Đưa Người Ta Không Đưa Sang Sông

Đưa Người Ta Không Đưa Sang Sông

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Tôi thấy trong cuộc đời của chị Thắng, chị không mang tai tiếng gì. Vẫn là con người trong sạch.

Hạ Đình Nguyên

Thay vì một vòng hoa, một nén nhang, hay một lời ai điếu, tôi xin mượn một câu thơ của Thâm Tâm để đưa Võ Thị Thắng về nơi an nghỉ cuối cùng. Hoa hoè, nhang khói, điếu văn này nọ (e) không thiếu trong tang lễ “trọng thể” dành cho chị – theo như tường trình của VOV:

“Vào lúc 7h30 sáng nay (25/8), tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng thành phố Hồ Chí Minh, Lễ truy điệu bà Võ Thị Thắng, nguyên Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Tổng Cục trưởng Tổng Cục du lịch đã được tổ chức trọng thể.”

Bộ trưởng Bộ VH-TT-DL Hoàng Tuấn Anh đọc điếu văn. Ảnh:VOV

“Đọc điếu văn tại lễ truy điệu, trong niềm tiếc thương sâu sắc, ông Hoàng Tuấn Anh, Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch, Trưởng ban lễ tang xúc động ôn lại cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vẻ vang của bà Võ Thị Thắng, người con của Nam Bộ thành đồng với ‘nụ cười chiến thắng’ đã trở thành một trong những biểu tượng cao đẹp cho thế hệ anh hùng trong cuộc kháng chiến giành độc lập – tự do – thống nhất đất nước. Tinh thần Võ Thị Thắng là tấm gương sáng cho các thế hệ noi theo.

Tôi sinh ra đời sau Võ Thị Thắng khá lâu nên không biết chi nhiều về “cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vẻ vang” của chị. Do tìm hiểu thêm cũng biết được ba điều bốn chuyện, xin được chia sẻ với mọi người.

Theo vnexpress:

Bà Thắng sinh ra tại xã Tân Bửu, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Năm 9 tuổi, bà bắt đầu bước chân vào con đường cách mạng bằng việc tham gia đưa thư, mang cơm cho cán bộ trong hầm bí mật. Năm 13 tuổi, bà thi đậu vào trường công lập Gia Long Sài Gòn (nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai); 16 tuổi là thành viên Mặt trận dân tộc giải phóng huyện Bến Lức – Long An và khi 17 tuổi, được tổ chức điều về Sài Gòn hoạt động trong phong trào thanh niên – sinh viên – học sinh…

Đất nước thống nhất, người phụ nữ với nụ cười chiến thắng năm nào bước sang chính trường khi tham gia công tác tại Thành đoàn, rồi ở Hội Liên hiệp phụ nữ TP HCM, sau đó được giao nhiệm vụ Phó Chủ tịch thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, được trúng cử vào Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá VIII và Khóa IX; Đại biểu hội các khóa IX, X và XI, rồi Tổng cục trưởng Du lịch, Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam – Cu Ba.

Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ VN Nguyễn Thiện Nhân trao Huân chương Độc lập hạng nhì cho bà Võ Thị Thắng. Ảnh: Đời Sống Pháp Luật

Phóng viên Nguyễn Thị Nhi, tạp chí Hướng Nghiệp, cũng cho biết thêm đôi nét về quá trình hoạt động cách mạng của Võ Thị Thắng:

“Chị được giao nhiệm vụ điều tra quy luật hoạt động của tên Trần Văn Đỗ và tổ chức ám sát hắn. Trần Văn Đỗ là Trưởng phường Phú Lâm, quận 6 Sài Gòn nhưng thực chất là tên mật vụ chỉ điểm có nhiều nợ máu với nhân dân. Ngày 27-7-1968, sau khi nắm tình hình địch, chị cải trang để đột nhập vào nhà tên Đỗ cùng với hai đồng chí yểm trợ vòng ngoài.

Hôm đó khác với thường lệ, tên Đỗ đi ngủ sớm, chị tiến thẳng đến giường tên Đỗ lên đạn bắn hai lần nhưng cả hai phát súng đều không nổ. Thấy động, tên Đỗ tỉnh dậy, chị bắn lần thứ ba nhưng không trúng. Cảnh sát ập đến bắt chị. Suốt đêm đó và mấy ngày sau chúng tra tấn chị một cách dã man bằng nhiều cách: tra điện, đóng đinh vào ngón tay nhưng chị quyết không khai báo.

Ngày 2-8-1968, chúng đưa chị ra tòa và kết án 20 năm tù khổ sai về tội chủ mưu giết người. Đứng trước tòa, khi nghe phán xét, chị Thắng cười và nói: ‘Tôi chỉ sợ chính quyền của các ông không tồn tại để thi hành bản án về tôi’. Một phóng viên nước ngoài đã chụp được nụ cười của chị Võ Thị Thắng trong giây phút đó. Bức ảnh với tên gọi ‘Nụ cười chiến thắng’ đã trở thành biểu tượng cho khí phách anh hùng của phụ nữ Việt Nam.”

Nói cho chính xác thì tội danh của chị Võ Thị Thắng là “khủng bố,” chứ không phải là “chủ mưu giết người.” Ông Trần Văn Đỗ, may mắn, thoát chết nhưng nhiều người khác thì không.

Cùng với những loạt đạn pháo kích từ ngoại ô vào trung tâm thành phố, Lực Lượng Vũ Trang Nội Thành của chị Thắng và đồng đội đã gieo kinh hoàng cũng như tang tóc cho không ít người dân miền Nam – trong một thời gian không ngắn. Chỉ xin ghi lại vài ba trường hợp để rộng đường dư luận:

Báo Dân Việt, số ra hôm 30 tháng 4 năm 2011, có bài viết (“Tôi Ám Sát Người Sắp Làm Thủ Tướng Sài Gòn”) của ông Vũ Quang Hùng:

Trưa 10.11.1971. Một tiếng nổ long trời tại ngã tư Cao Thắng – Phan Thanh Giản khiến ông Nguyễn Văn Bông – Giám đốc Học viện Quốc gia Hành chính, người chuẩn bị nắm chức thủ tướng (ngụy) chết tại chỗ…

Tôi nhớ dặn dò của đồng chí Tám Nam – Phó ban An ninh T4 (tức khu vực Sài Gòn-Gia Định): “Để bảo đảm bí mật, chúng ta sẽ đặt cho mục tiêu bí số G.33. Cần giữ bí mật đến phút chót và theo tin tức tình báo, G.33 đang chuẩn bị lên nắm ghế thủ tướng. Nếu G.33 đã nắm chức, sẽ rất khó hành động vì khi ấy việc bảo vệ ông ta sẽ khác hẳn. Và nếu tình huống này xảy ra, cách mạng có thể gặp khó khăn hơn bởi Nguyễn Văn Bông là một trí thức có uy tín và chính quyền ngụy chuyển từ quân sự sang dân sự mọi diễn tiến sẽ có lợi cho địch.

GS Nguyễn Văn Bông năm 1967. Ảnh AP. Nguồn Flickr

Giáo sư Nguyễn Văn Bông không phải là người “trí thức có uy tín” đầu tiên, hay duy nhất, bị cách mạng … trừ khử bằng chất nổ và lựu đạn. Hai năm trước đó, G.S.  Lê Minh Trí cũng bị giết chết theo cùng một cách.

Bộ Trưởng Giáo Dục Lê Minh Trí bị ám sát năm 1969. Ảnh: Minh Đức

Một nạn nhân khác nữa là nhà báo Từ Chung. Cái chết của ông được cậu con trai 12 tuổi kể lại như sau, theo bản tin của nhật báo Chính Luận, số ra ngày 1 tháng 1 năm 1966:

“Cháu nghe thấy tiếng còi ô tô của bố cháu. Cháu chạy ra đứng phía trong cửa để chờ bố, cháu thấy bố cháu xuống xe rồi mở thùng xe đằng sau để lấy cái gì đó. Thế rồi có hai người đi gắn máy dừng lại, cháu nhìn rõ xe hiệu Goebel sơn màu xanh. Một người xuống xe tay cắp cặp da, mặc quần mầu xanh màu da trời, áo xanh lạt có sọc, trạc độ 26 tuổi. Người ấy mở cặp da lấy ra một khẩu súng và tiến lại gần bố nhắm bắn luôn mấy phát liền. Bố cháu gục xuống.”

Vẫn theo bản tin thượng dẫn:

Từ Chung đỗ tú tài tại Hà Nội, vào Nam, ông được học bổng du học tại Thụy Sĩ năm năm và đậu bằng Tiến Sĩ Kinh Tế tại Fribourg năm 1961. Về nước, ông được Linh Mục Cao Văn Luận, Viện Trưởng Viện Ðại Học Huế mời giảng dạy tại trường Luật, và sau đó được mời làm ủy viên trong Hội Ðồng Cố Vấn Kinh Tế nhưng ông từ chối vì yêu nghề viết báo.

Từ Chung viết rất nhiều thể loại, từ điểm sách, văn chướng, văn hóa đến chính trị, kinh tế v.v… nhưng nổi tiếng nhất là các bài xã luận về kinh tế. Từ Chung là người Việt Nam đầu tiên đã giản dị hóa môn học khô khan khó hiểu là kinh tế học, đưa môn học này về gần với quần chúng bình dân.

Những bài xã luận của Từ Chung về kinh tế được độc giả thuộc mọi trình độ khác nhau, từ các ông giáo sư đại học, các chuyên viên kinh tế thượng thặng đến các cậu sinh viên, các bà nội trợ đều thấu hiểu tường tận những biến chuyển kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến mình. Những bài viết xã luận về kinh tế của ông thường được một số trí thức gọi đùa là “mục kinh tế chợ” đã có ảnh hưởng rất lớn đến mọi tầng lớp giai cấp và thế hệ độc giả khác nhau. Về dịch thuật, Từ Chung có dịch cuốn “Bí Danh” (Secret Name) của Lâm Ngữ Ðường.

Dù không phải là thầy bói, tôi vẫn đoán chắc (như bắp) là cả ba nhân vật thượng dẫn đều có chung tội danh: thuộc thành phần phản động. Với tội danh này thì không chỉ vài ba mà (có lẽ) phải đến năm bẩy triệu người Việt đã bỏ mạng vì bom đạn, mã tấu, hay cuốc xẻng.

Cái giá để tạo dựng cái Chính Quyền Cách Mạng mạng hiện nay – rõ ràng – không rẻ nhưng thành quả thì rất đáng ngờ, và vô cùng đáng ngại! Nó cũng đáng ái ngại như cái cách mà truyền thông của Đảng và Nhà Nước Việt Nam xưng tụng “nụ cười chiến thắng” của chị Võ Thị Thắng gần nửa thế kỷ qua.

Ảnh:VOV

Trong một cuộc phỏng vấn dành do BBC, hôm 23 tháng 8 năm 2014, ông Hạ Đình Nguyên (nguyên Chủ Tịch Ủy Ban Phối Hợp Hành Động Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, một tổ chức có liên hệ với các lực lượng chính trị, quân sự của miền Bắc Việt Nam, hoạt động ở Sài Gòn trước 1975) phát biểu: “Tôi thấy trong cuộc đời của chị Thắng, chị không mang tai tiếng gì. Vẫn là con người trong sạch.”

Là Ủy Viên Trung Ương Đảng, và cũng là Đại Biểu Quốc Hội liên tiếp ba khoá (IX, X và XI) rồi là Tổng Cục Trưởng Du Lịch mà “không mang tai tiếng gì” thì chị Võ Thị Thắng – rõ ràng – là một đảng viên nhưng … tốt!

Dưới bài phỏng vấn ông Hạ Đình Nguyên, đọc được trong trang FB của BBC, độc giả Lê Bích Đào cũng đã biểu đồng tình một cách ngắn ngọn và thi vị: “Chị VTT là người sống trong sạch’ gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.” Thiệt là qúi hoá hết sức!

Dù vậy, tôi chỉ có đôi chút suy nghĩ lăn tăn. Hay nói theo ngôn ngữ của thi ca là vẫn (nghe) “sao có tiếng sóng ở trong lòng.” Chúng ta có nhất thiết phải đốt cả dẫy Trường Sơn, phải hy sinh đến cái lai quần, và hàng chục triệu mạng người – thuộc mấy thế hệ kế tiếp nhau – chỉ để tạo nên một đống bùn bẩn thỉu nhầy nhụa như hiện tại không?

Việt Nam với nhất nguyên và đa nguyên

Việt Nam với nhất nguyên và đa nguyên

Nguyễn Quang Duy

Gửi tới BBC từ Úc

Thứ tư, 3 tháng 9, 2014

Ông Võ Văn Kiệt từng đề nghị đổi ‘tập trung dân chủ’ thành ‘dân chủ tập trung’

Sau 30 tháng 4 năm 1975, những trại cải tạo, những khu kinh tế mới, những chiến dịch cải tạo xã hội… cũng nằm trong sách lược biến miền Nam thành một xã hội nhất nguyên.

Nhưng hoạch định của những người cộng sản đã không bao giờ đạt được.

Hàng triệu người miền Nam bỏ nước ra đi, những người ở lại vẫn tự xem mình có trình độ phát triển xã hội và dân chủ cao hơn miền Bắc.

Người miền Nam theo cộng sản quan sát xã hội miền Bắc bắt đầu phủ nhận chủ nghĩa Marx và con đường cộng sản.

Người miền Bắc tự chuyển biến tư tưởng khi tiếp xúc với xã hội đa nguyên miền Nam.

Ngay trong Bộ Chính Trị đảng Cộng sản các tư tưởng đa nguyên chính trị cũng đã hình thành.

Ông Võ Văn Kiệt đặt vấn đề cần chuyển “tập trung dân chủ” thành “dân chủ tập trung”, tôn trọng và bảo vệ ý kiến của thiểu số, chấm dứt việc “đảng hóa” xã hội và sự lạm quyền của Bộ Chính Trị.

Theo ông Kiệt mọi chính sách thay vì từ Bộ Chính Trị đưa xuống, phải phát xuất từ Trung Ương Đảng hay từ đa số đảng viên đưa lên. Khi đã có dân chủ trong đảng sẽ mở rộng dân chủ ngòai dân.

Ông Trần Xuân Bách có một tầm nhìn chính trị rõ hơn:

“Dân chủ không phải là ban ơn, không phải là mở rộng dân chủ (mở rộng). Đó là quyền của dân, với tư cách là người làm nên lịch sử, không phải là ban phát, do tấm lòng của người lãnh đạo này hay người lãnh đạo kia. Thực chất của dân chủ hóa là khơi động trí tuệ của toàn dân tộc để tháo gỡ khó khăn và đưa đất nước đi lên kịp thời đại.”

Ông Trần Xuân Bách cũng cho rằng hai lãnh vực chính trị và kinh tế phải được phát triển nhịp nhàng, không chân trước chân sau, không tấp tểnh đi một chân.

“Thực chất của dân chủ hóa là khơi động trí tuệ của toàn dân tộc để tháo gỡ khó khăn và đưa đất nước đi lên kịp thời đại”

Trần Xuân Bách

Tiếng kêu hai ông Võ Văn Kiệt và Trần Xuân Bách là những tiếng kêu lẻ loi từ phía bên trên của thể chế nhất nguyên đảng trị.

Đa Đảng hình thức

Trước năm 1986, đảng Dân Chủ và đảng Xã Hội được đảng Cộng sản lập ra để tô điểm cho thể chế nhất nguyên.

Đứng trước đổi mới kinh tế và đòi hỏi đa nguyên, hai đảng này trở thành nỗi đe dọa cho giới cầm quyền nên đều bị giải tán.

Tại Trung Quốc, ngoài Đảng Cộng sản vẫn còn tám đảng hay tổ chức “chính trị”. Các tổ chức này không giữ vai trò đối lập.

Như các tổ chức trong Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, họ chỉ góp ý đường lối do Đảng Cộng sản đề ra.

Về đa đảng đối lập, Giáo sư Nguyễn văn Bông (1929-1973) đối lập chính trị cần có ba đặc điểm:

Trước nhất, đối lập phải có sự bất đồng về chính trị, có chiến lược và chính sách đối lập.

Thứ hai, đối lập chỉ có khi nào sự bất đồng chính kiến mang tính cách tập thể và biểu hiện qua hành động có tổ chức: chính đảng đối lập.

Thứ ba, đối lập phải hoạt động trong vòng pháp luật. Các chính đảng dùng võ lực hay phải hoạt động âm thầm trong bóng tối thì chỉ được xem là những hành động đối kháng.

Dựa trên ba đặc điểm vừa nêu ra Giáo sư Bông giải thích:

“…đối lập phát sinh ở sự thực hành chính trị và liên quan đến lịch trình biến chuyển của chế độ Đại Nghị. Nói đến đối lập tức là nói đến cái gì ở ngoài đa số, ngoài chính phủ. Đối lập là khía cạnh nghị viện của vấn đề…”.

“Chữ ‘chúng ta’ ông Sang dùng là để trao đổi với các phe cánh trong đảng cầm quyền”

Còn về phe phái trong Đảng Cộng sản, thì khi một đảng đã thâu tóm hết quyền lực và quyền lợi thì người gia nhập đảng đa phần cũng chỉ vì lợi ích cá nhân.

Từ lợi ích cá nhân mới sinh ra lợi ích nhóm tạo ra các phe cánh trong đảng.

Trong dịp 2 tháng 9 năm nay, ông Trương Tấn Sang gởi một thông điệp nhìn nhận:

“Chúng ta không sợ bất cứ một thế lực nào, dù là hung bạo nhất. Chúng ta chỉ sợ nhân dân mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước, chế độ ta.”

Chữ “chúng ta” ông Sang dùng là để trao đổi với các phe cánh trong đảng cầm quyền.

Đại Hội 12 cận kề, thực tế cho thấy các phe cánh chưa thể thu xếp lại quyền lực và quyền lợi.

Họ cũng chưa thể thống nhất quan điểm và phương cách giải quyết nhiều vấn đề cả đối nội lẫn đối ngọai.

Vì thế họ mới tố nhau phe lợi ích, phe bảo thủ, hay tự xưng phe cải cách, nhưng các phe đều cùng chung mục đích là bảo vệ độc quyền đảng trị và chống lại diễn biến hòa bình.

Ngày 16 tháng 8 vừa qua, ông Nguyễn Tấn Dũng đã nhắc nhở Lực lượng công an:

“Các thế lực thù địch, phản động chưa hề từ bỏ âm mưu, hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam; ráo riết thực hiện diễn biến hòa bình, triệt để lợi dụng xu thế toàn cầu hóa, dân chủ hóa, hội nhập quốc tế để tác động, chuyển hóa nội bộ, hỗ trợ, kích động chống phá nhằm gây mất ổn định chính trị, xã hội.”

Những tuyên bố, những nghị quyết, những bài báo, những tài liệu chống diễn biến hòa bình, cho thấy đây chính là nỗi quan tâm hàng đầu của những người cầm quyền Việt Nam.

Nhưng đó cũng là dấu hiệu cho thấy đa nguyên chính trị có cơ hội bộc phát từ bên trong Đảng Cộng sản và có thể sẽ dẫn đến thay đổi thể chế chính trị một cách hòa bình.

Phát triển xã hội đa nguyên

Càng ngày Đảng Cộng sản càng mất dần khả năng kiểm sóat các tổ chức dân sự, gồm cả các tổ chức do đảng lập ra, các tổ chức bị bắt buộc tham gia Mặt Trận Tổ Quốc và tổ chức dân sự độc lập.

“Khi thể chế nhất nguyên còn tồn tại, các tổ chức chính trị, các tổ chức dân sự độc lập không thể xem là tổ chức hay lực lượng đối lập”

Các tổ chức dân sự độc lập là các tổ chức đang đấu tranh để giành lại những quyền tự do, như quyền tự do tín ngưỡng, quyền tự do báo chí, quyền tự do nghiệp đoàn, quyền tự do chính trị… những quyền cơ bản được Quốc Tế công nhận.

Các tổ chức dân sự độc lập khác với các đảng chính trị có mục đích rõ ràng là đấu tranh giành quyền lực với đảng cầm quyền cộng sản.

Khi thể chế nhất nguyên còn tồn tại, các tổ chức chính trị, các tổ chức dân sự độc lập chỉ là những tổ chức đấu tranh chính trị, không thể xem là tổ chức hay lực lượng đối lập.

Các tổ chức đấu tranh chính trị đang đóng góp xây dựng ý thức dân chủ cho xã hội cũng như sẽ vận động xã hội tham gia các sinh họat chính trị, tham gia bầu cử, tham gia ứng cử khi thể chế đa nguyên đa đảng đã được hình thành.

Nếu ý thức dân chủ của xã hội chưa đầy đủ, thể chế nhất nguyên cộng sản có thể sẽ được thay bằng một thể chế nhất nguyên độc tài khác.

Vì thế vai trò của các tổ chức đấu tranh chính trị vô cùng quan trọng.

Nói tóm lại đa nguyên chính trị là khởi đầu và cũng là nền tảng cho tự do dân chủ.

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của ông Nguyễn Quang Duy từ Canberra, Úc. Mời quý vị xem thêm ‘Bấm Chủ nghĩa xã hội thực sự là gì‘ của ông Trần Xuân Bách.

HÌNH ẢNH MẸ TÊRÊXA ĐỐI VỚI TÔI

HÌNH ẢNH MẸ TÊRÊXA ĐỐI VỚI TÔI

Cố GS Trần Duy Nhiên


“Một suy nghĩ hướng đến tha nhân.  Cách thức mà chúng ta thinh lặng, lắng nghe, tha thứ, nói năng và hành động.  Đấy là những giọt dầu chân chính giúp cho ngọn đèn chúng ta cháy mãi suốt cuộc đời mình.” Mẹ Têrêxa.

Ngày 5 tháng 9 năm 1997, một vĩ nhân đã ra đi….. Vâng, Mẹ Têrêxa thành Calcutta đúng là vĩ nhân của thế kỷ XX nếu ta nhớ lại rằng Mẹ đã nhận được Giải Nobel Hoà Bình năm 1979, và ngày qua đời Mẹ được một vinh dự mà chưa một vĩ nhân nào có được: ba nước trên thế giới chịu quốc tang, đó là Ấn Độ, Anbani và Hoa Kỳ.

Mẹ có dịp qua Việt nam hai lần, năm 1994 và năm 1995, và hai lần đó, tôi được may mắn tiếp kiến mỗi lần gần một giờ.  Lạ lùng thay, hình ảnh Mẹ để lại trong tôi không có gì là của một vĩ nhân cả, mà của một người khiêm nhường đến độ quên đi bản thân mình.  Tôi không còn nhớ Mẹ đã nói gì với tôi, nhưng Mẹ để lại hai hình ảnh vẫn còn theo tôi cho đến ngày hôm nay.

Điểm đầu tiên gây ấn tượng là cảm thức về Thiên Chúa nơi Mẹ.  Khi đến Việt nam, Mẹ tạm trú trên lầu 3, tại 38 Tú Xương.  Người ta dành một phòng cho Mẹ và một phòng cho ba nữ tu theo Mẹ (trong số đó có vị Bề Trên tổng quyền hiện nay là Sr Nirmala Joshi).  Thế nhưng Mẹ đã biến phòng của mình thành nhà nguyện với sự hiện diện của Mình Thánh Chúa, rồi cùng chia sẻ với ba chị em phòng còn lại.  Mẹ đã hẹn anh chị Soi và tôi đến gặp Mẹ lúc 11 giờ trưa.

Đúng hẹn, chúng tôi lên lầu 3.  Vì không có chỗ tiếp khách, Sr. Nirmala mời chúng tôi ngồi ở hành lang và Mẹ ra tiếp chúng tôi tại đấy.  Sau nụ cười chào đáp, Mẹ chỉ ngay vào nhà nguyện và bảo: “Chúa kìa”, với một thái độ tự nhiên giống như một bà mẹ bảo con mình chào ông ngoại khi đi đâu về.  Mẹ vào quì trước Thánh Thể với chúng tôi một vài phút trước khi bắt đầu câu chuyện.  Và cuối buổi nói chuyện, Mẹ cũng chỉ vào nhà nguyện bảo chúng tôi chào Chúa trước khi ra về.  Thái độ mẹ đơn sơ như thể Chúa luôn có mặt bằng xương bằng thịt ở bên Mẹ.  Cái cảm thức về Chúa nơi Mẹ rõ rệt đến độ tôi có cảm giác rằng nó hùng biện hơn bất cứ bài giảng nào của bất cứ ai nói về sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể.

Điểm thứ hai gây ấn tượng là cách nói chuyện của Mẹ.  Mẹ không nói chuyện với ba người, mà nói với từng người một.  Mẹ cúi mình xuống và nhìn lên với cái nhìn thật trân trọng, cứ như là Mẹ muốn tiếp thu một bài học nào đó từ người đối thoại mà quên mất mình là ai.  Nói chuyện với Mẹ mà trong đầu tôi cứ lờn vờn hình ảnh của Chúa Giêsu quì xuống rửa chân cho môn đệ mình.  Qua thái độ lắng nghe và ánh mắt, Mẹ đã cho người đối thoại thấy rằng mình vô cùng giá trị…  Có những cái nhìn đè bẹp người người đối thoại và làm cho họ trở nên nhỏ bé và đầy mặc cảm; có những cái nhìn làm cho người đối diện lớn lên và tự hào về giá trị của mình: Mẹ Têrêxa là người có cái nhìn thứ hai đó.

Mẹ Têrêxa thành Calcutta! Một danh xưng đem tự hào về cho Giáo Hội, cho các quốc gia của Mẹ, cho toàn thể nhân loại.  Thế nhưng qua hai lần gặp gỡ, tôi không bị choáng ngộp vì một vĩ nhân, mà chỉ đọc được nơi Mẹ một Kitô hữu điển hình: một người “đã hóa mình ra không” trước mặt Thiên Chúa và trước mặt anh chị em nhân loại, dù cho người ấy có thấp hèn đến đâu.
Ngày 19 tháng 10 năm 2003, Mẹ được nâng lên hàng chân phước.  Mẹ là người được phong chân phước nhanh nhất trong lịch sử giáo hội: vỏn vẹn 6 năm sau ngày qua đời.  Tuy nhiên, Giáo Hội chỉ chính thức hóa một điều mà mọi người gặp Mẹ đã công nhận từ lâu:  Mẹ quả là hình ảnh sống động của Chúa Kitô trên thế gian này.

Giờ này Mẹ đã về bên Chúa, tôi bỗng nghĩ đến 4690 nữ tu Thừa Sai Bác Ái đang tiếp tục sống đời sống ,”Kitô hữu mẫu mực” của Mẹ tại 710 nhà trong 132 nước trên thế giới.  Bất giác tôi nhớ lại lời Mẹ dặn: “Con hãy cảm tạ Chúa cùng với Mẹ, vì Việt Nam là nước thứ 100 mà các Thừa Sai Bác Ái hoạt động và nhà tại Việt Nam là nhà thứ 500 của họ”.  Tôi không biết sau 2 năm hiện diện tại Việt Nam, các Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái của Mẹ Têrêxa có được gia hạn giấy phép hoạt động hay không.  Nếu không được thì kể cũng xót xa cho Giáo Hội tại Việt Nam đấy.  Nhưng dù các con của Mẹ có hoạt động công khai hay âm thầm, thì Mẹ vẫn còn sống mãi trong họ để tiếp tục khẳng định cho mọi người mà họ gặp gỡ: Chúa đang sống cạnh bạn và Ngài tôn trọng bạn với trọn vẹn trái tim yêu thương của Ngài.

Để kết thúc những cảm nhận này, tôi ghi lại đây một chuyện nhỏ.  Khi trao đổi danh thiếp với nhau, Mẹ cho biết rằng mình không bao giờ có danh thiếp.

Sr. Nirmala trình cho Mẹ ‘danh thiếp’ sau đây với những lời vàng ngọc của Mẹ.  Mẹ cầm bút viết lời chúc phúc, rồi trao cho tôi như một kỷ vật:

(1) Ghi chú: Trên “danh thiếp” có hàng chữ viết tay God Bless you (Xin Chúa chúc lành cho con) và chữ ký của Mẹ.  Tác giả cũng đã dịch những hàng chữ trên ra tiếng Việt như sau:

The fruit of SILENCE is Prayer
The fruit of PRAYER is Faith
The fruit of FAITH is Love
The fruit of LOVE is Service
The fruit of SERVICE is Peace.
( Hoa quả của THINH LẶNG là Cầu Nguyện
Hoa quả của CẦU NGUYỆN là Ðức Tin
Hoa quả của ÐỨC TIN là Tình Yêu
Hoa quả của TÌNH YÊU là Phục Vụ
Hoa quả của PHỤC VỤ là Bình An )

(Kỷ niệm 6 năm ngày Mẹ Têrêxa Calcutta về thiên quốc)

Trần Duy Nhiên

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Căng thẳng vẫn âm ỉ giữa Việt Nam-Trung Quốc

Căng thẳng vẫn âm ỉ giữa Việt Nam-Trung Quốc

Chuyến đi Bắc Kinh của ông Lê Hồng Anh đã gây ra những suy đoán là Việt Nam và Trung Quốc đang tiến tới trong những nỗ lực nhằm cải thiện quan hệ sau nhiều tháng căng thẳng leo thang.

Chuyến đi Bắc Kinh của ông Lê Hồng Anh đã gây ra những suy đoán là Việt Nam và Trung Quốc đang tiến tới trong những nỗ lực nhằm cải thiện quan hệ sau nhiều tháng căng thẳng leo thang.

Marianne Brown

01.09.2014

HÀ NỘI—

Tuần trước, một viên chức cấp cao của đảng Cộng Sản Việt Nam đã đến Bắc Kinh để tìm cách xoa dịu những mối căng thẳng phát sinh từ vụ tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở Biển Đông. Theo tường thuật của thông tín viên Marianne Brown của đài VOA tại Hà Nội, căng thẳng giữa đôi bên vẫn còn âm ỉ, 3 tháng sau khi Trung Quốc hạ đặt một giàn khoan khổng lồ ở ngoài khơi Việt Nam.

Chuyến đi Bắc Kinh của một viên chức cấp cao của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã gây ra những sự suy đoán là hai nước đang tiến tới trong những nỗ lực nhằm cải thiện quan hệ sau nhiều tháng căng thẳng leo thang.

Ông Lê Hồng Anh đã về nước hôm thứ tư sau chuyến đi hai ngày ở Trung Quốc, nơi ông hội kiến Chủ tịch Tập Cận Bình.

Theo Tân Hoa Xã, tại cuộc gặp gỡ này ông Tập Cận Bình nói rằng “không thể xua đuổi láng giềng đi nơi khác và hai người láng giềng đối xử tốt với nhau là phù hợp với lợi ích của đôi bên.”

Việt Nam và Trung Quốc sẽ tiếp tục thúc đẩy quan hệ theo chiều hướng “phát triển ổn định”, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình cho biết như thế tại cuộc họp báo thường lệ hồi tuần trước.

“Việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan hồi tháng 5 tại vùng biển mà Việt Nam cũng tuyên bố có chủ quyền đã làm tăng mạnh sự xích mích giữa đôi bên vì vụ tranh chấp lâu năm ở Biển Đông. Hành động đó của Trung Quốc làm bùng ra những vụ biểu tình chống Trung Quốc tại nhiều nơi ở Việt Nam. Một số khu công nghiệp đã có những vụ bạo động gây chết người.”

Đến ngày 15 tháng 7, Trung Quốc đã rút giàn khoan đi nơi khác trước kế hoạch đã định, trong lúc một cơn bão lớn sắp kéo đến.

Giáo sư Carl Thayer, một nhà quan sát tình hình Việt Nam của Đại học New South Wales ở Australia, cho rằng chuyến đi của ông Lê Hồng Anh là phần đầu của cuộc “vật tay” giữa hai nước về vấn đề Biển Đông.

“Chuyến viếng thăm của ông Lê Hồng Anh đã mở ra các kênh liên lạc. Chúng tôi thấy những nhân vật cấp thấp hơn đang tìm kiếm cơ hội giao tiếp. Trung Quốc đã nhận lời xin lỗi. Chúng tôi thấy cả hai bên đang tìm cách để có thể khắc phục vấn đề này mà không phải nhượng bộ quá nhiều.”

Một số chuyến viếng thăm Việt Nam của các giới chức cấp cao của Mỹ, kể cả Chủ tịch Ban Tham mưu Liên quân Martin Dempsey, gây ra những sự suy đoán là Việt Nam muốn thắt chặt quan hệ với Mỹ để tìm cách đương cự với người hàng xóm khổng lồ ở phương bắc. Ngoại trưởng Aán Độ mới đây đã tới thăm Việt Nam và theo lịch trình Tổng thống Pranab Mukherjee sẽ đến Hà Nội vào tháng 9.

Trong chuyến viếng thăm Việt Nam hồi tháng trước, Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain cho biết ông tin là có sự ủng hộ đối với đề nghị nới lỏng các hạn chế về việc bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.

Theo giáo sư Jonathan London, một chuyên gia về Việt Nam của Đại học Thành phố Hồng Kông, nếu kế hoạch bán vũ khí sát thương được xúc tiến thì đó là một biểu tượng của sự thay đổi thật sự trong các mối quan hệ Việt-Mỹ. Ông nói thêm như sau.

“Tôi nghĩ có một điều không nên xem thường là Việt Nam sẽ có được những lợi ích đáng kể từ những thông tin tình báo và kiến thức chuyên môn của Mỹ về những vấn đề hải dương.”

Giáo sư Thayer cho rằng Việt Nam đang cố gắng đa phương hóa như một cách để “mặc cả” với Trung Quốc.

“Trung Quốc không ngớt cảnh báo Việt Nam chớ nên xích lại quá gần với Mỹ, nhưng điều đó không ngăn được Việt Nam xích lại gần hơn với Nhật, là điều mà họ đã làm rồi, và với Ấn Độ nếu họ sẵn sàng tham gia cuộc chơi.”

Trong lúc một số người tỏ ý hoan nghênh chuyến đi thăm Bắc Kinh của ông Lê Hồng Anh, đa số các nhà quan sát vẫn có thái độ dè dặt. Giáo sư London cho biết ông tin là không ai ở Việt Nam nghĩ rằng tình hình hiện nay của quan hệ Việt-Trung là tốt đẹp và không thể nào có thể nói chắc là quan hệ đang được cải thiện.

“Nói cho cùng, ông Anh là đại diện của Tổng bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam chứ không phải đại diện Việt Nam, và cách làm việc của Trung Quốc là nói một đàng làm một nẻo và người Việt Nam hiểu rõ như vậy.”

Ông London cho biết một đặc tính quan trọng của mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc là những cuộc thảo luận được tiến hành sau những cánh cửa khép kín, cho nên không thể biết được là công việc giữa hai nước thật sự là như thế nào.

“Chúng tôi muốn biết”

“Chúng tôi muốn biết”

Gia Minh, PGĐ Ban Việt ngữ
2014-09-02

09022014-giaminh.mp3

wordpress.com.jpg

Một số bạn trẻ với dòng chữ ‘Tôi muốn biết’.

Courtesy of worldpress.com

Một số bạn trẻ tại Việt Nam hôm nay đưa lên các trang mạng xã hội hình chụp của họ với dòng chữ ‘Tôi muốn biết’. Sinh hoạt mới này của các bạn trẻ hoạt động lâu nay nhắm đến mục tiêu gì?

Quyền được biết

Theo những bạn công khai hình ảnh và bảng viết với dòng chữ ‘Tôi muốn biết’ thì công dân có quyền tiếp cận thông tin từ nhà nước như chính sách quốc gia, hoạt động của chính khách Nhà nước và/hoặc đảng cầm quyền trên mọi lĩnh vực: giáo dục, y tế, an sinh xã hội, môi trường… Những người này cho rằng đó là một quyền cơ bản của người dân.

Cựu tù nhân lương tâm Phạm Thanh Nghiên, một trong những người tham gia, cho biết về quyền đó như sau:

Vào 12 giờ đêm ngày hôm qua theo giờ Việt Nam, Mạng lưới Bloggers Việt Nam đã chính thức khởi động phong trào ‘Chúng tôi Muốn Biết’.

Trước hết phải nói sơ một chút là quyền tự do ngôn luận có mối quan hệ rất chặt chẽ với quyền tự do tiếp cận thông tin, bởi vì Mạng lưới Bloggers Việt Nam cho rằng quyền được thông tin là cơ sở để người dân thực hiện quyền làm chủ đất nước của mình. Ngày 28 tháng 9 là ngày là Liên Hiệp Quốc lấy làm Ngày Quốc tế Quyền Được biết.

Luật pháp và hiến pháp Việt Nam mặc dù chưa thật đầy đủ, nhưng hiến pháp Việt Nam đã quy định người dân được quyền tiếp cận thông tin. Tức trong hiến pháp cũng ghi quyền căn bản của người dân Việt Nam; tuy nhiên đó chỉ là trên lý thuyết thôi, còn trên thực tế hầu như sự thật là không hề có quyền tự do ngôn luận hay quyền tự do tiếp cận thông tin.

Bản thân tôi chính là một trong những nạn nhân của chính thể chế này, tôi từng bị bốn năm tù giam bởi vì tôi đã lên tiếng bày tỏ quan điểm của mình về vấn đề chủ quyền- lãnh thổ hay những vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền khác. Cho nên tôi có đủ tư cách để nói rằng ở Việt Nam không hề có quyền tiếp cận thông tin, không có tự do ngôn luận, không có nhân quyền một cách chính đáng như những gì nhà nước, đảng cộng sản Việt Nam đã ghi trong hiến pháp và luôn nói với công luận rằng Việt Nam có đầy đủ những quyền đó.

Phong trào ‘”Chúng tôi Muốn biết” xuất phát trước hết từ quyền căn bản của mỗi người, mà động cơ để chúng tôi tham gia phong trào này là những sự kiện liên quan đến đời sống của chúng tôi và của cộng đồng.
– Anh Phạm Văn Hải, Nha Trang

Tôi nhắc lại là quyền tiếp cận thông tin là quyền căn bản của người dân cũng như quyền tự do ngôn luận, quyền bày tỏ các quan điểm về các vấn đề xã hội hay đất nước mình. Không có nên mọi người phải biết để giành lại các quyền cho mình. Hôm nay tôi nói ‘Tôi muốn biết’ và tôi có quyền được biết vì không thể có một xã hội tiến bộ nếu người dân không được biết những quyết sách mà can dự đến đời sống của mình, nhất là đến sự tồn vong của dân tộc!

Một người tham gia khác từ Nha Trang là anh Phạm Văn Hải cũng cho biết ý thức về quyền được thông tin và động cơ tham gia phong trào ‘Tôi muốn biết’:

Phong trào ‘”Chúng tôi Muốn biết” xuất phát trước hết từ quyền căn bản của mỗi người, mà động cơ để chúng tôi tham gia phong trào này là những sự kiện liên quan đến đời sống của chúng tôi và của cộng đồng.

Điều muốn được công khai

Hai vấn đề được các bạn tham gia cho hay họ muốn chính quyền Hà Nội và đảng cộng sản cầm quyền hiện nay phải công khai đầu tiên là Công hàm do thủ tướng Phạm Văn Đồng ký hồi năm 1958 gửi cho ông Chu Ân Lai và hội nghị Thành đô vào tháng 9 năm 1990 giữa các lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc.

Cô Phạm Thanh Nghiên nói về điều này:

Trước tình hình mối quan hệ rất đặc biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc, giữa đảng cộng sản Việt Nam và đảng cộng sản Việt Nam rất đặc biệt. Đặc biệt (mối quan hệ đó) can dự tiêu cực đến đời sống của người dân Việt Nam. Như chúng ta biết Hội nghị Thành Đô năm 1990, người dân Việt Nam hoàn toàn không được biết, không được tiếp cận thông tin. Một nhóm lãnh đạo Việt Nam nhân danh đảng và nhà nước Việt Nam đã ký kết hiệp định Thành Đô. Mặc dù không được biết nhưng trên thực tế thông tin cho hay sau năm 1990 đảng cộng sản Việt Nam hầu như lệ thuộc hoàn toàn vào đảng cộng sản Trung Quốc và gây một ảnh hưởng vô cùng nghiêm trọng đến vận mệnh của người dân Việt Nam, của tổ quốc Việt Nam. Đó là chưa nói đến Công hàm năm 1958 của Phạm Văn Đồng.

Sau sự kiện hồi tháng 5 vừa rồi khi Trung Quốc cắm giàn khoan HD981 trong vùng biển của Việt Nam,một số báo chí, thông tấn của Trung Quốc tiết lộ phần nào nội dung của Mật ước Thành Đô. Chính vì thế Mạng lưới Bloggers Việt Nam cũng như nhiều người dân Việt Nam cũng rất lo lắng về vấn đề liên quan mật ước Thành Đô.

Hôm nay tôi nói ‘Tôi muốn biết’ và tôi có quyền được biết vì không thể có một xã hội tiến bộ nếu người dân không được biết những quyết sách mà can dự đến đời sống của mình, nhất là đến sự tồn vong của dân tộc!
– Cô Phạm Thanh Nghiên

Mạng lưới Blogger Việt Nam và nhiều người đấu tranh tại Việt Nam nhận thấy đây là vấn đề cần phải lên tiếng.

Anh Phạm Văn Hải cũng nêu ra thắc mắc về những hành xử của nhà cầm quyển Việt Nam trong các vấn đề liên quan:

Chuyện Trung Quốc kéo giàn khoan qua cách đây mấy tháng và cách cư xử của nhà cầm quyền, cách ứng xử của họ không bình thường, không xứng đáng là của một quốc gia có chủ quyền. Từ đó chúng tôi đặt thắc mắc vì sao có những ứng xử không phù hợp như vậy. Chúng tôi muốn biết đằng sau có cái gì, vì sao mà một quốc gia luôn tuyên bố có chủ quyền mà lại ứng xử như vậy. Phải có cái gì đó đằng sau chứ?

Đánh giá về đáp ứng của chính quyền

Một khi công khai lên tiếng đòi hỏi quyền được thông tin nêu lên như thế, các bạn tham gia mong mỏi hoạt động đó phần nào tác động được đến chính quyền, dù rằng khà năng đáp ứng không mấy cao.

Cựu tù nhân lương tâm Phạm Thanh Nghiên phát biểu:

Dù có đòi, nói thẳng ra đảng cộng sản Việt Nam sẽ không đáp ứng; tuy nhiên nó rất khác với việc chúng ta không làm gì, chúng ta không bày tỏ. Tôi xin nói thêm chút nữa, cách đây vài năm khi tôi nói đến Công hàm Phạm Văn Đồng thì tôi phải trả giá 4 năm tù giam. Từ năm 1958 đến năm 2014 là mấy chục năm đảng cộng sản Việt Nam không hề nói đến công hàm Phạm Văn Đồng. Tuy nhiên khi có sự kiện HD 981 thì đảng cộng sản Việt Nam phải bắt buộc công nhận có công hàm Phạm Văn Đồng. Dẫu thế họ diễn giải theo một cách khác.

Có thể không có kết quả trước mắt, nhưng chúng ta cứ kiên trì, tôi tin sẽ có kết quả. Ngày hôm nay, mặc dù tôi tin đảng cộng sản Việt Nam sẽ không đáp ứng; nhưng chỉ khi chúng ta gây một sức ép chính đáng, thì sự thật sẽ phải được trả về với sự thật.

Anh Phạm Văn Hải cho rằng hoạt động đòi quyền được biết mà các bạn tham gia có thể gặp khó khăn, tuy nhiên các bạn chấp nhận mọi rủi ro để mọi quyền công dân phải được tôn trọng.

Nhìn lại chặng đường 69 năm ngày Quốc Khánh

Nhìn lại chặng đường 69 năm ngày Quốc Khánh

Gia Minh, PGĐ Ban Việt ngữ
2014-09-01

RFA

09012014-quockhanh-gm.mp3

000_Hkg10092627.jpg
Panô, bảng hiệu tuyên truyền kỷ niệm 69 năm ngày quốc khánh tại Hà Nội chụp hôm 28/8/2014.
AFP photo

Hà Nội đang kỷ niệm 69 năm ngày quốc khánh khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, nay là Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Câu hỏi thường được nêu ra nhân dịp ngày 2 tháng 9 như thế là sau mấy mươi năm xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đa số người dân Việt Nam được thụ hưởng những quyền và cuộc sống như các dân tộc khác, ít nhất là những nước trong khu vực hay chưa?

Tuyên ngôn độc lập

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, ông Hồ Chí Minh, chủ tịch nước đọc Tuyên Ngôn khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Bản Tuyên ngôn Độc lập có những đoạn trích trong Tuyên Ngôn Độc lập của Hoa Kỳ 1776 với nội dung “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”

Bản Tuyên Ngôn Độc lập do ông Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình cách đây 69 năm cũng trích dẫn Bàn Tuyên Ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách Mạng Pháp năm 1791 với điểm ‘Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi’.

Trước kia đúng là một lòng một dạ, cùng đảng viên với nhau là như một phục vụ dân đến hơi thở cuối cùng. Bây giờ họ không nghĩ đến dân, họ coi thường dân, coi người dân như ‘cái rơm, cái rác’.
– Bà Ngô Thị Đức

Những điểm trên được nêu ra trong Tuyên Ngôn Độc Lập nhằm tố cáo thực dân Pháp suốt 80 năm đô hộ Việt Nam đã tước mất mọi quyền căn bản của người dân Việt Nam, bóc lột họ đến tận xương tủy, thực hiện chính sách ngu dân để dễ bề cai trị…

Đảng Cộng sản Việt Nam cũng luôn lên án thực dân, đế quốc theo chủ nghĩa tư bản chỉ vì lợi nhuận mà bất kể đến tình đồng loại. Đảng cộng sản giương lên ngọn cờ giải phóng giai cấp công nhân và nông dân khỏi ách thống trị của những thế lực như thế.

Thực tế đời sống

Đã 69 năm trôi qua, khoảng thời gian cũng gần bằng 80 năm thực dân Pháp đô hộ Việt Nam trước đây mà theo ông Hồ Chí Minh là một giai đoạn tăm tối, kìm hãm sức phát triển của dân tộc Việt Nam.

Nhiều người từng vì lý tưởng yêu nước, mong muốn giành được quyền sống và ấm no hạnh phúc cho mọi người, đã nghe theo lời kêu gọi của Đảng, đóng góp hết sức mình cho công cuộc cách mạng, nhưng về cuối đời họ lại bị chính những đảng viên cộng sản hiện đang nắm chính quyền trù dập họ vì dám phản đối lại những việc làm bị cho là không đúng pháp luật, đi ngược lại quyền lợi của người dân.

Mới hôm cuối tháng 8 vừa qua, một cựu đảng viên với thâm niên 49 tuổi đảng, bà Ngô Thị Đức tại khu phố Trịnh Nguyễn, thị xã Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh, phải chặt một ngón tay trỏ để phản đối việc bức ép của công an buộc bà nhận tội gây rối trật tự khi cùng nhiều người khác lên tiếng phản đối một dự án xử lý nước thải nhưng sẽ gây hại cho cuộc sống người dân. Bà đưa ra nhận định về những đảng viên hiện nay như sau:

Trước kia đúng là một lòng một dạ, cùng đảng viên với nhau là như một phục vụ dân đến hơi thở cuối cùng. Bây giờ họ không nghĩ đến dân, họ coi thường dân, coi người dân như ‘cái rơm, cái rác’. Họ cho sống thì sống, có nghĩa bắt chết phải chịu! Chẳng hạn như ngày 18 tháng 6 năm ngoái, công an đánh dân, đánh người già, đánh trẻ con mà họ có ‘ấy’ đâu! Nhưng mà họ đánh dân lại không có tội. Công an được ăn, được học, được cơm gạo nông dân sản xuất ra nuôi, ‘manh cơm, tấm áo’ do dân đóng góp vào để làm thế nào phục vụ dân; nhưng bây giờ lại coi dân không ra gì.

Cứ nói thì hay nhưng thực hiện thì không đúng. Đơn giản như chuyện ‘uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây’ nhưng chỉ nói vài hôm vào ngày 27 tháng 7 thôi; chứ còn thực tế chả tạo điều kiện cho gia đình liệt sỹ gì cả. Như gia đình tôi khổ quá, năm ngoái cũng vì ‘nước thải’ này thôi mà giữ xe công nông mất 8 tháng. Bây giờ kinh tế không còn, chính trị mất hết, không có công ăn việc làm gì cả.

Một người dân Hà Nội suốt nhiều năm kêu oan vì bị lấy đất một cách phi pháp nhưng không được giải quyết, trái lại còn bị hành hung đánh đập đến ngã bệnh, bà Nguyễn thị Thanh Hương, nói về tình hình đất nước sau gần 7 thập niên được gọi là độc lập:

Chúng tôi sống và làm việc theo pháp luật nhưng không được pháp luật bảo vệ. Người dân sống không trông vào đâu được. Tài sản bị cướp, nhiều người bị đốt nhà, đánh đập như thế tại phường Hoàng Văn Thụ xảy ra bao nhiêu năm rồi, không ai giải quyết. Nhiều người đi khiếu kiện ức quá, bị nhồi máu cơ tim qua đời!

Tôi không hiểu sao phường Hoàng Văn Thụ, do ông chủ tịch Nguyễn Viết Cương, không có bằng cấp, không có học hành gì, cướp đất công xây nhà ba tầng, rồi dùng đất để đi biếu các lãnh đạo; cuối cùng hại dân. Sự việc rành rành các văn bản, bằng chứng rõ ràng mười mươi như vậy mà không có cấp nào của thành phố ( mà họ còn đồng lõa vào)… nên tôi không hiểu luật pháp của Việt Nam bây giờ như thế nào rồi!

Thực tế một người thương binh như tôi đã cống hiến một phần xương và máu thịt mà bị đối xử như vậy thì mọi người dân bình thường của Việt Nam bị đối xử như thế nào thì anh hiểu.
– Bà Lê thị Ngọc Đa

Bà Lê thị Ngọc Đa, một thương binh, nay là một dân oan và từng bị bỏ tù do khiếu kiện, bảy tỏ hối tiếc vì đã nghe theo cách mạng để tham gia hoạt động từ năm lên 9 tuổi:

Giờ nói tự do tôi không biết tự do theo kiểu gì, đi đâu cũng ‘tai mắt’ nhìn vào, điện tới điện lui, yêu cầu phải đăng ký thế này, thế nọ, thế kia.

Thực tế một người thương binh như tôi đã cống hiến một phần xương và máu thịt mà bị đối xử như vậy thì mọi người dân bình thường của Việt Nam bị đối xử như thế nào thì anh hiểu. Trừ trường hợp dòng họ của họ, ‘đảng dòng, đảng họ’ mà, đảng làm sao cho đông để giành.

So sánh với nước khác

Một số thống kê gần đây cho thấy Việt Nam tụt hậu cả nửa thế kỷ so với Thái Lan trong các công bố về khoa học. Trong lĩnh vực kinh tế, thu nhập bình quân đầu người tại Việt Nam hiện cũng tụt hậu so với các nước khác trong khối ASEAN. Cách đây 5 năm, báo cáo của Ngân Hàng Thế giới đưa ra số năm tụt hậu đó là 158 năm so với Singapore, 95 năm so với Thái Lan và 51 năm so với Indonesia…

Hồi tháng 2 vừa qua, thông tin cho biết Kampuchia sản xuất được ô tô, trong khi đó công nghiệp lắp ráp ô tô tại Việt Nam đến nay vẫn còn ì ạch.

Trong hội thảo nhìn lại nửa chặng đường phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011-2015 được tổ chức vào tháng 9 năm ngoái, các diễn giả tham dự đều đưa ra nhận định là Việt Nam ‘suy yếu, tụt hậu và khoảng cách kém cỏi như thế ngày càng xa so với thế giới’.

Cựu phó thủ tướng Vũ Khoan phát biểu tại hội thảo chính sai lầm chủ quan dẫn đến những bất ổn vĩ mô.

Trong những năm qua, nhiều vị trí thức trong và ngoài nước, ngay cả những đảng viên lão thành cách mạng cũng đã có những kiến nghị tập thể thúc giục đảng và nhà nước phải cải cách, từ bỏ con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa lỗi thời để theo xu thế chung của thời đại… Nhưng rồi những tiếng nói tâm huyết như thế vẫn không được lắng nghe. Đất nước vẫn mỗi lúc một kém cỏi thêm so với những nước mà trước đây họ đã từng ngưỡng mộ Việt Nam dưới thời Cộng hòa được mệnh danh ‘Hòn Ngọc Viễn Đông’.

ĐƯỜNG THÁNH GIÁ

ĐƯỜNG THÁNH GIÁ

Lm. Vinh Sơn, Sài Gòn.

Gr 20,7-9; Rm 12,1-2; Mt 16,21-27

Trong Sổ Tử của thành phố Paris –  thủ đô nước Pháp, người ta đọc thấy: Ông Gustave Busset, qua đời ngày 18 tháng 4 năm 1834. Người quá cố không có con cái nhưng để lại một số gia sản đáng giá. Đám tang ông, chỉ có vài bà con xa đến tham dự. Ngay tại nghĩa trang, họ bắt đầu tranh dành gia tài. Sau cùng, họ quyết định đem bán đấu giá tất cả đồ đạc, lấy tiền chia đều nhau. Ngày bán đấu giá, nhiều người cùng khu phố với ông Gustave Busset kéo nhau đến mua đồ, trong đó có chàng họa sĩ trẻ tên Pierre Piront. Anh rất nghèo, chỉ có tấm nệm rơm để ngủ. Từ lâu anh mơ ước chiếc giường êm nên để dành được 100 quan. Hôm nay dịp may đến. Anh mua cái giường của ông Gustave với giá 75 quan. Anh vẫn còn 25 quan. Khi anh lên nhận chiếc giường thì cùng lúc ấy, ủy viên bán đấu giá cúi xuống đất, nhặt lên Cây Thánh Giá nặng, bám đầy bùn đất dơ bẩn. Với giọng khàn khàn ông cất tiếng la to: “Ai trả bao nhiêu để mua vật này?”

Trong phòng im lặng như tờ. Bỗng vang lên tiếng nói chế nhạo: “Không trả xu nào hết!”. Mọi người cười rộ, như ngầm đồng ý. Chàng họa sĩ trẻ cảm thấy kinh ngạc trước thái độ vô thần hỗn xược của người đồng hương. Bằng một giọng run run vì cảm động, anh nói: Tôi xin trả 25 quan. Rất tiếc tôi chỉ có thế. Nếu có nhiều tiền, hẳn tôi sẽ trả với giá cao hơn!”… Đám đông lại ào ào chế nhạo. Một người đàn bà cao tuổi, chỉ ngón tay vào anh Pierre và nói: “Nó là tên ngu đần nhất trong tất cả các tên ngu đần!”.Tức khắc, mọi người trong phòng cùng nói lớn: Hoan hô bà già nói đúng!

Cuối cùng, cây Thánh Giá thuộc về anh Pierre Piront với giá 25 quan. Anh cảm động tiến lên nhận Cây Thánh Giá với trọn lòng kính cẩn yêu mến. Xong, anh ôm Thánh Giá rời phòng, trước các cặp mắt và lời nói chế diễu của mọi người hiện diện.

Về đến nhà, việc làm đầu tiên là vội vàng chùi rửa Cây Thánh Giá. Vừa lau, anh vừa âu yếm nói chuyện với Đức Chúa Giêsu Kitô – Đấng bị xúc phạm. Nhưng anh Pierre ngạc nhiên biết bao, khi vừa lau chùi xong, anh khám phá tên khắc bên dưới chân Thánh Giá. Với kính lúp, anh đọc: Benvenuto Cellini. Đây là tên của một thợ kim hoàn nổi tiếng người Ý. Lòng tràn đầy niềm vui, anh tiếp tục lau chùi thật kỹ lưỡng. Càng lau, càng chùi, anh càng khám phá ra Cây Thánh Giá và tượng Đức Chúa Giêsu Kitô bằng vàng ròng.

Anh Pierre Piront không còn bình tĩnh nữa. Anh lấy khăn bọc kỹ Cây Thánh Giá rồi chạy như bay tới tiệm kim hoàn gần đó. Anh nhờ chủ tiệm đánh giá cho phẩm vật của anh. Sau khi xem xét cẩn thận, chủ tiệm đánh giá toàn Cây Thánh Giá là 60.000 đồng vàng…

Câu chuyện đến tai vua Louis-Philippe I (1830-1848). Nhà vua cho gọi anh Pierre Piront đến và ca ngợi lòng dũng cảm, dám tuyên xưng Đức Tin Công Giáo của anh. Nhà vua cũng cho mở cuộc điều tra, để biết tại sao Cây Thánh Giá quý báu lại lọt vào tay cụ già Gustave Busset. Qua cuộc điều tra, người ta biết: “Vào năm 1531, vua Francois I nhờ nhà kim hoàn Benvenuto Cellini làm Cây Thánh Giá bằng vàng ròng. Sau đó, tác phẩm nghệ thuật tôn giáo được trưng bày tại điện Versailles. Khi cuộc cách mạng Pháp 1789 xảy ra, dân chúng tràn vào đập phá và ăn cắp của cải vật dụng trong điện Versailles. Có lẽ Cây Thánh Giá bị ăn cắp và bị bán đi với giá thật rẻ…”  Vua Louis-Philippe I đã mua lại Cây Thánh Giá với giá 60.000 đồng vàng và truyền gọi anh Pierre Piront vào làm việc trong hoàng cung. Nhờ cơ may, anh trau dồi, phát triển và tận dụng khả năng nghệ thuật của mình.

Để ghi nhớ biến cố ấy, anh Pierre Piront vẽ bức họa “Cây Thánh Giá bán đấu giá”. Bức họa trở nên một tuyệt tác, tháp tùng anh suốt cuộc đời và an ủi anh ở giây phút cuối đời.

Chọn lựa Thập giá, Chúa Giêsu đi vào cuộc khổ nạn, Ngài tiên báo về sự đau khổ mà Ngài phải đi, Ngài mời gọi các môn đệ của Ngài cùng đối diện với khổ đau qua lời mời gọi: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy”.

Đức Giêsu tiên báo về cuộc khổ nạn và lời mời gọi vác thập giá, trong bối cảnh: Ngài và các môn đệ cùng dân Do Thái tiến về Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua. Lên Giêrusalem là lên Đền thánh Thiên Chúa, luôn mang trong lòng sự hớn hở vui tươi được biểu lộ bằng những Ca khúc Lên đền gồm 15 Thánh vịnh ngắn từ 120 đến 134 (nhưng có lẽ Tv 132 không thuộc nhóm này), mang tâm tình tươi vui, được hát khi người Do Thái tiến lên đền thờ Giêrusalem vào 3 dịp lễ hành hương: Lễ Vượt Qua (Lễ bánh không men nhắc lại biến cố Xuất hành), Lễ Ngũ tuần (Lễ Mùa gặt để dâng của đầu mùa cho Giavê)  và Lễ Lều (Lễ Thu hoạch cuối năm để tạ ơn Giavê) (x. Xh 23,14-17; 34,22-23; Dnl 16,16)

“Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi:

“Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa!”  (Tv 121,1)

Tân ước kể lại cuộc hành hương hàng năm của Ðức Maria, thánh Giuse và trẻ Giêsu lên Giêrusalem (Lc 2,41). Tân ước cũng cho thấy Giêrusalem đã thu hút khách hành hương vào các dịp đại lễ (x. Lc 2,41-45; Ga 12,20; Cv 2,1-10). Các Tin Mừng đều tường thuật những lần hành hương của Ðức Giêsu lên Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua (x. Ga 2,13), lễ Ngũ tuần (Ga 5,1), lễ Lều (Ga 7,2-10). Tuy nhiên Phúc âm Nhất lãm tường thuật chuyến hành hương duy nhất của Ðức Giêsu lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt qua và trong dịp này, Ngài đã bị kết án vác và chết trên thập giá. Chuẩn bị bước hành trình về thành Thánh theo thánh ý của Chúa Cha, Đức Giêsu loan báo ba lần cuộc khổ nạn của Người (x. Mt 16,21; 17,22-23; 20,18-19). Hình ảnh đó đã được nói tiên tri trước bằng hình ảnh Người Tôi Tớ đau khổ mà Ngôn sứ Isaia đã phác họa: “Đức Chúa đã muốn Người phải bị nghiền nát vì đau khổ …. Nhờ nỗi thống khổ của mình, Người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện” (Is 53,10-11). Chúa Giêsu cho các môn đệ biết về bước đường đau khổ này qua cuộc tử nạn, Ngài nói về đường thập giá và mời gọi các môn đệ tiến bước theo.

Đứng trước lời tuyên báo về cuộc tử nạn, thái độ Phêrô: liền kéo riêng… bắt đầu trách … (Mt 16,22): Phản ứng của Phêrô là phản ứng khôn ngoan của con người khi đối diện đau khổ, đứng trước thập giá: sự lẩn tránh. Phêrô muốn thoả hiệp, thích nghi, chấp nhận buông xuôi theo những áp lực của sợ hãi, hoặc khuất phục trước quyền lực. Mới đây ông là gương mẫu của người tin (x. Mt 16,17), nay ông thành người tiếp tay cho Satan, bởi vì ông đã đề nghị cho Đức Giêsu một con đường như tên Cám Dỗ đã đề nghị thỏa hiệp khi Chúa bị cám dỗ ở trong hoang địa (x. Mt 4,1-11).

Chúa Giêsu trả lời Phêrô: Anh cản lối Thầy (Mt 16,23), nếu dịch sát nghĩa:  “Anh đang trở thành tảng đá  làm cho Thầy vấp”. Mới vừa tuyên xưng đức tin, Phêrô trở nên “tảng đá trên đó Thầy sẽ xây Hội Thánh”, bây giờ Phêrô, mang ý nghĩ suy luận của con người nên thành tảng đá “cản lối Thầy [làm cho Thầy vấp]”. Tảng đá xây Hội Thánh là niềm tin của Phêrô đặt nơi Đức Giêsu. Thiếu niềm tin, tảng đá  này trở nên cản trở công trình của Thiên Chúa.

Kinh nghiệm của Phêrô mang hình ảnh thân phận con người của chúng ta. Thật thế, chúng ta rất mong manh, dễ thay đổi, dễ chủ quan ảo tưởng là mình “trước sau như một”. Cho nên, chủ quan trong một tư tưởng thánh thiện có trước, phù hợp với tư tưởng của Thiên Chúa. Điều đó không bảo đảm là tư tưởng tiếp theo cũng thánh thiện, nếu chúng ta không quan tâm tìm biết ý muốn của Thiên Chúa.

Đức Giêsu quả quyết rằng đối với môn đệ của Ngài không có con đường nào khác con  đường thập giá:  “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình”. “Từ bỏ chính mình (Mt 16,24), nghĩa là bỏ cả khát vọng, những đòi hỏi chính đáng của mình mà nhận lấy khát vọng và đòi hỏi của người khác, ở đây chính là đòi hỏi của Thiên Chúa. Cho nên, không chỉ chiến thắng trên cám dỗ, mà còn bỏ ra sau những quyền lợi chính đáng của riêng mình. Để “đi (bước) theo” Đức Kitô (Mt 16,24): đồng nghĩa với “học với; làm môn đệ” (x. Mt 11,29), là bắt chước các phong thái của thầy, lặp lại những chọn lựa của thầy, tức là nối tiếp công trình mà thầy đã bắt đầu với biết bao hy sinh đau khổ…

Khi nghiền ngẫm lời tiên báo đau khổ, tử nạn và lời mời gọi vác thập giá vượt qua đau khổ và sự chết, chúng ta cảm thấy được an ủi và thêm sức mạnh giữa những lúc đương đầu với thử thách, gian nan, khủng hoảng và đau khổ. Vì vậy, chúng ta vẫn tiến bước trong cuộc sống và đối diện với đau thương mà mỗi người chúng ta luôn đối diện trong những nỗi đau của thể xác, hay nỗi đau về tâm hồn, có khi cả hai  nỗi đau về thể xác và tâm hồn…

Chúa Giêsu không chỉ loan báo cuộc khổ nạn mà còn loan báo cuộc phục sinh: “Ngày thứ ba sẽ sống lại”. Thật thế,  Đức Giêsu đến Giêrusalem chịu nhiều đau khổ và bị giết chết, nhưng Ngài sống lại ngày thứ ba như lời tiên báo, Ngài đã vượt qua bằng chiến thắng ở cuối con đường đau khổ. Khi chúng ta vác thánh giá theo Đức Giêsu, sự chiến thắng huy hoàng cũng dành cho người môn đệ trung kiên vác thập giá Chúa, Thánh Phaolô khẳng định: Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người (Rm 6,8). Đức Kitô đã chiến thắng sự dữ, chiến thắng đau khổ, chiến thắng sự chết và cho phép chúng ta cùng Ngài vượt qua đau khổ, vượt qua sự chết như Ngài: “Ngày thứ ba Người sẽ sống lại”.

Cho nên, chúng ta vác thập giá theo Chúa Kitô, không phải giữ mãi đau khổ, đi vào con đường chết, nhưng với Ngài xuyên qua đau khổ, vượt qua sự chết mà đến vinh quang, vì thế thánh Phaolô xác tín:  “Vinh dự của tôi là thập giá Chúa  Kitô”  (Gl 6,14).

Lm. Vinh Sơn, Sài Gòn.

Hãy theo tôi!

Hãy theo tôi!

Chuacuuthe.com

VRNs (31.08.2014) – Follow me! Hãy theo tôi!

Sự đời thì: Hãy theo tôi, tôi sẽ cho bạn được danh vọng! Hãy theo tôi, tôi sẽ cho bạn được giàu sang! V.v…và v.v…

Không ai lại ngược đời như Đức Giêsu Kitô: “Ai muốn theo Tôi thì phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mà theo!”

Thế thì sung sướng gì mà theo cơ chứ? Theo mà phải đón lấy khổ giá, bỏ đi chính bản thân, có mà điên chăng?

Sự đời nó thế! Nhưng vì là Kitô hữu – người mang Chúa Kitô, bạn và tôi phải là những người lội ngược dòng đời, phải là những người điên theo cách hiểu của thế gian. Bởi vì bạn và tôi là những người được gọi – qua Bí tích Rửa tội, như chính Chúa đã gọi các môn đệ ngày xưa: “Hãy theo Tôi!”

Đã là con người, ai cũng muốn có được một cuộc sống sung sướng hạnh phúc, một cuộc sống dễ dãi tiện nghi. Nhưng nếu thế thì ai là người phải chịu thiệt thòi đau khổ, ai là người phải thiếu thốn đói khát thay cho chúng ta? Bởi vì định luật tự nhiên của một kiếp người: “đời là bể khổ” mà!

Không ai trong cuộc sống mà không thiếu những khổ đau, thập giá. Nhưng với người ngoài Kitô giáo, đa phần họ thường than vãn cuộc đời, oán trời trách đất, đổ cho người này kẻ kia là nguyên nhân, mang đến khổ đau cho họ.

Còn chúng ta – những môn đệ theo Chúa Kitô, chúng ta phải xác tín rằng những đau khổ, thập giá trong cuộc đời là những phương tiện hữu ích Chúa gởi đến để giúp chúng ta nên thánh, cho chúng ta được góp phần vào với Thánh giá Chúa, hầu mang ơn cứu độ đến cho bản thân và cho các Linh hồn. Xác tín được như thế để chúng ta không trốn chạy thập giá, nhưng vui vẻ đón nhận, vác lấy trong sự trợ giúp của Đức Giêsu Kitô Tử nạn. Đừng như Thánh Phêrô: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy”, để rồi Chúa phải khiển trách nặng nề, vì “tư tưởng đó là của loài người chứ không phải của Thiên Chúa”.

Bạn và tôi, chúng ta có muốn thuộc về Chúa không, có muốn mang tư tưởng của Chúa không? Nếu muốn, chúng ta phải biết lội ngược dòng đời. Vì nếu không lội ngược dòng đời, cứ mãi tìm kiếm những gì sung sướng hạnh phúc ở đời mà thôi, thì hãy coi chừng! Chúa đã nói rất rõ: “Được cả thế gian mà thiệt mất sự sống, nào được ích gì?” Giữa được và mất, bạn và tôi hãy sáng suốt lựa chọn!

Hãy đừng như những người duy vật, chỉ biết vật chất mà bất kể linh hồn, chỉ biết hôm nay mà bất kể tương lai. Ai trong chúng ta rồi cũng có ngày phải ra đi, chưa biết lúc nào Chúa sẽ “thương gọi về”. Hành trang chuẩn bị cho chuyến ra đi đó, nếu có nhiều thập giá trong đó, chắc chắn Chúa sẽ thưởng công xứng đáng, như Ngài đã kết thúc bài Tin mừng hôm nay (Chúa nhật 22 QN): “Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng với việc họ làm”.

Gieo trong đau thương, sẽ gặt giữa vui mừng!

Thánh Gioan Maria Vianney, Thánh Maximilianô Maria Kolbê, và gần đây nhất, ruột thịt với chúng ta nhất: Đức Hồng y FX. Nguyễn Văn Thuận đều là những người con điên, những vị đã lội ngược dòng đời. Để rồi hôm nay, các Ngài đều là những vị Thánh.

Xin các Ngài cầu thay nguyện giúp cho mọi người chúng ta!

Micae Hữu Liên

Con ong tài ba hơn các nhà khoa học?

Con ong tài ba hơn các nhà khoa học?

Chuacuuthe.com

VRNs (01.09.2014) – Sài Gòn – Học đạo là một trong ba chân kiềng quan trọng của việc sống đạo đối với tất cả mọi Kitô hữu ở khắp nơi trên thế giới nói chung, và với mỗi Cursillista (người đã học khóa ba ngày) của Phong trào Cursillo nói riêng. Kiềng ba chân đó là: Sùng đạo, Học đạo và Hành đạo. Bởi lẽ, nếu ta không học hỏi liên tục hầu hiểu biết về quyền năng tuyệt đối, và lòng yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa đối với chúng ta để chúng ta  có lòng tin tưởng sắt son, mạnh mẽ nơi Ngài thì làm sao ta có lòng Cậy trông, và đặc biệt là lòng Yêu mến Thiên Chúa được.

Ông bà ta đã nói: “Vô tri bất mộ” là như thế. Và hơn nữa, sự học không có trang cuối cùng. Càng học trí tuệ càng được mở mang, và ta lại càng nhận rõ hơn mình quá nhỏ bé trước vũ trụ bao la này. Sự học giúp ta biết mình hơn, biết người hơn, và biết khiêm tốn hơn.

Thánh Vịnh chương 19 (18) câu 2 đã dạy chúng ta: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay người làm”.

Câu Thánh Vịnh trong Kinh Thánh thật ngắn gọn, nhưng hàm chứa ý nghĩa bao la, sâu thẳm đã mời gọi chúng ta cùng ra sức tìm hiểu để thấy được phần nào quyền năng vô biên, và vinh quang cao cả của Thiên Chúa ở ngay trong các tạo vật, do Ngài yêu thương con người mà tạo dựng.

Trong ý hướng đó, trang viết này dành để tìm hiểu một số điều kỳ thú nơi loài ong. Chúng ta biết được bao điều kỳ diệu lạ lùng, thú vị của loài ong là nhờ vào những theo dõi, nghiên cứu, khám pha với bao khổ cực, hy sinh nhiều năm tháng, có khi mất cả đời người của bao người, và các nhà khoa học khắp nơi trên thế giới từ bao đời nay.

Tổ chức đời sống trật tự và “Qui trình dân chủ tối ưu” của loài ong

Tổ chức đời sống trật tự của loài ong

140832009

Ong, loại côn trùng được coi là có tổ chức xã hội cao nhất, hơn cả kiến, mối, mọt. Chúng sống theo đàn, mỗi đàn khoảng từ 25.000 đến 50.000 con. Mỗi đàn chỉ có một con ong chúa, mấy chục ngàn ong thợ, ong đực chiếm khoảng 1% đàn ong, ong non..

Ong chúa cánh ngắn, thân to hơn các loại ong khác, và chỉ có nhiệm vụ đẻ trứng. Trung bình ong chúa đẻ 1500 trứng ong thợ một ngày. Ong chúa chọn ngày thích hợp đẻ ong đực non, và ong chúa non, chuẩn bị tạo vương quốc mới. Ong chúa sống từ 3 đến 5 năm.

Ong thợ thân nhỏ, cánh dài, đông nhất trong đàn, có nhiều nhiệm vụ khác nhau: làm tổ, bảo vệ và giữ điều hòa nhiệt độ tổ từ 33 đến 35 độ C, nuôi ong con, thám thính, tìm vùng có hoa lấy mật, tạo ra mật…

Ong đực không phải làm gì cả, chỉ ra khỏi tổ một lần đuổi theo ong chúa để gieo tinh. Con nào khỏe nhất bay theo kịp ong chúa được giao phối với ong chúa rồi sau đó cả đàn ong đực đều chết hết vì bị bỏ đói.

Hành trình tạo vương quốc mới “chia bầy”,và “qui  trình dân chủ tối ưu”.

Một công trình nghiên cứu thú vị của Thomas Seeley thuộc trường Đại học Cornell (Hoa Kỳ) về tiến trình chia bầy của loài ong khi đàn ong quá đông đã cho ta biết:

Đầu tiên, vài trăm con ong trinh sát tỏa ra các hướng để tìm địa điểm xây tổ thích hợp.

Tiêu chuẩn chọn lựa, ong thường chọn hốc cây rỗng hướng nam, to khoảng hơn 20 lít, ở trên cao cách mặt đất trên 3 met, miệng hốc không quá 30 cm vuông.

Vũ điệu báo tin của ong. Giải thưởng Nobel về Sinh lý và Y khoa năm 1973 đã trao cho 3 nhà khoa học là Karl Ritter Von Frisch (1886-1982), Nikolaas Tinbergen và Konrad Loenz đã cho ta biết loài ong có thể báo các  thông tin  qua các vũ điệu.

Với những vũ điệu khác nhau của ong thám thính vũ trước tổ, đàn ong sẽ nhận ra  khoảng cách từ tổ đến nơi có hoa; các đặc điểm của nơi có thể làm tổ mới …. Bầy ong lại cử từng đoàn đi kiểm tra lại. Những đoàn thám thính tự rút lui khi nhận thấy nơi nhóm mình giới thiệu thua kém các nhóm khác.

Cuối cùng chỉ còn một địa điểm duy nhất được đàn ong thống nhất chọn lựa, không có sự tranh chấp dành dật. Tất cả diễn ra không quá 16 giờ. Sau đó một nửa đàn ong do một ong chúa dẫn đi, một nửa ở lại với một ong chúa đã trưởng thành.

Ong tài ba hơn các nhà toán học, nhà vật lý học, nhà hóa học và nhà kiến trúc

Quan sát tổ ong

Nhìn vào miệng các tổ ong ta thấy, đó là vô số hình lục giác đều (sáu góc, sáu cạnh) được con ong xây dựng liền nhau, mỗi cạnh đo được khoảng  2,7 mm, cạnh chiều sâu mỗi khối lục lăng đo được 11,3 mm. Miệng tổ ăn thông với một khối hình lục lăng. Con ong đã được bẩm sinh làm như thế. Đây quả là một điều kỳ diệu. Nhưng điều kỳ diệu đó còn lạ lùng hơn khi quan sát và đo lường các đáy chung của các khối lục lăng tổ. Các đáy của các khối lục lăng đó không phẳng như miệng tổ; đáy tổ là sự kết hợp của ba hình thoi bằng nhau.

Năm 1712 nhà khảo cứu Maraldi người Ý đã đo được như sau: góc tù hình thoi ở đáy tổ ong là 109 độ 28 phút; góc nhọn là 70 độ 32 phút (Phỏng theo tài liệu Giáo sư Hoàng Xuân Hãn 1908- 1996; HXH tập I trang 1044, và Bachkhoatrithức. VN).

Giải bài toán: thể tích lớn nhất mà diện tích xung quanh nhỏ nhất.

Bài toán có thể tóm tắt như sau: “hãy làm một cái bình theo hình thù như thế nào để chứa được nhiều nước nhất, mà lại tốn diện tích xung quanh ít nhất. Nhiều bình ghép lại chiếm không gian ít nhất?” (hai nhà Vật lý học Réaumur và Leomiule người Pháp đưa ra).

Bài toán trên đã như một thách đố lớn với các nhà toán học trên thế giới. Nhiều nhà toán học đã sử dụng các phép tính cao cấp để tìm kết quả.  Sau nhiều thập niên nghiên cứu, họ đã thống nhất với nhà toán học Kenige người Thụy Sỹ là phải làm cái bình  đúng như tổ ong đã mô tả trên thì chứa được nhiều nước nhất, và tốn diện tích xung quanh nhỏ nhất; chứ không phải khối vuông, khối ống, khối cầu hay khối tam giác…Bởi vì, nếu muốn có một miệng tổ rộng 20 mm vuông như tổ ong, mà làm theo hình tam giác đều thì chu vi mất 20,4mm; làm theo hình vuông thì chu vi mất là 17,9m; làm theo hình lục lăng đều của ong thì chu vi chỉ mất 16,6mm. Các khối ống và khối cầu khi ghép với nhau có nhiều khe hở tốn diên tích, nên không được tính đến.

Kenige cho biết chỉ có một chút khác biệt là góc tù và góc nhọn của ba hình thoi ở đáy tổ ong là 109 độ 28 phút và 70 độ 32 phút thì các nhà toán học tính là 109 độ 26 phút và 70 độ 34 phút. Nhà toán học Kenige kết luận con ong sai 2 phút ở góc tù và nhọn ở 3 hình thoi đáy bình chung.

Năm 1743 nhà toán học người Anh Colin Maclaurin đã tính lại, kết quả cuối cùng hoàn toàn đúng với số đo hai góc của tổ ong như nhà khảo cứu người Ý Maraldi đã đo năm 1712. Lý do Kenige tính sai 2 phút là vì ông dùng bảng Logarithme có số lẻ sai (nguồn: Phỏng theo sách 10 vạn câu hỏi vì sao, nhà xuất bản Mỹ Thuật).

Từ kết quả đo lường trên, các nhà khoa học kết luân phải làm bình đúng như tổ ong sẽ tốn ít diện tích và không gian nhất, mà chứa được thể tích lớn nhất.

Ngoài ra, các nhà khoa học còn cho biết, xây dựng theo khối lục lăng của tổ ong sẽ bền vững nhất, khi có các tác động lực bên ngoài vào tổ. Trong lúc, lực tác dụng vào các hình khối khác thường bị biến dạng và có khuynh hướng biến thành khối lục lăng như loài ong đã làm.

Còn sáp ong được chế tạo ra sao lại là một chuyện lạ nữa! Con ong hút mật vào bụng, sau một ngày một đêm, những hạch sáp ở bụng ong biến hóa mật ong thành sáp rồi tiết ra 4 đôi hạch sáp ở dưới bụng. Sáp được miệng ong nhào nặn, khi ra không khí sáp này trở nên dẻo quánh để đắp tổ ong. Cứ 3kg mật và ít phấn hoa tạo ra 1 kg sáp. Sáp ong là môi trường tinh khiết nhất, kháng khuẩn mạnh nhất. Việc mật ong hóa sáp khiến ta liên tưởng tới con tằm chỉ ăn lá dâu vào trong bụng, mà tạo ra sợi tơ vàng óng ánh cho ta những nén tơ đẹp đẽ giá trị (Nguồn: USAPHA chuyên gia về ong mật).

Mật ong có công dụng ra sao lại là một chuyện dân gian không bao giở kể hết, nào là giúp trẻ còi mau lớn, chữa ho, đau bao tử, chữa lành vết thương… Chính Tiến sỹ Phùng Hữu Chính, Giám đốc Cty ong miền núi cho biết: mật ong có trên 180 chất gồm đường đơn, protein, axit amin….Mật ong và sáp ong có khả năng kháng khuấn kỳ diệu. Người ta đang tìm hiểu hơn 1143 loài thực vật và hoa mà loai ong ưa thích thường lui tới để hút nhụy hầu tìm ra loài cây, loài hoa  nào kháng khuẩn cao nhất.

Loài ong được thiên phú làm như thế theo bản năng chứ ong đâu có trí khôn học hành gì như các nhà khoa học. Như thế, ong quả thực đã hơn cả các Thần Đồng Toán học, Thần Đồng Vật lý, Thần đồng Hóa học , Thần Đồng Kiến trúc và các khoa học khác!

Con người ngày nay đã vận dụng những ưu điểm của tổ ong vào việc xây dựng hiện đại trong thiết kế cánh máy bay, vách vệ tinh, tầu con thoi hay vô số cấu trúc trong nhà, đồ nội thất, gia dụng, thiết bị văn phòng, điện tử và các sản phẩm khác (Nguồn: Báo Nông Nghiệp VN 13-11-2013).

Dẫu nhân loại ngày nay đã tiến bộ nhiều, nhưng hiểu biết của loài người trước vũ trụ muôn loài do Thiên Chúa tạo dựng mới chỉ như một giọt nước giữa đại dương; một hạt cát trong sa mạc; một chiếc lá giữa rừng cây.,.

Inhaxio Đặng Phúc Minh

Chuyện Anh Bốn Thôi & Chị Phạm Thị Lành

Chuyện Anh Bốn Thôi & Chị Phạm Thị Lành

RFA

S.T.T.D  Tưởng Năng Tiến

Việt Nam dứt khoát không để vỡ nợ.

T.T. Nguyễn Tấn Dũng

Tôi đọc đi, đọc lại tập tuỳ bút mỏng (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của nhà văn Nguyễn Khải vài ba lần. Lý do, một phần, có lẽ vì ông viết hơi cô đọng và (phần khác) vì ông có quan tâm ít nhiều đến tình cảnh của đám thường dân vô danh và bé nhỏ – cỡ tôi:

“Người dân ở đâu cũng thế, đều muốn có một cuộc sống bình yên, được tính việc cá nhân và gia đình trong một khoảng thời gian dài, một trăm năm chẳng hạn, không có những thay đổi lớn trong lối sống, trong công ăn việc làm, trong các giá trị, đặt biệt là giá trị của đồng tiền. Chứ cứ phải sống mãi từ năm này qua năm khác trong các phong trào cách mạng, lúc chống tả lúc chống hữu, những hội nghị toàn quốc và địa phương nối nhau không dứt, những hô hào la hét từ trong nhà ra ngoài đường như một lũ hoá rồ, các quan hệ xã hội và các giá trị thay đổi soành soạch thì còn biết đằng nào mà sống…”

Những dòng chữ thượng dẫn, thốt nhiên, lại khiến tôi nhớ đến anh Bốn Thôi trong một tập tuỳ bút khác (Lại Thư Nhà) của nhà văn Võ Phiến:

Anh Bốn Thôi mồ côi cha mẹ, từ nhỏ sống với chú thím. Chú thím anh ta không có con, nên thương mến cháu. Anh chịu chăm chỉ tập làm công việc, nhưng tính thực thà ít lời…

Anh chỉ có niềm tin ở cái quây quần ấm áp của một nhóm vợ con. Trong đời anh đã trầy lên trật xuống, nhục nhã nhiều phen vì vợ con, rốt cuộc là để gầy ra cái tập thể nhỏ bé, trong đó anh cảm thấy yên tâm, không cần biết đến cuộc sống mênh mông. Trong đó anh cũng cảm thấy đầy đủ; dù sống dù chết, anh không muốn rời xa nó…

Thế mà rồi mãi anh ta vẫn không được yên. Lớn lên, gần như hồi nào anh cũng phải cầm vũ khí trong tay: anh né viên đạn của bên này, tránh viên đạn của bên kia, đỡ ngọn roi của bên nọ… Và anh cũng lại đánh trả nữa. Và nét mặt anh thì lúc nào tuồng như cũng rầu rầu, nguội lạnh như của một người ngoại cuộc.

Vậy mà những hoạt động của anh đã làm ra tình hình của xứ sở. Ở Hoa-thịnh-đốn, ở Mạc-tư-khoa, ở Bắc Kinh, Tân Đề-li, Vọng-các, Ba-lê v.v… ở khắp các nơi trên thế giới người ta theo dõi anh, bàn tán về anh. Người ta đem anh ra so sánh với người dân Đức ở Bá-linh, người dân Lào ở Vạn Tượng…, người ta dòm ngó, dò xét cử chỉ của anh, cân nhắc, đánh giá sự can đảm của anh, tài nghệ của anh. Xung quanh hành động anh chắc chắn có những cuộc mặc cả, những trù hoạch bố trí, những mưu mô âm thầm giữa nước này nước nọ. Và cũng có cả những lời hô hào, cổ võ, những tuyên bố lớn tiếng về nhiều vấn đề quan trọng, lý tưởng cao đẹp.

Là công dân của một đất nước đã từng anh dũng đánh thắng mấy đế quốc to,và trở thành lương tâm của thời đại nên anh Bốn Thôi tất bật và vất vả không ngừng (“hồi nào anh cũng phải cầm vũ khí trong tay: anh né viên đạn của bên này, tránh viên đạn của bên kia, đỡ ngọn roi của bên nọ…”) thì cũng phải (giá) thôi!

Nhân loại có biết bao kẻ đã ước ao, khao khát được trở thành dân Việt cơ mà? Chỉ hiềm rằng trong số những người này không ai biết được rằng cuộc sống của Bốn Thôi hoàn toàn và tuyệt đối không có gì vui – theo như nhận xét của nhà văn Nguyễn Mộng Giác:

“Đấy, cuộc đời của Bốn Thôi, nhân vật tiêu biểu nhất của Võ Phiến. Người nông dân cục mịch có nét mặt buồn hiu lạnh lẽo, thiếu hẳn sự vồ vập mãnh liệt nhưng trong lòng, chất chứa không biết bao nhiêu khát vọng tội nghiệp. Người nông dân ấy không có cái bề ngoài coi được. Anh xấu trai, nghèo nàn, chậm chạp, vụng về. Thú vui độc nhất cho cả một kiếp đời dài là trưa trưa, tìm một chỗ dừng chân thật tịch mịch, nghếch mũi lên không mơ màng mằn mò nhổ từng sợi lông mũi … ‘Tiểu thế giới’ của Bốn Thôi, sao mà buồn quá đỗi!”

Nguyễn Khải, Nguyễn Mộng Giác đều đã đi vào cõi vĩnh hằng. Võ Phiến thì chả cần bận tâm gì đến những chuyện phù thế nữa. Còn lớp người Việt kế tiếp nông dân Bốn Thôi thì sống cũng không khác xưa là mấy. Tuy không còn phải “né viên đạn của bên này, tránh viên đạn của bên kia, đỡ ngọn roi của bên nọ” như trong thời chiến nhưng cuộc sống của họ (xem ra) cũng không được an lành hay yên ổn gì cho cho lắm – nếu chưa muốn nói là vất vả, bầm dập, te tua, và tơi tả.

Chị Phạm Thị Lành có thể được coi như lớp con cháu của Bộn Thôi thời hậu chiến – theo như tường thuật của báo Dân Việt, số ra ngày 29 tháng 12 năm 2011:

Vợ chồng chị Lành trước đây sống cùng mẹ ruột là bà Phạm Thị Thèm trong một căn nhà cũ nát rộng chỉ 27m2, dựng nhờ trên đất của một người thân ở xã Long Khánh A, huyện Hồng Ngự, Đồng Tháp.

Hai người anh trai của chị Lành, một người bị tâm thần, một chết sớm trong khi các chị dâu lại bỏ đi, để lại đến 6 đứa bé côi cút cho bà Thèm và chị Lành nuôi dưỡng. Do bà Thèm đau ốm liên miên lại không có đất sản xuất nên vợ chồng chị Lành đang tính tới phương án đưa đại gia đình lên Bến Lức hành nghề bán vé số…

Không có đất sản xuất, đã đành. Vợ chồng chị Lành – tất nhiên – cũng không có học vấn, nghề nghiệp hay vốn liếng gì ráo trọi. Họ cũng trơ trụi y như Bốn Thôi ngày trước, dù đất nước không còn có nhu cầu phải đánh thắng một đế quốc to nào nữa. Bởi vậy, hai người  mới phải “tính tới phương án đưa đại gia đình lên Bến Lức hành nghề bán vé số” thay vì cầm cố chạy chọt để có được những cách mưu sinh “qúi phái” hơn: lao động xuất khẩu hoặc làm ô sin ở Đài Loan hay đâu đó.

Chị Phạm Thị Lành. Ảnh: Dân Việt

Tuy nhiên, trong cái rủi của chị Phạm Thị Lành lại có cái may – vẫn theo tường thuật của phóng viên Hữu Danh, báo Dân Việt:

Dư luận Long An đang xôn xao với thông tin một người bán vé số nghèo đưa cho khách 10 tờ vé số trúng thưởng 6,6 tỷ đồng để nhận lại 200 ngàn đồng tiền xổ số, dù khách chỉ “mua thiếu qua điện thoại. Khoảng 16 giờ ngày 15.11, còn hơn 20 vé bị ế nên chị gọi điện thoại cho mối quen là anh Đỗ Ngọc Tuấn, 41 tuổi, ngụ khu phố 2, đường Bà Chánh Thâu, thị trấn Bến Lức, huyện Bến Lức – hành nghề chạy xe ba gác – nài nỉ mua dùm. Anh Tuấn đồng ý mua 20 tờ, gồm ba số khác nhau. Gọi là “mua” nhưng chỉ là nói qua điện thoại, anh Tuấn cũng chưa trả tiền.

Chiều cùng ngày, lốc vé 10 tờ của công ty XSKT tỉnh Bến Tre mang dãy số đuôi X91207 trúng đặc biệt 4 tờ, trúng an ủi 6 tờ. Nhiều đồng nghiệp bán vé số bảo người mua chưa trả tiền, coi như chưa mua và nói chị Lành toàn quyền định đoạt “số phận” 10 tờ vé số với trúng thưởng với giá trị lên đến gần 7 tỷ đồng này.

Tuy nhiên, chị Lành gạt phăng và cho rằng anh Tuấn là một trong những khách hàng thường xuyên mua vé số ủng hộ chị. Rất nhiều lần anh mua qua điện thoại và dù không trúng lần nào nhưng anh vẫn trả tiền sòng phẳng. Do đó, không thể vì tiền mà chị đánh mất chữ tín.

Ngay lập tức, chị bấm điện thoại gọi anh Tuấn đến quán cà phê để bàn giao số trúng. Cảm kích trước lòng tốt của người bán vé số, anh Tuấn đã tặng 1 tờ trúng giải đặc biệt cho người bán vé số nghèo.

Hôm đó tôi để dành cho mình một tờ, lại được tặng thêm một tờ nên đổi thưởng được gần 3 tỷ đồng. Số tiền này, vợ chồng tôi đem về quê cất nhà mới cho mẹ, số còn lại gửi ngân hàng lấy lãi nuôi các cháu…

Định mệnh, rõ ràng, đã mỉm cười với gia đình Phạm Thị Lành. Cũng như bao nhiêu người khác, tôi đã âm thầm chia vui cùng chị và niềm vui này âm ỉ mãi cho đến sáng nay – trước khi đọc qua  nghiên khảo của Hurun Consulting Group tại Thượng Hải, do tiến sĩ Alan Phan sưu tập và phổ biến trên trang nhà của ông –  vào hôm 21 tháng 8 vừa qua:

“Có 64% nhà giàu tại Trung Quốc đã và đang lên kế hoạch để xin di cư ra nước ngoài. Nhà giàu được định nghĩa là có tài sản hơn 12 triệu RMB (hay khoảng 1.8 triệu USD). Điểm đến mong ước? Mỹ (52%), Canada (21%), Úc (9%) và châu Âu (7%). Hai phần ba số người trên sẵn sàng bỏ quốc tịch Trung Quốc.

Trong 5 năm vừa qua, nhà đầu tư Trung Quốc đã đổ 18 tỷ USD vào địa ốc Mỹ và 8 tỷ chỉ trong 2013. Theo Wealth Insight qua tin của CNBC, người Trung Quốc hiện đang nắm giữ 685 tỷ USD trị giá tài sản tại nước ngoài (không tính đến những đầu tư chính thức của công ty quốc doanh hay tư doanh của Trung Quốc có giấy phép).

Ảnh lấy từ: gocnhinalan.com

Alan Phan cũng ghi lại đôi lời tâm tình của một người bạn đang ở “đỉnh cao” của giới thượng lưu ở Trung Hoa, khi Shangai đang vào lúc hôn hoàng:

“Tôi không biết là kinh tế Trung Quốc đến lúc nào thì vỡ trận? Nhanh hay chậm, nhưng chắc nó sẽ đến. Có quá nhiều bất cập và scandals đang được dấu kín bởi nhiều phe quyền lực mà sẽ được phơi bày trong các cuộc tranh chấp. Dù mang tiếng là tỷ phú, nhưng tôi biết mình chỉ là con tốt thí, cá nằm trên thớt, và tai họa luôn đe dọa.”

…..

“Tôi đã cho gia đình qua Mỹ định cư rồi. Chỉ còn một thân một mình và chỉ cần 30 phút thông báo là tôi biến khỏi Shanghai. Chúng tôi bỏ đi nhưng vẫn yêu xứ sở này vô cùng. Không khí, thực phẩm nhiễm độc, người dân ngu xuẩn và vô văn hóa, quan chức tham lam và ăn cướp…nhưng đó chỉ là chuyện nhỏ. Chuyện quan trọng là với những người giàu có, quyền thế như chúng tôi mà còn cảm thấy bất an thường trực…thì người dân nghèo túng ngoài kia sẽ thấy thế nào. Một ngày gần đây, sức ép sẽ làm vỡ tung nắp đậy…và như anh hay nói…God help.”

Thượng Hải và Bến Lức cách nhau xa lắm. Tài sản và địa vị của ông tỉ phú Shangai so với chị Phạm Thị Lành cũng vậy. Dù vậy, họ có cùng chung một môi trường sống bất minh và bất an cùng “với tai hoạ luôn luôn đe doạ” như nhau – theo như ghi nhận của tác giả Nguyễn Thiện Nhân, trên diễn đàn Việt Nam Thời Báo:

“Báo cáo Kiểm toán Nhà nước vừa “bêu’ tên những doanh nghiệp nhà nước (DNNN) lỗ khủng tới mức báo động đỏ, và danh sách các công ty kinh doanh tới mức âm vốn chủ sở hữu. 5/50 công ty do Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đầu tư thua lỗ 3.702 tỷ đồng, 11/31 công ty do Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đầu tư thua lỗ 6.342 tỷ đồng, 7/24 công ty do Tổng công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị (UDIC) đầu tư lỗ lũy kế 339,6 tỷ đồng; 6/57 công ty thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) lỗ 118,3 tỷ đồng…

Dự án boxite Tây Nguyên (Nhân Cơ và Tân Rai) vẫn tiếp tục lỗ lã, dự kiến năm 2014 sẽ lỗ trên 500 tỷ đồng và còn tiếp tục lỗ tương đương trong 2015.

Kinh tế ảm đạm, thất nghiệp gia tăng, vật giá leo thang, thâm hụt ngân sách, nguy cơ vỡ nợ ngân sách…là bức tranh kinh tế từ đây đến hết 2015 và có khả năng làm đổ vỡ nền kinh tế trước thềm Đại hội XII của Đảng.”

Khi “kinh tế Trung Quốc đến lúc nào thì vỡ trận” thì “chỉ cần 30 phút thông báo” là ông bạn của tiến sĩ Alan Phan sẽ biến khỏi Shangai, sau khi đã chuyển hết tiền ra nhà băng ở nước ngoài còn chị Phạm Thị Lành thì không thể làm như vậy. Chị không thể rời Bến Lức, và e rồi cũng sẽ mất trắng số tiền nhỏ nhoi đã mang “gửi ngân hàng lấy lãi nuôi các cháu!”

Tôi chỉ còn biết cầu mong sao thời gian qua “các cháu” đã tạm đủ lớn để cũng có thể bán vé số tự nuôi thân thôi. Chứ ở Việt Nam, hiện nay, đám thường dân như chúng tôi còn biết mưu sinh bằng cách nào khác nữa?

Chia tay Thương xá Tax

Chia tay Thương xá Tax

“Nếu anh bắn vào quá khứ bằng khẩu súng lục,

tương lai sẽ bắn lại anh bằng một khẩu đại bác”

Bất cứ cuộc chia tay nào cũng mang theo nhiều luyến tiếc. Chia tay giữa người và người thường mang những kỷ niệm riêng tư, những giây phút bên nhau bỗng chốc trở thành kỷ niệm. Nếu như có cơ hội gặp lại nhau thì người xưa đã trở thành “cố nhân” trong muôn vàn khuôn mặt.

Không phải chuyện chia tay chỉ xảy ra giữa người và người. Có những cuộc chia tay ngoài ý muốn và mang tính cách rộng lớn hơn của nhiều người với nơi mình đã sinh sống, thậm chí còn chia tay với cả một đất nước khi phải bỏ xứ ra đi.

Trong bài viết này, tác giả không nói đến những cuộc chia tay như vậy mà chỉ bàn đến sự chia tay Thương xá Tax của những người Sài Gòn đã từng, không ít thì nhiều, gắn bó với một địa điểm thường lui tới tại trung tâm thành phố có tên gọi “Hòn ngọc Viễn Đông”.

Tôi biết đến Thương xá Tax từ năm 1953 khi gia đình từ miền Bắc di cư vào Nam thời Đệ nhất Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Tax đã hiện diện tại Sài Gòn từ năm 1880 trong thời Pháp thuộc với cái tên “Cửa hàng Charner” (Grands Magasins Charner – GMC) tại góc của hai con đường Charner (Nguyễn Huệ ngày nay) và đường Bonard (Lê Lợi).

Những cái tên đường “rặt Tây” như Charner, Bonard được chính phủ Bảo hộ đặt từ năm 1865 để vinh danh Đô đốc Hải quân Pháp, Léonard Victor Joseph Charner (1797-1869) và Louis Adolphe Bonard (1805 – 1867), là những người có liên quan đến việc chinh phục Đông Dương của quân đội Pháp.

Trước đó, đường Bonard mang một cái tên rất bình dân: “Đường 13”. Đó chỉ là một con đường trong một xóm nhỏ mà cư dân địa phương thời đó gọi bằng một cái tên cũng dân dã không kém: “Xóm Thơm”.

Mãi đến năm 1955, Ban Quản lý Định cư dưới thời Tổng thống Diệm mới đổi tên đường Charner thành Nguyễn Huệ, đường Bonard trở thành Lê Lợi. Hai tên đường từ đó mang tên các danh nhân Việt thay thế những ông tướng Pháp và rất may, Nguyễn Huệ – Lê Lợi vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.

Vị trí của “Cửa hàng Charner” (Grands Magasins Charner – GMC) thời Pháp thuộc

“Cửa hàng Charner” do “Công ty Thuộc địa các Nhà hàng lớn” (Société Coloniale des Grands Magasins – SCGM) xây dựng với số vốn ban đầu 12 triệu franc sau lên đến 30 triệu vào năm 1925.

Ban đầu, mặt tiền của tòa nhà Grands Magasins Charner, thường được gọi tắt là GMC, có gắn tháp đồng hồ theo kiến trúc của Pháp nhưng pha trộn những đường nét Á Đông với mái cong trên tháp.

Mặt tiền của GMC với tháp đồng hồ

GMC tọa lạc tại vị trí đẹp nhất của trung tâm Sài Gòn, kinh doanh các mặt hàng mà thời Pháp thuộc gọi là “bazar”, những sản phẩm đắt tiền, sang trọng được nhập cảng từ Pháp và Anh nhằm phục vụ cho người Pháp tại thuộc địa, giới thượng lưu Sài Thành và các đại điền chủ Nam kỳ Lục tỉnh.

GMC thời đó cũng đăng quảng cáo trên báo, tự hào là “Cửa hàng rộng nhất; Nhiều mặt hàng nhất và là Thương xá tốt nhất” (Magasins les plus vastes; Magasins les mieux assortis; Magasins vendant le meilleur marché).

Bên cạnh các cửa hàng buôn bán, GMC còn có “phòng trà” (salon de thé) và “quán bar kiểu Mỹ” (bar Americain) với lời quảng cáo “Vào cửa tự do” (Entrée Libre) như để khuyến khích khách vãng lai đến mua sắm [*].

Quảng cáo của Cửa hàng Charner

Năm 1942, việc kinh doanh lúc này rất thịnh vượng nên “Công ty Thuộc địa các Nhà hàng lớn” xây thêm một tầng lầu và đập bỏ phần tháp đồng hồ ngoài mặt tiền. Thay vào đó là hàng chữ GMC.

Đối với những người Sài Gòn xưa, bộ mặt mới của GMC với 3 tầng lầu trong thập niên 1940 so với 2 tầng lầu nguyên thủy có phần “đồ sộ” hơn nhưng hình như tòa nhà đã đánh mất vẻ “cổ kính” với tháp đồng hồ mang những đường nét kiến trúc Á Đông.

Phải chăng đó cũng là “cái giá” phải trả khi người ta mải chạy theo cái được gọi là “đồ sộ” mà quên đi những nét kiến trúc đặc thù của một công trình cổ. Xin nhắc lại, đó mới chỉ là thay đổi đầu tiên trong thập niên 1940 vì tòa nhà CMG sẽ còn phải đương đầu với nhiều thử thách những năm sau đó.

GMC với 3 tầng lầu vào năm 1942

Tại đây người ta có thể mua các mặt hàng từ bình dân như đồ chơi trẻ con cho con cháu… đến những thứ đắt tiền như đồng hồ, máy ảnh hoặc nữ trang bằng vàng hay kim cương cho vợ hoặc người tình. Nói chung, Tax có thể coi là “thiên đàng mua sắm” của người Sài Gòn vào những thập niên 60 và 70.

Ngày xưa, trong “lộ trình” của người Sài Gòn khi “bát phố Bonard” không thể nào thiếu mục “ghé Tax”, đó có thể vào lúc khởi đầu hay kết thúc của cuộc hành trình dọc theo đường Lê Lợi. Quả thật, bên trong Tax người mua hàng bao giờ cũng ít hơn người “bát phố” với mục đích chỉ muốn được hòa mình vào đám đông. Dân “bát phố” thậm chí trong túi chỉ đủ tiền để uống ly nước mía Viễn Đông nằm ở góc Lê Lợi và Pasteur!

Vào những ngày cuối tuần còn có sự xuất hiện của những bộ kaki vàng, màu áo của sinh viên sĩ quan Thủ Đức được về phép. Họ vào đấy để tìm lại cảm giác được sống giữa Sài Gòn đô hội sau một tuần đổ mồ hôi trên thao trường nắng cháy. Mai đây khi tốt nghiệp, ra trường họ sẽ tỏa đi các đơn vị khắp 4 vùng chiến thuật và sẽ ít có cơ hội nhìn lại hậu phương Sài Gòn!

CMG trở thành Tax từ thập niên 1960

Vào thập niên 60, người Sài Gòn rất hãnh diện với Tax. Hãnh diện từ thiết kế bên ngoài lẫn bên trong thương xá. Đường dẫn lên lầu là hai cầu thang bằng đồng hình vòng cung trông sang trọng như trong một dinh thự quyền quý.

Khách vào đây có thể đứng tựa lan can nhìn xuống cảnh mua bán tấp nập phía dưới hoặc ghé cửa hàng giải khát, gọi ly cà phê đá hay nước ngọt uống để làm dịu cơn nóng nực lúc ban trưa.

Buổi sáng tại Pôle Nord ngay tầng trệt cũng có phục vụ điểm tâm, vừa ăn vừa nhìn thiên hạ qua lại trước mặt. Buổi tối ngồi nhấm nháp chai bia Con Cọp, bia 33… một cái thú tương đối rẻ tiền mà Tax đem lại cho bất cứ ai ghé chơi vào bất cứ lúc nào.

Đó chính là sợi dây vô hình “buộc” người Sài Gòn với Tax cũng như La Pagode, Givral, Brodard, Thanh Thế hay kem Mai Hương đã một thời gắn bó với cuộc sống Sài Gòn. Những cái tên quen thuộc giờ đây đã trở thành hoài niệm đối với những người nay tóc đã điểm sương.

Thương xá Tax năm 1965

Thương xá Tax cũng đã đi vào văn chương, thơ phú và âm nhạc của người Sài Gòn. Trong ký ức một thời của mình, Ngô Thụy Miên ngồi tại hải ngoại viết về những quán hàng quen thuộc của Sài Gòn xưa:

“Em nhớ không, La Pagode, Givral của những sáng hẹn hò, Hoàng Gia, Pôle Nord của những chiều đưa đón, dạo phố tết Nguyễn Huệ, Lê Lợi tấp nập người qua, và những tối ghé quán Bà Cả Đọi, rồi Đêm Mầu Hồng. Cái không khí ấm áp tràn đầy tình thương của quê hương đó, làm sao có thể ngờ được chỉ trong vài tháng đã chỉ còn để lại một mùa Xuân, một mùa Xuân cuối cùng của những đổi thay…”

Bài hát “Chiều trên Phá Tam Giang” của Trần Thiện Thanh lại diễn tả một buổi tối Sài Gòn sắp vào giờ giới nghiêm và Thương xá Tax đang chuẩn bị đóng cửa:

“… Giờ này thương xá sắp đóng cửa, người lao công quét dọn hành lang, giờ này thành phố chợt bừng lên để rồi ta nghỉ sớm. Ôi Sài Gòn, Sài Gòn giờ giới nghiêm, ơi Sài Gòn, Sài Gòn giờ giới nghiêm, ôi em ơi Sài gòn không buổi tối…”.

“Thương xá Tax” của Sài Gòn xưa

Sau ngày Sài Gòn “đổi chủ”, Thương xá Tax cũng được “đổi đời”! Nhu cầu mua sắm của người Sài Gòn được thay thế bằng “hệ thống bao cấp nhu yếu phẩm” của nhà nước cho nên sự nhộn nhịp của một trung tâm mua sắm ngày nào nay không còn lý do để tồn tại. Tax biến thành nơi trưng bày mặt hàng sản xuất của các công ty quốc doanh.

Đến năm 1978, Tax được “cởi trói” và “hóa kiếp” thành “Cửa hàng Phục vụ Thiếu nhi Thành phố”. Người bán hàng, khi đó được gọi là “Mậu dịch viên”, lại “thắt khăn quàng đỏ” như thiếu nhi để bán mặt hàng chính là đồ chơi cho trẻ con được sản xuất bởi các công ty quốc doanh.

Dĩ nhiên là “phục vụ thiếu nhi” như tên gọi của cửa hàng nhưng chắc chắn việc trả tiền là của các bậc phụ huynh. Họ chắt chiu từng đồng trong thời khó khăn bao cấp để “mua” nguồn vui cho trẻ thơ qua những con búp bê bằng nhựa tái sinh hay chiếc xe hơi làm bằng gỗ.

Đến năm 1981 Tax một lần nữa đổi tên thành “Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp Thành phố” trực thuộc Sở Thương Nghiệp và trở thành một trong những cửa hàng lớn nhất Việt Nam thời bấy giờ. Tax khi đó mang cái tên thật lạ lẫm, vừa dài vừa khó nhớ đối với người Sài Gòn nên trong suốt thời gian từ 1981 đến 1990 người ta vẫn dùng cái tên cũ: “… đi lên Tax”“mua cái này ở Tax…”.

Thương xá Tax trở thành “Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp Thành phố”

Đáng chú ý là “Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp Thành phố” đã thu hút một số du khách đến từ các nước Đông Âu nên người Sài Gòn lại có một cái tên “bán chính thức” là “Chợ Liên Xô” hay ngắn gọn hơn, “Chợ Nga”! Khách hàng nhiều khi đóng thành từng thùng để chuyển về nước những mặt hàng… tư bản.

Vào thời điểm “thịnh vượng”, tòa nhà trở thành một trung tâm giao dịch với các mặt hàng phong phú, từ quần áo, may mặc, mỹ nghệ đến những mặt hàng xa xỉ đều xuất hiện.

Hình như nhà nước cũng ý thức được “Thương hiệu Tax” đã ăn sâu vào nếp nghĩ của người dân nên ngày 19/1/1998 dòng chữ “Thương xá Tax” chính thức được đặt trên nóc tòa nhà! Thế là sau bao nhiêu năm “lận đận”, tòa nhà được “phục hồi danh hiệu” đã có từ xưa.

Thương hiệu “Thương xá Tax” xuất hiện trở lại năm 1998

Bước vào thời kỳ “đổi mới” trước sự cạnh tranh từ các trung tâm thương mại do người nước ngoài đầu tư và quản lý, một lần nữa áp lực cạnh tranh đã buộc Thương xá Tax phải tự làm mới mình.

Thương xá từ đó thuộc quyền quản lý của “Công ty Bán lẻ Tổng hợp Sài Gòn”, trực thuộc “Tổng Công ty Thương mại Sài Gòn” với tên thương mại là SATRA (Saigon Trading Group), được thành lập từ năm 1995.

SATRA bên cạnh thương hiệu “Thương xá Tax”

Đọc đến đây chắc hẳn có bạn đọc thắc mắc tại sao bài viết này lại mang tựa đề “Chia tay Thương xá Tax”?

Nếu chú ý theo dõi báo chí trong nước ta sẽ hiểu ngay vì sao sẽ phải chia tay. Báo Tuổi trẻ, ngày 20/8/2014, đưa tin trong một bài viết có tựa đề “Tiểu thương Thương xá Tax “chết đứng”:

“Việc thương xá Tax thông báo kết thúc hợp đồng thuê mặt bằng kinh doanh tại đây trước ngày 1/10 đã khiến các tiểu thương than “chết đứng”. Trong khi đó khu vực kinh doanh trên đường Nguyễn Huệ (Q. 1, TPHCM) bị ảnh hưởng bởi việc xây nhà ga metro cũng kêu trời khi việc kinh doanh bị ảnh hưởng nghiêm trọng”.

Trên Thanh niên Online, tác giả Trần Thùy Linh sau khi nhắc lại việc “xóa sổ” khu vực Passage Eden đã viết:

“… Và mấy hôm nay, có một nỗi đau tưởng đã lên da non, bỗng bùng lên, dữ dội, khi nghe tin thương xá Tax sẽ vĩnh viễn bị xóa sổ. Tôi tin rằng những “vô tri, vô giác” ấy, những “vật cần phải hy sinh cho sự phát triển” trên khu đất vàng ấy, đã đau lắm. Một cao ốc 40 tầng hiện đại, sáng choang sẽ mọc lên, thay thế cho Tax già nua cũ kỹ đã 134 tuổi. Khu trung tâm Sài Gòn sẽ còn gì?” .

Mô hình dự án toà tháp Tax Plaza cao 40 tầng

Kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Dũng trong bài viết “Sài Gòn đang trở nên xa lạ” đưa ra nhận xét mang tính cách chuyên môn:

“Với một diện tích khiêm tốn vài trăm ha, trung tâm Sài Gòn vốn được quy hoạch thành khu trung tâm hành chính và công cộng nay lại đang được nén chặt đến mức ngộp thở. Sài Gòn xưa giờ đang trở thành đô thị của một nước xa lạ nào đó, những bản sắc vốn có và hồn đô thị của thành phố 300 năm tuổi đang bị xóa nhòa.

Liệu bạn có còn tìm được nét Sài Gòn xưa ở những cao ốc mang tên nước ngoài như Royal Garden, Eva Royal Plaza, Avalon, Sailing Tower, Centec Tower hay Kenton Residence, Gemadept Tower, The Manor? Cái tên Sài Gòn cũng được nhắc tới nhưng lại rặt một nét lai căng, ví như Saigon Sky Garden, Saigon Plaza…”

Người Sài Gòn ngồi nhìn Thương xá Tax trước ngày chia tay

Tôi bỗng rùng mình khi nhớ lại một câu nói của ai đó. Câu này đã được dẫn trước bài viết nhưng cũng xin ghi lại một lần nữa để chúng ta đừng quên:

“Nếu anh bắn vào quá khứ bằng khẩu súng lục,

tương lai sẽ bắn lại anh bằng một khẩu đại bác”

***

Chú thích:

[*] Đọc thêm bài viết “Quảng cáo Sài Gòn xưa: Thời Pháp thuộc” tại:

http://chinhhoiuc.blogspot.com/2013/05/quang-cao-sai-gon-xua-thoi-phap-thuoc.html