Con Ốc, Cái Tăm & Cây Đũa

Con Ốc, Cái Tăm & Cây Đũa

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Chúng ta đã sản xuất được ốv vít, phải khẳng định như thế.

Bộ Trưởng Vũ Huy Hoàng

Trong tiếng Việt “con ốc” với “con vít ” là một, nếu chúng đều nằm trong thùng đồ nghề sửa xe. Còn trên bàn ăn thì hai con tuyệt nhiên không có liên hệ gì (ráo) với nhau.

Sở dĩ có chuyện hơi rắc rối như vậy bởi con ốc có nguồn gốc từ phương Tây. Khi  mới đến Việt Nam, có người thấy mặt (liền) đặt tên nó là “con ốc” vì trông cũng hơi giông giống.

Nhưng ốc có nhiều loại (ốc biển, ốc núi, ốc khe, ốc ao, ốc suối, ốc vườn, ốc ruộng…) với hình dạng và tên gọi khác nhau: ốc dừa, ốc gạo, ốc hương, ốc lác, ốc leng, ốc ma, ốc nhồi, ốc vòi voi, ốc sên, ốc móng tay, ốc bươu vàng, ốc mỡ, ốc đỏ, ốc ngựa, ốc vú nàng, ốc bàn tay, ốc mặt trăng, ốc đụn, ốc tù, ốc trám, ốc bùn, ốc mượn hồn… Ngó bộ cũng lộn xộn dữ nên có kẻ (bèn) gọi nó là con vít – gần như cách phát âm chữ “vis” trong tiếng Pháp.

Tưởng như vậy là êm chuyện nhưng dân Việt Nam, ở vùng biển, không chịu vậy. Mấy chả nghe nói tới con vít là nghĩ ngay đến một loại rùa biển, mang khìa nước dừa để nhậu chơi, chớ không phải là … con ốc.

Do đó – có lúc, và tuỳ nơi – con ốc còn được gọi là con đanh vít, hay đinh vít. Cũng có khi, cho nó chắc ăn, người ta dùng danh từ kép: con ốc – vít.

Việt Báo.VN – số ra ngày 7 tháng 10 năm 2005 – có đăng một  một bản tin rất ngắn (và hơi buồn) về ốc:

Chúng Ta Chưa Tự Làm Ðược Cái Ðinh Vít”

“Mỗi năm kinh phí cho hoạt động NC&PT lên tới 200 triệu USD. Chúng ta cũng đã có trên 1,4 vạn tiến sĩ và 1,6 vạn thạc sĩ. Đây là niềm tự hào bởi con số này cao gấp gần năm lần so với Thái Lan và gần 6 lần so với Malaysia. Nhưng nhìn lại trên góc độ hiệu quả thì thật đáng buồn … dù có hàng chục luận án tiến sĩ về tôi thép và cơ khí nhưng trong nước vẫn chưa tự làm được con ốc cho xe máy, ô tô đạt tiêu chuẩn quốc tế (cứ vặn là trờn ren).”

Mười năm sau, hồi đầu tháng 10 năm nay, Bộ Trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng bất ngờ (và mạnh miệng) tuyên bố: “Chúng ta đã làm được ốc vít.” Thiệt là một thành quả vĩ đại chưa từng thấy.

Cả nước mừng muốn chết luôn! Biến cố lại xẩy ra đúng với dịp lễ mừng 60 năm “Giải Phóng Thủ Đô” nên Đảng và Nhà Nước cho bắn pháo bông ăn mừng quá trời quá đất.

Báo Dân Trí hớn hở loan tin: “Mặc dù 21h đêm nay (10/10), các điểm bắn pháo hoa của Hà Nội mới ‘khai hỏa’, nhưng ngay từ chập tối dòng người đã đổ về những điểm này. Cả biển người chờ đón giây phút hân hoan cùng màn pháo hoa trên bầu trời…”

Ai cũng vui như Tết, trừ blogger  Cánh Cò:

Câu nói xuất hiện vào năm 2014, sau hơn ba phần tư thế kỷ ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Gần 40 năm sau khi Sài gòn hoàn toàn giải phóng.

“Con ốc vít” ấy là một sự thật não nề xứng đáng đứng bên cạnh “con tự do” cũng ê chề không kém.

Cái mà cả hệ thống từng rêu rao là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nay đã trần truồng nằm phơi trên các trang báo đảng lẫn báo dân. “Con ốc vít” trở thành best seller trên một thị trường được xem là phát triển ngoạn mục nhất nhì Đông Nam á.

“Con ốc vít” hiền lành, vô hại nay bỗng dưng bị lật lên lật xuống xem xét từng chi tiết. Mà lạ lắm, không thấy chi tiết nào đáng chú ý cả vì nó cũng như hàng tỷ con ốc trong guồng máy kinh tế này, nhưng khi một con trong cái đám hàng tỷ con ấy mang quốc tịch Việt Nam thì sự tự sướng lên tới mức ngất ngây như khuôn mặt ửng hồng của ông bộ trưởng.

Một con ốc vít không phải là tất cả nhưng cũng cho thấy cố gắng không ngừng của nhà nước, rất chú ý tới nền công nghiệp nước nhà.Chỉ có điều, người dân lại tưởng ông Bộ trưởng đánh lừa họ vì không lẽ sau bao nhiêu năm mà chế độ chỉ làm được một con ốc vít?

Coi: thằng chả khó tính dữ hông? Mấy năm trước thì than phiền: “Có trên 1,4 vạn tiến sĩ và 1,6 vạn thạc sĩ… có hàng chục luận án tiến sĩ về tôi thép và cơ khí nhưng trong nước vẫn chưa tự làm được con ốc cho xe máy, ô tô đạt tiêu chuẩn quốc tế (cứ vặn là trờn ren).” Nay thành tích đã đạt được thì lại buông thõng một câu, nghe mà phát chán: “Không lẽ sau bao nhiêu năm mà chế độ chỉ làm được một con ốc vít?”

Được thế thì đã phúc!

Tôi e là bác Cánh Cò còn chưa biết rằng mấy con ốc vít của Việt Nam được làm ra  chỉ để chưng chơi, cho vui mắt, chứ không có giá trị thị trường vì “chi phí năng xuất thấp” và “giá thành quá cao” – vẫn theo như (nguyên văn) lời của ông Bộ Trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng.

Sản xuất ra ốc vít mà gía mắc hơn mua thì mất công làm chi cho má nó khi. Hãy nghe lời khuyên của Tiến Sĩ Lê Đăng Doanh (trình bầy trước Bộ Chính Trị) từ năm 2009:

“Tại sao thằng Nhật Bản nó không làm máy bay? Không phải là công nghiệp của nó không làm được máy bay đâu. Mà bởi vì là nó làm cái máy ảnh kỹ thuật số nó lãi nhiều hơn. Chứ máy bay không có nhôm, không có thứ này khác, nó làm làm gì. Chứ không phải thằng Nhật Bản là thằng ngu, thằng khờ, đến mức nó không làm được máy bay. Nó làm được khối, nó làm được máy bay chiến đấu của nó khá ra phết chứ không phải là ít đâu. Thế nhưng mà những gì mà nó cho rằng không cạnh tranh được thì không làm, làm cái khác, thế thôi.

Cái khác là cái gì đây cà?

Cái đinh nhá? Đinh mà cứ đóng là vẹo ngay và giá thành lại cao hơn đinh nhập khẩu thì cũng hỏng bét.

Thôi thì đành quay về tay nghề (tiểu công nghệ) truyền thống của cha ông, không dây vào những “công nghiệp nặng” như chủ trương lớn của Đảng và Nhà Nước, như trước nữa.

Ta làm cái tăm và cái đũa vậy.

Tưởng vậy nhưng cũng không phải vậy.

Trên báo Hà Nội Mới, số ra ngày 15 tháng chín năm 2014, ông Cù Xuân Trường buồn bã cho hay:

Mỗi năm, Việt Nam phải nhập khẩu cả chục nghìn tấn đũa tre, tăm tre từ Trung Quốc. Với một đất nước “đâu đâu ta cũng có nứa tre làm bạn”, liệu đây có phải là câu chuyện bình thường? Phải chăng chiếc tăm, đôi đũa của nước ngoài được chế tạo bằng một loại “công nghệ” đặc biệt và có những “công năng” sử dụng vượt trội so với chiếc tăm, đôi đũa của ông bà ta để lại từ xa xưa?

Vì chính sách thuế chưa thực sự khuyến khích việc đầu tư sản xuất nên giá thành một gói tăm, đôi đũa của Việt Nam cao hơn của Trung Quốc? Vì các doanh nhân Việt Nam quen thói “làm ngay, ăn ngay”? Hay là vì rừng tre Việt Nam đã cạn kiệt đến mức không còn đủ nguyên liệu cho sản xuất?

Riêng về câu hỏi cuối thì trang VEF (Vietnam Economic Forum) đã có câu trả lời, từ lâu rồi:

“Hàng ngàn tấn tre nguyên liệu không kể non hay già đã được thương lái Trung Quốc tận thu tại các vùng trồng tre vào năm 2010, ông Nguyễn Văn Hà, Giám đốc Công ty Tăm tre Bình Minh (Hà Nội), cho biết. Doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm từ tre trong nước như tăm tre, đũa tre… khi ấy đã rơi vào tình cảnh đói nguyên liệu.

Cùng thời gian trên, báo Hải quan đưa tin, 1.118 tấn tăm tre được nhập qua các cảng vào Việt Nam, chủ yếu từ Trung Quốc, Đài Loan. Các doanh nghiệp trong nước lúc này lại đau đầu với một khó khăn khác: tìm đầu ra cho sản phẩm khi phải cạnh tranh khốc liệt với tăm tre nhập khẩu giá rẻ…

Đó là chưa kể, trồng tre cũng là trồng rừng, có tác dụng bảo vệ môi trường, khí hậu. Khai thác tre quá mức cũng không khác nào tàn phá rừng.

Đã đến lúc, các doanh nghiệp trong nước phải tìm cho mình hướng đi mới…”

Còn hướng (mẹ) nào nữa mà tìm?

Không làm được con ốc vít, không làm được cây tăm, cây đũa thì biết làm gì để sống?

Tiến sĩ Vũ Minh Khương, giảng viên Đại Học Quốc Gia Singapore.

Ảnh: eduvision.vn

Chuyện mưu sinh, kể ra, cũng không khó khăn chi lắm – ở Việt Nam – theo nhận định của tiến sĩ  Vũ Minh Khương:

“Ông cha chúng ta để lại cho chúng ta đất đai ở vị thế đẹp và nhiều tài nguyên quý giá. Thế giới lại thương cảm chúng ta đã trải qua những cuộc chiến tranh khốc liệt. Thế hệ chúng ta chỉ cần cho nhượng thuê đất trong các dự án đầu tư dễ dãi, bán tài nguyên, và vay nợ quốc tế cũng đủ sống xênh xang được 20-30 năm nữa. Ta nhượng đất của ông cha làm sân golf và dân ta sẽ không thể đói nhờ nghề nhặt bóng và đánh giày” Mỗi chúng ta, dù sao hãy cùng trả lời một câu hỏi day dứt: Dân tộc Việt Nam ta hôm nay có đủ lòng quả cảm “chặt cầu để tiến lên không?”

Chớ còn ảo tưởng gì nữa về cái “cầu XHCN” mà không chặt mẹ nó đi cho xong nợ!

Ebola Tới Mỹ!

Ebola Tới Mỹ!

Tác giả: Vũ Linh

…Tỷ lệ chết cực kỳ cao, tới 90% vì không có thuốc chữa…

Cuối cùng thì chuyện gì phải đến đã đến: dịch Ebola đã tới đất Mỹ. Tới Dallas!

Từ 6 tháng qua, dịch Ebola đã hoành hành như chưa từng thấy bên Tây Phi, tại 3 nước Guinéa, Sierra Leone, và Liberia. Đầu tháng Tám tổng cộng chưa tới 1.000 người mắc bệnh, vài chục người chết. Đầu tháng Mười, hơn 10.000 người đã mắc bệnh, và trên 3.500 người đã chết. Và những con số này leo thang vùn vụt mỗi ngày, bất kể hàng loạt biện pháp chữa trị, ngăn chặn. Chính quyền mấy nước này đang bù đầu chống đỡ, với sự giúp đỡ của cả thế giới.

Đây không phải lần đầu tiên Ebola tấn công. Trước đây đã có khá nhiều lần, đều là ở Phi Châu. Lần đầu Ebola được phát hiện là năm 1976, tại Congo, khi đó gọi là Zaire, ở Trung Phi. Lần cuối cùng là tại Uganda, láng giềng của Congo, năm 2012. Nhưng những vụ tấn công này đều mau chóng được ngăn chặn kịp thời, chỉ khiến vài chục hay cùng lắm vài trăm người chết. Từ ngày Ebola được khám phá ra gần 40 năm nay, có tổng cộng khoảng 2.000 người chết cho tới đầu năm nay. Lần này, Ebola đã khiến hơn 3.500 người chết và đã lan qua tới Mỹ và Âu Châu.

Có cả thẩy năm loại vi khuẩn Ebola, tất cả đều từ các giống khỉ truyền qua người, cũng như bệnh AIDS. Trong năm loại, có bốn xuất phát từ khỉ Phi Châu, và một xuất phát từ khỉ Phi Luật Tân. Cho đến nay, chưa ai chết vì Ebola từ Phi Luật Tân.

Người ta cũng chưa rõ tại sao Ebola thỉnh thoảng lại bộc phát như vậy, nhưng có nhiều lý do để tin bệnh này thường xẩy ra từ những bộ tộc hay ăn thịt khỉ, là món ăn rất bình thường trong những bộ lạc Phi Châu.

Ebola là một thứ bệnh dễ lây mà cho đến nay đã không có thuốc trị, cũng không có thuốc ngừa. Đại cương thì bệnh này lan truyền qua các chất lỏng trong người như nước tiểu, tinh dịch, máu, mồ hôi, và ngay cả nước bọt (nước miếng), qua quan hệ tình dục, hay sử dụng kim chích hay ngay cả dụng cụ nha khoa không khử trùng kỹ, hay nhiều cách thông thường khác. Nói nước bọt cũng có nghiã là ăn uống cùng ly cùng chén cùng đuã, hay ngay cả dính nước bọt của người đối thoại khi người này ho, hắt xì hơi, hay nói chuyện văng nước bọt. Nói tóm lại rất dễ lây.

Khi lây thì triệu chứng phải chờ một thời gian mới xuất hiện, sớm là một tuần, nhưng cũng có thể tới ba tuần, hay 21 ngày, mới phát bệnh. Thời gian đó là thời gian vi khuẩn bắt rễ vào cơ thể, rồi bắt đầu tấn công.

Triệu chứng cũng khó biết ngay, đại khái lúc đầu cũng như cảm cúm thường, nóng lạnh chút đỉnh, khô cổ, uể oải, mắt đỏ, sau đó nóng lạnh giống như bị sốt rét, rồi tức ngực, khó thở, khó nuốt. Chỉ sau khi bị nặng hơn thì sẽ ói mửa ra máu, tiêu chảy, liệt giường,… Khi đó thì lục phủ ngũ tạng gì đó, nhất là thận và gan, đều đã bị tàn phá nặng, coi như hết thuốc chữa rồi.

Tỷ lệ chết cực kỳ cao, tới 90% vì không có thuốc chữa. Gần đây, hai bác sĩ Mỹ bị lây bệnh bên Phi Châu, được chở về Trung Tâm Phòng Ngừa Bệnh –Center for Desease Control, CDC- tại Atlanta điều trị và đã khỏi. Nhưng đây là những cuộc điều trị theo kiểu thử nghiệm, cực kỳ tốn kém và khó khăn, chưa thể đại chúng hoá được. Một phóng viên bị Ebola từ Phi Châu đang được chữa trị tại Mỹ, chi phí vài tuần đã lên tới hơn nửa triệu đô, bảo hiểm không trả. Một vài bệnh viện cũng thử chữa trị bằng nhiều thuốc khác, có khi dùng cả thuốc trị bệnh AIDS, khi thành công, khi thất bại. Cuối cùng vẫn chưa có thuốc gì bảo đảm chữa trị hết.

Điều đáng biết là vi khuẩn Ebola khi ra khỏi môi trường trong con người, rất dễ bị tiêu diệt, bằng chlorine, hay ngay cả bằng sà bông và nước thường. Do đó, có cách phòng bệnh rất hữu hiệu là chịu khó rửa tay, rửa mặt bằng sà bông thường xuyên, nhất là sau khi chung đụng với người bị cảm cúm. Thực tế phương thức này có phần khiếm nhã, cần tế nhị và khéo léo.

Tóm lại, Ebola là một bệnh dịch cực kỳ nguy hiểm mà cả thế giới hiện nay vẫn đang lấn cấn tìm cách đối phó.

Tin “mừng” cho dân ở Mỹ, là cho đến nay, chỉ mới có đúng một người được xác nhận đã chết vì bệnh, tuy đã có khoảng một trăm người còn đang ở trong tình trạng theo dõi.

Người này là anh Thomas Duncan, công dân Liberia, nơi Ebola đang hoành hành, nhưng có thẻ xanh sinh sống ở Dallas. Anh ta gần đây ở bên Liberia với một cô đào. Anh lấy máy bay từ Liberia về Dallas. Một tuần sau khi về tới nhà, anh cảm thấy khó chịu trong người, nghi ngờ và tới bệnh viện Texas Health Presbyterian. Tại đây, bác sĩ khám sơ qua, chẩn bệnh là bị cúm, cho thuốc trụ sinh rồi cho về. Vài ngày sau, anh bị liệt giường, ói mửa, khiến gia đình phải kêu xe cứu thương chở khẩn cấp vào bệnh viên, và tại đây họ đã xác nhận anh đang trong tình trạng nguy kịch vì Ebola. Anh bị cô lập trong nhà thương và không may, đã qua đời sau mấy ngày mặc dù có tin bác sĩ đã thử nghiệm nhiều loại thuốc mới để chữa trị cho anh.

Câu chuyện anh Duncan đưa ra ánh sáng nhiều vấn đề lớn.

Ebola hoành hành từ nửa năm nay, báo Mỹ đăng tin rầm rộ, và Nhà Nước Obama khẳng định đã sẵn sàng đối phó, với đầy đủ các biện pháp đã được ban hành trước là ngăn chặn Ebola vào được nước Mỹ, sau là nếu vào được thì cũng đầy đủ cách ngăn chặn.

Tháng Tám, TT Obama tuyên bố rõ ràng tất cả những biện pháp cần thiết đã được ban hành để không một bệnh nhân Ebola nào có thể lên máy bay đến Mỹ (nguyên văn: “all the necessary steps had been taken so that someone with the virus doesn’t get on a plane for the United States”).

Vụ anh Duncan cho thấy Nhà Nước Mỹ chẳng có gì sẵn sàng hết. Với những phản ứng luộm thuộm, hoàn toàn bất lực.

Anh Duncan ở Liberia đã sống và có “quan hệ” với một cô gái điạ phương, có con với cô ta nữa. Cô này bị bệnh, chính anh Duncan là người đã đưa cô vào bệnh viện, và tại đây cô chết vì đã dính Ebola. Anh Duncan sau đó tỉnh bơ về Mỹ để làm đám cưới với người hôn thê Mỹ. Khi rời phi trường ở Liberia, anh phải làm tờ khai đã có liên hệ với người nào bị Ebola không thì anh ta khai “không có”, một sự nói láo trắng trợn vì anh biết rõ người con gái anh có quan hệ đã chết vì Ebola. Rồi khi về đến Dallas, anh về ở với hôn thê, con cái, qua lại với họ hàng, bạn bè như bình thường.

Mấy thư ký, y tá tại bệnh viện Texas Health Presbyterian biết rõ anh này là dân Liberia, vừa mới ở Liberia qua được mấy ngày, có ghi trên phiếu nhập viện. Vậy mà không ai nghĩ là anh có thể bị Ebola, chỉ cho vài viên thuốc trụ sinh rồi cho về. Ta có thể tưởng tượng với những tin tức về Ebola tràn lan trên cả nước, cùng với những lời trấn an của Nhà Nước Obama, thì Bộ Y Tế cũng đã phải có chỉ thị cho tất cả các bệnh viện hay bác sĩ, nên cảnh giác và có biện pháp đề phòng rõ ràng. Việc nhân viên bệnh viện này lơ là chứng tỏ đã không có chỉ thị cảnh giác gì của Bộ Y Tế, và họ chỉ là một nhóm chuyên viên hoặc cực kỳ vô trách nhiệm, hoặc hết sức u tối, không đọc báo hay coi TV, chẳng biết Ebola đang hoành hành tại Liberia. Có tin gia đình anh Duncan sẽ thưa nhà thương ra tòa.

Sau khi khám phá anh bị Ebola, hôn thê và gia đình được nhà chức trách yêu cầu đừng ra khỏi căn hộ họ đang ở cùng anh Duncan. Nhưng họ bất chấp lời yêu cầu, vẫn ra đường như thường, khiến nhà chức trách phải áp dụng biện pháp mạnh hơn, mới đầu cho lính gác cấm cửa, mãi bốn ngày sau mới chở họ đi cô lập một nơi khác, rồi cho tẩy rửa, khử trùng căn hộ.

Có bốn đứa trẻ sống cùng với anh Duncan. Tin tức báo chí không nói rõ liên hệ của chúng với anh Duncan. Chỉ biết mấy đứa trẻ này vẫn đi học bình thường, chung đụng với bạn bè cùng trường đến khi bị cô lập.

Nhà chức trách gửi nhân viên y tế đến thu hốt mùng mền, chăn gối, dụng cụ ăn uống tính mang đi thiêu hủy, để rồi khám phá ra họ không di chuyển mấy thứ này đi đâu được hết. Đây là những “vật liệu nguy hiểm”, gọi là “hazardous materials” mà mọi vận chuyển phải có giấy phép của Bộ Y Tế và Bộ Giao Thông. Và mấy Bộ không biết Ebola có đủ tiêu chuẩn để được định nghiã là “nguy hiểm” chưa nên chưa cấp giấy phép được. Ebola nguy hiểm gì cũng không qua được thủ tục hành chánh của công chức! Để rồi đồ đạc được bỏ bao plastic, niêm phong, cất trong một nhà xe sau căn hộ, chờ giấy phép.

Cách đối phó với trường hợp anh Duncan cho thấy một hình ảnh hết sức đáng lo ngại về khả năng ngăn chặn Ebola của chính quyền Obama, ở cấp liên bang cũng như địa phương. Dĩ nhiên đây là trường hợp đầu tiên nên không tránh được lúng túng, sơ xuất. Nhưng vấn đề là nguy cơ của Ebola đã được biết trước cả 6 tháng nay rồi, và Nhà Nước Obama luôn khẳng định đã sẵn sàng trong khi thực tế cho thấy chẳng sẵn sàng gì hết để đến nay, cả nước Mỹ lo sót vó.

Ông “vua xách động” mục sư Jesse Jackson, đã mau chóng bay xuống Dallas, tự phong là phát ngôn viên của gia đình anh Duncan, và nêu đủ loại câu hỏi, trong đó có tại sao lại không chịu chữa trị cho anh Duncan lần đầu khi anh vào nhà thương, tại sao có 5 người bị Ebola đang chữa tại Mỹ, mà chỉ có anh Duncan là chết? Tại vì anh là da đen? Thật ra, những người khác bị Ebola đã được chữa trị ngay từ đầu, trong khi anh Duncan đợi đến lúc ói mửa ra máu, gần chết, mới được nhập viện, làm sao chữa kịp? Cái lỗi là việc làm tắc trách của đám y tá và thư ký nhà thương, chẳng liên hệ gì đến chuyện kỳ thị da đen. Nhưng ngày nào nước Mỹ còn những tay xách động cuyên nghiệp như Jesse Jackson thì ngày đó xung đột trắng đen vẫn không giải quyết được.

Có nhiều người đã đề nghị cấm đi lại giữa Mỹ và những nước Phi Châu đang bị dịch Ebola hoành hành. Biện pháp này dĩ nhiên không thực tế. Trong thế giới “mặt bằng” hiện nay, mỗi ngày có cả chục triệu người ngồi máy bay đi từ xứ này qua xứ nọ, rồi từ xứ nọ qua xứ khác, ai biết ai đi từ đâu đến đâu? Như anh Duncan đi từ Liberia qua Bỉ, rồi từ Bỉ đi Hoa Thịnh Đốn, từ Hoa Thịnh Đốn đi Dallas. Làm sao cấm hàng triệu người này đi lại khi họ có cả triệu lý do chính đáng để đi lại? Nhất là khi họ chưa có triệu chứng hiển hiện nào.

Tại một vài phi trường Phi Châu và mới đây tại Mỹ, tất cả hành khách đều phải đi qua máy đo nhiệt độ, nếu cao, có thể bị giữ lại kiểm tra kỹ hơn, có khi phải bỏ chuyến bay, đưa đi thử máu. Nhưng đây cũng không phải là phương pháp thực tế và hiệu nghiệm. Trong cả triệu người đi máy bay mỗi ngày, thiếu gì người hơi nóng, cảm cúm chút đỉnh, làm sao có thể thử máu cả ngàn người được?

Cách tốt nhất ngăn ngừa bệnh này phát tác có lẽ là từ chính người bệnh. Những người này phải ý thức được mối nguy mình tạo ra cho người chung quanh. Ngay khi ta bị cảm cúm, tốt nhất là cẩn trọng, càng tránh xa những người thân càng sớm càng tốt. Hay nên mang khăn che mũi miệng, mà VN bây giờ gọi là “khẩu trang”, tránh ăn uống chung, tránh ra đường.

Khi đi máy bay, có thể bị ho hay hắt hơi trên máy bay nên đeo vào để tránh làm cho mấy người ngồi cạnh lo sợ. Hay ta ngồi cạnh người nào ho hoài thì cũng nên đeo vào cho chắc ăn. Muốn lịch sự thì xin lỗi người bên cạnh và cứ nhận là mình đang bị cảm.

Anh Duncan là một bệnh nhân thiếu tinh thần trách nhiệm rõ rệt, khai gian là đã không có liên hệ với người đã bị bệnh. Rồi sau đó, bình thàn về nhà sống với hôn thê và mấy đưá trẻ. Nếu họ bị nhiễm bệnh thì hoàn toàn là lỗi của anh Duncan.

Một chuyện thiếu ý thức khác khiến bệnh Ebola khó trị tại Phi Châu là thông thường, bệnh nhân bị nhốt, cô lập rất kỹ. Nhiều người không muốn như vậy, vì vẫn coi thường, muốn được tự do đi lại. Nhiều bệnh nhân bên Phi Châu đã trốn nhà thương, chạy về nhà. Tệ hơn nữa, rất nhiều dân Phi Châu còn mê tín, tin vào những cách chữa trị của các thầy pháp trong làng, nên vẫn sống như thường với gia đình, rồi chữa theo bùa phép, cỏ cây, do các thầy pháp chỉ dạy.

Nhưng lý do quan trọng nhất khiến bệnh phát tác mau lẹ có lẽ là việc các nhà chức trách Phi Châu, cũng như Âu Châu, Tổ Chức Y Tế Thế Giới (World Health Orgamization-WHO), và nhất là Mỹ, vì nhu cầu muốn tránh hoảng loạn trong dân chúng đã luôn luôn khẳng định Ebola không dễ lây, khiến người dân cũng lơ là, không đề cao cảnh giá lắm.

Khi hai bác sĩ Mỹ bị Ebola được mang về chữa trị tại Atlanta, Nhà Nước Obama trấn an không có gì đáng lo vì bệnh này tuy lây nhưng không dễ lây. Những lời trấn an này trở thành rỗng tuếch khi thiên hạ coi truyền hình thấy những người bệnh cũng như các nhân viên nhà thương đón tiếp những người bệnh, tất cả đều mặc quần áo bít bùng như phi hành gia đi Hoả Tinh. Nếu không dễ lây, sao phải làm vậy?

Rồi tin mới nhất, một bà y tá Tây ban Nha đã lây bệnh sau khi săn sóc hai giáo sĩ bị Ebola từ Phi Châu về, bất chấp những biện pháp phòng ngừa hết sức kỹ lưỡng. Có tin bà y tá bị lây vì lỡ dụi mắt bằng găng tay đã đụng vào người bệnh nhân. Như vậy sao có thể nói không dễ lây?

Chính quyền Obama quyết định đưa 3.000 quân nhân qua Phi Châu để tiếp ngăn chặn sự bành trướng của Ebola. Số quân nhân này phần lớn là quân y đi qua tiếp tay cho các y tá, bác sĩ, và công binh đi qua để tiếp xây nhà thương, trại cấm. Đây là cử chỉ thiện chí đáng hoan nghênh, nhưng nhìn vào cách xử lý chuyện anh Duncan và chuyện bà y tá Tây Ban Nha, người ta không khỏi thắc mắc Nhà Nước Obama đã có biện pháp chu đáo để bảo vệ mấy ngàn quân nhân này chưa, hay lại để yếu tố chính trị khỏa lấp chuyện an toàn của họ.

Câu chuyện thiếu sẵn sàng của Nhà Nước Obama cũng phơi bày ra một nguy cơ mới, nguy cơ khủng bố cuồng tín Hồi giáo sẽ xử dụng Ebola, hay bất cứ bệnh dịch nào khác, làm vũ khí mới tấn công Mỹ.

Ta có thể tưởng tượng sự cuồng tín, sẵn sàng thí mạng cùi của các tên khủng bố đang sống cuộc sống cơ cực, mơ được lên thiên đàng với 72 trinh nữ. Họ có thể chấp nhận cho cấy vi khuẩn đủ thứ bệnh nguy hiểm như Ebola, rồi qua Mỹ, phát tán bệnh này ra cho dân Mỹ. Ta đừng quên phải cần từ một đến ba tuần vi khuẩn Ebola mới xuất hiện và đưa ra triệu chứng, trước đó tuyệt nhiên không có triệu chứng gì cả. Tức là mấy tên khủng bố có khoảng thời gian tới ba tuần để vào Mỹ tung bệnh ra. Làm sao ngăn chặn tình trạng này? Nhất là khi len qua biên giới Mễ quá dễ dàng.

Trả lời một câu hỏi trên truyền hình, bộ trưởng An Ninh Quốc Gia đã nói một cách mơ hồ là chính quyền chưa thấy có triệu chứng gì là có tình trạng như vậy. Vấn đề không phải là “chưa thấy gì” mà là chính quyền đã nghĩ đến và có biện pháp đề phòng chưa, chứ đợi đến lúc “thấy gì” rồi thì chỉ sợ là quá muộn thôi.

Vấn đề Ebola không phải là chuyện nhỏ không đáng quan tâm. Tất cả tùy thuộc cách đối phó của Nhà Nước, cũng như ý thức cẩn trọng của mỗi người dân. Cách đối phó hết sức luộm thuộm của Nhà Nước Obama cho đến bây giờ không giúp trấn an ai hết. Công bằng mà nói, chẳng phải Nhà Nước Obama không, mà cả thế giới, kể cả WHO cũng luống cuống trước cơn dịch quá lớn này. Nếu có một điều có thể nói là “an ủi” chúng ta được, làm cho chúng ta yên tâm hơn, thì điều đó chính là chuyện chúng ta đang sống ở Mỹ, là nước có hệ thống y tế tốt nhất thế giới, và nếu có một nước nào có đủ phương tiện kỹ thuật y học, tài chánh và nhân sự để đối phó, thì đó chính là nước Mỹ.

Cẩn tắc vô áy náy, nhưng không mất tỉnh táo. Xứ Mỹ với hơn ba trăm triệu dân, chỉ mới có một người bị Ebola chết thôi. Xác xuất tử vong khó hơn trúng số một trăm triệu đô. (12-10-14)

Ghi chú: Tác giả không phải bác sĩ y khoa, chỉ viết theo tài liệu. Muốn biết rõ hơn về Ebola, quý độc giả cần hỏi bác sĩ.

Vũ Linh

PHẢI KHÔN NGOAN THẾ NÀO ĐỂ ĐƯỢC CỨU RỖI ?

PHẢI KHÔN NGOAN THẾ NÀO ĐỂ ĐƯỢC CỨU RỖI ?

Tác giả: Lm. PX. Ngô Tôn Huấn

Chúng ta đang sống trong một thế giới điên loạn vì vô thần, vô luân , tôn thờ vật chất, tiền bạc và mọi thú vui vô luân vô đạo. Những người cầm quyền cai trị , dù là tư bản hay cộng sản, thì cũng chỉ quan tâm đến quyền lợi và địa vị của họ, của phe nhóm họ,  chứ không hề chú tâm gì đến phúc lợi của người dân và quan tâm đúng mức đến trách nhiệm duy trì và bảo vệ  luân lý, đạo đức, là nền tảng tinh thần vững chắc  cho mọi xã hội con người, khác xa loài vật, chỉ sống với bản năng và không có ý thức gì về luân lý, đạo đức.

Con người có lương tâm và ý thức đạo đức, nhưng lương âm này đã bị băng hoại cùng với ý thức đạo đức nên quá nhiều người ở khắp nơi  đã và đang đi vào con đường tội ác như giệt chủng ( racial genocide), khủng bố ( terrorism) mà bọn Hồi giáo quá khích ( ISIS) đang bách hại rất dã man  những tín  đồ thiểu số theo KitôGiáo và ngay cả  những người Hồi giáo khác,  không thuộc phe đảng của chúng, như thực trạng đang diễn ra ở Irak, Syria . Nạn giết hại trẻ nữ ( infanticide), (vì chính sách một con cho mỗi gia đình) rất dã man và tội ác,  vẫn tiếp tục diễn ra cách hợp pháp ở Trung hoa cộng sản và Ấn Độ trước sự làm ngơ của cả thế giới văn minh !

Mặt khác, vì quá  ham mê  tiền bạc  và tôn thờ  vật chất,  nên bọn tư bản  đen và đỏ nói chung , và cách riêng tập đoàn tài phiệt ở Mỹ  đã dùng tiền bạc để mua chuộc  giới  lập pháp để làm ngơ cho bọn chúng thi hành những sách lược kinh tài gian xảo  để vơ vét của cải, làm giầu cho bọn họ, bất chấp những  khó khăn của đa số dân lao động, không có tiền để mua bảo hiểm sức khỏe và nhân thọ khi về già..Các bệnh viện tư ở Mỹ không  hề  chữa miễn phí hay giảm bệnh phí cho ai bao giờ. Chúng  hoạt động  vì mục đích kiếm tiền, làm giầu cho bọn kinh doanh tư bản  chứ không vì lợi ích và thương xót gì người bệnh tật.

Tệ hại hơn nữa, trên bình diện luân lý, đạo đức, chưa bao giờ con người ở khắp nơi lại làm những sự dữ ở mức ghê sợ như hiện nay : tệ trạng buôn người (human trafficking) – đặc biệt là buôn bán phụ nữ và trẻ em cho kỹ nghệ mãi dâm và ấu dâm (child prostitution)  rất  khốn nạn và tội lỗi  đang gia tăng  ở mức không thể  ngăn chặn được , khiến hàng triệu phụ nữ và trẻ em đang là nạn nhân rất đáng thương của bọn người đã mất hết lương tri và bản tính thiện, trong đó có một số cha mẹ đã bán con cái dưới tuổi thành niên cho bọn ma cô tú bà ở trong và ngoài Viêt Nam. Bọn người bất lương này, cùng với bọn đi tìm thú vui vô cùng khốn nạn – là thú  dâm ô và ấu dâm-  đang tạo hỏa ngục trần gian cho chính bọn chúng và cho các nạn nhân chẳng may sa vào hỏa ngục của bọn người đã mất hết lương tri này.

Chưa hết, ở nhiều nước có truyền thống Kitô giáo lâu đời  như Pháp, Anh, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Canada  và Hoa kỳ, người ta đã cho tự do phá thai , li dị và hôn nhân đồng tình (same sex marriage) để đạp đổ mọi  nền tảng  và giá trị thiêng liêng của sự sống con người,  của truyền thống hôn nhân giữa người nam và người nữ  theo thánh ý của Thiên Chúa , Đấng đã tạo dựng con người có nam có nữ và truyền cho họ  sứ  mệnh  phải   sinh  sôi nẩy nở  thật nhiều, cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất ( St 1 : 28)

Trước những thực  trạng  rất  đáng buồn  nói trên của thế giới vô thần  và tục hóa ngày nay, là người tín hữu Chúa Kitô, chúng ta phải sống khôn ngoan thế nào để cứu mình và cứu người khác thoát khỏi nọc độc  của “ văn hóa sự chết” đang bao trùm thế giới  hiện nay ?

Nói đến khôn ngoan, ta phải nghĩ ngay đến Vua Salomon con vua Đavid , trong thời Cựu Ước xưa, là người chỉ xin Chúa cho được thần trí  khôn ngoan  để cai trị dân , và  đã ca tụng ơn quí trọng  này như  sau:

“ Vậy tôi nguyện xin, và Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết

Tôi kêu cầu và thần khí Đức Khôn Ngoan đã đến với tôi

Đức Khôn Ngoan tôi đã quí trọng còn hơn cả vương  trượng, ngai vàng

đối với tôi,  trân châu bảo ngọc

chẳng sánh được với  Đức Khôn ngoan

Và vàng trên cả thế giới, so với Đức Khôn Ngoan

Cũng chỉ là cát bụi.

Và bạc, so với Đức Khôn Ngoan

Cũng chỉ là cát bụi. ( Kn 7: 7-9)

Nhà vua không xin Thiên Chúa cho ông được giầu sang, vinh hiển  mà  chỉ xin cho được  ơn hiểu biết và  khôn ngoan để cai trị một dân đông đúc “không đếm nổi”.  Thiên Chúa đã nhậm lời khẩn cầu của Vua Salômôn và phán bảo ông như sau:

Ta ban  cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi,

trước ngươi chẳng một ai sánh bằng , và sau ngươi, cũng chẳng  có ai bì kịp. ( 1 V 3: 12)

Với ơn khôn ngoan hiếm có trên đây, vua Sa lô môn đã trỗi vượt hơn “ tất cả mọi người Phương Đông và hơn tất cả sự khôn ngoan của Ai Cập.” ( Sđd  5: 10) khiến người khắp nơi kéo đến để được nghe những lời khôn ngoan của Vua.

Đức khôn ngoan đó chính là phương thế  mà Thiên Chúa dùng để  điều khiển vũ trụ và sự sống của con người trên trần thế này. Nghĩa là mọi trật tự trên trời dưới đất,  mọi sự sinh tồn  của vạn vật, từ loài người cho đến hoa lá cỏ cây và mọi loài động vật khác,  đều được  điều khiển  và quan phòng trong sự khôn ngoan tuyệt  đối của Thiên Chúa là Vua vũ trụ  là  Đấng Tạo Hóa toàn năng, thượng trí.

Cho nên, là tạo vật có lý trí và ý muốn tự do ( free will), con người – cách riêng người tín hữu Chúa Kitô-  được mong đợi sống sao cho phù hợp với sự khôn ngoan của Thiên Chúa để được hạnh phúc ngay  trong cuộc sống trên trần gian này , và nhất là được sống hạnh phúc vinh cửu với Chúa trên Nước Trời mai sau.

Nhưng muốn được khôn ngoan theo Chúa thì phải từ bỏ cái khôn ngoan của loài người.

Thí dụ cụ thể là trong Tin Mừng Thánh Matthêu, Chúa Giê su nói cho các môn đệ biết là Người sẽ phải chịu  nhiều đau khổ, bị phản bội, bị bắt bớ và bị giết  chết trên thập giá trước khi được sống lại vinh quang. Nghe thế, Phêrô, môn đệ  đã tuyên xứng Chúa là Đấng Kitô  trước đó, bèn kéo Chúa ra ngoài và thưa với Người rằng : “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp những chuyện ấy.”

Chúa đã trả  lời nghiêm khắc với Phêrô như sau: Xa tan, lui ra đằng sau Thầy. Anh cản lối Thầy ,vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa  mà là của loài người. ( Mt 16:  22-23; Mc 8: 31-33)

Phêrô can ngăn Chúa vì đã hành động đúng theo khôn ngoan của loài người. Với khôn ngoan này, không ai muốn chịu sự gì khốn khó như  bệnh tật, nghèo đói, bị khinh chê, lăng mạ  hay hành hung. Ai cũng muốn được giầu có, danh vọng  và khỏe mạnh, trẻ mãi không già. Chính vì thế mà con người ở khắp mọi nơi và mọi thời đại, đã và đang mải mê  đi tìm tiền của,  danh vọng và mọi thú vui theo  đòi hỏi của  bản năng, dù là trái với luân lý đạo đức. Nghĩa là phải khôn ngoan để thu được càng nhiều  lợi lãi  về tiền bạc, của cải , danh vọng  và vui thú càng tốt.

Cụ thể ở Mỹ, thời ông  Bill Clinton còn  làm tổng thống,  để gây quĩ cho ông, ông đã dùng cả tiểu xảo là đặt  giá  5000 đôla  (năm ngàn) cho ai muốn vào ngủ một đêm ở Nhà Trắng (White House = Dinh Thổng Thống), và 10000 ( mười ngàn) đô cho ai vừa ngủ đêm và ăn sáng với Tổng Thống ! vậy mà  có biết bao người đã hưởng ứng để mua  cái vui và danh hảo huyền này !

Chưa hết, khi công nương Diana của Nước Anh ( bị tai nạn xe hơi chết ở Paris năm 1997)  đến viếng Nữu Ước, có người đã bỏ ra cả 100,000 ( trăm ngàn) đô la để chỉ xin được ngồi gần công nương trong bữa tiệc thành phố khoản đãi  bà dịp này !.( theo tiết lộ của báo chí Mỹ) .

Đó là danh vọng và lợi lãi mà biết bao người sống với khôn ngoan của con người đang đi tìm ở khắp nơi trên thế giới xưa và nay.

Và với não trạng này, thì sự kiện Chúa Giêsu sinh ra trong hang lừa máng cỏ giữa mùa đông giá lạnh và chết trần trụi trên thập giá là điều ô nhục , là điên rồ và thất bại  theo khôn ngoan của loài người. Nhưng theo Thánh Phaolô dạy, thì “cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người.” ( 1 Cr  1 : 25)

Chính vì  Chúa Giê su  “điên rồ và dại dột” xét theo khôn  ngoan của con người, mà nhân loại được  tha tội  và cứu chuộc để có hy vọng  được sống hạnh phúc vĩnh cửu trên Nước Trời  mai sau.

Lại nữa , cũng chính vì không khôn ngoan theo kiểu của loài người, nên Chúa Giêsu Đấng vốn giầu sang phú quí, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh  em để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh  em được trở nên giầu có. Trên Thiên Quốc như Thánh Phaolô đã dạy. ( 2 Cr 8:9). Đây là sự khôn ngoan dành riêng cho các tông đồ lớn nhỏ của Chúa ngày nay trong Giaó Hội  phải noi gương bắt chước để đừng thi nhau đi tìm tiền ở khắp nơi, và lơ là trong sứ vụ thiêng liêng là rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô, Đấng đã sống khó  nghèo  đến nỗi không có chỗ  tựa đầu, trong khi chim trời có tổ và con chồn có hang. ( Mt 8: 20)

Chưa hết, Mẹ Tê –rê- Xa ( nay là Chân Phước = Blessed) thành Calcutta  cũng đã chịu “ngu dại” theo khôn ngoan của con người để ôm lấy những người nghèo đói bệnh tật nằm vất vưởng ngoài đường phố để mang về săn sóc , thuốc men  và cho ăn uống trong Tu viện bác ái của Mẹ. Nhưng  sự  “dại khờ” của Mẹ đã chính phục được sự khâm phục  và yêu mến của biết bao người trên khắp thế giới,  và nhiều người  vô thần đã được ơn nhận biết Chúa qua gương  sống chứng nhân bác ái của Mẹ và các nữ tu của Mẹ

Trái nghịch với khôn ngoan  của Thiên Chúa  thể hiện nơi Chúa Kitô, Đức Mẹ . các Thánh, đặc biệt,  và cụ thể nơi  các anh hùng Tử Đạo, và  Mẹ Tê rê Xa…khôn ngoan của con người ở khắp nơi  là  say mê  đi tìm tiền của, danh vọng, tham ô hối lộ  và  ăn cắp của công để gửi tiền ra nước ngoài phong thân;  cũng như tìm     mọi cách để được sống lâu và trẻ mãi không già.   Cách riêng phụ nữ   đã và đang  thi nhau đi sửa sắc đẹp cho thân hình thêm  “hấp dẫn và quyến rũ” để làm giầu cho các viện thẩm mỹ ở trong và ngoài nước , mặc dù  có thể chuốc lấy tai họa cho mình. vì có  biết bao người đã chết và mang  bệnh ung thư  vì hậu quả sửa sắc đẹp .

Với những  người  sống theo khôn ngoan của thế gian để đi tìm tiền của, danh vọng và “sửa sắc đẹp” cho thân  xác có ngày phải chết  đi này,  xin  hãy mở tai  nghe lời khuyên dạy của Thánh Phao lô  sau đây:

“ Nếu trong anh  em có ai tự cho mình là khôn ngoan  theo thói đời, thì hãy trở nên như điên rồ  để được khôn ngoan thật. Vì sự khôn ngoan của đời này  là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa, như  có lời chép rằng : Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của chúng. Lại có lời chép rằng : tư tưởng kẻ  khôn ngoan,  Chúa đều biết rõ : thật chỉ như cơn gió thoảng ngoài.” ( 1 Cr 3: 18-20).

Như vậy , nếu muốn  sống theo khôn ngoan của Thiên Chúa để được cứu rỗi và vui hưởng hạnh phúc Nước Trời, thì “ đừng lo tìm cho có gì để ăn có gì để uống  và đừng băn khoăn. Vì  tất cả những thứ đó, dân ngoại trên thế gian vẫn tìm kiếm; nhưng Cha của anh  em thừa biết anh  em cần những thứ đó, Vậy hãy lo tìm  Nước của Người , còn các thứ kia Người sẽ  thêm cho.” ( Lc 12: 29-31)..

Và cũng trong mục đích phải  tìm kiếm sự sang  giầu bền vững mãi mãi theo khôn ngoan của Thiên Chúa, mà  Chúa Giêsu đã  dạy các môn đệ xưa và tất cả chúng ta ngày nay là : “ hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh  em biết:  có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể  được.( Lc 13: 24).

Qua  cửa hẹp mà vào có nghĩa là đừng khôn ngoan theo người đời để đi tìm những của cải, danh vọng và vui thú chóng qua ở đời  này,  mà trái lại,    “hãy săm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén bảng, mối mọt cũng không đục phá.. ( Lc  12: 33)

Sắm những báu vật ở trên trời, thể hiện qua nỗ lực sống theo đường lối của Chúa để được cứu rỗi  chính  là sự  khôn ngoan mà người tín hữu chúng ta phải kiếm tìm trên hết mọi sự , vì nếu người nào được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống ( mất linh hồn) thì nào có có lợi  gì ? hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình ? (Mt 16: 26; Mc  8: 36; Lc 9 : 25)

Thử hỏi : có ai được cả thế giới này làm lợi lãi đâu ?  Nhưng  dù có chiếm được mọi của cải , giầu sang  và vui thú  trên trần gian  này mà  cuối cùng mất linh hồn thì được ích gì ?

Đó là sự ngu ngốc của một phú hộ kia , ngây thơ sống với khôn ngoan của người đời  nên đã  cho xây nhà lớn để tích trữ  của cải lương thực   để “cứ ăn chơi cho đã” . Nhưng Chúa bảo ông ta : Đồ ngốc ! nội đêm nay , người ta sẽ  đòi lại  mạng  ngươi thì những gì ngươi sắm sẵn đó, sẽ về tay ai ?  Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình mà không lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa thì số phận cũng như thế đó. ( Lc  12:  20-21)

Đó là sự khôn ngoan mà Thiên Chúa muốn cho chúng ta tìm kiếm để sống  niềm tin có Chúa, có  hạnh phúc  đời đời đã dọn sẵn cho những ai  yêu mến Chúa trên hết mọi sự  trong trần thế này . Nói thế  không có nghĩa là chúng ta không được phép tìm tiền  bạc  để chi dùng cho những nhu cầu chính đáng của thân xác như cơm ăn, áo mặc, nhà ở và phương tiện di chuyển, bảo hiểm sức khỏe cho mình và cho gia đình thân thuộc. Ngược lại, chúng ta phải cố gắng làm việc cách lương thiện  để có phương tiện thỏa mãn những nhu cầu chính đáng nói trên.

Nhưng trên hết,  phải  sống  và trân quí  cái khôn ngoan mà tác giả sách Châm Ngôn đã viết như sau:

Hạnh phúc thay, người được  trí  khôn ngoan

Cũng như người được tài phán đoán

Vì được khôn  ngoan thì  hơn được bạc

Được hưởng lợi ích của khôn ngoan thì hơn được vàng

Khôn ngoan quý hơn cả  trân châu

Không bảo vật nào của con so sánh nổi. ( Châm ngôn 3:  13-15)

Tóm lại, là người tín hữu Chúa Kitô sống trong một thế giới ngày một thêm tục hóa, phi nhân và vô luân hiện nay, chúng ta được mong đợi chê ghét cái khôn ngoan của người đời,  để đừng chậy theo  những lôi cuốn của thế gian  về danh lợi hư hèn, về tiền bạc phù vân  và nhất là  xa lánh , ghê tởm  thú vui vô luân vô đạo của bọn người đã mất hết lương tri  đang đi tìm thú vui “ấu dâm” rất khốn nạn và tội lỗi, khiến gây thương tật thể xác và trấn thương tinh thần  cho biết bao trẻ em đáng thương  bị bán làm vật mua vui rất  khốn nạn  cho bọn già trẻ, xồn xồn  đang  lao mình vào con đường hư mất đời đời này.

Phải sống cái khôn ngoan của Thiên Chúa để không những mưu ích  cho phần rỗi  của mình mà cũng để lôi kéo những người đang chạy theo khôn ngoan của con người  say mê tiền của, danh vọng và vui thú vô luân vô đạo trong khi  dửng dưng với người nghèo khó, người đau khổ là  nạn nhân của các chế độ tàn ác, bóc lột và bất công ở khắp nơi trên thế giới điên loạn hiện nay.

Lm Phanxicô xaviê  Ngô Tôn Huấn

Hiến kế diệt Chuột

Hiến kế diệt Chuột

Đập “bình” phải đập cái bình…phong!

(Tiếp lời nhà báo Phạm Chí Dũng) (1)

Hà Sĩ Phu

Lời phát biểu của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã dấy lên một cuộc hội luận về “Quan hệ giữa việc đánh chuột và bảo vệ chiếc bình quý”. Tôi lấy làm mừng vì chiếc bình quý này cũng chính là chiếc bình…phong mà chúng ta đã nhiều lần nhắc tới! Lời nói tận đáy lòng của ông Tổng bí thư đã dẫn chúng ta đến chỗ cần phải đến.

Nhiều bài tham luận khắp nơi, trong và ngoài nước gộp lại, đã làm sáng tỏ được 2 điều: thực tiễn nước ta hiện nay không có Bình nào là bình “quý” cả , vì Bình chẳng những là nơi ẩn nấp của Chuột mà còn là nơi sinh ra Chuột. Cuối cùng thì chính Bình còn tệ hại hơn Chuột, Bình mới là cái cần diệt trước rồi mới diệt được Chuột.

Tác giả Nguyễn Huy Canh (2) kết luận “Tham nhũng ở VN, nó được sinh ra từ chế độ đảng trị-toàn trị” (và chế độ này đang được đại diện bởi Bộ Chính trị mả Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng là người đứng đầu, giữ ổn định cho “cái bình quý” chính là giữ ổn định ghế cho bộ phận đầu não này thôi ! HSP). Nhà báo Phạm Chí Dũng cũng chính thức nêu câu hỏi “nhiều đảng viên cao cấp lão thành đã tranh luận công khai về việc chỉ cần “diệt chuột” hay nên “đập bình” để xóa đi làm lại tất cả”?. Và như để giải đáp luôn, phải đập bình làm lại từ gốc là duy nhất đúng, ông đã thách thức “Hãy chờ xem những người bên đảng có dám đứng thẳng để “đập bình diệt chuột” hay không”?

Đến đây, xin được nối tiếp câu chuyện bằng những suy nghĩ riêng mà bấy lâu nay tôi đã từng bước đề cập.

Muốn đánh “địch” phải nhận diện địch cho rõ (địch chẳng qua là yếu tố cản bước tiến của dân tộc thôi, không phải kẻ thù) . Ta vừa nói “địch” ở đây là cả Chuột lẫn Bình, nhưng Chuột là những ai, và Bình là những ai?

Không phải ngẫu nhiên mà cả Hồ Chí Minh và các hậu duệ như ông Nguyễn Phú Trọng đều đề cao danh ngôn “đánh chuột phải cẩn thận, kẻo vỡ cái bình quý”. Giữ BÌNH đây chính là giữ cho mình (3) (4). “Mình” ở đây không chỉ là các cá nhân rời rạc mà là toàn bộ cái hệ thống chính trị Mác-xít đã mắc “lỗi hệ thống”, hệ thống các vua tập thể mà các Tổng bí thư luôn là người đại diện cao nhất, tức cái hệ thống độc đảng toàn trị, lấy chủ nghĩa Mác-Lê và Hồ Chí Minh làm kim chi nam và làm chỗ dựa không gì thay thế được.

Nếu BÌNH đã là cả một hệ thống như vậy thì CHUỘT cũng là một hệ thống khổng lồ không kém. Đối với nhân dân Việt Nam hiện nay thì lũ CHUỘT tàn phá đất nước phải gồm cả 3 loại: tham nhũng, phát xít đàn áp dân và bọn bán nước cầu vinh, mà gộp chung lại là giặc NỘI XÂM. Như vậy thì một bộ phận không nhỏ của BÌNH cũng chính là CHUỘT rồi.

Quan hệ giữa tập đoàn BÌNH và tập đoàn CHUỘT rõ là quan hệ gắn bó tương sinh, tương dưỡng, bởi đã có định luật bất di bất dịch: Quyền lực tuyệt đối thì Tham nhũng tuyệt đối! Nói cái BÌNH đẻ ra CHUỘT là vì vậy.

BÌNH chẳng những che chở cho CHUỘT mà từng bộ phận cũng biến thành CHUỘT luôn (về cả hai mặt tham nhũng kinh tế và bán rẻ chủ quyền đất nước), ngược lại CHUỘT cũng phải nhẩy vào BÌNH chiếm lấy quyền cho chắc ăn. Cứ thế BÌNH và CHUỘT ngày càng hòa trộn, rất khó tách biệt, dẫu có giận nhau vì ăn chia không đều nhưng cuối cùng vẫn phải đứng chung trong một chiến hào, sau một cái BÌNH… PHONG chung là Mác-Lê và Hồ Chí Minh. Cái BÌNH PHONG ấy mới là cái BÌNH lớn nhất mà cả BÌNH và CHUỘT đều phải giữ cho kỳ được. BÌNH PHONG còn thì tất cả còn, BÌNH PHONG mất thì cả BÌNH lẫn CHUỘT cũng mất!.

Khi cả hai tập đoàn CHUỘT và BÌNH đều quá khổng lồ, lại dựa vào nhau thì sức mạnh nào có thể chống trực tiếp? Bao lâu nay đảng thì hô chống tham nhũng, những người dân chủ thì hô chống độc tài nhưng kết quả chưa được bao nhiêu chính là vì thế.

Nhưng “thiên bất dung gian”, người khổng lồ nào, nhất là khổng lồ gian dối, tất cũng có “gót chân Achilles”. Gót chân Achilles của tập những đoàn cướp ngày là bắt buộc phải có quyền tuyệt đối, có con dấu, dựa trên một danh nghĩa, một điểm tựa tiền định, như một tiền đề mặc nhiên không cần chứng minh, không cần và không được phép dựng phản đề. Đó chính là cái bàn thờ, là cái BÌNH PHONG Mác-Lê-Hồ, mà trong ba ngôi đó thì Mác và Lê đã lu mờ dần về vị trí thứ yếu. Cái gì mà đối phương cố sống cố chết giữ cho bằng được, như một thứ bất biến được sử dụng để ứng vạn biến thì đó chính là cái gót chân Achilles của họ. Rất dễ nhận ra gót chân Achilles ở đây là cái BÌNH PHONG đã được thần thánh hóa mà toàn dân phải quỳ lạy.

Vậy xin tiếp lời nhà báo TS Phạm Chí Dũng, muốn đập cả cái bình (vĩ đại) và diệt lũ chuột (khổng lồ)” không còn cách nào khác là phải làm đổ cho được cái BÌNH PHONG đang bao trùm và che chắn cho cả hai “kẻ địch” ấy. Cứ đổ cái BÌNH PHONG là cả CHUỘT lẫn BÌNH đều phải chường cái MẶT THẬT trước thanh thiên bạch nhật, cả hai sẽ mất hết nội lực, bài bản cướp ngày bị cháy vở ngay, hàng ngũ CHUỘT sẽ tan rã trong nháy mắt, sẽ chạy mất giép nếu không muốn đầu hàng trước SỰ THẬT mà trở về với nhân dân, làm ăn lương thiện! Chẳng tin cứ thử mà xem!

Khi cái BÌNH PHONG đã thành lá chắn vạn năng, thành pháo đài bất khả xâm phạm của cả BÌNH và CHUỘT thì trước mắt vì sự tồn vong của dân tộc, hãy cất cái BÌNH PHONG ấy đi, tạm xếp vào viện bảo tàng để hạ hồi phân giải, mặc dù tư liệu hiện nay kể cũng đã khá phong phú. Tất nhiên cả BÌNH và CHUỘT đều không chấp nhận từ bỏ nơi ẩn nấp này, sẽ tìm mọi cách giữ cho BÌNH…PHONG khỏi vỡ. Nhưng kỷ nguyên của thông tin và sự thật sẽ cho lẽ phải một sức mạnh hơn bom nguyên tử.

Cuối cùng, thái độ đối với cái BÌNH PHONG HCM ấy chính là thước đo cả TRÍ, cả TÂM và hiệu quả thực tế của bất cứ một phác đồ điều trị nào nếu muốn “lành mạnh hóa” xã hội để giải phóng nhân dân và đất nước vậy.

12-10-2014

H.S.P

Tác giả gửi BVN

(1) Phạm Chí Dũng- TỔNG BÍ THƯcó dám đập bình diệt chuột: http://www.ijavn.org/2014/10/tbt-trong-co-dam-ap-binh-diet-chuot.html

(2) Nguyễn Huy Canh- Ném chuột sợ vỡ bình, buồn thay Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng: http://www.ijavn.org/2014/10/nem-chuot-so-vo-binh-buon-thay-tong-bi.html

(3) Nguyễn Tiến Trung- Đánh chuột giữ bình hay gữ mình: http://danquyenvn.blogspot.nl/2014/10/anh-chuot-giu-binh-hay-giu-minh.html#more

(4) Cánh cò- Bình là ông mà chuột cũng ông: http://basam.info/2014/10/09/3022-binh-la-ong-ma-chuot-cung-ong/#more-134580

Nói cho sướng miệng

Nói cho sướng miệng

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-10-10

RFA

IMG0017-622.jpg

Diễn đàn Kinh tế Mùa thu tổ chức tại Ninh Bình ngày 27 tháng 9 năm 2014.

Courtesy Vneconomy

Kinh tế thị trường là tinh hoa của nhân loại?

“Kinh tế thị trường là tinh hoa của nhân loại và thể chế kinh tế của Việt Nam phải là thể chế kinh tế thị trường.” Đây là quan điểm của Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư Bùi Quang Vinh được báo điện tử Thời báo Kinh tế Việt Nam trích thuật, khi đưa tin về Diễn đàn Kinh tế Mùa thu tổ chức tại Ninh Bình vào cuối tháng 9/2014 vừa qua.

Theo Vneconomy.vn, tại Diễn đàn này ông Trương Đình Tuyển nguyên bộ trưởng Thương mại, cố vấn cao cấp của Chính phủ về đàm phán hội nhập quốc tế, một lần nữa đề cập đến nhu cầu xây dựng thể chế kinh tế thị trường hiện đại cho Việt Nam. Thể chế đó bao gồm ba trụ cột là thị trường, Nhà nước và xã hội dân sự.

Nhận định về những phát biểu đầy ấn tượng tại Diễn đàn Kinh tế Mùa thu 2014, TS Nguyễn Quang A nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS, một tổ chức tư nhân ở Hà Nội đã tự giải thể khi chính phủ ra nghị định ngăn trở tính hoạt động độc lập của IDS, phát biểu:

“Tôi nghĩ những tiếng nói như thế đã được cất lên rất nhiều lần và được cất lên rất là may mắn, bây giờ không phải là những người như là tôi cách đây mười năm chẳng hạn. Mà bây giờ chính từ miệng những người đang gọi là cố vấn hoặc là để hoạch định chính sách cho những nhà lãnh đạo và như thế có nghĩa rằng thực sự họ là những người ảnh hưởng rất mạnh đến quyết định. Còn bản thân những người sử dụng các cố vấn, những người tư vấn như thế, họ có nghe hay không, vì lý do này hay lý do kia, thì lại là một chuyện khác. Tôi e rằng các ông ấy cũng nói như thế để cho nó sướng mồm và cũng là để làm cảnh mà thôi. Bởi vì nhìn những việc làm của những người có trách nhiệm trong khoảng 10 năm trở lại đây mà họ nắm quyền quyết định về kinh tế, thì tôi nghĩ rằng họ đã hủy hoại nền kinh tế này một cách rất là nhất quán và tôi khó có thể tin được đây là những tiếng nói sẽ được lắng nghe.”

” Những người sử dụng các cố vấn, những người tư vấn như thế, họ có nghe hay không, vì lý do này hay lý do kia, thì lại là một chuyện khác. Tôi e rằng các ông ấy cũng nói như thế để cho nó sướng mồm và cũng là để làm cảnh mà thôi.
-TS Nguyễn Quang A”

Trong giới khoa bảng của Việt Nam không phải ai cũng đồng ý kinh tế thị trường là tinh hoa nhân loại như quan điểm của Bộ trưởng Bùi Quang Vinh. Theo Vneconomy.vn, Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hồng Sơn, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) trình bày trước Diễn đàn với ý kiến khác biệt. Theo lời ông, kinh tế thị trường không phải là phương thuốc vạn năng để chữa tất cả các căn bệnh của nền kinh tế Việt Nam. Ông Sơn nhắc lại lịch sử kinh tế thế giới với sự thất bại của thị trường hay nhà nước hoặc cả hai bên đều thất bại như thời kỳ đại suy thoái 1929-1933,  trì trệ kinh tế 1980, khủng hoảng kinh tế Đông Á 1997 hay khủng hoảng tài chánh ở Hoa Kỳ 2008-2010.

Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hồng Sơn trình bày quan niệm của ông mà nhiều người cho rằng sẽ làm giới bảo thủ hài lòng, vì sẽ không có cải cách triệt để mà chỉ có điều chỉnh từng phần. Theo đó Việt Nam “cần có thể chế phù hợp cho hoạt động của nền kinh tế thị trường. Và thể chế này bao gồm các vấn đề liên quan đến sở hữu, đến luật cạnh tranh và độc quyền và sau hết là cơ chế giải quyết tranh chấp một loạt các thứ khác.”

Theo VnEconomy, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương Nguyễn Đình Cung không giấu được sự giận dữ khi trao đổi với PGSTS Nguyễn Hồng Sơn. Cựu Bộ trưởng Trương Đình Tuyển góp ý là chính vì thị trường và nhà nước đều có thể thất bại cho nên rất cần có sự hiện diện của xã hội dân sự.

Đáp câu hỏi của chúng tôi là Việt Nam vừa ban hành Hiến pháp 2013 (sửa đổi) nay để áp dụng kinh tế thị trường đúng nghĩa sẽ lại phải sửa Hiến pháp một lần nữa. Chuyên gia tài chánh Bùi Kiến Thành từ Hà Nội nhận định:

“Kinh tế Việt Nam là kinh tế nhiều thành phần vận hành theo kinh tế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước. Việc này từ thời 1985-1986 đó là bước đầu chập chững bước vào kinh tế thị trường, bây giờ các vị lãnh đạo đi cùng khắp thế giới qua bên Mỹ qua bên pháp gặp Tổng thống Pháp, Tổng thống Mỹ yêu cầu công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường…Có nghĩa là những tư duy cổ lỗ sỉ mấy chục năm trước dần dần phải tiêu pha đi thôi và nếu phải sửa đổi Hiến pháp để quyết liệt đi vào kinh tế thị trường, nếu cần đổi Hiến pháp thì phải đổi thôi cho đúng với thời đại, đó là lẽ tất nhiên. Tôi không thấy có gì trở ngại.”

0-b8680-400.jpg

Nguyên Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Mùa thu tổ chức tại Ninh Bình ngày 27 tháng 9 năm 2014. Courtesy Vneconomy.

Đối với quan điểm của nguyên Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển về việc Việt Nam cần xây dựng thể chế kinh tế thị trường bao gồm ba trụ cột là thị trường, Nhà nước và xã hội dân sự. Chuyên gia Bùi Kiến Thành nhận định:

“Nếu chưa có thì sẽ phải có thôi, tương lai gần chưa có thì xa xa một chút cũng phải làm. Đó là lẽ tất nhiên, ông Tuyển nói rất đúng và lần lần chúng ta sẽ phải đi đến bước xa hơn nữa. Chẳng những là kinh tế với ba trụ cột ấy mà nhà nước pháp quyền cũng phải có ba trụ cột của nó, tức là Hành pháp Lập pháp và Tư pháp. Việc ấy lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam chưa có quán triệt được những nhu cầu của một nền dân chủ pháp trị và nền kinh tế thị trường thực sự. Rồi từ từ chúng ta sẽ phải đi đến thôi đó là lẽ tất yếu của một nền kinh tế thị trường và của một nhà nước pháp quyền. Bao giờ sẽ đi đến đích là còn tùy theo sự quán triệt hiểu biết và sự quyết tâm của các nhà lãnh đạo Việt Nam mà thôi.”

Xã hội dân sự

Theo những gì báo chí đưa lên mạng, Nhà nước Việt Nam chưa biểu lộ sự ủng hộ việc thiết lập xã hội dân sự một cách độc lập ở Việt Nam. Vneconomy.vn trích lời ông Trương Đình Tuyển cố vấn cao cấp của Chính phủ về đàm phán hội nhập quốc tế tại Diễn Đàn Kinh tế Mùa thu 2014. Theo lời ông, khi tham gia đàm phán gia nhập các hiệp định TPP và FTA “có một từ đang khiến các nhà đàm phán đau đầu tìm từ thay thế. Đó là sự tham gia của ‘xã hội dân sự’ vào hoạch định chính sách cũng như vào quá trình xử lý tranh chấp.” Ông Tuyển nhấn mạnh, nhà nước chúng ta không cho dùng từ “xã hội dân sự” trên các văn bản công khai nên các nhà đàm phán phải đau đầu.

Theo LS Trần Quốc Thuận, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội hiện cư trú ở Hà Nội, việc thiết lập các tổ chức xã hội dân sự cần được điều chỉnh bằng luật cơ bản là Luật Lập hội qui định trong Hiến pháp. Tuy vậy Quốc hội dưới sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trì hoãn vấn đề này. Ông nói:

” Bây giờ có một số anh em đứng lên thực hiện mười mấy tổ chức xã hội dân sự nhưng tôi thấy còn mỏng lắm và cũng không có những gương mặt sáng giá.
-LS Trần Quốc Thuận “

“Bây giờ có một số anh em đứng lên thực hiện mười mấy tổ chức xã hội dân sự nhưng tôi thấy còn mỏng lắm và cũng không có những gương mặt sáng giá. Dĩ nhiên khởi xướng của anh em rất là đáng khuyến khích hoan nghêh nhưng mà để đảm bảo những tổ chức đó hoạt động chính là cơ sở pháp luật, nếu không có Luật Lập hội thì làm sao những tổ chức đó có cơ sở để phát triển được. Chính quyền muốn dẹp lúc nào thì dẹp.”

Theo trang mạng Infonet, tham luận của chuyên gia kinh tế TS Lê Đăng Doanh tại Diễn Đàn Kinh tế Mùa thu 2014 đã phác họa lên một bức tranh kinh tế Việt Nam đầy thách thức. Vấn đề nợ xấu, sự nhận diện cơ cấu nợ xấu, sở hữu chéo và xử lý nợ xấu qua Công ty mua bán nợ VAMC thực chất chưa khai thông nợ xấu. Ông Doanh nhận định “không có tiền tươi thóc thật “cục máu đông” nợ xấu vẫn còn cản trở quá trình lưu thông của tín dụng trong nền kinh tế. Theo kinh tế gia Lê Đăng Doanh tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước thời gian qua chủ yếu tập trung vào cổ phần hoá tuy nhiên tiến độ cổ phần hóa vẫn rất chậm chạp, tỷ lệ vốn huy động thấp. Ông Lê Đăng Doanh cho rằng bên cạnh tái cơ cấu khu vực kinh tế nhà nước, cần có đề án tái cơ cấu khu vực kinh tế dân doanh, động lực quan trọng của nền kinh tế và là khu vực tạo ra nhiều việc làm nhất cho xã hội. Khu vực này gặp khó khăn rất nhiều và không được nhà nước hỗ trợ, theo thống kê có tới 200.000 doanh nghiệp tuyên bố phá sản trong năm 2013.

Vẫn theo trang mạng Infonet, kinh tế gia Lê Đăng Doanh vạch ra hai nhược điểm trong tái cơ cấu nền kinh tế. Thứ nhất là vai trò của khoa học-công nghệ hầu như chưa được đề cập đến như một nhiệm vụ hàng đầu để thúc đẩy hiệu quả, năng lực cạnh tranh. Thứ hai là, tái cơ cấu nền kinh tế Việt nam chưa xét đến các yếu tố hội nhập quốc tế. Ông Doanh cho rằng Việt Nam đang hội nhập sâu rộng với thế giới, như chuẩn bị tham gia AEC Hội đồng kinh tế ASEAN và TPP Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương…Nền kinh tế và doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp những thách thức rất lớn như các yêu cầu về hợp tác, liên kết, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, hợp tác với các tập đoàn lớn của nước ngoài, đáp ứng các yêu cầu sở hữu trí tuệ, vệ sinh an toàn thực phẩm, đón nhận những thay đổi về thị trường lao động.

Kể từ Diễn đàn Kinh tế mùa Xuân 2012 tổ chức tại Đà Nẵng cho đến Diễn đàn Kinh tế Mùa thu 2014 ở Ninh Bình, các kinh tế gia, nhà hoạch định chính sách, chuyên gia đầu ngành của Chính phủ đã tham gia tổng cộng 6 lần Diễn đàn Kinh tế do Ủy ban Kinh tế Quốc hội phối hợp tổ chức cùng Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam.

Nói theo ngôn ngữ dân gian kế đã được hiến rất nhiều nhưng sự lắng nghe, điều chỉnh cải cách của nhà nước thì chẳng được bao nhiêu. Chẳng lẽ lại đúng như lời TS Nguyễn Quang A: “Các ông ấy nói cho sướng miệng” còn lãnh đạo có lắng nghe hay không lại là một chuyện khác.

Người Việt ít cần ‘món ăn tinh thần’?

Người Việt ít cần ‘món ăn tinh thần’?

Trần Trọng Linh Gửi tới BBC từ Geneva, Thụy Sĩ

Văn hoá nghệ thuật nói chung luôn được coi là đỉnh cao của trí tuệ và văn minh nhân loại.

Mục đích của chính của nghệ thuật là giúp cho con người hướng tới những giá trị cao đẹp: Chân, thiện, mỹ.

Trong văn hoá đương đại ngày hôm nay nghệ thuật còn đưa đến cho chúng ta những không gian trải nghiệm thực tế và những định nghĩa nghệ thuật mới. Mục đích cuối cùng là đem đến những suy ngẫm, sẵn sàng đón nhận sự khác biệt và tự vấn chính bản thân.

Trong một khoảng thời gian quan sát và nghiên cứu tôi nhận thấy trong các bảo tàng nghệ thuật hay những nơi diễn ra các sự kiện văn hoá nghệ thuật: thơ ca, âm nhạc, biennale nghệ thuật đương đại, festival âm nhạc, múa… rất ít người Việt Nam có nhu cầu quan tâm đến văn hoá nghệ thuật.

‘Người Việt và nhu cầu văn hóa’

Vậy lý do ở đây là gì khi mà đối với những người phương tây thì văn hoá như một thứ nhu cầu không thể thiếu được hàng ngày đối với mỗi người?

Phần lớn người Việt không biết địa chỉ của bảo tàng quốc gia nằm ở đâu, hay bỏ ra 2 đô la mỗi năm để mua một đầu sách.

Phải chăng người Việt Nam ít có nhu cầu hưởng thụ đời sống văn hoá tinh thần hay có thể nói người Việt ít có nhu cầu tự vấn bản thân?

Việt Nam sau hơn hai thập niên mở cửa kinh tế cũng đã cải thiện đáng kể, thậm chí còn nổi hẳn lên một thế hệ người giàu.

Họ sẵn sàng bỏ ra cả triệu đô để được làm chủ một chiếc xe hơi hay bỏ ra cả vài chục ngàn đô để có một chiếc túi xách.

Còn đối với tầng lớp bình dân hay trung lưu, họ cũng sẵn sàng bỏ ra cả ngàn đô để có được một sản phẩm công nghệ đời mới nhất được.

Trong khi đó phần lớn người Việt không biết địa chỉ của bảo tàng quốc gia nằm ở đâu, hay bỏ ra 2 đô la mỗi năm để mua một đầu sách.

Ảnh hưởng từ văn hóa tuyên truyền?

Cũng không khó để lý giải những hiện tượng tâm lý trên.

Trong khi suốt một quá trình dài người Việt chịu một sự ảnh hưởng không nhỏ từ hậu quả chiến tranh và chủ nghĩa cộng sản, cái tôi cá nhân bị loại bỏ triệt để.

“Bầy cừu” ngoan ngoãn đón nhận tất cả những cái gì mà chủ nghĩa cộng sản “bú mớm” qua hệ thống truyền thông.

Những loại hình văn hoá dân gian truyền thống ẩn chứa những giá trị đạo đức cơ bản như Tuồng, Chèo, Cải Lương, Ca Trù, Chầu Văn… dần bị xoá sổ.

Bù vào những khoảng trống văn hoá thì đã có bộ máy truyền thông khổng lồ của chủ nghĩa cộng sản.

Những serie phim tài liệu được lặp lại liên tục trên các kênh truyền hình quốc gia, tung hô những vị lãnh tụ chính trị với quá khứ hào hùng được nhuộm đỏ bằng máu của người dân.

Để giảm áp lực “tẩy não” và “nhồi sọ” thì đã có những Game Show giải trí truyền hình được xen kẽ khéo léo vào nội dung chương trình phát sóng.

‘Tri thức, văn hóa và nhu cầu sinh tồn’

Tri thức và văn hoá là những thứ khó nắm bắt và cần phải có nhiều thời gian tích luỹ, hơn nữa tri thức cũng khó để đem ra cho mọi người thấy rằng “trí khôn của ta đây”.

Để khẳng định sự tồn tại của mình trước sự “im lặng” chết chóc của “bầy cừu”, họ chọn cách thể hiện đẳng cấp xã hội bằng cách trang trí lên mình những giá trị vật chất để phủ lấp cái thiếu thốn, tự ti và nghèo nàn tri thức của mình.

Sẽ chẳng có vấn đề gì khi mỗi người có quyền sử dụng đồng tiền theo ý thích của mỗi người và không ai có quyền phán xét họ.

Mâu thuẫn ở đây là khi phần lớn người Việt có mức thu nhập dưới 5 đô la một ngày thì sự “rũ bùn đứng dậy sáng loà” của một bộ phận nhỏ của tầng lớp mới giầu đã tạo nên một khoảng cách quá lớn về giàu nghèo.

Tri thức và văn hoá là những thứ khó nắm bắt và cần phải có nhiều thời gian tích luỹ

Mâu thuẫn phát sinh nhưng người Việt thiếu tri thức để xử lý tình huống hơn nữa những giá trị truyền thống cơ bản không còn được coi trọng.

Kết quả là mâu thuẫn được giải quyết bằng xung đột bạo lực giữa các tầng lớp xã hội.

Không thể loại bỏ một yếu tố rất lớn ảnh hưởng không nhỏ đến sự tiếp cận của người dân đối với văn hoá nghệ thuật, đó là áp lực tâm lý giải quyết nhu cầu sống tối thiểu hàng ngày luôn là mục đích được ưu tiên hàng đầu.

Sự ám ảnh tâm lý của chiến tranh, mối đe doạ chiến tranh rình rập của người anh em cộng sản phương bắc. Những áp lực tâm lý trên đẩy con người ta vào một vòng quay sinh tồn mang tính bản năng: Kiếm ăn và tồn tại.

Vai trò của giới trí thức

Đối với tầng lớp nghệ sỹ trí thức, vụ án “Nhân văn Giai phẩm” từ đầu năm 1955 và bị dập tắt tháng 06/1958 do ba nhà văn hoá trí thức lớn khởi xướng, Trần Dần, Lê Đạt và Hoàng Cầm, với đòi hỏi của họ là tự do sáng tác và tự do tư tưởng.

Từ sự khởi xướng này, với sự góp mặt của nhiều tầng lớp trí thức Việt Nam, tờ báo mang tên “Nhân văn” và các tập “Giai Phẩm” mang nội dung chính trị ngày càng rõ rệt.

“Những loại hình văn hoá dân gian truyền thống ẩn chứa những giá trị đạo đức cơ bản như Tuồng, Chèo, Cải Lương, Ca Trù, Chầu Văn… dần bị xoá sổ.”

Mục đích của những tri thức này là hướng đến một xã hội tự do dân chủ.

Nội dung này đáp ứng được nguyện vọng của quần chúng nhưng lại đánh vào tử huyệt của chế độ. Chính vì thế đảng cộng sản Việt Nam đã phát động một chiến dịch xóa sổ Nhân văn Giai phẩm.

Kết quả là những ai dính dáng đến Nhân văn Giai phẩm đều nhận được sự trừng phạt từ chế độ.

Thành phần chủ chốt thì bị tù đày, văn nghệ sỹ thì bị cải tạo lao động. Giáo sư trí thức thì bị cách chức, mất việc. Tất cả phải sống nốt phần đời còn lại trong đói nghèo im lặng và bị cách ly với XH.

Bài học kinh nghiệm xương máu này chính nỗi kinh hoàng sợ hãi cho nhiều thế hệ trí thức nghệ sỹ sau này.

Kết quả là các trí thức nghệ sỹ áp dụng chung một phương pháp “3 không”: Không nghe, không thấy và không làm.

“Những hệ luỵ của chủ nghĩa cộng sản thực chất chỉ là những bề nổi của một tảng băng, bên cạnh thói quen nhẫn nhịn và thụ động của một nền văn minh canh nông cùng ý thức và hệ tư tưởng vẫn còn mang đậm Nho Giáo”

Sau này cũng có một vài nghệ sỹ đề cập đến những vấn đề chính trị xã hội nhưng cũng chưa tạo ra được những ảnh hưởng lớn với XH; phần nhiều là những nghệ sỹ dùng câu chuyện chính trị để trang trí cho mình trước những con mắt của những người bảo trợ nghệ thuật đến từ các nước phương tây.

Những hệ luỵ của chủ nghĩa cộng sản thực chất chỉ là những bề nổi của một tảng băng, bên cạnh thói quen nhẫn nhịn và thụ động của một nền văn minh canh nông cùng ý thức và hệ tư tưởng vẫn còn mang đậm Nho Giáo.

Tất cả những nguyên nhân trên tạo ra một bức tranh ảm đạm của một xã hội thiếu tính nhân văn và thay vào đó là hình ảnh bạo lực, thù hằn và niềm tin giữa con người bị đổ vỡ.

Rõ ràng văn hoá nghệ thuật ở đây đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong bất cứ một xã hội nào.

Để thay đổi được ý thức hệ tư tưởng của cả một dân tộc là điều không tưởng nhưng chúng ta có thể bắt đầu từ mỗi cá nhân.

Chìa khoá tri thức, văn hoá nghệ thuật tôi cho rằng là một lời giải không tồi để mở cánh cửa đến với nền văn minh nhân loại.

Hãy bắt đầu từ ngày hôm nay nếu bạn không muốn cuộc đấu tranh thách thức những hiện trạng xã hội chuyền lại cho đời sau.

Đây là trách nhiệm của chính thế hệ chúng ta. Hỡi các bạn trẻ hãy vượt qua nỗi sợ hãi trong mỗi chúng ta, chỉ có những trái tim tuổi trẻ mới đủ lãng mạn và nhiệt huyết để mơ ước đến một xã hội tươi sáng hơn cho Việt Nam.

Hồ Chí Minh quay trong Ðèn Cù

Hồ Chí Minh quay trong Ðèn Cù

Ngô Nhân Dụng

Nguoiviet.com

Ðèn Cù của Trần Ðĩnh được bán ở Hà Nội với giá 600 ngàn đồng mỗi cuốn; tương đương 25 đô la là giá bản in bán ở Mỹ. Một blogger nổi tiếng kể chuyện chính cô đi mua được một cuốn Ðèn Cù bên lề đường, và được bớt, chỉ phải trả 400 ngàn. Hai cuốn Bên Thắng Cuộc của Huy Ðức cũng được in chui và dân Việt Nam nô nức tìm mua. Vô tình, các ông Huy Ðức và Trần Ðĩnh đã giúp cho nhiều người thêm công việc làm và gia tăng lợi tức. Trong đó chắc phải có nhiều anh chị em công an; vì những vụ làm ăn chui, từ ngành in sách lậu đến buôn bán ma túy, nếu không được công an bảo kê thì ai làm ăn gì được?

Hiện tượng Ðèn Cù cho thấy người dân Việt vẫn khao khát muốn thêm biết thêm sự thật. Ðảng Cộng Sản Việt Nam không muốn dân đọc Ðèn Cù, nhưng họ vẫn cho cán bộ văn hóa mở chiến dịch chỉ trích, quảng cáo cho cuốn sách.

Tuần này, một nhà báo mới từ Anh quốc gọi phỏng vấn tôi về cuốn Ðèn Cù. Nhờ ông là một nhà báo giỏi theo dõi sát, biết rõ dư luận ở Việt Nam hơn, nên nghe ông đặt câu hỏi tôi được nghe mấy thắc mắc của độc giả trong nước về cuốn sách. Thí dụ, có người phê bình rằng Trần Ðĩnh nhớ nhầm về năm, tháng diễn ra trận đánh ở Núi Hồng. Tác giả có thể nhớ nhầm lắm. Một nhà văn ngoài 70 tuổi mới bắt đầu viết kể chuyện đời mình; đến lúc gần 85 tuổi mới cho in, chắc phải có lúc nhớ lẫn lộn. Chính tôi viết mục này, cũng có khi ghép ngày tháng nọ vào một biến cố kia, hoặc nghĩ đén tên người này mà đánh máy thành tên người khác. Ðáng lẽ ra một tác giả như Trần Ðĩnh phải có hai ba thư ký, mỗi người phụ trách tìm tài liệu kiểm soát lại xem trí nhớ của mình có chính xác không. Khi soạn cuốn Ðứng Vững Ngàn Năm, tôi cứ ước mình là một giáo sư đang dạy môn lịch sử. Giáo sư có thể mướn sinh viên tra cứu tài liệu giúp mình! Các em chỉ cần theo lời giáo sư chỉ dẫn mà đi tìm trong thư viện, coi cái gì ông thầy nói đúng, cái gì không chắc chắn. Sẽ tránh được khối chỗ lầm. Ngoài tiền công được nhà trường trả, cuối năm thầy còn cho thêm điểm. Vì ngay việc tìm tòi tài liệu cũng giúp cho các em hiểu biết thêm về nghề nghiên cứu.

Cho nên, nếu trong Ðèn Cù có những chi tiết không đúng, hoặc không chắc chắn, thì chúng ta cứ chờ có người dẫn ra các chứng cớ xác thực hoặc các nguồn đáng tin hơn.

Nhưng ông Trần Ðĩnh không viết lịch sử. Ðóng góp quan trọng của ông không phải là những chứng liệu sử học, mà là kinh nghiệm sống, của một cá nhân đã quan sát và ghi lại những gì thấy chung quanh mình. Nhờ thế mà người đọc bây giờ cũng như các thế hệ sau được biết thêm, hiểu thêm về lịch sử nước ta trong hơn nửa thế kỷ. Tác giả có thể nhớ nhầm vài chi tiết, không quan trọng; vì độc giả biết còn nhiều người sẽ viết về cũng những năm tháng đã qua.

Chẳng hạn, Trần Ðĩnh kể chuyện ông Hồ Chí Minh đã cải trang, tới coi cuộc đấu tố bà Nguyễn Thị Năm, một địa chủ có nhiều công nuôi các cán bộ chủ chốt của đảng Cộng Sản trong nhiều năm, trước khi bị Cộng Sản gán tội địa chủ và đem giết một cách tàn nhẫn. Có người trong nước, chuyên nghiên cứu lịch sử đảng Cộng Sản, nói rằng Trần Ðĩnh viết không đúng. Vì ông ta không bao giờ thấy một tài liệu nào trong lịch sử đảng ghi về sự kiện này.

Nghe xong, tôi phải cố nhịn không bật cười, vì kính trọng cuộc phỏng vấn nghiêm trang của một đồng nghiệp. Nếu ông bạn không gọi sang từ London sang, mà gặp riêng nhau ở chỗ khác, thì nghe kể có người nêu nghi vấn trên chắc tôi đã hỏi ngay, cho cả hai cùng cười: Phán như thế, tức là ông ta muốn nói chỉ những gì do ban nghiên cứu lịch sử đảng Cộng Sản viết thì mới là sự thật, đảng không nói gì tức là bịa, phải không? Nhưng nhịn được cười, tôi đã trả lời rằng: Chuyện ông Hồ có đến xem cuộc đấu tố bà Nguyễn Thị Năm hay không, điều đó không quan trọng lắm. Ðối với lịch sử, điều quan trọng là: “Giết hay Không Giết?”

Nếu chỉ căn cứ vào lịch sử chính thức của đảng Cộng Sản Việt Nam thì trong đời tư của Hồ Chí Minh không hề có nhân vật nào tên là Nông Thị Xuân, Ngay cả bà vợ Tăng Tuyết Minh cưới nhau ở Quảng Châu cũng không được phép hiện diện trên trái đất, như ký giả Kim Hạnh làm chứng. Cô chỉ đụng tới chuyện đó là bị cách chức ngay. Nhưng các chi tiết trong cuộc đời Hồ Chí Minh, như chuyện ông đã đổi tên bao nhiêu lần; ông bị Stalin nghi là không thật sự cộng sản; hoặc đời sống tình dục của ông thế nào, ông người Nghệ An thật hay là một người gốc Hẹ, vân vân; những chi tiết đó cũng không cần bàn nhiều quá. Ðối với nhân vật lịch sử này, điều quan trọng nhất là ông ta đã làm gì để cho nước Việt Nam bây giờ phải sống trong một xã hội đạo lý suy đồi, tham nhũng nhơ bẩn, kinh tế lạc hậu, thua kém các nước chung quanh?

Ông Ðoàn Duy Thành, nguyên phó thủ tướng chính phủ Hà Nội, khi bàn về những sai lầm của cuộc “Cải Cách Ruộng Ðất,” đã kết luận rằng nó “đã để lại hậu quả lâu dài cho dân tộc, cho đất nước, là sự hận thù, sự lừa dối, xảo trá, vu khống như: tố điêu, ép cung, bịa chuyện… gây tai họa cho bao gia đình, làm nát đi những truyền thống tốt đẹp về gia đình, họ hàng, làng xóm, mà cha ông ta đã dày công xây dựng hàng nghìn năm.” Với thành tích phá ruỗng nền tảng đạo đức của ông cha, thì chuyện đời tư ông Hồ ra sao, ông có mấy vợ hay nhân tình, đều chỉ là chuyện nhỏ.

Bên cạnh tội phá hủy di sản tinh thần dân tộc, ông Hồ còn dựng lên một guồng máy chuyên chế, dành độc quyền kinh tế và chính trị riêng cho đảng mình; chính bộ máy đó gây nên tình trạng chậm tiến cho dân tộc. Bác Sĩ Phạm Hồng Sơn nhận xét: “Khi cầm quyền, cụ Hồ đã để cho chính phủ của cụ tạo ra nhiều tiền lệ cầm quyền độc đoán, nhẫn tâm, phi dân chủ hay dân chủ giả hiệu, có thể nói lớn đến mức mà vết hằn sâu của nó đến nay vẫn còn hiện rõ trong cả hệ thống chính quyền hiện thời.” Bác Sĩ Phạm Hồng Sơn không cần phải kể chi tiết. Riêng cảnh bao người dân lương thiện bị bắt vào trong đòn công an rồi chết cũng đủ thấy di sản của chế độ do Hồ Chí Minh dựng lên kinh hoàng thế nào.

Trước những tội lớn trong cuộc Cải Cách Ruộng Ðất, chúng ta thấy những chi tiết, như Hồ Chí Minh có đi xem cuộc đấu tố bà Nguyễn Thị Năm hay không, chẳng còn quan trọng nữa! Ðiều quan trọng là: “Giết hay Không Giết?” Về những cuộc đấu tố giết oan mấy trăm ngàn “địa chủ,” cựu Ðại Tá Phạm Quế Dương nhận xét: “Cụ Hồ… kêu gọi ‘Tuần Lễ Vàng’ để lấy tiền. Ðáng lẽ, ông phải cảm ơn người ta mà ông quay lại đánh người ta. Chuyện đó đáng để lịch sử lên án.” Ðảng Cộng Sản bây giờ vẫn hô hào “học tập đạo đức cách mạng” của của Hồ Chí Minh, chắc họ không nhớ ông Hồ giải nghĩa đạo đức cách mạng là gì. Ông nêu đức tính duy nhất cho các đảng viên học tập, là phải hoàn toàn theo lệnh đảng, đảng bảo làm gì thì cứ thế làm theo. Chế độ độc tài gây ra bao tai họa cho dân tộc. Trong thế giới loài người bây giờ còn ai muốn trẻ em học thứ đạo đức đó hay không?

Nghĩ lại, thì vị nào trong ban nghiên cứu lịch sử đảng đã nêu ra nghi vấn trên chắc chỉ nói cho xong bổn phận của mình thôi, chưa chắc ông ta đã nghĩ kỹ trước khi lên tiếng. Khi biết Ðèn Cù mới xuất bản, chắc ông Tô Huy Rứa đã ra lệnh cấp dưới phải mở ngay một cuộc càn quét để tiêu diệt uy tín của cuốn sách và tác giả. Những vị “ăn cơm chúa múa tối ngày” bèn làm theo chỉ thị. Thế là, mỗi ông mỗi bà được phát Ðèn Cù đem về đọc, bới lông tìm vết thấy chỗ nào đánh được thì đánh. Viết xong, nộp bài cho đủ chỉ tiêu; sau đó mới ngồi đọc lại, cười khúc khích với nhau. Làm việc như vậy cho nên mới có người đưa ra thứ lý luận “chuyện này ban nghiên cứu lịch sử đảng không nói gì cả, tức là nó không có thật.” Nói như vậy, mà không cần biết người dân nghe sẽ bật cười như thế nào! Họ biết dân sẽ cười bể bụng, nhưng không quan tâm. Vì đằng nào cũng vậy, lâu nay dân Việt Nam còn tin những gì họ viết đâu mà mình phải cố gắng tìm tòi, suy nghĩ, hại sức khỏe?

Ðó cũng là cách suy nghĩ và làm việc của quý vị đã mở cuộc triển lãm về“Cải Cách Ruộng Ðất,” rồi phải đóng cửa ngay. Ðó cũng là tác phong của mấy ông bà làm cuốn phim lịch sử chỉ có hai ba người mua vé vào coi. Hôm qua, thành phố Hà Nội mới tổ chức kỷ niệm 60 năm “Ngày Giải phóng Thủ đô” với hơn 3500 quan chức đại biểu tham dự tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia. Một bạn đọc từ trong nước cho tôi biết hơn 30 chỗ bắn pháo hoa tưng bừng. Trước đó mấy ngày, mấy ông bà “lãnh đạo” đã cải chính về tin hủy bỏ bắn pháo hoa vì dân than phiền tốn tiền vô ích. Ðã lỡ mua pháo rồi, tiền hối lộ của nhà bán pháo đã bỏ túi rồi, làm sao hủy bỏ được? Dân Hà Nội có một đêm coi pháo bông thỏa thích, vừa coi vừa chửi. Nhưng quý vị “lãnh đạo” đâu cần biết thằng dân nó nói cái gì!

Tại sao họ hành động như vậy? Vì họ biết ngày tan hàng rã ngũ đang tới gần, ngày càng gần hơn. Tiếp tục “múa tối ngày” như trong cái đèn cù, còn được ngày nào hay ngày đó.

‘Mạng xã hội là nguồn tin chính ở VN’

‘Mạng xã hội là nguồn tin chính ở VN’

Hoàng Xuân Nhà báo tự do, gửi cho BBC từ Sài Gòn

  • 10 tháng 10 2014

Máy tính, điện thoại và máy tính bảng đang được dùng để đọc tin.

Vài năm gần đây là một giai đoạn đáng quan sát trong lịch sử báo chí Việt Nam.

Sự thay đổi ngôi vị trong làng báo diễn ra như những đợt sóng trào, những tên tuổi và cách làm báo mới tinh đột nhiên chiếm lĩnh sự quan tâm của dư luận, hất cẳng những “ông trùm” lừng danh, và đến lượt mình, đôi khi rất ngắn ngủi, chỉ trong vòng sáu tháng một năm, chúng lại chìm xuống nhường cho các những cái tên khác.

Tên của tờ báo không còn phản ánh trung thực nội dung chúng đang truyền tải nữa.

Cách đây mười mấy năm, những cái tên lớn như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Pháp luật TP HCM, Lao Động, Công an TP HCM, Sài Gòn Tiếp thị, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Phụ nữ TP HCM, Hoa học trò, gần như độc chiếm trong lĩnh vực được nêu rõ trong cái tên của mình, và một gia đình bình thường sống ở thành phố thường mua hết những tờ đó cho nhu cầu thông tin của từng người, phù hợp với giới tính và lứa tuổi.

Báo chính thống thoái trào

Tiếc thay, khi đạt đến đỉnh cao phong độ cũng chính là lúc những tờ báo kể trên thoái trào.

Nguyên nhân thì nhiều và không ít trong số đó đã được làng báo theo dõi với tất cả sự hồi hộp và lo lắng, thậm chí là gay cấn.

Nhiều hạn chế thông tin được đưa ra so với thời kỳ trước đó, khiến các tờ báo khó khăn trong cuộc chạy đua cung cấp thông tin nóng và thật cho xã hội, nhưng đồng thời cũng khiến các tin tức hay ho càng được săn lùng hơn bao giờ hết, đặc biệt là các tin chính trị.

Vậy là để tăng hiệu quả kinh tế và số phát hành, một số tờ báo rời khỏi lãnh địa của mình để nhập vào cuộc đua săn lùng tin tức chính trị xã hội.

” Khi mạng xã hội ra đời thì cuộc thoái trào với tốc độ nhanh dần của báo chí Việt Nam nói chung gần như không thể cưỡng lại được nữa.”

Thay đổi này mang lại một ít thành công ban đầu nhưng sau đó người đọc nhận thấy chính trị chỉ là một phần trong mối quan tâm của họ, và khi các tờ báo yêu thích đều đăng những tin tức giống hệt nhau thì họ bắt đầu giảm số đầu báo mua hàng tháng và tìm tin tức ưa thích từ các nguồn khác.

Khi mạng xã hội ra đời thì cuộc thoái trào với tốc độ nhanh dần của báo chí Việt Nam nói chung gần như không thể cưỡng lại được nữa.

Chừng 31 triệu người dùng Internet ở Việt Nam (chiếm 34, 1% dân số cả nước, tính tới 31/3/2012, theo Trung tâm Internet Việt Nam) là thị trường hết sức hấp dẫn cho những người đưa tin.

Theo số liệu của Hội nhà báo Việt Nam, hiện có trên 20.000 hội viên (số nhà báo đã được cấp thẻ). Số người viết báo thực sự phải nhiều hơn khá nhiều. Hầu như mỗi nhà báo Việt Nam đều có một tài khoản trên mạng xã hội.

Trên đó, thoát khỏi sự hạn chế cùng những ràng buộc bất thành văn của báo chí “chính thống”, vô số tin tức được sản xuất ngay trong vòng vài phút, hoặc thậm chí vài giây-đủ để chụp một ảnh và post nó lên mạng.

Các tin tức sốt dẻo này nhiều khi được thông báo song song với sự việc đang diễn ra, với văn phong cá nhân đậm nét-vốn là điều mà báo chí “chính thống” không thể đáp ứng.

Cuối ngày, sau khi hoàn thành phần tin tức theo nhiệm vụ cho tờ báo mình đang làm việc, không ít nhà báo lại tiếp tục bình luận và đưa các tấm ảnh của sự kiện lên trang cá nhân.

Sự tương tác nhanh chóng và dễ dàng trên mạng xã hội giúp chỉ trong vài chục phút, hàng trăm, thậm chí hàng ngàn người đọc tha hồ bình luận và cung cấp thêm những thông tin họ có, khiến một status vài dòng chữ ban đầu nhanh chóng lớn lên như một quả cầu tuyết.

Những điều báo Đảng không đưa

Vụ nhà sư ‘Thích Ai Phôn’ bùng nổ nhờ các mạng xã hội Việt Nam

Với sự trợ giúp của Internet, có những thông tin hết sức thú vị mà người đọc rất khó-hoặc không thể tìm thấy trên hàng trăm cơ quan truyền thông chính thống của Việt Nam.

Ví dụ bảng so sánh chi tiết giá vàng và tỷ giá USD/VNĐ qua từng năm được post lên hồi đầu năm ngoái cho thấy sự lạm phát khủng khiếp.

Phát ngôn của các quan chức vào đầu nhiệm kỳ và giữa nhiệm kỳ được đặt cạnh nhau cho thấy ông ta đã thực sự hành động như thế nào.

Những tấm ảnh phản ánh thực tế đối chọi, như công trình hoành tráng tưởng niệm các bà mẹ Việt Nam anh hùng và cuộc sống nghèo khó của một bà mẹ Việt Nam đang còn sống… cung cấp sự thật sau những thành tích được thổi phồng.

Có những thông tin bắt đầu từ mạng xã hội, lan rộng dần và khi lên cao trào thì bức bách ngay cả các tờ báo thận trọng nhất nhập cuộc, nếu không muốn hàng ngày chứng kiến lượt view tụt thê thảm.

Gần đây nhất là câu chuyện của một nhà sư được “dân mạng” hài hước đặt cho cái tên là Thích Ai Phôn, do vị này khoe ảnh cầm iphone 6 (so với thu nhập trung bình của người Việt là khá cao) và điện thoại Vertu, thậm chí cả trước một bàn ăn đầy ngập món … sushi, cá sống.

Nhà sư này đã bị kỷ luật và đề nghị bãi miễn chức vụ tôn giáo sau khi dại dột post những tấm ảnh này lên trang cá nhân.

“Nhạy cảm” hơn là tin tức về cuộc biểu tình của sinh viên học sinh Hồng Kông vừa qua.

Mạng xã hội Việt Nam đưa tin và hình ảnh khác báo chính thống

Tin tức được người dùng mạng xã hội khắp thế giới cập nhật từng giờ.

Sự phân loại báo chí “chính thống” rất rõ nét trong thời gian xảy ra sự việc này. Có báo lập tức vào cuộc, những báo này lập tức tăng số phát hành, bài viết được chia sẻ nhanh chóng, dân mạng khen tấm tắc. Có báo hầu như phớt lờ.

Có báo e dè nhìn đồng nghiệp, sau đó, khi bị làn sóng mạng xã hội đánh tụt view thì mới thận trọng vào cuộc. Áp lực từ mạng xã hội-những người đọc tự do và khao khát tin tức khách quan ngày càng mạnh và rõ nét.

Tuy nhiên, không ít người đọc vẫn mong mỏi được cung cấp thông tin từ một cơ quan truyền thông cấp quốc gia: trong những ngày đó, nhận xét được khá nhiều người chia sẻ là “Hôm nay VTV vẫn im thin thít!”.

Với những ưu điểm không thể chối cãi, mạng xã hội đã trở thành tờ báo chung lớn nhất và thú vị nhất cho người đọc lẫn người viết ở Việt Nam.

” Các tờ báo lớn trên thế giới đã biến mạng xã hội thành mạng lưới cộng tác viên vô tận, với khả năng tương tác cực lớn, còn ở Việt Nam thì ngược lại”

Có số lượng áp đảo nhà báo và người dùng Internet “thú nhận” thích đọc và thường xuyên đọc tin tức trên mạng xã hội hơn báo chí chính thống.

Vô số trang mạng của nhóm được lập ra giúp các thành viên có không gian thoải mái hơn rất nhiều để trao đổi, phân tích tin tức các loại-thường là tin tức chính trị và kinh tế. Ở đó người tham gia có thể đọc được vô số thông tin hay ho-mà chẳng tốn xu nào, ngoài cước phí Internet.

Thực ra xu hướng “nền báo chí do người đọc tạo ra” đã hình thành trên thế giới từ cách đây hơn 10 năm.

Khái niệm này do nhà báo Dan Gillmor, một cây bút bình luận chính trị, nhà nghiên cứu tại Trung tâm nghiên cứu Internet và xã hội tại Đại học Harvard đặt ra.

Các tờ báo lớn trên thế giới đã biến mạng xã hội thành mạng lưới cộng tác viên vô tận, với khả năng tương tác cực lớn giúp tìm ra những tin tức được quan tâm nhất, cũng như thêm chi tiết cho nó. Tuy nhiên vai trò của tờ báo vẫn là áp đảo.

Ở Việt Nam thì ngược lại. Đó là hệ quả tất yếu giữa việc 700 cơ quan truyền thông chính thống ngày càng lạnh ngắt, cứng đơ, nhàn nhạt một màu với thực tế cuộc sống sôi động và biến chuyển không ngừng.

Một Tỉ Người Tầu

Một Tỉ Người Tầu

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

TQ là đất nước của một chế độ tuyệt vọng.

Lê Phú Khải

Gần hai năm trước, tôi có một bài báo ngắn được phổ biến trên trang Đàn Chim Việt. Mãi đến cuối tháng rồi, vẫn còn có đôi vị “độc giả” gửi lời bình luận. Xin đơn cử một:

47 Phản hồi cho “Nghĩa muội Tạ Phong Tần”

1.    Ông Nội – says:

20/09/2014 at 15:12

Nơi đây – Có được mấy con vện vàng 3 khoang , sủa theo bồi bút Tàu gian họ Tưởng này ?

Đây là lần gần nhất, chứ không phải là duy nhất – kể từ khi ông Hồ Quang Lợi, Trưởng Ban Tuyên Giáo Thành Ủy Hà Nội, tổ chức nhóm chuyên gia đấu tranh tham gia bút chiến trên internet – tôi bị qúi vị “chuyên gia đấu tranh” buộc tội là … “Tàu gian!”

Sự cáo buộc này, nói nào ngay, không hoàn toàn vô cớ vì tôi nói được tiếng Hoa. Chỉ tiếc là vốn liếng Hoa Ngữ của tôi vô cùng giới hạn, vỏn vẹn chỉ có mỗi một câu thôi: “Bỉ ngộ dách mánh mìn báo.”

Đó cũng là câu ngoại ngữ đầu đời tôi học được từ một phụ nữ Trung Hoa. Có hôm, bà rụt rè đến xin mẹ tôi cho được để nhờ trước cửa nhà một cái thúng bán bánh mì vào buổi sáng.

Bên trong cái thúng này là một lò than be bé, với xoong xí mại đặt bên trên, cùng với vài chục ổ bánh mì nho nhỏ. Bánh mì xí mại giá̀ hai đồng. Một đồng chỉ có bánh mì không rưới thêm nước thịt, kèm mấy cọng dưa chua làm bằng củ cải trắng và cà rốt đỏ au.

Bà cụ không rách rưới nhưng trông rất lôi thôi và tàn tạ: bộ quần áo xẩm lùi xùi, cái nón cói cong vành (hẳn là phải mang từ cố quốc) bao quanh một khuôn mặt già nua, buồn bã và cam chịu.

 

Ảnh: flickr.com

Dù mỗi sáng tôi chỉ mua một đồng bánh mì thôi (dách mánh mìn báo) nhưng luôn luôn được bà ưu ái cho (thêm) một viên xí mại, kèm theo một nụ cười hiền …miễn phí.

Thế là mỗi sáng tôi có dư ra được một đồng. Đồng bạc còn lại, tôi mang “nộp” ngay cho bà cai trường – người có một mẹt hàng khiến cho tất cả những đứa trẻ con (con nhà nghèo) như tôi đều phải thèm thuồng: me ngào, cóc và xoài xanh ngâm nước đường, mức dừa, kẹo cau, đậu phụng, bánh qui, quả mác mác, quả sim hay say chín …

Tôi suýt chết cái tên là “Tiến bánh mì xí mại” thì bà cụ đột ngột  qua đời. Từ đó, thỉnh thoảng, trong xóm vẫn còn có tiếng rao (“loong sữa pò, de chai, pao pán hông”) của cụ ông nhưng nghe yếu hẳn ớt và buồn bã hơn nhiều.

Hình ảnh những người khách trú trong trí tưởng ấu thời (xa xôi) của tôi, xem ra, hoàn toàn khác xa với của qúi vị “thương lái” Trung Quốc ngày nay – ở Việt Nam:

Từ việc mua đuôi trâu, móng trâu, rễ hồi, ốc bươu vàng tới việc sẵn sàng thu mua phế liệu, đỉa, cá cơm với giá cực cao – những hành động tưởng như vô thưởng vô phạt nhưng lại ẩn chứa những dụng ý sâu xa của lái thương Trung Quốc…

Thâm độc hơn, chúng mở chiến dịch thu mua dây đồng vụn với giá cao “trên trời”, đẩy từng đoàn “đồng tặc” lùng sục chặt trộm dây đồng từ các đường điện cao thế, băm nát mạng lưới điện quốc gia. Sau đó là thu mua cáp quang phế liệu với mức giá trên trời.

Đến khi dân nghèo lặn xuống biển chặt phá mạng cáp quang viễn thông, thì dân chúng mới “ngã ngửa” ra mục đích sâu xa của chúng là phá hoại con đường huyết mạch thông tin của Việt Nam…

Tôi chưa bao giờ có dịp gặp gỡ những vị “thương lái TQ” có ý đồ  “thâm độc” và “phá hoại” như thế nhưng lại có dịp tiếp xúc (qua sách vở) với nhiều người Tầu khác: Lão Tử, Khổng Tử, Lý Bạch, Thôi Hiệu, Mạnh Hạo Nhiên, Kim Thánh Thán, Lỗ Tấn, Ba Kim, Kim Dung, Lâm Ngữ Đường, Mặc Ngôn, Trương Hiền Lượng, Lưu Hiểu Ba, Dương Kế Thằng…

Tam Giáo (Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo) ở Việt Nam có đồng quy hay không là điều mà tôi hoàn toàn không “bảo đảm,” và cũng không dám lạm bàn nhưng tôi biết chắc chắn là cá nhân mình – đôi lúc – có hơi bị quân tử Tầu (chút xíu) là do ảnh hưởng của Khổng Phu Tử và … Kim Dung!

Cũng không ít lúc tôi trở nên … “thoát tục” (và văng tục: “Đ…má, tao đéo care cái con cặc gì ráo trọi”). Thái độ sống “vô vi” này, không chừng, tôi bị lây từ Lão Tử. Chắc là thằng chả chớ còn ai vô đây nữa?

Bởi vậy, thỉnh thoảng, quí vị dư luận viên vẫn gọi tôi là “Tầu Tưởng” (tưởng) cũng không trật chi nhiều – dù tôi chưa đến Trung Hoa bao giờ và vẫn ao ước có dịp được sống ở đất nước này (vài ngày) cho biết.

May mắn sao, tháng rồi, tôi vớ được cuốn Đèn Cù của ông Trần Đĩnh. Tác giả có cơ hội đi “du học” ở tuốt bên Tầu, nhiều năm, và chuyện ông  kể về dân tộc này cứ khiến tôi cứ suy nghĩ mãi:

Bữa ấy tôi đang đọc báo chữ to gần Da Xan Ting – Đại thiện đình (Nhà ăn lớn). Một sinh viên Trung Quốc đến bên tôi. Trắng, đẹp, kính trắng, mắt hiền.

– Xin lỗi, anh là lưu học sinh Việt Nam?

– Vâng, còn anh ala Thượng Hải? (ala tiếng Thượng Hải là chúng ta, chúng tôi).

– Tôi là… (anh nói tên nhưng tôi không nhớ), muốn nói chuyện một ít với anh, có được không?

Anh nhờ tôi chuyển cho sứ quán Việt Nam một thư đề nghị Bắc Việt Nam hãy tôn trọng hiệp định Genève, đình chỉ đưa quân và vũ khí vào trong Nam cũng như rút lực lượng đã phi pháp cài lại từ 1954.

– Làm gì có chuyện ấy nhỉ?

Hoàn toàn bị xúc phạm, tôi vừa ngớ ra ngạc nhiên vừa khó chịu. Anh đốt đảng anh thôi chứ lại định đốt cả đảng tôi nữa ư?

– Có, đài nước ngoài thường xuyên lên án, tố cáo Bắc Việt Nam.

– Sao anh tin những thứ ấy?

– Đọc các đại tự báo đây anh có tin không?

Tôi quay đi và nói:

– Tôi không chuyển thư anh được vì bận và vì ý kiến của anh thiếu cơ sở.

Nhưng từ hôm ấy, tôi bỗng cứ lởn vởn nghĩ ta có vi phạm hiệp định Genève thật không? Chả lẽ ta chính nghĩa lại bội ước? Chả lẽ bản chất ta hoà bình lại thích chiến tranh?

Lúc ấy thật tình tôi không biết đảng có phương án kế hoạch cài cán bộ và quân lính ở lại miền Nam cũng như tiến hành nghiên cứu ngay từ đầu hình thế bờ biển để sau này lập “đội thuyền không số” có cơ sở ở huyện Thuỷ Nguyên. v.v…

Tuần sau tình cờ tôi gặp anh “Thượng Hải” ở gần Đại lễ đường. Anh đi với một cô gái trăm phần trăm Shang hai gu niang, Thượng Hải cô nương. Cô gái nhìn tôi như có ý hỏi anh bạn đi bên: “Cha từ chối đưa thư đấy phải không?”

Không nghe thấy nhưng tôi cáu – đinh ninh cô gái nói nei jia huo, thằng cha kia. Cùng lúc thấy cô gái rất đẹp. Picasso có lẽ lấy mẫu kiểu tóc đuôi ngựa ở cô gái thanh tú này.

Chẳng hiểu sao tôi rẽ ngoắt luôn. Tức. Không, có cả ghen vớ ghen vẩn.

Khi chống phái hữu, nhiều giáo sư, sinh viên bị đưa đi, tôi có ý tìm anh “Thượng Hải”. Không thấy nữa. Nghĩ cô gái Thượng Hải nếu không xuống nông thôn lao động cải tạo – để bị người ta cưỡng hiếp, chửa hoang và treo cổ chết – thì chắc phải bỏ học và bỏ cái đuôi ngựa “văn hoá đồi truỵ phương Tây”, tôi bỗng bồn chồn cùng ân hận lạ lùng.

Tôi chưa hiểu với tôi những ông thày sống động đầu tiên chỉ ra con đường và cách thức đấu tranh cho dân chủ chính là làn sóng “phái hữu” trong đó có anh sinh viên cùng cô bạn gái xinh đẹp của anh. Sau này trong gian nan phải chịu đựng tôi mới nhận ra hình ảnh của họ càng đậm nét trong tôi.

Nhưng tại sao anh sinh viên đeo kính trắng lại chọn tôi để nhờ chuyển thư phản đối ta “phạm pháp” đưa súng ống, binh lính vào Nam? Anh đọc thấy gì ở trên mặt tôi. Một hừng sáng nào đó ư? Một kiểu Nàng Kiều với Đạm Tiên ngày Thanh Minh.

Tôi còn một bạn học, người Nam Kinh. Lúc “phái hữu” lên tiếng, anh từng bảo tôi:

– Chắc cậu cũng biết truyện “cô gái quàng khăn đỏ?” Chúng ta đấy. Cũng quàng khăn đỏ cả mà. Hỏi bà ơi, tại sao tai bà to thế? Bà nói: Để bà nghe thấu bọn phản động chúng nó thì thào. Thế sao mắt bà sáng thế? À, sáng mới thấy được chỗ chúng nó ẩn nấp. Còn răng? Sao răng bà to thế? Răng bà to để ăn thịt những đứa khoẻ thắc mắc về bà… như cháu. Ăn luôn.

Tôi hỏi anh:

– Người Trung Quốc nghĩ như cậu có nhiều không?

– Zen ma shuo ya? Nói sao nhỉ? Một nửa đi. Nhưng nửa kia có loa ở mồm và có súng trên tay. (Trần Đĩnh. Đèn Cù, Westminster, CA: Người Việt, 2014).

Thiên An Môn 1989. Ảnh: wikipedia

Đó là “một nửa nước Trung Hoa” khi mới rơi vào tay đám cộng sản Tầu. Cho tới khi xẩy ra biến cố Thiên An Môn thì tôi tin rằng không phải là một nửa mà có đến ba phần tư dân số nước này đã trở nên “phản động.”

Đến sáng nay, 30 tháng 9 năm 2014, South China Morning Post đi tin:

“Hàng chục ngàn người đang chiếm lĩnh đường phố, đòi hỏi Bắc Kinh phải cải cách dân chủ.” Bây giờ thì tôi tin rằng bốn phần năm người Tầu cũng đang muốn thoát Trung (cộng) y như tuyệt đại đa số dân Việt hiện nay.

Hồng Kông 2014. Ảnh: Dickson Lee. Nguồn: South China Morning Post

Nói cách khác là dân Việt có một tỉ người Tầu đồng cảnh nhưng dường như không mấy ai để ý đến điều này – trừ nhà báo Lê Phú Khải. Hôm 26 tháng 5 năm 2014 vừa qua, ông nói chắc (như bắp) thế này đây:

Bắc Kinh sợ nhất cái gì?… Sợ nhất Việt Nam dân chủ.Vì, Bắc Kinh giống hệt Hà Nội: Đang ngồi trên kho thuốc nổ.

Chế độ đảng trị độc tài ở Trung Quốc đã tạo ra những mâu thuẩn đối kháng trong lòng nó và không có cách nào hoá giải được. …

Một Việt Nam cải cách chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền lúc này là tiếng sét ngang tai đối với độc tài đảng trị ở TQ. Việt Nam dân chủ là tiếng gọi mênh mông được vẫy chào từ hàng triệu trái tim TQ bị đè nén bởi bạo quyền bấy lâu nay.

Chữ “triệu” trong đoạn văn thượng dẫn được cho in đậm vì tôi tin rằng ông Lê Phú Khải viết lộn nên xin phép được viết lại: “Việt Nam dân chủ là tiếng gọi mênh mông được vẫy chào từ hàng tỉ trái tim TQ bị đè nén bởi bạo quyền bấy lâu nay.”

Chúng ta nên ứng xử khôn ngoan hơn với một tỉ đồng minh đang sống kề bên.

IMF: Trung Quốc qua mặt Mỹ, trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới

IMF: Trung Quốc qua mặt Mỹ, trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới
Saturday, October 11,  2014

Nguoiviet.com

BẮC KINH, Trung Quốc (NV) – Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) vừa thông báo Trung Quốc đã qua mặt Hoa Kỳ, trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới, theo một bản tin của Fox News.

Thủ Tướng Lý Khắc Cường của Trung Quốc nói chuyện với Thủ Tướng Angela Merkel hôm 10 Tháng Mười, nhân chuyến thăm Ðức, quốc gia Châu Âu có buôn bán lớn nhất với Trung Quốc. (Hình: Adam Berry/Getty Images)

Nền kinh tế Hoa Kỳ luôn giữ vị trí số một thế giới kể từ năm 1873, sau khi qua mặt Anh.

Theo tác giả bài báo, ông William Wilson, một nghiên cứu sinh kỳ cựu tại Trung Tâm Nghiên Cứu Châu Á thuộc The Heritage Foundation, so với mức độ tăng trưởng kinh tế trong vài thập niên vừa qua, chuyện Trung Quốc qua mặt Hoa Kỳ không làm nhiều người ngạc nhiên.

Và điều này cũng không nhất thiết làm người Mỹ lo lắng. Tất cả tùy thuộc chính quyền Hoa Kỳ xoay xở như thế nào.

Có hai phương pháp so sánh căn bản ở đây, để có thể đo lường tổng sản lượng quốc gia (GNP) của một nước.

Ngoài ra, sức mua hàng (PPP) cũng được tính vào việc so sánh giá cả giữa các quốc gia.

Hầu hết giá hàng hóa ở Trung Quốc đều rẻ hơn ở Mỹ, nhưng tổng sản lượng gần như bằng nhau giữa hai quốc gia.

Theo IMF, GNP của Mỹ khoảng $17,400 tỉ và của Trung Quốc khoảng $17,600 tỉ, dựa trên mức đo lường của PPP.
Hồi năm 2005, nền kinh tế Mỹ lớn gấp đôi nền kinh tế Trung Quốc.

Trong vòng 5 năm tới, vẫn theo IMF, kinh tế Trung Quốc sẽ tăng thêm 20% so với hiện nay, theo dự đoán của ông Wilson.

Phương pháp thứ nhì không tính sức mua hàng giữa hai quốc gia, nhưng lại tính tỉ giá hối đoái giữa đồng đô la của Mỹ và đồng nguyên của Trung Quốc.

Và nếu theo phương pháp này, nền kinh tế Mỹ lớn hơn nền kinh tế Trung Quốc tới $7,000 tỉ. Và phải mất một thời gian Trung Quốc mới đuổi kịp Mỹ.

Dân số đông cũng là một lợi thế của hai quốc gia này.

Với dân số đông và nền kinh tế quốc gia lớn mạnh, Hoa Kỳ có được sức mạnh chính trị giúp tạo ra trật tự thế giới sau Thế Chiến 2.

Sự quyết đoán hơn của chính phủ Trung Quốc trong thời gian gần đây cũng có liên quan đến mức tăng trưởng kinh tế.

Mặc dù thu nhập tính trên đầu người giữa hai quốc gia còn cách biệt rất lớn – $54,700/người ở Mỹ và $7,600/người ở Trung Quốc – mức tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc làm nhà nước thu được nhiều tiền hơn và tạo thêm được ảnh hưởng trên thế giới.

Tóm lại, chuyện một quốc gia có số dân gấp bốn lần nước Mỹ một ngày nào đó có nền kinh tế lớn hơn không phải là một sự đe dọa hay sốc đối với mọi người.

Người Trung Quốc có cơ hội giàu có bây giờ vẫn tốt hơn so với trước đây, và chuyện Trung Quốc mở rộng thị trường kinh doanh và đầu tư cũng là điều tốt cho thế giới, chứ không chỉ đối với các nhà đầu tư, người tiêu dùng, và nhà xuất cảng ở Mỹ, theo ông Wilson.

Ông kết luận rằng, đe dọa xuất phát từ quyền lực mà đảng và nhà nước Trung Quốc tích tụ được qua kết quả kinh tế.
Muốn ngăn chặn đe dọa này, Hoa Kỳ phải kiên trì, một yếu tố quan trọng trong chính sách ngoại giao, với sự hỗ trợ của một nền quốc phòng mạnh mẽ, cộng với thị trường kinh tế rộng mở. Nếu thành quả kinh tế của Trung Quốc là một đe dọa thực sự thì đó là vì Hoa Kỳ thiếu sự kiên quyết. (Ð.D.)

Ai cần ai giải phóng?

Ai cần ai giải phóng?
October 05, 2014

Nguoiviet.com

Tạp ghi Huy Phương

“Chuyến tôi đi xe đò đứt thắng,
Ð. mẹ đời, đ. má tương lai”
(Ca Dao, 30 tháng 4)

* Chương ba mươi tám “Ðèn Cù”

Tôi cho rằng chương sách đáng đọc nhất của tác phẩm “Ðèn Cù” là chương 38, chương sách nói về ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nếu độc giả không có thời giờ hay ít quan tâm, đọc một chương sách này cũng đã đủ.

Xe tăng của quân đội Bắc Việt tiếp tục đổ vào miền Nam Việt Nam vào ngày 12 tháng 5, 1975, để ngỡ ngàng trước đời sống sung túc của người dân miền Nam. (Hình: AFP/Getty Images)

Cũng như “Bên Thắng Cuộc” của Huy Ðức viết về ngày Sài Gòn thất thủ, khi mà cờ xí, biểu ngữ ngợp trời, loa phóng thanh ầm ĩ loan tin ngày đại thắng, Trần Ðĩnh cảm nhận được cái thất vọng, hụt hẫng, đau đớn của một người đã bao nhiêu năm, bỏ hết tuổi thanh xuân đi theo kháng chiến để chống Tây diệt Mỹ, tàn sát anh em để thống nhất đất nước! Những gì Huy Ðức suy nghĩ trước đây hẳn không khác hơn Trần Ðĩnh, Dương Thu Hương hay tất những người Việt Nam:

“…Ngày 30 tháng 4, 1975, ngày nhiều người tin là miền Bắc đã giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc.” (Lời Nói Ðầu – Bên Thắng Cuộc.)

Hạ màn! Câu nói nửa chừng của Trần Ðĩnh “Chả lẽ trời đất quỷ thần lại phù hộ…” cho chúng ta hiểu là kẻ xấu, bọn tà đã… thắng! Trời quả là không có mắt như câu nói ngày xưa của nhân gian!

Trên báo Nhân Dân, sau ngày 30 tháng 4 tại Hà Nội, Trần Ðĩnh bất mãn vì chi tiết trong bài báo của Bùi Tín nói đến thực đơn của tổng thống “Ngụy” (trưa hôm đó có hai món chính là gân bò hầm sâm và cá thu kho mía,) mà theo Trần Ðĩnh, “Kiểm kê sự ăn uống của tư sản, địa chủ vốn nằm quen thuộc trong cẩm nang phát động quần chúng căm thù bọn bóc lột.” Theo tôi, thêm vào đó là sự thèm khát miếng ăn, để xem bọn “ngụy” nó ăn gì? Chi tiết đó có thể làm kẻ chiến thắng hả hê nhưng sự thật có đáng hiện diện trong một bài báo của một tổng biên tập lớn của một tờ báo lớn, trong một ngày máu xương chất đống hay không?

Một ông cụ thổi kèn Tây trong ban nhạc của triều đình Huế thời Bảo Ðại, tập kết ra Bắc, sau ngày “chiến thắng” chỉ còn độc một đôi dép râu, không có cả…bít tất. Ông cụ nói như lời trăng trối:

“Cảm ơn ông, đoàn với ai, tụ với ai? Vợ con chưa biết hiện ở đâu, đi theo nhà khác mất rồi có khi. Họ hàng thì chết trong Tết Mậu Thân… Tôi về đó vẫn lại trơ làm thằng tập kết đợt hai trơ trọi một mình… Ra đi để thống nhất đất nước, bây giờ ai thống nhất với thân già tôi?”

Trần Ðĩnh cũng như triệu triệu người miền Bắc ngây ngô, mơ màng thằng dân trong này bị bóc lột tận xương tủy, không có nổi cái chén mà ăn cơm, trong hành lý vào Nam của Trần Ðĩnh có năm bảy thứ cứu đói vào, trong đó có cả một cái thùng nhựa đựng nước kẻo sợ trong Nam không có được cái miểng sành chăng?

Người ngoài Bắc nô nức đi Nam xem chúng nó bị bóc lột đến cỡ nào, không ngờ “trong kia dân nó ối chà giàu ơi là giàu. Vàng chỉ năm chục đồng một cây. Tủ lạnh vài chục đồng một chiếc. Lạnh cứ là liên lu liền lù suốt năm. Bảo cho tay vào lâu là hóa ra đá!” hay “buồng nào cũng máy lạnh. Xin lỗi anh, tôi thấy sướng nhất là đi toa lét!”

Dân miền Nam quả là không đợi không chờ ai vào giải phóng. Câu chuyện của Minh Trường, phóng viên nhiếp ảnh TTX (1971) kể lại cái hí hửng của kẻ “giải phóng” khi vào Sài Gòn đã bị một thau nước lạnh dội vào mặt. Bà mẹ ra mở cửa, thấy mặt anh thì vội vàng chấp tay lạy:

“Anh còn sống thì tôi mừng nhưng anh về thì tất cả các đứa con bao lâu nay sống với tôi, chăm sóc phụng dưỡng tôi đều đã bị các anh lôi đi tù hết mất rồi. Anh về thì nhà này tan nát, thì tôi trơ trọi. Thôi, tôi xin anh, anh đi với đồng chí của anh đi cho mẹ con tôi yên!”

Thân phụ Trần Ðĩnh di cư vào Nam từ năm 1954 đã sụt mất 17 kg từ ngày “giải phóng,” thấy con khốn khổ vì đảng thì mừng, và ngay những ngày đầu tiên đã có nhận xét:

“Chưa có thời nào mà bắt người thua trận bị tù hàng chục vạn như thời Cộng Sản. Các tay này không biết lòng dân là thế nào sao?… Cái khó chịu nhất là dân trong này thấy mình bị khinh miệt.”

“Bố đi bộ về đến đầu phố thì bị một anh bộ đội cầm súng gác giữ lại hỏi đi đâu mà nhanh thế. Bố nói tôi già nên muốn mau về nhà nằm. Không được, đứng nghiêm năm phút! Bố lại ngỡ như thuở bé đi học đứng nghiêm là quay mặt vào tường nên quay vào tường thì anh ấy lại vặn sao quay mặt đi? Trốn giáo dục à? Lại quay lại nhìn thiên hạ qua lại nhìn mình. Ðứng đã ngán lại phải nghe loa ca ngợi chiến thắng, phân tích chiến thắng…”

Dân Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh sau ngày được “giải phóng,” đua nhau vào Sài Gòn mua bán ve chai, như Trần Ðĩnh đã viết:

“Gặp ve chai đồng nát đạp xe tơi tới ở Sài Gòn, tôi chợt thấy mình thường hay hỏi: ‘Thanh hay Nghệ đấy?’ Ðâu chỉ hai căn cứ địa lớn này của Ðói. Khắp mọi nơi! Từ Nam chí Bắc…”

“Nhìn mặt bà ve chai này tôi bỗng nhớ câu ‘chiến thắng mang gương mặt khổ đau cùng cực’ của Olga Bergolzt, nhà thơ nữ Nga bị đày ải hết đời. Bà ta nói thay cho tất cả những ai sống với Cộng Sản. Cộng Sản lúc đầu hấp dẫn nhờ đưa ra các hứa hẹn thỏa mãn toàn bộ các nhu cầu của con người. Nhưng phiệu hết. Chỉ còn bành trướng quyền lực của cộng là nhu cầu duy nhất phải thỏa mãn. Vỡ mộng, dân bèn có nhu cầu trừng phạt cái tội lừa dân. Và cậy đến bất cứ thứ gì không phải cộng.”

Người phụ nữ quê ở Nga Sơn, Thanh Hóa, mua ve chai này, đã đi thanh niên xung phong – bất mãn, thất vọng trước thời thế, cho rằng:

“Bây giờ đấy, đứa ăn chẳng có mà đứa thì sướng quá vua. Biết trước là ra một trời một vực thế này thì chả đi hy sinh làm gì. Hai cụ không nghe thấy dân đã có câu ca đấy ư?… Áo lính chưa ráo máu đào, Mà xe vợ tướng đã vào tới nơi.” Ðẹp… Nhưng cháu chỉ muốn Mỹ nó lại thả bom cho tan hết…”

Cộng Sản vào Nam, một năm sau khi Trung Cộng dùng vũ lực chiến Hoàng Sa, báo Sài Gòn Giải Phóng đã ca tụng và đoan chắc:

“Trung Quốc vĩ đại không chỉ là người đồng chí, mà còn là ông thầy tín cẩn, đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có được ngày hôm nay, thì chủ quyền Hoàng Sa thuộc Trung Quốc hay thuộc ta cũng vậy thôi. Khi nào chúng ta muốn nhận lại, Trung Quốc sẽ sẵn sàng giao lại.”

Và cái chính sách nhân đạo khoan hồng của Cộng Sản Bắc Việt kiểu Phạm Văn Ðồng:

“Ðế quốc Mỹ và tay sai đã biến chúng từ con người thành ra dã thú. Cách mạng phải cải tạo chúng từ thú trở lại thành người. Phải giam chúng lại để chúng không làm hại nhân dân được nữa. Ðồng thời phải cải tạo chúng để chúng cải tà quy chính.”

Mấy năm sau, Cộng Sản lộ nguyên hình là một lũ cướp ngày, từ chuyện lùa dân đi kinh tế mới, đánh tư sản, đổi tiền, tổ chức thu vàng cho vượt biển “bán chính thức,” dân chủ vạn lần hơn tư bản đâu không thấy, nhưng tham ô, lừa đảo khốn nạn hơn cả trăm lần xã hội miền Nam trước đây.

Giải phóng! Bọn cháu Trần Ðĩnh năm đứa cả trai lẫn gái, đứa lớn chưa đầy 17 tuổi kéo nhau xuống tàu vượt biển để thấy ông bác bao nhiêu năm đi theo Cách Mạng là không cần thiết, chỉ làm khổ đồng bào, bà con ruột thịt, tốn máu xương của nhân dân mà thôi!

Có một điều, cần phải nói ra đây, tác giả Trần Ðĩnh vì thói quen chữ nghĩa, trong chương ba mươi tám đã viết rằng, “Gia đình tôi mất liên hệ với nhau đã lâu” (ý nói cha con cách biệt). Thật ra không nghe nói chuyện cha con ông từ bỏ nhau, mà chỉ vì hoàn cảnh Bắc Nam không “liên lạc” được với nhau mà thôi!

Chiều nay ngồi viết riêng cho em,

“Chiều nay ngồi viết riêng cho em,”
Cho em bài hát êm đềm, trôi theo từng tiếng tơ mềm
Nhờ mây gửi đến riêng cho em
Cho em ngàn lời yêu thương, trôi trên nụ cười phong kín.”

(Từ Công Phụng – Bài Cho Em)

(1Cor 15: 1-2)

Trần Ngọc Mười Hai

Viết riêng cho em hay cho anh/cho chị lẫn mọi người, về một kinh-nghiệm để đời, thì ai ai cũng muốn viết. Bần đạo đây nhiều lúc cũng thế, nghĩa là rất muốn viết những điều như sau:

Hôm ấy, một ngày đẹp trời ở Úc, bần đạo “đến hẹn lại lên”, cứ lên và lên mãi đến tận Đại Học Công giáo ở Strathfield, Sydney để nghe cha giáo Kevin O’shea dạy tiếp về đề-tài “Đức Kitô lịch-sử ở Phúc Âm”. Trong lúc đợi giờ, bần đạo bèn đánh bạo đến hỏi thày thêm về chủ-đề “Tái Phúc-Âm-hoá Đời Sống” mà Đức Phanxicô đưa ra là có ý gì, thì được thày chỉ dạy bằng trao-đổi ngắn như sau:

Tái Phúc-Âm-hoá đời sống ư? Thì, cũng giống công việc lâu nay anh đang làm, đây thôi.

-Dạ, lâu nay con có làm được việc gì cho nên chuyện đâu, thưa cha!

-Đúng! Việc anh đang làm tuy chưa nên chuyện và thành chuyện thực sự, nhưng cũng là những cố-gắng dịch và viết về Phúc Âm/Tin Mừng theo ý-định của người viết, đó cũng là “Tái Phúc-Âm-hoá” một số người, đấy chứ!…

-Dạ, cho đến hôm nay con chỉ mới dịch một số đề-tài do cha đưa ra, mà thôi…

-À ra thế. Tôi có nghe anh em đây nói là: anh làm được khối việc cho nhiều người. Hãy tiếp tục làm những điều mình thấy là cần thiết, bởi lẽ công việc anh đang làm tuy chưa nhiều nhưng rồi ra, cũng sẽ giúp anh hiểu được ý-nghĩa và mục-đích do Đức Giáo-Hoàng Phanxicô chủ-xướng”.

Thú thật với bầu bạn và với tôi, đôi điều là: nghe bậc thày dạy giảng-giải, bần đạo đây thấy đầu óc mình càng mù tối thêm. Thành thử, suy đi nghĩ lại, cũng thấy ngại. Ngại, như ý/lời người nghệ sĩ khi xưa hàm-ẩn một tình-huống cũng tương-tự:

“Chiều nay ngồi viết riêng cho em,

Cho em bài hát êm đềm,

trôi theo từng tiếng tơ mềm.

Nhờ mây gửi đến riêng cho em,

Cho em ngàn lời yêu thương,

trôi trên nụ cười phong kín.”

(Từ Công Phụng – bđd)

Lại cũng thú thật thêm nữa, là: mỗi lần đưa ra vấn-đề thần-học nào về Kinh thánh, bần đạo đây vẫn có thói quen hơi bị kém là cứ tìm đến với thi-ca/âm nhạc để thêm hứng-thú. Nhưng âm-nhạc và thơ văn vẫn cứ chuyển-tải những ý-tứ cũng rất buồn như chuồn-chuồn-gẫy-cánh mùa thu lá rụng, nên mới cảm-thông câu ca tiếng hát của nghệ-sĩ:

“Mùa Thu chợt đến trong cô đơn,

Buồn bay lên mờ lấp khung trời chiều lạnh lùng.

Trời còn gọi tiếng mưa đêm nay,

Mưa ơi! Đừng làm buồn mắt em thơ ngây.

(Từ Công Phụng – bđd)

Buồn như “mưa đêm nay”, “buồn bay lên mờ lấp khung trời chiều lạnh lùng”, nên hôm nay lại xin trần-tình rất chân-tình cùng bạn đọc và bạn đạo, rằng: đôi lúc ngồi cắn bút nghĩ chuyện mình làm bấy lâu nay, lại cứ tưởng đó là chuyện “ruồi bu”, vô bổ, chẳng bõ biền gì, nên cũng ngại. Nhiều đêm nằm suy nghĩ, thấy dự-án này/khác cứ trào tuôn, muốn thực-hiện ngay tức thời, nhưng nghĩ lại thấy khá ngại, đành thôi.

Nay, ngoài chất kích-tác từ bậc thày ban phát, bần đạo đây lại thấy có người khác cũng cảm-kích cho đó là chuyện nên làm, và cần làm. Chẳng hạn như, vừa qua, bần đạo lại đã nhận được điện-thư của một bạn đồng-môn lớp dưới viết những giòng thân thương ngắn gọn, nhưng nhiều ủi an, như sau:

“Anh Tá ơi,

Cám ơn những bài viết của anh.

Em đọc mãi mà không hết.

Em thích nhất đoạn tóm tắt câu chuyện “Mười điều Chúa không hỏi, khi gặp ta…”

là đã thấm rồi.

Chắc có lẽ, em sẽ đọc đi đọc lại ít nhất thêm 2 lần nữa,

mới hiểu kỹ những gì anh viết.

Chúc anh cứ thế mà cứu thế bằng ngòi viết nhé.

-eLam”

(trích thư điện nhiều phấn-kích của cựu đệ-tử Cứu Thế Nguyễn Duy Lâm gửi hôm 07/9/14)

Đọc thư người em đồng-môn gửi, thấy mình như đang ngâm nga lời ca, lại những hát:

“Ô hay! Mùa Thu đến bao giờ?

Mưa bay buồn giăng mắc khung trời.

Người về từ trên đó để nhìn làn môi thắm.

Cớ sao em còn buồn, để mùa Thu đến rồi đi.”

(Từ Công Phụng ­- bđd)

Vâng. Vấn-đề đặt ra hôm nay, không phải để ngâm nga thấm thía các lời thơ hoặc lời thư, từ đâu đó hay nhạc-bản hoặc điện-thư mà là ý-từ của đấng bậc trên cao tít đã chủ-xướng đề-tài  để ta học-hỏi, nghiên cứu. Nghiên cứu Lời Chúa, có những ý chủ chứ không chỉ những lời lẽ trong trình-thuật truyện kể đầy nghĩa đen tuyền, vật vờ, khúc-mắc.

Nghĩ thế rồi, bần đạo bèn mạnh-dạn tiến vào nguồn thơ cũng là nguồn của những thư và thơ từ một bậc thày khác đã đề-nghị học trò và độc-giả của ông nghiên cứu Phúc-Âm cách bài-bản như sau:

“Buổi hội thảo mùa Xuân USCC hôm ấy ở New Orleans chừng độ tháng 6/2014 Tổng Giám Mục Joseph Tobin, CSsR chủ-quản bang Indianapolis Hoa Kỳ, có nói về đường-lối mà Đức Phanxicô đang theo đuổi, cho thấy một cung-cách cũng rất khác về tác-vụ thừa-sai rao-giảng Tin Mừng. Và từ đó, thách thức ta đừng làm nản lòng mọi người về hình-ảnh riêng-biệt của các vị lãnh-đạo mục-vụ thiết-lập ở Hoa Kỳ…” (Lm Kevin O’Shea CSsR, Giáo án giảng-dạy thần-học “A Colloqyu on Collegiality”, tổ-chức ở Sydney hôm 23/8/2014 tr. 46)

Được kích-thích bằng một cảm-hứng cũng khá lạ, bần đạo lại tìm đến một bậc thày khác cũng có nhiều kinh-nghiệm từng-trải ở bục giảng tại một số đại-học Công giáo ở Hoa Kỳ, lại có nhiều nhận-định rất nền-tảng, mà ông dùng làm lời tựa cho cuốn sách nổi tiếng của ông, có liên-quan đến công-trình nghiên-cứu về diện-mạo đa-dạng của Đức Giêsu.

Nhưng, để làm nhẹ bầu khí khô-khan, rất căng-dãn cũng nên chạy về với truyện kể để thư giãn, như sau:

“Truyện rằng:

Trong một vụ cướp ngân-hàng ở xứ miền đặc sệt tính-chất toàn-trị, tên cướp nọ hét lên:

-Tất cả hãy đứng im. Nên nhớ rằng, tiền bạc đây thuộc về Nhà Nước, còn mạng sống thuộc bọn người.

Mọi người nghe xong bèn lẳng lặng nằm ụp xuống nghĩ ngợi: Điều này được gọi là “Cách thức Khai-tâm để thay đổi lề-lối suy nghĩ cũng đã mòn”. Lúc ấy, có cô nhân-viên nằm trên bàn theo tư-thế gợi cảm để làm lạc hướng ý-đồ của các tay cướp. Tên cướp khác, thấy thế bèn hét lên:

-Cô kia làm ơn cư xử cho văn-minh một chút, bọn tôi là các tay cướp chứ không phải là những kẻ hiếp dâm, đâu!

Điều này, được các vị điều-nghiên đặt thành văn-vẻ, gọi là: Hành xử chuyên nghiệp – Tập-trung vào công việc mà mọi người được huấn-nghiệp!

Khi tên cướp quay lại, có tên cướp trẻ khác từng tốt-nghiệp với bằng chuyên-nghiệp Cao-học Quản-trị Kinh-doanh nói với tay cướp trọng tuổi hơn mới chỉ tốt-nghiệp trường phổ-thông, rằng:

-Đại ca à. Có cần đếm xem ta cướp được bao nhiêu không? Tên cướp già kia gằn giọng:

-Mày ngu lắm. Tiền nhiều thế, đếm thế chó nào được! Đợi đấy, tối nay báo/đài sẽ cho biết ta cướp được bao nhiêu, rồi sẽ rõ!

Điều này, cũng lại được gọi là: “Thực-chất của Kinh-nghiệm – Ngày nay kinh-nghiệm quan-trọng hơn giấy tờ, sách vở.

Khi băng cướp rời khỏi hiệntrường xảy ra, viên giám-đốc chi-nhánh ngân-hàng định gọi điện-thoại báo cho cảnh-sát biết, thì viên Kế-toán-trưởng đã vội vã chạy đến thì thầm vào tai ông  mà bảo rằng:

-Đợi đã sếp. Hãy bỏ 5 triệu hôm trước ta rút ra làm chuyện khác, coi như tổng-số bị băng đảng cướp mất.

Điều này được gọi là: Phương-sách Bơi theo Giòng nước – Chuyển đổi Tình-huống Bất-lợi Trở-thành Thuận-lợi.

Viên Giám-đốc tự nhủ:

-Tuyệt! Nếu mỗi tháng ta lại có một vụ cướp thì hay biết mấy!

Điều này gọi là: Loại bỏ những điều khó chịu – Hạnh-phúc là chuyện quan-trọng nhất!

Hôm sau, báo/đài truyền hình loan tin: bọn cướp đã lấy đi 100 triệu đô khỏi ngân-hàng. Các tay cướp nghe tin bèn thực-tế đếm chỉ thấy mỗi 20 triệu, bèn giận dữ nói:

-Chúng ta mạo-hiểm mạng sống mình chỉ để lấy 20 triệu, bọn lãnh-đạo kia chúng ngồi chơi xơi nước thế mà cũng cướp được của công đến 80 triệu. Đúng là học-hành có bằng-cấp, chúng mới được ngồi ghế ấy, chúng cướp tiền một cách siêu-đẳng hơn ta.

Điều này, theo sách vở được gọi là: Kiến-thức có giá-trị như vàng ròng…”

(truyện kể trích từ mạng toàn-cầu tuy mang tính hư-cấu, nhưng nhiều ý-nghĩa để ta suy)

Vâng. Theo người kể, thì: mỗi sự việc con người làm đều có ý-nghĩa sao đó. Ý-nghĩa tùy vào nghiên-cứu lẫn nhận-định của mỗi nhóm, mỗi người, cũng khác nhau.

Vâng. Đúng thế. Áp-dụng vào việc nghiên-cứu/học hỏi đứng-đắn có chất-lượng, lại cũng thấy nhiều đấng bậc, nhiều vị từng nghiên-cứu/học-hỏi có bài-bản, rất vững chắc. Trong công-cuộc điều-nghiên/học hỏi về sự việc gọi là “Tái Phúc-Âm-hoá đời sống gia-đình”, lại cũng thấy có vị, từng đề-nghị một phương-án cũng bài-bản.

Nhưng, do bởi tính-cách bài-bản của việc nghiên-cứu, đề nghị bạn và tôi ta lại hát:

“Giòng sông nào vắng xa chưa em

Ru lên hồn tuổi thơ này, thêm một lần chuốc u buồn

Hồn lên ngàn phím tơ vương êm

Ru em bằng lời ca đêm, ru lên tuổi buồn em mang.

Giòng sông rồi vắng xa thôi em

Đời trôi theo ngày tháng, mang nhiều kỷ niệm buồn

Tuổi thơ còn có mơ không em

Hay trôi miệt mài ngày tháng trong cô liêu.”

(Từ Công Phụng – bđd)

Những mong rằng, bạn và tôi, ta có nghiên-cứu/học-hỏi nhiều về “Tái Phúc-âm-hoá đời sống” cũng đừng “miệt mài ngày tháng trong cô-liêu”. Đừng “ru em bằng lời ca đêm”, “ru lên tuổi buồn em mang”. Có như thế, ta mới hăng-say nghiên-cứu, học-hỏi những điều khá khó, như sau:

“Học hỏi/nghiên cứu về Đức Giêsu qua Phúc-Âm, tôi đề-nghị ta nên xem xét Tân-Ước không chỉ như văn-bản riêng-biệt/độc-lập xuất-hiện ở bên ngoài thế-giới Do-thái, nhưng nên nhìn đó bằng lăng-kính của văn-minh Do-thái cùng thời, tức: cội-nguồn của Giáo-Hội thời nguyên-thủy.

Dĩ nhiên, ý-nghĩ sử-dụng các văn-bản của Do-thái vốn có đi từ Kinh thánh (tức niên biểu khoảng từ 1000 đến 200 năm trước Công Nguyên) ngang qua văn-chương liên-ước (vốn có niên-biểu từ 200 đến 100 năm trước Công nguyên) tức là: từ thời Mishna cho đến thời-kỳ ra sách luật Talmud của các rabbi (tức: niên-đại 200 sau Công-nguyên). Khi ấy, việc diễn-giảng Phúc Âm cũng không là công-tác mới mẻ gì, nhưng vào thời ấy cũng đã thấy nhiều vị thức-giả đã sử-dụng Tân-Ước như công-cụ học-hỏi tính uyên-bác, độc-đáo của Kinh thánh suốt 3 thế-kỷ đầu, và đặc biệt hơn nữa, là các thế kỷ mới về sau.

Tuy nhiên, phần lớn các học-giả đều đã tiếp-cận chủ-đề xảy ra với hầu hết các đấng bậc của Giáo-Hội, thì: một cách minh-nhiên hay mặc-nhiên đi nữa, các vị ấy đã đưa dẫn vào việc phân-biệt phẩm-chất có khác biệt giữa Tân-Ước và các văn-bản ngoài Kinh-thánh ở người Do thái. Đối với các vị ấy, văn-chương Do-thái đã tạo được nền-tảng, qua đó các học-giả uyên-bác ở thời trước đã lập ra Tân-Ước lại vượt lên trên nhiều văn-bản khác nhờ tính cao-siêu của Bản-văn Kinh-thánh này. Nói cách khác, các học-giả thời ấy vẫn coi Phúc Âm như bậc cha ông, còn các sách hoặc văn bản “ngoài luồng” khác của người Do thái không phải là Tân-Ước, chỉ được coi như bậc tôi đòi, phụ-lệ nếu có nhắc đến, thì cũng chỉ là khi được Truyền-thống cho phép, thôi.

Ngày nay, có nghiên-cứu học-hỏi, ta cũng nên sử-dụng phương-án nào dân-chủ hơn, tức: hãy để mỗi bên có quyền ăn nói đồng-đều. Tôi đây vốn là sử-gia, nên vẫn coi Đức Giêsu, coi Giáo-Hội tiên-khởi và Tân-Ước như thành-phần và một phần của Do-thái-giáo ở thế-kỷ đầu đời, hầu tìm cách đọc văn-bản ấy theo tư-thế “tự-thân”, hơn là qua cặp mắt của một thần-học-gia vẫn luôn đặt-để trong điều-kiện nào đó; rồi từ đó, lại sẽ bị ảnh-hưởng nhiều suốt hai thiên-niên kỷ vừa rồi, với niềm tin Kitô-giáo có sự chỉ-đạo của Giáo-hội.

Nói khác đi, khi ta đạt được cung-cách khám-phá ra ý-nghĩa của ý và lời trong ngôn-ngữ gốc mà người thời đó vẫn nói, tức là: để xem người nghe vào thời đó hiểu/biết sự việc như thế nào, thôi. Ngôn-ngữ do Đức Giêsu và đồ-đệ Ngài vốn là người Galilê sử-dụng thời ấy, lại là tiếng Aram, một ngôn-ngữ của người Do-thái na ná giống như tiếng Hip-ri, vốn được phần đông người Do-thái gốc Palestin vẫn sử-dụng cách rộng-rãi. Trên thực-tế, Đức Giêsu huấn-dụ mọi người và biện-bạch với bạn bè hoặc những người kình-chống Ngài, lại chỉ là tiếng Aram thôi. Và, hình-thức đích-thực về nguyên-ngữ nơi giáo-huấn của Đức Giêsu, ngoại trừ độ hơn chục lời Ngài nói bằng tiếng Aram, là được giữ lại trong Phúc-Âm thôi, còn lại đều đã nhanh chóng biến mất.

Giả như ai đó có được bản-văn Phúc Âm viết bằng tiếng Aram, thì việc ấy cũng không tồn-tại lâu dài, và chắc chắn ngày nay ta không còn giữ được thế. Cùng vào thời ấy, Giáo hội tiên-khởi đã thành-công trong việc giao-dịch với thế-giới ngoài đạo (tức: không phải là người Do-thái) bằng tiếng Hy-Lạp, thế nên toàn-bộ thông-điệp do các tông-đồ chuyển tải, như Phúc-Âm hoặc các thư luân-lưu và tài-liệu nào khác được ghi bằng tiếng Hy-Lạp, tức là hình-thức sớm-sủa nhất của Tân-Ước ta vốn có.

Nhưng, Tân Uớc viết bằng tiếng Hy-Lạp lại chỉ là “bản dịch” tư-tưởng chân-phương cũng như ý-kiến của Đức Giêsu và đồ-đệ Ngài suy-nghĩ hoặc nói ra bằng tiếng Aram, tức: bản dịch không là toàn-bộ ngôn-ngữ cũng rất khác, mà là bản tháp-ghép hệ tư-tưởng của Phúc Âm được đưa vào môi-trường văn-hoá và đạo-giáo rất xa lạ với thế-giới La-Hy bên ngoài Đạo. Thành thử ra, công việc của nhà nghiên-cứu, diễn-giải trước nhất, là: phải kiếm-tìm cung-cách trở về với Đức Giêsu-Do thái đã từng nói cho những người Do-thái dõi theo chân Ngài qua tương-quan/trao-đổi bằng tiếng nói quen-thuộc với người Do-thái. Từ đó, người học-hỏi nghiên cứu còn phải biết xem xét lời lẽ nào được gán cho là do Đức Giêsu nói ra, và giáo-huấn về Đức Giêsu trong Tân Ước viết bằng tiếng Hy Lạp ngõ hầu xem có gì đổi-thay hoặc triển-khai ý-nghĩa hoặc ngay cả hiện-tượng ngầm bóp méo từng nổi lên từ động-thái đề ra tư-tưởng bằng mạch văn mang tính văn-hoá Hy-Lạp…” (xem Geza Vermes, The Changing Faces of Jesus, Penguin Compass 2002, tr. 2-3)

Chỉ bấy nhiêu lập-trường đề ra cho người nghiên-cứu việc Phúc-Âm-hoá đời sống thôi, thì bần đạo đây thấy cũng khá ngại. Ngại, không vì thấy đó là chuyện rắc-rối đòi nhiều thời-gian và công-sức hơn nữa. Nhưng, ngại ở chỗ: ý-thức về sự cần-thiết của động-thái “Phúc-Âm-hoá đời sống” theo cách nào đó, cho nhẹ nhàng/dễ chịu, thôi.

Như thường lệ, mỗi khi làm thế, bần-đạo vẫn có thói quen không được tốt cho lắm, là: hay chạy về với thơ văn/âm-nhạc hoặc truyện kể để lấy hứng, rồi học tiếp. Thi-ca và âm-nhạc hôm nay vốn được trích-dẫn, chỉ quanh-quẩn những ý/tình cũng hơi bị “chênh” hoặc “trệch” khỏi chủ-đề mình bàn. Thôi thì, để gợi hứng, nên ta cũng nên hài lòng với những gì mình có thể hoặc không thể làm được, mà thôi.

Có thể và không thể, là chuyện hôm nay bần-đạo tìm ra được nguồn hứng có những câu ca, đã vừa hát lại vừa để coi xem có ai phản-đối, hay không. Không thấy gì, nên lại đề nghị bà con ta trở về với ca-từ nhè nhẹ, sau đây:

“Chiều nay ngồi viết riêng cho em,

Cho em bài hát êm đềm,

trôi theo từng tiếng tơ mềm.

Nhờ mây gửi đến riêng cho em,

Cho em ngàn lời yêu thương,

trôi trên nụ cười phong kín.”

(Từ Công Phụng – bđd)

Cũng có thể, là: bạn bè/người thân của bần đạo không mấy hài lòng về giải-pháp bất chợt và tạm thời cho qua ngày. Thế nên, bần đạo lại nhớ đến lời thánh-nhân hiền lành, từng nói nhiều lời khích-lệ cũng dễ nể, để bạn và tôi, ta theo đó mà sống và hành-động cho đúng phép. Như thế, phải chăng gọi đó là: “tái Phúc Âm-hoá cuộc sống” của riêng ta? Phúc-Âm-hoá đời sống của chính mình, là: về mà nghe lại những lời-lẽ mình từng nghe/từng biết vào thời trước, rất như sau:

“Thưa anh em,

tôi xin nhắc lại cho anh em

Tin Mừng tôi đã loan báo

và anh em đã lãnh nhận cùng đang nắm vững.

Nhờ Tin Mừng đó,

anh em được cứu độ,

nếu anh em giữ đúng như tôi đã loan báo,

bằng không thì anh em có tin cũng vô ích.”

(1Cor 15: 1-2)

Nhắc nhớ và nhắc nhở thế rồi, lại sẽ hy-vọng rằng: bậc thày dạy sẽ không đòi-hỏi nhiều hơn nữa, để ta sống. Bởi, nhắc nhớ và nhắc nhở, là: nhắc mãi rằng: “Nhờ Tin Mừng” ta được cứu-độ, ta mới “giữ đúng (lời thánh hiền) loan báo”; bằng không thì, ta “có tin cũng vô ích”, thôi.

Vâng. Rất đúng. Nhắc nhớ và nhắc nhở bằng lời nói hay truyện kể vẫn là cung-cách của dân con trong Đạo sống ở đời có quá nhiều việc và chuyện làm ta sao lãng hoặc quên đi việc “Phúc-Âm-hoá đời sống” của riêng ta. Nhắc nhớ và nhắc nhở, còn nhắc bằng lời khuyên-răn của bậc thày khác, từng có nhận-định về tình-hình nghiên-cứu về Đức Giêsu lịch-sử như sau:

“Rất có thể, là: các vấn-nạn khúc-mắc được đề cập rất nhiều, lại đã tìm ra cơ-ngơi nơi thế-giới của đại-học-đường, bỏ rời thế-giới chính-thức của Giáo-hội bằng thứ ngôn-ngữ tư-riêng và khác-biệt như một sưu-tập đầy những vấn-nạn. Cái khó của sứ-vụ thừa sai nay cho thấy là: càng ngày càng có nhiều người học-thức hơn xưa và cũng có rất nhiều người nay suy-tư theo ngôn-ngữ và/hoặc cung-cách “đại-học” cả khi họ phân-tách câu nói hoặc tạo tiết-tấu một cách khác mọi người.” (x. Lm Kevin O’Shea CSsR, Focus on Historical Jesus Studies with Special Reference to ‘Jesus of Nazareth’ by Joseph Ratzinger/Pope Benedict XVI, August 2007, tr. 65)

Trên thực tế, rất có thể là như thế. Càng có thể hơn, lại cũng nhắc nhở và nhắc nhớ chính mình và mọi người về công-tác “Tái Phúc-Âm-hoá đời sống”, nghĩa là sống địch-thực cuộc sống luôn thực-thi lời dạy từ Tin Mừng trong nguyện cầu.

Vào với ví-dụ cụ-thể thì: khi lần chuỗi Mân Côi, cũng nên suy về lời nguyện/chúc như: “Nguyện Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể-hiện dưới đất, cũng như trên trời”. Và, ở kinh Kính Mừng, ta lại có lời nguyện/chúc khác, như câu: “Đức Chúa Trời ở cùng Bà”, tức: ở cùng chúng ta, để rồi lại cũng kết thúc bằng một lời tụng/chúc, như sau: Sáng Danh Đức Chúa Cha, và Đừc Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần…” và lời xưng cuối là tiếng “Amen” tức: những ước và mong cho mọi sự xảy ra, sẽ tốt đẹp như vậy.

Cụ thể của mong ước, là ước mong sao tinh thần và quyết tâm “tái Phúc-Âm-hoá đời sống” của mình và của người, sẽ thành hiện-thực. Thêm nữa, nhắc nhở và nhắc nhớ chính ta và mọi người về chủ trương “Tái Phúc-Âm-hoá đời sống” chính mình và mọi người, vào mọi lúc. Chứ không chỉ trong vòng một năm thánh, mà thôi.

Nhắc nhớ và nhắc nhở, như thể vào lần tấn-phong linh-mục cho các phó-tế, Giám mục chủ-quản hoặc chủ-trì buổi lễ vẫn nhắc nhớ và nhắc nhở các tân-chức cách riêng, và mọi người nói chung, là: “Hãy nhớ mà sống điều mình giảng rao, chứ đừng rao giảng những điều mình từng sống!” Nếu dân con nhà Chúa, ở đây và bây giờ đều làm thế, thì công cuộc “tái Phúc-Âm-hoá đời sống” Kitô-hữu, cũng sẽ đạt.

Để minh hoạ cho quyết-tâm “tái Phúc-Âm-hoá đời sống” của mình, theo đề-nghị của thánh-hội năm 2014 này, dưới đây là truyện-kể có thể coi đó như lời khuyên khi ai đó quyết-tâm “tái Phúc-Âm-hoá cuộc sống”. Truyện kể, cũng nhè nhẹ như vẫn diễn ra ở nhiều nơi/nhiều chốn, nhất là ở khung trời nào đó bên phương Đông, phương Đoài như sau:

Trước nhất là lời khuyên-răn:

“Nếu bạn muốn buông xuôi một vài thứ, không còn quyết-tâm đeo đuổi như lúc đầu còn hăng-say, thì bạn nên đọc 2 câu chuyện dưới đây. Hy vọng, nó sẽ giúp ích được cho bạn điều gì đó.

Sau đến là truyện kể, nối tiếp những hai lần, rằng:

“Có cô gái nọ tìm đến một nhà sư, để rồi hỏi:

– Thưa thầy, con muốn buông một vài thứ mà không thể, con mệt mỏi quá.

Nhà sư đưa cho cô gái 1 cốc nước và bảo cô cầm lấy, đoạn ông liên tục rót nước sôi nóng vào cốc, nước chảy tràn ra cả tay, làm cô bị phỏng, cô buông tay làm vỡ cốc.

Lúc này nhà sư từ-tốn nói:

– Đau rồi tự khắc sẽ buông!

Và tiếp theo đó, là lời bàn của người kể, rất như sau:  “Vấn đề là, tại sao phải đợi cho tổn thương thật sâu, rồi mới buông?” Câu truyện tiếp theo cũng kể về việc nắm và buông, như sau:

“Có một chàng trai đến tìm nhà sư, và anh hỏi:

-Thưa thầy con muốn buông xuôi vài thứ nhưng con do-dự quá, con mệt-mỏi vô cùng.
Nhà sư đưa anh ta 1 cái tách và bảo anh cầm, đoạn ông rót đầy tách trà nóng vừa mới pha xong.
Chàng trai cảm thấy nóng quá nhưng vẫn không buông tay, mà chuyển từ tay này sang tay kia, cho đến khi nó nguội đi rồi uống và nhận thấy rất ngon. Lúc này nhà sư mới từ-tốn nói:

– Nếu cứ đau là buông, thì con đã bỏ lỡ những thứ tốt đẹp sau đó rồi!

Và, người kể lại cũng có lời sau đây: “Vấn đề là tại sao cứ đau là phải buông trong khi còn có thể làm cho nó tốt đẹp lên.

Và rồi, người nghe cũng có thêm lời bàn khác theo kiểu “Mao Tôn Cương” như sau: “Bài học rút ra là thế này: Trong cuộc đời vốn dĩ phức tạp này, chỉ ta mới biết lúc nào nên cầm lên và lúc nào thì bỏ xuống các sự việc của chính mình.” (Truyện kể sưu tầm trên mạng, mới đây thôi).

Sưu tầm truyện kể, cũng chỉ để minh-hoạ những gì mà bạn và tôi, ta muốn nói và muốn nghe, khi quyết-tâm. Như, quyết-định để tâm thực-hiện chủ-trương do Đức Giáo Hoàng đề xướng và coi đó như tôn-chỉ để dân con trong Đạo thực-hiện vào năm 2014 này.

Kể thế rồi, nay ta lại cứ hiên ngang đầu cao mắt sáng hát lên lời ca tuy hơi buồn, nhưng trong đó vẫn có chút gì vui vui, nếu người người vẫn cứ quyết tâm “viết riêng cho em” những điều sau đây:

“Chiều nay ngồi viết riêng cho em,

Cho em bài hát êm đềm,

trôi theo từng tiếng tơ mềm.

Nhờ mây gửi đến riêng cho em,

Cho em ngàn lời yêu thương,

trôi trên nụ cười phong kín.”

(Từ Công Phụng – bđd)

Viết riêng cho em hay cho ai đó, cũng cứ nên viết “ngàn lời yêu thương”. Để rồi lời ấy sẽ cứ gọi là “trôi trên nụ cười phong kín”, rất thực-thà.

Thế đó là ý-nghĩa của lời ca và cũng là đôi điều tâm niệm xin mạn phép gửi đến bạn và đến tôi, trong ngày này. Và, những ngày sắp tới, suốt cõi đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn muốn gửi đến tất cả

Những lời viết riêng

Rất yêu thương

Trong cõi đời này.