việt Cộng, “Vietnam Communist Party Congress” là Quốc Hội Việt Cộng, “Vietnam Communist Government” là chính phủ Việt Cộng.

Ðó là cách dùng chữ nghĩa đúng nhất, chính danh và chính từ, không mập mờ lộn xộn.

Thủ Tướng Việt Cộng Nguyễn Tấn Dũng tham dự hội nghị Siri Lanka hay Ðại Tướng Việt Cộng Lê Hồng Anh đi Bắc Kinh… thì danh cũng chính mà ngôn cũng thuận, làm chi phải lẩn quẩn loanh quanh “cho đời mỏi mệt.”

Theo định nghĩa của một vài sử gia như Kallie Szczepanski thì Việt Cộng là những người trong hàng ngũ Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, chống cả chính phủ miền Nam cũng như Hoa Kỳ (1959-1975).

Nhưng bà cũng nói thêm: “Việt Cộng được yểm trợ và huấn luyện bởi chính phủ Cộng Sản miền Bắc” (The Viet Cong were supported and trained by the government of communist North Vietnam.) Vậy thì Cộng Sản Bắc Việt không được gọi là Việt Cộng thì gọi là gì? Ðây chỉ là một sự ngụy biện. Theo báo chí và tất cả nhân dân miền Nam thì không phân biệt Cộng Sản Nam Bắc, tất cả đều là Việt Cộng!

Thế thì sao khi nói đến cơ chế này, đảng này, các viên chức, cán bộ trong nước thường lẩn tránh hai chữ Cộng Sản, trong khi ở ngoài nước, báo chí, truyền thanh đều không nói thẳng hai tiếng Việt Cộng để phân biệt với thể chế Việt Nam (Cộng Hòa) ngày trước.

Ba mươi năm trong cuộc chiến tranh tự vệ của miền Nam, danh từ Việt Cộng (VC) mang hẳn một nghĩa xấu: Việt Cộng pháo kích, Việt Cộng đặt mìn, Việt Cộng cắt cổ, mổ bụng, Việt Cộng vi phạm lệnh hưu chiến… nên Việt Cộng đi đến đâu dân lành bỏ làng bỏ xóm chạy đến đó. Một câu chuyện khá “tiếu lâm” được kể trong ngày “Cách Mạng:”

Một anh Việt Cộng hỏi một bác nông dân rằng, “Sau ngày 30 Tháng Tư, cách mạng vào Sài Gòn, bác thấy dân tình như thế nào?”

Người nông dân thực thà trả lời: “Rất mừng là từ nay trở đi, không còn bọn Việt Cộng đắp mô, giật mìn và ban đêm về thu thuế nữa!”

Chỉ sau một thời gian ngắn, cách mạng đã đứt đuôi nòng nọc để lộ hình…Việt Cộng. Việt Cộng phủ dụ, ve vuốt dân, gọi dân là chủ, nhưng khi Việt Cộng nắm chính quyền thì dân là kẻ thù. Kể cả ngày nay, người Cộng Sản có thể nhận mình là bộ đội, là cách mạng, là xã hội chủ nghĩa Việt Nam…nhưng không ai nhận mình là Việt Cộng, vì Việt Cộng đã mang quá nhiều tiếng xấu.

Có những nông dân chết vì ăn lầm nòng nọc mà tưởng là một loại cá trê nhỏ, không ngờ đó là con cóc chưa đứt đuôi. Hàng triệu người Việt Nam đã chết vì nghĩ cóc là nòng nọc, Cộng Sản là yêu nước, Cộng Sản là giải phóng, Cộng Sản là có tinh thần dân tộc!

Có một người can đảm nhận “phe mình” là Việt Cộng, không còn phân biệt Cộng Bắc hay Cộng Nam, đó là nhà văn Trần Ðĩnh trong “Ðèn Cù.” Rõ ràng nhất là ở trang 463 (…Bắc Kinh đánh luôn Việt Cộng để thanh minh mình không xúi Việt Cộng xé Hiệp Ðịnh Paris chiếm Sài Gòn), trang 469 (Chiến tranh đau khổ thì dân nổi dậy lật đổ đã là một trong mấy bằng chứng quan trọng để Việt Cộng lập vụ án chống đảng lật đổ lẫy lừng trong đảng sử), trang 560 (Cái thằng được rước vào giúp Việt Cộng nâng cấp chiến tranh lên hiện đại hóa (…) lại đi cài tay sai để lật đổ Việt Cộng?).

Xin cám ơn chữ nghĩa của nhà văn Trần Ðĩnh.

Ðọc hết Ðèn Cù, chúng ta có thể kết luận, “Việt Cộng tàn thì Việt Nam mới khá lên được.”