Rơi Lệ Ngày Quốc Khánh

Rơi Lệ Ngày Quốc Khánh

Alan Phan

2 Sep 2014

“Không ai có thể chạy trốn khỏi những hệ quả từ lựa chọn của mình – Nobody ever did, or ever will, escape the consequences of his choices – Alfred Montapert “

Tôi quay về lại Saigon vào ngày đại lễ 2/9 của Việt Nam. Mặc cho những lố nhố của đám đông, tôi vẫn tìm ra một nơi yên tĩnh để đọc emails, lướt Net đọc tin, và đọc xong chương cuối của cuốn tiểu thuyết về Brasil thời hiện đại. Một người bạn gởi 1 bài viết của tác giả Nguyễn Hoa Lư về “ngậm ngùi rơi lệ” đăng trên báo Tuổi Trẻ (tiếc là đã bị rút xuống). Tôi gần làm rớt chiếc IPad khi đọc đến đoạn này,

“Một quan chức cao cấp của Ban Tuyên giáo T.Ư, ông Vũ Ngọc Hoàng, đã có một phát biểu gây ấn tượng mạnh [1] :“Cách đây bốn, năm mươi năm, VN và Hàn Quốc có trình độ phát triển tương đương. Sau mấy mươi năm, tôi rà lại tư liệu thì thấy Hàn Quốc hiện có khoảng 90.000 người sống tại VN và VN cũng có 90.000 người sống ở Hàn Quốc. Chỉ khác nhau ở chỗ hầu hết người Hàn Quốc tại VN làm ông chủ, làm quản lý, còn người VN ở Hàn Quốc thì chủ yếu làm ôsin. Nghe mà xót lòng”.

Đây là lần đầu tiên tôi nghe một quan chức Việt không nổ về những thành tựu vĩ đại qua những con số vĩ đại thực hiện bởi những con người vĩ đại…nói nôm na là tại sao mỗi ngày chúng ta phải tự hào …vì cả nhân loại đều phải công nhận là người Việt hạnh phúc nhất thế giới. Ngay cả trong chiến tranh, cái loa tuyên giáo đã rỉ rả cả chục năm về hiện tượng một ông Mỹ nào đó (tượng trưng cho đa số người Mỹ) vừa ngủ dậy là …mơ ước được làm người Việt Nam.

Đây là lần đầu tiên một quan chức Việt…rơi lệ. Sau 1 chục năm lui tới nơi đây thường xuyên, sau gần 40 năm “chờ sáng”, sau khi đọc về lịch sử Việt cận đại qua 70 năm…tôi cũng ..rơi lệ theo ông.

Thực ra, chuyện làm ô sin của người Việt không chỉ giới hạn ở Hàn Quốc. Nếu ông quan chức tính sổ toàn diện con số người Việt đang được xuất khẩu lao động (kể cả tại nhiều nước nghèo tệ hại ở châu Phi) hay số người bán thân làm vợ cho các ông nông dân Đài Loan, Trung Quốc… hay số người Việt vượt biên trái phép qua các tổ chức xã hội đen tại Nga, Đông Âu…cái “xót lòng” của ông chắc còn lớn lao hơn nhiều. Theo Mác Lê, chúng ta có thể biện bạch là mục đích sau cùng của những công nhân này là “tìm đường cứu nước” hay “xuất khẩu cách mạng” như chiến lược do Đệ Tam Quốc Tế đề xuất từ thời 1940’s. Nhưng liệu các đồng chí của chúng ta ở những quốc gia này có tin hay họ chỉ cười rũ rượi?

Tôi còn nhớ vào khoảng 1997, tôi đại diện cho một tập đoàn đa quốc thực hiện một phi vụ khá lớn với cơ quan truyền thông trung ương của Trung Quốc. Tất cả các sếp lớn nhỏ của Bộ đều đồng thuận và chỉ chờ chữ ký của ông Trưởng Cơ Quan. Ông này viện dẫn đủ lý do để hoãn binh; nhưng rồi cũng ký sau khi cho tôi chờ hơn 9 tháng.

Vài tháng sau, khi đã làm việc và quen nhau hơn, tôi tò mò hỏi ông về lý do chần chừ? Ông nói,” Trong tất cà các dân tộc trên thế giới, tôi ghét nhất là người Việt Nam. Khi họ báo cáo về gốc Việt Nam của anh, tôi đã cố gắng giết dự án bằng đủ cách”. “Nhưng ông đổi ý?” “ Gặp anh nhiều lần sau đó, tôi thấy anh là một thằng Mỹ con toàn diện, nên tôi OK”. Tôi biện bạch,” Luôn luôn có người Mỹ tốt và xấu, người Trung tốt và xấu, người Việt tốt và xấu chứ?”

“Các dân tộc khác thì đúng vậy. Nhưng người Việt là một bầy chuột. Một con chuột tốt là một con chuột chết.” Tôi im lặng chuyển đề tài. Và suy nghĩ về những lần qua Việt Nam chơi trước đó. Phần lớn các quan chức, đại gia, COCC…đang nhìn Trung Quốc với cặp mắt khâm phục, ngưỡng mộ và thèm thuồng. Mao Chủ Tịch là một thánh nhân Trời cho xuống để ban phước lộc cho nhân loại và Đặng Tiểu Bình là thần tượng của 99% người Việt. Cho đến ngày hôm nay, tôi nghĩ rằng 95% đảng viên vẫn thề trung thành với 16 cái tốt vàng gì đó về ông láng giềng.

Albert Camus nói, “ Life is a sum of all your choices”. Có lẽ vì chúng ta luôn luôn xứng đáng với lựa chọn của mình.

Tôi không biết ông Vũ Ngọc Hoàng giữ chức vụ gì trong Ban Tuyên Giáo? Tôi cũng không biết các lãnh đạo cao cấp của Việt Nam suy nghĩ thế nào về lời nói của ông? Tuy nhiên, nhận xét này của ông cũng cho tôi và các bạn BCA một tia hy vọng nhỏ nhoi. Rằng nếu một người biết thì mười người sẽ biết. Dần dà, cả triệu người sẽ biết. Sau một giác ngủ dài, lúc nào cũng sảng khoái khi vừa thức giấc.

Tuy nhiên, tôi cũng biết rõ gần như là một nguyên lý ở Việt Nam: ở đây, thất vọng nhiều gấp triệu lần hy vọng.

Alan Phan

Thói quen liên tưởng

Thói quen liên tưởng
August 31, 2014

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Nghĩ lại, giờ này tôi có thể hiểu vì sao, những anh chàng cán bộ cộng sản thuở chống Mỹ cứu nước, ngàn năm mới có dịp được đề cử ra ngoại quốc, đi tham quan, du học, du khảo, luôn luôn cố gắng khi trở về nước, ngoài chuyện phải viết một báo cáo về việc “thu hoạch” việc học hành, lại phải cố gắng viết một vài đoạn hồi ký, làm một bài thơ, kết hợp chuyến đi của mình với công ơn của Bác, đảng để biểu diễn “lập trường.”


Du thuyền chở du khách trên sông Seine, Paris. (Hình: Huy Phương cung cấp)

Tâm trí những người này rõ ràng là luôn luôn mang nặng cái ân huệ đảng đã ban cho mình, để được ra khỏi đáy giếng hẹp, có dịp thấy trời cao đất rộng. Dù ở Moscow, Bắc Kinh hay Paris, họ vẫn luôn luôn ám ảnh bởi những con mắt vô tình đang theo dõi mỗi bước chân của họ, hạch hỏi họ đang nghĩ gì, tình cảm thế nào, nhớ đến ai?

Chúng ta phải nghiêng mình khâm phục cái khả năng liên tưởng kỳ quái của một tên đảng viên trung kiên, Ðỗ Quý Doãn, phút chót đã leo đến chức ủy viên Ban Cán Sự Ðảng, thứ trưởng Bộ Thông Tin và Truyền Thông đã có lần đi “Giữa Mạc Tư Khoa” mà “nghe câu hò Nghệ Tĩnh,” có nghĩa ở ngay giữa một nước Ðông Âu xa xôi, mà đảng viên này vẫn không quên nổi âm thanh xứ Nghệ, quê hương của Bác.

“Chiều Mạc Tư Khoa…rừng dương như trầm lặng…
mà nghe câu dặm…rằng hết giận rồi thương…”

Ðây là người đã lên án “Bên Thắng Cuộc” của Huy Ðức là: “Chống lại nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam; gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân; tuyên truyền chiến tranh xâm lược; gây hận thù, mâu thuẫn giữa các dân tộc, sắc tộc, tôn giáo; tuyên truyền, kích động…”

Chế Lan Viên, tay bồi bút có hạng, thì dù ở Paris, London hay Moscow, luôn luôn nghĩ đến Bác, nói một cách khác là bị ám ảnh bởi hình ảnh ông Hồ, hay ông giả vờ bị ám ảnh, ghi lại trên giấy mực hay biểu diễn trước con mắt của cấp lãnh đạo văn nghệ:

“Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê
Một viên gạch hồng Bác chống lại cả mùa Ðông băng giá
Và sương mù thành Luân Ðôn có nhớ
Giọt mồ hôi người nhỏ giữa đêm khuya.
…Tuyết Mát Cơ Va sáng ấy lạnh trăm lần
Trông tuyết trắng như đọng nghìn nước mắt.”

Trần Hoàn, một thời làm bộ trưởng Văn Hóa và Thông Tin. Thời mới đi kháng chiến, ông là tác giả bài Sơn Nữ Ca nổi tiếng, về sau càng lên chức, ông càng để lộ ra bản chất nịnh bợ lãnh tụ, với những câu thơ quái đản: đi “giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò ví dặm…” Lố bịch hơn nữa là Trần Hoàn trong bài “Lời Bác dặn trước lúc đi xa…” đã bịa một câu chuyện khác hẳn sự thật: “Chuyện kể rằng trước lúc Người ra đi, Bác muốn nghe một câu hò xứ Huế. Nhưng không gian vẫn bốn bề lặng lẽ, Bác đành nằm im…”

Nhưng theo tường thuật của Vương Tinh Minh, nữ y tá trưởng bệnh viện Bắc Kinh, thành viên tổ bác sĩ Trung Quốc sang Việt Nam chữa bệnh cho ông Hồ, Tháng Tám, 1969, trên báo Quân Ðội Nhân Dân, thì:

“Chiều hôm đó sức khỏe của Bác đã có chuyển biến tốt lên một chút, Bác nói muốn nghe một câu hát Trung Quốc. Các đồng chí đề nghị tôi hát. Tôi nói thật là hát cũng không tốt lắm, nhưng để vui lòng Bác, vì tình hữu nghị Trung-Việt, tôi đã hát một bài hát mà nhiều người thuộc và hát được, bài hát có nội dung chính là ra khơi xa phải vững tay chèo. Bác nghe xong rất vui, Bác nở nụ cười hiền từ. Bác nắm nhẹ tay tôi, tặng tôi một bông hoa biểu thị cảm ơn. Ðó là lần thứ ba tôi thấy Bác cười. Và đó cũng là nụ cười cuối cùng của Người.”

Dù miền Nam sau khi ông Ngô Ðình Diệm về nước chấp chánh, đã có phong trào suy tôn ông “bao nhiêu năm từng lê gót nơi quê người…” nhưng thời ấy cũng có người được cử đi du học, tham quan, cũng có nhiều người đến New Jersey, New York và Chicago…là những nơi ông Diệm đã ghé qua, nhưng không nghe ai liên tưởng hay nhớ đến ông. Ðó là những việc không cần phải làm hay vì sợ mà làm!

Ở miền Nam, chúng ta thường tìm thấy không khí Ðường thi trong văn thơ trước ngày chia cắt đất nước, với những bờ sông Tương (Tương Giang đầu- Tương Giang Vỹ) những đêm trăng lặn quạ kêu (Nguyệt lạc ô đề) những chiều khói sóng trên sông (Yên ba giang thượng…), nhưng những năm sau ngày phong trào di cư đưa hàng triệu người bỏ quê hương miền Bắc di cư vào Nam, cùng với sự đổi mới văn học, những người ở phương Tây về mang theo hình ảnh của ghế đá công viên, tóc vàng sợi nhỏ, bờ sông Seine, mùa Thu lá đỏ và cả cái ga Lyon đèn vàng chưa ai biết tới mà thanh niên Sài Gòn đã mê mệt cảm nhận rất nhanh.

Hoàng Anh Tuấn, Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng… là những người đã mang không khí Paris lại cho thanh niên miền Nam trong thời gian này, nhất là năm 1957, khi chàng sĩ quan không quân Cung Thúc Cần mang cái hình ảnh “ga Lyon đèn vàng,” chút “tuyết rơi mỏng manh buồn” về với Sài Gòn, và tập thơ Tình Ca, phối hợp giữa thơ Cung Trầm Tưởng, nhạc Phạm Duy và minh họa của Ngy Cao Uyên ra đời, thì không ai là người không biết đến bài thơ Tiễn Em. Vào thời gian ấy, Sài Gòn cũng có phong trào các phòng trà ca nhạc ra đời “đêm đêm tiếng hát phòng trà” với Kim Ðiệp, Anh Vũ, Hòa Bình…mở ra những giọng hát khởi sắc như Thanh Thúy, Lệ Thanh, Bích Chiêu…nhưng phải nói Lệ Thanh, gầy guộc, mỏng manh trong bộ y phục màu trắng, mỗi đêm xuất hiện với “Tiễn Em” là một thần tượng khó quên. Sài Gòn đèn xanh đèn đỏ, vẫn hừng hực nóng, nhưng những người chưa bao giờ được thấy tuyết vẫn thích nghĩ đến không khí “tuyết rơi mỏng manh buồn…” và “trời mùa Ðông Paris, suốt đời làm chia ly…” và tha thiết: “khóc đi em, khóc đi em!”

Bây giờ trở lại Paris, chúng tôi vẫn hình như nghe văng vẳng bên tai những câu thơ của Nguyên Sa và âm điệu của Ngô Thụy Miên gần như bất hủ:

“Paris có gì lạ không em,
Mai anh về giữa bến sông Seine!”

Và nếu có sự liên tưởng thì từ mối tình Paris, Nguyên Sa nghĩ đến một món ngon quê hương, cũng tượng trưng cho sự gắn bó của tình yêu. Hai câu thơ sau đây được xem là nhưng câu thơ hay nhất của văn học Việt Nam:

“Vẫn hỏi lòng mình là hương cốm
Chả biết tay ai làm lá sen?”

Nói như Mặc Lâm, “Ông (Nguyên Sa) đem ánh đèn vàng Paris nơi có những nhà ga là nguồn cảm hứng vô tận cho những cuộc chia tay. Ông mang theo hơi hám của sông Seine của nhà thờ Notre Dame về lại Sài Gòn nơi mà nhiều thế hệ thanh niên chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Pháp…”

Bây giờ trở lại hay ghé qua Paris, nếu có sự liên tưởng thì không thể nào không liên tưởng đến lời thơ của Nguyên Sa, nghe như còn bàng bạc nơi đây. Từ Paris đi về phía Nam, xuống Nice, chúng tôi phải qua ga “Lyon đèn vàng” của nhà thơ Cung Trầm Tưởng. Bây giờ đã đến tuổi già, không khỏi không nhớ đến câu thơ của ông: “…nói chi cũng muộn màng..”

Ðến Paris, tôi nhớ đến Nguyên Sa, người đã mất. Tôi nhớ đến ông Cung Trầm Tưởng của Lyon đèn vàng. Và Lệ Thanh, bây giờ ở đâu?

Kể cũng lạ, làm sao khỏi liên tưởng cảnh với người, hiện tại và quá khứ, Paris với Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, cả với Phạm Duy và Lệ Thanh của một thời, đã xa lắm, mà hình như vẫn còn lẩn khuất ở đâu đây!

 

TA ĐÒI MÁU NÓ BỞI TAY NGƯƠI.

TA ĐÒI MÁU NÓ BỞI TAY NGƯƠI.

Ed 33, 7-9

Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, C.Ss.R.

Ta đã làm cho ngươi trở nên người lính canh nhà Israel:

vậy khi nghe lời miệng Ta nói,

ngươi hãy thay Ta loan báo cho chúng .

“Hỡi kẻ gian ác, mi sẽ phải chết”;

nếu ngươi không chịu nói để kẻ gian ác bỏ đường lối mình,

thì chính kẻ gian ác sẽ chết trong sự gian ác của nó,

nhưng Ta đòi máu nó bởi tay ngươi.

Còn khi ngươi loan báo cho kẻ gian ác bỏ đường lối nó,

nếu nó không chịu bỏ đường lối nó,

thì nó sẽ chết trong sự gian ác của nó,

nhưng ngươi cứu được mạng sống ngươi.

Thế giới chung quanh đầy rẫy sự gian ác,

mỗi ngày sự gian ác bày ra trên các phương tiện truyền thông,

mỗi ngày sự gian ác tung hoành ngay trước mắt mọi người.

Hỡi tôi, người lính canh được Chúa kêu gọi,

tôi sẽ lặng thinh mãi cho đến bao giờ ?

Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, C.Ss.R.

Chúa nhật XXIII TN.A

XIN CHÚA THƯƠNG GÌN GIỮ…

XIN CHÚA THƯƠNG GÌN GIỮ…

Tác giả: Lm. Vĩnh Sang, DCCT

Chiều qua, như đã hứa với lòng mình, tôi sắp xếp giờ đi thăm cha Cố, ngài là bác của tôi. Nhiều năm qua ngài nghỉ hưu ở một Tu Viện, tuổi đã quá già ( 98 tuổi ) nhưng Chúa lại ban cho ngài còn rất khỏe mạnh và minh mẫn. Ngài nói với tôi rằng: “Chúa quên bác rồi” ! Có lúc khác ngài nói đùa với người ta: “Mấy ông thiên thần vui chơi đánh mất sổ nên Chúa không biết đâu mà gọi” !

Mỗi ngày ngài vẫn dùng cơm với cộng đoàn anh em trong Tu Viện, còn ăn được một mình, không cần người khác trợ giúp nhiều, người giúp chỉ cần gắp thức ăn vào chén của ngài, còn ngài có thể múc đồ ăn bằng muỗng để tự ăn, riêng phần sữa chua thì cần người đút, vì tay đã run nên thường bị rớt ra ngoài. Dùng cơm xong, ngài ngồi chơi với anh em, cũng còn nghe được đôi chút nên thỉnh thoảng vẫn còn nói đùa góp vui. Sau giờ cơm ngài chống gậy đi bộ chung quanh Nhà Thờ đúng một vòng rồi về phòng nghỉ.

Mỗi ngày ngài vẫn dâng Thánh Lễ đồng tế trong Tu Viện và tham dự một giờ chầu Thánh Thể, không bỏ sót một giờ kinh nguyện chung nào trừ khi đau yếu. Có một người giúp việc cho ngài, ngài vẫn chậm rãi đọc những suy niệm Lời Chúa cho ghi lại, đọc thư muốn viết cho con cháu và những người thân quen, thậm chí lấy sổ tay xem địa chỉ con cháu và nhờ người đi gọi lại để ngài gặp, giúp đỡ những đứa cháu nào khó khăn nghèo hèn. Tôi hỏi tiền ở đâu mà giúp, ngài nói: “Xin Bề Trên”.

Chiều qua tôi đến thăm, ngài mừng lắm, dĩ nhiên trong số các cháu, tôi là đứa cháu được ngài thương quý và tôn trọng nhất, vì tôi là Linh Mục thế thôi. Ngài cuống quýt nói cười, hỏi thăm đủ điều, ngài bảo: “Lúc thường nhớ đến cha có nhiều sự muốn nói lắm, sao bây giờ gặp chẳng còn nhớ gì ?!?” Người giúp việc mách “tội” của ngài cho tôi nghe, cụ cúi gầm mặt xuống lắng nghe không cãi một lời nào. ( Ảnh chỉ có tính minh họa ).

Cách đây mấy tuần, cha Bề Trên gọi điện thoại hỏi ý tôi một việc của cụ. Có một người tự xưng là cháu của ngài, đến thăm đôi ba lần rồi bảo sẽ đón ngài về nhà thăm con cháu, cụ nghe bùi tai đòi đi, cha Bề Trên bối rối vì sợ mất lòng ngài nên cho người giúp việc gọi điện hỏi ý tôi, cha Bề Trên tế nhị không muốn trực tiếp với tôi vì cũng ngại tôi khó xử. Tôi nói với người giúp việc là không cho ngài đi vì ngài quá lớn tuổi.

Sau đó tôi được biết ngài đã quyết định không đi, nhưng người cháu trở lại gặp Bề Trên nói quá khẩn thiết, Bề Trên đành gọi cho tôi, tôi cũng trả lời không nên để cho ngài đi và xin Bề Trên dùng quyền Bề Trên mà khuyên ngài, từ đó ngài mới thôi không thao thức nữa.

Người giúp việc đưa cho tôi xem một cuốn vở, trong đó viết đủ thứ mà ngài muốn viết, lật một trang đưa tôi xem, trang chia làm hai cột, một bên là “nên đi”, bên kia là “không nên đi”. Ngài yêu cầu người giúp thực hiện hai hàng cột và cùng ngài phân định vấn đề. Bên “nên đi”, ngài đưa ra hai lý lẽ để nên đi, bên “không nên đi”, ngài đưa ra 6 lý lẽ để không nên đi. Tôi ngạc nhiên về cách làm việc của ông cụ, rất rõ ràng và chuẩn mực.

Tôi đặt vấn đề lại với chính tôi và những anh em cộng sự, đứng trước các vấn đề nan giải, có bao giờ chúng ta làm một cuộc phân định rõ ràng và trong sáng như cụ đã làm ? Không chỉ làm một mình nhưng xin người khác giúp mình biện phân vấn đề cho chính xác, khách quan và minh bạch ? Không để cho tình cảm lấn át, những cảm xúc nhất thời làm lung lạc.

Điều còn làm tôi tâm đắc hơn nữa, đó là trong cuộc phân định, ngài đã đưa tiêu chuẩn Tin Mừng vào trong các lý lẽ. Để những giá trị Tin Mừng thấm đẫm vào các kênh sống, mọi ngóc ngách cuộc đời, là trách nhiệm hôm nay của việc Tân Phúc Âm hóa. Ông cụ đã 98 tuổi, không còn lên tòa giảng để nói Lời Chúa, nhưng Lời Chúa đã thầm thấu và chiết xuất ra trong từng hành vi của cụ. Ước gì chúng ta mỗi người cũng chọn lựa cho mình cách sống như vậy trong thế giới hôm nay.

Bây giờ tôi không còn trẻ, nhưng chưa hẳn là đã già, nhưng nếu một mai “Chúa quên tôi” như đã quên bác tôi, liệu tôi có được những ngày sống bình an, thanh thản và thánh thiện như bác tôi ? Xin Chúa thương gìn giữ con và mọi người.

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 6.9.2014

Thoát Trung về kinh tế ngày càng xa vời

Thoát Trung về kinh tế ngày càng xa vời

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-09-05

namnguyen09052014.mp3

000_Hkg9926960.jpg

Thương lái vận chuyển hàng hóa Trung Quốc qua cửa khẩu Lào Cai hôm 9/5/2014.

AFP

Báo chí Việt Nam từng một dạo sôi nổi với vấn đề thoát khỏi lệ thuộc kinh tế Trung Quốc, đặc biệt trong cuộc khủng hoảng giàn khoan Hải Dương 981. Thế nhưng thực tế đang đi ngược lại mong muốn đó, thể hiện qua sự kiện 8 tháng vừa qua nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc tăng gấp ba lần xuất khẩu qua thị trường này.

Sản phẩm chiến lược phụ thuộc nguyên liệu TQ

Trong cuộc phỏng vấn vào tối 4/9/2014, từ Hà Nội chuyên gia Bùi Kiến Thành nhận định:

“Báo chí nói rất nhiều nhưng thực sự có làm được gì đâu. Vấn đề nhập siêu từ Trung Quốc, nhập rất nhiều nguyên liệu để sản xuất thí dụ nguyên liệu về giày dép, may mặc… những cái gọi là sản phẩm chiến lược của Việt Nam phần lớn nhập nguyên liệu từ Trung Quốc về, mình tăng xuất khẩu chừng nào thì tăng nhập khẩu nguyên liệu chừng ấy, đó là nói về công nghiệp.

Sản phẩm chiến lược của VN phần lớn nhập nguyên liệu từ TQ về, mình tăng xuất khẩu chừng nào thì tăng nhập khẩu nguyên liệu chừng ấy, đó là nói về công nghiệp.
-Ô. Bùi Kiến Thành

Ngoài ra về sản phẩm tiêu dùng, biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc như là một biên giới mở, nó vào bao nhiêu qua tiểu ngạch con đường không chính thức và từ những đường chính thức hàng hóa của Trung Quốc vào Việt Nam có ai kiểm soát gì đâu. Nhất là những hàng hóa không chỉ rẻ tiền mà còn độc hại nữa, lương thực, trái cây, chân gà hư thối, thịt hư thịt thối… làm gì có chính sách chặn bớt hàng hóa từ Trung Quốc qua Việt Nam, quan sát của tôi ở Việt Nam chưa hề có chính sách nào để giảm thiểu vấn đề nhập siêu từ Trung Quốc vào từ nguyên liệu cũng như hàng tiêu dùng.”

Các báo điện tử như Tuổi Trẻ, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Đất Việt, Dân Trí những ngày cuối tháng 8 đầu tháng 9 có nhiều tin bài mang tính trình bày sự kiện để dóng lên hồi chuông cảnh báo. Đất Việt và Dân Trí có bài “Chính sách mua rẻ, bán rẻ: Nhập siêu tăng mạnh, lệ thuộc càng nhiều” hoặc Tuổi trẻ Online với bài Nhập khẩu từ Trung Quốc chạm mốc 40 tỉ USD trọn năm 2014. Cán cân thương mại Việt-Trung mất cân bằng ngày càng nghiêm trọng, nhập siêu trên 17 tỉ trong vòng 8 tháng, trung bình mỗi tháng nhập siêu 2 tỷ 160 triệu USD.

Bạn đọc góp ý trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online đặt câu hỏi với các cơ quan chức năng: hàng hóa Trung Quốc độc hại, kém chất lượng ai cũng biết. Nhưng ai quản lý việc này, ai kiểm tra chất lượng? Trong khi đó, xuất khẩu qua Trung Quốc thì gặp nhiều khó khăn mà còn bị Trung Quốc ép muốn dở khóc dở cười. Ai giúp gánh bớt khó khăn cho dân.

Nhà giáo Đỗ Việt Khoa ở Hà Nội, trong tư cách một công dân, một người tiêu dùng góp ý:

000_Hkg9926949-400.jpg

Hai người Trung Quốc qua cửa khẩu Lào Cai hôm 9/5/2014. AFP PHOTO.

“Sau những vụ gây hấn của Trung Quốc và nhìn vào thực lực kinh tế Việt Nam, tôi không kêu gọi tẩy chay hàng Trung Quốc. Bởi vì không thể tẩy chay được, khi mà phụ thuộc nó quá nhiều mặt hàng mà Việt Nam không sản xuất được, từ cái kim sợi chỉ cho đến đồ dùng rất thông thường như bát đũa cũng phải dùng của Trung Quốc, máy móc đồ dùng như đinh ốc cũng vậy rất khó tẩy chay hàng của Tàu.”

Theo nhà giáo Đỗ Việt Khoa, phải đặt vấn đề trách nhiệm của nhà nước khi mấy chục năm thống nhất đất nước mà không phát triển sản xuất hàng tiêu dùng có đủ sức cạnh tranh cả về chất lượng cũng như giá cả. Ông nói:

“Người công dân bình thường như chúng tôi có thể nói là bất bình với chính quyền, trải qua mấy chục năm hòa bình phát triển đất nước nhưng mà tiền thuế của nhân dân họ đã mải mê tham nhũng và đổ đi đâu mà họ không phát triển được những ngành kinh tế chủ chốt cho đất nước. Ngoài việc gia công làm thuê, phát triển nông sản thì ngành công nghiệp của Việt Nam đến giờ là con số không. Công nghiệp chế tạo cơ bản là không làm được gì cả. Vừa rồi có phê bình là ngay đến cái vỏ điện thoại Samsung, con ốc vít chẳng hạn cũng không tìm được doanh nghiệp nào gia công cho, điều ấy là thảm họa. Chúng tôi không phải là con vật chỉ cần ăn no, chúng tôi là con người đòi hỏi đất nước phải khác, phải phát triển nhanh hơn nữa. Chúng tôi có nhu cầu được chứng kiến đất nước vững mạnh về mặt kinh tế, về công nghiệp và đặc biệt mong muốn xã hội dân chủ văn minh.”

Trách nhiệm của doanh nghiệp và người tiêu dùng

Nếu như nhà nước chịu trách nhiệm về tình trạng lệ thuộc hàng hóa Trung Quốc về mặt chính sách chiến lược, thì cộng đồng doanh nghiệp và cả người tiêu dùng cũng góp phần ràng buộc với hàng hóa Trung Quốc. Chuyên gia Bùi Kiến Thành cho rằng doanh nghiệp Việt Nam chạỵ theo thiết bị máy móc và nguyên liệu giá rẻ của Trung Quốc trong khi chính sách của nhà nước thì không rõ ràng. Theo lời ông Việt Nam đang biến thành bãi rác của công nghệ Trung Quốc, doanh nghiệp Việt Nam và nhà nước cũng nên ngồi lại suy nghĩ bàn tính như thế nào để bớt lệ thuộc hàng hóa của Trung Quốc. Ông Bùi Kiến Thành tiếp lời:

Người VN dùng hàng VN nhưng chỉ nói không thì không được. Phải làm sao trong nước có được hàng chất lương tốt giá cả cạnh tranh được với TQ.
-Ô. Bùi Kiến Thành

“Chúng ta không bài ngoại nhưng phải suy nghĩ xem làm như thế nào để Việt Nam có thể có những nguồn nguyên liệu khác, hay những nguồn hàng khác. Việc này cũng chưa thấy thể hiện qua một chính sách nào quyết liệt. Còn đối với dân chúng Việt Nam hàng Trung Quốc giá rẻ dù có độc hại tràn lan từ thành thị tới thôn quê. Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam nhưng chỉ nói không thì không được. Phải làm sao trong nước có được hàng chất lương tốt giá cả cạnh tranh được với Trung Quốc. Không tổ chức được việc này mà chỉ tuyên truyền không. Trong khi người dân cầm một số tiền đi ra chợ người ta đâu có nghĩ mua hàng đắt hơn vì đó là hàng Việt Nam đâu. Nên có một phương án để làm rõ việc giao doanh nghiệp Việt Nam có khả năng sản xuất những mặt hàng nào Việt Nam cần dùng, hiện nay chưa làm được việc ấy.”

Báo chí Việt Nam trích các số liệu từ Bộ Công Thương cho biết, 8 tháng của năm 2014 Việt Nam xuất khẩu qua Trung Quốc hàng hóa trị giá 9,79 tỷ USD trong khi nhập khẩu ngược lại từ nước này tới 27,09 tỷ USD. Khuynh hướng thương mại này có khả năng tiếp diễn đến hết năm 2014. Được biết Việt Nam bán qua Trung Quốc gạo và trái cây, thủy sản, khoáng sản thô với giá rẻ và nhập lại các sản phẩm chế biến và máy móc thiết bị, nguyên liệu phụ liệu dệt may da giày.

TS Lê Đăng Doanh nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương được báo Đất Việt và Dân Trí trích lời nói rằng, thực tế thương mại của Việt Nam với Trung Quốc tiềm ẩn rủi ro. Việt Nam phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, nếu Trung Quốc sử dụng vụ thế là người xuất cũng như người nhập lớn thì kinh tế Việt Nam sẽ thiệt thòi.

Cũng trên hai tờ Đất Việt và Dân Trí GSTS Đặng Đình Đào, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển Đại học Kinh tế Quốc dân, đặt vấn đề về sự tỉnh táo và sự chuẩn bị để định hướng lại thị trường xuất nhập khẩu và thương mại của Việt Nam. Điều quan trọng theo chuyên gia này là không để hàng hóa Việt Nam bị lệ thuộc vào thị trường của Một nước. GSTS Đặng Đình Đào nhấn mạnh rằng, quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trên biển Đông hiện vẫn đang căng thẳng, cách đối xử của Trung Quốc rất ngang ngược.

Những băn khoăn của GSTS Đặng Đình Đào, TS Lê Đăng Doanh và giới trí thức chuyên gia Việt Nam vẫn cứ là một một vấn đề chưa có lời giải đáp rõ ràng từ người chỉ đạo toàn diện là Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đừng bỏ dở cuộc vận động thoát Trung

Đừng bỏ dở cuộc vận động thoát Trung

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-09-05

09052014-trungquoc-namnguyen.mp3

000_Hkg10094037.jpg

Một cửa hàng tại Hà Nội bán lồng đèn, đồ chơi mùa Trung Thu nhập từ Trung Quốc. Ảnh chụp hôm 05/9/2014.

AFP photo

Phong trào vận động thoát Trung, bớt lệ thuộc về kinh tế với Trung Quốc được làm nóng sau vụ giàn khoan Hải Dương 981, nay có vẻ đang trầm lắng. Phải chăng ảnh hưởng chính trị với Bắc Kinh đang chi phối vấn đề này và làm cho cuộc vận động của giới nhân sĩ trí thức trở nên vô nghĩa. Nam Nguyên tìm hiểu vấn đề này.

Cuộc khủng hoảng giàn khoan Hải Dương 981 và thái độ gây hấn trịch thượng của Trung Quốc với Việt Nam đã làm cho người Việt Nam sực tỉnh và có thêm một cơ hội để đặt vấn đề thoát khỏi ảnh hưởng Trung Quốc, bớt lệ thuộc Trung Quốc về kinh tế.

Khi chủ đề thoát Trung lan đến Quốc hội, Nhà nước Việt Nam trong chừng mực đã để cho giới học giả nhân sĩ trí thức tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm với chủ đề thoát Trung, ít ra là trên lĩnh vực kinh tế và văn hóa, báo chí cũng được đưa tin khá thoái mái về chủ đề này. Tuy vậy sau khi Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương 981 sớm hơn dự định, việc Việt Nam tự nhận lỗi về các cuộc biểu tình bạo động chống doanh nghiệp Trung Quốc và sau chuyến đi cầu hòa Bắc Kinh của ông Lê Hồng Anh, nhân vật đứng hàng thứ 5 trong Bộ Chính trị, Đặc phái viên của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, thì dư luận cho là nỗ lực vận động thoát Trung đã trở nên vô nghĩa?

Chúng tôi nêu câu hỏi này với nhà phản biện TS Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS, một tổ chức tư nhân ở Hà Nội đã tự giải thể và được ông trả lời:

“Tôi nghĩ cũng không phải là vô ích vì đây là một quá trình, những thảo luận bàn luận như thế còn phải bàn luận nhiều nữa. Mình cũng đừng nghĩ rằng khi bàn luận một việc như thế thì nó tìm ra được giải pháp ngay và giả sử có tìm ra một giải pháp mà một số giới nào đó, ví dụ các nhà trí thức chẳng hạn nghĩ rằng đó là giải pháp hay, nhưng chưa chắc đó đã là giải pháp thật hay, cần yêu cầu nhà nước phải thực hiện ngay. Tôi nghĩ quá trình như thế nên tiếp tục và nó có cái lợi của nó. Còn những người nghĩ rằng có cuộc thảo luận như thế rồi chẳng có ý nghĩa gì cả bởi vì nhà nước, nhà chức trách người ta chưa thèm để ý đến. Tôi nghĩ rằng nếu mà phán xét như vậy nó hơi vội và không hiểu đúng tình hình. Bởi vì những người phán xét như thế có thể là những người rất nóng vội mà cuộc sống thì không thể nóng vội được.”

Nhà nước Việt Nam tự hào về mức Tổng sản phẩm nội địa năm 2013 đạt 176 tỷ USD, tổng kim ngạch xuất khẩu hơn 130 tỷ USD. Tuy vậy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ra thế giới lệ thuộc nguyên liệu, máy móc của Trung Quốc. Không những thế, hàng hóa Trung Quốc cũng tràn ngập thị trường Việt Nam từ thành thị cho tới thôn quê. Hàng tiêu dùng Trung Quốc có giá rất rẻ, dù mang tiếng xấu về tính độc hại vẫn được đại đa số người dân Việt Nam chấp nhận. Dự kiến trọn năm 2014 tổng lượng hàng hóa mà Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc trị giá khoảng 40 tỷ USD. Trong đó chênh lệnh cán cân thương mại hay nhập siêu của Việt Nam với Trung Quốc sẽ ở mức trên dưới 25 tỷ USD.

Không dễ thoát Trung

Theo Giáo sư Vũ Văn Hóa, Phó Hiệu trưởng trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, Việt Nam phải xây dựng lại nền tảng, cơ sở hạ tầng, tổ chức lại sản xuất và tiêu thụ, nếu muốn thực hiện giảm lệ thuộc về kinh tế với Trung Quốc. Đây là một quá trình có thể kéo dài tới 10 năm. Chừng nào mà Việt Nam chưa thực tế khởi sự một tiến trình thoát Trung thì đích đến lại càng xa vời hơn.

Chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành, hiện sống và làm việc ở Hà Nội phân tích tình trạng thực tế của Việt Nam, khiến cho Việt Nam vẫn phải lệ thuộc kinh tế đối với Trung Quốc:

“Hiện nay từ 2011, 2012, 2013, 2014 doanh nghiệp Việt Nam chết như rơm rạ sau một trận bão, hàng trăm nghìn doanh nghiệp chết thì làm sao nền kinh tế phát triển được. Từ chỗ doanh nghiệp chết thì lấy hàng hóa nào mà bán ra sản xuất hàng hóa gì bây giờ đây. Ngoài ra vấn đề chi phí sản xuất của Việt Nam, một loại chi phí lớn của Việt Nam là chi phí quan hệ chi phí tham nhũng chiếm bao nhiêu phần trăm? có lĩnh vực thì 5%, lĩnh vực thì 10%, có lĩnh vực còn cao hơn nữa. Chi phí quan hệ nó như thế góp vào chi phí sản xuất thì làm sao cạnh tranh với nước ngoài, không riêng gì với Trung Quốc. Việc này Đảng và Nhà nước đưa ra các chính sách gọi là phòng chống tham nhũng, học theo đạo đức Hồ Chí Minh ..v..v.. nói thì nhiều nhưng mà làm chưa được bao nhiêu. Đó là những vấn đề về quản lý nhà nước, vấn đề lãnh đạo.”

Thoát Trung không chỉ là sự mong muốn của giới nhân sĩ trí thức chuyên gia mà còn là của đại đa số người dân Việt Nam. Nhà giáo Đỗ Việt Khoa, hiện sống và làm việc ở Hà Nội góp ý:

“Người dân bình thường nào cũng thấy Việt Nam lệ thuộc vào Trung Quốc quá nhiều. Lệ thuộc vào chính sách, lệ thuộc vào các quyết định chính trị, lệ thuộc cả từng mặt hàng sản xuất nữa. Gần đây phong trào báo chí trả lời người dân phản ánh rất nhiều, người dân mong muốn tìm cách thoát Trung, nhưng mà thoát thế nào khi mà những người đứng đầu quốc gia này không muốn thoát, thậm chí họ lại muốn lệ thuộc chặt hơn nữa thì thoát thế nào?

Theo giới chuyên gia đặt ra vấn đề thoát Trung về kinh tế tất nhiên đi trước phải là giảm lệ thuộc chính trị, tiến tới một thế đứng chính trị độc lập. Việt Nam dù chịu ảnh hưởng ít nhiều từ Trung Quốc nhưng vẫn phải có tư duy độc lập. Có một số ý kiến cho rằng, nếu Việt Nam trở thành một quốc gia giàu mạnh dân chủ văn minh thì sẽ không còn phải đặt vấn đề thoát Trung nữa. Đông đảo người dân Việt Nam từng góp ý trên báo chí do nhà nước quản lý: “Đừng bàn ‘thoát Trung’ nữa mà hãy hành động.”

MỤC ĐÍCH CỦA ĐỜI SỐNG

MỤC ĐÍCH CỦA ĐỜI SỐNG

Lm. MARK LINK, Dòng Tên

Trích EPHATA 624

Vào khoảng 3 giờ sáng ngày 17.9.1999, một trong những trận động đất kinh hoàng nhất đã xảy ra trong lịch sử Thổ Nhĩ Kỳ. Nó đã san bằng hàng trăm công trình kiến trúc và làm thiệt mạng hàng ngàn người. Khi động đất xảy ra, một kế toán viên 40 tuổi người Thổ Nhĩ Kỳ là Yuksel Er vừa mới đi ra từ phòng vệ sinh ở lầu ba trong khu chung cư sáu tầng lầu.

Bỗng dưng, mọi thứ bắt đầu quay cuồng. Chính ông cũng lảo đảo và bị rơi vào dòng thác cuốn của đồ vật. Trong 45 giây tiếp đó tai ông như điếc vì tiếng động mạnh. Và rồi, bỗng dưng mọi sự im lặng một cách ghê sợ.

Khi Yuksel tỉnh dậy, ông thấy mình bị kẹt dưới đống gạch vụn trong một vùng thật tối. Trong khoảng cách nhỏ bé đó, ông không thể nào cựa quậy được, chỉ có thể nằm yên ở đó. Trên mình ông và chung quanh ông là những vụn vỡ của tòa chung cư sáu tầng lầu. Lúc đầu ông tưởng là tận thế. Nhưng khi nghe thấy tiếng rên rỉ ở xa xa, ông biết là một điều gì khác đã xảy ra.

Trong bốn ngày liền, ông không ăn uống gì. Ông dùng thời giờ để cầu nguyện, suy nghĩ về đời sống và tự hỏi đời sống sau khi chết sẽ như thế nào. Lúc đầu, ông còn la lớn kêu cứu. Nhưng thấy vô ích ông im lặng dưỡng sức. Ông bắt đầu nhớ đến gia đình, và nhất là đứa con trai 13 tuổi mà ông vừa mới la rầy nó chỉ vài giờ trước trận động đất – vì nó cứ dành máy computer của gia đình để chơi “game”.

Sau đó vào ngày thứ tư, khoảng một giờ sáng, ông nghe có tiếng gọi quen thuộc. Chỉ trong vài phút, ông nhận ra tiếng của đứa cháu và thằng con 13 tuổi. Chúng đào xới đống vụn để lôi ông lên. Khi đứa con trai lôi được ông ra khỏi đống gạch vụn, điều đầu tiên nó nói là: “Bố ơi, con sẽ không bao giờ làm bố giận nữa”. Ông Yuksel trả lời: “Bây giờ thì chuyện ấy không còn quan trọng nữa, con ơi, vì bây giờ mọi sự đều đã khác trước đây !” ( Ảnh chụp ông Yuksel và con trai ).

Sau này, khi ở trong bệnh viện, Yuksel nói với gia đình và bạn hữu: “Đây là cuộc đời thứ hai của tôi. Tôi sẽ cố gắng tận dụng cuộc đời ấy.” Và rồi ông khóc, khóc y đứa bé khóc lúc mới lọt lòng mẹ. Trước trận động đất, Yuksel sống với những ưu tiên và mục đích, không khác gì những ưu tiên và mục đích của chúng ta. Sau cảm nghiệm ấy, các ưu tiên và mục đích của ông thay đổi cách đáng kể.

Điều này đưa chúng ta đến lời Chúa Giêsu bảo: “Nếu ai trong các con muốn đến với Thầy, phải từ bỏ mình, vác thập giá của con và theo Thầy.” Ở đó chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu cảnh cáo các môn đệ về sự ngu dại khi giành được thế gian nhưng đánh mất điều quan trọng nhất trong tất cả: là sự sống vĩnh cửu ở đời sau. Sau cùng, chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu nói: “Con Người sẽ thưởng cho họ tùy theo hành động của họ.”

Hãy trở về với câu chuyện của Yuksel. Khởi đầu tưởng rằng là một thập giá nặng nề, nhưng sau cùng lại là một phước lành lớn lao. Nó đã dạy cho ông và thúc giục ông sống thời gian còn lại theo một phương cách xứng hợp với Chúa, và với suy nghĩ của Thiên Chúa chứ không phải của Satan.

Cũng giống như trận động đất đã thay đổi cuộc đời ông Yuksel, bài Phúc Âm hôm nay cũng nhắm đến một kết quả tương tự cho chúng ta – tối thiểu cho một số người trong chúng ta. Có lẽ, như Phêrô, lối suy nghĩ về đời sống của chúng ta trở nên nguy hiểm hơn và càng giống với kiểu cách suy nghĩ của Xatan hơn là của Thiên Chúa.

Có lẽ, giống như Phêrô, chúng ta đang mất dần ý nghĩa của đời sống. Một đời sống không hoàn toàn vì vui thú và không muốn tránh càng nhiều thập giá càng tốt. Đúng ra, đó là một đời sống để được phần thưởng là sự sống đời đời. Đó là lối sống trong những năm còn lại của chúng ta ở đời này để giúp chúng ta gặt được phần thưởng là sự sống vĩnh cửu ở đời sau. Rõ rệt hơn nữa là vác thập giá hằng ngày của chúng ta và chấp nhận các thập giá ấy trong tinh thần mà Chúa Giêu đã chấp nhận thập giá của Người.

Và đây là phần đáng kể. Một khi chúng ta bắt đầu sống như Chúa Giêsu đã dạy, chúng ta sẽ khám phá ra điều mà Yuksel đã tìm thấy. Nó sẽ thay đổi mọi sự, và bỗng dưng, điều tưởng như một thập giá to lớn lại trở nên một ơn sủng lớn lao trong đời này và đời sau.

Hãy kết thúc với câu chuyện để nói lên điều chúng ta muốn nói:

Một vài năm trước đây, Gene Stallings đã huấn luyện đội banh trường đại học Alabama để thắng được 22 trận và được coi là trường đứng hạng hai về “football”. Nhưng không phải biến cố này, mà là một biến cố khác, đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc đời của ông. Đó là việc sinh hạ đứa con trai, Johnny. Khi bác sĩ nói với ông Stallings rằng Johnny sẽ bị hội chứng Down ( chậm phát triển ) và có lẽ không sống lâu hơn bốn năm, ông đã ngất xỉu.

Ba mươi năm sau, Johnny vẫn còn sống. Nói về ảnh hưởng của Johnny trong cuộc đời, ông Stallings cho biết: “Cháu rất đặc biệt ! Tất cả sự yêu thương của cháu thì vô điều kiện. Cháu không đạt thành tích gì. Cháu hoàn toàn vị tha.” Trong rất nhiều dịp, ông Stallings tuyên bố rằng cho dù có thể đảo ngược mọi sự và bắt đầu lại với một đứa con không bị bệnh Down thì ông cũng không muốn như vậy. Ông nói, “Tôi cảm nhận được rất nhiều ơn lành.”

Điều mà ông Stallings nghĩ rằng sẽ là một thập giá lớn lao trong đời thì lại trở nên một ơn sủng lớn lao – cả ở đời này và ngay cả ở đời sau.

Đây là Tin Mừng khi chúng ta vác thập giá của mình và theo Chúa Giêsu, có thể thay đổi cuộc đời chúng ta. Nhưng nó sẽ đem lại một bình an và phước lành mà chưa bao giờ chúng ta tưởng tượng ra hay hy vọng tới – và ngay cả dám mơ tưởng đến.

Lm. MARK LINK, Dòng Tên

Cựu Đệ nhất tình nhân tung hồi ký: Đòn đau cho Tổng thống Pháp

Cựu Đệ nhất tình nhân tung hồi ký: Đòn đau cho Tổng thống Pháp

Bà Valérie Trierweiler cùng với Tổng thống François Hollande tại điện Elysée ngày 07/05/2013.

Bà Valérie Trierweiler cùng với Tổng thống François Hollande tại điện Elysée ngày 07/05/2013.

REUTERS/Charles Platiau/Files

Thụy My

Trong cuốn sách mới ra đời mang tên « Merci pour ce moment » (tạm dịch: « Cảm ơn thủa bên nhau »), sẽ phát hành ngày mai 04/09/2014, bà Valérie Trierweiler, người từng được mệnh danh là Đệ nhất tình nhân đã vẽ ra một chân dung không lấy gì làm đẹp đẽ của Tổng thống Pháp. Theo người tình bị phản bội, ông François Hollande ngày càng thiếu đi tính nhân bản, theo với quá trình vươn lên đỉnh cao quyền lực của ông.

Chính thức chia tay với ông François Hollande từ ngày 25/1, cựu « Đệ nhất tình nhân » trả đũa bằng cuốn hồi ký này, và các tiết lộ trong sách được xem là rất tai hại cho ông. Hôm nay tuần báo Paris Match nơi bà Valérie Trierweiler làm việc và nhật báo Le Monde cho đăng các trích đoạn đầu tiên của cuốn sách được chuẩn bị trong bí mật, có số lượng in lên đến 200.000 bản.

Tác phẩm dày 320 trang được in tại Đức để giữ kín đến phút chót, hứa hẹn sẽ bán rất chạy. Hôm nay tuy chưa chính thức có mặt trên kệ sách, nhưng « Merci pour le moment » đã đứng hàng đầu trong số tựa sách được bán trên trang Amazon tại Pháp. Trong đó bà Trierweiller mô tả : « Ông ta lạnh lùng, không cười. Tôi là vật làm tăng giá trị cho ông ta, nhưng đối với ông tôi chẳng có giá trị gì cả ». « Tôi say đắm một con người mà tôi cảm thấy khi thành công càng trở nên xa cách. Tất cả đều đảo lộn ».

Theo hồi ký, Tổng thống cánh tả Pháp khi có quyền lực trong tay đã mất đi tính nhân văn, và buông thả trong cuộc sống riêng tư. Cựu « Đệ nhất tình nhân » viết : « Tổng thống tự giới thiệu là một người không ưa các nhà giàu nhưng trong thực tế, ông ta không thích người nghèo ».

Ông François Hollande hiện có tỉ lệ ủng hộ ở mức thấp nhất trong các cuộc thăm dò dư luận. Cuốn sách được tung ra lúc này có thể càng làm cho công chúng mất thêm cảm tình với ông. Trước đó cựu Bộ trưởng Gia cư Cécile Duflot cũng đã viết sách mô tả ông Hollande : « Cố gắng làm Tổng thống của mọi người, nhưng ông ta chẳng biết cách trở thành Tổng thống của một ai cả ».

Một người thân cận của ông François Holllande cho rằng : « Về mặt chính trị đương nhiên chẳng tốt lành gì cả, chính trị bị biến thành những chuyện phù phiếm ». Nhân vật này lo ngại hình ảnh của Tổng thống Pháp – một người « không gây ác cảm và cũng không phải là người độc địa » – sẽ bị ảnh hưởng dưới mắt công chúng.

Bà Valérie Trierweiler, người phụ nữ 49 tuổi xinh đẹp, theo phong cách cổ điển, vốn bị người Pháp không mấy ưa vì tính cách của bà. Ngay từ tháng 5/2012, bà vẫn đề cao tự do cá nhân, cho rằng vẫn có thể duy trì công việc viết báo ở tờ Paris Match song song với tư cách đệ nhất phu nhân tại điện Elysée.

Một tháng sau, bà gây tranh cãi dữ dội khi gởi đi tin Twitter ủng hộ đối thủ tranh cử với bà Ségolène Royal, người đã sống chung với ông Hollande gần 30 năm và có với ông bốn mặt con, ngáng đường vào Quốc hội của tình địch.

Ngày 10/01/2014, tuần báo Closer tiết lộ quan hệ lén lút giữa Tổng thống Pháp với nữ diễn viên Julie Gayet, dẫn đến sự chia tay giữa bà Valérie Trierweiler và ông François Hollande 15 ngày sau đó bằng một thông báo ngắn gọn của Tổng thống với AFP. Trong cuốn sách, bà cho biết ông Hollande ban đầu cam đoan là mối quan hệ với diễn viên trên chỉ mới bắt đầu có một tháng, sau nói ba rồi sáu, chín tháng, và rốt cuộc là một năm.

Điện Elysée khẳng định cho đến tối qua vẫn chưa hay biết gì về sự xuất hiện của cuốn hồi ký này, và từ chối mọi bình luận.

 

Ai còn có niềm tin đối với Đảng?

Ai còn có niềm tin đối với Đảng?

Hòa Ái, phóng viên RFA
2014-09-04

  • RFA

Hình minh họa chụp năm 2011 tại Hà Nội.

AFP

000_Hkg4466727-305.jpg

Trong những ngày kỷ niệm mùa thu năm 1945 và 69 năm ngày Quốc khánh, mùng 2/9, một lần nữa, vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN được truyền thông tập trung ca ngợi. Thế nhưng niềm tin của dân chúng cũng như của chính các đảng viên có thay đổi hay không sau gần 7 thập niên?

“Lỗi là ở gốc rễ”

Truyền thông trong nước những ngày qua đồng loạt đăng tải thông tin nhắc nhớ về cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 do Đảng CSVN lãnh đạo đã làm nên một trang sử vẻ vang, giải phóng nhân dân VN khỏi chế độ thực dân, phong kiến. Nước VNDCCH được ông Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập vào ngày 2/9/1945 với một Nhà nước của dân và vì dân. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhấn mạnh trong một bài viết nhân dịp kỷ niệm ngày Quốc Khánh sau 69 năm rằng chỉ sợ nhân dân mất niềm tin vào Đảng chứ không sợ bất cứ một thế lực nào, dù là hung bạo nhất. Ông Trương Tấn Sang còn nhắc lại câu nói của Nguyễn Trãi “làm lật thuyền mới biết sức dân mạnh như nước” cũng như ông Hồ Chí Minh từng nói “dân là gốc” cho nên mối quan hệ máu thịt, sinh tử giữa Đảng với nhân dân phải được chăm lo ở tầm cao mới, chất lượng mới để đất nước phồn vinh và trường tồn.

Một đảng viên Đảng CSVN không muốn nêu tên chia sẻ suy nghĩ của mình sau khi đọc bài viết tâm huyết của vị Chủ tịch nước đương quyền trên Tạp chí Cộng Sản:

” Nói chung niềm tin cũng không còn nhiều vào Đảng nữa nhưng mà bắt buộc người ta vẫn phải ở trong Đảng. Còn nhân dân thì mất niềm tin nhiều hơn đảng viên.
-Một đảng viên”

“Có đến 80% không tin rằng Đảng còn vững mạnh nữa. Nói chung đã trải qua nhiều thứ rồi. Bây giờ bọn mình cứ đọc báo, kệ các ông nói gì nói. Ví dụ đơn giản cái nghị quyết Trung ương 4 mà vẫn cứ phải học nhưng bây giờ một đảng bộ chỉ đi học một nửa, còn lại một nửa chỉ đọc báo. Nói chung niềm tin cũng không còn nhiều vào Đảng nữa nhưng mà bắt buộc người ta vẫn phải ở trong Đảng. Còn nhân dân thì mất niềm tin nhiều hơn đảng viên.”

Nghị quyết Trung ương 4 có tiêu đề “Một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay” đang được triển khai với kỳ vọng Đảng sẽ có sức mạnh mới xứng đáng với niềm tin của nhân dân.

Trong khi các bộ ngành, địa phương được cho là đang thực hiện nghiêm túc nghị quyết Trung ương 4 thì dân chúng ngày càng đón nhận tin tức có nhiều đảng viên lần lượt tuyên bố ra khỏi Đảng CSVN. Những người tuyên bố ra khỏi Đảng đều giống nhau ở điểm họ không còn lòng tin vì Đảng CSVN mà họ từng thề tuyệt đối trung thành đã không đi theo đúng tôn chỉ, mục đích như lúc ban đầu là đem lại độc lập, tự chủ, hạnh phúc, dân chủ khi Đảng CSVN hình thành cách nay xấp xỉ một thế kỷ. Tiến sĩ – Bác sĩ trung tá quân đội Đinh Đức Long là người vừa công khai ra khỏi Đảng hồi cuối tháng 8 nói với đài RFA “lỗi là ở gốc rễ”.

Nhồi nhét không thực tế

024_138495-250.jpg

Một bức tranh cổ động trên đường phố Sài Gòn, ảnh minh họa chụp trước đây. AFP PHOTO.

Một thầy giáo ở Hà Nội, yêu cầu đài RFA không tiết lộ danh tánh, vừa được trường học nơi mình giảng dạy đề cử đi học lớp “đối tượng Đảng” cho đài ACTD biết trong suốt 1 tuần tham gia, Ban Tuyên giáo và giảng viên trường Đảng nhồi nhét những điều không thực tế. Trong khi công nghệ thông tin phát triển một cách mạnh mẽ mà những “cảm tình viên” phải bị nhồi sọ rằng “yêu Đảng mới đồng nghĩa với yêu Tổ quốc” và “vào Đảng vì mục đích xây dựng tổ chức Đảng, xây dựng đất nước chứ không phải vì mục đích tư lợi cá nhân, vì thăng quan tiến chức” càng khiến cho bản thân mất “cảm tình” với Đảng. Thầy giáo này lên tiếng:

“Thật ra, trước khi đi học, Hiệu trưởng đã dặn 1 câu là ‘người ta có dạy như thế nào cũng cấm cháu không được giơ tay phát biểu. Để cho người ta dạy’. Bởi vì người ta rất hiểu bây giờ thông tin đa chiều nên có nhiều điều người ta nói sai lệch. Có thể cán bộ xã ở vùng sâu vùng xa người ta thích nghe nhưng đối với mình việc nhồi nhét những điều không thực tế, không chính xác vào đầu thì cảm thấy rất là lố bịch. Vào lớp học người ta dạy đúng như một con vẹt. Mình cũng là một giáo viên, dạy thế nào thì phải rất khéo léo. Thời buổi này đâu có thể thích nói hưu nói vượn là được. Mình đi học thì mới biết được trong lớp học là như thế. Chắc chắn là học để biết thôi. Không vào Đảng.”

” Có thể cán bộ xã ở vùng sâu vùng xa người ta thích nghe nhưng đối với mình việc nhồi nhét những điều không thực tế, không chính xác vào đầu thì cảm thấy rất là lố bịch.
-Một thầy giáo”

Khi đề cập đến Đảng CSVN, hơn bao giờ hết, đại đa số người dân trong nước đều cho rằng đó là tập hợp của một nhóm người “ăn trên ngồi trước”. Những người tham gia vào Đảng ngày nay thường vì mục tiêu tư lợi cho bản thân, dễ dàng trong con đường quan lộ hơn là thực tâm cống hiến và phục vụ cho xã hội, cho nhân dân như lý thuyết vốn dĩ ban đầu được đề ra của Đảng CSVN. Trong thời gian gần đây, Đảng CSVN được dư luận đánh đồng với “lợi ích nhóm”.

Câu hỏi đặt ra có phải nhiều đảng viên của Đảng CSVN vào Đảng đúng theo như nhận xét của công luận? Người đảng viên không muốn nêu tên cho đài RFA biết thêm:

“Cái này nói chung không phải mình mà rất nhiều. Người ta tham gia thì có rất nhiều yếu tố, như cho tương lai. Như bọn mình có thẻ Đảng thì nhiều cái có lợi hơn trong công việc hay có một lý lịch sạch, chẳng hạn. Đơn giản vậy thôi.”

Lời bộc bạch này không đại diện cho tất cả đảng viên Đảng CSVN. Tuy nhiên, nỗi lo sợ niềm tin của người dân đối với Đảng bị đánh mất mà Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đề cập đến không phải là không có cơ sở. Trong bài viết “Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch” của ông Trương Tấn Sang nhấn mạnh Nhà nước của dân, do dân và vì dân được toàn dân ủng hộ nhưng Chủ tịch nước đã không bàn đến phương hướng chuyển đổi mà lòng dân đang trông đợi thì con thuyền chở 90 triệu dân VN do Đảng CSVN lèo lái chắc chắn sẽ chìm vì thời đại nào sức dân cũng mạnh như nước.

Bước đường cùng

Bước đường cùng
Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

“Bạn ơi, nguồn thảm sầu kia bởi
Số phận hay do chế độ này!”
(Vú Em-Tố Hữu)

Ngày 15 Tháng Tám, Bộ Thông Tin và Truyền Thông Việt Nam ra quyết định đình bản 3 tháng báo điện tử Trí Thức Trẻ và phạt 207 triệu đồng vì ngày 12 Tháng Tám báo này đã đăng một bài có tựa đề là “Gái miền Tây và 3 chữ ‘N’ nổi danh thiên hạ” của tác giả Trai Toàn Cầu.


Một cô gái quảng cáo bia Anchor của Singapore tại Hà Nội. (Hình minh họa: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Ba chữ N đó là Ngoan, Ngon và Ngu. Bài này xem như đã vi phạm luật báo chí và chính ban biên tập đã ngỏ lời xin lỗi độc giả vì đã “gây nên sự tổn thương sâu sắc cũng như tạo cảm giác xúc phạm tới nhiều phụ nữ Việt Nam.”

Thật ra chuyện Ngoan, Ngon và Ngu không lạ gì với lời nói ngày xưa dùng để khuyên những người đi chọn vợ.

Ngoan nói về tính tình, ai lại không thích có một người vợ ngoan.

Ngon nói về thể chất và hình dáng bên ngoài, trắng da dài tóc, có nhan sắc, vì không ai muốn chọn vợ xấu.

Ngu nói về kiến thức. Phải ngu hơn chồng mới phục chồng, và không lấn lướt muốn dạy chồng. Không gì chán bằng cảnh ông chồng mới mở miệng phát biểu một câu thì vợ đã nói, “Chuyện này em biết rồi!” Vậy thì nên chọn một người vợ “ngu” hơn mình.

Nhưng ở đây bài báo lại dùng chữ “ngu” để vơ đũa cả nắm, cho con gái miền Tây ngây ngô và ngu muội, “não ngắn,” thiếu văn hóa. Tác giả cho rằng, “Về độ ‘ngon,’ độ ‘ngoan’ thì tôi dám quả quyết không gái miền nào địch được gái miền Tây. Nhưng còn về độ ‘ngu’ thì phần lớn gái miền Tây cũng là những cô gái ‘ngu dốt’ vô đỗi!”

Không phải bây giờ, mà trước đây báo chí Việt Nam đã có những bài báo chỉ trích cay nghiệt con gái “Bắc Kỳ,” và rồi nay, những người “phụ nữ miền Tây” bị tổn thương vì sỉ nhục là ngu đần!

Cộng sản coi là đã thống nhất được đất nước nhưng lòng người thì ly tán, nhất là sau cuộc đổi đời 30 Tháng Tư, 1975, dân miền Bắc ồ ạt vào Nam lập nghiệp, được ưu tiên nâng đỡ trong việc lập nghiệp, chiếm đất, phá rừng, bây giờ ở Việt Nam đi đâu mà không nghe tiếng nói Bắc Kỳ 75. Người miền Nam chẳng ưa gì dân Bắc vào Nam trong tư thế kẻ thắng trận chiếm đóng, người miền Bắc tuy coi miền Nam là vùng tạm chiếm, bị bóc lột, nhưng gần như ganh tỵ vì choáng ngợp trước cảnh đời sống an nhàn, sung túc của dân Nam.

Người miền Trung và miền Bắc thường có quan điểm cho rằng người miền Nam là hời hợt, nông nổi, thiếu sâu sắc, không có căn bản văn hóa, mối giềng ràng buộc với họ hàng, làng nước. Ðiều này dư luận thường dùng để làm câu giải đáp cho việc “lấy chồng Ðài Loan” của con gái Việt Nam mà các thiếu nữ miền Tây đã dẫn đầu trong vài chục năm qua.

Những nhận xét về “gái miền Tây” lâu nay khá nặng tay. Một cán bộ của Ðại Học Tôn Ðức Thắng nhận định… “nhiều người dân ở vùng này chây lười nên không nhận thấy tầm quan trọng của tri thức!” Một bài khác trong Vnexpress cho rằng, “… đàn bà con gái chỉ biết đi làm gái tiếp thị bia, massage!” Và chỉ nội cái nhan đề trong Vitalk.vn, “Gái miền Tây lười, ít học và muốn một bước lên bà chủ!” cũng đủ là một điều xúc phạm chung cho cả một tập thể.

Vì đâu nên nỗi?

Người đổ lỗi tại văn hóa, hoàn cảnh thiên nhiên ưu đãi mà không hề ai dám nói đến cơ chế xã hội và những gì là trách nhiệm của kẻ cầm quyền trong bao nhiêu năm nay. Một ông trưởng khoa trưởng một đại học lớn như Ðại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn đã xác định … “nền giáo dục ở Ðồng Bằng Sông Cửu Long còn quá yếu, đặc biệt với phụ nữ, đã đưa đến những hệ lụy trên!” Vậy thì thưa ông, chủ trương này từ đâu đến và sao không nghe ông than trách việc khách sạn, sân golf, nhà hàng đặc sản hay cho ngoại nhân cho thuê đất để đẩy dân vào chỗ khốn cùng để con gái họ phải thoát ra cảnh nghèo, vươn qua biên giới để mong mỏi có một đời sống tươm tất hơn.

Cũng không nghe ai nói, trước Tháng Tư, 1975, con gái miền Tây toàn là dân đi bán bar, làm sở Mỹ hay làm điếm hay đi lấy chồng Ðài Loan. Ðiều gì đã biến đổi đất nước nói chung và con gái miền Tây lâm thảm cảnh này.

Có quý vị trí thức nào bỏ ra chút thời giờ để nghiên cứu xem xứ nào đàn ông Việt Nam đầu quân đi bán sức lao động xứ người, và vì sao Nghệ Tĩnh và Quảng Bình lại lắm người bỏ ruộng bỏ vườn “đăng ký” đi làm thuê để thoát khỏi cảnh nghèo đói. Không lẽ quý vị lại đổ tội cho chây lười, ít học hay chối bỏ quê hương nghèo khổ, truyền thống của mảnh đất này là thích đi làm “bồi,” hay sợ phạm đến mảnh đất “thiêng” mà không dám nói.

Một sự thật đau lòng là nhạc sĩ Tuấn Khanh, ở trong nước, trong blog của ông đã nói lên một điều, đáng lý phải làm cho chính quyền trong nước đỏ mặt. Các hội gọi là phụ nữ, các tổ chức nhân quyền vẫn thường có thói quen báo cáo tốt, đề cao thành tích, vẽ vời hình tượng người phụ nữ Việt Nam, nhưng có đất nước nào đã ở trong thời kỳ hòa bình, độc lập mà thân phận phụ nữ bọt bèo, trôi giạt khổ đau như người con gái Việt Nam?

Sự thật là trong xã hội này, người phụ nữ bị đánh giá thấp, không hề được bảo vệ, che chở bởi công lý.

Những vụ án có liên quan về phụ nữ từ trước đến nay, phần đông phụ nữ đều bị thiệt thòi vì các loại đàn ông bên nguyên hay bên bị đều là loại nô bộc trung thành với đảng và nhà nước, và phụ nữ Việt Nam được xem không hơn một món đồ chơi.

Khi nói chuyện về đời sống của các cô gái miền Tây đi lấy chồng xứ người, blogger Tuấn Khanh được biết một sự thật rất là chua chát, nếu còn chút lương tri, hẳn các hội phụ nữ ở Việt Nam và cả cái cơ chế công an, cảnh sát xã ấp phải hổ thẹn. Khi hỏi về chuyện chồng Ðài Loan đánh đập, một cô gái đã cười hồn nhiên nói, “Không phải ai cũng bị như vậy, báo chí nói quá. Nhưng nếu như có bị đánh ở Ðài Loan, tụi em còn được báo chí xứ đó lên tiếng giùm, chứ ở Việt Nam, lấy một ông chồng say xỉn rồi bị đánh chết cũng không ai lo cho mình.”

Ở đây chúng tôi không nhắc đến một loại kỷ luật chỉ có trong xã hội Việt Nam là cấp lãnh đạo thông tin, một loại “Ông Kẹ” mang hơi hướng “đảng,” có thể làm tình, làm tội bất cứ cơ quan truyền thông nào khi họ cảm thấy bất như ý. Bài báo “ba N” có thể gây phẫn nộ cho quần chúng, thậm chí có thể ký giả bị bao vây hay tòa soạn bị đốt nhưng không thể vì lý do gì mà chính quyền phạt tiền hay đình bản. Phải chăng đây chỉ là một thái độ khúm núm, sợ mất lòng, vì trong Bộ Chính Trị hiện nay có bao nhiêu vị có mẹ, có em, có con là “gái miền Tây!”

Lên án ai đó là một công việc dễ dàng, nhưng đi tìm nguyên nhân mà và sự thật là một việc khó! Không dễ dàng như một vị tiến sĩ xã hội học, đảng viên CSVN, đã nhận định rằng do ít ý thức về đức hạnh mà phụ nữ Nam Bộ thường hay lấy chồng ngoại (TK). Vậy thì ở Hà Nội, hoa hậu, sinh viên đại học có tên trong đường dây “gái gọi,” tan trường là lên giường, chắc không phải lý do là đức hạnh!

Ba chữ Ngoan, Ngon và Ngu chưa đủ yếu tố để đưa người con gái miền Tây vào hoàn cảnh mà các “đạo đức gia” hay “đạo đức…giả” tha hồ bới móc, nói xấu. Quý vị cũng không nên quên một chữ N nữa, là chữ Nghèo khiến cho phụ nữ miền Tây phải lâm vào cảnh đi lấy chồng xa, hay chỉ biết đi làm gái tiếp thị bia, massage. Dân nghèo mạt, nhặt rác mỗi ngày không kiếm nổi tới $2, trong khi cán bộ công quyền giàu bạc triệu đô la, ăn xài huy hoắc bạc tỉ là ưu điểm của một chế độ XHCN chăng?

Miền Tây “gạo trắng nước trong” ngày nay như thế nào? Báo Hậu Giang đưa tin: “Dân khổ vì ‘ba không.’ Người dân tại các tuyến dân cư trên những con kênh mới hình thành ở xã Vĩnh Tường, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang, đang sống trong tình trạng 3 không: không nước sạch, không điện, không đường bộ. Trẻ em đến trường rất khó khăn, vậy thì sao cho là dân kém học vấn. Dân Hậu Giang còn nghèo, chỉ mỗi ấp 8 xã Vĩnh Viễn, huyện Long Mỹ, đã có 87 hộ nghèo có hoàn cảnh khó khăn, trong đó có 28 hộ nghèo không có đất sản xuất.” Vậy thì động lực nào đã xô đẩy hàng vạn cô gái miền Tây đi lấy chồng ngoại, nên câu nói “không có tiền thì ‘cạp đất’ mà ăn,” đâu có gì là quá đáng?

Ở đâu có câu chuyện bà Phạm Thị Lài, 52 tuổi, cùng con gái là Hồ Nguyên Thủy, 33 tuổi, với thân thể trần truồng không một mảnh vải che thân, phản đối chính quyền đã cướp đất để bán cho một công ty ngoại quốc trong dự án “Khu dân cư Hưng Phú,” sau khi chồng và cha của họ đã vì quá phẫn uất uống thuốc rầy tự tử! Hai mẹ con bà Lài “đã bị đám vệ sĩ lôi trên cát, bãi cỏ và các đống vật liệu trong tình trạng khỏa thân dưới cái nắng gay gắt.” Ðó chính là câu chuyện “hổ thẹn” nhất của đất nước trong năm 2012 xảy ra tại miền Tây, nơi mà một tờ báo “vô đạo” ngày nay đã lên án là cái xứ lười, ngu và con gái chỉ muốn đi bán bia, hay hành nghề massage.

Hổ thẹn không phải nơi hai mẹ con đã phơi bày cái chỗ đáng giấu của đàn bà, vũ khí yếu đuối cuối cùng phải đem ra để tấn công vào khuôn mặt quá dày, trâng tráo của chế độ, mà xấu hổ rơi về phía cường quyền, đã toa rập với xã hội đen, các thế lực đồng tiền, với sự trợ thủ của ngành công an đẩy người dân vào bước đường cùng.

Xin các nhà nghiên cứu văn hóa, các khoa bảng, trí thức hiện đang giữ các vai trò quan trọng trong các trường đại học hay trung tâm nghiên cứu, thích chuyên bố, rao giảng thứ kiến thức cổ lỗ, xin đừng ôm mãi cái não trạng mà danh từ hiện nay, người Việt trong nước đang dùng là “não ngắn,” đi tìm và đổ lỗi cho văn hóa, địa dư và những nguyên nhân xa cho cái “nghèo,” cái “ngu” của gái miền Tây, hầu hết là để biện minh cho tình trạng hư đốn của chế độ.

Thân “vú em” năm xưa làm sao nhục nhã, khốn khổ bằng chuyện con gái Việt Nam đi làm gái mại dâm mười phương bây giờ, nên chưa lúc nào tôi thấy hai câu thơ của Tố Hữu thấm thía như hôm nay:

“Bạn ơi nguồn thảm sầu kia bởi
Số phận hay do chế độ này!”

Chúng tôi muốn biết

Chúng tôi muốn biết

clip_image001

Tự do ngôn luận liên quan chặt chẽ tự do tiếp cận thông tin. Mỗi người dân đều có quyền tiếp cận những thông tin từ nhà nước như chính sách quốc gia, hoạt động của chính khách nhà nước và/hoặc đảng cầm quyền trên mọi lĩnh vực: giáo dục, môi trường, y tế, an sinh xã hội… đến chủ quyền quốc gia. Đó là một trong những quyền hết sức cơ bản của người dân.

Cung cấp thông tin chính xác, minh bạch và có trách nhiệm là bổn phận của nhà nước.

Ngược lại, quyền tiếp cận thông tin từ nhà nước giúp người dân có thể tiếp thu, đánh giá, lên tiếng phê bình hay ủng hộ. Đây là yếu tố nền tảng của dân chủ. Động thái phớt lờ quyền cơ bản đó chỉ có ở những thể chế phản dân chủ, độc tài.

Đã bao giờ bạn đặt câu hỏi: người dân có quyền được biết những thỏa thuận, những ký kết có liên quan đến chủ quyền quốc gia hay không?

Tháng 5/2014 vừa qua, khi Trung Cộng đem giàn khoan HD-981 xâm lấn vùng biển Việt Nam, lần đầu tiên Công hàm 1958 liên quan đến chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa do thủ tướng Phạm Văn Đồng ký đã được đề cập công khai trên truyền thông nhà nước. Và rất nhiều người Việt Nam sửng sốt, kinh ngạc về cái công hàm vô cùng tai hại này.

Dù biện bạch thế nào, Công hàm 1958 được ký với nội dung tán thành Công bố của chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về chủ quyền và lãnh hải (bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam) khiến người dân quan tâm, lo lắng đến vận mệnh đất nước phải đặt câu hỏi: Tại sao những thỏa thuận ký kết liên quan đến chủ quyền Tổ quốc Việt Nam lại bị ém nhẹm suốt hơn nửa thế kỷ? Và những thông tin này nhà nước Việt Nam chỉ bất đắc dĩ công bố khi Trung Cộng trưng ra như bằng chứng về cái gọi là quyền “sở hữu” của Trung Quốc đối với Hoàng Sa & Trường Sa.

Quyền được thông tin là cơ sở để người dân thực hiện quyền làm chủ đất nước. Trong trường hợp này, mỗi chủ nhân của nước Việt Nam phải nắm bắt thông tin, mới có thể chung sức hữu hiệu bảo vệ quyền lợi chính đáng của chính họ, cũng là của cả dân tộc Việt Nam.

Trên thực tế, mối quan hệ giữa chóp bu lợi ích nhóm trong hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc luôn che lấp những thông tin liên quan đến chủ quyền, nhân quyền, các vấn đề kinh tế – xã hội – văn hóa ở Việt Nam.

Hậu quả của “vùng tối” này là gì?

Nhân dân Việt Nam thường bị động trước các động thái gây hấn, lúng túng trước các thông tin do Trung Cộng đưa ra. Trong khi đó, nhà nước Việt Nam lại chủ trương đàn áp những ai muốn bạch hóa cái “hố đen” đó, khi người dân lên tiếng đòi hỏi hoặc tìm mọi cách để biết sự thật những gì đã và đang diễn ra.

Một trong những ký kết có liên quan đến vận mệnh quốc gia Việt Nam là “mật” ước Thành Đô 9-1990. Cho đến nay, gần một phần tư thế kỷ đã trôi qua, không có bất kỳ thông tin nào liên quan đến hội nghị này được nhà nước Việt Nam chính thức công bố.

Mọi người lo ngại trước viễn cảnh Việt Nam sắp biến thành xứ sở phiên thuộc của Trung Quốc qua những thông tin rò rỉ.

Đã có những cá nhân, tập thể yêu cầu nhà nước Việt Nam công bố thông tin này. Đáp lại, đang là động thái “mũ ni che tai”, phớt lờ trịch thượng, vô trách nhiệm.

Vận nước đang nguy nan, đòi hỏi người dân phải được biết và có quyền được biết những thỏa thuận ký kết trên lưng người dân, 24 năm trước, giữa các yếu nhân hai đảng và nhà nước, gây phương hại nền độc lập của Việt Nam từ đó đến nay và tương lai.

Chúng tôi có quyền được biết, và chúng tôi muốn biết những gì đã và đang diễn ra.

Các bạn – những người dân Việt Nam nặng lòng yêu nước, với trách nhiệm trước cha ông và hậu thế, hãy cùng chúng tôi cương quyết tranh đấu và kiên trì đòi hỏi trên cơ sở quyền được biết này.

Hãy bắt đầu từ nội dung Hiệp ước Thành Đô 9-1990.

Chúng Tôi Muốn Biết

Nguồn: mangluoiblogger.blogspot.com

Tại sao người Công giáo xưng tội

Tại sao người Công giáo xưng tội

Chuacuuthe.com

TRẦM THIÊN THU

0409142

VRNs (04.09.2014)- Sài Gòn- Nhiều người không hiểu tại sao người Công giáo lại xưng thú tội mình với linh mục. Thực ra đó là làm theo tiền lệ trong Kinh Thánh.

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện ra và nói với các môn đệ: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20:21-23). Người Công giáo tin rằng Chúa Giêsu đã trao quyền tha tội cho các Tông đồ (các linh mục đầu tiên) và những người kế vị, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần.

XƯNG TỘI LÀ BÍ TÍCH TRAO BAN ÂN SỦNG

Giáo hội Công giáo dạy rằng bí tích là dấu chỉ bề ngoài, do Chúa Giêsu thiết lập, để ban ân sủng. Xưng tội, gọi là Bí tích Hòa giải hoặc Cáo giải, ban cho chúng ta ân sủng để chống lại bản chất tội lỗi. Đó là bí tích chữa lành.

Giáo lý của Giáo hội Công giáo (GLCG) cho biết: “Những ai tới gần bí tích Sám hối, sẽ nhận được từ lòng từ bi Thiên Chúa ơn tha thứ về sự mình đã lỗi phạm đến Ngài, đồng thời họ được hoà giải với Giáo Hội mà tội lỗi của họ đã gây thương tích: chính Giáo Hội đã lo cho họ trở lại nhờ đức bác ái, nhờ gương sáng và những lời cầu nguyện” (GLCG, số 1422).

XƯNG TỘI LÀ CHÚNG TA ĐỐI DIỆN VỚI TỘI LỖI

Rất khó đến với một người mà chúng ta đã làm tổn thương và xin họ tha thứ. Cần can đảm và khiêm nhường nhìn nhận mình sai trái, nhất là cần biết rằng người đó vẫn có thể buồn giận. Cũng vậy, người Công giáo phải can đảm và khiêm nhường bằng cách nói cho linh mục biết tội lỗi của mình. Chúng ta phải đối mặt với tội lỗi và nhận mình sai trái. Dĩ nhiên, linh mục bị buộc bởi “ấn tòa giải tội” và không được tiết lộ hoặc nói với bất cứ ai về tội của người khác.

XƯNG TỘI LÀ ĐƯỢC SẠCH TỘI

Sau khi xưng tội, người Công giáo tin rằng linh hồn họ được sạch tội, không tì vết như thuở ban đầu, và được trang bị bằng sự bảo vệ để không tái phạm. Thường xuyên xưng tội thì chúng ta sẽ được thêm nhiều ân sủng và được nhắc nhở về việc chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình.

TỘI LỖI KHÔNG RIÊNG TƯ

Tội của chúng ta có ảnh hưởng người khác, dù chúng ta cho đó là “tội riêng”. Đó là sự liên lụy hoặc liên đới tội lỗi. Các tội như vậy có thể có vẻ nhỏ nhật, nhưng chúng vẫn làm chúng ta thay đổi. Có thể chúng ta ích kỷ vì các tội này, nhưng rồi sự ích kỷ của chúng ta sẽ ảnh hưởng người khác. GLCG nói: “Nhiều tội đã gây thiệt hại cho tha nhân. Vậy phải làm hết sức mình để đền bù (như trả lại những gì mình đã ăn trộm, phục hồi thanh danh cho người mình đã vu khống, bồi thường những thương tích mình đã gây cho tha nhân). Nguyên đức công bằng cũng đòi buộc như thế. Nhưng ngoài ra, tội lỗi còn làm bị thương và làm mất sức chính tội nhân, cũng như đã gây tổn thương cho những liên hệ giữa tội nhân với Thiên Chúa và với tha nhân. Ơn tha tội xoá tội lỗi, nhưng không sửa lại được tất cả những xáo trộn mà tội lỗi đã gây nên (x. CĐ Trentô, DS 1712). Được tha thứ tội lỗi, được chữa lành, tội nhân còn phải lấy lại đầy đủ sức khoẻ tinh thần. Vậy người đó phải làm một cái gì để đền bù tội lỗi mình: người đó phải “đền tội” cách thích hợp, tức phạt tạ các tội lỗi mình. Đó là việc đền tội” (GLCG, số 1459).

TƯ VẤN TÂM LINH

Dù điều này không luôn xảy ra khi chúng ta đi xưng tội, nhưng  đôi khi hối nhân có thể nhận được lời tư vấn từ linh mục. Hãy nhớ rằng linh mục là “kênh” chuyển sức mạnh của Chúa Thánh Thần qua Bí tích Hòa giải, và linh mục có thể hướng dẫn tâm linh cho hối nhân. Việc tư vấn này có thể rất có lợi đối vối việc phát triển tâm linh và đổi mới, đồng thời có thể giúp phát triển mối quan hệ với Chúa Ba Ngôi.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Beliefnet.com)

Lễ Thánh GH Gregory, Tiến sĩ Giáo hội, 3-9-2014