Hải Phòng: Truy sát kinh hoàng, nhiều người thương vong

Hải Phòng: Truy sát kinh hoàng, nhiều người thương vong
October 24, 2014

Nguoi-viet.com

HẢI PHÒNG (NV)Chỉ vì xích mích nhỏ trong lúc ăn tiệc có tổ chức đánh bài, hai nhóm thợ hồ đã truy sát nhau dẫn đến nhiều thương vong, khiến người dân một phen khiếp vía.

Theo Người Lao Ðộng, sự việc xảy ra vào tối ngày 23 tháng 10, 2014, trước cửa nhà ông Nguyễn Quang Thịnh, chủ thầu xây dựng, ở đường Thiên Lôi, phường Vĩnh Niệm, Lê Chân, Hải Phòng, khi hai nhóm thợ xây xảy ra xô xát lúc ăn tiệc hoàn thành công trình, thì bất ngờ xảy ra vụ truy sát kinh hoàng với nhau, khiến 2 thợ xây tử vong, 3 người khác trọng thương.


Vụ truy sát khiến người dân khiếp vía. (Hình: Người Lao Ðộng)

Nguyên nhân ban đầu được xác định, trong lúc ăn uống và chơi đánh bài đã xảy ra mâu thuẫn giữa 2 thợ hồ. Bị đánh, hung thủ cùng em vợ quay lại tấn công khiến 5 người thương vong.

Tin tức tường thuật lại thì khoảng 19 giờ cùng ngày, Hà Văn Mười, Nguyễn Hữu Nhật, và Bùi Công Danh, (là bạn Mười) đến nhà ông Thịnh để lấy tiền công làm thuê. Khi đến nhà thì gặp ông Thịnh đang ngồi ăn tối cùng với 5 người khác gồm: Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Xuân Chi, Phạm Hồng Phúc, Trần Thanh Cương và Tạ Hữu Lộc và một số người nữa.

Sau khi lấy 1.8 triệu đồng tiền công thì Mười và Doanh ra về, còn ông Nhật ở lại nhà ông Thịnh ăn cơm cùng mọi người. Còn Mười và Doanh đi nhậu đến 20 giờ 30 cùng ngày thì quay trở lại nhà ông Thịnh.

Khi quay lại, mọi người đã ăn xong và có một số người đang ngồi đánh bài ăn tiền. Ông Mười vào tham gia đánh bài thì xảy ra mâu thuẫn và bị nhóm người ở đây đánh lại. Mười chạy bộ ra khỏi nhà ông Thịnh và hẹn lát nữa sẽ quay lại.

Bị đánh, Mười đã điện thoại cho em vợ là Trần Văn Ðức (24 tuổi) ở Vĩnh Niệm, Lê Chân, Hải Phòng, bảo bị mấy thằng thợ xây đánh và nhờ Ðức đến giải quyết hộ.
Ngay sau đó Ðức chở Mười quay lại nhà ông Thịnh tạo ra cuộc truy sát kinh hoàng.

Hai nạn nhân tử vong là Ngọc Tuấn (26 tuổi), và Tuấn Anh (26 tuổi), do bị nhiều vết thương nặng nên đã gục chết ngay tại chỗ.

Ngoài ra, nhiều thợ hồ khác bị thương, trong đó có ông Trần Thanh Cương (23 tuổi), bị một vết thương khá nặng tại vùng cổ sau gáy, Nguyễn Xuân Chi (21 tuổi), Tạ Hữu Lộc ( 29 tuổi) cùng trên địa bàn Hải Phòng và một số người chưa rõ lai lịch đang được cấp cứu tại bệnh viện Hữu Nghị Việt- Tiệp, Hải Phòng.

Tại nơi xảy ra vụ đâm chém, công an thu giữ một dao bầu dài khoảng 30cm, một giáo tre đầu bịt sắt nhọn được cho là của nhóm hung thủ vứt lại.

Một công an điều tra quận Lê Chân cho biết, qua quá trình khám nghiệm tử thi, ghi nhận thông tin từ các nạn nhân cho thấy, các nạn nhân đều bị đâm một nhát duy nhất vào các vùng nguy hiểm đến tính mạng.

Trong một diễn biến khác, tại buổi làm việc với công an quận Lê Chân, hai nhà báo trong khi thu thập thông tin về vụ việc trên, đã bị một cán bộ công an quận Lê Chân có hành vi cản trở, hành hung.

Trao đổi với báo chí, ông Trần Tiến Quang, phó trưởng công an quận Lê Chân lập lờ “ghi nhận ý kiến phản ánh của nhà báo và sẽ cho xác minh lại vụ việc và trả lời các cơ quan báo chí sau (?!).” (Tr.N)

Dân chủ hoá: Một tiến trình đầy nhọc nhằn

Dân chủ hoá: Một tiến trình đầy nhọc nhằn

Nguyễn Hưng Quốc

21.10.2014

Mới đây, trong chuyến thăm Đức, khi được hỏi về vấn đề dân chủ ở Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố: nhân quyền, tự do và dân chủ là xu hướng không thể đảo ngược được và Việt Nam cũng không thể đứng ngoài xu thế ấy.

Lời phát biểu ấy, thật ra, có hai cái sai.

Thứ nhất, dân chủ không hẳn đã là một xu hướng không thể đảo ngược. Trước đây, giới nghiên cứu Tây phương hay nói đến xu hướng dân chủ hoá trên thế giới như những làn sóng. Làn sóng dân chủ thứ nhất diễn ra từ đầu thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 với 29 quốc gia được dân chủ hoá; làn sóng thứ hai diễn ra từ cuối đệ nhị thế chiến đến đầu thập niên 1960 với 36 quốc gia được dân chủ hoá; và làn sóng dân chủ thứ ba từ đầu thập niên 1970 đến đầu thập niên 1990 với trên 100 quốc gia được dân chủ hoá trong đó có nhiều quốc gia thuộc khối cộng sản cũ. Từ đầu thập niên 2010, với sự sụp đổ của các chế độ độc tài ở một số quốc gia Hồi giáo ở Trung Đông và Bắc Phi, một số học giả vội vã cho rằng làn sóng dân chủ lần thứ tư đã xuất hiện, tuy nhiên, sau đó, hầu như mọi người đều lẳng lặng rút lại cái tên gọi đầy hoan hỉ ấy.

Có điều cần chú ý là sau mỗi làn sóng dân chủ ấy lại có những cuộc thoái trào. Trong làn sóng dân chủ lần thứ nhất, có lúc các quốc gia dân chủ chỉ còn 12; trong làn sóng thứ hai có lúc chỉ còn 30. Làn sóng dân chủ thứ ba cũng vậy; sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Nga và Đông Âu, không phải quốc gia nào cũng thẳng tiến trên con đường dân chủ hoá. Phần lớn các quốc gia tuyên bố độc lập sau khi Liên bang Xô Viết bị giải thể đều trở thành độc tài.

Ở vào thời điểm hiện nay, các học giả cũng ghi nhận nhân loại đang ở giữa cuộc thoái trào của dân chủ. Theo tổ chức Freedom House vào năm 2013, sự phát triển của dân chủ cơ hồ dừng lại, hơn nữa, xu hướng phản dân chủ cơ hồ tăng nhanh. Trong hầu hết các quốc gia Trung Đông đã trải qua cuộc cách mạng mùa xuân, hầu như chỉ có Tunisia là tương đối ổn định, còn Ai Cập và các nước khác thì hoặc rơi vào cảnh hỗn loạn hoặc quay ngược lại chế độ độc tài. Nước Nga được dân chủ hoá dưới thời Boris Yeltsin, đến thời Vladimir Putin, lại biến thành độc tài. Ở Nigeria, Pakistan, Kenya, Venezuela, Bangladesh và Thái Lan cũng như Thổ Nhĩ Kỳ, dân chủ rất yếu ớt và thường xuyên bị đe doạ.

Có hai nguyên nhân chính dẫn đến các cuộc thoái trào của dân chủ:

Một, nền dân chủ ở các quốc gia ấy còn non yếu. Nói chung, một hệ thống chính trị dân chủ phải tôn trọng cả quyền tự do chính trị lẫn các quyền tự do dân sự. Phần lớn các quốc gia mới dân chủ đều chỉ thực hiện được yếu tố thứ nhất: quyền tự do chính trị, ở đó, dân chúng được tự do bầu cử để chọn một người hoặc một đảng nào đó lên cai trị. Tuy nhiên, họ lại chưa có tự do dân sự, trong đó, quan trọng nhất là tự do ngôn luận và tự do tham gia vào chính trị dưới các hình thức lập hội, thậm chí, lập đảng để đối lập lại chính quyền.

Hai, trong các quốc gia thoái trào dân chủ ấy, một mặt, giới cầm quyền tham lam muốn thâu tóm mọi quyền lực vào tay mình; mặt khác, dân chúng chưa quen với dân chủ, chưa có văn hoá dân chủ nên dễ dàng bị khiếp phục. Có thể nói, cả hai, giới lãnh đạo lẫn dân chúng, đều chưa quen với các trò chơi dân chủ. Ở các quốc gia Trung Đông, sau cách mạng mùa Xuân, bất cứ người nào lên nắm quyền cũng đều có tham vọng loại trừ đối lập; ở Thái Lan, ngược lại, các phe đối lập lại chỉ khăng khăng muốn xoá ván bài bầu cử trước đó để làm lại từ đầu theo hướng có lợi cho mình.

Nhưng dù với nguyên nhân gì thì, trên phạm vi thế giới, xu hướng dân chủ không phải là không thể đảo ngược được. Nếu không có văn hoá dân chủ và không có quyết tâm của mọi người, những chế độ dân chủ mới manh nha rất dễ quay ngược lại thời kỳ độc tài.

Nhấn mạnh đến nguy cơ thoái trào của dân chủ chủ yếu là để mọi người cảnh giác: dân chủ không những tự nhiên mà có. Nó là kết quả của những cuộc đấu tranh lâu dài và quyết liệt. Hơn nữa, khi đã xuất hiện, dân chủ không tồn tại mãi. Nó cần được nuôi dưỡng. Có thể nói quá trình dân chủ hoá là một con đường hết sức nhọc nhằn và luôn luôn đối diện với nguy cơ bị bóp chết tức tưởi.

Nhưng cái sai thứ hai trong lời phát biểu của Nguyễn Tấn Dũng là, trên thực tế, chính quyền Việt Nam lâu nay vẫn hành xử như một ngoại lệ trên thế giới. Trên ngôn ngữ tuyên truyền, họ vẫn nói đi nói lại những khẩu hiệu dân chủ, tự do và nhân quyền, nhưng trên thực tế, họ vẫn hành xử như những tên độc tài. Họ vẫn tổ chức đều đặn các cuộc bầu cử Quốc hội nhưng dân chúng lại không được tự do ứng cử, bầu cử và cũng không có quyền kiểm soát quá trình kiểm phiếu: Tất cả đều nằm trong tay của Mặt trận Tổ quốc, một tổ chức ngoại vi của đảng Cộng sản. Hơn nữa, chính bản thân Quốc hội, gồm tuyệt đại đa số là các đảng viên, chỉ là những con rối của đảng mà thôi.  Ở Việt Nam cũng không có các quyền tự do dân sự: tất cả các quyền tự do căn bản như tự do ngôn luận, tự do biểu tình, tự do lập hội đều bị cấm cản.

Việt Nam không hề có dân chủ. Hầu như ai cũng biết điều đó. Điều đáng nói hơn là chính quyền Việt Nam, ngoài những lời hứa hẹn suông, đều không hề có thiện chí xây dựng các tiền đề cho dân chủ để khi dân chủ được thiết lập, nó có thể vững mạnh. Tiền đề ấy nằm trong hai yếu tố: Một, xã hội dân sự, và hai, văn hoá dân chủ. Hai, nhưng thật ra, chỉ là một: văn hoá dân chủ chỉ thực sự nảy nở trong các hoạt động thuộc xã hội dân sự. Khi cấm các hoạt động của xã hội dân sự, chính quyền cũng bóp chết cả triển vọng xây dựng văn hoá dân chủ.

Nói tóm lại, khi tuyên bố Việt Nam không phải là ngoại lệ của xu thế dân chủ hoá, Nguyễn Tấn Dũng chỉ lặp lại những điều ông và đảng ông từng làm: nói dối.

Buồn và lo vì có vị bộ trưởng quốc phòng quá dớ dẩn

Buồn và lo vì có vị bộ trưởng quốc phòng quá dớ dẩn

Chuacuuthe.com

VRNs (24.10.2014) – Hà Nội – Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quanh Thanh vừa dẫn đầu một đoàn 13 tướng lĩnh sang phụng bái Bắc Triều từ ngày 16 đến ngày 18 tháng 10 năm 2014. Đoàn gồm các ông: Trung tướng Bế Xuân Trường – Phó tổng Tham mưu trưởng; Trung tướng Lương Cường – Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; Trung tướng Dương Đức Hòa – Tư lệnh Quân khu 2; Trung tướng Phương Minh Hòa – Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân; Trung tướng Võ Trọng Việt – Tư lệnh Bộ đội Biên phòng; Trung tướng Phạm Hồng Hương – Tư lệnh Quân khu 3; Chuẩn đô đốc Phạm Hoài Nam – Phó tư lệnh – Tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân; Thiếu tướng Phan Văn Tường – Phó tư lệnh Quân khu 1; Trung tướng Vũ Văn Hiển – Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng;Thiếu tướng Vũ Anh Văn – Tư lệnh Binh chủng Thông tin liên lạc; Thiếu tướng Vũ Chiến Thắng – Cục trưởng Cục Đối ngoại – Bộ Quốc phòng; Thiếu tướng Ngô Quang Liên – Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng.

Thực tế không biết họ đã bàn thảo với nhau những gì nhưng qua lời khai báo của Phùng Quang Thanh trong bài trả lời phỏng vấn các nhà báo bên lề cuộc họp Quốc hội hôm 20 tháng 10 năm 2014 thì không người Việt Nam nào không khỏi buồn lo, căm tức.

Nhà báo Vũ Đông Hà nhận xét:

Phùng Quang Thanh đã chính thức hùa theo Bắc Kinh để xem những vùng thuộc chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông không còn là của Việt Nam nữa mà là khu vực chung của các quốc gia cùng khai thác. Ông ta “mượn” Đài Loan, Philippines, Malaysia để biện hộ cho những hành vi xâm lược của Bắc Kinh trên biển Đông. Phùng Quang Thanh đã trở thành người phát ngôn Việt Nam tích cực nhất cho chủ trương tằm ăn dâu của Bắc Kinh: “biến vùng thuộc chủ quyền của Việt Nam thành vùng tranh chấp, biến vùng tranh chấp thành vùng khai thác của Trung Quốc, và sau cùng biến vùng khai thác chính thức thuộc chủ quyền không thể chối cãi của Trung Quốc””.

Mở đầu buổi phỏng vấn, Phùng Quang Thanh tí tởn khoe: “Chúng tôi sang thăm và làm việc thì bạn đón tiếp rất nhiệt tình, trọng thị, chu đáo và rất hữu nghị”.

Cái hoạt cảnh “nhử kẹo” này Thanh chẳng cần khoe thì tướng Nguyễn Trọng Vình, đại sứ lâu năm ở Trung Quốc cũng đã phác họa tử trước: “Chắc hẳn đoàn Bộ trưởng được đón tiếp trọng thị, khoản đãi hậu tình, có quà cáp đáng giá và được nghe những lời đường mật giả dối”.

Trả lời câu hỏi: “Thưa ông, trong các cuộc làm việc, hai bên có bàn về việc phía Trung Quốc đốc thúc nhiều hoạt động xây dựng trên khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam cũng như chuyện giàn khoan đã xảy ra ít tháng trước không?” Thanh nói:

Chúng tôi có trao đổi là bây giờ phải giữ nguyên hiện trạng trên biển Đông và phải thực hiện cho đầy đủ DOC. Tinh thần, quan điểm chung là không mở rộng tranh chấp, không cắm mới vào những nơi mà các bên chưa cắm”.

Chết rồi! Ai đã cử Thanh sang Trung Quốc để lạy lục, cầu xin bọn chúng “giữ nguyên hiện trạng” chiếm biển, chiếm đảo của mình?

Chẳng nhẽ Thanh đành cúi đầu dâng bái trước cái hiện trạng biển đảo của ta đã bị xâm lăng, chiếm đoạt rất đau lòng ư?

Chẳng nhẽ Thanh không biết rằng chúng đã chiếm Hoàng Sa và đang tiếp tục lấn chiếm Trường Sa của ta ư?

Từ cuối năm ngoái, Quân đội Trung Quốc đã tiến hành các hoạt động xây dựng và cải tạo đất trên nhiều rạn san hô và đảo nhỏ trong quần đảo Trường Sa. Hình ảnh mà vệ tinh Mỹ thu được gần đây cho thấy các hoạt động của Trung Quốc đã làm tăng diện tích Đá Chữ Thập hơn 11 lần, từ 0,08 km vuông thành 0,96 km vuông. Đá Chữ Thập của ta bị Trung Quốc chiếm đóng phi pháp từ năm 1988 giờ đã trở thành đảo lớn thứ 5 ở Biển Đông sau đảo Phú Lâm, đảo Đông Sa, đảo Linh Côn và đảo Tri Tôn. Trên Đá Chữ Thập Trung Quốc đã xây dựng bãi đậu trực thăng, bến cảng, một tòa nhà hai tầng và một nhà kính 500 mét vuông. Hai trăm binh sĩ Trung Quốc đang đồn trú tại đó. Sau sân bay trên đảo Phú Lâm, Trung Quốc sẽ xây sân bay Đá Chữ Thập.

Đá Chữ Thập được coi có vị trí chiến lược quan trọng ở Biển Đông, cách đảo Trường Sa Lớn của Việt Nam khoảng 110 km.

Nhẽ ra khi đàm phán Thanh phải nói: tạm thời giữ nguyên hiện trạng, không mở rộng tranh chấp, không làm phức tạp thêm tình hình, Thế cũng đã là nhún lắm rồi. Nhún tạm thời nhưng nhất định sẽ chờ thời cơ đòi lại chủ quyền toàn vẹn.

Trả lời câu hỏi: “Vậy Trung Quốc có đưa ra cam kết hay lời hứa nào về việc giữ nguyên hiện trạng không, thưa ông?” Thanh cho biết:

Hứa thì bạn không hứa nhưng nói chung hai bên đều thống nhất phải thực hiện DOC – nghĩa là không mở rộng, làm phức tạp thêm tranh chấp. Còn hiện nay trên biển, nói thật là các bên đều có xây dựng. Đài Loan cũng xây dựng, Philippines cũng tiến hành xây dựng đường băng, Malaysia có xây dựng và Việt Nam cũng có hoạt động xây dựng. Đều là tôn tạo, nâng cấp, mở rộng và tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân, cho các lực lượng đóng quân trên đảo để đảm bảo an toàn trong mùa mưa bão, đảm bảo điều kiện sinh hoạt trên đảo”.

Sao lại lập lờ đánh lận con đen như vậy được? Sao lại hùm bà làng địch ta như vậy được! Tất cả như nhau ư? Tất cả đều được quyền tôn tạo để “tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân, cho các lực lượng đóng quân trên đảo” ư? Nhân dân nào? Nhân dân hay thực dân? Lực lượng đóng quân nào? Đóng quân để giữ chủ quyền hay để xâm lăng?

Thượng tướng Nguyễn Văn Rinh, đại biểu Quốc hội tỏ ra tỉnh táo khi ông nói:

Theo tôi, việc Trung Quốc cơi nới các đảo, xây dựng các công trình ở Trường Sa vừa rồi không phải vì mục đích kinh tế, cũng không phải vì mục đích nhân đạo, mà họ phục vụ mục đích và ý đồ độc chiếm biển Đông”.

Khi phóng viên bầy tỏ mối quan ngại sâu sắc qua câu hỏi: “Nhiều chuyên gia nêu ý lo ngại hướng xây dựng của Trung Quốc là để hình hành một căn cứ quân sự tấn công. Điều đó đe dọa mối an ninh hàng hải trong khu vực. Cảnh báo đó có đáng suy nghĩ, lo ngại?” thì Thanh lại cố tình bình thường hóa vấn đề: “Đó là các nhà nghiên cứu dự báo. Đương nhiên bên nào mà tiến hành xây dựng thì đó cũng là một căn cứ quân sự cả”.

Đó là dự báo của các nhà nghiên cứu, còn Thanh thì sao? Có đáng suy nghĩ, lo ngại? hay Thanh cho rằng địch xây căn cứ quân sự trên lảnh thổ mình là chuyện đương nhiên?

Nhảm nhí đến thế là cùng! Mù mờ đến thế là cùng!

Các hãng tin Trung Quốc thì tiết lộ:

Ngày 17/10, tại Bắc Kinh, Ủy viên Quốc vụ, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Thường Vạn Toàn đã cho biết: Hai bên đã đạt được ba nhân thức chung nguyên tắc về tiếp tục phát triển quan hệ giữa hai quân đội. Một là, thể theo phương châm 16 chữ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, từng bước khôi phục và thúc đẩy quan hệ giữa hai quân đội phát triển lành mạnh. Hai là, tăng cường đoàn kết giữa hai quân đội, cung cấp sự bảo đảm vững chắc cho củng cố vị thế cầm quyền của Đảng Cộng sản ở hai nước, bảo vệ sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Ba là, tuân thủ các nhận thức chung quan trọng đạt được giữa Lãnh đạo hai Đảng và hai nước Trung-Việt, phát huy vai trò tích cực vì xử lý thoả đáng vấn đề trên biển, giữ gìn cục diện hoà bình và ổn định”.

Thì ra, họ đến vời nhau chủ yếu là để: “tăng cường đoàn kết giữa hai quân đội, cung cấp sự bảo đảm vững chắc cho củng cố vị thế cầm quyền của Đảng Cộng sản ở hai nước”,

Đến nước này thì không thể còn nén chịu mà phải chửi thẳng vào mặt họ: “Chúng mày là lũ gian tặc, là tội đồ dân tộc, nếu chưa treo cổ ngay chúng mày lên được thì nhân dân cũng sẽ đời đời nguyền rủa chúng mày”.

Nếu Thường Vạn Toàn nói sai sự thật thỉ Phùng Quang Thanh phải nghiêm túc cải chính ngay để không bị dư luận khẳng định là thằng phản bội tổ quốc.

Cách đây mấy năm Nguyễn Phú Trọng đã chính thức ngỏ lời mời công an Trung Quốc sang đàn áp nhân dân ta, khi cần (Tìm đọc “Mấy nghi vấn đối với tuyên bố chung Việt Nam- Trung Quốc do ông Nguyễn Phú Trọng ký kết” trong thư viện online “www.nguyenthanhgiang.com”). Có phải nay anh ta, với cương vị Bí thư Quân ủy Trung ương, lại cử Phó Bí thư Quân ủy TW Phùng Quang Thanh mời Trung Quốc chuẩn bị sang chiến đấu với nhân dân Việt Nam để bảo vệ Đảng Cộng Sản Việt Nam!

Rõ ràng họ đang dụ voi về giầy mả tổ, chuẩn bị dâng giang sơn gấm vóc ta cho Tầu. Họ sẵn sàng lấy máu xương nhân dân ta chêm vững ngai vàng thống trị của họ (mà họ nhân danh Đảng).

Báo Quân đội Nhân dân thì đưa tin:

Chuyến thăm này (của Phùng Quang Thanh) nhằm tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác toàn diện giữa quân đội hai bên và bàn các biện pháp thúc đẩy quan hệ quốc phòng song phương để duy trì môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác hữu nghị giữa nhân dân và Quân đội hai nước”.

Sao Phùng Quang Thanh lại ngồi với Thường Vạn Toàn để bàn các biện pháp thúc đẩy quan hệ quốc phòng song phương? Có phải Quân đội Trung Quốc sẽ sung sướng được “quốc phòng” Việt Nam và quân đội Việt Nam sẽ phải đổ máu ra mà quốc phòng cho Trung Quốc?

Cầu hòa, cầu thân thì phải cử lãnh đạo Nhà nước, Chính phủ, Ngoại giao … đi đàm phán chứ sao lại cử quân đội đi tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác toàn diện giữa quân đội hai bên. Ôm chặt lấy nhau thì còn tay nào cầm súng khi cần thiết.

Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh dạy rằng: “Sinh ra bộ Quốc phòng là để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải quốc gia. Lẽ ra ông Bộ trưởng phải phân biệt rõ bạn, thù, ra sức tăng cường lực lượng quốc phòng về mọi mặt, luôn sẵn sàng chuẩn bị đối phó với tình hình xấu nhất theo tinh thần “lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn” như dân tộc ta đã thực hiện”.

Không biết do phản bội tổ quốc hay vì quá non kém, ngu xuẩn mà Nguyễn Phú Trọng lại xuất tướng trong trường hợp này.

Nói về thao lược thì một người đàn bà Việt Nam làm thơ cũng biết khi bí phải ghểnh sỹ, còn tốt đầu phải để dành mà dú dí vô cung.

(Thơ Hồ Xuân Hương: “Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sỹ/ Chàng lừa thiếp đang khi thất ý/ Đem tốt đầu dú dí vô cung”).

Đằng nay, họ thấp cơ thua trí đàn bà thế này thì đúng như tướng Nguyễn Trọng Vĩnh lo ngại: “Có một ông Bộ trưởng Quốc phòng như thế thì việc mất biển, đảo và mất nước là khó tránh khỏi”.

Từ nay đến Đại hội ĐCSVN thứ XII còn những hơn một năm nữa. Trong khoảng thời gian này không biết cái cặp đôi Nguyễn Phú Trọng – Phùng Quang Thanh sẽ còn gây biết bao nguy hại cho đất nước.

Chúng tôi khẩn thiết kiến nghị: “Truất phế ngay Nguyễn Phú Trọng và Phùng Quang Thanh” .

Hà Nội 24 tháng 10 năm 2014 Nguyễn Thanh Giang Số nhà 6, ngõ 235, đường Trung Văn                                                                                                      Quận Nam Từ Liêm – Hà Nội

Nhìn lại lịch sử nhân kỷ niệm ngày bức tường Berlin sụp đổ

Nhìn lại lịch sử nhân kỷ niệm ngày bức tường Berlin sụp đổ

Những người lính canh phía Đông Đức kéo đổ một phần của bức tường Berlin, 11/11/1989

Những người lính canh phía Đông Đức kéo đổ một phần của bức tường Berlin, 11/11/1989

23.10.2014

Ngày 9 tháng 11 đánh dấu 25 năm bức tường Berlin sụp đổ.

Chúng tôi đã nói chuyện với sử gia người Anh Frederick Taylor, một chuyên gia về Bức tường Berlin và tác giả của cuốn sách có tựa là “Bức tường Berlin – một thế giới chia rẽ 1961-1989” về những gì đã khơi ngòi cho nhà chức trách Đông Đức thoạt đầu xây bức tường này.

Theo các điều khoản của Hiệp định Yalta năm 1945, các đồng minh chiến thắng trong Thế chiến thứ hai đã chia nước Đức làm 4 khu vực chiếm đóng, khu Mỹ, khu Anh, khu Pháp và khu các nước Sô Viết.

Thủ đô Berlin nằm ở vị trí khoảng 160 kilomet bên trong khu vực Sô viết. Thành phố này cũng bị chia làm 4 khu vực giống như toàn nước Đức.

Căng thẳng giữa các cường quốc Tây phương và Sô viết

Trong khi thời kỳ hậu chiến kéo dài từ nhiều tháng đến nhiều năm, căng thẳng nổi lên giữa các nước Sô viết và 3 nước đồng minh Tây phương. Năm 1949, các khu vực Tây phương của Đức đã tách ra khỏi chính phủ cộng sản có liên hệ với Sô viết ở Đông Đức, khu vực bao quanh Berlin.

Sử gia Frederick Taylor nói, “Berlin nằm bên trong khu vực Sô viết – có thể nói như một thứ ngựa thành Troy, của chủ nghĩa tư bản dưới con mắt của phe Sô viết và các đồng minh Cộng sản Đức – trở thành một biểu tượng của lối sống Tây phương tiếp tục hiện hữu bên trong cái ngày càng trở thành một khối Sô viết thời Chiến tranh lạnh băng giá và áp chế.

Ông Taylor nói một biên giới được dựng lên giữa Đông và Tây Đức.

“Thực vậy, đến năm 1952, có một biên giới kiên cố nơi bạn có thể bị bắn vì tìm cách vượt từ Đông qua Tây Đức. Nhưng ở Berlin, vì tình trạng cá biệt của thành phố như một khu vực nằm dưới sự kiểm soát của quân đội, và tiếp tục bị đặt dưới sự kiểm soát của quân luật, ngay cả sau khi hai quốc gia Đức được thành lập.”

Ông Taylor nói tiếp: “Có những trạm kiểm soát vân vân, nhưng dân chúng thục ra có thể đi lại khá dễ dàng giữa Đông và Tây Berlin. Điều đó có nghĩa là người Đông Đức, chán ngán mức sống nghèo nàn và thiếu tự do ở Đông Đức cộng sản, mà tính đến năm 1951, thực ra nghèo hơn so với 3, 4 năm trước đó.”

Luồng di dân từ Đông Đức

Ông Taylor nói từ năm 1949 đến năm 1961, Đông Đức với khối dân 17 triệu, đã mất đi khoảng 2 triệu rưởi người bỏ qua Tây Đức.

Ông nói: “Thật vậy, điều rõ ràng đối với chính phủ Đông Đức và cuối cùng, đối với quan thầy Xô viết của họ, tính đến cuối thập niên 1950, khi chúng ta bước vào năm 1960-61, là đất nước của họ đang chảy máu đến chết – mất đi những người xuất sắc nhất cho phương Tây. Vì thế cần phải có biện pháp nào đó. Và vấn đề là biện pháp nào.”

Vị sử gia này nói các nhà lãnh đạo Đông Đức có những chọn lựa:

“Họ có thể đề xuất các cải cách, họ có thể đề nghị một nền kinh tế hữu hiệu và tốt đẹp hơn. Họ có thể đề xuất các hình thức tự do chính trị và tự do đi lại mà hầu hết những người có học thức và văn minh nhất đòi hỏi. Nhưng dĩ nhiên là họ đã không làm như thế. Họ gắn chặt với mô hình của một nền kinh tế chỉ huy theo chủ nghĩa Stalin, nay chỉ thấy ở một số rất ít nơi trên thế giới, có lẽ chỉ ở Bắc Triều Tiên và Cuba.”

Ông Taylor nói giới lãnh đạo Đông Đức cảm thấy cách duy nhất để ngăn chặn luồng di dân Đông Đức qua Tây Đức là xây lên một hàng rào thực sự. Và họ đã quyết định làm điều đó giữa Đông và Tây Berlin.

Bức tường Berlin được dựng lên

Sử gia này nói vào đêm ngày 12 rạng ngày 13 tháng 8 năm 1961, hàng tấn gỗ, những khối than và dây thép gai đã được tuồn vào Đông Berlin.

Ông Taylor kể: “Cơ bản điều họ làm đầu tiên là chạy đường dây thép gai quanh mọi thứ, chận nhiều con đường đi từ Đông qua Tây Berlin bằng chất liệu xây bẫy bằng bê-tông và những khối than. Có lính bảo vệ cách nhau vài thước canh chừng công nhân dựng các hàng rào và cơ bản là họ đã xây toàn bộ bức tường lên trong vòng chưa đầy 12 tiếng đồng hồ. Đến sáng chủ nhật, sáng ngày chủ nhật 13 tháng 8 năm 1961, mọi người thức dậy, cả người dân Đông lẫn Tây Berlin đều nhận thấy là một hàng rào đã được dựng lên. Đó chưa phải là một bức tường, chỉ là một hàng rào. Một hàng rào dây kẽm gai với những khối than để chận các đường phố và ngăn xe cộ đi xuyên qua.”

Ông Taylor nói lớp dây kẽm gai bắt đầu cho bức tường Berlin đã ngăn cách chỉ qua một đêm, một cách quyết tâm dã man, các khu phố, các gia đình và bạn bè.

Các gia đình và Khu phố bị chia cách

Dù các bạn ở đâu vào đêm đó, bạn phải quyết định làm gì. Nếu bạn là một người Tây Đức sống ở Đông Đức, thì họ để cho bạn trở về, đó là điều chắc chắn. Nếu bạn là một người Đông Đức đang ở phía Tây cùng với thân nhân chẳng hạn, mà dĩ nhiên chỉ là trong thời gian cuối tuần, thật ra, nhiều người, cả mấy ngàn người, đang ở lại miền Tây và phải quyết định làm gì: trở lại với gia đình hay ở lại Tây Đức. Nhiều người, rất nhiều người quyết định ở lại với sự hy sinh đáng kể. Nhưng cũng có những khu phố – hàng rào mới gần như nằm giữa những con đường.

Nhà sử học này nói khoảng một tuần sau, thì một công trình giống như bức tường đã được xây dựng ở phía nam Cổng Brandenburg. Khi được xây xong hoàn toàn, bức tường dài khoảng 43 kilomet nơi nó cắt ngang trung tâm Berlin và 110 kilomet nơi nó chia cách Tây Berlin ra khỏi Đông Đức. Ngoài ra, còn có thêm 300 chòi canh, cũng như những bãi mìn, đen pha và súng ống tự động bắn đi.

Ông Taylor mô tả cảm tưởng của nhiều người Đông Đức:

“Đó là thảm kịch vĩ đại của thời đại này. Đó là những hy vọng bị dập tắt, sự thất vọng, cảm tưởng bị vây hãm, cảm giác ghê rợn của tình trạng thiếu tự do đi lại, tự do hít thở, tự do cảm nhận. Tôi nghĩ khi tôi nói chuyện với những người đã sống qua tất cả những kinh nghiệm ấy, thì đó luôn là điểm nổi bật nhất. Tôi nghĩ chúng ta khó mà hiểu được.”

Trong nhiều thập niên tiếp theo đó, người dân Đông Đức đã tìm cách đi tìm tự do bằng nhiều phương pháp khác nhau, từ việc leo qua bức tường cho đến việc đào hầm đi bên dưới. Các cơ may thoát được rất nhỏ nhoi. Nhưng ông Taylor nói mọi người sẵn sàng chấp nhận mọi rủi ro để đi tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn ngay bên kia bức tường Berlin.

Nếu Quốc hội cũng thù địch với minh bạch?

Nếu Quốc hội cũng thù địch với minh bạch?

Blog RFA

Võ Thị Hảo

23-10-2014

  • Phóng viên ngồi bệt chầu …chân ghế QH

Hình ảnh những phóng viên phải ngồi bệt dưới đất ngửa cổ “chầu” lên chân ghế các vị đại biểu quốc hội(ĐBQH) đang họp đã khiến nhiều người phẫn nộ.

ĐBQH ngự trên những chiếc ghế da choáng lộn được sắm bằng tiền dân. Những vầng trán và con mắt phóng viên dù có cố vươn lên thì cũng chỉ cao ngang …chỗ đặt mông của các vị ĐBQH. (ảnh đăng trên Tuổi trẻ.vn trong bài “Phóng viên phải ngồi dưới sàn tường thuật họp QH- 22/10/2014).

Hình ảnh này rất điển hình cho hiện trạng và bản chất mối tương quan, vị trí giữa tầng lớp cầm quyền với báo chí và người dân trong một hệ thống độc tài, trong đó người dân là nô lệ và nhà cầm quyền muốn làm gì cũng được.

QH với lý do tồn tại là phải giám sát các cơ quan công quyền, luôn lắng nghe và bảo vệ quyền lợi công dân mà còn đối xử với báo chí như vậy thì dân còn bị khinh miệt đến mức nào?!

– Trong hơn 60.000m2 diện tích của tòa nhà QH mới xây nguy nga đồ sộ, cao tới 39m, trong hơn 80 phòng họp, trong đó phòng họp chính với sức chứa 600 người, trang bị hết sức đắt tiền (theo Vietnamnet , “Cận cảnh tòa nhà QH cực hiện đại – 21/10/2014), báo chí và người dân VN có mét vuông nào không? Qua theo dõi cho thấy, cứ đà này, họ sẽ ngày càng bị ghẻ lạnh và xua đuổi. Nếu như thế, Tòa nhà QH liệu rồi có giống những tòa công sở “chết”, trong đó “cao cao tại thượng” là những quan chức do dân mà lên ngôi to lộc lớn để rồi ngày càng xa dân, ngày càng vô cảm với nguyện vọng và nỗi đau của nhân dân?!

– Hình ảnh ấy đã ghi lại như một biểu tượng khắc họa sinh động về thực trạng tự do báo chí, nhân quyền ở VN cùng với mối tương quan giữa nhà cầm quyền và quyền được biết của công dân.

Đến đại biểu Trần Du Lịch cũng phải thốt lên bất bình: Ðại biểu Quốc hội ngồi họp trên ghế, còn phóng viên ngồi tác nghiệp dưới đất nhìn lên thì tôi thấy không ổn chút nào.

Thông qua báo chí phản ánh những ngày đầu tiên của kỳ họp này, tôi cũng được biết có gần 400 phóng viên đưa tin ở Quốc hội nhưng chỉ có 40 thẻ sự kiện để phát cho phóng viên vào hành lang hội trường giờ giải lao để tiếp cận đại biểu mỗi ngày…(theo Tuổi trẻ .vn, bài đã dẫn)

  • Cử tri bị đàn áp khi đến QH?

Trước những sự kiện mắt thấy tai nghe, người ta không thể không nghi ngờ dụng ý hạn chế, ngăn chặn báo chí và người dân theo dõi, kiến nghị và cung cấp thông tin cho QH.

Gần đây nhất,, chỉ trước phiên khai mạc QH 5 ngày, vào 15/10/2014, dư luận trong và ngoài nước quá sốc bởi theo nhiều nhân chứng thì QH – cụ thể là một số người có chức trách ở UB dân nguyện đã đóng cửa không tiếp công dân, thậm chí còn bị nghi là cho người đàn áp để xua đuổi họ.

Những người bị đàn áp, xua đuổi ấy chỉ là một đoàn công dân rất ôn hòa, lịch sự, trên tay chỉ có bản kiến nghị yêu cầu bạch hóa thông tin về Hội nghị Thành Đô và một vuông giấy nhỏ ghi dòng chữ “Được biết là quyền của công dân”.

Nhưng những người có trách nhiệm tại Ban Dân nguyện của QH tại Hà Nội và Sài Gòn hôm ấy đều đóng cửa không tiếp.

Yêu cầu QH bạch hóa thông tin về Hội nghị Thành Đô – một văn bản ký kết giữa nhà cầm quyền VN và TQ từ tháng 9/1990 là một nguyện vọng hoàn toàn chính đáng, không ai có quyền bưng bít hoặc ngăn cản. Yêu cầu của những công dân này không những chính đáng, mà còn tạo cơ hội cho QH kiểm tra thông tin, tạo cơ hội cho nhà cầm quyền thanh minh, giải thích, dập tắt những lời đồn đoán về việc các vị lãnh đạo thời đó và bây giờ đang theo lộ trình “bán nước” VN cho TQ nếu họ thực sự “bị oan”. Văn bản đó không thuộc diện tài liệu mật, lại cách đây đã .15 năm. Thế mà, theo nhiều nhân chứng trong cuộc cho biết, trong đó có người viết bài này, nhà cầm quyền đã cử những công an mặc thường phục canh giữ trước cửa nhà nhiều trí thức có chính kiến, ngăn cản việc họ đi đến UB Dân nguyện của QH. Còn các công dân đã đến được cửa VP QH thì tố cáo rằng họ đã bị rất nhiều công an đến ngăn cản, đàn áp, còn cả côn đồ mặc áo đỏ đến gây sự, mạt sát.

Việc đàn áp ấy diễn ra hàng giờ, ngay trước cổng QH, mà QH không can thiệp. Sự im lặng của những người có trách nhiệm đã khiến cho công luận phẫn nộ trước sự làm ngơ – tức cũng là tiếp tay – cho sự bưng bít thông tin, và đàn áp quyền tự do ngôn luận của người dân

  • Những tòa nguy nga và người đàn bà thắt cổ

Quan chức nơi nơi ngự trong trong những tòa nhà nguy nga công sở hoặc biệt thự riêng, dẫu đã đồ sộ rồi vẫn bỏ đi xây mới để có cớ tham nhũng. Họ dùng những tiện nghi choáng lộn, được xây dựng và mua sắm bằng vô số món tiền khổng lồ tha hồ lấy từ mồ hôi nước mắt của dân trong khi dân ngày càng nghèo khốn và tuyệt vọng. Quốc nạn tham nhũng vô độ không bị ngăn chặn nên ngày càng lớn và bất công, tệ nạn xã hội đẩy số người chết, người tự sát vì đói nghèo và tuyệt vọng ở VN tăng vọt chưa từng có. Và mạng người dân nhiều khi dường như chằng quý giá gì hơn mạng gia súc. Chẳng ai thèm nghiên cứu thống kê xem bao nhiêu người đã chết vì đói, vì không có tiền chữa bệnh hoặc bị từ chối chữa bệnh do không biết đút lót ; những người tự sát vì vỡ doanh nghiệp do cạnh tranh bất bình đẳng, donợ nần, mất việc làm, vô phương kiếm sống trước vô vàn áp lực từ bạo lực và bất công trong xã hội…

Có ai còn thèm nghe thèm biết không, tiền mua sự xa hoa của quan chức là do họ đã giật đoạt miếng cơm từ miệng người dân VN khốn khổ, thu nhập và mức sống đứng vào hàng đội sổ trên thế giới, thậm chí cả Lào và Campuchia cũng sắp vượt qua ?!

Dưới bóng ám của những tòa nguy nga, hãy dừng một phút xem thư tuyệt mệnh của người mẹ ba con tên là Mỹ Nhân, vừa thắt cổ chết ở tuổi 38 ở ấp 5, An Xuyên, Cà Mau:

“…Các con Bằng, Tâm, Ngân, các con đừng trách mẹ, mẹ khổ nhiều lắm. Mẹ chạy tiền cho các con ăn học, bây giờ nợ nhiều lắm. Mẹ đã đi van xin được cấp sổ hộ nghèo để mẹ vay tiền đóng học phí cho các con. Nhưng không ai cho gia đình mình nghèo hết. Mẹ chết đi để giảm gánh nặng cho cha con…để chính quyền thấy nhà mình thực sự khổ rồi cấp sổ hộ nghèo, vay tiền đóng học phí cho các con.

Xin các cấp chính quyền ấp 5 soi xét cho hoàn cảnh quá khổ, không lối thoát của chúng tôi mà xét cấp sổ hộ nghèo cho chồng con tôi được sống những ngày tháng còn lại trên đời…” (Theo “Thắt lòng mẹ tự tử để lấy tiền phúng viếng cho con ăn học”. Baomoi, 7/8/2014.

Đau lòng thay, đã có và còn có vô số người mẹ như Mỹ Nhân ở VN. Họ phải chết không vì lười biếng, mà họ đã bị đám quan chức tham lam vô cảm cướp đoạt miếng ăn của họ bằng cách này hay cách khác, trong đó có tình trạng nếu họ không hối lộ hoặc không phải cánh hẩu thì dẫu sắp chết đói cũng không được vào diện hộ nghèo để được cứu trợ hoặc vay tiền sống cầm hơi, trong khi họ đã ở đáy của cái nghèo….

Thông tin báo chí đã nhiều lần vạch rõ tiền tái định cư, xóa đói giảm nghèo, cứu trợ lũ lụt… ở rất nhiều nơi lại được cấp cho những hộ khá giả mà cán bộ địa phương không bị hề hấn gì vì được bao che.

Vâng, người dân VN chỉ là hạng gia súc đối với suy nghĩ và hành xử của rất nhiều quan chức VN. Dân là đối tượng để hành hạ, để bóp cổ lè ra tiền cung phụng cho đám tham nhũng không còn biết gì đến liêm sỉ.

Đám quan chức ấy còn coi dân như kẻ thù, nhất là khi người dân muốn làm người và khẳng định quyền minh bạch hóa thông tin.

Quốc hội với chức trách của mình đã cam kết với toàn dân, cần phải là lực lượng đầu tiên và cuối cùng trên mặt trận bảo vệ quyền công dân của người VN.

Nếu QH cũng làm ngơ, cũng kiếm cớ tiêu phí tiền dân, cũng sợ hãi, cũng xua đuổi, cũng bao che và ngầm đàn áp người dân, để mặc đám quan trộm cướp tha hồ tung tác, thì hóa ra QH cũng coi dân như kẻ thù?!

Trong kỳ họp này QH thảo luận về Luật tổ chức QH(sửa đổi). Nếu không có những thay đổi cơ bản, nhằm tách hệ thống lập pháp ra khỏi hệ thống hành pháp và tư pháp, cải cách thể chế xóa độc tài, thì không những ngày càng nhiều quan chức coi dân như kẻ thù, mà chính nhiều ĐBQH cũng sẽ coi dân như kẻ thù, chỉ vì dân đòi quyền được biết , yêu cầu sự minh bạch và công bằng như Hiến pháp đã quy định.

(Võ Thị Hảo, Hà Nội 23/10/2014)

Tôi Lậy Mấy Ông

Tôi Lậy Mấy Ông

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

“Xây dựng CNXH còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ nầy không biết đã có CNXH hoàn thiện ở VN hay chưa.”

T.B.T Nguyễn Phú Trọng

Ngày 6 tháng 10 năm 2014, báo Tuổi Trẻ đi tin:

Ông Phạm Hồng Thái (50 tuổi, trú thôn Tân Phong, xã Quế Lộc, huyện Nông Sơn, Quảng Nam) uống thuốc diệt cỏ tự tử vì bị nghi oan  lấy trộm 9,2 triệu đồng của người cùng xóm.

Trong bức thư viết trên giấy học trò gửi công an huyện Nông Sơn, ông Thái viết: “Tôi mong mấy ông điều tra lại cho kỹ giùm tôi, tôi bị oan, tôi chỉ biết lấy cái chết làm trong sạch mà thôi. Khi mấy ông nhận lá đơn này là tôi đã đi rồi.”

Còn thư gửi người bị mất tiền, ông Thái viết: “Tao chết rồi không phải vì tao lấy tiền của mi đâu. Tao buồn là bạn bè mấy chục năm tan như mây khói. Mấy ổng đánh tao quá, tao phải nhận bừa.”

Nguồn ảnh: phunuonline

Công an Việt Nam dùng nhục hình bức cung hay đánh chết dân là chuyện thường ngày nhưng ngôn ngữ khoan hoà của nạn nhân (qua cả hai bức thư tuyệt mạng) khiến tôi cứ băn khoăn mãi:

“Tôi mong mấy ông điều tra lại cho kỹ giùm tôi, tôi bị oan, tôi chỉ biết lấy cái chết làm trong sạch mà thôi. Khi mấy ông nhận lá đơn này là tôi đã đi rồi” và “Tao chết rồi không phải vì tao lấy tiền của mi đâu. Tao buồn là bạn bè mấy chục năm tan như mây khói. Mấy ổng đánh tao quá, tao phải nhận bừa.”

Đây không phải là lần đầu tiên công luận biết địa danh Nông Sơn.  Trước đây, huyện lỵ này cũng đã được   vnexpress nhắc đến với một mẩu tin (“Ông Lái 82 Tuổi Hầu Toà”) buồn khác:

Hôm nay, TAND tỉnh Quảng Nam mở phiên xét xử Võ Nghĩnh – bị cáo cao tuổi nhất trong lịch sử tố tụng Quảng Nam – về hành vi làm lật đò, gây ra cái chết của 18 học sinh ở bến Nông Sơn … Cùng đứng trước vành móng ngựa với ông Nghĩnh là người em trai Võ Quang Trang (76 tuổi) – chủ sở hữu con đò…

VKS tỉnh Quảng Nam truy tố bị cáo Nghĩnh – Trang về tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường thủy và giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường thủy.

Riêng tờ Việt Báo còn có một phóng sự khá dài, và rất xúc động của phóng viên Trung Việt về cuộc sống một phụ nữ ở (xã Quế Minh) huyện Nông Sơn. Xin trích dẫn vài đoạn ngắn:

Tôi trở lại thăm xã được báo chí phong cho danh hiệu “nghèo nhất nước” sau chuyến thăm của Tổng Bí thư Đỗ Mười vào năm 1994. Hơn một thập niên đã trôi qua, cái xã ấy vẫn không khác nhiều so với lần tôi đến thăm trước đây.

Tôi ngồi chờ chị Võ Thị Quyến, nhân vật nổi tiếng  xuất hiện  trên các báo thập niên gần cuối năm  90 thế kỷ trước vì … nghèo nhất xã ! Hồi đó nhà chị là mấy tấm tranh, tệ hơn cái chòi canh rẫy, dựng trên vài ba cái cọc. ..

Chị Quyến có ba sào ruộng, làm không đủ ăn. Ngoài việc làm ruộng chị chằm (khâu) nón. Mỗi ngày chị chằm được một cái nón bán được 1.900 đồng, trừ 500 đồng mua lá, 300 đồng mua tre, 300 đồng mua cước, mỗi ngày chị kiếm được khoảng 800 đồng.

Con  gái lớn học đến lớp 3 thì nghỉ. Thằng nhỏ học lớp 1, đứng trước nguy cơ phải nghỉ học vì không đủ tiền nộp học phí 16.000 đồng tổng giá trị của 20 ngày làm nón không chi tiêu nhịn ăn uống …

Chị Quyến đã về. Nón lá, áo quần te tua, ốm đen đúa. Chị đi chăn bò trên rẫy.  Con bò xã  giao mới được 2 tháng,  chị được nuôi trong 3 năm, nếu đẻ bò con thì giao con cho xã, chị được bò mẹ. “Có khá hơn lần đó không? “Khá, nhưng… cũng rứa”.

Con gái lớn đã đi lấy chồng. Thằng con trai học đến lớp 7, không đủ tiền nộp học, đã nghỉ, năm nay nó 17 tuổi rồi nhưng cũng chỉ một nghề là… chăn bò. Còn chị, vẫn “tha thiết yêu nghề” làm nón. “Không có nón, lấy chi ăn em”.

Món tiền từ nón, qua ngần ấy năm, đã nhích lên chút đỉnh. Không ngủ trưa, thức khuya, một ngày chị làm được 2 chiếc. Trừ tiền cước, lá, kim chỉ, tre hết 3.000 đồng, chị  lãi được 5.000, đủ mua mắm, rau, ngày nào đi chăn bò cực quá, về phải ngủ, hôm đó coi như treo niêu.

“Có ngày nào đem về được 20.000 đồng chưa?”. “Làm chi có em”. Chị cố nở nụ cười thật tươi, nhưng hình như tôi nghe thấy trong tiếng cười ấy là nỗi khắc khổ đến nhói lòng.

Ngoài những chuyện “khắc khổ” và “nhói lòng” vừa kể, Nông Sơn còn được thiên hạ nhắc đến vì nhiều vụ lùm xùm khác:

–         Khởi Tố Phá Rừng Có Qui Mô Lớn Tại Nông Sơn

–         Trù Dập Người Tố Cáo “Ăn Bớt” Công Trình Đường Bê Tông Nông Thôn

–         Bắt Giữ Một Vụ Chuyển Vận Ma Túy Tại Nông Sơn

Tôi không rành địa lý và phong thủy nên không thể lý gỉải tại sao dân Nông Sơn làm ăn không khá, và địa phương này lại mang nhiều tai tiếng như vậy. Google thử một phát thì mới biết ra đây là một huyện lỵ thuộc loại tân kỳ, có “cổng thông tin điện tử” đàng hoàng với đầy đủ hình ảnh của cả Ban Lãnh Đạo:

Họ đều là đảng viên ráo trọi. Thì toàn “mấy ông” không chớ ai. Và điểm chung của tất cả “mấy ổng” (từ trên xuống dưới) là sự lạc quan vô tận, bất kể tình trạng người dân sống lầm than và khốn khổ ra sao.

Khi còn tại chức, ông Chủ Tịch Nước Nguyễn Minh Triết tuyên bố: “Ngày nay, chúng ta ngẩng cao đầu, sánh vai cùng cường quốc…”

Người kế vị, đương kim chủ tịch nước Trương Tấn Sang (vào ngày 19 tháng 8 vừa qua) cũng phát biểu gần tương tự:

“Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của gần 30 năm đổi mới mà nhân dân ta đạt được khiến chúng ta hãnh diện và tự hào, bạn bè quốc tế ngưỡng mộ.”

Người dân ở Nông Sơn như chị Võ Thị Quyến, ông Phạm Hồng Thái, Võ Nghĩnh, Võ Quang Trung … – có lẽ – đều không biết được rằng đất nước quê hương của mình đang “sánh vai cùng cường quốc” và được “bạn bè quốc tế ngưỡng mộ” quá trời, quá đất. Họ chắc cũng không nghe được lời hứa hẹn (cách đây chưa lâu) của một nhân vật lãnh đạo cao cấp khác – ông Nguyễn Sinh Hùng: “Năm 2015 sẽ có một Vinashin mới.”

Trong khi chờ đợi “cái mới” này thì nhà báo Ngô Nhân Dụng lại vừa khám phá ra một  “cái chưa cũ” lắm:

“Hết cái lỗ hổng Vinashin lại đến cái lỗ ALC II! (Ban kiểm toán công ty ALC cuối tháng 10, 2010 cho biết, năm 2009 ALC II lỗ tới 3,004 tỷ đồng bạc Việt Nam (gấp 8.5 lần vốn điều lệ chỉ có 350 tỷ). Công ty ALC II làm thất thoát số tiền của Nhà nước tới 4,617 tỷ đồng. Trong số các món nợ có đến 60% là nợ xấu, tức là người vay không trả được đúng hạn! Trong ba tháng cuối năm 2009, ALC II thiếu 1,763 tỷ đồng không có tiền để trả ai hết; và đến cuối năm 2010 đã thất thoát 4,000 tỷ.)”

Tuy nhiên, theo Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước Nguyễn Văn Bình : “Nợ xấu ngân hàng không đáng ngại.”

Ảnh: facebook.com/VTV.vn

Câu nói hơi khó hiểu (thượng dẫn) được lý giải dễ dàng và gọn gàng bởi một giới chức “dân cử” (Phó Giáo Sư, Tiến Sĩ Luật) Chủ Nhiệm Ủy Ban Pháp luật QH –  Phan Trung Lý: “Tôi thấy ở Hàn Quốc người ta coi nợ xấu là của toàn xã hội, nên kêu gọi người dân đóng góp tiền, vàng để giải quyết nợ xấu.”

Miệng người sang, có gang có thép. Phen này đám dân đen Việt Nam không đóng, ngó bộ, không xong. Câu hỏi đặt ra là đóng bao nhiêu, và đóng làm răng đây hè?

Theo báo Đất Việt :“Đến 9h30 sáng 1/10/2014, nợ công Việt Nam tăng ở mức 84,32 tỷ USD, mỗi người dân Việt Nam đang phải gánh 930,43 USD nợ công.” Với lợi tức chằm nón là ¼ U.S.D (25 xu) mỗi ngày, nếu bắt đầu nhịn ăn nhịn mặc kể từ hôm nay, chị Võ Thị Quyến sẽ hoàn tất nghĩa vụ đóng góp để thanh toán nợ xấu của toàn xã hội vào năm 2025 – nếu vẫn có thể sống sót đến thời điểm đó.

Lý thuyết mà nói là như vậy nhưng thực tế thì thời gian hoàn tất nghĩa vụ nợ công của chị Võ Thị Quyến rất có thể được rút ngắn hơn nhiều, theo như đánh giá và chỉ đạo (“quyết liệt”) của ông Thủ Tướng – trong phiên họp thường kỳ vào tháng 9 năm 2014 vừa qua, về việc tái cấu trúc nền kinh tế, với nhiều … khâu đột phá:

“Phát biểu khai mạc tại phiên họp, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá tình hình kinh tế – xã hội từ đầu năm tới nay tiếp tục chuyển biến tích cực; đà tăng trưởng rõ nét và đồng đều hơn; các chỉ tiêu kế hoạch đều đạt kết quả tích cực, theo đó, trong 15 chỉ tiêu được Quốc hội giao có 13 chỉ tiêu có khả năng đạt và vượt, 1 chỉ tiêu xấp xỉ đạt là chỉ tiêu giải quyết việc làm cho 1,6 triệu lao động và 1 chỉ tiêu chưa đạt là tỷ lệ lao động qua đào tạo, ước đạt 49% trong khi kế hoạch là 51%.

Trên tinh thần phấn đấu đạt kết quả cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị các thành viên Chính phủ tập trung thảo luận, đề xuất các giải pháp, biện pháp cụ thể để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng trên tất cả các lĩnh vực. Thủ tướng cũng yêu cầu Chính phủ tiếp tục phân tích và làm rõ nguyên nhân tất cả những hạn chế, yếu kém, cản trở, chậm trễ để có các biện pháp khắc phục, xử lý.”

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đề nghị Chính phủ tập trung thảo luận, phân tích và đưa ra các giải pháp, biện pháp cụ thể, quyết liệt để tiếp tục cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư, kinh doanh; nâng cao năng suất lao động; tái cơ cấu nền kinh tế và triển khai 3 khâu đột phá chiến lược.”

Tới đây thì cho tôi xin được qùi lậy mấy ông thôi. Chớ biết nói năng làm răng nữa bây chừ?

Thực hư tài liệu tuyên truyền Thành Đô

Thực hư tài liệu tuyên truyền Thành Đô

Quốc Phương BBC Việt ngữ

Hội nghị Thành Đô

Một số tầng lớp người dân đang yêu cầu Đảng bạch hóa Hội nghị Thành Đô.

Mới đây, xuất hiện một văn bản lưu truyền trên mạng Internet, được cho là do Ban Tuyên giáo Trung ương biên soạn, để tuyên truyền về Hội nghị Thành Đô và để các cấp ủy, chính quyền cơ sở triển khai, tổ chức quán triệt, phổ biến tới cán bộ, đảng viên và người lao động.

Giới chức Việt Nam từ chối bình luận với BBC về tin này, nhưng một cựu cán bộ cao cấp thuộc Ban Dân vận Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam nói “có căn cứ” để ra đời tài liệu này.

Trong khi đó, một cựu thành viên Tổ tư vấn của Chính phủ thời các Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải không bình luận trực tiếp về tài liệu. Nhưng bà nói chính quyền nếu không công bố nhiều thì cũng nên có lộ trình bạch hóa từng bước, chứ không nên giữ im lặng về cuộc đàm phán cấp cao Trung – Việt.

‘Có văn bản ấy’

Được hỏi liệu văn bản này có phải là thật hay không, ông Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Ban Dân vận Trung ương Đảng nói với BBC:

“Theo tôi nghĩ có một văn bản ấy để giải thích thắc mắc của nhân dân cũng như ở trong Đảng.

“Hiện nay như tôi thì chưa thấy nó xuống đến cơ sở, chưa thấy, mới thấy nó ở trên mạng.

“Nhưng tôi biết là có một cuộc họp mà ban tuyên huấn phải mời những người lãnh đạo cao cấp đến để tường trình.”

Theo cựu Vụ trưởng này, văn bản tuyên truyền này đã ra đời trước áp lực của dư luận trong nước, đặc biệt của các giới từ tướng lĩnh, cán bộ cao cấp, các nhà nghiên cứu, tới nhiều người dân.

Ông Nguyễn Khắc Mai nói: “Và như thế là đứng trước một áp lực cần phải trình bày, trình bày có thỏa đáng hay không còn là một việc khác nữa.”

Cựu quan chức dân vận của Trung ương Đảng cho biết chi tiết thêm về một cuộc họp của Ban tuyên giáo có liên quan tới văn bản này mới đây.

“Theo tôi biết, Ban tuyên giáo trung ương họ đã có một cuộc họp, đầu tiên là mời các cán bộ cao cấp, từ Bộ trưởng, Ủy viên Trung ương đã về hưu đến để họ thông báo tình hình này.

“Và sau đó họ đưa ra chuyện ấy, đó là vấn đề mà buộc Ban tuyên giáo phải có một động tác để đáp lại yêu cầu từ người dân thường cho đến các tướng lĩnh, cho đến các nhà trí thức người ta yêu cầu phải minh bạch vấn đề này,” ông Mai nói với BBC.

‘Không thấy văn bản’

Tuy nhiên hôm thứ Năm, nguyên Thứ trưởng Bộ Thông tin & Truyền thông nói với BBC ông không hề biết tới văn bản này.

“Tôi đã nghỉ hưu được hơn một năm, bản thân tôi không thấy văn bản này,” ông Đỗ Quý Doãn nói với BBC.

Khi được hỏi liệu văn bản này có thể được phổ biến tới cấp ủy Đảng nơi ông sinh hoạt hay không, cựu Thứ trưởng khẳng định thêm.

“Cái đó tôi không biết đâu, tôi không hề thấy văn bản đó và cũng chưa nghe thấy.”

Cũng hôm thứ Năm, bà Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ bình luận với BBC về hiện tượng xuất hiện của ‘tài liệu tuyên huấn’ này, cũng như một lá thư liên quan tướng Giáp được cho là của vợ cố Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Lê Duẩn, được lưu hành trên mạng gần đây.

Bà Chi Lan nói: “Xã hội đang có nhiều luồng suy nghĩ khác nhau, có nhiều điều trăn trở, kể cả đã được thể hiện bằng văn bản, của những người đã tham gia cách mạng từ rất lâu.

“Nên có một phản hồi nhất định của lãnh đạo hiện nay, của những người đang cầm quyền, đang chịu trách nhiệm, thì họ nên có thái độ, ít nhất họ nên có một lời giải trình.

Chính sự im lặng, không có giải thích gì, không có phản ứng gì từ phía chính quyền thì nhiều khi lại càng gây thêm những điều nghi ngại, những điều băn khoăn tiếp và càng có thể tiếp tục chia rẽ trong dự luận hoặc suy nghĩ trong xã hội Việt Nam, nó không có lợi gì cả

Bà Phạm Chi Lan

“Hoặc nếu không rộng rãi thì gặp các cụ chẳng hạn để chia sẻ lại thông tin, thì tốt, hoặc tốt hơn nữa là đối thoại thì hay hơn nhiều.

“Bởi vì chính sự im lặng, không có giải thích gì, không có phản ứng gì từ phía chính quyền thì nhiều khi lại càng gây thêm những điều nghi ngại, những điều băn khoăn tiếp và càng có thể tiếp tục chia rẽ trong dự luận hoặc suy nghĩ trong xã hội Việt Nam, nó không có lợi gì cả.”

‘Tăng độ minh bạch’

Nguyên Phó Chủ tịch, kiêm Tổng thư ký Phòng Thương mại & Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng chính quyền nên xem lại chính sách giữ bí mật với nhiều thông tin, hồ sơ, tài liệu trong quá khứ của mình. Bà nói:

“Có lẽ ở Việt Nam lâu nay xã hội cũng hơi bức xúc là số tài liệu mà được coi là mật thì nhiều quá. Thành ra cũng nên giảm bớt dần những tài liệu không được coi là mật, cần tăng thêm độ minh bạch về thông tin.”

“Còn kể cả những thông tin cũ cũng vậy, có lẽ nên rút ngắn quá trình công khai hóa nó ra, chứ không nên giữ lâu quá.

Ông Nguyễn Văn Linh (giữa) từng dẫn đầu đoàn Việt Nam tại Hội nghị Thành Đô

“Tôi cho là với Thành Đô là hiện nay trong quan hệ với Trung Quốc cũng đang có những cái phức tạp. Thứ hai nữa là một số người liên quan đến Thành Đô thì đang còn đây. Cho nên có thể có những điểm nhạy cảm nào đó mà người ta chưa muốn đưa ra.”

Cũng về điểm này, hôm 15/4, một cựu quan chức ngành ngoại giao, ông Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu, Trung Quốc nói:

“Phê phán tại sao Hội nghị đó có những kết quả như thế này, như thế kia, nói thế thì nó đụng nhiều người.”

“Tôi biết chuyện này khá rõ nhưng chưa tiện nói bây giờ, bởi vì Trung Quốc rõ ràng có ý định trong chuyện đưa một số nhà lãnh đạo Việt Nam vào bẫy, mắc bẫy của họ.

“Chẳng hạn như chuyện phía Trung Quốc họ bảo rằng để rất kính trọng ba đồng chí lão thành của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì họ để ba ông ở ba biệt thự khác nhau, thế thì những ông đã già bảy mươi, tám mưới như ông Phạm Văn Đồng, ông Đỗ Mười, ông Nguyễn Văn Linh lúc đó thì làm sao mà hội ý được với nhau…”

‘Để thử phản ứng’

Trung Quốc họ bảo rằng để rất kính trọng ba đồng chí lão thành của Đảng CS Việt Nam, thì họ để ba ông ở ba biệt thự khác nhau, thế thì những ông đã già bảy mươi, tám mươi như ông Đồng, ông Đỗ Mười, ông Nguyễn Văn Linh lúc đó thì làm sao mà hội ý được với nhau…

Ông Dương Danh Dy

Hôm thứ Năm, một cựu quan chức ngoại giao khác không muốn tiết lộ danh tính thì bình luận với BBC về thực hư của văn bản ‘tuyên huấn’ về Hội nghị 24 năm về trước.

Nhà ngoại giao nói:

“Văn bản này ra là chịu áp lực của dư luận, nay thì không thể không nói ra. Nhưng cách người ta chọn để nói nửa kín, nửa hở như thế càng không ổn.

“Mặt khác, nếu bạch hóa sẽ động chạm tới rất nhiều người, sẽ rất phức tạp.

“Nhưng tôi khẳng định là việc bảo có thỏa thuận Việt Nam là một tỉnh tự trị của Trung Quốc vào năm 2020 bởi phía Việt Nam trong hội đàm với Trung Quốc là bịa.

“Nhưng Trung Quốc họ đưa ra tin đó lại chính là vì Việt Nam muốn giấu nhẹm đi thông tin và các thỏa thuận, kể cả một số thỏa thuận của một số cá nhân trong Hội nghị này.

“Và do đó mà họ tung ra thông tin ấy, tạo sức ép với nội bộ của Việt Nam,” cựu viên chức ngoại giao này nói với BBC.

Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quì

Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quì

Chuacuuthe.com

Mai Tá lược dịch.

VRNs (22.10.2014) – Úc Đại Lợi – Suy tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ 30 mùa Thường niên năm A 26-10-2014

“Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quì,”

“Sấp mặt xuống, uốn mình theo dáng liễu”.

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mt 22: 34-40

Sấp mặt, uốn mình trước ngưỡng cửa bóng trăng quì, là tư thế vẫn riêng biệt của nhà thơ. Lời nguyện gẫm, xanh như màu huyền diệu, lại vẫn là lời gẫm nguyện của dân con người Việt, được kể ở nhiều nơi.

Một giáo dân người Việt kể cho tôi nghe về nỗi gian truân anh chịu trên bước đường lưu lạc, tạm dung nơi xứ người. Tên anh là Nguyễn Văn Mạnh, con trai một gia đình đông con gồm 8 trai, 4 gái. Năm 1978, ba mẹ anh, tuy là nông gia chất phác chẳng biết nhìn xa trông rộng, nhưng cũng thấy được tình hình nguy cập không thể chăm nổi đàn con 12 đứa, đã quyết định cho một cháu đi vượt biển, nên đã gửi cháu lên tàu theo đám người vượt biên, vượt biển. Hành trình của những người này đầy hãi hùng, kinh khiếp, những nguy cơ bỏ xác nơi biển Đông.

Bốn giờ sáng hôm ấy, có tiếng gõ nhẹ nơi cửa, Mạnh chào ba mẹ lần cuối để từ biệt. Và, đó đích thực cũng là lần cuối trong đời, anh còn được thấy mặt mẹ cha. Vừa, bước ra khỏi nhà, là anh đã được bịt mắt, dắt lên xe tải đưa đi theo đường giây, được giữ kín. Hành trình kéo dài suốt 8 tiếng đồng hồ, ngang qua nhiều khu rừng rậm rạp.

Cuối cùng, anh cũng tới được bãi đáp vắng, lạ. Đến đây, vừa cởi băng bịt mắt ra, anh mới biết là mình còn sống. Mạnh kể lại: “nếu chẳng may gặp phải những người thất đức, chỉ biết tính toán ăn chặn tiền bạc, thì chắc anh đã bỏ xác ở đâu đó, giống như nhiều gia đình có con ra đi biệt tăm, vô âm tín”.

Anh Mạnh còn kể: chúng con rất may là được đưa lên chiếc “tắc xi” ra gặp “cá lớn”. Ghe bầu được gọi là “cá lớn” chỉ có sức tải chứa tối đa là 10 người, thế mà họ cũng chất nêm chất nệm đến 29 mạng. Thực phẩm – xăng dầu – nước uống, không được trang bị chu đáo cho chuyến đi dài ngày, đến hai tuần.

Mọi người trên chiếc xuồng câu ọp ẹp đều mệt lả, đói khát và bệnh tật vì phải phơi nắng suốt tuần lễ, đến khô miệng. Bọn cướp biển người Thái bắt gặp đã không hề nương tay. Họ nhẫn tâm hãm hiếp mọi phụ nữ họ gặp ở trên ghe, vứt xác 6 người xuống biển vì những người này không còn đủ sức chịu đựng, được nữa.

Vừa nhìn thấy đất liền, là 20 người còn lại tưởng chừng hy vọng sống sót đã gần kề, ai ngờ Hải quân Mã- Lai tuân lệnh cấp trên, đã dùng súng xua đuổi thuyền nhân người Việt, quay trở ra hải phận quốc tế, không thương tiếc. Anh Mạnh nói tiếp: “Vào giờ phút đen tối ấy, con như đã mất hết niềm tin vào Chúa và Đức Mẹ, lẫn cả tình nguời. Chỉ biết có chờ chết, mà thôi.”

May cho Mạnh gặp được tàu buôn người Hà Lan cứu vớt cho nước, tặng thực phẩm, xăng dầu và cặp mạn đưa về đất liền Phi Luật Tân chờ một đệ tam quốc gia tiếp vớt. Cuối cùng, Mạnh được nước Úc chấp thuận cho tạm dung.

Một năm sau đó, anh đặt chân lên Sydney, ổn định cuộc sống. Nay, sau nhiều năm cố gắng cần cù, anh đã ra trường với mảnh bằng bác sĩ y khoa, quyết quay lại giúp đỡ cộng đồng ở vùng quê suốt 2 năm liền, không nhận thù lao.

Sách Xuất hành hôm nay, Đức Chúa nói với Môshê:

“Ngươi không được ngược đãi, áp bức các ngọai kiều

vì chính ngươi cũng từng là ngọai kiều trên đất Ai Cập.”

Ở Tin Mừng Mat-thêu, Đức Kitô cũng khẳng định:

“Các con hãy yêu mến Đức Chúa

và thương yêu người thân cận hết lòng trí và tâm hồn,

cho phải phép”.

Riêng tôi, tôi lại nghĩ: đối với thế giới Tây Phương, hiện nay chẳng có vấn đề nào cấp bách mời gọi chúng ta thi hành triệt để cho bằng vấn đề đối xử với các di dân, tị nạn. Dạo gần đây, nhiều nước trên thế giới đã có lòng tốt đón tiếp những người chọn lựa rời bỏ hoặc ra đi thoát khỏi nơi chôn rau cắt rốn của mình.

Vốn sẵn lòng giàu sang có của dư Trời cho, như nước Úc, thì việc đón tiếp những người mang phận hẩm hiu, cũng là chuyện đương nhiên, dễ hiểu. Càng dễ hơn, khi các nước phương Tây chúng ta, nay cũng đã định ra quota số lượng người mỗi năm, để thâu nhận họ vào cửa ngõ nhà mình hầu tạm dung, vì lợi ích chung.

Tin Mừng hôm nay, Đức Kitô không hứa trước với ta rằng: việc chứng tỏ mình mến Chúa và yêu người lân cận, không phải là không gây cho chúng ta những hao tổn tiền bạc. Nhưng luật thương yêu người lân cận mà Chúa dạy, luôn kéo theo những đòi hỏi hy sinh cao độ. Đòi hỏi ấy, được gửi đến cho chúng ta với tư cách cá nhân, đoàn thể, hay đất nước. Nếu công nhận lời dạy của Chúa, ta cũng phải có quyết tâm đùm bọc người lân cận của mình nữa.

Ở đoạn khác trong Tin Mừng Matthêu, Đức Kitô còn nhắc nhở: “Ai nhận nhiều, sẽ phải cho nhiều”. Điều đáng buồn, là: nhiều người trong chúng ta, đều muốn có đời sống tốt đẹp, nhưng lại ít ra tay nghĩa hiệp giúp người khác/nước khác kiến tạo chốn “đất lành chim đậu, thật dễ sống. Rốt cuộc, có khi chúng ta cũng đã chối từ san xẻ mọi tốt lành ta đã hưởng hoặc tạo được, do cần cù lao động, mới có được.

Thánh Matthêu còn kể cho ta nghe câu chuyện về Đức Maria, thánh Yuse và Đức Kitô đã phải rời Israel, để tá túc bên Ai Cập, sống kinh nghiệm của “người di tản buồn”. Ngày nay, nếu Gia Đình rất thánh của Đức Kitô cũng lại đến với ta, xin định cư giống như, hoặc qua những người tị nạn hôm nay, thì chắc các Ngài cũng sẽ bị tống về cho Hêrôđê giải quyết, thôi.

Cầu mong tiệc thánh hôm nay giúp ta có được đổi thay tận đáy lòng để ta biết hành xử cho đúng, với mọi người. Ở khắp nơi. Mọi người, có nghĩa và có thể là: người cận thân hoặc cận lân. Cũng có thể, là: khách lạ tị nạn hoặc bạn bè thân quen, đang túng quẫn.

Túng và quẫn, không chỉ về thể xác. Túng và quẫn, còn có nghĩa tinh thần và trí tuệ nữa. Họ là, những người không cần được cung chúc “cái sự sang” hoặc “có quan có tước” đầy mình. Nhưng, vẫn chỉ muốn làm giáo dân hạng thứ, hoặc dân thường ở huyện. Chỉ muốn xin 2 chữ: Bình an. Yên lành.

Trong tâm-tình suy-tư như thế, ta lại cũng trở về với lời thơ, những ngâm rằng:

“Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quì,

Sấp mặt xuống, uốn mình theo dáng liễu.

Lời nguyện gẫm, xanh như màu huyền-diệu,

Não-nề lòng viễn khách giữa cơn mơ.

Trời từ-bi cảm-động ứ sương mờ,

Sai gió lại, lay hồn trong kẽ lá”.

(Hàn Mặc Tử – Hãy Nhập Hồn Em)

Say hồn hay nhập hồn, vẫn là những động-thái của gẫm suy, bài quì sụp lạy trước trăng mờ, hay sao đó. Gẫm suy và quì lạy, là tư-thế của dân con nhà Đạo quyết nguyện-cầu với Chúa và với nhau, tuy có mau có lẹ, nhưng vẫn là động-thái êm/nhẹ đôi lúc cũng xuất-thần của nhiều người, cả từ trước lẫn hôm nay, ở Nước Trời cần khuyến-khích.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch.

 

Trung tâm R.F.Kennedy quan ngại về cái chết của tù nhân chính trị Sahrawi ở Tây Sahara

Trung tâm R.F.Kennedy quan ngại về cái chết của tù nhân chính trị Sahrawi ở Tây Sahara

Chuacuuthe.com

VRNs (22.10.2014) – Sài Gòn – Kerry Kennedy, Chủ tịch Trung tâm Robert F. Kennedy về Công lý và Nhân quyền (RFK Center) có trụ sở tại Washington, và Santiago A. Canton, Giám đốc điều hành Đối tác về nhân quyền của RFK, đã bày tỏ quan ngại sâu sắc về cái chết của tù nhân chính trị Hassana El Ouali người Sahrawi trong khi bị giam giữ.

El Ouali đã qua đời hôm 27/9 tại một bệnh viện quân sự ở Dakhla, Tây Sahara. Ông là một thành viên tích cực của phong trào ủng hộ độc lập và là một nhà vận động chống sự tra tấn cũng như tàn bạo của cảnh sát. Ông mắc bệnh nặng bởi hậu quả của một cuộc tuyệt thực và sự chăm sóc y tế nghèo nàn tại nhà tù của Ma-rốc.

Tù nhân chính trị Hassana El Ouali người Sahrawi. Ảnh aps.dz

Tù nhân chính trị Hassana El Ouali người Sahrawi. Ảnh aps.dz

Ông El Ouali chỉ được chuyển đến một bệnh viện sau khi phía gia đình và bạn bè áp lực. El Ouali bị bỏ tù với cáo buộc “tham gia vào một cuộc biểu tình bất hợp pháp” và “hình thành một băng đảng.”

Một số báo cáo cho biết, ông bị tra tấn trong thời gian giam giữ, với các hình thức như bị treo lên trần nhà và bị sốc điện ở nhiều bộ phận trên cơ thể.

Mặc dù gia đình yêu cầu việc khám nghiệm tử thi để làm rõ nguyên nhân cái chết của ông, chính quyền Ma-rốc đã đột ngột chôn El Ouali vào hôm 6/10 mà không có sự hiện diện hay đồng ý từ gia đình của ông.

Vị chủ tịch Trung tâm RFK nói: “nếu các báo cáo về tra tấn và ngược đãi y tế là đúng thì điều này rất đáng lo ngại.”

Ông kêu gọi “chính phủ Ma-rốc điều tra những cáo buộc rộng rãi về việc các tù nhân bị ngược đãi, đồng thời phải đảm bảo nhân phẩm của những người bị giam giữ được bảo vệ cách dứt khoát.”

Tin tức về điều kiện giam giữ và cái chết của El Ouali được đưa ra trong bối cảnh tồn tại một loạt các báo cáo đáng lo ngại về các nhà tù Ma-rốc ở Tây Sahara.

Juan Mendez, Báo cáo viên đặc biệt của Liên Hiệp Quốc về tra tấn, nói rằng các nhà tù ở Tây Sahara rất đông đúc, và tra tấn thường được sử dụng như cách thức để bịt miệng và trừng phạt những tù nhân chính trị bất đồng chính kiến​​.

Các nhóm quốc tế như Tổ chức Ân xá Quốc tế và các tổ chức địa phương như Tập thể Bảo vệ Quyền con người Sahrawi (CODESA) cũng báo cáo kết quả tương tự.

Cả hai nhóm cũng cáo buộc chính quyền Ma-rốc vi phạm nhân quyền đối với công dân Sahrawi, thậm chí bên ngoài nhà giam, và việc chính phủ hạn chế quyền tự do hội họp, di chuyển, và biểu hiện của người Sahrawi.

Pv.VRNs lược dịch

Các Con Hãy Nên Trọn Lành!

Các Con Hãy Nên Trọn Lành!

Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

Người ta kể lại rằng thánh Antôn ẩn tu (không phải là thánh Antôn thành Pa-đua) đã tìm đến gặp một người thợ giày, vì nghe đồn rằng người thợ giày này có một đời sống đạo đức lạ thường.

Ðể trả lời đâu là bí quyết để nên thánh, người thợ giày đáp gọn: “Tôi chỉ biết đóng giày”.

Ngạc nhiên vô cùng, thánh Antôn hỏi vặn lại: “Nếu chỉ có thế thì làm sao mà gọi là thánh thiện được.  Tôi đây, tôi tưởng nghĩ đến Chúa từng phút giây.  Ông có bí quyết gì khác nữa không?”.

Người thợ giày giải thích: “Tôi làm việc 8 giờ, cầu nguyện 8 giờ và ngủ nghỉ 8 giờ”.

Thánh Antôn ẩn tu vẫn chưa cho đó là cuộc sống lý tưởng.

Ngài cho biết, ngài cầu nguyện từng phút giây. “Vậy ông sống đức khó nghèo như thế nào?”.

Người thợ giày bảo: “Tôi cho Giáo hội một phần ba của cải của tôi, một phần ba tôi bố thí cho người nghèo và một phần ba tôi giữ lại cho tôi”.

Thánh Antôn chưa cho đó là bí quyết nên thánh trọn hảo, bởi vì chính ngài đã phân phát tất cả của cải của ngài cho Giáo hội và người nghèo…

Thánh nhân vặn hỏi mãi, cuối cùng người thợ giày mới khai ra bí quyết của ông như sau:
“Mặc dù tôi phân phát một phần ba tiền lương của tôi cho người nghèo, nhưng đêm ngày tôi không ngủ yên được khi tôi nhìn thấy cảnh nghèo xung quanh tôi, đến độ tôi đã thưa với Chúa: Chúa ơi, thà để con đi hỏa ngục còn hơn nhìn thấy những người khốn khổ này phải triền miên trong cảnh nghèo đói…”.

Nghe đến đó, thánh Antôn đã bỏ ra về. ngài chợt hiểu rằng ngài chưa đủ thánh thiện như người thợ giày này đến độ dám hy sinh tất cả chỉ vì người nghèo.

Có rất nhiều cách để nên thánh, nhưng dường như không có một mẫu mực thánh thiện chung cho tất cả mọi người.

Có người nên thánh ngay trong bấc sống của mình giữa trần gian.

Có người chịu tử đạo.

Có người sống trong bậc tu trì.

Mỗi một vị thánh là một cách sống.

Tuy nhiên giữa khung khác biệt đó vẫn có một mẫu số chung cho tất cả mọi cuộc sống thánh thiện: đó là Tình Yêu. Thánh Phaolô trong bài ca đức ái đã nói: “Dù tôi có thể nói được các tiếng lạ lùng, dù tôi có thể làm được phép lạ chuyển núi di sông, dù tôi có làm được không biết bao nhiêu công trình… nếu tôi không có tính đức bác ái, tôi chỉ là một thứ thùng rỗng…”.

Không có đức bác ái, không có tình yêu thì tất cả tòa nhà đạo đức của chúng ta chỉ được xây dựng trên hão huyền mà thôi.

Chúa Giêsu cũng đã nói với chúng ta: “Các con hãy nên trọn hảo như Cha các con trên trời”. Thiên Chúa là Tình Yêu.  Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người không loại trừ ai.  Và cuối cùng vì yêu thương con người, Thiên Chúa đã hóa thân làm người như chúng ta… Ðó là tận cùng của Tình Yêu!

Người thợ giày trong câu chuyện của thánh Antôn ẩn tu không những dành của cải của mình cho người nghèo, ông còn tưởng nghĩ đễn người nghèo như chính lẽ sống của mình.  Thánh Antôn đã nhận ra đó là bí quyết cao cả nhất để nên thánh.  Bố thí tất cả của cải của mình, xa lánh tất cả các thú vui của cuộc sống, đêm ngày ăn chay cầu nguyện là điều tốt.  Nhưng nếu sống như thế chỉ để tìm cho mình sự thanh thản trong tâm hồn mà phải sợ người khác quấy rầy, thì một cuộc sống như thế chưa phải là lý tưởng nhất.

“Hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời”.

Ðó phải là lý tưởng của người Kitô chúng ta.  Cha trên trời yêu thương tất cả mọi người.  Cha trên trời đã yêu thương con người đến nỗi đã phó ban chính Con Một của Ngài.  Thiên Chúa chỉ được gọi là Cha bởi vì Ngài sống cho con cái của mình…

Sự sống Ngài ban cho chúng ta chỉ có thể triển nở và có ý nghĩa nếu nó cũng được sống cho tha nhân.

Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

From: KittyThiênKim & Nguyễn Kim Bằng gởi

Về đây khi mái tóc còn xanh xanh

Về đây khi mái tóc còn xanh xanh

Trần Ngọc Mười Hai

VRNs (20.10.2014) – Úc Đại Lợi – Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 30 mùa Thường niên năm A 26-10-2014

“Về đây khi mái tóc còn xanh xanh.”
Về đây với mầu gió ngày lang thang
Về đây xác hiu hắt lạnh lùng.
Ôi lãng du quay về điêu tàn.

Đâu tiếng đàn ngoài hiên mưa?
Và đâu bướm tơ, vui cùng mùa?
Một mùa Xuân mới, mắt êm nắng hào hoa.”

(Nhạc: Come back to Sorrento – Lời Phạm Duy: Trở Về Mái Nhà Xưa)

(Rm 9: 1-5)

Về đây là về đâu thế? Chốn nào đây? Về Sorrento ư? Nơi “khỉ ho cò gáy” nào mà xa thế? Về để làm gì mà sao nghệ-sĩ nhà mình cứ gọi mãi bằng những lời “buồn như chấu cắn”, thế này đây:

“Về đây nghe tiếng hú hồn mê oan.

Về đây lắng trầm khúc nhạc truy hoan.

Về đây nhé ! Cắm xong chiếc thuyền hồn

Ôi thoáng nghe dây lòng tiếc đờn.”

(Lời Việt: Phạm Duy – bđd)

Ôi thôi! Đó là chuyện của nghệ sĩ đời, sống ở đời. Với nhà Đạo, lại có những lời mời mọc như muốn bảo người đọc hãy cứ trở về với vấn-đề gai góc hôm xưa, nay ê hề, mà không là chuyện cũ.

Vừa qua, bần đạo được một người bạn thảy cho đọc bài viết nọ nói về những chuyện lạ kỳ ở nhà đạo, đại để cũng hơi giống lời ca ta vẫn hát:

“Mái tóc nhà lưu luyến vạt trăng xanh.
Nếu mưa về yêu lấy hạt long lanh.
Chờ mong nắng cho tươi đời xuân xanh.
Người xa vắng biết đâu nấm nhà buồn…

Đốt ánh đèn in bóng vào rêu xanh.
Sẽ thấy cười tan vỡ hồn đêm thanh.
Và nghe thấy kiếp xưa bước nhẹ về
Đang khóc than trên đường não nề”.

(Lời Việt: Phạm Duy – bđd)

Chao ôi, lời hát với ca từ nào những là: “đèn in bóng vào rêu xanh”, rồi “sẽ thấy cười tan vỡ hồn đêm thanh”. Và đêm ấy, thấy nhiều người vẫn cứ lần giở trước đèn trang báo Đạo ghi bài viết khá lạ về tác-vụ giảng rao Tin Mừng mà người đi Đạo nay thực hiện.

Nói chung thì, sự việc như lời kể của người viết trẻ ở Úc tên là Ann Rennie như sau:

“Rao truyền Tin Mừng đâu chỉ mỗi giảng-giải hoặc rao báo Lời của Chúa mà thôi đâu. Đó vẫn là: quyết sống Lời Ngài trong quan-hệ với mọi người, ở đời. Qua tương-quan với mọi người trong đời, tôi lại cứ luôn nói về cuộc sống của thánh Phanxicô thành Assisi là đấng thánh hiền-lành từng khuyên nhủ mọi người: ‘Hãy truyền-bá Tin Mừng của Chúa, nếu cần, hãy dùng lời lẽ bình thường mà làm thế”. Riêng tôi, lại vẫn nghĩ: rao truyền Lời Chúa, đích-thị là quảng bá lối sống phù-hợp với Tin Vui An Bình mỗi ngày trong đời mình được nghe biết một cách rất chi tiết.

Có thể nói, việc này biểu-hiện sự tử-tế, là thứ ân-huệ keo sơn để ta cảm thông mà san sẻ với những người đang cùng sống với ta. Việc này, còn là thời-gian ta bỏ ra để lắng nghe bậc cao niên ở đâu đó cứ ngồi hằng giờ để kể về những chuyện tồn-đọng nơi “bộ nhớ” của các cụ. Làm như thế, còn có nghĩa: ta sẽ bỏ hết công sức của mình ra mà tranh-đấu cho các sự việc tốt-lành/hạnh-đạo được thành sự. Những việc như để biểu-lộ mức ngạc nhiên, vui mừng khi ta hành-xử theo đúng lương-tâm của ta…” (xem Ann Rennie, How will they know if we really love them? The Australian Catholics số mùa Hè năm 2014, tr. 16)

Vâng. Đặt vấn-đề thì bao giờ chả đặt ra như thế. Như thế, còn để thêm mắm muối dưa hành cho ca-từ nghệ-sĩ ở trên hát đã khá hơn, như sau:

“Thôi nhé đừng hoài âm xưa
Giọt mưa đã gieo trên thềm nhà
Người ngồi im bóng
Lắng nghe tháng ngày qua”.

(Lời Việt: Phạm Duy)

Vâng. Đúng là như thế. Có “hoài âm xưa”, thì cũng cứ “ngồi im bóng” “lắng nghe tháng ngày qua” thiên hạ/mọi người ở nhà Đạo vẫn cứ đề-cập đến những chuyện thương-yêu, lương-tâm/trách-nhiệm, như bậc thày ở Úc có lần từng xác-quyết như sau:

“Thiên-Chúa, Ngài cũng có cử-chỉ đẹp hoặc bí-kíp lịch-duyệt Ngài vẫn dành riêng cho ta. Ngài là Đấng có kinh-nghiệm hơn ai hết, về mọi thứ. Còn ta, chỉ là tay mơ luôn lần mò/chập-chững trong hành-trình sống, nhiều khiếm-khuyết.

Thiên-Chúa, là Đấng không chỉ ban cho ta mỗi cử-chỉ đẹp mà thôi; nhưng, Ngài còn ban cho ta cung-cách lịch-duyệt đầy yêu-thương, nữa. Ngài vẫn tôn-trọng ta, nên mới để ta thử sức mình trước mắt Ngài. Và, Ngài có mặt ở đây đó, để hỗ-trợ cho ta cả vào lúc luật-lệ hoặc bí-kíp thực-hiện cuộc sống tốt-lành/hạnh-đạo chưa phổ biến rõ ràng.

Thiên-Chúa, còn là Đấng sẵn-sàng để những kẻ mỏng-dòn/dễ-vỡ như ta được đồng-hành với Ngài bằng sáng-kiến đi bước truớc. Chúa biết rõ tính mỏng dòn/dễ vỡ của ta. Và, ta cũng biết rõ cử-chỉ lịch-duyệt của Ngài. Đó là căn-bản sự sống và là hoạt-động theo tinh-thần đồng-đội, tức: tinh-thần hợp-tác có hỗ-tương, trong mọi lúc. Ta là tạo-vật có giới-hạn, còn Ngài là Đấng Quyền-uy Cao-cả làm hết mọi sự. Nhưng giữa ta và Ngài, mọi khác-biệt vẫn quên đi, nhờ vào ân-huệ và nhờ ta cùng Chúa tin-tưởng lẫn nhau. Cả hai bên, Thiên-Chúa và con người đều sống thực những gì mình có khả-năng thể-hiện, trên thực-tế. Chúa biết rõ việc Ngài làm. Đó, là sự thực mà người bình-thường ở đời và/hoặc người không tự đứng-vững vẫn sống cách khác, có kinh-nghiệm.

Quả là chuyện tuyệt-vời. Bởi sau những khó-khăn ta gặp phải, chắc-chắn sẽ có những kinh-nghiệm đạo-đức nói về ta và về Chúa, thì: ta và Ngài đều làm công việc ấy, chung với nhau.

Đó, là ý-nghĩa thực của lương-tâm.

Lương-tâm, là từ-vựng có gốc-nguồn từ tiếng La-tinh, trong đó gồm hai chữ “Con” và “Scientia”, mà tiếng Anh và tiếng Pháp thường gọi là: “Conscience”.

Lương-tâm, là: hiểu-biết nhau hoặc thông-cảm lẫn nhau, trong mọi sự. Thiên-Chúa chấp-nhận quyết-định của ta theo tiếng lương-tâm. Chúa và ta, có trách-nhiệm đồng-đều về những quyết-định như thế. Kết-quả là, ân-huệ từ đó đến với ta. Thứ ân-huệ của sự tự-trọng về đạo-đức. Và, đó cũng là phúc-lành Chúa ban lên những gì khả-thi, bình-dị và thông-thường, theo tính khôn-ngoan của những người con chân-phương, bé nhỏ.

Lương-tâm, đích-thị là “lẽ thường” rất phải, vẫn đặt-định những gì thường-tình rất phải lẽ đến cho ta và với Chúa, Đấng hiểu biết mọi sự và cảm-thông với hết mọi người.

Một lần nọ, khi tôi đang giải-nghĩa điều này cho các học-viên thuộc Đại-học nọ, thì có một học-viên đưa ngay một phản-hồi, rồi hỏi: “Thày nói thế, tức là em cũng…OK, phải không?” “Đúng. Đúng là như thế!” Ngay sau đó, học-viên ấy lại hỏi tiếp: “Nói như thế, tức là Chúa cũng OK với em chứ?” “Đúng thực như vậy!”

Thật thế, Thiên-Chúa vẫn muốn như vậy. Và, Ngài rất vui lòng đồng-hành với ta, bởi ta có tự-do để làm thế. Và, Chúa vẫn cùng ta sử-dụng tự-do-tuy-có-giới-hạn ở nơi ta, nhưng ta sử-dụng nó một cách có trách-nhiệm. Chúa rất vui, bao lâu ta và Ngài tiếp-tục có quan-hệ hỗ-tương, muôn đời. Theo tôi, thì: Chúa rất vui khi trở-thành diễn-viên trong câu truyện ta kể lại. Đồng thời, Ngài để tai ra mà lắng nghe ta thuật truyện cho Ngài. Ngài vẫn nghe hoài và nghe mãi, đến bất tận.

Nhiều người lại có những thứ, mà tôi gọi là kinh-nghiệm đạo-đức rất thực, cả khi họ khám-phá ra Chúa, trong các tình-huống như thế. Nhưng tiếc thay, những người như thế lại cũng giống như ta, ở chỗ: họ không tìm ra ngôn-từ nào thích-hợp, để nói lên sự việc này.

Thành thử, ta và mọi người vẫn thận-trọng khi có yêu-cầu, mà theo tôi, họ rất có lý để yêu-cầu. Và thường thì: yêu-cầu của họ luôn có tính hào-hùng, phải lẽ. Tuy thế, nỗi khổ-đau và niềm ưu-tư/khắc-khoải mà họ và ta cảm-nghiệm, đều đưa ra chứng-cứ cho thấy: ta và họ đều yêu Chúa vẫn rất mực. Vì thế nên, nhiều lúc, họ và ta cũng đánh liều tìm cách làm những điều Chúa dạy bảo, cho phải đạo. Và, riêng tôi lại vẫn nghĩ: Chúa thấy mọi sự theo cung-cách tựa hồ như thế.” (xem Lm Kevin O’Shea CSsR, Lương tâm trưởng thành trong đạo đức, www.giadinhanphong.blogspot.com ngày 20/9/2014)

Đấng bậc thày dạy mà còn nghĩ như thế, huống hồ là đàn em bé nhỏ, rất học trò. Về lương tâm, đáng thánh hiền-từ ở Kinh/Sách, lại cũng có những lời khuyên nhủ, rất như sau:

“Có Đức Kitô chứng giám,

tôi xin nói sự thật,

tôi không nói dối và lương tâm tôi,

được Thánh Thần hướng dẫn,

cũng làm chứng cho tôi rằng:

lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không ngơi.

Quả vậy, giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống,

mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Kitô, thì tôi cũng cam lòng

Họ là người Israel, đã được Thiên Chúa nhận làm con,

được Ngài cho thấy vinh quang,

ban tặng các giao ước, lề luật,

một nền phụng tự và các lời hứa;

họ là con cháu các tổ phụ;

và sau hết, chính Đức Kitô, xét theo huyết thống,

cũng cùng một nòi giống với họ.

Ngài là Thiên Chúa,

Đấng vượt trên mọi sự.

Chúc tụng Ngài đến muôn thuở muôn đời.”

(Rm 9: 1-5)

Xem như thế, thì: với lương-tâm không bao giờ nói dối, con người vẫn luôn được Thánh Thần Chúa hướng-dẫn để sống lướt vượt mọi sự, mà chúc tụng Ngài đến muôn thuở muôn đời. Chúc-tụng Chúa, không chỉ bằng môi miệng qua kinh-kệ hoặc bằng việc hành hạ thân xác với hãm mình, nhưng bằng vào cả những lời ca, hoặc hành-xử rất nên làm.

Chúc tụng Chúa, không chỉ bằng những hát vang những ca từ rất buồn và cũng rất phiền theo kiểu đọc những kinh như “Từ Vực Sâu u tối”, hoặc những bài hát uỷ-mị rất “luyện tội” như “Từ Chốn Luyện Hình” của ai đó. Trái lại, vẫn hiên ngang hát lên lời lẽ tuy cũng buồn như “chuồn chuồn bay trong mưa”, mà là những ca từ được dịch như trên, những hát rằng:

“Thôi nhé đừng hoài âm xưa
Giọt mưa đã gieo trên thềm nhà
Người ngồi im bóng
Lắng nghe tháng ngày qua”.

(Lời Việt: Phạm Duy)

Chúc tụng Chúa, còn là động-thái sáng giá nhất trong nguyện cầu. Bởi nguyện cầu tuy có chữ “cầu” ở trong đó, vẫn không là động-thái những “xin xỏ”, khẩn nài”, lạy van chút nào hết. Nguyện và cầu trong yêu-thương có trách-nhiệm của một lương-tâm trong trắng, vẫn là động-thái của người đời và tín-hữu đi Đạo, ở mọi nơi, mọi đạo.

Chúc-tụng Chúa, còn là chúc và tụng những công việc Ngài làm cho ta, ngang qua hết mọi người, mọi đạo ở đời. Chúc-tụng Chúa, cả vào khi ta nhận-lĩnh quà tặng “Cứu-chuộc” Ngài ban cho ta và cho mọi người, qua đó ta sống yêu-thương hài-hoà cả với người cùng Đạo hay khác tôn-giáo, như lời của bậc thày giảng-dạy từng có lần đoan-quyết, như sau:

Đạo Chúa coi Ơn Cứu-chuộc như tiến-trình không bị triệt-tiêu, nhưng tháp-nhập và hội-nhập vào bản-thể con người. Bản-thể của ta hiện-hữu mà không bị tắt ngúm hoặc hủy-diệt, nhưng vẫn vĩnh-cửu trong Chúa. Kitô-hữu sinh ra, là để thương-yêu người đồng-loại như yêu-thương chính mình; còn, người nhà Phật lại vẫn nghĩ: không “ngã” nào trên đời khiến con người biết yêu-thương người khác, hết.

Với nhà Phật, sống là truy-tầm cái “Ngã” đích-thực, vượt mọi thể-hình hoặc thể-loại nào vốn có. “Ngã” đích-thực, là lối nói một chiều về “vô ngã/vô thường” đã lạc mất; nên con người cứ luyến nhớ điều đó, cách khôn nguôi.

Ta để lạc mất nó, là do thế-giới có thiếu-hụt căn-bản. Thế-giới ta sống, là sống hữu-hạn, không miên-trường, lại đem cái “Dục” vào thân; đồng thời, lại dính-liền với cái “Dục” ấy. Các yếu-tố này, là căn-nguyên/cội-nguồn hi-hữu tạo nên Khổ đau, âu sầu, dị-biệt.

Bằng vào Tông-thư “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy-Vọng”, Đức Gioan Phaolô Đệ Nhị đã mô-tả Phật-giáo như thứ tôn-giáo tiêu-cực trong đó người nhà Phật tin rằng thế-giới là ác-quỉ, bắt nguồn từ sự-dữ mà ra. Trong khi đó, Đức Bênêđíchtô 16, khi còn là Hồng Y Ratzinger, lại viết một câu như thể bảo: Đạo Phật tự tạo cho mình thứ “Dục Tự-tại”.

Thật ra thì, ngôn-từ do các đấng bậc trên cao sử-dụng là cốt để so với Ơn Cứu-chuộc Kitô-giáo, cũng hơi quá đáng và không thích-hợp cho công-cuộc Đại-kết. Theo nhà Phật, thế-giới ta sống, không là thế-giới đích-thực mà chỉ là Khát vọng. Là, “Lòng Dục”, tức: nguồn-gốc của sự dữ. Nó còn có nghĩa như thứ gì đó dính-liền một cách không thích-đáng vào bản-thể con người.” (xem Lm Kevin O’Shea CSsR, Cứu-chuộc Thế-Gian Qua Các Đạo Nơi Trần Thế, www.giadinhanphong.blogspot.com ngày 08/10/2014)

Nói như đấng bậc thày dạy trường lớp như trên, còn là nói có kinh-nghiệm bản thân và những trải-nghiệm về công cuộc Đại-kết hết mọi người thuộc các tôn giáo khác nhau, ở trên đời.

Nói như người bé nhỏ ở đời, là nói bằng ca từ hoặc truyện kể, không dễ nể nhưng vẫn để ta nhớ mà thực-hiện cho mình, trong đời mình. Thực-hiện cuộc sống có yêu thương rộng khắp, hết mọi người. Không cần biết họ là ai. Con trai hay con gái. Có tin vào thuyết này/Kinh nọ không. Chỉ cần biết một điều, là: họ cũng như ta, cũng là con cùng Cha trên trời. Ở đời. Bởi, Cha đang hiện hữu với thế-trần ở nơi họ và ngang qua họ.

Nhận-định rồi, tưởng cũng nên kiếm tìm “Thiên-Chúa-Là-Tình-Yêu” qua các chuyện ở đời và trong đời, như sau:

“Truyện rằng:

Ở vùng quê nọ bên nước Anh, có gia đình nọ chuyên nghề làm vườn, gồm hai vợ chồng và đứa con trai duy nhất. Vì hoàn cảnh quá nghèo nên cậu con chưa học hết tiểu học đã phải ở nhà giúp đỡ cha mẹ việc trồng tiả, hoặc đôi khi lên rừng lấy củi, kể cả việc câu cá ở một cái hồ lớn rất đẹp gần nhà để thêm lương thực cho bữa ăn. Trong các việc làm phụ giúp cha mẹ, cậu bé thích nhất là đi câu, bởi vì mỗi buổi đi câu là mỗi lần được tắm, bơi thỏa thích. Cậu bơi tuyệt giỏi, đến mức bạn bè trong xóm gọi cậu là “thằng Rái Cá” (Otter boy).

Một hôm, khi “thằng Rái Cá” cắm xong mớ cần câu ở góc hồ, đang tính cởi áo nhào xuống nước bơi một tăng cho đã đời, thì nó thấy 3 chiếc xe limousine sang trọng trờ tới đậu ngay gần đó nên nó khớp không tắm nữa, leo lên cây đại lăng ở cạnh hồ, núp mình trong tàng lá để canh chừng cần câu và cũng để ngắm nhìn toán du khách sang trọng.

Toán du khách đó chính là một gia đình giầu có, quyền qúy, vào hàng đệ nhất qúy tộc của vương quốc Anh. Họ từ thủ đô Luân Đôn đi du ngoạn miền quê, thăm dân cho biết sự tình. Dưới trời nắng đẹp ấm áp, một cái tăng lớn được căng lên lộng lẫy. Bàn ghế picnic bầy ra và thức ăn, cao lương mỹ vị dọn tràn đầy. Tiếng nhạc êm đềm réo rắt tỏa vang rồi đoàn du khách nhập tiệc. Kẻ ăn, người uống, kẻ khiêu vũ, người chụp hình …

Một lát sau, “thằng Rái cá” ngồi thu mình trên cành cây đại lăng, nhìn thấy một đứa trẻ trong đám du khách, chắc cũng 11, 12 tuổi, cỡ tuổi nó, thay đồ tắm và lội xuống hồ bơi qua bơi lại. Dường như những người lớn chăm chú vào việc ăn uống chuyện trò, không mấy ai để ý đến đứa trẻ ở dưới hồ. Riêng “thằng Rái Cá” nó tò mò quan sát đứa trẻ…

Ồ, coi kìa, thằng này bơi gì dở ẹc! Rõ ràng là nó không biết bơi ếch, bơi sải, bơi bướm gì cả, đến bơi ngửa chắc cu cậu cũng chẳng làm được! Nó chỉ đập loạn tay chân lên thôi, cái điệu bơi chó như thế là không khá được!

Chợt “thằng Rái Cá” nhoài mình ra chăm chú nhìn. Nó thấy 2 con thiên nga từ xa bơi tới phía đứa trẻ và đứa trẻ chắc là thích con thiên nga nên bơi theo … Chết chưa ! Nó bơi tuốt ra xa quá rồi, chỗ đó rất sâu, nguy hiểm lắm! Đúng lúc đó, có tiếng thét cấp cứu của đứa trẻ “Help me! Help…Help! !!” Toán du khách khi ấy kịp nghe và nhìn thấy, nhưng thay vì phải nhào ra cứu đứa trẻ thì họ ồn ào, nhốn nháo cả lên. Hai ba người xuống hồ với cả áo quần, nhưng chỉ lội ra nước đến cổ thì đứng lại.

Trời đất! Hóa ra chẳng ai biết bơi cả mà ngoài xa đứa trẻ đuối sức có vẻ muốn chìm rồi!
Không đợi lâu hơn được nữa, từ trên cành cây cao, “thằng Rái cá” phóng xuống chạy bay ra hồ trước con mắt ngạc nhiên của tất cả đoàn du khách. Tới bờ cao, nó nhún mình lao xuống nước trong tư thế plunge tuyệt đẹp và chỉ loáng mắt đã sải tay bơi tới chỗ đứa trẻ bị nạn. Nó hụp lặn xuống xốc nách đứa trẻ và như một chuyên viên rescue lành nghề, nó nghiêng người bơi sải từ từ vào bờ trước sự chứng kiến xúc động và tràng pháo tay reo mừng của mọi người. Khi tới bờ, đứa trẻ bị nạn được nhiều người xúm lại khiêng lên đưa vào giữa tăng và tại đó có sẵn một vị bác sĩ (trong toán du khách) lo việc cấp cứu hồi sinh cho đứa trẻ.

Chừng một tiếng đồng hồ sau, không khí an toàn tươi vui trở lại với mọi người trong toán du khách. Đứa trẻ qua tai nạn hiểm nguy, bây giờ quấn mình trong chiếc mền len và đang được uống mấy muỗng soup. Lúc ấy người ta mới chợt nhớ tới vị ân nhân vừa cứu sống nó.

– Ô hay, cái thằng bé con bơi giỏi hồi nãy đâu rồi nhỉ ?


Mọi người đổ xô đi tìm. Lát sau phát giác ra chỗ ẩn của nó. “Thằng Rái Cá” trèo lên ngồi yên chỗ cũ, trên cành cây đại lăng. Nó được gọi xuống và trịnh trọng đưa tới trình diện trước một vị quý tộc, ông này chính là cha của đứa trẻ vừa bị nạn.

– Hỡi con, (vị quý tộc nói với “thằng Rái Cá”) con vừa làm một chuyện vĩ đại mà tất cả chúng ta đây không ai làm được. Ta xin thay mặt toàn thể cám ơn con.

– Bẩm ông, (“thằng Rái Cá” lễ phép thưa) con có làm gì vĩ đại đâu! Bơi lội là nghề của con mà! Con cứu em là chuyện nhỏ, chuyện phải làm và cũng là chuyện thường đâu có gì khó khăn vĩ đại. Xin ông đừng bận tâm!

– Không đâu con ơi! con đã cứu mạng con trai ta. Gia đình ta và hội đồng quý tộc mãi mãi mang ơn con. Nay ta muốn đền ơn con, vậy con muốn điều gì hãy nói cho ta biết.

“Thằng Rái Cá” nghe hỏi vậy, ngập ngừng giây lát rồi ngỏ ý muốn xin vài ổ mì dư thừa đem về cho cha mẹ. Lòng hiếu thảo của nó đã khiến cho vị quý tộc và nhiều du khách cảm động rơi lệ. Vị quý tộc ôm nó vào lòng và nói:

– Hỡi con, điều con vừa xin là chuyện nhỏ, và đó chính là bổn phận của ta, ta biết ta sẽ phải làm gì cho con và gia đình con. Nhưng câu hỏi của ta là sau này lớn lên con ước mơ sẽ làm gì?

“Thằng Rái Cá” chỉ tay vào vị bác sĩ khi nãy cấp cứu hồi sinh cho đứa trẻ bị nạn, trả lời:
– Lớn lên, con muốn làm việc cứu người như ông kia.

– Ồ, con muốn làm bác sĩ, tốt lắm! Với ta đó cũng là chuyện nhỏ thôi, ta sẽ giúp con.

Câu chuyện nhỏ trên đây có phần kết luân thật là vĩ đại, bởi vì đứa trẻ bị chết đuối hụt có tên là Winston Churchill, sau này là vị Thủ Tướng đã làm rạng danh nước Anh, một vĩ nhân cực kỳ tài giỏi lỗi lạc của thế giới vào thời Đệ Nhị Thế Chiến.

– Còn “thằng Rái Cá”, cậu bé đã cứu mạng Churchill tên là Fleming, sau này trở thành vị bác sĩ tài ba lừng danh hoàn cầu. Fleming, chính là nhà bác bọc đã tìm ra thuốc trụ sinh Penicilin, cứu mạng biết bao nhiêu người trên thế giới. Ông đích thực là vị ân nhân vĩ đại của cả nhân loại.

Từ khởi đầu, chuyện chỉ là một chuyện nhỏ, sự hy sinh, vị tha, sự cho đi rất nhỏ nhoi! Nhưng nhờ đó, thành quả sau này đem đến cho cả nhân loại đã vô cùng lớn lao kỳ vỹ.

Câu chuyện còn thêm cho phần kết luận điều lý thú nữa, là một ngày nọ, thủ tướng Churchill bị lâm trọng bịnh đến nỗi đã hôn mê, nhiều bác sĩ phải lắc đầu. Tính mạng ông ở vào lúc nguy kịch nhất, thì Fleming xuất hiện như một tiền duyên định mệnh và vị bác sĩ tài ba này, đã lại một lần nữa cứu sống người bạn cố tri của mình. Khi tỉnh dậy sau cơn mê, mở mắt ra nhìn thấy Fleming, Churchill ngạc nhiên xúc động và nói rằng:

– Fleming! Có phải cứ mỗi lần tôi sắp chìm, Chúa lại cho bạn tới vớt tôi lên?
– Churchill, chúng ta hãy cám ơn Chúa ! Nhưng không hẳn là tôi, (Fleming giơ ra một viên thuốc nhỏ tí xíu) bởi cái này đây, chính cái này đã cứu bạn đó … Chuyện nhỏ mà!
(Chuyện do một người ký tên là Sưu tầm dịch từ truyện tích, rất ngoại quốc)

Chuyện Phiếm Đạo Đời hôm nay, kể lại “Chuyện nhỏ” này không chỉ để ca tụng vị y-sĩ chuyên-khoa chuyên giúp người và cứu đời mà thôi. Nhưng, còn nói lên rằng: ở đời những chuyện được gọi là “Chuyện nhỏ” ở đời, đôi khi và rất nhiều khi, đó lại là chuyện rất lớn. Lớn, vì nó nói lên được tình thương-yêu của nhiều người ở đời. Chẳng cần biết, người ấy có đi Đạo và/hoặc giữ Đạo hay không, miễn ai rao truyền Tình Thương Yêu ở đời, đều là người cùng với Chúa đồng-hành trong đời, rất yêu đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Rất đồng ý với bạn và với tôi

Rằng nhiều chuyện đời

đâu là “Chuyện Nhỏ”

của trẻ nhỏ bao giờ.

Nhưng rất lớn

cả với người lớn,

trong đời.

TÂM LINH VÀ SỰ CĂNG THẲNG

TÂM LINH VÀ SỰ CĂNG THẲNG

Trầm Thiên Thu

Trau dồi đời sống tâm linh có thể dẫn tới sự bình an tâm hồn, giảm căng thẳng và sức khỏe tốt.  Sự căng thẳng kéo dài sẽ dễ bị bệnh, kể cả các bệnh nặng như bệnh tim.  Tại sao?  Sự căng thẳng có thể làm suy yếu hệ miễn nhiễm, nếu căng thẳng lâu ngày hoặc mãn tính.  Nó có thể làm giảm tính năng động, gây trầm cảm và giảm chất lượng sống.  Nên tập thói quen sống lành mạnh – như tập thể dục, chế độ ăn uống, ngủ nghỉ đủ mức và có những mối quan hệ xã hội tốt.  Điều đó có thể giúp bạn xử lý mức căng thẳng nguy hiểm.  Cách làm giảm căng thẳng là hoạt động tâm linh.

Nghiên cứu cho thấy niềm tin tôn giáo và việc cầu nguyện có ảnh hưởng sức khỏe và tạo hiệu quả tốt. Sống tâm linh có thể giảm mức căng thẳng và giảm nguy cơ mắc bệnh tâm thần.

Tâm linh thuộc lĩnh vực tinh thần.  Có thể mang ý nghĩa khác nhau đối với mỗi người, nhưng nói chung, tâm linh được coi là điều giúp người ta sống.  Không hẳn là được nối kết với việc thờ phượng theo tôn giáo hoặc đức tin, nhưng đó là tổng giá trị của một con người, các mối liên kết với người khác, và sự tìm kiếm ý nghĩa đời người.  Tâm linh có thể được thể hiện bằng nhiều cách như tôn thờ, suy niệm, cầu nguyện, đời sống gia đình, thiên nhiên, âm nhạc hoặc nghệ thuật.

Tâm linh tạo vô số lợi ích, đặc biệt là giảm căng thẳng và tăng sức khỏe tinh thần.  Theo Mayo Clinic, tâm linh có thể hỗ trợ bằng cách cung cấp mục đích.  Trau dồi tâm linh có thể giúp bạn xác định cái gì có ý nghĩa nhất trong đời sống.  Và nếu bạn có thể xác định và tập trung vào thực sự quan trọng đối với bạn, nhưng đừng quá quan trọng hóa vấn đề để có thể giảm sự căng thẳng.

Hãy nối kết với thế giới.  Nếu bạn có mục đích, bạn sẽ cảm thấy ít cô độc.  Sống thoải mái không chỉ giúp sống bình an nội tâm, mà còn thoát khỏi sự ràng buộc hoặc sự lo lắng.

Hãy mở rộng mối quan hệ xã hội.  Bạn khả dĩ thể hiện sự tâm linh bằng cách đi nhà thờ, trong gia đình, hoặc đi dạo với bạn bè giữa thiên nhiên, làm như vậy sẽ giúp củng cố các mối quan hệ.  Các mối quan hệ mạnh mẽ sẽ làm cho bạn giảm căng thẳng, cải thiện sức khỏe và tăng tuổi thọ.

Nếu cảm thấy lo lắng hoặc căng thẳng, đừng âm thầm chịu đựng.  Trong lúc khó khăn, người ta rất cần đến người khác – gia đình, bạn bè, đồng nghiệp…

Các kỹ thuật thư giãn cũng giúp giảm căng thẳng – như yoga, hít thở sâu và thiền.  Cũng có thể đơn giản là tự thư giãn bằng cách tắt ti-vi, tắt điện thoại, rồi đọc một cuốn sách hay hoặc nghe nhạc, nếu có khả năng thì viết lách hoặc sáng tác (văn, thơ, nhạc, họa,…).

Làm sao sống viên mãn đời sống tâm linh?  Hãy thử áp dụng gợi ý dưới đây:

1. Tìm kiếm cảm hứng. Đọc sách báo, nhất là Kinh Thánh, bạn sẽ cảm nhận được các triết lý của cuộc sống.  Hãy cố gắng nối kết với người khác, nhất là những người có cách sống khiến bạn khâm phục.  Đọc sách là nối kết với những người giỏi, đọc Kinh Thánh là nối kết với Thiên Chúa, đọc hạnh các thánh là nối kết với các thánh.  Đừng ngại hỏi người khác về cách sống tâm linh.

2. Suy nghĩ tích cực. Ngay trong lúc khó khăn, hãy cố gắng suy nghĩ tích cực, tìm cái tốt ở người khác và ở chính mình.  Nghiên cứu cho thấy rằng những người suy nghĩ tích cực không chỉ sống hạnh phúc hơn, mà còn dễ tránh được sự căng thẳng và bệnh tật.  Hãy cố gắng tập trung vào những điều tích cực để tìm ra cách giải quyết vấn đề – như nói chuyện với người uy tín, người đáng tin cậy.

Đừng quên lời Chúa Giêsu mời gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.  Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.  Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng.  Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11:28-30).

Trầm Thiên Thu chuyển ngữ từ beliefnet.com

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi