Nhìn Lại CCRĐ Miền Bắc Và Cải Cách Điền Địa Miền Nam

Nhìn Lại CCRĐ Miền Bắc Và Cải Cách Điền Địa Miền Nam

Share on facebook

Bao giờ tội chống nhân loại của Hồ Chí Minh và tập đoàn cầm quyền cộng sản Hà Nội được đem ra xét xử? (*)

blank

Bảng điều tra ruộng đất.
Cải cách ruộng đất. Ảnh tư liệu từ Google

Chiến tranh chống thực dân pháp giành độc lập kết thúc bằng Hiệp định đình chiến ký kết ngày 20 tháng 7 năm 1954 tại Genève chia Việt nam làm hai Miền riêng biệt. Miền Bắc theo chế độ cộng sản dưới quốc hiệu Việt nam Dân chủ Cộng hòa. Miền Nam đứng về phía thế giới tự do.

Ngày 23 tháng 10 năm 1955, một cuộc trưng cầu dân ý đã được tổ chức tại Miền Nam và kết quả đã đưa tới truất phế Vua Bảo Đại. Triều đại Nhà Nguyễn thật sự chấm dứt. Hiến pháp 26 tháng 10 năm 1956 tấn phong ông Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống Miền Nam và thành lập nước Việt Nam Cộng hòa thay vì tổ chức bầu cử như Hiến pháp qui định.

Chín năm chiến tranh giải thực kết thúc, hòa bình trên 2 miền Nam Bắc được tái lập. Chánh quyền 2 Miền đều dồn nổ lực tái thiết đất nước theo đường lối riêng của mỗi chế độ chánh trị. Phát triển kinh tế là ưu tiên mà Chánh sách về Ruộng đất là quan trọng vì Việt Nam vốn là xứ nông nghiệp. Ruộng đất nuôi sống gần 80% dân Việt Nam. Có một Chánh sách Ruộng đất tốt, hài hòa, hợp lý là thiết yếu để xóa bỏ những bất công xã hội do chế độ thực dân tạo ra từ khi Việt nam bị đô hộ.

Ở Miền Bắc, Hồ chí Minh thực hiện chánh sách về ruộng đất gọi là “Cải cách Ruộng đất” còn ở trong Miền nam gọi là “Cải cách Điền địa”.

Chúng ta thử nhìn lại và so sánh hai chánh sách về đất đai của hai Miền, nêu lên những đặc tính và mục tiêu của chánh sách ấy.

I – Cải cách Ruộng đất ở Miền Bắc

1 – Tình hình mới, nhiệm vụ mới

Năm 1950, Hồ Chí Minh qua Nga, yết kiến Staline với sự hiện diện của Mao-trạch-đông. Staline chỉ ông 2 cái ghế và nói “đây là ghế địa chủ, đây là ghế nông dân. Ông chọn ngồi vào ghế nào?”

Trở về nước, Hồ Chí Minh không thuật lại với cán bô nồng cốt của ông là ông đã chọn chiếc ghế nào mà chuẩn bị ngay việc thực hiện cải cách ruộng đất bắt đầu bằng chuẩn bị tư tưởng cán bộ đảng viên để trong công tác, cán bộ sẽ không bị giao động. Ông đưa ra nhận xét tình hình thế giới thuận lợi. Mao-trạch-đông thắng lợi ở Tàu và thiết lập xong chế độ cộng sản trên cả nước. Cách mạng việt nam đang trên đà thắng lợi. Duy còn khó khăn nhỏ là Mỹ giúp thực dân pháp đánh phá đoàn kết dân tộc. Muốn thắng lợi hoàn toàn, ta phải cùng với nhân dân thực hiện một chế độ dân chủ nhân dân, tăng cường đoàn kết toàn dân, liên kết chặt chẽ với phe xã hội chủ nghĩa.

Cuối năm 1952, Hồ Chí Minh cho tiến hành cải cách ruộng đất ở những vùng tạm chiếm như Thái nguyên, Thanh hóa, … Nhiều cuộc hành huyết địa chủ bắt đầu trước ở Thanh hóa đã làm kinh hoàng dân chúng, lan rộng đến những vùng “giải phóng” khác. Kịp gần đến ngày ký Hiệp định Genève, Hồ Chí Minh muốn tránh bị dân chúng bỏ chạy vào Nam vì sợ hải nên cho lệnh tạm ngưng.

Thật ra, kế hoặch chuẩn bị tư tưởng, Hồ chí Minh đã cho tiến hành từ lâu. Trước nhất là chính huấn hay đấu chính trị. Từ 1946 -1949 là chiến dịch phản đế, với khẩu hiệu “Tổ quốc trên hết”, kêu gọi đoàn kết toàn dân gồm trí thức, tư sản, địa chủ, tôn trọng tư hữu, chỉ nhằm xóa bỏ ảnh hưởng văn hóa pháp biểu hiện qua tư tưởng lản mạn, cá nhân chủ nghĩa. Mục đích duy nhứt là chống thực dân pháp giành độc lập. Hồ Chí Minh giải tán đảng cộng sản đông dương, thành lập Mặt trận Việt Minh. Giai đoạn kế tiếp 1950-1956 dành cho chiến dịch phản phong đả phá tư tưởng phong kiến nặng về tư hữu, nhứt là sở hữu ruộng đất, trật tự xã hội, giá trị đạo lý cổ truyền để đề cao và thuyết phục chánh sách Cải cách Ruộng đất sẽ phát động là đúng, là tốt, ích lợi cho nông dân để mọi người phải chấp nhận. Phản phong được thực hiện với khẩu hiệu “ đưa phản phong lên ngang hàng với phản đế ”, đồng thời Hồ Chí Minh cho tổ chức đảng Lao động thay thế đảng cộng sản.

Phản phong khi được phát động, dân chúng đều hiểu đó là bài trừ những phần tử phong kiến trong đảng hoặc giới quan lại trong Chánh quyền cũ. Thật ra, phản phong là tiêu diệt địa chủ, điều này chỉ có cán bộ học tập ở bên Tàu về để thi hành Cải cách Ruộng đất mới hiểu, nhưng phải tuyệt đối giử kín. Khóa chính huấn đầu tiên khai giảng năm 1953 ở Miền bắc mới nói rỏ nội dung khẩu hiệu “phản phong” là đánh địa chủ, tịch thu toàn bộ tài sản của địa chủ chia cho bần cố nông, tức “Cải cách Ruộng đất”.

Sau phản phong đến chiến dịch bài trừ tư tưởng tư sản, tự do kinh doanh, tư tưởng dân chủ tư bản tây phương. Tiếp theo, từ năm 1959, sau khi sửa sai vì xem như Cải cách Ruộng đất đã thật sự hoàn tất, Hồ chí Minh cho áp dụng chánh sách triệt để hơn, dẹp bỏ hẳn tư tưởng tiểu tư sản, mọi hình thức sản xuất cá thể, xử lý những thành phần chưa chịu vào hợp tác xã, giử đầu óc muốn làm giàu riêng. Bần cố nông vừa nhận ruộng đất do Cải cách Ruộng đất cấp phát, nay lại phải đem nộp cho Hợp tác xã và hằng ngày làm việc theo tiếng kẻng của cán bộ, lảnh lương theo số công do cán bộ chấm. Đây là lúc ” lao động tùy sức, hưởng thụ tùy khả năng ”

2 – Phóng tay phát động quân chúng

Bộ máy tuyên truyền của cộng sản giải thích ” Cải cách Ruộng đất long trời lở đất không do đảng và Nhà nước, mà do nông dân làm ”. Để bắt đầu, Hồ Chí Minh cho tiến hành trước 2 chiến dịch: thu thuế nông nghiệp và đấu tranh chánh trị.

Áp dụng thuế nông nghiệp là lặp lại rặp khuôn theo Tàu đã làm từ 2 năm trước nhằm bần cùng hóa xã hội Việt Nam, biến nông dân trở thành bần cố nông. Thuế nông nghiệp là 1 trong 5 loại thuế: thuế nông nghiệp, công thương nghiệp, sát sanh, lâm thổ sản, xuất nhập cảng – Thuế xuất nhập cảng là để khôi hài.

– Thuế nông nghiệp – Riêng về thuế nông nghiệp, chúng ta thử nhìn lại sơ lược để có ý niệm cụ thể nông dân bị phá sản. Thuế sẽ đánh 5% trên 100 kg lúa, 45% cho 1000 kg lúa trở lên, tối đa là 64%. Thêm vào đó, nông dân trả phụ thu cho đảng 15%. Cả 2 thứ thuế phải nộp một lần, cho đảng và Nhà nước Việt nam dân chủ Cộng hòa và một phần gởi cho Kominforme làm nghĩa vụ quốc tế.

Thử làm bài toán để biết nông dân nộp bao nhiêu mồ hôi nước mắt cho thuế nông nghiệp.Chúng ta lấy 1000 kg lúa. Thuế lấy 45% là 450 kg. Trên số này, nông dân bị trừ 15% thuế phụ thu là 67,5 kg. Nông dân phải nộp thuế nông nghiệp cho 1000 kg lúa thu hoặch được là 517, 30kg. Nếu chủ ruộng không trực tiếp canh tác phải nộp thêm 25% phụ thu nữa.

Diện tích ruộng canh tác và số lúa thu hoặch phải do nông dân bình. Về diện tích ruộng, không căn cứ theo địa bạ lưu giữ. Nông dân bình thường được kích lên, tức bình dọc, bình ngang về diện tích canh tác để qui ra số lúa phải gặt được để trả thuế.

Còn thuế công thương nghiệp chỉ có 28% trên lợi tức, nhưng cũng phải do nhân dân bình theo cùng qui cách dọc và ngang.

Tố Hữu, nhà thơ của đảng, được thưởng huy chương Sao Vàng Hồ Chí Minh, cổ vũ chiến dịch thu thuế trong Cải cách Ruộng đất:

“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
Cho đảng bền lâu,cùng rập bước chung lòng,
Thờ Mao chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt”.

Tố Hữu

– Đấu chánh trị – Đấu tranh chánh trị là nhằm thủ tiêu tất cả phần tử bị xem là phản động. Lúc bấy giờ, dân chúng ai chống Việt minh thì hoặc bị giết hoặc phải bỏ đi ra Thành phố sanh sống. Chỉ còn lại những người lưng chừng. Mà lưng chừng là phản động.

Bây giờ, chúng ta thử tìm hiểu thực chất của « đấu tranh chánh trị » diển ra liền sau thuế nông nghiệp.

Lợi dụng trong lúc dân chúng còn đang điêu đứng vì thiếu thuế, cán bộ cho tập họp để giải quyết trường hợp còn thiếu thuế. Sự thật là nhằm tiêu diệt những thành phần bị ghi vào danh sách cần phải thanh toán.

Phòng họp trang bị đầy đủ dụng cụ tra tấn. Cán bộ chủ tịch xã kêu gọi một người thiếu thuế hỏi: “ Có phải thằng X xuôi mày không nộp thuế không ? ” Tra tấn cho đến khi nào người này gật đầu để tên X bị bắt.

Đến phiên tên X bị tra tấn: “ Mày ở trong tổ chức phản động nào ? Phải trong đó có tên Y không ? ” Người bị tra tấn vì đau đớn khai bừa “ Tôi ở trong đảng Bảo Đại, cả đảng Cộng sản nữa ”. Nhưng nạn nhơn vẫn bị tra tấn tiếp cho đến khi nào chịu nói ra tên người đã được cán bộ mớm trước.

Lúc đầu còn nhớ tên người được dặn trước phải khai, sau mất tinh thần, nhớ đâu khai đó. Có người khai cả tên cán bộ chủ tọa phiên đấu chánh trị. Đến đây, đảng cộng sản nhận thấy nếu kéo dài sẽ gây ảnh hưởng xấu cho đảng, làm mất lòng tin của nhân dân đối với đảng, Chánh phủ. Đảng cộng sản bèn cho tổ chức Tòa án nhân dân xét xử phản động bắt được trong chiến dịch đấu chánh trị để xác nhận là thật sự có địch trong nông thôn và mặt khác, đề cao quần chúng là những người luôn luôn sáng suốt, như Mao-trạch-đông dạy. Trong quá trình đấu chánh trị, nếu có vài trường hợp phạm sai lầm nhưng phải thấy chủ trương là đúng:

”…Địa hào, đối lập ra tro
Lưng chừng, phản động đến giờ tan xương
Thắp đuốc cho sáng khắp đường,
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quì gục xuống, đọa đày chết thôi”

Xuân Diệu

– Quần chúng phóng tay – Còn Cải cách Ruộng đất thật sự được tiến hành làm 2 đợt: giảm tô và cải cách. Cải cách Ruộng đất diển tiến long trời lở đất này đã được nói nhiều với đầy đủ chi tiết nên thiết tưởng không cần lập lại thêm nữa. Duy có con số tử vong chính xác của nạn nhân chưa được xác nhân. Ngày nay, theo báo cáo chánh thức của Viện thống kê Hà nội***, số tử vong là 172 008 người trong đó có 70 % bị chết oan ức bao gồm những tiểu địa chủ bị kích lên cho đủ 5 % theo tiêu chuẩn của Trung quốc qui định, cả những cán bộ đảng viên đi theo kháng chiến chống thực dân vì lòng yêu nước tinh ròng không cộng sản. Nhưng con số tử vong thật sự phải cao hơn. Nhiều người từng sống trong giai đoạn Cải cách Ruông đất, như nhà báo Bùi Tín, cựu Phó Tổng biên tập nhật báo Nhân Dân, cho biết, theo ước tính, con số nạn nhân ít nhất phải lên đến nửa triệu bao gồm nạn nhân bị hành huyết độc đoán tại hiện trường qua quyết định của Tòa án nhân dân và những người không bị hành huyết hoặc gia đình, thân nhân của nạn nhân. Những người này bị đuổi ra khỏi nhà, tài sản bị tịch thâu, không có quyền làm việc, bị mọi người xa lánh vì sợ bị liên lụy với giai cấp địa chủ, lần lược chết vì đói rét, bịnh tật do chế độ quản lý hộ khẩu. Trong số nạn nhân này có ít nhất 40 000 đảng viên. Cải cách ruộng đất, theo Mao-trạch-đông dạy, phải bộc lộ sự tàn ác càng rùng rợn thì thành công càng lớn.

Mỗi chiến dịch đều được chuẩn bị bằng khóa chính huấn dạy cán bộ học tập lòng yêu nước, tinh thần cách mạng, để cán bộ thi hành nắm vững đường lối, chánh sách đúng theo sách lược mao-trạch-đông. Toàn bộ các chiến dịch đều đã được thực hiện ở bên Tàu từ mấy năm trước, mệnh danh là “Chiến thuật mao-trạch-đông” vì Mao-trạch-đông tin rằng chiến thuật này có thể áp dụng ở các nước kém mở mang, cơ bản là kinh tế nông nghiệp, để thực hiện cuộc cách mạng vô sản. Vẫn theo Mao-trạch-đông, chỉ có giai cấp bần nông và cố nông là lực lượng mạnh nhất,sáng suốt nhất, có đủ khả năng lãnh đạo cuộc cách mạng vô sản đi đến thành công. Mà địa chủ là kẻ thù của nông dân. Chỉ có nông dân mới biết rỏ địa chủ nào là gian ác, và gian ác đến mức độ nào nên phải phóng tay phát động quần chúng tố khổ và trị tội bọn địa chủ ác ôn. Đảng cộng sản chỉ giử nhiệm vụ hướng dẩn, không trực tiếp lãnh đạo.

Sửa sai vì Cải cách Ruộng đất đã thành công nên cần bình thường hóa tình hình nông thôn, chuẩn bị đưa sản xuất vào chế độ tập thể hóa, tiến hành xây dựng chế độ chuyên chính vô sản.

Từ năm 1951, theo nhà báo Bùi Tín, Hồ Chí Minh đã ngã hẳn theo Tàu, rặp khuôn theo đường lối mao-trạch-đông.

Trong một buổi tường trình chuyến thăm viếng Staline hồi năm 1950 với cán bộ lãnh đạo đảng khi ông về nước, Hồ Chí minh không nói rõ ông đã chọn “ghế nông dân hay ghế địa chủ” để trả lời Staline mà chỉ nhấn mạnh: “ chúng ta làm Cải cách Ruộng đất phải học tập kinh nghiệm Trung quốc ”. Ông dạy cán bộ đảng viên “ Đế quốc là con hổ, địa chủ là bụi rậm hổ ẩn núp. Muốn đánh hổ phải tiêu diệt bụi rậm ”.

Không riêng gì về Cải cách Ruộng đất, Hồ Chí Minh mới học kinh nghiệm Trung quốc, mà cả các nghành khác, Hồ Chí Minh cũng chủ trương học tập rặp khuôn theo mô hình trung quốc như về giáo dục, sản xuất, kinh tế nghiên về kỷ nghệ nặng, …để “nhảy vọt” theo. Ông viết quyển “ Những kinh nghiệm quí báu Trung quốc nên học ” dưới bút danh Trần Lực, do nhà Sự Thật, Hà nội, xuất bản năm 1950, để làm tài liệu cho cán bộ học tập.

II – Cải cách Điền địa ở Miền Nam

Ở trong miền Nam, không nói Cải cách Ruộng đất mà nói ” Cải cách Điền địa “. Trong 20 năm, từ 1955-1975, Miền nam tiến hành 2 cuộc Cải cách Điền địa. Không kể một cuộc Cải cách Điền địa do Cựu Hoàng Bảo Đại ban hành năm 1949, nhưng không thành công. Ruộng đất vừa được phân phối xong thì liền bị Việt Minh tịch thâu, hoặc Việt Minh ngăn cấm nông dân nhận ruộng hoặc làm ruộng. Mật khác, chiến tranh không cho phép nông dân sanh sống trên phần đất của mình, phải tảng cư.

Cải cách Điền địa ở Miền Nam thực hiện từ khi Tổng thống Ngô Đình Diệm nắm quyền bằng Dụ số 57 ngày 22 tháng 10 năm 1956. Chánh sách điền địa thêm một lần nữa được Tổng thống Nguyễn văn Thiệu tiếp nối rốt ráo hơn bằng Đạo luật số 003/70 ngày 23 tháng 03 năm 1970, dưới tên gọi mới là ” Luật Người Cày Có Ruộng”.

1 Cải cách điền địa – Ông Ngô Đình Diệm, ngày 7 tháng 7 năm 1955, được bổ nhiệm làm Thủ tướng Chánh phủ. Ở chức vụ Thủ tướng Chánh phủ, ông ban hành 2 Dụ, số 2 và số 7 năm 1955, liên quan đến vấn đề thuê ruộng vì từ trước, ở Việt Nam, việc thuê ruộng không có giấy tờ hợp đồng giửa người thuê mướn và chủ ruộng nên thường chủ ruộng lấn ép làm thiệt hại quyền lợi của người thuê. Giá thuê ruộng từ 40% đến 60%, tùy theo ruộng tốt xấu, trên số lúa thu hoạch. Luật về thuê ruộng qui định lại rỏ qui chế tá điền. Từ nay:

– giá thuê ruộng từ 10 đến 15% trên số lúa thu hoặch cho ruộng làm 1 mùa / năm;

– giá thuê từ 15 đến 25% cho mùa gặt chánh của ruộng 2 mùa / năm.

Thời hạn hợp đồng là 5 năm, có tái ký. Tá điền có quyền trả ruộng và phải báo trước chủ ruộng 6 tháng. Chủ ruộng muốn lấy ruộng lại phải báo trước tá điền 3 năm.

Vì chiến tranh nhiều người bỏ ra thành thị sanh sống nên số ruộng bỏ hoang tính ra lên đến 500 000 mẩu tây. Trong thời gian Chánh phủ cho kiểm kê, nếu chủ ruộng vẫn vắng mặt, số ruộng này bị trưng thu để cấp phát cho tá điền.

Sau khi lên làm Tổng thống, Ngô Đình Diệm ban hành Dụ số 57 ngày 22 tháng 10 năm 1956 qui định Chánh sách Cải cách Điền địa theo đó, điền chủ có quyền giữ cho mỗi người 100 mẩu đất, phải canh tác 30%, số còn lại cho mướn theo điều kiện luật hợp đồng đã ban hành.

Ruộng truất hữu, chủ ruộng được bồi thường theo giá ruộng, 10% bằng tiền mặt, 90% trả bằng trái phiếu với lãi xuất 3% / năm. Người giữ trái phiếu có quyền sử dụng trong các dịch vụ như trao đổi, kinh doanh, mua bán, …

Ruộng truất hữu bán lại cho tá điền trả góp trong 12 năm vốn và lãi xuất 3% như đối với điền chủ củ.

Có lối 1035 điền chủ bị truất hữu vì mỗi người có trên 100 mẩu. Diện tích ruộng truất hữu là 430 319 mẫu, tính thêm 220 813 mẫu của pháp kiều. Năm 1958, tổng số ruộng truất hữu là 651 132 mẫu.

Số tá điền trở thành điền chủ từ năm 1957-1963 là 123 193 người. Ngoài ra còn 2857 người mua trực tiếp từ chủ ruộng, nâng con số điền chủ – mỗi người có tối thiểu 5 mẫu – lên 126 050 người. Và số ruộng mua riêng này là 252 213 mẫu.

Chánh sách Cải cách Điền địa ở trong Nam làm cho chủ ruộng và tá điền đều hài lòng. Số ruộng đất bị Việt Minh trước đây tịch thu phát cho tá điền vì chủ ruộng vắng mặt, nay Chánh quyền đem trả lại cho chủ và bồi hoàn tiền nếu bị truất hữu.

2 – Dinh Điền và Khu Trù mật

Tiếp theo Chánh sách Cải cách Điền địa, Chánh quyền Đệ I Cộng Hòa ban hành Chánh sách Dinh Diền và Khu Trù mật. Huê kỳ, Pháp và Tổ chức Y Tế Quốc tế giúp thực hiện Chương trình này. Chỉ trong vòng từ 1957-1961, Chánh phủ thành lập được 169 Trung tâm định cư đồng bào di cư trong đó có 25 Khu Trù mật, tập trung ở vùng đồng bằng sông Cữu long. Dinh Điền phục hồi hoặc khai thác những vùng đất bị bỏ hoang hoặc đất mới khai phá, đem lại cho đồng bào 109 379 mẫu, nuôi sống 50 000 gia đình gồm 250 400 người.

Khu Trù mật là nơi tập trung dân sống hẻo lánh, thiếu phương tiện cần thiết cho đời sống như chợ búa, trường học, trạm xá y tế, điện, nước, …Mỗi Khu Trù mật gồm từ 3000 đến 3500 người.

Một ngân hàng nông thôn, Quốc Gia nông tín cuộc, đưọc thành lập để yểm trợ Chương trình Dinh Điền và Khu Trù mật bằng cách cho vay với lãi xuất nhẹ.

Cải cách Điền Địa, Dinh Diền và Khu Trù mật đã biến 176 130 gia đình nông dân nghèo trở thành chủ ruộng đất từ ít nhất 1 mẫu trở lên.

Sản xuất ở các Khu Trù mật dần dần vượt qua khuôn khổ địa phương nhỏ hẹp để trao đổi trên qui mô vùng.

Trưóc đời sống an lành của người dân, cộng sản bám trụ ở lại sau Hiệp định Genève xuất hiện và phản ứng thô bạo. Họ ngăn cấm dân mua ruộng truất hữu, cấm ký hợp đồng thuê ruộng, hủy bỏ địa tô, ám sát nhân viên Chánh quyền ở nông thôn như nhân viên Ngân hàng, Y tế, Giáo dục, …

Còn lại hơn 400 ngàn mẫu đất đã truất hữu để tư hữu hóa cho nông dân, nhưng bị áp lực khủng bố của cộng sản phải bỏ hoang. Từ đây, năm 1958, cộng sản Hà nội bắt đầu dựng lên cuôc chiến trong Miền Nam.

III – Cải cách Điền địa và Luật Người Cày Có Ruộng

Tổng thống Nguyễn văn Thiệu thực hiện Cải cách Điền địa bằng 2 giai đoạn: áp dụng luật cũ 57 và ban hành thêm Luật Người Cày Có Ruộng.

1 – Từ năm 1967-1970, ông Thiệu cho tiếp tục áp dụng Luật Cải cách Điền địa cũ của thời Đệ nhất Cộng hòa. Sau vụ Việt cộng tổng công kích Mậu thân thất bại, nông thôn trở lại có an ninh. Số ruộng trước đây bị bỏ hoang nay đem cấp phát cho nông dân. Từ 1967 đến 1969, cò thêm 261 874 gia đình dược cấp ruộng để canh tác, nâng tổng số tá điền trở thành chủ điền lên 438 004 người, vị chi 48% nông dân nghèo.

2 – Phát triển kinh tế nông nghiệp. Chánh quyền cho tổ chức lại ngân hàng nông thôn Nhà nước, đồng thời ngân hàng nông thôn tư cũng ra đời để kịp đáp ứng nhu cầu phát triển. Bộ Canh nông nghiên cứu tạo giống lúa mới, khuyến khích khuếch trương nghành chăn nuôi gia súc.

Chánh quyền tuyển dụng thanh niên đào tạo cán bộ xây dựng nông thôn gởi về vùng quê để hướng dẩn, giúp đở kỷ thuật cho nông dân trong sanh hoạt hằng ngày,…

3 – Luật Người Cày Có Ruộng. Ngày 26 thánh 03 năm 1970, Luật Người Cày Có Ruộng ban hành, áp dụng cho mọi thành phần điền chủ. Luật Người Cày có Ruộng khác với Luật 57 thời Đệ nhất Cộng hòa. Điền chủ tự làm ruộng của mình, nhưng số ruộng quá 15 mẫu, bị truất hữu. Trong vòng 3 năm, 1970-1973, có 51 695 điền chủ bị truất hữu tổng số ruộng là 770 145 mẫu, được chia ra như sau:

– 22 560 điền chủ nhỏ với 61 634 mẫu truất hữu;

– 16 449 trung điền chủ, với 158 110 mẫu truất hữu;

– 12 695 đại điền chủ, với 550 401 mẫu truất hữu.

Luật Người Cày Có Ruộng chi phối số điền chủ có 15 mẫu trở lên. Thành phần điền chủ này chiếm 56% tổng số điền chủ, với 91, 9 % của tổng số diện tích ruộng bị truất hữu.

Ruộng bị truất hữu được bồi thường 20% tiền mặt, còn lại 80% trả bằng trái phiếu, lời 10% / năm trong 8 năm.

Tiêu chuẩn cấp phát ruông truất hữu: 3 mẫu cho Miền Nam, 1 mẫu cho Miền Cao nguyên và Miền Trung.

Ruộng hương hỏa và của tôn giáo không bị chi phối bỡi Luật Người Cày Có Ruộng.

Trước khi Hà nội hợp tác hóa đất đai sau Cải cách Ruộng đất, cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Miền Nam chỉ gồm tiểu điền chủ có từ 0, 10 – 5 mẫu và trung điền chủ có trên 5 mẫu ruộng trở lên. Giới đại điền chủ hầu như không còn nữa.

Nông dân bắt đầu trang bị cơ giới để canh tác, nhập cảng phân bón, cải tiến giống lúa, tăng gia sản xuất gia súc,…

IV – Ruộng đất dưới thời quân chủ

Dưới thời quân chủ việt nam, ruộng đất là sở hữu tối thượng của nhà vua. Nhưng trên thực tế, nhà vua đem ruộng đât phân phối cho dân nghèo để cày cấy sanh sống và nộp thuế. Khi cần, nhà vua có thể thu hồi và bồi hoàn cho người đang canh tác.

Việt nam có chế độ quân chủ và kéo dài cho đến ngày 25 tháng 08 năm 1945, vua Bảo Đại thoái vị, nhưng Việt Nam tuyệt nhiên không có chế độ phong kiến. Trái lại ở Tàu và Âu châu, có chế độ phong kiến, với quân đội riêng, luật pháp riêng, tài chánh riêng.

Sở hữu ruộng đất ở việt nam không quá bất bình đẳng như ở nhiều nơi khác. Trước Thế chiến II, theo kết quả điều tra của nhà kinh tế học Yves Henri công bố năm 1932, ruông đất ở Việt nam được phân phối như sau (hình).

Tàu trước khi bị cộng sản Mao-trạch-đông cai trị là một nước độc lập nên địa chủ được Chánh quyền bảo vệ. Trái lại, Việt Nam là nước bị thực dân pháp đô hộ nên địa chủ cũng là nạn nhân của Chánh quyền thực dân. Do đó, họ phần đông đứng lên tham gia chống Tây giành độc lập. Chình lớp người này, có học khá, mới thật sự là những ngưới ái quốc. Họ chẳng cần biết cộng sản là cái gì nên sau đó họ mới kẹt trong gọng kèm của cộng sản.

Từ thời nhà Hồ, quyền sở hữu ruộng đất đã được giới hạn cho hợp lý. Qua nhà Lê Thái Tổ, chế độ ruộng đất tiếp tục vẫn giử theo đây.

Nhà vua cấp phát cho các pháp nhân như làng xã, Hội hè, Tổ chức, …một khoảnh đất để làm của chung khai thác lấy lợi tức trang trải chi phí sanh hoạt. Các đồn điền khi hoàn tất, được nhà vua đem phân phối cho xã thôn nhưng không được phép bán. Trừ trường hợp bất khả khán.

Ruộng cấp cho dân chúng thì cứ 3 năm / lần, tái cứu xét gia hạn. Ngoài ra còn có những loại công điền khác dành cấp phát cho những trường hợp đặc biệt như: trợ sưu điền giúp dân nghèo đóng thuế, học điền, giúp học trò nghèo đi học, cô nhi quả phụ điền, giúp cô nhi quả phụ và hậu điền là ruộng của người chết không có con cháu thừa hưởng đem hiến cho chùa, đình,…

Nhờ chế độ quân phân đất đai mà xã hội việt nam ngày xưa được an bình hơn nhiều nơi khác lúc bấy giờ.

V – Việt Nam có thật sự cần Cải cách Ruộng đất không?

Ở Bắc và Trung, ruộng đất không tập trung quá nhiều vào tay một số người nhờ chế độ quân phân tài sản nên không có nhiều đại điền chủ. Trong lúc đó, ở trong Nam, vùng đất mới, kịp lúc Tây đến chiếm, nên có những người biết cách làm giàu với vài ngàn mẫu ruộng trở lên. Nhưng số đại điền chủ này không phải nhiều. Nhìn chung, chế độ ruộng đất ở việt nam từ thời quân chủ không quá bất bình đẳng.

Về mặt quan chức, dưới thời quân chủ, người dân bình thường đều có quyền đi học và đi học không tốn kém. Khi thi đậu được nhà vua tuyện dụng làm quan. Tuy chịu ảnh hưởng văn hóa tàu, quan chức việt nam xuất thân từ thứ dân và khoa cử nên thường giữ nếp sống thanh liêm làm mẫu mực. Không có thứ quan phiệt vì ảnh hưởng lâu đời phong kiền như ở Tàu, nên cũng không có lớp cường hào ác bá ở địa phương xa, xách nhiễu thường xuyên dân chúng.

Khi Pháp đến cai trị, một lớp tân học Việt Nam hấp thụ tinh thần khoa học và khai phóng khá đông làm mới xã hội Việt Nam. Hiện tượng mới này không phổ biến ở Tàu.

Trước thực tế xã hội Việt Nam như vậy, thử nghĩ có cần thiết phải làm cuộc Cải cách Ruộng đất long trời lở đất hay không?

Hồ Chí Minh làm cuộc cải cách ruộng đất ở Miến Bắc từ năm 1953 không nhằm quân phân ruộng đât phục vụ nông dân, mà thực chất là nhằm tiêu diệt một thành phần quan trọng cũa xã hội, trong đó có cả đảng viên cộng sản gia nhập thời kháng chiến vì yêu nước, để thanh lọc xã hội, chuẩn bị cuộc cách mạng vô sản theo khuôn mẫu trung quốc. Do đó, Hồ Chí Minh đã “phóng tay phát động quần chúng nông dân đứng lên tố khổ và trị tội bọn địa chủ ác ôn. ”

(Xem “ Địa chủ ác ghê ”, tác giả CB, tức CỦA BÁC, trên nhựt báo Nhân Dân, đang phổ biến trên Internet). Đến khi nhận thấy cải cách ruộng đất đã đạt mục tiêu, Hồ Chí Minh ban hành lệnh Sửa sai, đưa Hồ Viết Thắng và Trường Chinh qua chức vụ khác, đẩy Võ Nguyên Giáp ra công khai nhận lỗi trước nhân dân. Hồ Chí Minh xuất hiện và khóc cho nạn nhân của ông, chủ yếu để bảo vệ uy tín của đảng cộng sản của ông. Có dư luận cho rằng Trường Chinh vì lãnh đạo cuộc Cải cách Ruộng đất chấp nhận để cha mẹ bị đấu tố như những địa chủ khác. Xin nói rõ: không đúng. Trước khi phát động chiến dịch, theo nhà báo Bùi Tín, “ Trường Chinh đã cho rước cha mẹ về Hà nội dấu một nơi an toàn ”. Lúc xử bắn Bà Năm, nhà tư sản, nhiệt tình giúp kháng chiến, có 3 người con trai là sĩ quan Qưân đội kháng chiến, Trường Chinh tham dự, mang mắt kiến đen, Hồ Chí Minh cải trang, dấu bộ râu cá chốt.

Nhưng đừng quên Cải cách Ruộng đất và Sửa sai là một chủ trương xuyên suốt theo chủ thuyết mao-trạch-đông đã áp dụng ở Tàu nhằm mục đích thật sự đẩy nông dân tay đẩm máu để phải theo đảng cộng sản luôn, không thể cấu kết với địa chủ chống đảng cộng sản và, mặt khác, lột bỏ tinh thần tư hữu vốn nặng và ăn sâu lâu đời trong nảo trạng nông dân.

Thực tế, không gì khác hơn là đảng cộng sản cướp sạch đất đai của nông dân bằng khủng bố.

Ngày nay, đảng cộng sản hà nội vì không còn khả năng và ý chí làm cách mạng bằng bạo lực như trước nên bị nông dân trên cả nước đứng lên đòi đất đai đã bị đảng cướp từ trước giờ.

Thời cơ đang tới, hơn lúc nào hết, trước khi Việt nam có một chế độ dân chủ chính thống để truy tố đảng cộng sản ra trước công lý dân chủ, người nông dân từ Nam ra Bắc cần phải nắm chặt tay nhau, đứng lên đòi lại tài sản đã bị Đảng cộng sản cưỡng đoạt để tự mình làm lại cuộc Cải cách Ruộng đất cho chính mình.

© Nguyễn văn Trần

Ghi chú

* Ghi lại buổi nói chuyện về Cải Cách Ruộng đất với anh chị em “Đông Âu ” do Mạng Lười Dân chủ tổ chức tại Berlin, 2005.

** Tài liệu tham khảo:

Hoàng văn Chí, Từ Thực dân đến Cộng sản, Pall Mall Press, 1964, London

Pierre Brocheux, Hồ Chí Minh, từ nhà cách mạng đến thần tượng, Payot, 2003, Paris

Loạt bài về Cải cách Ruộng đất trên Đài Á châu tự do

Lâm Thanh Liêm, Chánh sách Ruộng Đất ỏ việt nam 1954-1995, Đường Mới, 1996, paris

Etudes Vietnamiennes ( tập san Nghiên cứu việt nam), ngoại ngữ, 1965, Hà nội, số 7

*** Phụ bản

KẾT QUẢ TAI HẠI

Khi nhận viện trợ kinh tế và quân sự của Trung Quốc, đảng CSVN phải thi hành chính sách “cải tạo xã hội chủ nghĩa” rập khuôn theo kiểu mẫu của Trung Quốc, điển hình nhất là chính sách cải cách ruộng đất.

Bộ “Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000”, tập 2, (giai đoạn 1955-1975) do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, cho biết cuộc Cải Cách Ruộng Đất đợt 5 (1955-1956) được thực hiện ở 3.563 xã, với khoảng 10 triệu dân. Tỷ lệ địa chủ được quy định trước là 5,68%. Các đội và các đoàn Cải Cách Ruộng Đất đều ra sức truy bức để cố đôn tỷ lệ địa chủ lên 5% như đã quy định. Như vậy tổng số người bị quy là “địa chủ” phải là trên 500.000 người. Cũng theo tài liệu này, có 172.008 người đã bị đấu tố, tức bị giết. Tuy nhiên, sau khi sửa sai và kiểm tra lại, Đảng và Nhà Nước nhận thấy trong số 172.008 nạn nhân của cuộc Cải Cách Ruộng Đất, có đến 123.266 người được coi là oan (chiếm đến 71,6%).

Sau đây là những con số cụ thể về các nạn nhân:

Địa chủ cường hào gian ác: 26.453 người, trong đó số được coi bị oan là 20.493 người (77,4%);

Địa chủ thường: 82.777 người, trong đó số được coi bị oan là 51.480 người (62,19%);

Địa chủ kháng chiến: 586 người, trong đó số được coi bị oan là 290 người (49,4%);

Phú nông: 62.192 người, trong đó số được coi bị oan là 51.003 người (82%).

Khi đảng CSVN không đi theo đường lối “cải tạo xã hội” của Mao Trạch Đông mà theo đường lối của Liên Sô, Trung Quốc đã “dạy cho Việt Nam một bài học”!

Lời bình của người không cộng sản và cộng sản phản tĩnh:

Qua các sự kiện lịch sử được công bố, các sử gia và các nhà phân tích đều đi đến kết luận rằng nếu năm 1945 đảng CSVN không đưa đất nước Việt Nam đi theo chủ nghĩa cộng sản, dùng dân tộc Việt Nam làm vật thí nghiệm cho một chủ nghĩa phiêu lưu, Việt Nam đã thoát khỏi một cuộc chiến kéo dài 30 năm với những hậu quả rất thảm khốc. Nếu không có đảng CSVN, nước Việt Nam đã có độc lập và tự do từ lâu rồi.

Triển lãm cải cách ruộng đất ở Hà Nội: Tuyên truyền phản tác dụng ?

Triển lãm cải cách ruộng đất ở Hà Nội: Tuyên truyền phản tác dụng ?(RFI)

Anh Vũ

Nông dân tập hợp phản đối trước triển lãm “Cải cách ruộng đất” – DR

Cuộc triển lãm đầu tiên về cải cách ruộng đất năm 1946-1957 do Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam thực hiện mở cửa từ ngày 08/09/2014 dự kiến kéo dài đến hết năm nay. Nhưng đến hôm 11/09 vừa qua, Bảo tàng Lịch sử bỗng thông báo tạm ngừng mở cửa vì “sự cố kỹ thuật”.

Mới qua bốn ngày mở cửa, cuộc triển lãm này đã gây sự thú hút nhiều chú ý của dư luận. Trên các trang mạng tại Việt Nam ngay lập tức xuất hiện hàng loạt các bình luận về nội dung, cách thức của cuộc trưng bày cũng như những bài viết lật lại quá khứ đau thương của các nạn nhân trong cuộc cải cách ruộng đất …

Dường như mục đích tuyên truyền nhằm ca ngợi thành tựu của Đảng, che đậy những sai lầm trong cuộc đấu tranh giai cấp đó đã trở nên phản tác dụng ? Phải chăng đó cũng là một yếu tố khiến cuộc trưng bày về Cải cách ruộng đất của Bảo tàng Lịch sử phải vỗi vã đóng cửa sau vài ngày hoạt động ? RFI phỏng vấn nhà văn blogger Nguyễn Tường Thụy tại Hà Nội.

 

Blogger Nguyễn Tường Thụy, Hà Nội 13/09/2014 écouter

Bà đừng khóc nữa (Lc.7, 11 – 17)

Bà đừng khóc nữa (Lc.7, 11 – 17)

Chuacuuthe.com

VRNs (16.09.2014) – Sài gòn- Lạy Chúa,

xin dạy con biết tìm đến chốn người chết,

chạm tay vào để cho họ hồi sinh,

Naim1

Lạy Chúa,

xin dạy con biết gặp kẻ ưu phiền,

đế nói với họ “Bà đừng khóc nữa”.

Lạy Chúa,

xin dạy con đến với người tuyệt vọng,

để trao vào tay họ niềm hy vọng tin yêu.

Vì Chúa đã đến thành Naim,

chạm tay vào cỗ quan tài kẻ chết,

cúi xuống trên người đàn bà oan nghiệt,

nói với bà lời an ủi thương yêu.

trao vào tay bà người con trai duy nhất,.

vừa hồi sinh từ cõi chết trở về.

Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, dcct.

Thứ Ba sau CN. XXIV TN.

CHUYỆN Ở ĐỜI

CHUYỆN Ở ĐỜI

Một con tàu du lịch gặp nạn trên biển, trên thuyền có một đôi vợ chồng rất khó khăn mới lên đến trước mũi thuyền cứu hộ, trên thuyền cứu hộ chỉ  còn thừa duy nhất 1 chỗ ngồi. Lúc này, ngườ  đàn ông để vợ mình ở lại, còn bản thân nhảy lên thuyền cứu hộ.

Người phụ nữ đứng trên con thuyền sắp chìm, hét lên với người đàn ông một câu…………..

Kể đến đây, thầy giáo hỏi học sinh: “Các em đoán xem, người phụ nữ sẽ hét lên câu gì?”
Tất cả học sinh phẫn nộ, nói rằng: “Em hận anh, em đã nhìn nhầm người rồi.”

Lúc này thầy giáo chú ý đến một cậu học sinh mãi vẫn không trả lời, liền hỏi cậu bé. Cậu học sinh nói: “Thầy ơi, em nghĩ người phụ nữ sẽ nói: Chăm sóc tốt con của chúng ta anh nhé!”

Thầy giáo ngạc nhiên hỏi: “Em nghe qua câu chuyện này rồi ư?”

Học sinh lắc đầu: “Chưa ạ, nhưng mà mẹ em trước khi mất cũng nói với bố em như vậy.”

Thầy giáo xúc động: “Trả lời rất đúng.”

Người đàn ông được cứu sống trở về quê hương, một mình nuôi con gái trưởng thành. Nhiều năm sau, anh ta mắc bệnh qua đời, người con gái lúc sắp xếp kỷ vật, phát hiện quyển nhật ký của bố. Hóa ra, lúc mẹ và bố ngồi trên chiếc tàu ấy, người mẹ đã mắc bệnh nan y, trong giây phút quyết định, người chồng đã dành lấy cơ hội sống duy nhất về phần mình. Trong nhật ký viết rằng : “Anh ước gì anh và em có thể cùng nhau chìm xuống đáy biển, nhưng anh không thể. Vì con gái chúng ta, anh chỉ có thể để em một mình ngủ giấc ngủ dài dưới đáy đại dương sâu thẳm. Anh xin lỗi.”

Kể xong câu chuyện, phòng học trở nên im ắng, các em học sinh đã hiểu được ý nghĩa câu chuyện này:

-Thiện và ác trên thế gian, có lúc lắm mối rối bời, khó lòng phân biệt, bởi vậy đừng nên dễ dàng nhận định người khác.

-Người thích chủ động thanh toán tiền, không phải bởi vì người ta dư dả, mà là người ta xem trọng tình bạn hơn tiền bạc.

-Trong công việc, người tình nguyện nhận nhiều việc về mình, không phải bởi vì người ta ngốc, mà là người ta hiểu được ý nghĩa trách nhiệm.

-Sau khi cãi nhau người xin lỗi trước, không phải bởi vì người ta sai, mà là người ta hiểu được trân trọng người bên cạnh mình.

-Người tình nguyện giúp đỡ người khác, không phải vì nợ người đó cái gì, mà là vì người ta xem người đó là bạn.

Nữ tu Miriam Baourdi Ả Rập sẽ sớm trở thành một vị thánh

Nữ tu Miriam Baourdi Ả Rập sẽ sớm trở thành một vị thánh

Chuacuuthe.com

VRNs (14.09.2014) -Sài Gòn- Được phong chân phước vào ngày 13 Tháng 11 năm 1983, do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, có đời sống khiêm tốn và bình dị đến phi thường, Chị Miriam Baourdi tiếp tục là một điểm tham chiếu cho các Kitô hữu tại Đất Thánh.

Theo Terrasanta, trong thánh lễ nhớ được tổ chức hôm 26.8 vừa qua, nhiều người đã đến Tu viện Cát Minh ở Bethlehem, nơi Chân phước sống để kỷ niệm và cầu nguyện trước các di tích và hình ảnh của nữ tu Ả Rập Bé nhỏ, người được Giáo hội tôn kính như biểu tượng của hòa bình.

Cộng đoàn Chị em thánh Anna cho biết: “Chị Miriam Baourdi là Chân phước Nhỏ bé của chúng tôi. Đối với chúng tôi, cô ấy là một biểu tượng đẹp, đặc biệt là khi các Kitô hữu ở Trung Đông đang sống giữa biển bạo lực. Cô là một Chân phước cũng đã từng trải qua những hình thức bạo lực như vậy, và cuộc đời cô là một phép lạ; cô đã được sự trợ giúp của Đức Maria. Đối với tất cả các Kitô hữu, cô ấy là một biểu tượng của phép lạ và là sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người, cho dù trong bạo lực.”

Sinh ngày 15 Tháng 1 năm 1846, tại thành phố Abelen ở Galilê, Miriam là con cầu con khẩn của bà Maria và ông Jorge Baourdy Chayin. Tại Bêlem, sau khi đi thăm nhà thờ Giáng Sinh và nhà thờ Milk Groto (Hang Sữa), đôi vợ chồng này đã cầu nguyện với Đức Mẹ để ban cho họ món quà là một người con gái. Phép lạ xảy ra và em bé sinh ra đã được đặt tên là Miriam để tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria.

Thánh lễ nhớ được giám mục của Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp Melkite, Đức Tổng Giám mục Joseph Jules Zerey chủ tế, cùng với đông đảo tín hữu tham dự.

Sau thánh lễ họ đã đến trước các di tích của Chân phước được trưng bày trong nhà thờ để cầu nguyện và tỏ lòng sùng kính. Hàng năm có hàng trăm khách hành hương đến viếng thăm nơi này.

Đức Giám mục Joseph Zerey nói rằng, “Thời điểm bạo lực khó khăn đang xảy ra này sẽ giúp chúng ta nên thánh. Tất nhiên điều này không dễ dàng gì và chúng ta cần ân sủng của Chúa Giêsu Kitô và ân ban của Chúa Thánh Thần. Tham dự thánh lễ kính nữ tu Chân phước Mariam của Chúa Giêsu chịu đóng đinh hôm nay là một hồng ân.”

Cha Abdu, linh mục Dòng Cát Minh cho biết, đời sống của Nữ tu Ả Rập Bé nhỏ là một ví dụ của sự thánh thiện trong một thế giới khao khát một chứng nhân đích thực. Cha không giấu giếm sự mong đợi của mình đối với việc tuyên thánh cho Chân phước trong tương lai.

Cha Abdu nói thêm, cuộc đời của nữ tu nhắc nhở chúng ta một thông điệp rằng việc sống thánh có thể được thực hiện ngay trong thời đại hôm nay”.

Pv. VRNs

Đức Giáo hoàng cảnh báo về Đệ Tam Thế Chiến

Đức Giáo hoàng cảnh báo về Đệ Tam Thế Chiến

Đức Giáo hoàng Phanxicô thăm nghĩa trang Áo-Hung tại Fogliano ở Redipuglia, 13/9/2014.

Đức Giáo hoàng Phanxicô thăm nghĩa trang Áo-Hung tại Fogliano ở Redipuglia, 13/9/2014.

13.09.2014

Đức Giáo hoàng Phanxicô nói rằng nhiều cuộc xung đột trên khắp thế giới ngày nay có thể được xem là một cuộc Thế chiến thứ Ba “từng phần”.

Phát biểu ngày hôm nay khi đến thăm một đài tưởng niệm ở Italia dành cho 100.000 binh sĩ thiệt mạng trong Thế chiến thứ Nhất, Đức Giáo hoàng mô tả Thế chiến thứ Ba này là một cuộc chiến tranh được tiến hành với “tội ác, giết người tập thể và phá hoại.”

Nhà lãnh đạo Tòa thánh Vatican đã liên tục kêu gọi trong thời gian qua cho việc chấm dứt những cuộc xung đột ở Ukraine, Iraq, Syria, Gaza và nhiều khu vực ở Phi châu.

Trong bài thuyết giảng tại thánh lễ hôm nay ở đài tưởng niệm Thế chiến thứ Nhất, Đức Giáo hoàng nói rằng “loài người cần khóc và đây chính là lúc để khóc.”

Ngài nói thêm rằng “chiến tranh là điên cuồng.”

Triển lãm CCRĐ: Khoét thêm vết thương để bao che tội ác? Phần II

Triển lãm CCRĐ: Khoét thêm vết thương để bao che tội ác? Phần II

J.B. Nguyễn Hữu Vinh, viết từ Hà Nội
2014-09-11

Nhao1.jpg

Nhà địa chủ và nhà nông dân

Photo by JB. NguyenHuuVinh

Thật ra, trước khi đến tham dự cuộc Triễn lãm này, hẳn nhiên là mọi người dân Việt Nam từ già đến trẻ không ai không ít nhất một vài lần trong đời đã được nghe, được nói đến sự rùng rợn, sự bất nhân trong cuộc CCRĐ đã từng xảy ra trên đất nước ta. Thế nên, việc người ta đến, để xem, để tham quan, tham dự không chỉ là việc xem nó ra sao, mà điều cơ bản là để xem thái độ nhìn nhận với những tội ác đã gây ra như thế nào.

Như trên đã nói, việc trưng bày hiện vật tại cuộc Triển lãm này, gợi nên một cuộc đấu tố mới, mà nạn nhân là oan hồn của hàng trăm ngàn người đã chết, đã điêu đứng, đã tán gia bại sản trong biến cố cả xã hội lên đồng cướp đoạt có tổ chức mang tên CCRĐ.

Những vật dụng đời thường của người dân xưa kia được mua sắm bằng sức lao động, trí tuệ và công sức mồ hôi, nước mắt của họ được đưa ra như những bằng chứng tố cáo họ đã “bóc lột người dân Việt Nam hết sức thậm tệ” mới có những thứ này. Đó là sập gụ, tủ chè, nồi đồng, áo quần đẹp.. bên cạnh người nông dân bị bóc lột là tấm áo vá chằng vá đụp, ngôi nhà tranh vách đất được tạo dựng lại. Nhìn những vật dụng này, nó gợi cho người xem lòng căm thù bọn bóc lột. Sự bóc lột đó ra sao? Đó là những chiếc thùng hai đáy, khi người vay đến đáy trên và khi trả thì phải trả đáy dưới. Thế là bóc lột, thế là ngồi mát, ăn bát vàng. Mặc dù việc vay, trả là thỏa thuận giữa người vay và người cho vay.

Thế nhưng, khi xem những hiện vật kia, những câu hỏi sau đây hiện ra cần lời đáp. Đó là vì sao, ngày xưa Đảng nhất định phải lãnh đạo nhân dân lật đổ địa chủ thống trị, cướp bóc, bắn giết họ và tiêu diệt họ?

Thunghaiday-400.jpg

Chiếc đấu hai đáy

Nếu những vật dụng như đang trưng bày kia đã nung nấu căm thù của người dân? Vậy thì ngày nay người dân sẽ xử lý thế nào với những cán bộ cộng sản đi những chiếc xe trị giá 3.000 con trâu? Những ngôi biệt thự giá hàng ngàn cây vàng mà cán bộ cộng sản “mượn” của dân nhưng không trả trong khi dân còn phải tự tử để lấy tiền phúng viếng cho con đi học?

Nếu vì những chiếc thùng hai đáy kia làm cho người dân khốn khổ. Thì nhân dân Việt Nam ngày nay cần phải làm gì khi họ nghiễm nhiên bị trấn lột từ phía nhà nước từ tiền viện phí, học phí, giá cả, xăng dầu, các loại thuế, phí từ cầu đường, cho đến nhà vệ sinh… và cả nghĩa địa. Thậm chí ngay cả nhà cửa đất đai cha ông họ đổ máu xương mới xây dựng lên được mà đảng thích áp đặt ra sao thì buộc người dân phải chịu như vậy, nếu không thì đã có… nhà tù và súng đạn?

Nếu người nông dân phải vùng lên lật đổ chính quyền phong kiến ngày xưa, vì quan lại sống trong những ngôi nhà đẹp đẽ trái ngược với những ngôi nhà đất xiêu vẹo, thì ngày nay, sau hơn hai phần ba thế kỷ theo sự lãnh đạo của đảng đi cướp phá giai cấp bóc lột, họ sẽ phải làm gì khi những đảng viên đang sống trong những biệt thự xa hoa, lộng lẫy? còn người dân sống trong những “đặc khu ổ chuột giữa Sài Gòn”, Hà Nội, thậm chí bị cướp mất đất đai nhà cửa khi phải lưu vong trên chính quê hương mình?

Phải chăng, tội lỗi của địa chủ, quan chức phong kiến ngày xưa là ở chỗ họ không biết cách có cô em nuôi cho tiền xây biệt thự lộng lẫy như Tổng Thanh tra Chính phủ, không biết cách dán hộp các tông ngoài giờ kiếm tiền mua nhà khủng như Thống đốc ngân hàng nhà nước Lê Đức Thúy, không biết cách trồng cao su xây biệt thự như Chủ tịch Bình Dương hoặc không biết đẻ con nhiều tiền để xây dinh cơ khổng lồ như Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương?

Thực chất, những địa chủ khi xưa, những quan lại phong kiến thời đó, họ chỉ thiếu và thua một điều: Họ không đủ khả năng và không có cơ hội để trơ trẽn và bất chấp liêm, sĩ, nhân cách như những đảng viên ưu tú kia của Đảng CS. Có lẽ, cái hạn chế của bọn đế quốc, phong kiến so với đạo đức, văn minh CS là chỗ đó, tức là đã không tạo ra được những cán bộ ưu tú như “Đảng ta”. Và kết cục là đã thua, “đảng ta” đã cướp được chính quyền từ họ.

Bên cạnh tôi, các nhà báo, đài truyền hình đua nhau phỏng vấn, ghi hình những người nói lên cảm xúc khi thăm triển lãm, ca ngợi cuộc CCRĐ vĩ đại. Một người đang “chém gió” hăng say trước máy quay truyền hình rằng: “Nhiều tác phẩm như Tắt Đèn, Kim Lân… nhưng bây giờ tôi mới thấy một chiếc áo nông dân vá chùm vá đụp…”. Tôi hỏi ông ta:

– Thưa ông, ông nghĩ gì cuộc CCRĐ để nhằm “đưa lại ruộng cày cho nhân dân”, giờ ruộng đất lại vào tay quan chức của nhà nước, của đảng. Vậy ông nghĩ gì và liệu có phải làm lại cuộc CCRĐ đó không?

Câu trả lời của ông ta là: Chính sách đất đai là sở hữu toàn dân, nhà nước quản lý, là nọ, là kia… nhưng ruộng đất bây giờ ai chiếm hữu thì… tôi không biết.

Nạn nhân ca ngợi thủ phạm và mơ ước tiếp tục CCRĐ

Với súng, đạn, sắt thép và nhà tù cùng với hệ thống loa tuyên truyền triền miên, dai dẳng mọi nơi mọi lúc, thật sự đảng CS đã làm được một điều kỳ diệu: Tẩy não người dân.

Cái gọi là Cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa của Cộng sản thành công đến mức các nạn nhân tự nguyên tung hô, ca ngợi thủ phạm. Đau đớn và xót xa cho thân phận những kẻ cả tin và mê muội đến tận cùng. Tôi đã từng nghe về những nạn nhân cho đến khi bị đảng chặt đầu vẫn hô vang “Hồ Chủ tịch muôn năm” hay “Đảng CS muôn năm” mà không thể nào tin nổi.

bacaidau-400.jpg

Ba cái đầu

Thế nhưng, đời lắm sự bất ngờ.

Trong phòng triển lãm, một ông già, ngực đeo mấy tấm huân chương tự xưng là con địa chủ, xúm quanh là các phóng viên truyền hình. Ông đang say sưa kể cho các phóng viên về truyền thống mấy đời yêu nước của nhà mình. Nào là ông cậu của bố ông là ông Hai Hiên, người làm đầu bếp đã đầu bỏ thuốc đầu độc cả Trung đoàn lính Pháp tại Hà Nội trong vụ Hà Thành đầu độc nổi tiếng trước đây và bị chặt đầu, còn ông thì đi bộ đội chiến đấu vì đảng, vì nước. Tôi hỏi ông:

– Bác cho biết, cuộc trưng bày này có ý nghĩa gì không? khi mà quan chức nhà nước giờ còn nhiều đất đai hơn cả địa chủ ngày xưa?

– Nếu bây giờ có CCRĐ, thì bác sẽ xung phong làm đao phủ để đi chém những thằng đã chiếm lại đất đai, tài sản của nhân dân, của những người nghèo. Hiện nay còn nhiều tầng lớp ăn trên ngồi trốc.

– Vì sao?

– Vì bây giờ nó bóc lột dân tợn quá.

– Bây giờ vẫn còn bóc lột sao?

– Bóc lột quá đi chứ.

– Xin hỏi bác thêm một câu: Vừa rồi, bác nói một câu là nhờ có “bác Hồ”. Vậy “bác Hồ” là người đứng đầu chính phủ lúc bấy giờ có chịu trách nhiệm gì về vấn đề này không? Hay mấy giọt nước mắt đó ông đã phủi hết trách nhiệm về tội ác của CCRĐ?

– Nói thế thì… hôm nay tôi không mang một tài liệu của Hoàng Tùng nói về việc này…

Vậy đấy, với những nạn nhân, họ vẫn luôn coi “bác Hồ” và đảng vô tội. Đó mới là thành công, mới là ngoạn mục.

Tò mò, tôi gặp lại ông sau triển lãm. Ông cho biết: Ông tên là Lê Đình Phúc, năm nay 73 tuổi. Bố ông là Lê Đình Hàm, một người có công với đảng và tuyệt đối tin tưởng “bác Hồ”. Thế nhưng, khi cơn bão CCRĐ do đảng CS đưa đến, lưỡi hái của đảng đã không chừa cả người bạn của đảng là bố ông. Ông Lê Đình Hàm bị bắn chết cùng một lúc với bà Nguyễn Thị Năm vào ngày 09/7/1953 tức là 29/5 âm lịch.

Điều mà ông tâm đắc là cho đến nay, là ngay khi bị bắn chết, bố ông vẫn hô to: “Hồ Chủ tịch muôn năm”, “Đảng Lao động VN muôn năm” và coi đó như hành động vẻ vang chứng tỏ sự vô tội của bố mình. Tiếc thay, dù đã hô thật to cả Đảng và “Bác” thì cái mạng cũng không thể bảo toàn. Nghe ông say sưa kể, tôi chợt nghĩ: Không rõ, nếu có “Bác” ở đó, thì liệu “bác” có cứu Cụ Lê Đình Hàm khỏi lưỡi hái của đảng hay không?

Và từ đó đến nay, ông đi khiếu nại từ trung ương đến địa phương, nhưng chưa có chỗ nào giải oan cho bố ông, ngoại trừ ông Trần Đức Lương cấp cho bố ông Huân Chương kháng chiến. Ông đưa tấm ảnh ba cái đầu đặt trên đất nói rằng: Đây là đầu của Hai Hiên, cậu bố ông đã bị Pháp giết man rợ khi đầu độc nhà bếp của chúng. Tôi buồn cười bảo:

Đầu độc giết cả trung đoàn của Pháp mà nó giết thì có man rợ bằng bây giờ dân không làm gì mà đưa vào đồn công an ra còn cái xác và được báo là tự tử không ông?

Ông ngẩn mặt nhìn tôi rồi nói: “Anh nói đúng, nhưng… thẳng thắn quá”.

Hà Nội, Ngày 10/9/2014

J.B Nguyễn Hữu Vinh

*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA.

iBook Cải Cách Ruộng Đất:

http://www.rfa.org/vietnamese/people_stories/land_reform-12022013161432.html

Chuyên đề Cải Cách Ruộng Đất:

http://www.rfa.org/vietnamese/SpecialTopic/landreform

Sài Gòn và Hà Nội

Sài Gòn và Hà Nội
September 07,  2014
Tạp ghi Huy Phương

Sau khi đi tù về vài năm, khoảng 1985, tôi có mở một tiệm làm hình và tráng phim gia công trên đường Lý Thái Tổ, Sài Gòn.

Nhờ vậy, ở đây tôi có dịp tiếp xúc với nhiều người đủ mọi tầng lớp xã hội và ở khắp mọi miền, nhất là dân miền Bắc, sau Tháng Tư, 1975, đổ xô vào Nam kiếm ăn rất nhiều. Vì dù miền Nam sau ngày “giải phóng” đã xuống cấp tột cùng, trông cũng còn khá giả, tươm tất hơn ở miền Bắc sau 20 năm dưới chế độ cộng sản.

Sài Gòn ngày nay. (Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Một ngày nọ, tôi gặp một người trung niên miền Bắc, trông mặt mày cũng khôi ngô, nhưng áo quần nhàu nát, làn da xanh mét như người thiếu ăn, anh vào tiệm, ngửa tay ra, nói mấy câu. Nghe giọng nói tôi biết ngay là người này ở ngoài Bắc mới vào, đang hành nghề xin ăn.

Tôi hỏi anh, “Tận ngoài Bắc, sao anh vào đây đi ăn xin?”

Không hề ngượng nghịu, anh nói rõ, “Vào đây xin 10 người cũng có được 6 người móc túi cho, lại chẳng bao giờ bị chửi bới. Ngoài Bắc, nhất là Hà Nội, thì đừng hòng! Có mà chết đói.”

Ðó là điều tôi nhận ra, như vậy là có sự khác biệt nhau giữa Sài Gòn và Hà Nội. Hà Nội đại diện cho miền Bắc và Sài Gòn phản ánh cho những đặc tính của miền Nam.

Cộng Sản vào không phải làm điện khí hóa cho nông thôn trở thành thành thị, nhưng thật tình đã “nông thôn hóa” thành thị, nên dân Sài Gòn thường trực bị cúp điện, nhiều nơi tìm cách đào giếng để kiếm nước và sẵn sàng bới sân gạch lên để trồng khoai lang cải thiện, hay như ông bạn tôi ở chung cư Thanh Ða, bớt chỗ sinh hoạt để nuôi hai con heo nái trên sân thượng.

Sài Gòn sau thời gian đổi tên, nguyên do chỉ vì cái bến Nhà Rồng chết tiệt, chẳng mấy chốc xuống gần bằng Hà Nội. Bằng Hà Nội hơn, nhất là sau khi họ ồ ạt “vào thành phố” như một câu hát của Trịnh Công Sơn, với những “cửa hàng thịt phụ nữ,” “cửa hàng chất đốt thanh niên” mọc ra, cái cảnh phơi áo quần trên cửa sổ, treo khăn lông trong “xe con,” nuôi heo, trồng rau ngay trong sân nhà, hay hai anh bộ đội lái xe khác chiều dừng xe ngay giữa lộ để nói chuyện với nhau, bất cần tiếng chửi của thiên hạ.

Mới thoạt nhìn, Sài Gòn bỏ ngỏ và bắt đầu nhếch nhác giống Hà Nội, nhưng sự thật trong gan ruột, hai thành phố đối cực, đối đầu này đang có những điều khác biệt, một bên là “nơi hang ổ cuối cùng và đâu cũng thấy tàn dư Mỹ Ngụy,” và Hà Nội, “thủ đô của lương tri, phẩm giá con người!” Vì vậy mà ngày nay, sau gần 40 năm “thống nhất” người ta còn đi tìm và thấy ra có quá nhiều khác biệt giữa Sài Gòn, Hà Nội. Cách biệt vì cách đối xử chính trị như vậy, trách sao Sài Gòn và Hà Nội không cách biệt về văn hóa, mặc dầu lúc nào hai bên cũng cho bên kia là “quê hương tù dày!” Tuy vậy, Hà Nội thắt lưng, buộc bụng, tẩy não, “dốc hết hạt gạo, cục muối cho miền Nam đánh Mỹ,” làm sao so được với Sài Gòn “bơ thừa sữa cặn!”

Nói về giáo dục, sau Tháng Tư, 1975, đồng bào và thầy cô giáo miền Nam hẳn đã biết loại văn hóa ăn nói vô lễ, thô tục của lũ trẻ miền Bắc mới vào Nam, vì miền Bắc không có khẩu hiệu “tiên học lễ, hậu học văn” treo trong các lớp tiểu học. Ngày ra Bắc, lên tận Hoàng Liên Sơn, tôi đã trông thấy những nét văn hóa tiêu biểu, được viết bậy lên vách tường nhà trường tiểu học, chưa kịp xóa sạch, nói đến sự quan hệ của ngành công an và giáo dục: “Công An (đ.) Cô Giáo!”

Trên đường làng Cẩm Nhân, Yên Bái, chúng tôi đi ngang một nhà giữ trẻ của hợp tác xã, nghe tiếng trẻ khóc la và tiếng quát của một phụ nữ: “Bố mẹ chúng mày đéo cho lắm vào, để chúng mày làm khổ thân bà!” “Bà” đây là người giữ trẻ của hợp tác xã nông nghiệp, bà có nhiệm vụ giữ trẻ thì khỏi ra đồng như các hợp tác xã viên khác. Liệu lũ trẻ này lớn lên dưới sự chăm sóc của những người này này, ngôn ngữ của chúng sẽ ra sao?

Trên các blog và báo chí trong nước, đề tài “những sự khác biệt giữ Sài Gòn và Hà Nội” tương đối là một đề tài hấp dẫn.

Tôi dẫn một vài ví dụ:

Giao tiếp:

– Ở Sài Gòn, bạn dửng dưng khi thấy cô bán hàng cúi gập người chào bạn.
– Ở Hà Nội, bạn xúc động đến sững sờ khi thấy ai đó nói lời cảm ơn.

Hàng quán:

– Tô hủ tíu mì Sài Gòn được bưng ra với tô được đặt trên chiếc đĩa.
– Bát phở gà Hà Nội được khuyến mại với ngón tay cái của con bé bưng bê!

Ca ve:

– Khi bạn vừa thanh toán xong tiền cho cave…

Cave Hà Nội: “Cho em xin thêm 10 nghìn để còn đi xe ôm về.”
Cave Sài Gòn: “Em bớt cho anh 10 ngàn, lần sau nhớ kiu em nha!”

Nhà sách:

– Hà Nội: Nhân viên hách dịch.
– Sài Gòn: Vào đọc chùa thoải mái, nhất là các em bé, có thể ngồi tại chỗ đọc mà không sợ bị đuổi!

Trong quán ăn:

– Sài Gòn: “Vâng em làm ngay đây.”
– Hà Nội: “Làm gì mà cuống lên thế! Muốn nhanh thì xéo sang hàng khác!”

Bạn bè:

– Hà Nội: Hay để bụng, ghét mà trước mặt vẫn chơi, về nhà nói xấu.
– Sài Gòn: Mau huề, ghét là biến, không chạm mặt!

Nhưng liệu những sự khác biệt này kéo dài được bao lâu nữa? Bây giờ, Sài Gòn và Hà Nội đã bắt đầu đầu giống nhau, ảnh hưởng và bị đồng hóa, vì người Nam ra Bắc thì ít mà người Bắc vô Nam càng ngày càng đông, như một người tên Jor Dan viết trên blog: “Mỗi người có một cách suy nghĩ riêng. Nhưng đa phần chỉ nói yêu Hà Nội, nhưng lại thích được sống ở Sài Gòn. Ca sĩ Hà Nội vào Sài Gòn lập nghiệp nhiều quá còn gì!”

Sau gần 40 năm bây giờ hai thành phố này đã có những chuyện giống nhau. Ở đâu cũng kẹt xe kinh khủng, và sau một trận mưa, không chỉ ở thành phố “bác” mà ở Hà… cũng lội!

Vô kỷ luật:

Sinh viên:

– Hà Nội: Nhiều em cave trông như sinh viên.
– Sài Gòn: Nhiều em sinh viên trông như cave.

Giao thông:

– Sài Gòn: Bạn có thể vượt đèn đỏ thoải mái.
– Hà Nội: Bạn có thể lượn lờ trước mũi xe hơi.

Chúng ta không hy vọng gì Hà Nội và Sài Gòn sẽ mãi mãi khác nhau. Sự đồng hóa và việc di dân ồ ạt sẽ làm cho Sài Gòn càng ngày càng gần với Hà Nội. Ðiều rõ nhất là Hà Nội trước năm 1954 và Hà Nội bây giờ hoàn toàn khác nhau. Năm 1954, sau Hiệp Ðịnh Geneva, một số người đã mang sự thanh lịch của Hà Thành năm xưa đi xa, để “Hà Lội” ngày nay cho những người mới vào tiếp thu, từ giọng nói đến văn hóa cư xử đã hoàn toàn khác biệt.

Người Sài Gòn hôm nay sẽ không còn là người Sài Gòn của những ngày tháng cũ, tất cả chỉ còn là chuyện thời gian.

Chỉ sợ sau ngày Sài Gòn trở lại tên cũ, chất Sài Gòn sẽ không còn nữa.

Chúng ta yêu Sài Gòn chính là yêu chính chúng ta, cái bóng của dĩ vãng. Muốn Sài Gòn không đổi thay, chính lòng mình phải không thay đổi.

 

Con đường xưa em đi

“Con đường xưa em đi

người ta kéo dây chì, thế là anh hết đi.

Đưa em về bên tây nguyên,

xích lô nàng không chịu đi, Nàng đòi đi taxi!”

(Hát nhái bài Con Đường Xưa Em đi của Hồ Đình Phương)

(Mt 5: 21-24)

Trần Ngọc Mười Hai

Rõ ràng “Con đường xưa em đi”, là để em cùng anh và mọi người dùng nó mà đi, dù cho người ta có kéo dây chì hoặc làm anh sạch túi, hay sao đó, ta vẫn đi.

Con Đường, là để mọi người được đi, dù anh có hát nhại gì gì đi nữa, cũng sẽ thấy là:

“Em ơi dù tốn bao nhiêu, dù phải hao “tì”

lòng này anh chẳng màng

Nhưng than ôi khi hiểu ra rằng

Em chẳng thương chi thì làm cho anh sạch túi?”

(Hát nhái bài Con Đường Xưa Em đi như đã dẫn)

“Con Đường” như thế là đường đời, dành cho mọi người, ở đời. Còn, “Con Đường” nhà Đạo, thì sao? Câu trả lời, xin dành ưu tiên cho cựu linh mục Nguyễn Ngọc Lan từng có câu để đời như:

“Đạo là đường, Đạo bao giờ mà chẳng là đường. Sao lại còn có thể tự hỏi: Đạo là đường hay là lô-cốt, pháo đài? Vấn-đề thoạt tiên nghe có vẻ kỳ cục. Chúng ta cứ mở bất kỳ một quyển Hán-Việt Tự điển nào mà xem. Đạo là đường. Dĩ nhiên. Thắp đuốc mà tìm cũng không bao giờ thấy Đạo có nghĩa là pháo-đài, lô-cốt cả. Đạo là đường, không thể là gì khác. Thật là giản dị. Đạo là đường như muôn vàn nẻo đường đã in vết chân chúng ta hay đang chờ chúng ta đi đến. Đạo là con đường lớn nhất, dài nhất, xa nhất như cả cuộc đời chúng ta là một con đường.

Riêng tiếng Việt lại sẵn kiểu nói thật là ý-nghĩa: “đi đạo”. Như thế, hiểu đạo là đường chưa đủ, còn cần phải nói cho rõ hơn. Không biết có tiếng nào trên thế giới biết dùng một chữ gì tương đương với kiểu nói “đi đạo” dễ thương như vậy không.

Thế nhưng, vấn-đề có vẻ kỳ cục kia –Đạo là đường hay là pháo đài– vẫn không phải là chuyện thừa. Vì Đạo là đường chỉ là lý đương nhiên trong các quyển tự-điển, theo nguyên tắc, còn trong thực-tế đã chắc gì Đạo vẫn chỉ là con đường. Người mình bảo “đi đạo” nhưng biết đâu trong thực-tế vẫn có nhiều người “giữ đạo” như canh gác lô-cốt hơn là có nhiều người “đi đạo” như còn ở trên con đường dài. Cũng như cái lý đương nhiên của cánh chim là để bay nhảy giữa trời cao đất rộng. Cái lý đương nhiên của loài cá là sông là biển. Thế nhưng, vẫn có cảnh cá chậu chim lồng. Mà bi-đát hơn nữa là chúng ta thường chỉ tiếp xúc với cá chậu chim lồng –chưa kể cá ướp lạnh và chim đã nhổ hết lông– hơn là với cá đang tung-tăng giữa cái lý đương nhiên của nó là sông biển, với chim đang bay nhảy giữa cái lý đương nhiên của nó là trời đất…” (xem Nguyễn Ngọc Lan, Đường Hay Pháo Đài, nxb Trình Bầy 1969 tr. 11-12)

Vâng. Ý của vị “cựu linh mục” đây khi xưa là thế. Có như thế hay không, người đời nay vẫn cứ quan-niệm “Con Đường Xưa Em Đi”, còn hơn thế nữa, khi hát rằng:

“Con đường xưa em đi Giờ đây kéo dây chì thế là anh hết đi.

đưa em về bên Tây nguyên Xich lô nàng không chịu đi Nàng đòi đi Taxi.

Em ơi! dù tốn bao nhiêu dù phải hao tì, Lòng này anh chẳng màng

Nhưng than ôi khi hiểu ra rằng Em chẳng thương chi thì làm cho anh sạch túi.”

(Hát nhái bài Con Đường Xưa Em đi như đã dẫn)

Thật ra thì, có sạch túi/hao “tì”/hao hụt rất nhiều tiền đi chăng nữa, thì anh và em vẫn cứ phom phom ra đi trên con đường đời đầy chông gai, hoặc giây chì, giây kẽm hay gì gì đi nữa, cũng không ngại. Chỉ ngại mỗi điều, là: người em và người-anh-của-tôi, hôm nay lại thấy mệt vì chuyện khác chứ không phải chuyện đi/đứng.

Đời người “đi Đạo” cũng thế. Đi đạo, lại là và vẫn là: phom phom đi trên con “Đường” rất Đạo để giữ đạo chứ không “hành” Đạo, thế mới hay.

Trong sống đời “đi Đạo” và “giữ Đạo”, lại có rất nhiều tình-huống cũng khiến người nhà Đạo đôi lúc cũng hao-tổn thần-lực và thần-tính, nhưng vẫn đi và cứ đi. Nếu hỏi rằng, sao lại như thế, thì: hôm nay đây, bần đạo bầy tôi xin mời bạn và mời tôi, ta cứ thế “phom phom” tìm hiểu ý-nghĩa và lý-chứng về chuyện “đi Đạo” và “sống Đạo” ngang qua ý-kiến của một số vị thuộc bậc thày đã “đi” trước và vẫn “đi” dù có điều gì xảy đến trong quá-khứ, hiện-tại hoặc mai ngày.

Trước hết xin mời bạn và mời tôi, ta hãy về lại với ý-kiến của vị cựu linh mục vừa trích ở trên xem sao. Ý-kiến của bậc thày/đàn anh bần đạo khi xưa cũng rất dài. Nay, xin ghi lại chỉ đôi ba ý chính, rất như sau:

“Vấn-đề quan-trọng vì càng ngày càng đông-đảo những con người –nhất là trong giới trẻ –không thể chấp-nhận mãi việc “giữ Đạo” theo cha ông như giữ một miếng đất, một mảnh vườn hay tệ hơn nữa như một lá bùa. Chưa hẳn vì họ trở thành vô đạo. Mà có thể, chính vì cha ông họ chưa hề thực sự “đi đạo”. Phủ-nhận một nề nếp đạo đức nào đó đối với họ thật ra không đáng kể gì hơn thế-hệ cha ông của họ đã đoạn-tuyệt với khăn đóng áo the thâm. Hay đúng hơn, họ đang làm một chuyện cần-thiết hơn, đáng làm hơn: cách này hay cách khác họ đang tỏ ra muốn là những con người có tự-do và ý-thức, và muốn đạo không thể chỉ là lồng chim và chậu cá. Họ càng không thể chấp-nhận sự-kiện người ta cứ tiếp tục biến đạo thành pháo đài hay lô-cốt để thúc thủ trong chủ quan và ích kỷ rồi chèn ép, chém giết nhau vì những quyền lợi không chút dính dấp gì đến đạo. Chưa hẳn họ đã coi rẻ ý-nghĩa của Đạo trong kiếp sống của mình. Họ chỉ từ-bỏ một thứ Đạo nào đó thôi. Và họ có quyền thắc mắc: Đạo như đã được “giữ” trước họ có thật đã giúp cho loài người xích lại gần nhau, yêu thương nhau, thông cảm với nhau cho bằng đã khiến loài người nghi kỵ lẫn nhau, chống đối nhau, xa cách nhau, dựng lên giữa nhau không biết là mấy lớp Vạn Lý Trường Thành, hay màn sắt, màn tre?

Đạo, là pháo đài hay là đường?

Một vấn đề đáng ám ảnh chúng ta khi còn muốn chú ý đến chuyện tôn giáo, còn muốn nhìn nhận Đạo như một hiện tượng liên hệ sâu xa đến nếp sống của mình, đến tương quan giữa mình với người, đến thân phận chung của loài người.

Đạo là pháo đài hay là đường?

Trong thực tế, cứ thử nhắm mắt lại mà xem. Nhiều thực-tại vẫn cần phải nhắm mắt lại mới thấy rõ hơn là mở mắt trân trân. Nhắm mắt lại mà xem chúng ta thấy gì khi nghĩ đến “đạo”? Chữ “đạo” có tự nhiên gợi lên trong tâm-tư chúng ta hình ảnh một con đường rộng thênh thang, dài vun vút?

Trên con đường đó, người ta tha hồ đi, có kẻ đã đặt một chuẩn-đích phía trước mặt, có kẻ chỉ hướng về một chuẩn đích chưa rõ rệt và có lẽ chẳng bao giờ rõ rệt, có kẻ mãi mãi lang thang tìm kiếm. Nhưng ai cũng đi, người này bên cạnh người kia, không phải dẫm chân lên nhau, không ai dừng lại mà dựng lô-cốt để yên nghỉ ngay giữa đường, chận bước tiến của kẻ khác, không ai đem giây thép gai rào dọc ngang. Mọi người vừa đi vừa gặp nhau trong cùng một nỗi khắc-khoải của lòng mình, trong sự thu hút của chân trời đằng trước mặt”… (xem thêm Nguyễn Ngọc Lan, sđd tr. 13-15)

Trích dẫn những lời như thế, ở đây/hôm nay, lại là trích và dẫn về những khắc-khoải còn tiếp tục với người đi đạo và sống đạo thời bây giờ, tức thế-kỷ thứ 21 chứ không chỉ mỗi thế-kỷ của bậc thày/đàn anh từng sống và đã sống.

Thế kỷ 21, nay còn thấy và vẫn thấy những “khắc-khoải” đặt ra cho mình và cho người, giống như thế. Khắc-khoải, là những ưu-tư/thắc-mắc đặt ra cho đời. Khắc-khoải, là những thời-khắc rất ưu-tư/ngại ngùng kéo dài rất nhiều ngày trong đời, mọi người.

Khắc-khoải và quan-ngại, ở chỗ: có những lời dạy-dỗ của bậc thánh-hiền từ ngàn xưa vẫn vang vọng đến bây giờ, qua bao thế kỷ, thế-hệ và thế-sự đà đổi thay. Khắc khoải và quan-ngại, lại là lời vọng có giá trị đến bây giờ, vì đó là sự thật. Khắc-khoải và quan-ngại, là những điều từng thúc-giục mọi người, như sau:

“Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng:

Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà.

Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà.

Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng.

Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt.

Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.” (Mt 5: 21-24)

Luật yêu thương theo Con Đường Chúa dạy, lại dẫn đến Sự Thật và Sự Sống, tức chính Chúa. Phải chăng “Con Đường Xưa Em Đi” hoặc “Đạo, là Đường hay Pháo Đài?”, lại chính là đường-hướng, đường-lối hoặc đường đường một cung-cách của Tin Vui An Bình, Chúa từng bảo:

“Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy,

để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.

Ông Tô-ma nói với Đức Giê-su: Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu,

làm sao chúng con biết được đường? Đức Giê-su đáp: “Chính Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Chúa Cha, mà không qua Thầy. Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.”

(Ga 14: 2-7)

“Thầy là Con Đường”, chứ không là pháo đài! Điều này bậc thày/đàn anh lại đã ghi thêm:

“Đối với lòng tin của người Kitô-hữu, Đức Yêsu trước tiên là cả Con Đường đưa từ thân thế Thiên Chúa đời đời của Ngài đến thân phận làm người trong thời gian (Ph 2: 6-8)

Tất cả những gì chính yếu nhất trong lòng tin đó đều có thể quy về một quả quyết: Kẻ không yêu thương tất đã không biết Thiên-Chúa, vì Thiên Chúa là lòng yêu thương. Điều này đã chứng-tỏ lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với chúng ta: là Thiên Chúa đã cho Con Một Người đến trong thế gian, ngõ hầu chúng ta được sống nhờ Người” (1Yn 4: 8-9)

Nhưng ngoài ra, cứ nhìn vào cuộc đời của Ngài như một hiện tượng, và cứ nhìn như các tiểu sử chính thống -thường được gọi là Tin Mừng hay Phúc Âm- đã trình bày, có thể nói ngay là Đức Yêsu đã sống chết ở ngoài đường, ở trên đường.” (x. Nguyễn Ngọc Lan, sđd tr. 75)

Quả thật là như thế. Đường, lại chính là Sự Thật và là Sự Sống của Đức Giêsu. Bằng vào Con Đường này, Đức Giêsu đi đến với Thiên-Chúa-là-Cha. Và, Ngài dẫn dắt mọi người trong thiên-hạ, vẫn làm thế. Trong thiên-hạ, nhiều nghệ-sĩ cũng nhận ra được “Con Đường Tình” của mọi người và tình “Đường” của riêng ai như ý/lời được diễn-tả theo cách khác:

“Con đường nào ta đi Với bàn chân nhỏ bé

Con đường chiều thu đổ Con đường bụi mờ Con đường tuổi măng tre

Nắng vàng thu đẹp đẽ Bóng người dài trên hè Con đường tình ta đi.”

(Phạm Duy – Con Đường Tình Ta Đi)

Cứ như người nghệ-sĩ hát, thì: Con Đường mình đi, bao giờ cũng là và phải là “Đường Tình”, là “Tình” ta có với ai đó. Con Đường “tình ở đời” còn mang thêm ý-nghĩa khi anh và em, ta hát tiếp:

“Thế rồi cuộc đời là Những cuộc tình chia xa Đi lạc vào những phía con đường về

Đứng ở ngoài đầu rừng Đứng ở đầu con sông

Nhớ về con đường cũ mênh mông, mênh mông.

Hỡi người tình học trò Hỡi người tình năm xưa Bóng người từng in dấu, trên đường mờ.

Có thuộc vạn nẻo đường Có ngại ngùng nên quên Nhớ hoài con đường cũ không tên.

(Phạm Duy – Con Đường Tình Ta Đi)

Với Đức Giêsu là Sự Sống của người đi Đạo và giữ Đạo, tức giữ “Con Đường Tình” mình đi, chính là Đạo của Đức Kitô Giêsu, là Đức Chúa. Về điểm này, bậc thày/đàn anh còn ghi tiếp bằng những “cụm từ” đứt khúc, như sau:

“Kitô-giáo: Đạo mở đường!!

Khi Đạo đích-thực là Đạo Tình Thương và tình thương chỉ có con đường vô hạn đằng trước mặt.

Kitô-giáo: Đạo cho người ngoài đường!

Ngài đã sinh ra ngoài đường và khi ấy cũng chỉ có những người ở ngoài đường có mặt xung quanh Ngài. Từ bao thế hệ, đạo Do Thái đã hãnh diện với sứ mệnh cốt yếu là chờ đợi để đón tiếp Vị Cứu Tinh phải xuất hiện tự dân tộc mình. Thế mà lời tường thuật của Luca và Matthêu tuyệt nhiên không cho thấy bong dáng những đại diện tiêu biểu của Đạo xung quanh Máng Cỏ. Chỉ có những người ở bên lề hay ở ngoài xã hội Do thái mới đến đó. Ngay đêm Giáng Sinh là những người chăn cừu trong vùng (Lc 1: 8tt): đám nguời này có là Do thái cũng như không: họ đã nghèo mà lại còn bị liệt vào thành phần bất hảo: ai có vườn xanh cỏ tốt đều phải canh chừng…”

Trong mà ngoài, ngoài mà trong hay là câu chuyện đứa con đi hoang.

Các chuyên viên giữ đạo tự phụ là “có” Đạo đã nắm chắc Thiên Chúa cho mình như ngày nay người ta nắm chắc một số lương hưu bổng. Họ tưởng đã chính-trực hôm qua là chính trực mãi mãi, đã tội lỗi hôm qua là chung thân tội lỗi. Cho nên họ xếp hạng loài người thật dễ dàng. Nhưng Đạo không bao giờ chỉ là ngày hôm qua, cho dẫu ngày hôm qua vàng son đến đâu chăng nữa.

Đạo, là đoạn đường ngày hôm nay. Đạo, là chân trời ngày mai. Dừng chân yên nghỉ, thụ hưởng quãng đường quá khứ là hết Đạo. Đạo, không phải là những công đức đã cô đọng thành hào quang chung quanh đầu con người. Đạo, là ngày hôm nay đây, giờ phút hiện tại đây, con người gật đầu hay không gật đầu đáp lại tiếng gọi xa hơn mình, cao hơn mình. Đạo, không ở những vết chân để lại, mà Đạo ở cả nơi bước chân mình đang cất lên hướng về đâu. Như thế, Đạo là đòi hỏi không ngừng, nhưng nhờ đó Đạo cũng là năng-lực giải-phóng con người khỏi bị đóng đinh vào những vết chân quá khứ…” (x. Nguyễn Ngọc Lan, sđd tr. 149)

Kitô-giáo: Đạo ngoài đường!

Thiên Chúa là Tình Thương, chỉ tình thương mới có tính cách quyết định trên con đường đi đến với Ngài. Tình thương định đoạt giá trị của công-thức trong mỗi hoàn cảnh sống cụ thể chứ không phải công thức định đoạt tình thương.“Thờ phượng là thờ phượng trong Thần Khí và sự thật”. (Yn 4: 5-24) Đưa ý thức tôn giáo ra ngoài đường, Đức Yêsu giải phóng hành động con người đã đành, nhưng còn hơn thế nữa, Ngài giải-phóng chính Thiên Chúa khỏi mọi định kiến cho dầu là thánh thiêng đến đâu đi nữa của con người. Con Đường Ngài mở ra, không phải là con đường để trượt tuyết. Đành rồi. Nó cam go, dốc dác. Nhưng, nó lại không là ngõ hẻm, ngõ cụt. Nó rộng thênh-thang và tha hồ đi mãi…

Từ lời dạy rõ và hùng hồn (ở Tin Mừng), chúng ta có thể rút ra vài nét chính yếu:

1) Đạo vẫn là Đạo Yêu thương. Nhưng trong thực-tế của cuộc sống, không còn có thể phân tách hai mặt của tình thương yêu ấy nữa. Không còn chỗ cho con đường đi đến với Thiên Chúa khác với con đường đi đến với tha nhân. Đối diện với tha nhân cũng là đối diện với Thiên Chúa. Bất cứ thái độ nào đụng chạm đến con người là đụng chạm đến Thiên Chúa. Và, ai cũng có thể được thẩm định cách dứt khoát và toàn diện mà chỉ cần là thái độ của họ đối với tha nhân được đưa ra ánh sáng cuối cùng.

2) Khi đã có sự đồng hoá kỳ lạ đó, Đạo cho dẫu là đường đi đến với Thiên Chúa vẫn không cho phép người ta biến thành thuốc phiện. Đức Kitô muốn người ta theo Ngài, tìm Thiên Chúa mà vẫn phải giáp mặt không ngừng với thực tại con người ở ngay xung quanh. Không có quyền tìm Thiên Chúa trên một từng mây xa vời nào nữa!

3) Một lối lập luận nghịch thường nào đó trong Tin Mừng theo thánh Yoan; cũng như trong Thư Thứ Nhất của Yoan, thành tự nhiên với đường hướng trên. Mỗi khi quả quyết tình thương yêu của Thiên Chúa hay của Đức Yêsu đối với con nguời, Yoan lại không trực tiếp kêu gọi con người yêu mến Thiên Chúa để đền đáp mà chỉ kêu gọi người ta yêu thương nhau. (1Yn 4: 11) hay một cách thiết thực hơn cũng vậy: “Chính do điều này mà chúng ta nhận ra được lòng yêu thương: là Ngài đã thí thân vì chúng ta. Nên chúng ta cũng phải thí thân vì anh em.” (1Yn 3: 16).

4) Đạo không còn chỉ giới hạn trong những ‘cấm giới’ như đừng giết người, đừng dâm ô, đừng trộm cướp, đừng vu khống vv.. Đạo không còn phải chỉ là Đạo “đừng-đừng-đừng”… Đạo chỉ là đạo-đừng thì mới tiện giữ được bên trong một pháo đài, ở trên một tháp ngà. Trong đó, trên đó, chúng ta “chẳng động gì tới ai”…là trọn đạo.

Đạo là đạo làm, anh-làm-được-gì-cho-tôi, tôi-làm-được-gì-cho-anh. Cho ăn, cho uống, cho mặc, tiếp đón, thăm viếng, gặp gỡ. Hay làm tất cả những gì không thể định trước được để đáp ứng những nhu cầu bất ngờ nhất trên đường đời, giữa cuộc sống… Như thế, đạo-làm vừa bắt buộc ra khỏi mọi thứ pháo đài, tháp ngà, mu rùa mới có cơ hội gặp được tha nhân mà hiện thực được, vừa không cho phép ngừng lại ở mức độ nào nữa cả. Nên chỉ là đạo-đừng thì tôi chẳng động gì đến ai, chẳng làm hại ai là đủ. Nhưng thế nào là đủ được cho đạo-làm, thế nào là đủ cho tình thương yêu? Đạo vẫn là con đường vô hạn mở ra cho hành động yêu thương của con người.

5) Còn hơn nữa, Đạo Đức Kitô là đạo-anh-với-tôi-cùng-làm-gì-cho-kẻ-khác. Không phải là vấn đề ý thức không quan hệ. Riêng Kitô-giáo tự bản-chất muốn là một Tin Mừng. Tin, là đón nhận Tin Mừng đó. Nhưng vấn đề là không cần phải đợi lúc anh với tôi cùng chia xẻ một niềm tin chúng ta mới cùng đi với nhau một con đường. Đạo lý Đức Yêsu như trên kia rõ rệt lắm: cùng một lòng tin là quan hệ nhưng chưa phải là chuyện có tính cách quyết định. Chỉ có tính cách quyết định là anh với tôi cùng làm gì cho tha nhân, và có cùng là đồng loại của tha nhân hay không?

Trong ý thức, anh có thể đang đi một con đường, tôi đi một con đường, nhưng trong thực-tại sống, chỉ có một con đường duy nhất: con đường đưa chúng ta đi gặp gỡ con người, cùng phục vụ con người, cùng sống cho tình thương yêu đồng loại, chúng ta lại cũng đã gặp gỡ nhau.

Khi đã hiểu như thế, chuyện cấp bách đối với tôi, người tin ở Đức Kitô, vẫn chưa phải là làm sao cho anh cùng tin với tôi – gặp gỡ chính Ngài – mà chính là: làm sao cho chúng ta cùng mở mắt trước những khổ đau của con người, những bất công của xã hội, để cùng nhau chúng ta làm gì để để xoa dịu những khổ đau kia, chận bớt, chấm dứt những bất công này.

Con đường thương yêu – với niềm tin hay không với niềm tin – vẫn đi qua người đồng loại. Con đường đó vừa xa tắp vừa cho phép mọi người gần nhau, gặp gỡ nhau…

Đạo, là Đường, Sự Thật, Sự Sống!

Đức Yêsu trước tiên muốn nhấn mạnh ở điểm Ngài là Đường. Ngài còn là Sự Thật và Sự Sống, nhưng đối với kẻ theo Ngài, hai thực tại ấy vẫn không tách rời được thực tại Ngài là Đường.

Đường, là để đi vào, đi theo. Con đường đây lại không phải là một nét mực đỏ vẽ sẵn trên một bản đồ bỏ túi mà là thực thể sống động. Đã vậy, “Sự Sống”, “Sự Thật” đều không phải là những vật để bỏ túi. Cũng không phải để cất gọn vào tủ sắt được… Không thể bỏ túi, cất tủ sắt chính Đức Yêsu. Không ai “có đạo” như có một cái xe máy dầu Nhật. Mà, chỉ có những người “đi Đạo”.

Đạo chỉ là pháo đài khi người ta mang thái độ chủ-nhân-ông đối với chân lý. Riêng đối với người tin Đức Kitô, đó là khi lầm lẫn tưởng rằng theo Ngài đã là bỏ túi được Ngài. Tin Ngài là Sự Thật rồi cũng tưởng là mình bỏ túi được Sự Thật mà quên rằng Ngài vẫn là Đường! Nghĩa là cho dẫu gần gũi Ngài đến mức nào đi, cho dẫu là “ở trong Ngài”, để nói theo ngôn ngữ Kinh Thánh (Yn 14: 20), thì người ta vẫn chẳng bao giờ là chủ thầu con đường mà mãi mãi chỉ là kẻ hành hương…

Đức Yêsu có là Sự Thật cho tín đồ của Ngài thì vẫn có cả một khoảng cách không bao giờ lấp được giữa Sư-Thật-là-Ngài với sự-thật-như-được-đón-nhận-trong-tâm-tư-họ. Kinh thánh không quan niệm Sự Thật một cách trừu-tượng. Sự Thật đây là như tâm sự của Thiên Chúa được ngỏ cho nhân loại bằng cách đầy đủ nhất là hiện thân trong Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người.

Đức Yêsu đã có một thái độ không kém tiêu biểu tuy ở vào hoàn cảnh trái ngược hẳn với bụi cây rực lửa huy hoàng. Đó là khi Ngài phải đứng trước mặt Philat như một kẻ tử tù. Cũng như Ngài đã tâm sự với đồ đệ rằng Ngài là “Đường, Sự Thật và Sự Sống”, thì ở đây Ngài ngang nhiên quả quyết với Philat, vị quan toà đại diện cho đế quốc La Mã: Tôi có đến trong thế gian cũng vì để làm chứng cho Sự Thật. Ai thuộc về Sự Thật thì nghe tiếng tôi.” Nhưng khi Philat hỏi lại Ngài: “Sự Thật là cái gì?” thì Đức Yêsu đã không trả lời câu hỏi đó.

Sự Thật không là “cái gì” cả. Sự Thật không phải là “cái gì” gói gọn được trong một định-nghĩa, trong một khái niệm, trong tất cả ngôn ngữ loài người. Nếu tôi không lầm thì toàn bộ Kinh Thánh, chẳng có chỗ nào cho một định-nghĩa trừu tượng về chân lý. Ngài đứng yên đó, Không trả lời. Nhưng “Ngài là Ngài”. Sự Thật vẫn còn là Sự Sống và là Đường”. (x. Nguyễn Ngọc Lan, sđd, tr.235)

Thật sự thì, trên đường đời cuộc sống, người nào cũng đi chứ không đứng. Có người đi mãi mà không ngừng. Đi càng nhiều trên con đường đời càng rút được nhiều kinh nghiệm về Sự Thật của Sự Sống. Có người từng ghi lại kinh nghiệm qúi báu của một chuyến đi, hoặc còn gọi là hành-trình trên đường đã ghi lại những giòng chảy như sau:

“Đừng bao giờ trách móc bất kỳ ai khi cùng rong ruổi trên đường đời cuộc sống của bạn.

Người tốt, sẽ cho bạn Hạnh Phúc. Người xấu, sẽ cho bạn kinh nghiệm.

Người tồi tệ nhất, cho bạn bài học… Và, tuyệt vời nhất sẽ ban cho bạn Kỷ niệm.

Đừng hứa khi đang vui. Đừng trả lời khi đang…nóng giận.

Đừng quyết định khi đang… buồn! Đừng cười khi người khác …không vui!

Cái gì mua được bằng tiền, cái đó rẻ. Ba năm học nói, một đời học lắng nghe.

Chặng đường ngàn dặm luôn bắt đầu bằng một bước đi. Đừng a tòng ghen ghét ai đó, khi mà họ chẳng có lỗi gì với ta.

Được! Được!

Sống một kiếp Bình An là được

2 bánh 4 bánh, đi được là được.

Tiền ít tiền nhiều, đủ ăn là được.

Người xấu người đẹp, dễ coi là được.

Người già người trẻ miễn khoẻ là được.

Nhà giàu nhà nghèo, hoà thuận là được.

Ông xã về trễ, miễn về là được.

Bà xã càu nhàu, chăm lo là được.

Khi con còn nhỏ, dạy dỗ thật nghiêm.

Tiến sĩ cũng được, bán rau cũng xong.

Sau khi trưởng-thành, ngoan ngoãn là được.

Nhà to nhà bé, có chỗ ở là được.

Hàng hiệu hay không, mặc được là được.

Tất cả phiền não, biết xả là được.

Kiên trì cố chấp, biết bỏ xuống là được.

Sống một kiếp người, an lạc là được.

Không phải có tiền, muốn gì cũng được.

Tâm tốt việc tốt, có thể thay đổi số mệnh.

Ai đúng ai sai, trời biết là được.

Tu phúc tu thân, kiếp sau càng tốt.

Thiên địa vạn vật, tùy duyên là tốt.

Có rất nhiều việc, nhìn xa trông rộng.

Mọi người đều tốt, ngày ngày đều tốt.

Anh tốt tôi tốt, thế giới sẽ biết.

Nói tóm lại, tri thức là quan trọng nhất.

Nói nhiều như vậy, hiểu được là tốt.

Vẫn còn chưa hiểu, xem lại là được.” (trích điện thư vừa mới nhận cũng … là được.)

 

Đúng rất đúng. Bần đạo đây thấy rất “tâm đắc” về nhiều khía cạnh được kể ở trên. Khiá-cạnh thực tế khi đi trên con đường của cuộc sống, có Sự thật, mọi người đều đã đi và ít nhiều cũng có đôi ba cảm-nghiệm. Nhưng, có những cảm-nghiệm mà một số bạn giống như bần đạo đây, nhiều lần vẫn quên đi. Quên, hát bài hát của người nghệ sĩ ngoài Đạo vẫn từng đi trên con đường độc Đạo của cuộc sống, lại vẫn hát những lời rất nghe quen tai, đầy khích lệ mọi người cùng đi hãy cùng hát.

Hôm nay, đề cập đến “Con đường Tình Ta Đi”, bần đạo đề-nghị ta quay về với giới nghệ sĩ ở đời để cùng hát câu sau đây làm kết luận cho bài viết khá dài này, rằng:

“Dù đến rồi đi tôi cũng xin tạ ơn người tạ ơn đời, Tạ ơn ai đã đưa em về chốn này
tôi xây mãi cuộc vui. Dù đến rồi đi tôi cũng xin tạ ơn người
tạ ơn đời, tạ ơn ai đã cho tôi Còn thấy những ngày ngồi mơ ước cùng người.”

(Trịnh Công Sơn – Tạ Ơn)

Vâng. Chính thế. Dù có đi hay đứng thế nào đi nữa, trong đường đời, vẫn xin người và xin tôi, ta cứ “Tạ ơn Người”, tạ ơn đời, suốt đời người.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn còn đi nốt con đường đời

Những 70 năm

Vẫn xin tạ ơn đời,

Tạ ơn hết mọi Người.

Trên đời.

 

Anh buồn tự thuở giăng lên núi,

“Anh buồn tự thuở giăng lên núi,”

Ấy độ tôi hoài ước lại mong”.

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mt 20: 1-16

Nơi đời người, rất nhiều người cứ thấy buồn “tự thuở giăng lên núi”, giống nhà thơ. Trong nhà Chúa, chẳng ai còn thấy buồn đến độ như thế. Nhưng vẫn vui hoài, “những ước và mong”.

Trình thuật hôm nay thánh-sử Mát-thêu ghi lại dụ ngôn thợ làm vườn nho người kẻ sau gia-nhập nhóm làm vườn, như mọi người. Nhưng, lại cũng có người buồn nhiều hơn vui, vì nhiều thứ. Thứ dễ thấy nhất là cảm thấy như chủ vườn đối xử không đồng đều, nên mới buồn.

Chuyện người đời, phim ảnh cũng kể lại những tình-huống buồn vui vì người đời đối xử rất khác nhau như câu truyện về người anh hùng ở cuộc chiến có tên là Forrest Gump, rất oái oăm.

“Phim truyện Forrest Gump có lúc được kể là ‘niềm hân hoan của người tham chiến’. Vào một lúc nào đó, truyện phim nói về sự việc: “sao người chót hết lại có thể về trước nhất”. Câu chuyện này, rút từ những điều mà cuốn phim đã để lại trong đầu, của người xem.

Forrest Gump rồi cũng chết. Và, cũng lên thiên đàng. Vừa tới nơi, đã thấy thánh Phêrô đưa ra 3 câu hỏi bắt buộc anh phải giải mã trước khi vào cửa. Ba câu ấy, là: -1) Ngày nào trong tuần bắt đầu bằng chữ T? -2) Một năm gồm bao nhiêu giây? -3) Tên gọi của Thiên Chúa là gì?

Forrest trả lời ngay lập tức: ‘Thưa, 2 ngày trong tuần bắt đầu chữ T là: hôm nay và ngày mai. Thánh Phêrô nói: Ta không nghĩ thế, nhưng con vẫn có điểm. Thế câu tiếp là gì? – Con nghĩ, câu trả lời độc nhất là 12. -12 ư? –Thưa, đó là ngày 2 tháng Giêng, 2 tháng Hai… – Khoan, Ta biết là con đang cò cưa với câu này. Thế còn câu hỏi cuối? – Vâng, đó là Andy! – Andy à? Thôi được, cứ coi như 2 câu đầu con cũng biết cách trả lời rồi. Nhưng sao lại đặt tên gọi cho Chúa là Andy? –Thưa, đó là câu trả lời dễ nhất. Con học điều đó trong bài ca vịnh…ANDY đi với tôi, ANDY tới với tôi, ANDY bảo tôi thuộc về Ngài’  Nghe thế, thánh Phêrô bèn mở cửa ngọc và hối: “Vào đi Forrest, vào lẹ đi!”

Tin Mừng hôm nay, cũng kể về người thợ đến đầu giờ cũng được trả lương y như người đến sau buổi xế. Như thế, thì đàn chim ban sớm cũng đã không nhận ra là chúng có thể đến trễ và cũng được bấy nhiêu đồ ăn. Bằng giọng điệu cay cú, ta có thể dùng danh xưng gọi các tay thợ làm vườn đến vào buổi xế là “Giô-ni đi tàn tàn”. Và, sự thể là: nếu ta buộc phải đối đầu với tình huống tương tự, ta cũng sẽ là người ngồi đó mà càm ràm.

Với Hội thánh tiên khởi, câu chuyện hôm nay mang tính quan trọng, là vì người Do thái, qua bao thế hệ, vẫn cứ mỏi mòn ngồi chờ Đấng Mê-sia sẽ đến. Và, tựa như người thợ đến từ đầu giờ, cộng đoàn khi xưa là các nhà tiên phong đáp ứng lời mời của Đức Giêsu Chúa đã lao động cho hiện trường Vương Quốc của Đức Chúa. Dưới mắt người Do thái đi theo Chúa vào thời đầu, kể cả thánh Phêrô, ai cũng ngỡ ngàng khi thấy Đức Chúa đã mời gọi cả người ngoài luồng đến để sống và phục vụ cho Vương Quốc của Ngài.

Với đầu óc giàu tưởng tượng, ta thấy ngay là: một số đàn chim ban sớm vẫn mang nặng cảm giác dày vò cay cú, khi thấy đám “Giôni đi tàn tàn” lại được trao cho trọng trách trông nom sứ vụ truyền giáo rất rộng. Điều này hẳn đã vượt ngoài sức tưởng tượng, của nhiều người. Vì thế, vẫn có người thắc mắc hỏi rằng: sao lại xảy ra như thế được!

Tìm hiểu kỹ, ta thấy truyện kể hôm nay cho thấy tính khí thất thường nơi con người chúng ta. May cho ta, Chúa vẫn rất mực độ lượng. Ngài có lòng khoan dung, đại độ không ai sánh tày. Trong khi đó, nhìn lại mình, nhìn người khác, vẫn chỉ thấp thoáng một vài gương lành, do đã bắt chước cách hành xử cao quý của Đức Kitô thật đấy, nhưng vẫn chưa đậm nét. Nơi Đức Chúa là cả sự sung mãn, tràn đầy.Tràn đầy yêu thương. Ngập tràn tha thứ. Đầy ắp những xót xa. Những sung mãn về sự công chính.

Tự thân, Chúa vượt quá tầm tay với mà ta có thể kêu cầu, đòi hỏi hoặc mơ ước. Nên, ta vẫn không hết bỡ ngỡ đứng trước các hành xử đảo ngược lòng ao ước đợi trông. Đảo ngược tính sợ hãi vẩn vơ. Đảo, cả những đồn đoán khó tin của người phàm. Chúng ta vẫn không ngừng tìm kiếm Đức Chúa vĩ đại đầy ấn tượng. Tựa như khoa học giả tưởng do ta sáng chế. Trong khi đó, Chúa đến với ta chỉ như kẻ bần hàn, đói rét. Ngài đến, rất trần trụi. Lạnh căm. Lạnh căm, như người ốm o gầy mòn, mang hình hài thân phận của người tù, ốm đói. Nhưng, Chúa tỏ lộ chân lý của Ngài ngang qua những người làm ta kinh ngạc. Vào thời điểm dễ làm ta sửng sốt.

Đó còn là lý do tại sao nhiều người cứ mải quyết đoán: Đức Chúa chỉ hoạt động theo cách thân quen tại nơi chốn, qua con người, hoặc vào thời điểm ở thể chế rất dễ nhận. Việc Ngài làm, thường kết thúc ở cuối đường ranh khôn ngoan, tin tưởng. Tin vào Đạo. Tin vào Lời.

Trong cuốn “Những thứ bạn kiếm được mà không phải trả tiền”, tác giả Michael McGirr đã biện luận: thế giới hôm nay đang có khủng hoảng về niềm tin. Đây không là phương thức ta thường nghĩ. Trong bối cảnh lật lại bàn cờ, McGirr khẳng định là: khủng hoảng niềm tin nằm ở chỗ: người ở ngoài truyền thống vẫn cảm nghiệm được tình thương yêu của Đức Chúa. Quả thật, Chúa luôn yêu thương, dẫn dắt Hội thánh. Nhưng, Ngài không bị ràng buộc bởi Giáo Hội. Ngài bận tâm lo toan để đoan chắc rằng: ai người chậm chạp, đến trễ, vẫn có cơ-hội được ngang bằng với người đến sớm. Vẫn nhận được món hời hệt như đàn chim ban sớm.

Dẫu thế nào, ta hãy nên, thay vì phẫn nộ về cái-gọi-là sự bất công này, hãy chăm lo mà cảm tạ Chúa vì nhờ vào Ngài ta mới trở nên lớn lao, cao trọng. Cảm tạ Ngài, đã tỏ ra công minh, chính trực với thần dân. Cũng chẳng nên hỏi: khi nào và làm sao ta nắm được Lời. Bởi vì, Lời không “gớm ghiếc” và cũng chẳng “bất công”. Lời chẳng “thấy Tôi tốt bụng mà đâm ghen tức”. Duy có điều, là: vì ta chưa hiểu thế thái nhân tình, nên chưa hiểu rõ được Lời.

Cảm-nghiệm những điều vừa kể, tưởng cũng nên ngâm lại lời thơ còn bỏ dở ở trên, nay tiếp tục:

“Anh buồn tự thuở giăng lên núi,”

Ấy độ tôi hoài ước lại mong.

Ai biết lòng anh thương nhớ đâu?

Gần nhau không nói, nói không sầu.

Cầm tay hỏi mộng, buồn như tủi,

Thầm hiểu anh thôi, lặng cúi đầu.”

(Đinh Hùng – Cặp Mắt Ngày Xưa)

Cuối cùng thì, cứ gần nhau đi dù không nói. Nói làm gì, khi anh đã “thầm hiểu” nên hãy cứ “lặng cúi đầu” mà suy-nghĩ về dụ ngôn Chúa Kể, để coi đó như bí kíp sống ở đời. Bí kíp, dựa nhiều trên chọn lựa của mỗi người, tùy tình thân thương đối xử với nhau mà thôi.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch.

CUỘC ĐỜI PHÙ DU

CUỘC ĐỜI PHÙ DU

Tuyết Mai

Ai sống có ơn Chúa dù một chút ít đều hiểu được điều này. Để sống được trong ơn nghĩa Chúa, giữ lòng trung thành, mà nếu có ai lại được giống một phần tốt lành của thánh Phanxicô khó nghèo thì thật người ấy đã tìm thấy hạnh phúc đích thực ở nơi trần gian này rồi!. Vì ngài thánh Phanxicô đã được Thiên Chúa mạc khải cho hiểu biết thế nào là hạnh phúc được sống bên Chúa nên ngài đã nghe Lời Chúa Giêsu mà về bán hết của cải đem cho người nghèo rồi quyết định bỏ cha mẹ để được đi theo Chúa; để được Nước Trời như Chúa Giêsu đã hứa với tất cả môn đệ xưa của Ngài. Cũng bởi do ý muốn được sống trong tinh thần khó nghèo mà trong chúng ta có rất nhiều người yêu vị thánh Phanxicô khó nghèo này lắm lắm!.

Thật sự thì sự giầu có nó không có tội nhưng chính con người là nguyên do làm cho nó nên tội từ cách sống vô tâm, vô cảm của người giầu có trong cách đối xử của họ với anh chị em khổ nghèo chung quanh … Như câu chuyện “Anh nhà giầu và anh nhà nghèo ghẻ chốc Lazarô” mà anh nhà giầu bị Thiên Chúa giáng phạt linh hồn anh ta phải xuống Hỏa Ngục muôn đời chỉ vì cái tội anh đã làm ngơ trước những người cùng khổ. Chưa kể một lô tội mà vì người giầu có lòng tham vô đáy đã gây ra. Vì họ đã giầu có mà lại còn muốn vơ vét thêm của người nghèo để tha cho đầy vào kho lẫm của mình.

Muốn có quyền hành để lên làm vua một cõi thiên hạ bằng cách giết hại người hiền lành vô tội. Đi đến đâu cũng muốn người người dở nón cúi đầu chào, run rẩy sợ sệt khi phải đứng trước mặt ông chủ bất nhân, v.v… Thì sự giầu có đó có bảo đảm gì cho ai để được vào Nước Trời hay không? Hay được cả và Thế Gian mà mất linh hồn đời đời thì có ích gì?.

Chúng con cảm tạ Thiên Chúa vì Người là Đấng nhân lành và luôn yêu thương con người, đã tuyển chọn cho chúng con có được một Đức Giáo Hoàng Phanxicô rất thánh thiện, rất khiêm nhường và rất yêu thương đàn chiên tội lỗi đang sống ở khắp cùng mọi nơi. Và có được 10 nhà tỷ phú có tấm lòng vàng đã làm gương sống tốt lành, đã cố gắng giúp bao nhiêu người nghèo khổ trên toàn thế giới.

Để chúng con học bắt chước và noi theo nhất là ở vào thời đại mà chúng quỷ hoành hành ở khắp mọi ngả mọi nơi. Ở thời điểm mà con người càng ngày càng lâm vào cảnh khó khăn hơn, có nhiều nghịch cảnh rất đáng thương hơn vì họ quá nghèo khổ. Có những chứng dịch bệnh lạ mới giết chết nhiều người vì không có thuốc chữa; nhiều người chết vì thiên tai. Tan nhà nát cửa, xác chết đầu lìa khỏi thân mình vì chiến tranh tôn giáo không một ngày ngừng nghỉ, cùng những nước Cộng Sản chúng càng ngày càng kềm kẹp người dân không có được chút tự do, thiếu miếng ăn và thiếu sự giáo dục có chuẩn mực.

Xin thánh thần Thiên Chúa ban cho chúng con thêm lòng dũng cảm để sống cả cuộc đời trung thành với Chúa. Ban cho chúng con có khả năng để đóng góp một bàn tay xoa dịu những nỗi khổ của muôn người đang sống rất thiếu tình thương ở chung quanh chúng con.

Xin Thiên Chúa đừng để chúng con trở thành người giầu có vô cảm!. Đừng để chúng con ngu khờ như 5 cô thiếu nữ sống dửng dưng, vô tình và thiếu sự chuẩn bị để Đón Rước Chàng Rể khi đèn dầu họ để cho cạn queo và đừng để chúng con đem đi chôn một nén bạc Chúa cho mà không dùng nó để sinh hoa lợi trong khả năng rất có giới hạn. Và đừng để cho chúng con sống luôn so sánh với người có nhiều nén bạc hơn mình vì phải hiểu rằng Chúa trao cho ai nhiều thì Chúa sẽ đòi lại ở người đó nhiều.

Quả cuộc đời con người ta có sống được đến 100 năm cũng là phù du thôi!. Giầu thì cũng chết mà nghèo thì cũng chết như nhau. Cũng hai bàn tay trắng không ai mang theo được một thứ gì. Quan trọng và cần thiết hơn cả là ai cũng ao ước sau cuộc sống ở đời này chúng ta sẽ được tới Nơi mà chúng ta muốn được Tới; Nơi mà sẽ cho chúng ta có hạnh phúc muôn đời được sống bên cạnh ba ngôi Thiên Chúa là Cha, là Con, và là Thánh Thần cùng sống bên cạnh Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa. Amen.

** Xin bấm vào hình để nghe và hát:
httpv://www.youtube.com/watch?v=h4U8bNPymUs&index=16
(Nhờ Chúa Con Đổi Đời)

Y Tá của Chúa,
Tuyết Mai
09-10-14
—————————————–
Nhờ Chúa Con Đổi Đời

Con quỳ giang tay hướng Trời
Dâng Người kinh nguyện cùng lời cảm ơn
Cảm tạ được Người ban ơn
Sớm hôm no đủ còn hơn con cầu

Cảm ơn Người ngay phút đầu
Con mở con mắt của đầu ngày sau
Chúa yêu con thật thẳm sâu
Nhưng con yêu Chúa chỉ mầu mè thôi!

Hẳn Chúa biết tội con rồi!?
Bê tha làm biếng cái Tôi vụng về
Ai làm gì con cũng chê
Cũng không tránh được cái mê hại người

Vì tội con xa lánh Người
Con sống ích kỷ lại lười dâng kinh
Cả đời con sống cho mình
Chẳng thương chẳng xớt chút tình cho ai

Lắm khi con sống phân hai
Bên nào cũng Chúa có ai than phiền?
Chúa nào mà hay cho tiền
Thì con cũng bái cũng liền thọ ơn

Chúa biết con sợ Chúa hơn!
Vì con vẫn biết Chúa luôn trông chờ
Chúa yêu con vô bến bờ
Sao con yêu Chúa ơ hờ Chúa ơi!

Có thể nào Chúa thổi hơi?
Ban con thần khí và Lời quyền năng
Để con biết sống thanh bần
Để con tin có vĩnh hằng đời sau

Để con chấp nhận khổ đau
Nhìn trên Thập Giá niềm đau khốn cùng
Vì con Chúa đem Tin Mừng
Vì con Chúa chịu đóng từng lỗ đinh

Vì con Chúa chịu cực hình
Không lời than trách dốc tình vì con
Chúa ơi! Tội con nay còn
Nhưng xin đấm ngực và con xin chừa

Từ nay con xin được thưa!
Lậy Chúa con đã chịu thua giã từ
Cuộc sống bê bối quá khứ
Hoàn toàn thay đổi ngay từ hôm nay

Xin Chúa thêm sức tháng ngày
Tình yêu tuôn đổ của Ngài trên con
Ôi tình Chúa như cao sơn!
Dạt dào như biển thái dương ngập tràn

Có Chúa con quyết đánh tan
Mưu đồ mưu kế kẻ gian rập rình
Vì Chúa con sẽ thức tỉnh
Vì Chúa con sẽ luyện mình quyết tâm

Yêu Chúa con sống âm thầm
Chỉ con và Chúa thì thầm nhau nghe
Lời Chúa văng vẳng con vè:
“Yêu người, kính Chúa, về Quê An Bình”.

Y Tá Của Chúa,
Tuyết Mai

*** Để cảm tạ, ngợi khen, và tôn vinh Thiên Chúa là Cha chung của tất cả chúng ta, tôi chân thành mời anh chị em hãy dùng những bài hát của tôi để hát, đem đến tận phương trời xa, để làm Sáng Danh Thiê