Đường thơ ấu thiêng liêng và thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu

Đường thơ ấu thiêng liêng và thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu

Lm. Antôn Nguyễn mạnh Đồng

http://www.google.com/url?sa=i&source=images&cd=&cad=rja&uact=8&docid=4G2v4DDs8WiPCM&tbnid=cZgS685LgPQszM:&ved=0CAgQjRw&url=http://tramhuonglochung.byethost7.com/tramhuong/vi/news/Suy-Niem-Suy-Tu-Chia-Se/St-Terexa-Hai-Dong-Giesu-Con-duong-tho-au-36/&ei=dc0sVNHyDNi1ggSe9YDQAw&psig=AFQjCNGUE5DXMkP9MVl2GES9VNMjUduFKQ&ust=1412308725308105

Dường như Chúa muốn thi hành quyền năng của Người tùy lòng tin cậy phó thác của ta đối với Người , truyện một tâm hồn (TMTH 369,371,372). Và chị đã khám phá ra “cách trở nên trẻ em” là cách sống bé nhỏ như trẻ thơ, đó là luôn có lòng tin cậy phó thác hoàn toàn cho Chúa.

1. Đường thiêng liêng thơ ấu

Thánh trinh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu là người đã khởi xướng lên đường thiêng liêng thơ ấu, nguồn gốc cho nhiều cuộc mạo hiểm thiêng liêng trong thế kỷ XX, bắt đầu ở nước Pháp và sau ở nhiều nước trên thế giới. Các sách đạo ở Việt Nam thường nói đến “đường thơ ấu thiêng liêng” (dịch từ tiếng Pháp Voie spirituelle d’enfance hay voie d’enfance) hoặc nói đến “đường nhỏ” (petite voie). Thật ra đường thơ ấu thiêng liêng cũng chỉ là một đường thiêng liêng như nhiều đường thiêng liêng từ thời đầu của Hội Thánh, chỉ khác là có thêm từ “thơ ấu”.

Đường thiêng liêng là lối sống đạo của Kitô hữu tùy theo mỗi người thuộc nền văn hóa và hoàn cảnh xã hội khác nhau, ở mỗi thời mỗi nơi khác nhau mà thần học gọi là linh đạo, nghĩa là đường lối sống đạo theo Chúa Thánh Linh hướng dẫn. Ngày nay trong Hội Thánh, thường nhắc đến linh đạo của Thánh Augustinô, của Thánh Bênêđictô, của Thánh Phanxicô, của Thánh Đôminicô, của Thánh Inhaxiô, của Thánh Boscô, của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, nhưng riêng đường thiêng liêng của Thánh Têrêxa có tên là thơ ấu để phân biệt với các đường thiêng liêng khác đã kể trên.

Thơ ấu ở đây không thể hiểu theo giải nghĩa của từ điển là: rất ít tuổi, còn bé dại; cũng không thể hiểu là đường thiêng liêng cho con nít, mà phải hiểu theo Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, người đã được Phúc âm của Chúa Giêsu và được Chúa Thánh Thần hướng dẫn soi sáng, để suy niệm, sống theo, và dạy cho các tập sinh trong Dòng Kín ở Li-xi-ơ sống theo.

Như vậy đường thiêng liêng thơ ấu có nghĩa là linh đạo, là lối sống theo Chúa Thánh Thần “thổi hơi và gợi hứng” cho mỗi người, và mỗi người đón nhận hơi thổi và gợi hứng của Người để sống theo Phúc âm Chúa Kitô.

Linh đạo này bao gồm ba việc chính là: lắng nghe Lời Chúa, cách kết thân với Chúa, và sống theo Hội Thánh Chúa Kitô. Tuy nhiên mỗi Kitô hữu còn thuộc về một dân tộc có nền văn hóa riêng, còn sống trong những hoàn cảnh khác nhau tùy thời tùy nơi, nên cần phải biết hội nhập và thích ứng cho phù hợp. Còn “thơ ấu”, như đã nói ở trên, không có nghĩa là con nít, còn ít tuổi, còn bé dại mà phải hiểu đường thơ ấu của chị như chính chị đã gọi là “con đường nhỏ” hoặc “giáo thuyết bé nhỏ”. Thực ra trong các thủ bản chị không dùng “đời thiêng liêng thơ ấu”.

Vì thế vào hai năm cuối đời, chị đã vâng lời Bề trên Dòng để viết ba tập thủ bản A, B, C, sau được đúc kết thành Truyện Một Tâm Hồn (TMTH), trong đó chị đã trình bày những yếu tố chính: trước hết là lòng nhân từ thương xót của Cha trên trời; sau là chính bản thân và gia cảnh của chị, bối cảnh của tu viện, hoàn cảnh xã hội đương thời, tất cả đã góp phần giúp chị hình thành đường thiêng liêng thơ ấu của chị. Ta sẽ cùng nhau khám phá đời sống và giáo thuyết nhỏ của chị.

2. “Em chỉ là một cô gái không đủ sức làm việc và yếu đuối” (xem TMTH trang 388).

Để khám phá đời sống và đường thiêng liêng thơ ấu của chị, chúng ta rất may mắn có những tài liệu do chính tay chị viết để lưu lại cho nhà dòng, theo lệnh các Bề trên Dòng là chị ruột của chị. Đầu tiên Bề trên bảo chị tóm tắt cuộc đời thơ ấu (Thủ bản A), sau đó xin chị viết thêm về đời tu trong dòng (Thủ bản C), cuối cùng chị viết bổ túc để trình bày “giáo thuyết nhỏ” tức là đường thiêng liêng thơ ấu (Thủ bản B). Chị viết vào hai năm cuối cùng, khi bệnh tật, trước khi qua đời vào năm 24 tuổi. Chị viết vì vâng lời Bề trên chứ không để phổ biến cho mọi người nên chị trình bày rất chân thành, hồn nhiên. Cũng nên nhớ chị còn là một nhà thơ đã có hơn 50 bài thơ đạo.

Cuộc đời chị. Têrêxa là con gái út của gia đình ông bà Lu-y Mac-ti-nô, sinh ngày 2-1-1873 tại A-lăng-xông thuộc nước Pháp. Gia đình có 9 người con, hai trai bảy gái. Hai con trai đã theo hai chị về trời lúc còn non yếu. Còn lại là năm chị em gái lần lượt đều dâng mình cho Chúa trong các dòng. Chưa đầy 4 tuổi chị đã mồ côi mẹ. 8 tuổi phải đi học nội trú ở trường Li-xi-ơ. 10 tuổi bị bệnh nặng suýt chết. 11 tuổi được rước lễ lần đầu và thêm sức. 13 tuổi mắc bệnh bối rối về vấn đề đức khiết tịnh. 14 tuổi trải nghiệm đầu tiên về tội nhân cứng lòng không hối cải. 14 tuổi quyết định xin được đặc ân vào tu Dòng Kín sớm hơn luật định (đáng lẽ là 21 tuổi). 15 tuổi được nhận vào dòng kín Li-xi-ơ với tên Têrêxa Hài đồng Giêsu và Thánh Nhan. 17 tuổi tuyên khấn và đội lúp. 21 tuổi, ba của chị qua đời. 23 tuổi được làm tập sư coi tập sinh và được lệnh bề trên viết tự thuật, cuối năm 23 tuổi gặp thử thách rất nặng là bị thổ huyết vào thứ 6 Tuần Thánh tháng 3-1896. Rồi chị có ý thức là mình được ngồi bàn của những người tội lỗi với Chúa Giêsu, cũng ý thức mình có ơn gọi truyền giáo và ước ao truyền giáo. 24 tuổi sống những ngày cuối đời trong bệnh tật gây đau đớn hơn cũng như trong các cám dỗ về đức tin mạnh mẽ hơn. Cuối cùng sau cơn hấp hối kéo dài, chị qua đời ngày 8-7-1879.

Qua tự thuật của chị, ta thấy từ chỗ là con gái út trong gia đình đông con, vóc dáng thấp nhưng xinh đẹp, sức khỏe mong manh, tính tình tế nhị, bốn tuổi đã mồ côi mẹ, lớn lên đi học nội trú, gặp bệnh nặng suýt chết, bối rối kéo dài khi dậy thì, biết có những người tội lỗi cứng lòng không trở lại, muốn vào Dòng Kín mà chưa đủ tuổi, làm tập sư (coi tập sinh) chưa có nhiều kinh nghiệm vì quá trẻ, mắc bệnh ho lao thổ huyết phải liệt giường và trải qua cơn hấp hối lâu dài… tất cả không thể không làm chị phải mặc cảm tự ti như chính chị đã thú nhận: “em chỉ là cô gái không đủ sức làm việc và yếu đuối.” Tuy nhiên, chị không hề nản chí thất vọng nhưng ý thức “tất cả là hồng ân” của lòng Chúa là Cha nhân từ hay thương xót, và suy nghĩ cố gắng đáp lại tình yêu Chúa bằng đường thiêng liêng thơ ấu của chị.

3. Để lên trời chị đã chọn con đường bé nhỏ là tin cậy phó thác cho Chúa như trẻ thơ (xem TMTH trang 413,365,369,71)

Ý thức mình chỉ là cô gái không đủ sức làm việc và yếu đuối, phải trải qua bệnh tật và cám dỗ nặng nề, đáng lẽ chị phải mặc cảm tự ti, nản chí thất vọng. Nhưng trong suốt cuộc đời, chị lại cảm nghiệm được tình yêu nhân từ và thương xót của Chúa và Đức Maria, chị cũng nhờ ảnh hưởng lòng đạo đức của gia đình, chị đón nhận tất cả với trái tim tràn ngập biết ơn và yêu mến, bởi vì “ tất cả là hồng ân” (TMTH trang 366), nên chị quyết tâm nên thánh.

Từ 3 tuổi chị đã nhất định không từ chối Chúa điều gì – khi so sánh mình với các thánh chị thấy các ngài như núi mà chị như hạt cát – Chị biết Chúa nhân lành không bao giờ gợi lên trong chị những gì chị không thể làm được, và Người có thể dùng sự bé nhỏ yếu đuối để làm chị trở nên một vị thánh. Vì thế chị vui vẻ chấp nhận thân phận hạt cát và suy nghĩ: “tìm kiếm một con đường thẳng và ngắn nhất, cũng như hoàn hảo nhất để nên thánh” (TMTH trang 413). Chị mở Kinh Thánh và thấy trong Phúc âm thánh Mát-thêu Chúa Giêsu nói với các tông đồ: “Nếu anh em không quay trở lại mà nên như trẻ em thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18, 3). Lời Chúa nói đây là nói cho tất cả mọi người lớn nhỏ. Nên chị nghĩ rằng việc của chị là phải làm sao cứ mãi mãi như trẻ nhỏ , dù lúc này chị đã là nữ tu 23 tuổi. Chị tưởng tượng ra cảnh một em bé chưa biết đi muốn lên với mẹ đang ở trên đầu thang. Em cố gắng nhấc chân lên bậc thang thứ nhất nhưng lần nào cũng té xuống không lên được. Thấy vậy cuối cùng mẹ em bước xuống bồng em lên với mẹ trên tay… Chị giải thích rằng Chúa như người cha nhân từ toàn năng và hay thương xót , Người mời gọi và thúc đẩy ta nên thánh, dù biết ta yếu đuối.

Nếu ta có thiện chí cố gắng tin cậy và phó thác hoàn toàn cho Người để cứ leo lên, thế nào Người cũng sẽ mau mắn cứu giúp họ (TMTH – trang 414): “lòng tin của con đã chữa con” (Mt 9,22) “anh tin thế nào thì được như vậy” (Mt 10,29), “lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được như vậy” (Mt 15,28)… dường như Chúa muốn thi hành quyền năng của Người tùy lòng tin cậy phó thác của ta đối với Người (TMTH 369,371,372). Và chị đã khám phá ra “cách trở nên trẻ em” là cách sống bé nhỏ như trẻ thơ, đó là luôn có lòng tin cậy phó thác hoàn toàn cho Chúa. Chị coi đó là cái thang máy đem chị lên với Chúa mà “thang máy đó chính là cánh tay của Chúa Giêsu” (TMTH trang 414).

Tại sao như vậy ? Chị thấy rằng tin cậy và phó thác hoàn toàn cho Chúa là dấu hiệu cốt yếu nhất của tình yêu đích thực. Nếu hai người yêu nhau mà còn nghi ngờ, sợ hãi nhau thì chưa phải là yêu. Chúa đã yêu con người hết mình và vô điều kiện thì con người phải yêu Chúa với tình yêu cũng hết mình và vô điều kiện. “Lấy tình yêu đáp lại tình yêu” (TMTH trang 372). Chị đã tìm thấy trong thư 1.Cor.13,31 thánh Phaolô nói đến con đường trổi vượt hơn cả đó là đức ái, hiểu theo nghĩa là tình yêu đối với Chúa. Chị suy nghĩ thêm rằng: Tình yêu đối với Chúa bao gồm mọi ơn gọi, không có tình yêu ấy thì các tông đồ chẳng còn rao giảng Phúc âm nữa, các vị tử đạo sẽ từ chối đổ máu mình ra (TMTH trang 386). Tình yêu đòi lòng tin cậy phó thác hoàn toàn cho Chúa cả xác hồn chứ không phải cách trừu tượng và phải được biểu lộ cụ thể trong cách kết thân với Chúa là cầu nguyện mà chị coi là “vũ khí có sức mạnh vô địch” Chúa ban cho chị (TMTH trang 476). Đồng thời tình yêu cũng đòi hỏi phải thể hiện trong hành động (TMTH trang 455). Cho nên chị cố gắng chu toàn những việc nhỏ mọn trong bổn phận hằng ngày bằng một tình yêu hết mình.

Trong tu viện chị chỉ có những việc như may giặt, quét nhà , làm cỏ, dọn bàn ăn, múc nước, dọn phòng thánh, dạy các tập sinh, viết tự thuật, chịu đau khổ vì bệnh tật, cám dỗ về đức tin… Do đó khi chị may giặt, quét nhà , làm cỏ, dọn bàn ăn… chịu bệnh tật, cám dỗ… chị sẽ yêu bằng một tình yêu phi thường, vì chỉ có tình yêu mới quan trọng, chỉ có tình yêu mới cứu rỗi “Chị yêu đến chết vì yêu “ (TMTH trang 429).

4. Ba ham mê của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu

Ý thức mình chỉ là cô bé không đủ sức làm việc và yếu đuối, và cũng ý thức mình được Chúa mời gọi để về trời bằng con đường nhỏ bé, đó là sống hoàn toàn tin cậy và phó thác cho Chúa như trẻ thơ. Tuy chỉ là một nữ tu ẩn mình trong những bức tường của Dòng Kín, thế mà chị luôn hướng cuộc đời tới Chúa, tới cánh đồng truyền giáo trên thế giới, trong đó có các linh mục, có biết bao người chưa biết Chúa, biết bao người tội lỗi. Vì thế chị đã không chỉ lo về trời một mình, nhưng chọn thể hiện con đường nhỏ bé của chị trong ba ham mê lớn: đó là cầu nguyện cho các linh mục, cầu nguyện cho các người tội lỗi, và làm việc truyền giáo.

4.1 “Em say mê cầu nguyện cho các linh mục lẽ ra phải trong sáng như pha lê” (TMTH trang 240)

Chị đã có dịp gặp nhiều linh mục thánh thiện và chị nghĩ rằng “Nếu phẩm chức cao vời của các ngài nâng cao các ngài lên trên các thiên thần thì các ngài cũng còn là những con người yếu đuối mỏng manh… Nếu các linh mục thánh thiện mà trong Phúc Âm Chúa Giêsu đã gọi là “muối của trần gian” chứng tỏ bằng hành vi của các ngài còn hết sức cần đến những lời cầu nguyện, thì phải nói gì về những linh mục nguội lạnh? Chúa Giêsu đã chẳng nói thêm “Nếu muối đã ra lạt thì lấy gì ướp cho nó mặn lại được” (Mt 5,13). Chị ý thức rằng: “mục đích duy nhất của các kinh nguyện và hy sinh của ơn gọi Cát Minh là làm tông đồ cho các tông đồ” (TMTH trang 241). Và trong thư gởi Mẹ Bề trên, chị viết: “Chúng ta đặc biệt phải cứu rỗi các linh hồn của các linh mục, các linh mục này lẽ ra phải trong sáng hơn pha lê”. Vì thế chị đã nhận “một em trai đầu lòng” là linh mục Maurice Barthélémy Bellière đi truyền giáo bên Alger, Phi Châu (TMTH trang 495), và em trai thứ 2 là cha Adolphe Roulland đi truyền giáo bên Trung Hoa (TMTH trang 500).

4.2 Em cháy bỏng niềm ao ước muốn giải thoát các linh hồn trong tội (TMTH trang 200)

Ngay từ khi được 14 tuổi, chưa đi tu, khi chị hay tin có anh Henri Pranzini 31 tuổi đã giết 2 phụ nữ và một bé gái để cướp của, anh bị kết án tử hình, nhưng anh nhất định không xưng tội và tỏ dấu hối cải nào. Chị biết mình chẳng làm gì được, nhưng cậy nhờ ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu và công phúc của Hội Thánh, chị còn xin lễ cho anh. Thế rồi vào giờ chót trước khi lên máy chém, khi linh mục đưa thánh giá cho anh, anh đã cầm lấy và hôn ba lần (THTM trang 201 -202). Sau khi vào dòng, chị có thêm nỗi lo là số phận của bao người tội lỗi, vô thần, duy vật… Chị phải tham dự vào công cuộc cứu rỗi của Chúa Giêsu và Hội Thánh, chị say mê cầu nguyện rằng: “Xin Chúa cho con được nghiền nát vì cảm thương các tội nhân, vì các linh hồn chung quanh con”. Chị gọi những người tội lỗi là “anh chị em tội lỗi của Giêsu”, và chị cũng gọi họ là ”anh chị em của chị” và xin Chúa “tha thứ cho các anh chị em của chị”. Chị chấp nhận “ăn bánh đau khổ và hoàn toàn không muốn rời khỏi bàn ăn cay đắng nơi những người tội lỗi đáng thương ngồi ăn” (TMTH trang 422- 423) , như Chúa Giêsu xưa đã ngồi cùng bàn với người thu thuế và tội lỗi (Mt 9,10). Đến cuối đời khi đang hấp hối, chị nhìn sang Mẹ Bề trên và nói “chén đắng đã đầy miệng rồi. Không bao giờ con dám tưởng mình có thể chịu đau khổ tới mức này… con chỉ có thể hiểu rằng con chịu được là bởi lòng con rất thiết tha với phần rỗi các linh hồn”.

4.3 Em có ơn gọi làm tông đồ. Em muốn làm nhà truyền giáo

Cầu nguyện cho các linh mục, cho người tội lỗi, chị còn rất thiết tha với việc làm tông đồ: “Em cảm thấy muốn làm chiến binh, linh mục, tông đồ, tiến sĩ, tử đạo… muốn thực hiện mọi công trình anh hùng nhất” (TMTH trang 381)… “Em muốn đi khắp mặt đất, rao giảng danh Chúa Giêsu và trồng cây thập giá vinh hiển của Người trên mãnh đất vô đạo, đồng thời em muốn loan báo Phúc âm trên khắp Năm Châu cho tới tận những hải đảo xa xôi nhất… Em muốn là nhà truyền giáo không phải chỉ trong vài năm, nhưng em muốn là như vậy từ khi có vũ trụ này cho đến tận thế… Em muốn đổ cho tới giọt máu cuối cùng vì Người” (TMTH trang 382). Về cuối đời chị phải vâng lời nữ tu coi sóc chị đi bộ mỗi ngày 15 phút. Thấy chị đi lại quá mệt nhọc, có một chị khuyên: chị nên về nằm nghỉ thì hơn. Chị đáp lại: “Đúng thế. Nhưng chị có biết em lấy sức mạnh ở đâu mà đi được như vậy không? Em đi để cầu nguyện cho một xứ truyền giáo, với ý nghĩ rằng ở nơi xa xăm đó có vị truyền giáo có lẽ đang kiệt sức vì miệt mài lo mở mang Nước Chúa, em muốn dâng lên Chúa những bước đi mệt nhọc này để cho vị tông đồ ấy đỡ mệt mỏi…”.

5. ĐỂ KẾT

Trước tiên là trình bày ý kiến của các vị chủ chăn trong Hội Thánh về Thánh nữ Têrêsa và đường thiêng liêng thơ ấu của chị. Sau sẽ bàn về đường thiêng liêng thơ ấu và và việc Tân Phúc Âm hóa.

5.1. ý kiến của các vị chủ chăn trong Hội Thánh

– Đức giáo hoàng Piô XI. Khi phong thánh cho thánh nữ Têrêxa năm 1925 đã nói: “Vị Thánh Têrêxa mới đã thấm nhuần đạo lý Phúc Âm và đã thực hành đạo lý ấy trong đời sống hằng ngày của chị. Hơn nữa, bằng lời nói và gương sáng chị đã dạy con đường thiêng liêng thơ ấu cho các tập sinh trong tu viện, và đã trình bày cho mọi người bằng các tập viết được phổ biến trên khắp thế giới… theo lời chứng của vị tiền nhiệm của chúng tội là đức thánh cha Bênêdictô XV, chị đã học được một khoa học tuyệt vời về những điều siêu nhiệm khiến chị có thể vạch ra cho người khác một con đường cứu rỗi chắc chắn.” Hai năm sau, chị được ngài tôn làm Bổn mạng các xứ truyền giáo (1927).

– Đức thánh giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã tấn phong Thánh Têrêsa làm Tiến sĩ Hội Thánh trẻ nhất, mới 24 tuổi, trong số 33 thánh Tiến sĩ Hội Thánh. Khi tuyên phong năm 1997 ngài đã nói “lý do trước tiên thánh nữ là một phụ nữ, rồi là một vị thánh rất trẻ đã sống hầu như cùng thời với chúng ta, và có một ảnh hưởng đối với quần chúng hôm nay”. Thánh nữ không hề cắp sách đến Đại học, không hề dự khóa thần học quy củ nào cũng chẳng có bằng cấp gì.

– Đức giáo hoàng Bênêdictô XVI, khi còn làm hồng y đứng đầu Bộ Giáo lý Đức tin, nhân dịp phong Tiến sĩ cho thánh Têrêxa có nói: “Đối với danh hiệu tiến sĩ Hội Thánh tôi nghĩ cần hai tiêu chuẩn cơ bản: sự tỏa sáng thiêng liêng trên khắp thế giới, và chiều sâu giáo thuyết. Chắc chắn thánh nữ Têrêxa đáp ứng đủ hai tiêu chuẩn này”.

Cũng nên nhớ đức đương kim giáo hoàng Phanxicô đã phong chân phước cho ông bà Lu-y Mac-ti-nô, cha mẹ của thánh nữ, vào ngày 19-8-2008 tại Li-xi-ơ.

5.2 Đường thiêng liêng thơ ấu với Tân phúc âm hóa

Toàn Hội thánh đang tiến hành công cuộc Tân phúc âm hóa nghĩa là lấy nhiệt tình mới để vận dụng Phúc âm một cách mới mẻ, phù hợp hơn với con người và xã hội thời nay, những con người đang bị lôi cuốn theo dòng chảy của tục hóa, của vô thần, duy vật, của hưởng thụ, vô cảm… muốn gạt bỏ Thiên Chúa và tình yêu thương của Người; đang gây ra nhiều hậu quả tang thương cho cả thế giới loài người.

Thiên Chúa là tình yêu đã tạo dựng con người giống hình ảnh Người để họ biết yêu Chúa, yêu nhau, sống hạnh phúc với nhau như trong địa đàng. Nhưng ông A-dong và bà E-và, nguyên tổ loài người, đã không muốn vâng phục Chúa, không muốn kết thân với Chúa, khiến cả thế giới loài người trở thành địa ngục trần gian. Tuy nhiên,vì Thiên Chúa luôn yêu thương đã cử Chúa Giêsu xuống trần gian để cứu rỗi loài người bằng con đường vâng phục, hạ mình xuống vác khổ giá và chịu chết, để chứng tỏ tình yêu vô biên và trung tín. Đó chính là Phúc âm của Chúa Giêsu, Phúc âm đã kêu gọi mọi người muốn được hạnh phúc trong Nước Chúa thì phải trở nên như trẻ thơ. Trẻ thơ cốt tại lòng tin cậy và phó thác hết mình cho Chúa.

***Như vậy đường thiêng liêng thơ ấu của thánh nữ Têrêxa là con đường nhỏ,một cách hữu hiệu và phù hợp nhất để Phúc âm hóa con người và xã hội ngày nay, chắc chắn giúp họ thoát khỏi cảnh một thế giới hỗn loạn vô chủ, và sống với nhau theo luật rừng vì không có Chúa…

Thánh nữ Têrêxa đã nghe Lời Chúa, chọn con đường thiêng liêng thơ ấu, để ham mê sống kết thân với Chúa bằng tin cậy, yêu mến, phó thác hoàn toàn cho Chúa, để cầu nguyện cho các linh mục, cầu nguyện cho mọi người tội lỗi, cầu nguyện cho việc Phúc âm hóa. Chị đã hứa: “khi về trời sẽ làm mưa hoa hồng xuống trần gian”. Hoa hồng đây là những ân sủng Chúa ban cho những ai thực hành con đường thiêng liêng thơ ấu với lòng yêu mến và hy sinh. Còn Kitô hữu chúng ta đang đi theo con đường thiêng liêng nào? Có ham mê trở thành đèn sáng, nên muối mặn để phục vụ nhân loại không (Mt 20, 28), hay chỉ ham mê trở thành “ông vua nhỏ” trong giáo phận, trong giáo xứ, trong gia đình, trong xã hội để cai trị (Mt 20, 25).

Xin mượn một đoạn thơ bốn câu trong bài thơ “Bài ca hôm nay của em” của Thánh Têrêxa để kết thúc bài này:

Đời em như gió thoảng
Đời em tựa mây bay
Có chi mà lo lắng,
Yêu Chúa trọn hôm nay.

(Bản dịch sang thơ Việt của nhà thơ Sảng Đình, cha J.M.Thích).
Lạy thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu, xin mưa hoa hồng xuống trần gian, xin cầu cho chúng con. Amen.

Lễ Thánh Têrêxa 2014

Lm. Antôn Nguyễn mạnh Đồng
Nhà Hưu Dưỡng linh mục Cần Thơ

Anh chị Thụ Mai gởi

DÙ CON NGƯỜI BẤT TRUNG, THIÊN CHÚA VẪN MỘT LÒNG TRUNG TÍN

DÙ CON NGƯỜI BẤT TRUNG, THIÊN CHÚA VẪN MỘT LÒNG TRUNG TÍN

(Mt 21, 33-43)

Tác giả: Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Tiếp theo dụ ngôn “Hai người con”: Người cha sai hai đứa con vào làm vườn nho (x. Mt 21, 28-32). Đức Giê-su kể cho thượng tế và kỳ lão nghe dụ ngôn “Những tá điền sát nhân” (x. Mt 21, 33-43). Quả thật, Vườn nho của Chúa là nhà Israel, Thiên Chúa đã tuyển chọn và coi như một vườn nho đặc tuyển được Chúa chăm sóc, bảo vệ, (“Bài ca vườn nho” – Is 5, 1-7) là một bằng chứng : “Vườn nho của Chúa các đạo binh là nhà Israel, và người Giuđa là chồi cây Chúa vui thích” (Is 5, 7). Tình yêu của ông chủ với vườn nho, hay cụ thể là mối tình giữa Thiên Chúa với Dân Ngài thật đậm đà, thắm thiết. Thiên Chúa đã không tiếc gì đối với dân : “Người tôi yêu có một vườn nho trên đồi xinh tươi. Người rào giậu, nhặt đá, trồng cây chọn lọc, xây tháp giữa vườn, lập máy ép trong vườn, và trông mong nó sinh quả nho” nhưng hỡi ôi, “nó lại sinh toàn nho dại” (Is 5, 2).

Điều gì phải đến sẽ đến, ông chủ “sẽ phá hàng rào, để nó bị tàn phá, sẽ phá tường để nó phải bị giầy đạp. Ta sẽ bỏ nó hoang vu, không cắt tỉa, không vun xới; gai góc sẽ mọc lên, và ta sẽ khiến mây không mưa xuống trên nó” (Is 5, 5-6). Ngụ ý nói : “Thiên Chúa trông mong Israel thực hành đức công bình, nhưng đây toàn là tiếng kêu oan” (Is 5, 7). Theo lẽ thường, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ giáng xuống Israel. Nhưng Thiên Chúa “không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người ăn năn hối cải” (2 Pr 3, 9). Nên, mới giao vườn nho cho những tá điền chăm sóc (x. Mt 21, 33-43).

Gọi vào làm vườn nho và chăm sóc vườn nho là sáng kiến ​​của Thiên Chúa. Ngài đã chọn dân Israel. Ngài tin tưởng và ban cho dân những điều kiện để sống xứng đáng trong Vương Quốc của Ngài. Ngài gọi dân vào làm vườn nho thể thiện tương quan đặc biệt giữa Ngài với dân. Việc trồng nho lấy quả, ép rượu, theo truyền thống Kinh Thánh là dấu hiệu của niềm vui phồn thịnh.

Thiên Chúa lấy tình yêu mà chăm sóc dân Chúa để nó sinh nhiều trái tốt, là sống công chính hoan lạc trong tình yêu. Cây nho sinh trái, thể hiện tình yêu từ Thiên Chúa xuống với con người, trung thành với lề luật Chúa là đáp lại tình yêu ấy. Yêu thương con người là sáng kiến của Thiên Chúa, vì Ngài đã chủ động yêu thương. Thảm kịch đối với dân được chọn là khước từ kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, cho dù bao lần Ngài dùng miệng các tiên tri không ngừng mời gọi dân hoán cải, thậm trí sai chính Con của Ngài đến kêu gọi, dân chúng vẫn chọn sự bất trung với Thiên Chúa, ngược đãi với Con Ngài .

Chúa Giêsu lấy lại và tiếp tục lời than của Thiên Chúa trong Isaia (x. Is 5, 1-7). Chính ở đó chúng ta gặp được chìa khóa cho dụ ngôn. Tại sao Thiên Chúa “trồng một vườn nho” và Thiên Chúa đến tìm những “hoa quả “ nào?

Những tá điền không trồng nho và chăm sóc vườn nho vì thương yêu vườn nho, nhưng vì lợi ích riêng của chính mình. Thiên Chúa thì khác. Ngài dựng nên con người và lập giao ước với con người, không phải vì lợi ích cho Thiên Chúa, nhưng vì yêu thương và ích lợi cho con người mà thôi. Những hoa quả được trông đợi từ con người là tình yêu đối Thiên Chúa và sự công bình đối với những kẻ bị áp bức: tất cả là vì con người, chứ không phải cho Thiên Chúa.

Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và dân Israel, đồng thời phác họa lịch sử tương quan của Thiên Chúa với toàn thể nhân loại chúng ta. Chúng ta có thể trách cứ dân Israel hay cha ông họ là những tá điền sát nhân, vì chẳng những từ chối tình yêu thương của Thiên Chúa mà còn giết hại chính Con Một Ngài. Coi chừng câu nói : “Đứa con thừa tự kia rồi, nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó”(Mt 21,38) lại là của chính chúng ta. Bởi lẽ, ngày hôm nay chúng ta phải nói rằng Chúa Giêsu đã “bị quăng ra ngoài vườn nho,” bị quăng ra ngoài bởi những người xưng mình là Kitô hữu, hay là có khi phản Kitô hữu. Những lời nói của những tá điền vườn nho dội lên không bằng lời thì cũng ít nhất bằng những việc làm trong xã hội tục hóa ngày nay. Nhân loại tục hóa muốn làm người thừa tự, làm ông chủ.

Chúng ta tự hỏi: Tôi đã chuẩn bị thế nào để Chúa Kitô sống trong tôi? Tôi đáp trả tình yêu vô biên của Chúa dành cho tôi bằng cách nào? Tôi đã tình cờ quăng Người ra ngoài nhà tôi, ngoài sự sống của tôi; nghĩa là tôi đã quên và không biết Chúa Kitô chăng?

Thiên Chúa vẫn một lòng trung tín. Tình yêu của Ngài mạnh hơn tội lỗi và sự bất trung của con người. Ngài tiếp tục sai chính Con Một Ngài đến trao nộp vì chúng ta để bảo đảm cho tới cùng tình yêu trao ban cứu độ thế gian.

Lịch sử nhân loại được hoàn tất nhờ cái chết trên Thập giá. Nhờ cái chết, Chúa Giêsu đã tiêu diệt sự dữ. Nhờ phục sinh, Thiên Chúa đã nâng con người lên bằng sức mạnh của tình yêu, Người đã tiêu diệt hận thù. “Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc ” (Mt 21, 42), đền thờ Thiên Chúa được phục hồi. Vườn nho trở nên Vương Quốc của Giao Ước Mới, vì Nước Trời không bị phá hủy, từ nay “ Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái” (Mt 21, 43).

Ông chủ vườn nho nói : “Chúng sẽ nễ con Ta” (Mt 21, 37). Giờ đây, Cha trên trời sắp sai Con của Người đến với chúng ta trong Bí tích Mình và Máu Người. Ta có hiểu sự cao trọng lúc này không? Ta có sẵn sàng đón tiếp Người với sự sùng kính mà Chúa Cha mong đợi không?

Hôm nay chúng ta đọc lại lịch sử Dân Chúa chọn để lên án sự loại bỏ Đức Kitô do Chúa Cha sai đến. Nhưng cũng ý thức về sự khốn cùng của chúng ta khi loại bỏ “viên đá góc”, lúc chúng ta có ý xây dựng thế giới này theo tiêu chí của chúng ta, tự coi mình là những ông chủ vườn nho của Chúa.

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, tình thương Chúa thật là cao cả, vượt xa mọi công trạng và ước muốn của con người, xin rộng tình tha thứ những lỗi lầm cắt rứt lương tâm chúng con, và thương ban những ơn trọng đại, lòng chúng con chẳng dám mơ tưởng bao giờ” (Lời nguyện Nhập lễ). Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Văn Hóa “Giả Vờ” ở Việt Nam

Văn Hóa “Giả Vờ” ở Việt Nam

Lê Nhân Chính

Sống trong một đất nước lúc nào cũng lo sợ bị “Ăn Cắp” và phải cố tập cho mình tính “Giả Vờ”… thật là “Đau Đầu”, “Nhức Óc” !!. Bài viết phiếm luận nầy rất hay vì nói lên đầy đủ những tệ trạng của một xã hội KHÔNG CÒN NHÂN TÍNH CON NGƯỜI.

Tôi không bênh vực những Tiếp viên Hàng không bằng lý do ngô nghê là họ phải đút lót để đựơc có việc làm trong Air VN, nên họ phải buôn lậu chuyển hàng ăn cắp để gỡ vốn chứ ! Mà tôi thực sự thương hại họ, vì ” Quít trồng Giang Nam thì ngọt, trồng Giang Bắc lại chua !”

Ngay khi chào đời, họ đã bị sinh ra trong một bệnh viện “ăn cắp”: Bác sĩ, Y tá “ăn cắp” phong bì của bệnh nhân, “ăn cắp” thuốc tiêm chủng ngừa bằng cách chia phân lượng thuốc tiêm ra nhiều phần, không đủ tiêu chuẩn, “ăn cắp” thủy tinh thể nhân tạo của Mỹ, rồi thay thế bằng sản phẩm Ấn Độ để “ăn cắp” giá tiền sai biệt.

Khi lớn lên, họ lại đi học trong những trường học “ăn cắp”: Giáo sư “ăn cắp” công trình trí tuệ của người khác, học sinh, Sinh viên “ăn cắp” bảng điểm, “ăn cắp” bằng cấp dỏm bằng phong bì.

Khi bắt đầu bước vào xã hội, bước đầu tiên, họ đã bị Lãnh đạo “ăn cắp” tiền đút lót để được có việc làm, nên họ phải tiến vào quỹ đạo ăn cắp, họ ăn cắp dự án, ăn cắp đất của nông dân, họ ăn cắp tiền phạt giao thông, họ ăn cắp sinh mạng của người dân bằng tra tấn, nhục hình …..

Vì vậy , khi tôi nhìn thấy những cô Ca sĩ, Hoa hậu, Người mẫu, vênh váo khoe khoang quần áo, túi xách, giầy dép hàng hiệu, xe “khủng”, nhà “khủng”, tôi thương hại họ quá, họ cũng bị “ăn cắp” trinh tiết, bị “ăn cắp” phẩm giá, anh ạ ! Tôi có con gái, và con gái tôi may mắn, được giáo dục tại trường học phân biệt điều phải, điều trái, được tôn trọng nhân phẩm.
Khi về Việt Nam, nhiều lần, xe người bạn chở tôi đi, bị công an thổi còi, rồi công an vòi vĩnh, xòe tay cầm tiền hối lộ. Tôi rơi nước mắt, họ còn nhỏ tuổi hơn con trai tôi. Con trai tôi có công ăn việc làm, nuôi con cái bằng chính sức lao động của mình, dạy con, làm gương cho con bằng chính nhân cách của mình . Những người công an trẻ đó cũng bị “ăn cắp” lương tâm, phải không anh?. Khi những người công an, đánh người, giết người, họ được bố thí trả công bằng vài bữa ăn nhậu, chút đồng tiền rơi rớt.

Khi những phóng viên, bẻ cong ngòi bút, viết xuống những điều trái với lương tâm, sự thật để được bố thí trả công bằng những nấc thang chức vị, những đồng lương tanh tưởi, nhà văn Vũ Hạnh đã gọi đó là “Bút Máu” đấy anh ơi !

Khi những quan tòa, đổi trắng thay đen, cầm cán cân công lý có chứa thủy ngân như trong truyện cổ Việt Nam, họ cũng bị “ăn cắp” nhân tính mất rồi !

Trong xã hội, toàn là “ăn cắp”, vậy thì kẻ cắp là ai? Ai cũng biết, nhưng giả vờ không biết, Vì Văn hóa “giả vờ” là đồng lõa cho xã hội ăn cắp.

Cán bộ lãnh lương 200 đô la một tháng, xây nhà chục triệu nhưng giả vờ” đó là công sức lao động tay chân, và trí tuệ, hay quà tặng của cô em “kết nghĩa”? Tôi muốn xin cô em đó cho tôi được làm “con kết nghĩa ” của cô ta quá. Thế mà có những Lãnh đạo, Ủy viên Trung Ương Đảng, Đại biểu Quốc Hội, Ban Nội Chính, Ủy Ban Điều Tra, Quan Tòa “Thiết Diện Vô Tư”, Phóng viên Lề phải, Thành Đoàn, Quân Đội Nhân Dân, Chiến sĩ Công An, Trí thức Yêu Nước, Việt Kiều Yêu Nước sẽ sẵn sàng giả vờ tin vào quà tặng của “cô em kết nghĩa” đó!

Còn có thể trong tương lai, sẽ có nhiều quan chức sẽ nhận được nhà “khủng”, quà tặng của ông anh kết nghĩa, bà chị kết nghĩa, ông bố kết nghĩa, ông cố nội kết nghĩa, khi không tìm ra con người nữa, sẽ tiếp theo con chó kết nghĩa, con trâu kết nghĩa nữa …

Công chúa mặc áo đầm hồng, ưỡn ẹo trên đôi giày cao gót hồng, đi thị sát công trường xây dựng, theo sau là một đoàn Chuyên viên già tuổi tác, thâm niên công vụ, nhưng ai nấy vui vẻ, hớn hở, giả vờ Công chúa là một Chủ tịch tài năng thiên phú, không cần đi học, không cần kinh nghiệm gì cả . Y như tên nhóc Bắc Hàn mặt búng ra sửa Ủn Ỉn, và đoàn tùy tùng Tướng già của thằng con nít đó vậy …

Toàn đảng đều “giả vờ” tin rằng các Hoàng tử, Công chúa đều là thiên tài không đợi tuổi, mặt trẻ ranh mà nhảy lên ngồi trên đầu các nhà cách mạng lão thành, và ai nấy đều “giả vờ” tán tụng khen thơm như múi mít !. Thượng bất chính, hạ tắc loạn:

“Thanh tra, thanh mẹ, thanh gì?
Hễ có phong bì thì Nó “Thank you”!

Tôi buồn lắm, có đôi khi quá tuyệt vọng, tôi tự hỏi, mình có nên quên mình là người Việt Nam như con đà điểu vùi đầu trong cát, như quả chuối ngoài vàng, trong trắng, vì tôi yêu nước Mỹ quá rồi. Nước Mỹ chưa, và có lẽ không bao giờ hoàn hảo, nhưng ở đây, ít nhất không ai có thể “ăn cắp” lương tâm, phẩm giá, và nhân tính của tôi. Tôi được sống như một “CON NGƯỜI” không phải chỉ “giả vờ ” “làm người” đang sống đâu …..

Một Ông Hồ Khác

Một Ông Hồ Khác

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Ta chỉ có thể thanh toán những điều xấu của quá khứ bằng cách thẳng thắn lôi nó ra ánh sáng của hiện tại, để cùng nhau nhận diện nó, lên án nó, để vĩnh viễn không cho nó tái diễn. Mà quá khứ cách mạng của ta thì đã tích tụ quá nặng nề những di sản xấu ấy.

Trần Đức Thảo

Bên dưới bài viết (“Giới Thiệu Đèn Cù”) của nhà báo Ngô Nhân Dụng, trên trang Dân Luận, có phản hồi này:

Khách Ngô Văn Gạch (khách viếng thăm) gửi lúc 15:09, 03/09/2014 – mã số 127424

VTV tối qua (2-9) đưa tin có ông cựu chiến binh tên là Suất ở Hà Nội sưu tầm những tư liệu về Hồ và trưng bày tại tư gia, nhiều học sinh ở các trường trung học phổ thông đến đấy tham quan coi như được giáo dục về việc học tập về tư tưởng và đạo đức của Hồ.

Giá ai có điều kiện tặng cho ông Suất một cuốn Đèn cù để bổ sung cho việc sưu tầm của ông ta thì tốt quá. Tôi quả quyết rằng nếu có cuốn đó trong nhà ông ta thì khối người bỏ tiền ra mua vé vào xem để hiểu hơn và sâu sắc về tư tưởng “đạo đức” của vị “cha già đời của dân tộc”.

“Khi con người ta bị lừa thì cái rác cũng biến thành thiêng liêng”. Dân ta đã và đang bị lừa. Hồ chính là cái rác, lại rước cái chủ nghĩa Mác Lên nin vào gieo rắc tai họa cho dân tộc trong khi cả thế giới đã vứt chủ nghiã Mác Lênin vào sọt rác rồi.

Sau vài phút lò dò trên mạng thì tôi biết thêm rằng ông cựu chiến binh này tên chính xác là Lương Minh Suốt, 67 tuổi, thương binh chống Mỹ, huy hiệu 40 năm tuổi Ðảng, thuộc chi bộ 3, đảng bộ phường Việt Hưng. Ông là người “có kho tư liệu quý về cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Hồ,” theo như ghi nhận của báo Nhân Dân – số ra ngày 31 tháng 8 năm 2014.

Ông Lương Minh Suốt cũng cho phóng viên của tờ báo này biết thêm phương cách giáo dục thiếu nhi, bằng hình ảnh:

“Ở gia đình có trẻ nhỏ chưa học chữ, thông qua hình ảnh, các cháu cũng học Bác được. Thí dụ: khi xem ảnh Bác Hồ kính cẩn nhường bát cháo cho cụ già, Bác ngồi tắm rửa cho thiếu nhi ở Việt Bắc… thì các cháu hiểu được Bác Hồ là người kính trọng người già và thương yêu trẻ nhỏ và các cháu có thể kể lại chuyện đó thông qua hình ảnh mà chúng quan sát được.”

Công khó, và lòng kính trọng của ông Suốt đối với bác Hồ khiến tôi nhớ đến một bài viết công phu (“Chủ Tịch Hồ Chí Minh Trên Bìa Tạp Chí Times”) của nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên. Ông cũng bỏ thời gian sưu tập, đúc kết những số báo Time viết về “cuộc đời và sự nghiệp của Bác Hồ kính yêu của chúng ta” rồi chuyển dịch sang tiếng Việt Ngữ để chia sẻ với mọi người. Xin được ghi lại vài ba đoạn chính để rộng đương dư luận:

Tạp chí Time của Mỹ ra đời năm 1923. Trong hơn tám mươi lăm năm qua, đã có năm lần hình ảnh chủ tịch Hồ Chí Minh của Việt Nam xuất hiện trên trang bìa tạp chí này.

Lần thứ nhất chân dung Bác Hồ xuất hiện ở bìa số ra ngày 22.11.1954 với chủ đề “Hồ Chí Minh của Đông Dương”. Bài viết cho ảnh trang bìa là nói về sự kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp, miền Bắc Việt Nam sống dưới chế độ cách mạng của chính quyền Hồ Chí Minh…

Ấn tượng về lãnh tụ Việt Minh được thể hiện qua câu chuyện sau được tác giả bài viết kể lại. Một người dân Việt Nam ở trong thành phố vừa được giải phóng nói rằng mình đã được thấy ông Hồ. “Ông ấy là tấm gương sống của một nhà cách mạng. Ông ấy có một cuộc đời riêng không thể nào chê trách được. Ông ấy ăn mặc giản dị. Ông ấy là một người thông minh. Ông ấy nói tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Trung và tiếng Việt. Ông ấy rất khéo léo: khi ông ấy nói chuyện với mọi người ông ấy nói thẳng thắn để đứa bé lên tám cũng hiểu được. Ông ấy nhẫn nại vô cùng. Ông ấy đã hy sinh cả cuộc đời riêng của mình cho cách mạng…”

Lần thứ hai chân dung Bác Hồ xuất hiện ở bìa số ra ngày 16.7.1965 với chủ đề “Việt Nam: Miền Bắc không khoan nhượng”. Đây là một năm sau ngày đế quốc Mỹ đưa máy bay ra ném bom phá hoại miền Bắc. Bài viết cho ảnh trang bìa mang đầu đề “Bắc Việt Nam: Nhà mác xít trong rừng sâu”.

Chiến tranh ngày càng lan rộng, đất nước phải đương đầu với cường quốc quân sự mạnh nhất thế giới. Nhưng “Hà Nội đã chuẩn bị cho cuộc chiến tranh toàn thể. Hồ Chí Minh là thế, vị thánh râu dài của nước Việt Nam cộng sản, ở tuổi 75, ông là lãnh tụ phe Đỏ già nhất, từng trải nhất…

Lần thứ ba Hồ Chí Minh xuất hiện trên trang bìa của Time là trong bức ảnh chụp chung với nhà ngoại giao Shelepin ở số ra ngày 14.1.1966. Bìa số này đăng hai bức ảnh, phía trên bức này là bức ảnh chụp tổng thống Mỹ Johnson và các cố vấn đang họp bàn tại Ranch. Chủ đề của số này là “Cuộc tấn công hòa bình của Mỹ và sự đáp trả của cộng sản”.

Lần thứ tư chân dung Hồ Chí Minh lại xuất hiện trên trang bìa Time là ở số ra ngày 12.9.1969. Lúc này lãnh tụ Việt Nam vừa mất nên chủ đề của số là “Kỷ nguyên mới ở Bắc Việt Nam” cùng với bài viết cho ảnh trang bìa có tên “Di sản của Hồ Chí Minh…”

Cả cuộc đời Hồ Chí Minh là dành để tạo ra một nước Việt Nam thống nhất, thoát khỏi sự đô hộ của ngoại bang. Ông được nhân dân cả hai miền Bắc – Nam gọi là “Bác Hồ”. Không một lãnh tụ dân tộc nào còn sống hiện nay ngoan cường đứng vững được lâu đến thế trước mũi súng kẻ thù. Sự qua đời của ông chắc chắn sẽ còn ảnh hưởng lan xa ở Bắc Việt Nam, ở châu Á và ngoài đó nữa”…

Lần thứ năm chân dung Hồ Chí Minh xuất hiện trên bìa Time là ở số ra ngày 12.5.1975, gần hai tuần sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam. Bức ảnh mang dòng chữ “Người chiến thắng” với chủ đề là “Cái gì tiếp theo ở châu Á?”. Bài viết “Lời tạm biệt nghiệt ngã cuối cùng” bình luận về thắng lợi của nhân dân Việt Nam: “Cuối cùng Việt Cộng và Bắc Việt đã tràn vào Sài gòn, giương cao lá cờ của Chính phủ cách mạng lâm thời, bắt giữ tổng thống Dương Văn Minh và thủ tướng Vũ Văn Mẫu của Nam Việt Nam. Đối với nhiều người Mỹ, đây là cái chết đã chờ đợi bao lâu, nhưng khi nó đến thì vẫn bị choáng váng”…

Hình ảnh chủ tịch Hồ Chí Minh năm lần được đưa lên trang bìa của tạp chí Time, trong đó bốn lần là chân dung toàn mặt bìa, cho thấy mối quan tâm của dư luận Mỹ nói riêng, thế giới nói chung, đối với cuộc đời và sự nghiệp của Bác Hồ kính yêu của chúng ta, cũng như đối với quá trình lịch sử của nước Việt Nam hiện đại. Ngoài ra, Việt Nam còn là chủ đề xuất hiện trên nhiều số khác của Time.

Phạm Xuân Nguyên – Hà Nội 15.8.2009

Năm năm sau, vào ngày 14 tháng 9 năm 2014, thính giả của BBC lại có dịp được nghe nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên (Chủ Tịch Hội Nhà Văn Hà Nội) bình luận về tác phẩm Đèn Cù của nhà văn Trần Đĩnh:

“… tôi nghĩ là những cuốn như Đèn Cù là nên có và cần có, ở những người có vị trí như tác giả Trần Đĩnh, thì những thông tin, những sự thực được nói ra nó mang tính khả tín rất cao, và nó được bảo đảm bằng thẩm quyền mà ông đã nói ra.”

“Cho nên độ xác thực, đáng tín cậy là sẽ cao, và như vậy nó cần thiết để soi rọi vào nhiều mặt, nhiều góc của lịch sử Việt Nam hiện đại.”

Tôi cũng có cái may mắn được đọc qua tác phẩm này nên vô cùng tâm đắc với quan niệm (phóng khoáng) của nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên. Tuy nhiên, lòng vẫn không khỏi băn khoăn khi nghĩ đến hình ảnh của một ông Hồ Chí Minh chí thánh (“vị thánh râu dài của nước Việt Nam cộng sản”) qua trí “tưởng tượng” của ban biên tập báo Time và một ông Hồ hoàn toàn khác – với “những góc khuất về đời tư” và “nhân cách” – theo như cách diễn đạt của BBC:

Trong cuốn sách mới được xuất bản ở hải ngoại, tác giả Trần Đĩnh đã đề cập nhiều chi tiết được cho là có tính ‘thâm cung bí sử’ về nội bộ Đảng Cộng sản, trong đó có nhiều thông tin liên quan các ‘góc khuất’ về nhân cách, đời tư của nhiều lãnh tụ, từ ông Hồ Chí Minh, tới ông Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ v.v…

Về cố Chủ tịch Hồ Chí Minh, một số thông tin trong cuốn sách gợi ý rằng ông Hồ chính là người đã cải trang ‘đeo râu’ theo dõi vụ đấu tố địa chủ đầu tiên ở Việt Nam. Và chính lãnh tụ này là người đã trực tiếp ‘viết báo kết tội đích danh’ một nữ địa chủ kháng chiến, bà Nguyễn Thị Năm, cũng như đã đả kích giai cấp địa chủ, chứ không phải là ‘vô can’, hay ‘không hề biết’ như vẫn được báo chí và lịch sử đảng Việt Nam ‘tuyên truyền’, giải thích.”

Một số chi tiết khác gợi ý cố lãnh tụ này có các mối quan hệ với một số phụ nữ, điều chưa bao giờ được các tài liệu, văn kiện, báo chí của Đảng Cộng sản Việt Nam công bố hoặc đề cập.

Khi được hỏi về tính chân thực và căn cứ của các ‘sự thực’ này, nhà văn Trần Đĩnh nói:

“Tôi sống lúc ấy thì tôi biết chứ, ví dụ như chuyện Cụ có những cái này, cái nọ thì bạn bè tôi nói, thì biết thôi. Chứ còn bây giờ nói lại thì thực là khó.

Quả là “khó” thật! Thí dụ như chuyện “ông Hồ chính là người đã “cải trang” theo dõi vụ đấu tố địa chủ đầu tiên ở Việt Nam” thì Trần Đĩnh không thấy tận mắt mà chỉ nghe nói lại nên độ khả tín, tất nhiên, phải có phần giới hạn.

Nhưng việc ông Hồ Chí Minh “chính là người đã trực tiếp ‘viết báo kết tội đích danh’ một nữ địa chủ kháng chiến, bà Nguyễn Thị Năm (trên báo Nhân Dân số ra ngày 21 tháng 7 năm 1953) thì đã được kiểm chứng và trở thành một sự kiện hiển nhiên, vô phương chối bỏ.

Bài (“Địa Chủ Ác Ghê”) vỏn vẹn chỉ có 487 chữ (tính luôn cả tựa)  nhưng lột tả được chân dung đích thực nhà cách mạng Hồ Chí Minh rõ hơn 5 bài viết về thân thế và sự nghiệp của Hồ Chủ Tịch – trải dài từ năm 1954 đến 1975 – trên tuần báo Time. Bài báo này cũng làm “nhạt phai” ý nghĩa của (chừng) năm trăm ngàn bài báo khác – tràn ngập trên hệ thống báo chí của Đảng và Nhà Nước, gần hai phần ba thế kỷ qua – về tấm gương đạo đức của bác Hồ.

Thời gian đã hé lộ ra một ông Hồ khác. Và tôi mong ước cũng sẽ có lúc nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên bỏ công sưu tập để chia sẻ  với độc giả về một ông Hồ mới này.

Đây là một ước mong hết sức chân thành và khẩn thiết. Hoạ cộng sản rồi cũng sẽ qua thôi nhưng dân Việt vẫn còn phải sống lâu với di sản Marx, cũng như di sản của Hồ Chí Minh. Nếu những di sản này được “xử lý” một cách đúng đắn thì di hoạ, chắc chắn, sẽ giảm thiểu được rất nhiều.

CẦU NGUYỆN LÀ GÌ VÀ CẦU NGUYỆN CÁCH NÀO CHO ĐƯỢC ĐẸP LÒNG CHÚA ?

CẦU NGUYỆN LÀ GÌ VÀ CẦU NGUYỆN CÁCH NÀO CHO ĐƯỢC ĐẸP LÒNG CHÚA ?

Tác giả: Lm. PX. Ngô Tôn Huấn

Đây là câu hỏi cần được trả lời dưới ánh sáng của đức tin lành mạnh.

Đúng thế,  trước hết phải nói lại rằng cầu nguyện  là một nhu cầu tối thiết , không thể thiếu được trong  đời sống của người tín hữu nói riêng và của  Giáo Hội nói chung, vì chỉ có cầu nguyện mới đem ta lại gần Thiên Chúa, là Cha nhân từ  đầy yêu thương và muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý. ( 1Tm 2: 4)

Hơn thế nữa, cầu nguyện cũng để nói lên niềm tin có Chúa là Cha nhân từ, luôn lắng nghe mọi lời  con cái  loài người cầu xin và rộng lòng ban ơn cứu giúp, mặc dù không ai có công trạng hay xứng đáng khiến Chúa phải ban ơn đền bù. .Do đó, dù không xem thấy Chúa  bắng con mắt trần tục , nhưng càng siêng năng cầu nguyện thì  càng gia tăng niềm tin yêu  Chúa, yêu tha nhân và  dễ xa lánh tội lỗi, do ma quỷ xúi dục và gương xấu dịp tội đầy rẫy trong môi trường xã hội.

Trong cầu nguyện có phần cầu xin ( petition) để qua đó chúng ta  xin Chúa ban cho những ơn cần thiết hầu giúp  cho sự thăng tiến siêu nhiên và cho những nhu cầu chính đáng của thân xác như có công ăn việc làm tốt  để nuôi sống bản thân và gia đình, có sức khỏe tốt để sống và làm việc v.v

Chính vì sự cần thiết phải cầu nguyện và cầu xin mà Chúa Giêsu đã dạy các Tông Đồ xưa  như sau:

“ Thầy lá cây nho, anh  em là cành

Ai ở lại trong Thầy

Và Thầy ở lại trong người ấy

Thì người ấy sinh nhiều hoa trái

Vì không có Thầy

Anh  em chẳng làm  gì  được.” ( Ga 15: 5)

“ Không có Thầy anh  em chẳng làm gì được” có nghiã là nếu không có ơn Chúa phù giúp thì ta chẳng làm được gì hứu ích cho phần rỗi của mình, cũng như có đủ sức để vượt qua mọi khó khăn, gian nan  thử  thách để sống vui sống khỏe trong trần thế này.

Như vậy , cầu xin Chúa cho được bình an, có công ăn việc làm tốt,  và  có sức khỏe để sống và làm việc là điều chính đáng không có gì phải chê trách.

Liên quan đến đến việc chữa lành cho khỏi bệnh tật, chúng ta nhớ ngay đến việc  Chúa Giêsu,  khi đi rao giảng Tin Mừng cứu độ,  cũng đã chữa lành cho biết bao người phong cùi, câm điếc, mù què và bị quỷ ám, cũng như làm phép lạ để hóa bánh và cá ra nhiều cho hàng ngàn người đói ăn no nê. Chúa chữa lành  cho  các bệnh  nhân  nan y  để nói lên Người là Thiên Chúa và có thể làm những việc con người không thể làm được  như chữa lành cho những người đui mù, câm điếc và phong cùi,  là những bệnh nan y mà ngày nay  y khoa tân tiến cũng phải bó tay, nói chi cách nay trên 2000 năm. Chúa chữa cho họ được lành  cũng để nói lên lòng thương xót, cảm thông nỗi đau khổ của những người kém may mắn đó.

Tuy nhiên, mục đích của Chúa đến trần gian không phải chỉ để chữa lành cho thân xác con người mà chủ yếu là để chữa lành cho tâm hồn của cả nhân loại đang  bị vi trùng tội lỗi đục phá và đe dọa cho sự sống của linh hồn. Và đây chính là lý do  khiến Chúa Giêsu  đã hạ mình từ trời cao xuống trần gian làm Con Người  để hy sinh mạng sống mình làm giá chuộc  cho muôn người . ( Mt 20: 28)

Đó là lý do tại sao  Chúa đã không gọi và gom  tất cả những ai bị bệnh tật trong thân xác đến để chữa lành  hết cho họ mà chỉ chữa tượng trưng cho một số  nào mà thôi, trong khi Người dành phần lớn thì giờ  trong ba năm công khai rao giảng Tin Mừng Cứu độ để  kêu gọi mọi người hãy  “ sàm hối và tin vào Tin Mừng” ( Mc 1 : 15)   và  hãy đi  qua cửa hẹp mà vào vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến giệt vong mà nhiều người  lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật  thì đưa đến sự sống , nhưng ít người tìm được lối ấy. ( Mt 7 : 13-14)

“ Vào qua cửa  hẹp và đường chật ” có nghĩa là phải khép mình chống lại những khuynh hướng xấu còn tồn tại trong bản năng để  yêu mến Chúa trên hết mọi sự và xa tránh tội lỗi vì chỉ có tội mới có thể  làm cho con người phải chết đời đời,  vì  xa cách Thiên Chúa là nguồn an vui , hạnh phúc vĩnh cửu.

Do đó, chúng ta cần ơn Chúa để thực thi những gì Người đã rao giảng hầu được cứu độ như lòng Chúa mong muốn. Như thế, cầu nguyện là nhu cầu tốt cần thiết cho mọi người tín hữu muốn thêm lòng yêu mến Chúa và có đủ sức để sống đức tin , đức cậy và đức mến cách nồng nàn  bao lâu còn sống trên trần gian này. Và như đã nói ở trên, cầu xin là một phần  quan trọng của cầu nguyện. Nhưng khi cầu xin Chúa ban cho bất cứ ơn gì thì chúng ta phải noi gương Chúa Kitô, khi Người cầu xin cùng Chúa Cha trước giờ bị trao nộp và tử nạn như sau:

Lậy Cha, nếu Cha muốn, xin cho Con khỏi uống chén này.Tuy vậy, đừng làm

Theo ý con, mà xin theo ý Cha. ( Lc 22: 42; Mt 26 : 39; Mc 14: 36)

Mặt khác, Chúa Giêsu cũng dạy các Tông Đồ xưa và tất cả chúng ta ngày nay  phải cầu xin Chúa Cha  nhân danh Chúa Con như sau :

Thật Thầy bảo thật anh  em: anh  em mà xin Chúa Cha điều gì

Thì Người sẽ ban cho anh  em nhân danh Thầy. “ ( Ga 16: 23)

Như thế, cầu nguyện và cầu xin theo  ý Chúa Cha,  nhân danh Chúa Con  là cách cầu nguyện đẹp lòng Chúa Cha  và chắc chắn được  Người ban  ơn  cho ta. Tuy nhiên, khi cầu xin bất cứ ơn gì, ta  phải tránh hai thái cực sau đây:

1- Trông cậy Chúa cách thái quá hay mù quáng.

Thí dụ  như không thận trọng lái xe mà cứ  tin có Chúa  che chở  để  lơ là khiến xẩy ra tai nạn. Xin Chúa gìn giữ  che chở khi đi đường  là  điều  tốt , nhưng về phần mình  vẫn  phải cố gắng  lái xe  cho cẩn thận,  tuân giữ luật lưu thông  để tránh tai nạn cho mình và cho người khác. Cũng vậy, không thể trông cậy có Chúa che chở  để  không đóng cửa nhà hay khóa xe  cẩn thận  khiến kẻ gian có thể đột nhập  ăn trộm và giết hại chủ nhà. Đặc biệt, khi đau ốm thì phải tìm thầy  thuốc,  và uống thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ ,  vì  chính qua các phương tiện con người này,  mà Chúa ban ơn  cho  bệnh nhân cầu xin cho được  lành khỏe. Như thế, ai đau yếu mà chỉ cầu xin cho được khỏe  mà không dùng những phương tiện cần thiết sẵn có  như thuốc men theo  y  khoa  thì  đó là trông cậy  Chúa cách mù quáng chứ không phải là sống đức tin, đức cây cách trưởng thành và  vững chắc..

Đây chính là tội mà tên quỷ đã càm dỗ Chúa Giêsu khi Người ăn chay trong rừng vắng.

Quỷ đã đưa Chúa lên một nơi cao và nói với Chúa : “ Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy đứng đây mà gieo mình xuống đi, vì có lời chép rằng : Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá. Bấy giờ Chúa Giêsu đáp lại : Đã có lời chép rằng : ngươi chớ thử thách Đức Chúa, là Thiên Chúa của ngươi. ( Mt 4 : 5-7;  Lc 4 : 12)

Như  vậy,  rõ ràng cho thấy là không được cầu xin và cậy trông Chúa mà không làm gì về  phần mình để công tác với ơn Chúa. Nghĩa là không thể khoán trắng cho Chúa làm hết mọi sự cho mình, mặc dù Chúa có  thể làm hết, nhưng Chúa vẫn  muốn ta phải  tỏ thiện chí và làm hết sức mình trong niềm cậy trông ơn Chúa phù giúp thì đó mới là trông cậy Chúa cách đẹp lòng Người để  đáng được  nhậm lời  ta cầu xin.. Nói rộng thêm nữa , công nghiệp của Chúa Kitô là quá đủ cho con người được cứu rỗi, nhưng nếu ai ỷ lại vào đây để cứ phạm tội, cứ sống theo thể gian và xác thịt thì chắc chắn Chúa không thể cứu người ấy được,  như Chúa đã nói rõ với các môn đệ Người  xưa kia như sau :

Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lậy Chúa, lậy Chúa là được vào Nước Trời       cả đâu, nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên Trời mới được vào mà thôi. ( Mt 7: 21)

Sau nữa, cũng cần nói thêm là  ta không được trông cậy để cầu xin những ơn không cần thiết, không chính đáng và thiếu bác ái như :  xin cho có sức mạnh để hạ đo ván đối thủ trên võ  đài,   xin cho mình được buôn bán phát đạt, mặc dù hàng hóa của mình có nhiều món làm giả mạo , hay  thực  phẩm  mình  bán có pha chế chất độc hai  cho sức khỏe của thực  khách, hoặc xin cho   được  trúng số,  trúng “ cá độ” để  có nhiều tiền của danh vọng ở đời.   Đây  là những  nhu cầu  bất chính của lòng tham vô đáy,  thiếu bác ái và lương tâm ngay chính. Cần nói  lại là đấu võ ( boxing) là một trò chơi nguy hiểm mà Giáo Hội lên án vì có phương hại cho sự sống của mình và của người khác. Chúa sẽ không bao giờ ban những ơn không có ích cho phần hồn và phần xác của ai, cho dù người ta có  xin và trông cậy đến đâu thì cũng vô ích mà thôi.

2- Thiếu trông cậy khi cầu xin:

Ngược lại, nếu ta cầu xin Chúa điều gì mà không thực  sự  có lòng trông cậy thì cũng không đẹp lòng Chúa  vì  thiếu lòng trông cậy có nghĩa là thiếu tin tưởng vào lòng nhân hậu và cảm thông  của Chúa cho những nhu cầu chính đáng về  phần rỗi của linh hồn và cho một đời sống xứng hợp với nhân phẩm như có của ăn, áo mặc, nhà ở,  sức khỏe và bình an để sống và làm việc.

Tóm lại, cầu nguyện và cầu xin là nhu cầu tối cần cho mọi người tín hữu chúng ta, vì ta rất cần ơn Chúa để sống đức tin và sống xứng đáng  thân phận con người trong trần thế này. Nhưng khi cầu xin bất cứ ơn gì, – mà phải là ơn thực sự cần thiết cho hồn xác của mình hay cho người khác –   ta phải tránh hai thái cực nói trên. Nghĩa là không  được  cầu xin và trông cậy cách mù quáng như ốm đau mà không  cần y khoa chữa trị  dù  sẵn có tiền bạc,   mà chỉ cầu xin Chúa “ làm phép lạ” cho khỏi bệnh.  Hoặc chỉ  trông cậy Chúa  che chở  mà không chú ý lái xe khiến gây tai  nạn cho mình và cho người khác.. Hay  không chịu khó  học hành mà chỉ cầu xin cho được điểm cao và  thi đậu. Chúa không bao giờ “ làm phép lạ” cho những ai trông cậy cách mù quáng  như vậy.

Ước mong giải đáp trên thỏa mãn câu hỏi được đặt  ra.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.

HÃY THẮP LÊN … MỘT QUE DIÊM


HÃY THẮP LÊN … MỘT QUE DIÊM

Một bữa tối tại vận động trường Los Angeles, Mỹ, một diễn giả nổi tiếng – ông John Keller, được mời thuyết trình trước khoảng 100.000 người. Đang diễn thuyết bỗng ông dừng lại và dõng dạc nói :
– Bây giờ xin các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này.
Đèn tắt. Cả sân vận động chìm sâu trong bóng tối âm u. Ông John Keller nói tiếp :
– Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm đang cháy thì hãy hô to “Đã thấy !”.
Một que diêm được bật lên, cả sân vận động vang lên: “Đã thấy !”.
Sau khi đèn được bật sáng trở lại, ông John Keller giải thích :
– Ánh sáng của một hành động nhân ái .. dù nhỏ bé như một que diêm .. cũng sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại .. y như vậy.
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại được tắt. Một giọng nói vang lên :
– Tất cả những ai ở đây .. có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên !    Bỗng chốc cả vận động trường rực sáng.
Ông John Keller kết luận :
– Tất cả chúng ta cùng hợp lực nhau .. có thể chiến thắng bóng tối, chiến tranh, khủng bố, cái ác và oán thù .. bằng những đóm sáng nhỏ của tình thương, sự tha thứ và lòng tốt của chúng ta. Hoà bình không chỉ là .. môi trường sống vắng bóng của chiến tranh. Hòa bình không chỉ là .. cuộc sống chung không tiếng súng. Vì trong sự giao tiếp giữa người với người, đôi khi .. con người giết hại nhau .. mà không cần súng đạn, đôi khi con người làm khổ nhau, áp bức bóc lột nhau .. mà không cần chiến tranh.
Cách tốt nhất để xây dựng hòa bình .. là tăng thêm thật nhiều .. những hành động yêu thương và hảo tâm với đồng loại.
Những hành động yêu thương .. xuất phát từ lòng nhân hậu .. sẽ như những ánh sáng nho nhỏ của một que diêm.
Nhưng nếu mọi người cùng đốt lên .. những ánh sáng bé nhỏ, những hành động yêu thương .. sẽ có đủ sức mạnh để xua tan bóng tối của những đau khổ và cái ác.

S.T.

Các tượng đài XHCN dần dần bị sụp đổ

Các tượng đài XHCN dần dần bị sụp đổ

basam.info

GS Nguyễn Văn Tuấn

19-09-2014

Đọc trên RFI thấy có tin chính quyền Hungary đã quyết định hạ tượng Karl Marx ở khuôn viên đại học Corvinus (1). Thế là sau 25 năm sau ngày XHCN suy sụp, bức tượng của ông tổ XHCN bị hạ bệ theo cái chủ thuyết của ông luôn. Thật ra, không chỉ Marx, các tượng đài của những người cộng sản “tay tổ” như Lenin, Stalin đều đã bị hạ từ lâu.

Năm 1991, sau khi Liên Xô sụp đỗ một thời gian, hàng ngàn người tụ tập ở quảng trường Dushanbe (thủ đô của Tajikistan), và họ kéo sập tượng Lenin. Có người còn cực đoan đến đập sao cho đầu của tượng bị văng ra khỏi thân.

Cách đây không lâu, người dân Ukraina quyết định hạ tượng của Lenin, nhưng cách họ làm rất ư là bạo lực. Họ dùng xe cần cẩu kéo sập tượng. Khi tượng bị ngã, người dân tức giận không chịu tha mà còn lấy búa đập bức tượng.

Năm 2012, Mông cổ cũng quyết định hạ tượng Lenin (3). Lí do hạ bệ Lenin là vì, theo ông Thị Trưởng Bat-Uul Erdene, ông là người đề xướng cái chủ nghĩa đã giết chết gần 100 triệu người trên thế giới. Chẳng biết ông lấy con số này ở đâu, nhưng ông nói trước công chúng như thế. Bức tượng Lenin được đem đi đấu giá, với cái giá khởi điểm chỉ 300 USD! Sau Mông Cổ là Ukraina cũng giật sập tượng Lenin ở thành phố Kiev vào cuối năm 2013 (4).

Không chỉ giật sập tượng, nhiều nước Đông Âu và vùng Baltic còn cấm những biểu tượng cộng sản như búa liềm, ngôi sao năm cạnh. Các biểu tượng đó cùng với huy hiệu SS được xem là biểu tượng của chế độ độc tài vì Hungary có luật cấm trưng bày những biểu tượng ở nơi công cộng (5). Sau Hungary, Ba Lan cũng cấm các biểu tượng cộng sản.

Ở vài nơi, người cộng sản có thói quen đổi tên thành phố khi cách mạng của họ thành công. Trước đây, họ đổi tên thành phố Saint Petersburg thành tên của Lenin (Leningrad). Nhưng cái gì của Cesar phải trả về cho ổng: Năm 1991, chính quyền Nga đã quyết định xoá tên thành phố Leningrad và trả lại cái tên cũ là Saint Petersburg.

Điều trớ trêu là tượng đài của những người như Lenin, Stalin, Marx vẫn còn có hàng triệu người tôn sùng ở Á châu, dù những kẻ tôn sùng chẳng có liên quan văn hoá hay dân tộc gì với họ.

—-

(1) http://vi.rfi.fr/quoc-te/20140918-hungary-ha-be-tuong-cac-mac/

(2) http://articles.baltimoresun.com/2003-04-13/news/0304130226_1_lenin-large-statue-saddam-hussein

(3) http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2012/10/121015_mongolia_lenin_legacy.shtml

(4) http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%ADt_s%E1%BA%ADp_t%C6%B0%E1%BB%A3ng_Lenin_%E1%BB%9F_Kiev

(5) http://nhipcauthegioi.hu/modules.php?name=News&op=viewst&sid=3403

Nguồn: FB Nguyen Tuan

Biết ơn Lenin?

GS Nguyễn Văn Tuấn

12-12-2013

Bình luận về sự kiện dân Ukraina giật sập tượng Lenin một vị giáo sư sử học ở Việt Nam cho rằng đó là một hành động vô văn hoá. Ông còn nói thêm rằng người dân Việt Nam trân trọng và biết ơn Lenin vì ông ấy “đại diện cho ‘ý tưởng xây dựng xã hội tốt đẹp’ vốn là điều ‘cả thế giới mong muốn’.” Tôi cứ phân vân về hai ý này, vì nó không đúng với thực tế.

Câu làm tôi phân vân là người Việt Nam trân trọng và biết ơn Lenin. Đúng là có một số người mang dòng máu Việt mang ơn Lenin, không hẳn vì lí tưởng chủ nghĩa xã hội, mà vì lí do thực tế và “trần ai” khác. Những người trong đảng thì chắc là biết ơn ông Lenin. Đảng thì có trên 2 triệu người, cộng với thân nhân nữa thì chắc xấp xỉ 10 triệu người. Dân số Việt Nam là 90 triệu (tính chẵn) và đa số nghèo và chắc chẳng cần biết ông Lenin là ai cũng như chẳng có mang ơn gì ông ấy. Người Việt ở hải ngoại thì chắc chắn ghét ông ấy. Những người đau khổ vì những chính sách mang màu sắc đấu tranh giai cấp của ông ấy cũng chẳng muốn thấy tượng ông ấy ở VN. Như vậy, có thể ước tính rằng cứ 1 người biết ơn Lenin thì có khoảng 9 người không biết đến ông Lenin. Do đó, cụm từ “Người dân Việt Nam” e rằng quá cường điệu.

Còn nói rằng cả thế giới mong muốn lí tưởng XHCN theo kiểu đấu tranh giai cấp và định hướng CNCS thì tôi nghĩ chắc là đoán mò thôi. Cái chủ nghĩa đó đã dần dần hết đất sống, đã mất sức sống, đã gây ra bao nhiêu thảm hoạ cho thế giới và Việt Nam. Tôi nghĩ nếu làm thử một điều tra xã hội thì sẽ biết số người ủng bộ CHXH chẳng bao nhiêu đâu. Bên Âu châu dù có nơi vẫn có màu sắc XHCN, nhưng nói chung ai cũng nghi ngờ cái chủ nghĩa đó. Người ta có nghị quyết lên án chủ nghĩa cộng sản nữa. Bên Đông Âu, những nước theo XHCN cũ nay cấm không có các biểu tượng của CNCS (như cờ búa liềm chẳng hạn) xuất hiện nơi công cộng. Nhưng tôi đoán là chắc người dân có thể trưng bày mấy biểu tượng đó ở nhà (?)

Tôi có phần đồng ý là việc giật sập tượng là một hành động không đẹp, xét về mặt văn hoá. Nếu phán xét như vậy thì chúng ta cũng có thể nói người Việt cũng nhiều lần hành xử kém văn hoá. Sau năm 1975, biết bao nhiêu tượng của các nhân vật thời trước 1975 bị giật sập và phá tan hoang. Đường xá thì bị thay tên đổi họ. Những con đường mang tên các danh nhân lịch sử đới Trần, Lý, Lê, Đinh, v.v. vốn là di sản chung của dân tộc cũng bị nhường cho những người du kích và những người từng tham gia cách mạng. Những con đường mang tên lí tưởng đẹp và phổ quát (như Công Lí, Tự Do) đều bị thay bằng tên của những sự kiện mà không bao nhiêu người công nhận. Do đó, trách người Ukraina là “manh động” và kém văn hoá có lẽ không công bằng khi chính những người gắn bó với cái chủ nghĩa đó lại từng làm như thế.

Nguồn: FB Nguyen Tuan

Albania, điển hình của hòa hợp liên tôn

Albania, đin hình ca hòa hp liên tôn

Vũ Văn An

9/21/2014

Theo hãng tin AFP, cuộc du hành một ngày qua Albania của Đức Phanxicô hôm nay, 21 tháng Chín, nhằm đề cao nước này như một kiểu mẫu của hoà hợp liên tôn, giữa lúc ở Trung Đông đang có rối loạn và tại Âu Châu làn sóng bất khoan dung đang dâng cao.

Mặc dù Tòa Thánh lên tiếng ủng hộ các cuộc không kích của Hoa Kỳ tại Iraq để bảo vệ các Kitô hữu bị bách hại, Đức Phanxicô vẫn cố gắng lấy cuộc đối thoại giữa các tôn giáo làm “hòn đá góc” của triều giáo hoàng của ngài và luôn ra sức phản công lời kêu gọi sử dụng vũ lực bằng công thức hòa bình. Albania xiết chặt an ninh trước khi ngài tới, nâng báo động cảnh sát lên mức cao nhất và huy động cả lực lượng đặc biệt trên khắp xứ sở vì những lời cảnh báo cho rằng Nhà Nước Hồi Giáo Trị có kế hoạch tấn công nhà lãnh đạo Công Giáo này.

Cờ vàng trắng của Vatican bay phấp phới trên các lộ chính của Thủ Đô Tirana bên cạnh cờ đỏ với chim đại bàng hai đầu mầu đen của Albania, trong khi các chân dung lớn của các linh mục và nữ tu Công Giáo bị bách hại dưới thời Cộng Sản được giăng qua các phố. Cuộc du hành này sẽ là cuộc chạy đua 11 giờ trong đó, Đức Thánh Cha sẽ gặp Tổng Thống Albania là Bujar Nishani, cử hành thánh lễ tại Công Trường Mẹ Têrêxa ở Tirana, ăn trưa với các giám mục, chuyện trò với các nhà lãnh đạo tôn giáo và viếng thăm các cô nhi.

Đức Phanxicô trước đây từng cho biết ngài chọn xứ nghèo vùng Balkan này làm nơi đầu tiên ở Âu Châu để viếng thăm, thay vì một trong những xứ hùng cường khác, vì đây là một điển hình về một lãnh thổ nơi các tôn giáo thông thường hay đấu tranh với nhau ở nơi khác nhưng ở đây đã chung sống với nhau rất thành công.

Các chứng nhân của đức tin

Tháng Tám vừa qua, Đức Phanxicô cho biết: Albania đã thành công trong việc tạo ra một “chính phủ đoàn kết quốc gia gồm người Hồi Giáo, Chính Thống Giáo và Công Giáo, với một hội đồng liên tôn rất có ích và cân bằng” và nói thêm: sự hiện diện của ngài “sẽ là một cách nói với mọi người rằng: qúy vị xem, tất cả chúng ta đều có thể làm việc với nhau!”

Cuộc gặp gỡ kín cửa cao tường của ngài với các vị đứng đầu các cộng đồng tôn giáo khác sẽ bao gồm người Hồi Giáo, Chính Thống Giáo, Bektashi, Do Thái Giáo và Thệ Phản. Nhà lãnh đạo của 1.2 tỷ người Công Giáo thế giới muốn vinh danh những người từng chịu đau khổ dưới thời nhà độc tài Enver Hoxha, người, năm 1967, từng tuyên bố Albania là quốc gia cộng sản đầu tiên, và dưới thời ông ta cai trị, các linh mục và giáo sĩ Hồi Giáo đã bị bách hại và các nơi thánh bị san bằng.

Theo Đức Phanxicô, giữa các năm 1945 và 1985, 111 linh mục, 10 chủng sinh và 7 giám mục đã chết trong lúc bị giam giữ hay bị xử tử; gần 2,000 nhà thờ Chính Thống Giáo và Công Giáo bị tiêu hủy hay biến thành rạp hát, nhà hát và vũ trường. Ngài cho biết sự tái sinh đức tin Công Giáo sau cuộc bách hại ấy đã biến Albania thành một nơi “tôi cảm thấy nên tới thăm”.

Việc hồi sinh Đạo Công Giáo một phần nhờ Mẹ Têrêxa, là người đã sinh ra tại nơi nay là Macedonia nhưng có gốc Albania. Tại một xứ sở với dân số trẻ trung nhất Âu Châu, Tòa Thánh hy vọng sẽ tạo được một nguồn suối cho người tân tòng trên một lục địa đang bị chủ nghĩa duy tục kềm kẹp.

Đây sẽ là cuộc viếng thăm lần thứ hai của một vị giáo hoàng. Đức GH Gioan Phaolô II từng viếng thăm xứ này một năm sau ngày chủ nghĩa Cộng Sản sụp đổ năm 1992. Trong cuộc viếng thăm ấy, Đức Gioan Phaolô II đề cao các “chứng nhân của đức tin” và đã bổ nhiệm 4 tân giám mục trong đó có Đức Cha Michel Koliqi, lúc ấy đã 91 tuổi, người từng bị giam 21 năm.

An ninh chặt chẽ

Nước với 3 triệu dân này chắc chắn chờ mong được vị giáo hoàng nổi tiếng hỗ trợ trong cố gắng trở thành hội viên của Liên Hiệp Âu Châu.

Don Giergi Meta, phát ngôn viên của Giáo Hội Albania, nói với Đài Phát Thanh Vatican rằng “đây là một dấu hiệu mạnh mẽ và là một khích lệ để đẩy mạnh cố gắng của chúng tôi được hòa nhập vào Âu Châu”. Tòa Thánh vốn nhấn mạnh rằng mình không muốn gia tăng việc an ninh cho chuyến đi, nhưng bộ nội vụ Albania cho biết cảnh sát đã thiết lập 29 trạm kiểm soát tại trung tâm Tirana, nơi phần lớn các sinh hoạt của Đức Giáo Hoàng được dự trù, kể cả tại Công Trường Mẹ Têrêxa.

Một số quan sát viên Vatican sợ rằng Đức Phanxicô tự biến mình thành một mục tiêu khi lên tiếng chống lại tổ chức Nhà Nước Hồi Giáo Trị. Nhưng vị giáo hoàng người Á Căn Đình này, người không muốn gì khác ngoài việc được trà trộn vào đám đông, sẽ vẫn chỉ sử dụng chiếc xe mui trần mà ngài quen dùng ở Công Trường Nhà Thờ Thánh Phêrô.

Bất chấp là một nước nghèo nhất của Âu Châu, tháng rồi, Albania bắt đầu gửi vũ khí và đạn dược cho các lực lượng Kurd để họ đánh trả các chiến binh của Hồi Giáo Trị tại Iraq, vá các nguồn an ninh trong nước đã loại bỏ các nỗi sợ sệt về một cuộc tấn công của bọn khủng bố quốc nội.

Thuận và Nghịch

Thuận và Nghịch

Tác giả: Trầm Thiên Thu

Thuận và nghịch là hai trạng thái đối lập, trái ngược nhau. Trạng thái đối lập này có thể là tốt hoặc xấu, tùy trường hợp. Có những trường hợp thuận mà lại nghịch, gọi là thuận-lý-nghịch; có những trường hợp nghịch mà lại thuận, gọi là nghịch-lý-thuận.

Trong toán học có tỷ lệ thuận và nghịch. Nếu biết cặp giá trị tương ứng của hai đại lượng tỷ lệ thuận và một giá trị khác của đại lượng này, ta có thể tìm được giá trị tương ứng của đại lượng kia. Toán học cũng có quy tắc tam xuất đơn thuận và nghịch. Quy tắc tam xuất đơn thuận: Nếu A tăng N lần, B cũng tăng N lần (nhân với N). Quy tắc tam xuất đơn nghịch: Nếu A tăng N lần, B sẽ giảm N lần (chia cho N).

Khi nói về “tội phạm tới Chúa Thánh Thần”, loại tội không được tha cả đời này và đời sau, Chúa Giêsu có nói điều liên quan tình trạng thuận và nghịch: “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán” (Mt 12:30; Lc 11:23).

Giữa con người với nhau cũng có sự thuận và nghịch. Ở đây không có ý nói “theo phe” hoặc “chống lại” nhau, mà chỉ có ý đơn giản và bình thường. Đó là gì? Tuy không là thù địch, nhưng vẫn có người này “hợp” với người kia hoặc “không hợp” với người nọ. Hai người “hợp” nhau thì dễ nói chuyện, dễ thông cảm, dù không cần nói gì; ngược lại, hai người “không hợp” nhau thì rất khó nói chuyện và khó thông cảm, khoảng im lặng rất ngột ngạt. Nếu đối nghịch nhau thì “chiến tranh” rất dễ bùng nổ.

Người phàm với nhau mà đối nghịch đã là nguy hiểm rồi, huống chi là đối nghịch với Thiên Chúa. Ấy thế mà ngày xưa, dân chúng đã dám nói phạm thượng: “Đường lối của Chúa Thượng không ngay thẳng” (Ed 18:25). To gan và lớn mật hết sức, liều lĩnh thật, đâu kém gì Ông Bà Nguyên Tổ ngày xưa!

Thiên Chúa đặt vấn đề thẳng thắn: “Vậy hỡi nhà Ít-ra-en, hãy nghe đây: Phải chăng đường lối của Ta không ngay thẳng hay đường lối của các ngươi mới không ngay thẳng? Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính mà chết, thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình. Nó đã thấy và từ bỏ mọi tội phản nghịch nó phạm, thì chắc chắn nó sẽ sống, nó không phải chết” (Ed 18:26-28). Ngài cũng đang chất vấn chúng ta như vậy, chắc hẳn chúng ta chẳng thể nói được nửa lời. Cái chết là thất bại lớn nhất của nhân loại, chính tội lỗi khiến chúng ta phải chết (Rm 5:12; Rm 5:21), chứ Thiên Chúa tốt lành không bắt chúng ta chết.

Dù chỉ là bụi đất (St 3:19), chẳng đáng chi cả, vậy mà phàm nhân chúng ta dám “chọc giận” Thiên Chúa, thậm chí còn dám phản nghịch Ngài (vì cứ phạm tội còn hơn cơm bữa). Tuy nhiên, Ngài không chấp “lũ trẻ con”, thế nên Ngài vẫn luôn nhớ đến và quan tâm (Tv 8:5), đồng thời còn kiên trì chờ đợi chúng ta hối lỗi: “Đối với các dân tộc khác, Chúa Tể nhẫn nại chờ đợi cho đến khi tội lỗi chúng ngập đầu mới trừng phạt; còn đối với chúng ta, Người không xử như thế” (2 Mcb 6:14). Quả là Lòng Chúa Thương Xót quá lớn lao, ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Tuy nhiên, nếu chúng ta vẫn cứng đầu thì hết đường thoát: “Nếu các ngươi không chịu nghe Ta, thì Ta sẽ còn sửa phạt các ngươi gấp bảy lần vì tội lỗi của các ngươi” (Lv 26:18). Đáng sợ quá, lạy Thiên Chúa của chúng con!

Khôn sống, mống chết. Ước gì chúng ta biết khôn ngoan như tác giả Thánh Vịnh: “Lạy Chúa, đường nẻo Ngài, xin dạy cho con biết, lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con. Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài và bảo ban dạy dỗ, vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con. Sớm hôm con những cậy trông Ngài, bởi vì Ngài nhân ái” (Tv 25:4-5). Cầu xin và muốn được Thiên Chúa nhậm lời thì phải biết chân thành sám hối. Đó là điều kiện có lợi cho chính chúng ta mà thôi, chứ đối với Chúa chẳng “xi-nhê” gì. Vâng, Thiên Chúa lúc nào cũng chờ đợi và luôn sẵn sàng nghe chúng ta nhận lỗi mà thân thưa: “Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời. Tuổi xuân trót dại bao lầm lỗi, xin Ngài đừng nhớ đến, nhưng xin lấy tình thương mà nhớ đến con cùng. Chúa là Đấng nhân từ chính trực, chỉ lối cho tội nhân, dẫn kẻ nghèo hèn đi theo đường công chính, dạy cho biết đường lối của Người” (Tv 25:9).

Hứa thì phải chấn chỉnh cách sống với nỗ lực hết sức, chứ không chỉ hứa suông. Chúa biết chúng ta có họ hàng với Cuội nên “lẻo mép” mà “hứa lèo” lắm. Thực sự Ngài không chấp, nhưng Ngài lưu ý là chúng ta có nỗ lực hết sức hay không. Quả thật, “nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được” (Tv 130:3). Tuy nhiên, đừng “được đằng chân lân đằng đầu”, cũng đừng thấy Ngài nhân từ mà làm tới. Không khéo chúng ta lại lợi dụng lòng thương xót của Ngài đấy!

Biết sám hối chân thành là biết liên kết với Thiên Chúa. Biết mình “nghịch” thì cần chỉnh sao cho “thuận” với Ngài, càng sớm càng tốt. Thánh Phaolô khuyên: “Nếu quả thật sự liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng MỘT cảm nghĩ, cùng MỘT lòng mến, cùng MỘT tâm hồn, cùng MỘT ý hướng như nhau” (Pl 2:1-2). Sống được như vậy là “nên một” theo ý muốn của Đức Kitô (Ga 17:21-23).

Thực tế chưa được như vậy, vì thế mà chúng ta phải nỗ lực hơn. Một lần nọ, ban chấp hành của một hội đoàn Công giáo (TGP Saigon) rủ tôi ăn uống chung, chỉ là để “cho vui” thôi. Tuy nhiên, chỉ sau khoảng 10 phút, tôi thấy người thì “vạch lá tìm sâu”, người thì “bới bèo ra bọ”, họ “căng thẳng” với nhau, tôi thấy bất lợi nên xin ra về. Thật đáng buồn! Bản chất con người luôn đề cao “cái tôi”, vì thế mà rất nguy hiểm, cần phải luôn cố gắng “đè nén” nó. Ngay cả khi chúng ta làm việc gì gọi là “vì Chúa”, thực ra chúng ta vẫn “vì mình” nhiều lắm, Chúa chẳng “xơ múi” gì đâu! Thánh Phaolô cũng đã từng cảnh báo: “Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu” (Pl 2:3-5). Khó lắm, vì thế mà luôn phải cố gắng “chết” triền miên!

Thánh Phaolô dẫn chứng cụ thể: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2:6-9). Chúng ta đã nghe đi nghe lại điều này nhiều lần rồi, thế nhưng đã mấy lần chúng ta “giật mình”, hay là cứ nghe tai này rồi qua tai kia? Chúng ta tội lỗi lắm, tội với Chúa và tội với tha nhân!

Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngôi Hai Thiên Chúa, Ngài có tất cả mọi sự, nhưng Ngài đã tự hạ đến tột cùng, vì thế mà Ngài xứng đáng được Thiên Chúa Cha siêu tôn: “Khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2:10-11).

Nói tới tình trạng thuận và nghịch thì phải có hai đối tượng. Ví dụ: Đất trời có âm và dương, nam châm có âm và dương, nhân loại cũng có âm và dương (nữ và nam). Âm và dương là hai thái cực. Nhưng âm và dương là để hài hòa chứ không để đối lập nhau. Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đưa ra hai con người trái ngược nhau: Dụ ngôn hai người con. Một thuận, một nghịch. Đây cũng chính là “hai con người” hoặc “hai bộ mặt” trong mỗi chúng ta.

Một hôm, các thượng tế và kỳ mục hỏi vặn Chúa Giêsu về “quyền hành”. Chúa Giêsu thản nhiên kể chuyện rằng một người cha nọ có hai con trai. Ông bảo người con thứ nhất đi làm vườn nho, nhưng nó nói thẳng là “không đi”. Nó cãi ngay lập tức. Nhưng sau đó, nó hối hận nên lặng lẽ đi làm. Ông cũng đi bảo người con thứ hai đi làm. Nó ngoan ngoãn vâng lời ngay, nhưng rồi nó lại không đi.

Chúa Giêsu hỏi họ: “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?” (Mt 21:31a). Họ trả lời ngay: “Người thứ nhất” (Mt 21:31b). Giả sử Ngài trực tiếp hỏi chúng ta, chắc hẳn mỗi chúng ta cũng dễ dàng trả lời được như vậy. Không gì hóc búa! Và Chúa Giêsu nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21:31c). Mèn ơi! Nghe chi mà “sốc” quá chừng! Nhưng đó là sự thật, rất thật. Ngài biết họ đang ngẩn ngơ như chú Tàu nghe kèn, nên Ngài giải thích luôn: “Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông KHÔNG TIN ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại TIN. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy” (Mt 21:32).

 

Đức Giêsu đã xác định: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ GIỮ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Ai không yêu mến Thầy thì KHÔNG GIỮ lời Thầy” (Ga 14:23-24). Rất rõ ràng và mạch lạc, không khó hiểu, tất nhiên không ai có thể biện minh vì bất cứ lý do nào. Chữ YÊU ngắn gọn mà bao la quá đỗi! Có khi chúng ta là người con thứ nhất, có khi chúng ta lại là người con thứ hai. Lúc thuận, lúc nghịch. Biến hóa thất thường. “Cái tôi” to lớn và hung dữ lắm, do đó phải luôn cảnh giác với nó. Thánh Phaolô cũng đã cảm thấy lo sợ: “Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại” (1 Cr 9:27).

Như Thánh Gioan Tẩy Giả, ước gì mỗi chúng ta cũng luôn biết dẹp bỏ “cái tôi” và luôn tâm niệm: “Chúa phải LỚN lên, còn tôi phải NHỎ đi” (Ga 3:30), để Danh Chúa được tỏa sáng mọi nơi, để Nước Chúa hiển trị, và để Ý Chúa được thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

Lạy Thiên Chúa, xin “giữ gìn chúng con như thể con ngươi, xin thương che chở chúng con dưới bóng Ngài” (Tv 17:8), và xin giúp chúng con biết “thuận” với mọi người và “nghịch” với tội lỗi, để chúng con xứng đáng là con cái của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

“CẦN CHỨNG NHÂN HƠN CẦN THẦY DẠY”

“CẦN CHỨNG NHÂN HƠN CẦN THẦY DẠY”

Chiều nay tôi vừa dâng Thánh Lễ ở Nhà Thờ với một vị Giám Mục, hàng năm ngài vẫn trở về đây dâng lễ cầu nguyện cho một thầy trong nhà Dòng chúng tôi dù thầy qua đời đã 34 năm. Lý do để Đức Cha đích thân về là: ngày xưa, cuối thập niên 50 đầu thập niên 60, gia đình ngài sinh sống trong Giáo Xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp của chúng tôi và ngài là một lễ sinh trong đội ngũ giúp lễ Nhà Thờ, mà thầy là vị phụ trách các Lễ Sinh.

Đức Cha rất quý mến thầy, một Tu Sĩ gương mẫu, hiền hòa và nhân hậu, ngài kể: “Không bao giờ thầy la mắng hay đánh chúng tôi”. Ngoài ra, ngài còn nói, truyền thống đạo đức của người Việt mình là tôn sư trọng đạo, “nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, một chữ là thầy, nửa chữ cũng là thầy, tôn kính và biết ơn thầy là một nét đạo đức độc đáo của dân tộc chúng ta.

Sự hiện diện của Đức Cha còn có mục đích quy tụ các anh chị em ngày xưa cùng sinh hoạt chung với nhau, các anh chị nay đã lớn tuổi và bận rộn với những bổn phận riêng. Ngày họp mặt hằng năm nhân lễ giỗ của thầy luôn là cơ hội để mọi người gặp nhau, nâng đỡ nhau, chia sẻ những niềm vui nỗi buồn với nhau, củng cố đời sống Đức Tin, tình yêu mến và lòng đạo đức. Đây cũng là cơ hội để Đức Cha thi hành sứ mạng “làm thầy dạy”, đặc biệt giúp anh chị em đào sâu thêm Kinh Thánh. Ngài cũng muốn các buổi họp mặt có cả các con cháu của anh chị em để nối kết và truyền đạt tình thương.

Đức Cha nói với chúng tôi cứ để ngài dâng lễ chung với anh em một cách rất bình thường, không bày ra các lễ nghi đón tiếp, diễn văn, cờ quạt… Hãy tập trung vào Phụng Vụ và giúp anh chị em Giáo Dân sống Tin Mừng.

Ngôi Nhà Thờ và hang đá Đức Mẹ DCCT là những nơi khó quên trong ký ức của ngài từ thời thơ ấu. Những buổi đi Nhà Thờ, sinh hoạt chung với nhau, ca hát và học tập, những hình ảnh của tuổi thơ khó nghèo mãi mãi không bao giờ phai mờ.

Dạo ấy, hang đá Đức Mẹ là nơi bà mẹ trẻ góa bụa của ngài, mang trên vai gánh nặng 7 con thơ, vẫn thường lui tới cầu xin, con đầu 16 tuổi, đứa bé nhất đang ẵm trên tay. Bà nói gì với Mẹ Maria, ngài không biết, nói lâu lắm, ngài ngồi gần đó chờ mẹ mình cầu nguyện xong rồi theo mẹ về. Không biết bà cầu nguyện gì với Đức Mẹ, chỉ biết một điều khi người chồng ra đi, ông trăn trối xin bà ráng lo cho con cái ăn học nên người, đừng để đứa nào thất học.

Gánh nặng quá lớn cho người góa phụ trẻ, nghèo, thời cuộc tao loạn, chiến tranh triền miên, bà mẹ gồng gánh cuộc đời cùng với lời nguyện cầu thường xuyên bên hang đá Đức Mẹ. Bà đã đi hết cuộc đời với niềm tự hào đã hoàn thành được ý nguyện của ông.

Bây giờ mỗi lần về đây, không bao giờ Đức Cha quên dừng lại trước hang đá, tuổi thơ nghèo khổ, hình ảnh bà mẹ góa bụa với đứa con côi cút cầu nguyện lâu giờ trước Mẹ Maria, nỗi nhọc nhằn năm tháng lùa về, và nhất là sự an ủi trìu mến từ nơi người Mẹ hiền của Hội Thánh năm tháng vẫn nâng niu gìn giữ đàn con.

Giữa những bề bộn công việc, những lo toan cho Giáo Phận, những phức tạp trong xã hội, những liên đới trong Hội Thánh, những bổn phận của một Mục Tử, vị Giám Mục vẫn sống những nét hồn nhiên của con người, vẫn cố gắng gìn giữ những giá trị đạo đức xã hội, vẫn dừng chân nơi những cảm xúc ngọt ngào của riêng mình trong xác tín của Đức Tin, vẫn chăm chút các mối tương quan xưa cũ, vẫn quan tâm đến từng anh em dù là người nhỏ bé nhất.

Tôi viết lại nhưng hình ảnh này như ghi lại những cảm xúc rất chân thành, không muốn ca tụng, chỉ muốn khắc họa một chứng nhân nhỏ bé, một tấm gương còn tỏa sáng giữa một xã hội đảo điên…

Cuộc sống chúng ta hôm nay, như lời Đức Phaolô VI, luôn “cần chứng nhân hơn cần thầy dạy”…

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 18.9.2014

Đèn Cù ‘giải ảo Hồ Chí Minh’

Đèn Cù ‘giải ảo Hồ Chí Minh’

Thứ bảy, 20 tháng 9, 2014

Cuốn Đèn Cù của Trần Đĩnh

Cuốn Đèn Cù của Trần Đĩnh là một ‘quả bom’ nổ vào những sự thực bị che đậy.

Cuốn sách ‘Đèn cù’ xuất bản ở hải ngoại của tác giả Trần Đĩnh đã ‘lột mặt’ của chế độ và nhiều huyền thoại cách mạng của Đảng Cộng sản ở Việt Nam theo nhà báo Bùi Tín từ Paris.

Trong khi đó, một sử gia trong nước, Vũ Quang Hiển, nói với BBC rằng cuốn sách ‘có hư cấu, xuyên tạc’.

Trao đổi với BBC hôm 20/9/2014, cựu Đại tá cộng sản, nguyên Phó Tổng biên tập Báo Nhân dân, Bùi Tín, cho rằng cuốn sách của Trần Đĩnh có tác động như một ‘quả bom’ đánh vào những gì mà chính quyền lâu nay muốn ‘che đậy, giấu diếm’.

Ông Bùi Tín nói: “Lột mặt, hay lật mặt cũng như thế, tức là những anh hùng hảo hớn ghi tên đường phố, thì rõ ràng người ta phải đánh giá lại, bởi vì cả một chế độ đánh giá những giá trị sai, cho nên bây giờ phải đánh giá lại tất cả những giá trị của từng người một bằng những nhận thức của mỗi người.

“Mỗi người có một cái đầu, có những suy nghĩ của mình, làm sao cho mỗi người có một suy tư độc lập, không bị ảnh hưởng.

“Do đó mà cuốn sách là quả bom, nổ từ những nhân vật cao nhất. Nói thẳng ra là tác phẩm của Trần Đĩnh cũng như cuốn hồi ký trăng trối của Trần Đức Thảo (Trần Đức Thảo – Những Lời Trăn Trối) là đụng đến ông Hồ Chí Minh.”

Theo nhà báo Bùi Tín, tuy tác giả viết một cách ‘nhẹ nhàng’, sự ‘đụng chạm’ vào các huyền thoại, thần tượng cách mạng của Đảng lại không phải là ‘nhẹ’.

Ông Bùi Tín là nhân vật bất đồng chính kiến đã nhiều năm tị nạn chính trị ở Pháp và nay là một nhà vận động cho dân chủ và nhân quyền của Việt Nam ở hải ngoại

“Tôi muốn nói rõ một điểm: tôi gửi in ở ngoài vì ở trong nước không ai in và phát hành cho tôi, không phải tại vì sách có nhiều bí mật. Hai lý do khác nhau”

Tác giả Trần Đĩnh

Ông Bùi Tín bình luận tiếp: “Ông viết một cách nhẹ nhàng, nhưng đụng mạnh lắm, có thể nói là cái phi thần thánh hóa, cái giải ảo, giải một lầm lẫn cực lớn, bởi vì người ta vẫn đề ra là ‘Học tập đạo đức của ông Hồ Chí Minh’, thế nhưng cuốn sách này, nói không nhiều lắm, nhưng chi tiết rõ đến như thế.

“Tức là ông Hồ Chí Minh cũng chuyên đóng kịch thôi. Ông Hồ Chí Minh nói không thể cải cách ruộng đất bắn chết người phụ nữ đầu tiên được, và đối với phụ nữ không thể đánh ngay cả bằng một nhánh hoa, thế mà chính ông bịt râu, ông dự cuộc đấu đó để mà đem bắn bà Nguyễn Thị Năm.”

Theo cựu Phó Tổng Biên tập Báo Nhân dân, bài ‘Địa chủ ác ghê’ được cố lãnh tụ của Đảng ký tên là CB, mà theo ông Tín: “lúc bấy giờ ở báo Nhân Dân, tất cả những bài nào đề chữ “CB” là “Của Bác”, là coi như thiêng liêng, là phải in ngay ở trang một, ở ngay dưới măng-séc, không được sai một dấu chấm, dấu phẩy nào”.

Nhà báo Bùi Tín nói: “Và ai cũng biết đấy là của bác, tức là của ông Hồ Chí Minh. Ông ấy viết bài ‘Địa chủ ác ghê’ kể tội bà Nguyễn Thị Năm một cách kinh khủng đến mức như thế và đưa ra bắn chết.

“Mà chính ông lại đi xem, đi dự cuộc đó, thế mà ông còn nói đạo đức là ông sẽ hứa với ông Hoàng Quốc Việt là sẽ can thiệp với cố vấn Trung Quốc để không thể bắn bà Năm được.”

‘Không ai phát hành’

Cố chủ tịch Hồ Chí Minh

Ông Trần Đĩnh có dịp gần cận nhiều lãnh tụ, cán bộ lãnh đạo của Đảng ở An toàn khu.

Trong một trao đổi gần đây với BBC, tác giả cuốn ‘Đèn Cù – Truyện tôi’ giải thích thêm với BBC vì sao cuốn sách đã phải xuất bản ở nước ngoài.

Ông Trần Đĩnh chia sẻ: “Tôi muốn nói rõ một điểm: tôi gửi in ở ngoài vì ở trong nước không ai in và phát hành cho tôi, không phải tại vì sách có nhiều bí mật. Hai lý do khác nhau.”

Về khả năng cuốn sách có thể được chấp nhận cho xuất bản ở Việt Nam hay không, nhà báo Bùi Tín nhận định: “Hiện nay thì chắc chắn họ không dám xuất bản rồi. Quyển sách của Trần Đĩnh và cuốn sách mới nhất của nhà triết học Trần Đức Thảo cũng thế, cuốn Hồi ký Trăng trối, là không thể xuất bản ở trong nước.

“Bởi vì nó đụng chạm ghê quá, bởi vì chế độ ở trong nước dị ứng với sự thật. Họ rất sợ sự thật. Cho nên những cuốn sách nói lên sự thật, tất cả là sự thật nguyên vẹn như thế thì họ không thể chịu được.

“Đây là quả bom rất mạnh nổ vào tất cả những lừa dối, những cái che dấu đấy, cho nên tôi thấy cuốn sách của Trần Đĩnh cũng như cuốn sách của Trần Đức Thảo là hai của quý của tự do, của những ngòi bút tự do, của những người có lương tâm trong sáng.”

“Tôi có đọc qua cuốn sách…, nhưng tôi không hào hứng, vì nhiều chỗ viết thô tục quá, không ra báo, không ra văn, cũng không ra lịch sử. Có cái gì đó bất mãn”

PGS. TS. Vũ Quang Hiển

Theo ông Bùi Tín, điểm đáng quý ở Trần Đĩnh là sau gần như cả đời phải làm phận ‘viết thuê’, viết ‘theo lệnh của trên’ nhưng vẫn giữ nguyên trong lòng được ‘sự thật’ để cống hiến trong cuốn “Đèn Cù”.

‘Xuyên tạc’

Hiện ở trong nước, báo chí và truyền thông chính thức chưa có bình luận, đánh giá chính thức về cuốn sách, thế nhưng trong một trao đổi với BBC, một sử gia chuyên về Lịch sử Đảng của Đại học Quốc gia Hà Nội nêu nhận xét:

“Tôi có đọc qua cuốn sách…, nhưng tôi không hào hứng, vì nhiều chỗ viết thô tục quá, không ra báo, không ra văn, cũng không ra lịch sử. Có cái gì đó bất mãn. Nhiều chỗ viết theo cái nghe được đâu đó, như kiểu vô tuyến truyền mồn, thông tấn xã vỉa hè; có hư cấu, xuyên tạc, bịa đặt”, Phó Giáo sư Vũ Quang Hiển nhận xét.

“Về khoa học thì không thể chấp nhận nhiều chỗ, ví dụ việc lập Đảng Cộng sản Việt Nam là do Quốc tế Cộng sản chỉ đạo. Hoàn toàn không phải, vì Quốc tế Cộng sản chỉ đạo thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, chứ không chỉ đạo thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; đây là 2 vấn đề hoàn toàn khác nhau.

Tư liệu Đèn cù

Trần Đĩnh không hề ‘phiến diện, thiên kiến’ khi trình bày các sự thực lịch sử, theo ông Bùi Tín.

“Năm 1943 Quốc tế Cộng sản giải thể rồi, làm sao mà đến năm 1950 hay 1953 còn lãnh đạo cách mạng Việt Nam?”

‘Mặt tối, mặt sáng’

Hôm thứ Bảy, khi được hỏi liệu cuốn sách có nên đề cập tới những điều được cho là chi tiết đời tư của một số nhân vật, quan chức, cựu quan chức, lãnh đạo các cấp trong Đảng hay không, nhất là khi nhiều người trong số đó đã qua đời nên không thể có điều kiện tự bảo vệ hay biện minh, ông Bùi Tín nói:

“Tôi thấy rằng, những người lãnh đạo đối với quốc gia, thì không có gì có thể được coi là riêng tư được nữa hết. Tất nhiên có một nguyên lý là đời tư của người công dân thì không nên đụng đến. Tư là tư, công là công.

“Nhưng cũng có một quy luật nữa là gì: là những người lãnh đạo cao nhất, người ta có quyền đòi hỏi những người đó phải gương mẫu, cả trong cuộc sống chung, cuộc sống công và cuộc sống tư.”

“Tôi nghĩ rằng có nhiều cuốn sách, nhiều tác giả, mỗi tác giả có quyền tự mình đề cập đến cái mức nào, ví dụ như Trần Đĩnh, ông có nói rõ ông có những tôn trọng, quý hóa đối với ông Hồ Chí Minh cơ mà, ông cũng có cái coi ông Trường Chinh là bậc thầy cơ mà, chứ có phải là cách viết một chiều đâu”

Nhà báo Bùi Tín

Còn khi được hỏi liệu cuốn sách, có bị ‘phiến diện’, ‘thiên kiến’ chỉ nghiêng về ‘góc tối’, ‘u ám’ khi nói về chế độ, các lãnh tụ và nhiều cán bộ cốt cán, lãnh đạo của Đảng, nhà nước ở các cấp hay không, cựu Phó Tổng biên tập Báo nhân dân nêu quan điểm:

“Tôi nghĩ rằng có nhiều cuốn sách, nhiều tác giả, mỗi tác giả có quyền tự mình đề cập đến cái mức nào, ví dụ như Trần Đĩnh, ông có nói rõ ông có những tôn trọng, quý hóa đối với ông Hồ Chí Minh cơ mà, ông cũng có cái coi ông Trường Chinh là bậc thầy cơ mà, chứ có phải là cách viết một chiều đâu.

“Tất nhiên ông có quyền đưa ra những chi tiết tiêu cực, những mặt tối, nhưng mà ông cũng đưa ra những mặt sáng đấy chứ, và ông cho rằng ông đã viết những mặt sáng đã đủ rồi, bởi vì chính Trần Đĩnh là người đã viết lên cuốn Tiểu sử chính thức của ông Hồ Chí Minh.

“Chính ông là người đã viết ra và ông Hồ Chí Minh chữa lại, được in, coi như tài liệu chính thức về cuộc đời, tiểu sử chính thức, được dịch ra hơn mười thứ tiếng,” cựu Đại tá Bùi Tín nói với BBC.

Đứng đầu – đứng chót?

Đứng đầu – đứng chót?

Chuacuuthe.com

VRNs (20.09.2014) – Tin Mừng Chúa nhật 25TN Năm A – Mt 20,1-16a

Ở miền Bắc nước ta hiện nay, những nông dân/công nhân không có việc làm, thường ra đứng ở các ngã đường để chờ người cần mướn, đến gọi đi làm công việc cho họ.

Thời Chúa Giêsu, ở các chợ Do thái cũng có hoàn cảnh tương tự. Thế nên bài Tin Mừng hôm nay Thánh Matthêô tường thuật lại việc ông chủ vườn nho đi ra chợ, gọi các người đứng ở đó vào làm vườn cho ông.

Kể từ khi nước ta mở cửa “kinh tế thị trường”, các công ty/doanh nghiệp mọc lên khá nhiều. Trước khi làm ăn hoặc mua bán với công ty/doanh nghiệp, thường thì đối tác phải làm bản hợp đồng/thỏa thuận với chủ. Phần nhiều trong các hợp đồng/thỏa thuận của đôi bên, có những công ty/doanh nghiệp đưa ra những hợp đồng/thỏa thuận “tràng giang đại hải”, với những từ chuyên môn khó hiểu, thậm chí còn cố ý làm cho đối tác hiểu nhầm. Và nếu không xem kỹ bản hợp đồng/thỏa thuận, thì coi chừng: bút đã sa và gà… sẽ chết! Luôn luôn phần thiệt thòi thuộc về người làm công hoặc kẻ đi mua.

Còn trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa kể về ông chủ vườn nho cũng làm hợp đồng/thỏa thuận, nhưng đơn giản hơn nhiều: chỉ “thỏa thuận” bằng miệng. Tuy đơn giản là thế, nhưng rồi ông chủ đã trả tiền sòng phẳng theo như “thỏa thuận”, lại còn cho phần thêm với những người khác, phần lợi hơn thuộc về người làm công. Ở đây Chúa muốn nói đến lòng yêu thương, quảng đại của ÔNG CHỦ trên trời, nhất là đối với những người “thất nghiệp”, kẻ “đến sau”.

Nhưng cũng chính vì chỗ “cho thêm” này, đã làm cho những người làm vườn lúc “vừa tảng sáng” ganh tị. Và thế là họ “đâm ra ghen tức”.

Có chuyện kể rằng: Chị A và chị B cùng kinh doanh một mặt hàng, ở trong cùng một khu phố. Chị A thấy chị B bán đắt hàng chừng nào, thì chị càng ganh ghét chừng đó. Chị cứ ước mong sao mình phải giàu có, sung sướng hơn chị B mới thỏa lòng.

“Cầu được ước thấy”. Một hôm Bụt hiện ra bảo chị A: “Nghe nói con hằng ước ao giàu có sung sướng lắm phải không?” – “Dạ phải” – “Ta sẵn sàng ban cho con tất cả những điều con ước, nhưng chỉ với một điều kiện”. Chị ta mừng quá, nhanh nhảu: “Dạ thưa Bụt, điều kiện gì?” – “Đơn giản thôi, những gì con ước ta sẽ ban, nhưng cô B ở cùng phố với con sẽ được gấp đôi điều con ước. Thí dụ, nếu con ước được nhiều vàng bạc thì cô ta sẽ được gấp đôi số vàng bạc của con. Nếu con ước có nhà lầu, cô ta sẽ có 2 nhà lầu. Nếu con ước có xe hơi, cô ta sẽ được 2 chiếc….” Nghe vậy chị ta buồn lắm, không được, không thể được! Suy nghĩ mãi, nhưng rồi cuối cùng chị ta cũng đã nghĩ ra được một điều đắc ý và cười to! Đợi lâu, Bụt giục: “Ước gì thì nói mau lên kẻo ta đổi ý đấy!” – “Dạ thưa Bụt, con ước ngay đây” – “Ước gì?” – “Con xin Bụt cho con bị đui một mắt” (!)

Bụt há hốc miệng thật to, trợn tròng mắt và… hô biến.

Thiệt là…hết thuốc chữa!

Con người mình đa phần là thế! Chỉ muốn mình phải luôn luôn hơn người khác, không thể ai hơn được. Thậm chí, những người nghèo khổ, thất nghiệp “không ai mướn” như trong bài Tin Mừng hôm nay, được ông chủ “cho thêm” họ cũng tỏ ra ganh tị và ghen tức.

Lòng ganh tị và ghen tức, chỉ nghĩ cho mình mà thôi đã làm cho con người ra độc ác, phi nhân như câu chuyện vừa nêu. Người Việt mình có câu “Cái khó ló cái khôn”, còn ở câu chuyện trên: lòng ganh tị và ghen tức đã làm cho con người “ghen quá hóa ác nhân”!

Trở lại bài Tin Mừng, đặt vào vị trí của những nhân vật trong Dụ ngôn, bạn và tôi có cần phải suy nghĩ:

  • Nếu tôi là ông chủ, tôi có minh bạch, sòng phẳng, trả lương đầy đủ cho người làm công của tôi không? Tôi có lợi dụng quá đáng sức lao động của họ không? Tôi có biết rằng, nếu không có họ thì dù tôi có tài giỏi đến đâu, công ty/doanh nghiệp của tôi cũng không thể hoạt động được không? Tôi có lưu tâm, ưu tiên tuyển chọn những người nghèo đói, thất nghiệp, “không ai mướn” vì không có “hậu duệ, tiền tệ, quan hệ, trí tuệ” vào làm cho tôi không? Hay tôi làm ngược lại? Tôi có chủ trương gầy dựng một “quỹ xã hội” ở công ty/doanh nghiệp của tôi, để nhờ đó có thể “cho thêm” những công nhân có hoàn cảnh nghèo đói, thương tâm như ông chủ vườn nho đã làm hôm nay không?
  • Nếu tôi là người làm công, tôi có làm hết mình hết trách nhiệm vì đồng lương được trả không? Hay tôi ỷ mình vì vào làm “vừa tảng sáng”, “làm việc nặng nhọc cả ngày”, “bị nắng nôi thiêu đốt” nên cứ tà tà cách thụ động, miễn sao cuối tháng có lương đầy đủ là được? Ông chủ dưới đất, nhất là ÔNG CHỦ trên Trời lại càng “quý hồ tinh bất quý hồ đa” nên ông sẽ đối xử sòng phẳng, tôi có biết không? Tôi có tỏ ra ghen tức khi thấy ông chủ đối xử tốt với đồng nghiệp hơn tôi, chỉ vì họ nghèo khổ hơn tôi, làm việc cật lực hơn tôi với tinh thần trách nhiệm cao hơn tôi không?

Chúng ta – những người đã theo Chúa, phải sống làm sao để đừng rơi vào trường hợp như Chúa phải cảnh báo hôm nay:

Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”(Mt 20,16a) !

Đôi lúc chúng ta cũng đã từng tự hào mình là “đạo gốc, đạo dòng” và xem thường những anh em “đạo theo, đạo mới”. Coi chừng, câu nói trên Chúa dành cho chúng ta đấy!

Bạn và tôi, chúng ta có muốn phải bị xếp vào hàng cuối cùng không?

Micae Hữu Liên