NẾU CHÚA GỌI CON VỀ …

NẾU CHÚA GỌI CON VỀ …

Củ Khoai

Nếu bạn tin rằng bạn phải chết, rằng có một cõi đời đời, rằng bạn chỉ có thể chết một lần, và nếu [lúc bạn được Chúa gọi về] bạn có sai lầm lỗi, lầm lỗi ấy sẽ là mãi mãi, không thể sửa chữa lại được, tại sao bạn lại không biết lựa chọn để bắt đầu ngay bây giờ là làm tất cả với sức lực của mình để bảo đảm một cái chết tốt? – Thánh Alphonsus di Liguori.

Cái chết là một điểm dừng mà tất cả chúng ta ai cũng sẽ đến, và ai ai cũng biết điều đó, thế nhưng chúng ta lại làm tất cả để gạt nó sang một bên.  Chúng ta sợ nó đến nỗi chúng ta tìm mọi cách, thậm chí ngay cả mê tín dị đoan để thay đổi định mệnh của mình, tất cả để trốn tránh cái chết.  Thậm chí có nhiều nơi người ta mê tín đến nỗi đành lòng hạ danh giá của người con dâu đã có thai khi rước dâu về nhà bằng cách rước dâu vào ngõ sau để ngăn ngừa cái chết trong gia đình.  Đúng là một lối suy nghĩ ngớ ngẩn.  Sự chết là gì đối với mỗi người chúng ta mà tại sao chúng ta lại sợ nó đến như vậy?  Còn tệ hại hơn nữa là khi biết mình sợ cái chết mà còn dùng nó để lấn át và lấy quyền hành trên người khác. Thật sự chúng ta có bao giờ nhìn lại cái chết và tự hỏi nó có ý nghĩa gì đối với mỗi người chúng ta?  Có bao giờ chúng ta mang nỗi sợ hãi ấy vào cầu nguyện xin Chúa dạy cho chúng ta biết sự thánh thiêng của cái chết, để rồi chúng ta không lạm dụng nó cũng như không để nó làm chủ đời mình một cách ngớ ngẩn không?

Chúng ta thường nói “Sống gửi thác về”, nhưng trên thực tế con người chúng ta không thật sự đón nhận hành trình đi về đó.  Chúng ta chưa nhìn cái chết như là một cái gì đó thánh thiêng để rồi chúng ta biết đón nhận nó như là một ân huệ quý báu Chúa ban.  Nếu chúng ta biết đón nhận, chúng ta mới biết nhìn sự chết như là một người bạn thân luôn đồng hành với mình trên mọi ngóc nghách của cuộc sống. Thật sự nó là như vậy.  Cái chết chẳng bao giờ rời ta và luôn theo ta như hình với bóng cho đến khi chúng ta được Chúa gọi về.  Cái “Chết” như là một người bạn đồng hành thiêng liêng luôn thúc đẩy chúng ta hướng đến sự hoàn hảo và tinh tuyền của tạo dựng và cái giá cứu chuộc của Con Một Thiên Chúa.  Qua đó sự “Chết” sẽ giúp chúng ta chọn cách sống cho mỗi một hơi thở trong cuộc đời.

Chúng ta nhìn lại cuộc đời của Chúa Giêsu khi xưa Ngài sống mọi giây phút trong cuộc đời làm người với Thiên Chúa Cha.  Nhưng khi phải đối diện cái chết, Ngài cũng tỏ ra sợ hãi trong cái yếu đuối của một con người, và Ngài đã xin các môn đệ ở với Ngài.  Nhưng sau khi vật lộn với sự yếu đuối đó, Ngài đã chọn đối diện cái chết của Ngài với Thiên Chúa Cha và Ngài đã xin uống chén đắng đó theo ý Cha Ngài (cf. Lc 22:42).  Khi Chúa Giêsu đón nhận cái chết theo ý Cha Ngài, Ngài đối diện với những gì sẽ tới (bắt bớ, sỉ nhục, đánh đòn, vác thập giá, và đóng đinh) trong bình an.  Hơn nữa, trên thập giá Ngài đã chọn để được chết ở trong tay Cha Ngài, “Lạy Cha Con xin phó hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46). Nếu Chúa Giêsu là người cho chúng ta thấy chúng ta có thể đối diện với sự chết trong tâm tình tin yêu và phó thác, mỗi ngươi chúng ta cũng được mời gọi để xin ơn để bắt chước Ngài.

Như vậy thì mỗi buổi sáng thức dậy, chúng ta hãy xin ơn để được đồng hành với người bạn đời “Chết”, và xin Chúa dùng bạn “Chết” để nhắc nhở chúng ta phải sống với Chúa hôm nay như thế nào hầu chúng ta biết sẵn sàng đáp lại khi Ngài hỏi ta, “Con ơi, con đang ở đâu và đang làm gì?”, và chúng ta có thể trả lời với Ngài rằng, “Con đang ở trong sự hiện diện của Cha”.  Lắm lúc chúng ta nghĩ là chúng ta chỉ có thể ý thức được rằng chúng ta đang sống trong sự hiện diện của Chúa khi chúng ta đọc kinh, cầu nguyện, hoặc tham dự thánh lễ, nhưng đó chỉ là một phần cuộc sống của chúng ta.  Chúng ta có thể chọn để ở trong sự hiện diện của Chúa trong mọi nơi mọi lúc.  Chẳng hạn như chúng ta chọn để lo lắng và chú ý đến con cái và người thân, hơn là để mình bị thu hút vào TV, ngay cả khi mọi người đang cùng ngồi coi TV chung với nhau.  Hãy để ý đến những tâm tình khó chịu, không muốn rời TV khi ai đó đang cần sự giúp đỡ của ta, và xin ơn để được đáp trả nhu cầu của người thân trong yêu thương hơn là bị bắt buộc.

Vì nếu chính lúc này, Chúa gọi chúng ta về và hỏi, “Tâm tình con đang ở đâu với Cha?” thì câu trả lời sẽ tùy thuộc vào lựa chọn của mình trong lúc ấy.  Câu trả lời đó có thể là “Con đang kiềm chế sự khó chịu của con để con được nhìn thấy và phục vụ Chúa trong người thân”, hay là “Con đang thật sự cảm nhận ra tình thương của Chúa dành cho con qua người bạn” hay là “Con đang mệt mỏi bực bội vì đứa con của con không cho con ngồi yên để coi TV” hay là “Con đang ngồi coi bộ phim không tốt cho lứa tuổi của các con của con, nhưng vì con chưa có biết hy sinh và nhà chỉ có một cái TV nên con cứ để cho các con của con cùng coi” hay là “Con đang giận đội banh kia tại vì chúng chơi dở mà con đang bị thua độ.”  Câu trả lời nào là câu trả lời của mỗi người trong giờ phút linh thiêng ấy?

Trong phong tục Á Đông của chúng ta cũng thường hay dùng cái chết để đoạt lấy quyền hành trên người khác, hay làm khuất đi những gì chúng ta không muốn nhìn thấy.  Những người trẻ đang yêu thì dùng cái chết để đe doạ, để đòi hỏi được chiều chuộng hay muốn được lấy người kia làm sở hữu.  Còn những bậc cha mẹ lớn tuổi thì dùng cái chết để bắt con cái làm theo những gì mình muốn để xoa dịu nỗi âu lo hay xấu hổ của mình khi mình không còn một cách khuyên bảo nào khác.  Có những bậc cha mẹ muốn thấy con cái mình lập gia đình trước khi mình chết để cho mình cảm thấy được yên thân và an tâm, và dùng sự gần đất xa trời để cố tình đẩy con mình vào một tình cảm mà mình cảm thấy không có ổn.  Và cũng có những cha mẹ dùng tuổi tác già nua của mình để bắt con cái phục tùng và làm như ý mình muốn.  Ở đây chúng ta không nói là mình không nên lo lắng cho con cái, nhưng chúng ta cũng nên dâng sự lo lắng và xấu hổ của mình cho Chúa.  Chúng ta xin ơn để nhận ra rằng trước khi con mình là con của mình, con mình đã là con của Chúa, và khi mình muốn cho con mình được tốt đẹp hoàn hảo thì Chúa là Đấng Sinh Thành còn muốn cho đứa con của Ngài được tốt đẹp và hoàn hảo gấp bội.

Ước gì mỗi người chúng ta biết ngồi lại và suy tư về cái chết với Chúa, và xin Ngài dạy cho chúng ta ý nghĩa và sự thánh thiêng của sự chết, để qua sự hiểu biết đó chúng ta biết chọn sống mỗi giây phút với Ngài hầu chúng ta cũng được ngồi trong lòng Tổ Phụ Abraham như anh Larazô nghèo khó trong câu chuyện “Người phú hộ và anh Larazô” ở Luca chương mười sáu.

Củ Khoai

Tôi đi viếng mộ …

Tôi đi viếng mộ …

dongten.net

Tại những nghĩa trang,

… thấy người ta khóc, nhất là khi chính mình khóc,
tôi như nghe được tiếng Chúa Giêsu nói: Thầy thương con, Thầy thương mọi người!

Cùng với lời Chúa trao ban tình yêu, tôi khám phá ra chính mình tôi, với những vết thương, với những tang tóc đau buồn.

Khám phá ra chính mình trong sự thực trần trụi.

Khám phá để giúp trút bỏ những cái nhìn ảo.
ảo về mình.
ảo về những công việc của mình.
ảo về người khác.
ảo về cuộc đời.

Để cũng nhận ra rằng: dù với những yếu đuối, tội lỗi, mong manh, tôi vẫn được Chúa gọi với tình xót thương:

Gọi hãy cảm thương.
Gọi hãy chia sẻ.
Gọi hãy trở về.
Gọi hãy hiến dâng.
Gọi hãy cầu nguyện và đền tạ.
Gọi hãy sám hối và tín thác.
Gọi hãy vượt qua sự chết và mọi nghĩa trang, để bay vào cõi phúc đời đời.

Ơn gọi đó sẽ thực hiện được, miễn là tôi biết nhờ ơn Chúa, ở lại trong tình Chúa yêu thương.

Như lời Chúa kêu gọi:
“Hãy ở lại trong Cha, như Cha ở lại trong các con” (Ga 15,4).

Từ Ân

Tháng các linh hồn 2014: Chút lời giã biệt

Tháng các linh hồn 2014: Chút lời giã biệt

Jos. Hoàng Mạnh Hùng

Thế là em đã ra đi được gần trăm ngày! Theo phong tục Việt Nam, người ta tin rằng linh hồn người chết còn quyến luyến người thân, “hồn vía còn nặng” chưa thể siêu thoát được, vẫn còn luẩn quẩn xung quanh nhà. Nước mắt đã lăn dài, lời kinh nấc nghẹn khi hồi tưởng lại, mới gần trăm ngày thôi mà đã như ngàn thu sâu thẳm! Một trăm ngày để những nỗi đau mất mát tạm thời lắng xuống, để hình ảnh người thân dần dần mờ nhạt trong tâm tưởng những người còn sống và người chết hòa dần vào cõi thinh không, hư ảo.

Những lời kinh nguyện tắt dần trong lời thầm thĩ kêu xin: “Giêsu-Maria-Giuse xin cứu rỗi linh hồn Maria. Giêsu … Maria… Giêsu … Maria…”. Chiều nghĩa trang trở lại vẻ yên ắng, tịch mịch thường ngày. Chỉ có những làn hương khói lan tỏa nhẹ nhàng trên mộ em và những ngôi mộ “hàng xóm” trong ngày đầu tháng các linh hồn – tháng cuối năm phụng vụ Giáo Hội dành để cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời.

Như một cơn mê, em đã cố không nhắm mắt sợ rằng mình sẽ ngủ một giấc thật dài trong khi ngày mai còn bết bao nhiêu chuyện phải lo toan như đã từng lo toan kể từ khi khôn lớn. Mệt lắm, nhưng em chỉ an tâm nhắm mắt khi còn thấy khuôn mặt những đứa em đã gắn bó với những hỉ, nộ, ái, ố một thời trong cuộc sống và an tâm sẽ được gọi dậy để tiếp tục những công việc trần ai còn dang dở.

Sự sống này chỉ thay đổi mà không mất đi.

Lúc con người nằm yên giấc ngủ,

mắt nhắm lại rồi là thấy tương lai.

Trọn kiếp người nay không còn nước mắt, nụ cười.

Nhưng con tin rằng ngày mai trong Chúa

Chẳng có chia lìa, chẳng có hợp tan.

(Sự sống thay đổi – Phanxicô – TCCĐ)

Không còn được nghe em kể về hai thiên thần áo trắng giúp em trong cơn đau vật vã khi xét nghiệm cô đơn trên giường bệnh. Không còn nghe tiếng em trong phone mỗi khi có việc cần chia sẻ… Suốt đời tảo tần như một “chị hai” trong nhà, lúc lấy chồng lại lo cho chồng con. Ngày ngày đi về như con thoi giữa gia đình chung và gia đình riêng trong việc mưu sinh cơm áo. Những ngày cuối đời tưởng như đã nắm được chút hạnh phúc khi trong tay đã có tấm hộ chiếu thì căn bệnh quái ác đã cướp đi tất cả. Thôi thì tấm hộ chiếu theo em như một nỗi hạnh phúc mang theo những ước mơ của một kiếp người!

Nhưng quý giá hơn cả là tấm ”hộ chiếu nước Trời” mà em đã được lãnh nhận từ tay vị Linh mục đại diện Chúa Kitô và Hội Thánh trong nghi thức xức dầu và rước Mình Thánh Chúa vào lòng: ‘‘Chúng ta cùng nhau đến đây vì danh Chúa Giêsu Kitô, Ðấng đã cho người đau yếu được lành mạnh. Chính Ngài đã chịu đau khổ vì phần rỗi chúng ta. Ngài đang ở giữa chúng ta lúc chúng ta nhắc lại lời Thánh Giacôbê tông đồ: ‘Ai trong anh em phải yếu liệt, hãy mời các vị thay mặt Hội Thánh đến, họ hãy cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha.’ (Gc 5,14-15). Chúng ta hãy phó thác người chị em của chúng ta nơi ơn lành và quyền năng Chúa Giêsu Kitô, xin Chúa làm cho bớt đau đớn, ban cho được lành mạnh và được cứu rỗi.’’

Bóng hoàng hôn đang bảng lảng trên những đôi vai thập giá, nơi đây sao cô tịch, sao thinh lặng quá! Không còn những tất bật ngược xuôi trên những dặm đường đời mưu cầu áo cơm hạnh phúc. Không còn những hạnh phúc ấm êm đầy ắp những tiếng cười, không còn lo toan, không còn hưởng thụ … Chết là bắt đầu cuộc sống mới. Ở đây ai cũng như ai, ai cũng yên nghỉ bình đẳng chờ đợi sự thay đổi cuộc sống. “Thác là thể phách, còn là tinh anh”, thể phách ngày xưa do Chúa tạo dựng đẹp đẽ nhường nào giờ đây đã và đang trong tiến trình phân hủy để trở về kiếp tro bụi.

Khi còn sống, thân xác được dành nhiều ưu tiên: nào là ăn ngon, mặc đẹp, nào là địa vị, tiền tài, danh vọng … Trên dương thế hồn nhờ xác rất nhiều. Các việc lành thân xác làm đều mang lại lợi ich cho linh hồn, việc dữ thân xác làm gây họa cho sự sống trường sinh. Còn hơi thở, xác hồn gắn bó. Hết hơi rồi, hồn xác tạm chia lìa. Đâu còn thân xác để “Lạy Chúa Trời xin mở miệng con, cho con vang tiếng ngợi khen Ngài”, đâu còn thân xác để làm những việc lành thu công, tích đức! Bấy giờ hồn không thể tự giúp mình đền tội được vì “đêm đến, không ai có thể làm việc được” (Ga 9,4) và chỉ trông chờ vào những việc lành phúc đức, những lời kinh nguyện cầu của những người còn sống để giúp hồn đền bồi những khinh tội chưa được tha và các tội khác đã được tha nhưng chưa đền tội đủ vì “nhân vô thập toàn” trong cuộc sống lữ hành.

Vậy là ngày lễ các linh hồn năm nay, không còn thấy bóng dáng em lúp xúp cắm những nén nhang trên mộ Cậu, em Hiển và những người thân quen tại nghĩa trang Giáo xứ. Không còn cùng gia đình bên những phần mộ dâng lên những lời kinh nguyện cầu cho những người thân và những người đã qua đời. Em đã về với chồng nơi nghĩa trang của những người đồng hương cho vẹn tình phu thê, dâu thảo. An táng là chờ ngày sống lại vinh quang. Nghĩa trang nào cũng là nơi an nghỉ, chờ đợi ngày phục sinh. Nơi an nghỉ chỉ là cửa ngõ để bước vào sự sống vĩnh cửu vì chúng ta đã và đang sống trong niềm tin vào Đấng đã phục sinh từ cõi chết là Đức Kitô.

Xin tạm biệt em yêu, tạm biệt những người thân và những người chưa quen chốn này. Xin mọi người hãy nghỉ ngơi thanh thản trong Chúa như Lời Ngài đã phán: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11, 28). Chúa là cùng đích và là niềm hoan lạc đời đời của con người. Chúng ta đã được Chúa tạo dựng theo hình ảnh của Ngài và chúng ta phải trở về với Ngài. Ngoài Chúa ra, không có gì tồn tại mãi mãi. Có Chúa mới có hạnh phúc thật. Chính Thiên Chúa đã phán: “Đích thân Ta sẽ đi, và Ta sẽ cho ngươi được nghỉ ngơi.” (Xh 33, 14). Hẹn gặp nhau trong những lời kinh nguyện hiệp thông và ngày cánh chung sum họp chắc chắn sẽ đầy ắp những nụ cười thay cho những giọt nước mắt ngày chia xa tiễn biệt.

Jos. Hoàng Mạnh Hùng

Kiếp Người Như Vó Câu Dồn

Kiếp Người Như Vó Câu Dồn

(Tháng các linh hồn):

Tu sĩ Vinhsơn Nguyễn Văn Hanh CSC


Tâm tình của tháng 11, tháng nhớ đến Các Đẳng Linh Hồn, Mẹ Giáo Hội nhẹ nhàng mời gọi con cái mình dừng lại trong chút nghĩ suy, nghĩ suy về sự đời và nghĩ suy về sự người. Và kìa! Có ai đó khi suy nghĩ về sự đời họ phải thốt lên: “Sự đời như thể phù vân, can qua cũng chỉ dăm ba tiếng cười”. Và nơi ai kia, khi nghĩ về sự người, họ cũng cho rằng : “Đời người như áng phù vân, Sáng còn tối mất, lựa lần mà chị”. Xin được góp nhặt một vài suy tư nho nhỏ, để cùng chung chia với nhịp sống đạo đức hướng về các Đẳng Linh Hồn.

Thời gian

Khi suy nghĩ về thời gian, suy nghĩ về kiếp người, một người “kinh bang tế thế”(trị nước, giúp đời) như Cao Bá Quát phải thừa nhận : “Ba vạn sau nghìn ngày là mấy”(100 năm là mấy).

Quả thật, người ta thường cho rằng, thời gian là món quà của cuộc sống. Cũng thế, trong tiếng Anh, thời gian của giây phút hiện tại được gọi là Present, cũng có nghĩa là món quà… Nhưng nếu chỉ dừng lại ở “món quà” thì hình như chỉ đi vào ngõ cụt, không đi tới đâu.

Thiện chí mời gọi ta bước tiếp trên dòng kiếm tìm. Vậy món quà ấy ai là chủ nhân, ai là người ban tặng và ai là người sáng tạo? Như vậy, thời gian còn là một mầu nhiệm, vì thời gian không phải con người làm ra, hay do khoa học tổng hợp lên…

Chỉ có trong thơ ca mới nói: “ tôi muốn tắt nắng đi…tôi muốn buộc gió lại..” Làm sao ta có thể tắt được nắng, làm chi có chuyện buộc gió lại; cũng như con người nào có thể ngừng được thời gian. Vì thời gian là quà tặng nhưng không, quà tặng do ân huệ của Thiên Chúa. Con người chỉ đưa tay ra đón nhận với lòng khiêm tốn mà thôi.

Và như vậy bạn cũng đừng nên cao rạo rằng: “ Bàn tay bạn làm nên tất cả, có sức người sỏi đá cũng thành cơm…”. Bạn đâu có làm nên được tất cả, bạn chỉ cộng tác đôi chút công sức thôi chứ. Ai cho ban sức khỏe, thì giờ và điều kiện….Bạn có thể làm ra được thời gian? Bạn có thể làm cho “Mặt trời mọc lên rồi lại lặn xuống, trở về chỗ cũ nơi nó lại mọc lên.”(Gv1,3). Bạn nên nhớ, bạn là một kiếp người. Mà đã là kiếp người thì có: “ một thời để chào đời, một thời để lìa thế”(Gv 3,2).

Mau Qua của kiếp người

Cùng với thời gian, con người bị cuốn trôi theo dòng chảy của nó. Khi suy tư về kiếp chóng qua mau tàn của con người, tác giả Vịnh ca sánh ví: “Ấy con người khác chi hơi thở, vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu(Tv 144,4). “Bóng câu” là gì vậy? Thưa là bóng của một con ngựa câu(ngựa mới lớn) nó chạy vụt qua rất nhanh.

Như trong Hán văn cổ hay nói : “Bóng câu qua cửa sổ” nghĩa là Bóng con ngựa chạy ngang qua cửa sổ rất nhanh, không thể thấy kịp. Cũng vậy, lời bài hát cầu hồn có đoạn: “Như vó câu dồn tựa thoáng mây bay…”. “Vó câu dồn”, đó là một cụm từ hình tượng và ẩn thanh. Khi ngựa câu chạy nhanh, tiếng vó đập xuống nền đường một cách rất dồn dập, khiến cho tiếng kêu lộp cộp vội vàng hơn. Vì thế, ví đời người trôi qua cũng nhanh như vậy, như là bóng câu, như vó câu và như hơi thở…

Cũng vậy, khi nói về kiếp mau qua ấy của con người, có ai đó còn ví von: đời như mây trôi khi kết khi hợp, đời như hoa phù dung sớm nở tối tàn và đời như làn khói trước một cơn gió biến tan… Triết lý nhà Phật cho rằng: “ cuộc đời sắc sắc không không”. Nghĩa là có đó rồi lại không đó, cuộc đời như ảo ảnh là vậy. Sự khôn ngoan của tác giả Vịnh ca một lần nữa soi sáng cho chúng ta:

“Nào phàm nhân sống mãi được sao

mà chẳng phải đến ngày tận số? (Tv 49,10)

Sự chết quả là thầy dạy của chúng ta. Sự chết làm cho người đạo đức thêm hy vọng, mời gọi người tội lỗi quay về nẻo chính đường ngay và dập tắt sự sống đời thế tạm.

Có một câu chuyện kể rằng: Một vị hoàng thượng Ấn Độ, cho vời một Thiền sư có tiếng trong đất nước đến gặp ngài. Gặp vị Thiền sư, hoàng thượng này hỏi rất nhiều chuyện. Nào là chuyện thế gian, nào là chuyện thế ngay…. Sau cùng, vị hoàng thượng ấy bèn hỏi một câu cuối cùng: “Xin Thiền sư cho biết, điều gì làm cho Thiền sư thấy lạ nhất trong cuộc đời này?” Vị Thiền sư trả lời: Tâu bệ hạ, điều mà hạ thần thấy lạ nhất trong cuộc đời này là “ai cũng phải chết cả, mà họ cứ sống như không bao giờ phải chết!”. Vị hoàng thượng bèn ôm lấy Thiền sư và nói : ta cũng nghĩ như ngươi.

Quả thế, nếu như ai cũng luôn ý thức mình phải chết thì họ sẽ xa tránh dịp tội dễ dàng . Một số vị thánh trong Giáo Hội dùng sọ người để suy ngắm về sự chết, như thánh Thánh Sác-lơ Bôrômêô, thánh Giêrônimô…

Ngày xưa khi học Giáo lý, ông bà Quản Giáo dạy thiếu nhi của mình thuộc nằm lòng về tứ chung, tức bốn sự sau hết. Bốn sự sau hết đó là: chết, phán xét, Thiên Đàng và Hỏa ngục.

Con người do bản tính : “hay sai lỗi và dễ quyên lãng”. Cho nên, Chúa Giêsu đã thiết lập hẳn Bí Tích giải tội để không mệt mỏi tha thứ cho con người. Giáo Hội dành riêng tháng 11 để kính nhớ các Đẳng Linh Hồn, đây cũng là lời nhắc nhở của Mẹ Giáo Hội cho ta luôn ý thức “một cõi đi về”.

Trong Phụng Vụ Giờ Kinh, Giáo Hội hằng cất cao Vịnh ca 49. Vịnh ca ấy mời gọi con người hướng suy tư về tứ chung:

“Kìa thiên hạ thấy người khôn cũng chết,

kẻ ngu đần dại dột cũng tiêu vong,

bỏ lại tài sản mình cho người khác…”

Ý thức được sự mau qua của thời gian, chóng tàn của kiếp sống con người, còn giúp chúng ta có cơ hội tăng thêm lòng tin, sự phó thác và lẽ cậy trông. Chúng ta cũng được gọi mời nghĩ về ta cũng như nghĩ về tha nhân. Hơn bao giờ hết, tôi có bổn phận nghĩ đến những người đã ra đi trước tôi, để cầu nguyện cùng, cầu nguyện với và cầu nguyện cho họ.

Người sẽ chết cầu nguyện cho người đã chết

Khi còn là một chú Đệ tử, cha Giám đốc Gioan Hoan Nguyễn Hữu Vịnh dạy chúng tôi rằng:

“Đời Tu hai đích nhắm luôn

Làm vinh Danh Chúa, cứu hồn người ta”.

Ngài hằng gọi mời và khuyến khích chúng tôi nhớ đến các Đẳng Linh Hồn. Họ là Bố Mẹ, Ông Bà, Tổ Tiên…chúng ta. Ngài chỉ vẽ ra những thiện ích giúp cầu nguyện hiệu quả cho các Đẳng.

“Cứu Hồn Luyện Ngục: Cầu Kinh,

Thánh Lễ, Bố Thí, Hãm Mình, Ơn Tha.

Cứu hồn trong lửa Luyện Tội gồm có 5 việc: đó là đọc kinh, tham dự Thánh Lễ, hy sinh hãm mình, làm phúc cho người, và nhận lãnh các Ân xá để nhường lại cho các Đẳng Linh Hồn.

Tôi còn nhớ, năm Triết I của tôi tại Đại Chủng Viện Xuân Bích- Huế, cha Giám đốc G.B. Nguyễn Văn Đán, Ngài dạy chúng tôi bộ môn: Phụng Vụ Nhập Môn. Cha kể cho chúng tôi nghe câu chuyện, khi dựng nhà thờ Phát Diệm, cụ Sáu vốn là người sùng kính các Linh Hồn, để đưa các cây cột lim to, nặng vào vị trí cách nhẹ nhàng thì mọi người phải nhất tề phải hô to: “Lạy các đẳng linh hồn, xin nâng lên giúp con”. Và cứ như thế, các hàng cột chẳng những dựng được lên nhẹ nhàng mà còn an toàn nữa. Cha giáo Đán kể tiếp: Cụ Sáu sùng kính các Đẳng Linh Hồn cách riêng, Ngài khuyên các giáo hữu của Ngài, khi bước chân đến nhà thờ để đọc kinh, tham dự Thánh Lễ, giáo hữu không được chuyện vãn, thay vì nói chuyện thì đọc kinh từ tư gia cho đến nhà thờ…để cầu cho các Đẳng.

Lậy Chúa, xin cho các Đẳng Linh Hồn được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ầy.

Tu sĩ Vinhsơn Nguyễn Văn Hanh CSC.

NGUỒN NƯỚC MẮT

NGUỒN NƯỚC MẮT

ĐGM Gioan B. Bùi Tuần

Trí nhớ của tôi lưu giữ nhiều hình ảnh.  Trong số đó, có một thứ hình ảnh rất thầm lặng, nhưng thường gây trong tôi nhiều cảm xúc và suy nghĩ.  Thứ hình ảnh đó là các nghĩa trang.

Tôi đã viếng nhiều nghĩa trang.  Tại Việt Nam, tại Ý, tại Đức, tại Pháp, tại Nga, tại Vaticăng.

Tôi đến viếng các nghĩa trang, chủ ý để suy gẫm, cầu nguyện, và cũng để tìm cảm nghiệm.  Có thứ cảm nghiệm chỉ tìm được ở nghĩa trang.  Tôi đã nghĩ như vậy và đã làm như vậy, khi tôi viết luận án: “Đau khổ của tình yêu”.

Đã có những cảm nghiệm độc đáo in rất sâu vào lòng tôi từ các nghĩa trang.  Đặc biệt là từ những dòng nước mắt ở nghĩa trang.

Có những nước mắt của tình yêu dạt dào.

Có những nước mắt của nỗi buồn, nhung nhớ.

Có những nước mắt của lòng hối hận khôn nguôi.

Có những nước mắt của tấm lòng tha thứ muộn màng.

Có những nước mắt của ân tình, hiếu nghĩa.

Có những nước mắt của niềm tin sâu sắc mong chờ.

Khi đi sâu hơn một chút giữa các dòng nước mắt, tôi có thể cảm nghiệm được một số khám phá quan trọng:

Khám phá ra những chân lý nhân sinh.

Khám phá ra những hy vọng ứu độ.

Khám phá ra chính mình.

Khám phá ra chân lý

Những nước mắt ở nghĩa trang là những tiễn biệt thân thiết.  Tiễn biệt người đã chết, người vĩnh viễn ra đi.  Sự chết là một sự thật không cần bàn tới.  Nhưng đó lại là một chân lý cực kỳ quan trọng.

Bất cứ ai, rồi cũng phải chết.  Cái chết đáng sợ.  Nhưng đáng sợ hơn lại là cái gì đàng sau cái chết. Đáng sợ, vì nó quá bất ngờ.  Biết đâu, trong số mồ mả, cũng có những hồn vì thế mà đang khóc ròng rã đêm ngày.

Ở đây, tôi chỉ xin trích dẫn một đoạn Phúc Âm: “Có một ông nhà giàu nọ, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình.  Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu đó.  Anh thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rơi xuống mà ăn cho đỡ đói.  Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.

Thế rồi, người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Abraham.

Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.  Dưới địa ngục, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Abraham ở trên đàng xa, và thấy Ladarô trong lòng tổ phụ.  Bấy giờ ông ta kêu lên: Lạy tổ phụ Abraham, xin thương xót con, xin sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát, vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm.

Ông Abraham đáp: Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con đã nhận phần phước của con rồi.  Còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh.  Bây giờ Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ.  Hơn nữa, giữa chúng ta đây và con đã có một vực thẳm quá lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16,19-26).

Với dụ ngôn trên, Chúa dạy ta những chân lý quan trọng.  Ai cũng phải chết.  Nhưng sự Chúa đánh giá từng người sau khi chết thường vượt quá sự con người suy nghĩ.  Người phú hộ đó sống đời này được đầy đủ, sung sướng, an nhàn, xét mình chẳng thấy gì là xúc phạm Chúa, chẳng thấy gì là làm hại ai.  Nhưng người phú hộ đó đã bị rơi vào hoả ngục.  Chỉ vì sống thiếu thương cảm, thiếu liên đới, thiếu chia sẻ, thiếu xót thương.  Trái lại, người ăn mày kia đã được lên thiên đàng.  Vì dù bị chìm trong cảnh khổ, anh đã sống nêu gương về đức khiêm nhường, hiền lành và chân thật.  Không được người dư dật chia sẻ, anh phải sống đói khổ, nhưng anh vẫn chia sẻ với mấy con chó đói ăn.

Nhờ ơn Chúa, những sự thực như trên đã được nhiều người nhận ra một cách sâu sắc trong những dòng nước mắt tại nghĩa trang.  Những chân lý đó đã thay đổi đời họ.

Ngoài ra, biết bao người nằm trong nghĩa trang và khóc tại nghĩa trang cũng đã tìm được hy vọng cuộc đời qua một ngả khác.

Khám phá ra hy vọng

Không thiếu trường hợp, tôi đã chứng kiến những cuộc trở về.  Họ đã trở về từ những dòng nước mắt của một người nào đó.  Người đó cầu nguyện cho họ.  Người đó khóc với họ thay vì nói với họ.

Một lúc bất ngờ, lời Chúa Giêsu phán xưa trở thành chuyện đời họ.  Chúa an ủi họ rằng: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc.  Người đau ốm mới cần.  Hãy về học biết ý nghĩa của câu này: Cha muốn lòng nhân, chứ đâu cần của lễ.  Vì Cha đến, không để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,12-13).

Những lời dịu dàng đó đã đi sâu vào lòng họ.  Cõi lòng vốn đóng kín, khoá chặt, chất chứa những u uất, thất vọng, nay mở ra để hy vọng tràn vào.

Họ cảm thấy mình được xót thương, được yêu thương.  Họ sám hối.  Họ cảm thấy mình được tha thứ.  Và chính họ cũng dễ dàng tha thứ.  Một sự bình an lạ lùng trùm phủ tâm hồn họ.  Họ ra đi bình an trong sự tin tưởng phó thác tuyệt đối ở Chúa giàu lòng thương xót.  Họ khóc vì xúc động, đây là những dòng nước mắt đầy tình cảm tạ.

Những người chứng kiến cũng không cầm được nước mắt.  Những dòng nước mắt ấy không nói nên lời, nhưng ngọt ngào niềm hy vọng cứu độ.

Khám phá ra chính mình

Tại những nghĩa trang, thấy người ta khóc, nhất là khi chính mình khóc, tôi như nghe được tiếng Chúa Giêsu nói: Cha thương con, Cha thương mọi người.  Cùng với lời Chúa trao ban tình yêu, tôi khám phá ra chính mình tôi, với những vết thương, với những tang tóc đau buồn.  Khám phá ra chính mình trong sự thực trần trụi.

Khám phá để giúp trút bỏ những cái nhìn ảo.  Nhìn ảo về mình.  Nhìn ảo về những công việc của mình.  Nhìn ảo về người khác.  Nhìn ảo về cuộc đời.

Để cũng nhận ra rằng: dù với những yếu đuối, tội lỗi, mong manh, tôi vẫn được Chúa gọi với tình xót thương:

Gọi hãy cảm thương.

Gọi hãy chia sẻ.

Gọi hãy trở về.

Gọi hãy hiến dâng.

Gọi hãy cầu nguyện và đền tạ.

Gọi hãy sám hối và tín thác.

Gọi hãy vượt qua sự chết và mọi nghĩa trang, để bay vào cõi phúc đời đời.

Ơn gọi đó sẽ thực hiện được, miễn là tôi biết nhờ ơn Chúa, ở lại trong tình Chúa yêu thương.  Như lời Chúa kêu gọi: “Hãy ở lại trong Cha, như Cha ở lại trong các con” (Ga 15,4).

ĐGM Gioan B. Bùi Tuần

From: KittyThiênKim & Nguyễn Kim Bằng gởi

Quy tắc ứng xử

Quy tắc ứng xử

Chuacuuthe.com

VRNs (02.11.2014) – Sài Gòn – Báo Tuổi Trẻ số ra ngày thứ sáu 31 tháng 10 năm 2014 có bài ở trang 17 nói về việc UNND.TP.HN. cùng các lãnh đạo khác trong TP nghe Sở VH-TT & DL trình bày về Bộ quy tắc ứng xử trong các cơ quan hành chính, trường học, bệnh viện, doanh nghiệp, khu dân cư, nơi công cộng trong địa bàn TP. Nội dung bài báo ghi nhận ý kiến của một số các giáo sư, các nhà văn hóa và nghệ sĩ, …

Cùng với bài báo này nơi trang 1, phần giới thiệu, báo Tuổi Trẻ đăng hình những thanh niên lao xuống sân thể thao giằng cây vợt của 1 vận động viên đang dùng với ghi chú: Khán giả xuống sân giật vợt, túi xách, của các vận động viên nước ngoài. Thời điểm bức hình là cuối tháng 3 năm 2014, vận động viên bị giật vợt là Yano (Nhật Bản), nơi giật Hà Nội, giải cầu lông HN. mở rộng.

Chắc chúng ta không quên những hình ảnh dân Hà Nội tranh nhau hái sạch hoa Anh Đào trong một dịp triển lãm hội Hoa Anh Đào Việt Nhật năm nào, và sân Mỹ Đình thành bãi rác khổng lồ sau một lễ hội cách đây mấy ngày. Đấy là cách ứng xử với các sinh hoạt văn hóa của dân mang tiếng là cư dân của thủ đô, cư dân của đất Hà Thành văn hiến.

Chắc chắn ai trong chúng ta cũng phải đồng ý rằng, mọi bài học về giáo dục công dân, phép lịch sử hay cách ứng xử văn minh đều vô ích nếu những người lớn không làm gương sáng nhưng lại làm gương xấu. Làm sao một em nhỏ lớn lên có đủ khả năng ứng xử văn hóa giao thông khi mỗi ngày trên đường đi học ba mẹ em chạy xe vượt đèn đỏ, chen lấn vượt tuyến, phản ứng thô lỗ với khách giao thông khi có va quẹt? Làm sao một em nhỏ có thể có ứng xử có văn hóa khi chính ba mẹ em quăng rác ra đường, khạc nhổ bừa bãi, chen lấn không xếp hàng nghiêm chỉnh? Cái gương của người lớn quan trọng hơn bài học ở bất kỳ môi trường nào. Tệ hơn nữa sẽ khó có một công dân trong sạch khi ba mẹ công dân đó sử dụng bằng giả, chạy chức chạy quyền, đưa và nhận hối lộ, tổ chức tham nhũng tinh vi, nhưng vẫn lên mặt giảng bài đạo đức cách mạng.

Một thể chế không minh bạch, mờ ám trong mọi lãnh vực, ứng xử “mạnh được yếu thua” không thể đưa ra bài học đạo đức có hiệu lực với xã hội. Còn đó vườn hoa được hô biến từ đất Tòa Khâm sứ Công giáo, cuộc thi công vội vã ngay sau khi ông thủ tướng đến thăm Đức Tổng Kiệt với lời hứa giải quyết (năm 2009). Cũng còn đó, lại là vườn hoa phố Nguyễn Lương Bằng được phù phép từ đất của Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà, khi ông Trung Tướng Cục An Ninh vào tận Saigon hứa với vị Giám Tỉnh DCCT. và ông Thiếu tướng Giám đốc CA Hà Nội gọi điện cam kết chưa ráo miệng (năm 2009). Mấy ngày nay đất hồ Ba Giang được thi công nhanh chóng để biến thành vườn hoa, hàng loạt những văn bản làm giả chữ ký hiến đất của Cha già Giuse Vũ Ngọc Bích một cách trơ trẽn, chữ ký hiến đất ghi ngày tháng trước cả các văn bản của các loại ủy ban ở Hà Nội công nhận chủ quyền đất hồ Ba Giang của DCCT!

Bao lâu còn những hoạt động kiểu này, kiểu cướp công khai giữa ban ngày, thì đừng mong bộ quy tắc ứng xử sẽ có hiệu lực cho dù là một chút nhỏ nhoi ở cái đất nghìn năm văn hiến này.

Ngày lễ các Thánh 2014

Đình Trung.

‘Bán danh…ba đồng!’

‘Bán danh…ba đồng!’

Nguoi-viet.com

Huy Phương

Tháng rồi, gia đình tôi gửi về cho cô em ở Sài Gòn một thùng quà 24 lbs từ một dịch vụ gửi hàng về Việt Nam tại Little Saigon. Sau một tuần, qua điện thoại trao đổi hai bên, chúng tôi biết thùng quà bị lấy mất 2 chai thuốc Glucosamine, một loại thuốc nghe nói rất đắt khách tại Sài Gòn hiện nay, và hai hộp cheese đầu bò, là loại “bơ thừa sữa cặn” nhân viên quan thuế trong nước hiện nay vẫn còn thèm thuồng.

Kiều Trinh, con gái một quan chức cao cấp của đảng,
từng ăn cắp trong các chuyến công tác nước ngoài.

Tôi biết thùng quà không bị moi từ đại lý ở Mỹ, vì người Việt ở Mỹ không có thói ăn cắp vặt, và cũng đã chán bơ, sữa. Thùng quà về Tân Sơn Nhất bị những tay kẻ cắp chuyên môn rạch một đường dài rất khéo và dán băng keo lại sau khi dùng bàn tay mò mẫm để định giá món hàng cần phải lấy, và cũng có thể chúng mở thùng ra đàng hoàng và dán lại. Ai có thể khiếu mại đôi co với chúng khi nhận được thùng quà đã bị ăn cắp này?

Câu chuyện ăn cắp ở phi trường Tân Sơn Nhất đã được một em bé lớp ba trong nước, làm luận văn mô tả câu chuyện ba em, làm việc tại phi trường, mỗi chiều về nhà, đều mang theo một bịch đồ lấy cắp của khách hàng, từ chai thuốc bổ, mỹ phẩm cho đến chiếc cell phone, chiếc quần jean và mẹ em có nhiệm vụ đem hàng đi bán lấy tiền. Vì chuyện này, ba em thường bị ông nội em phàn nàn, khiển trách (trong xã hội này mà còn được một ông nội như vậy sao!)

Ông Cao Huy Huân, một người ở trong nước, đã mô tả chuyện ăn cắp ở hàng không Việt Nam: “Chả là bạn học chung với tôi ở Mỹ lần đó bay về Việt Nam thăm gia đình vào dịp HÈ. Trong vali hành lý có mang theo một chiếc máy ảnh cổ nghe nói là trị giá cả 9 nghìn đô la Mỹ, mang về hộ cho một người bạn. Khi đến sân bay Nội Bài, cậu phát hiện hành lý mình có dấu hiệu bị xâm phạm nên mở vali ra xem thì mới biết chiếc máy ảnh đó cùng một vài chai nước hoa hàng hiệu đã không cánh mà bay. Cậu liên hệ các bộ phận ở sân bay thì đều bảo là không nhìn thấy, không biết gì cả. Vốn biết nét đặc sản tai tiếng này ở các cảng hàng không Việt Nam nên cậu lập tức gọi điện thoại cho người thân vì cậu có người thân làm quan chức cao cấp trong một bộ ở Hà Nội. Chỉ chưa đầy 10 phút sau, một nhân viên kiểm tra hành lý đã tay xách nách mang đem ra trả cho anh chàng đầy đủ máy ảnh và số nước hoa trên, còn xin lỗi rối rít. Cũng chẳng mất mát gì nên cậu cũng im lặng cho qua. Thế nhưng câu hỏi đặc ra là nếu như cậu bạn đó không có người thân là quan chức cấp cao thì số hành lý đó sẽ ra sao?”

Một chuyện ăn cắp “quốc tế” là mất mặt đảng nhất là chuyện Kiều Trinh, một đảng viên, trưởng phòng Văn Hóa Dân Tộc (!) của một đài truyền hình mà cha cô là Vũ Văn Hiến, ủy viên Trung Ương Đảng, làm tổng giám đốc! Năm 2001, Kiều Trinh nhám tay ăn cắp một số mỹ phẩm khi cô được bố cử đi công tác ở Thụy Điển. Năm 2009, khi sang Anh, Kiều Trinh lại giở trò cầm nhầm mấy cái máy ảnh digital. Cả hai lần, vì là con của ủy viên Trung Ương Đảng, cô được các tòa đại sứ CSVN tại địa phương “cứu hộ,” tận tình, thậm chí có cả giấy chứng nhận Kiều Trinh đang mắc bệnh tâm thần từ trong nước gửi ra. Về nước, chưa chừa thói ăn cắp, tại thành phố Vinh, Nghệ An, Kiều Trinh lại tuồn áo quần vào váy, lần này camera cửa hiệu thu hình đầy đủ và đưa lên Internet.

Vậy mà ông bố có đứa con gái làm nhục quốc thể vẫn là khuôn mặt của Trung Ương Đảng CSVN, kẻ cắp quốc tế mỗi đêm vẫn lên đài truyền hình dạy dỗ người ta cái gọi là “văn hóa dân tộc.” Cả nước khinh bỉ chúng nhưng chúng không hề có chút liêm sỉ để hổ thẹn.

Một nhân viên đài truyền hình có hồ sơ trọng tội, xấu xa như vậy phải được đưa ra khỏi ngành, một đảng viên có thành tích ăn cắp bỉ mặt như vậy phải bị khai trừ khỏi đảng. Một tổng giám đốc đài truyền hình có nhân viên làm xấu ngành nghề, một người cha có đứa con làm nhục cha ông như Kiều Trinh, nên biết tự xử như một người có nhân cách.

Tội nghiệp thay, cha con nhà này cũng như cả đảng nhà nọ, vẫn coi đây là chuyện thường tình. Không ai còn biết liêm sỉ, chẳng ai còn biết đến chuyện xấu hổ nữa chăng? Cả ai nửa, đã bổ nhiệm Vũ Văn Hiến vào chức vụ tổng giám đốc Đài Truyền Hình Việt Nam, kẻ đã đem con vào giữ một chức vụ trưởng phòng trong đài, đã dùng tiền dân đóng thuế để cử con đi công cán ở ngoại quốc, làm xấu mặt cho người Việt Nam. (*)

Thằng nhỏ làm công nhân, buổi sáng đem một lon nhôm đựng cơm trưa, buổi chiều về nhét đầy một lon xi măng, đinh sắt. Thằng lớn tổng giám đốc ăn theo chức tổng, thằng thủ kho kiếm chác theo thủ kho, thằng bảo vệ sống nhờ mánh mung bảo vệ. Ăn cắp để bảo vệ chức vụ và nghề nghiệp của mình và trong xã hội ấy nhân phẩm được cân đo bằng tiền. Cán bộ làm giàu nhờ ăn cắp của công, toa rập với bọn tài phiệt nước ngoài cướp đất của dân, từ trên xuống dưới, phủ bênh huyện, huyện bênh phủ, tạo nên một mạng lưới ăn cắp từ trên xuống dưới. Mấy năm gần đây, cán bộ, viên chức nhà nước dính líu đến các vụ buôn lậu, bán visa, ăn cắp hàng trong các siêu thị, có đường dây tổ chức trong nước càng ngày càng nhiều, đến nỗi khuôn mặt Việt Nam trở nên lem luốc. Tình trạng người Việt ăn cắp không một nơi nào mà không có: trong công ty, ở công sở, nơi công cộng, siêu thị, chợ búa, địa điểm du lịch… không những trong nước mà còn ra nước ngoài để bêu riếu thanh danh Việt Nam đến đỗi ở nơi đông người, các quốc gia Nhật, Thái lan, Hàn phải trưng bảng thông báo đề phòng và cảnh cáo dân Việt…ăn cắp.

Có lúc nào mà dưới mắt thế giới, người Việt bị sỉ nhục đến như thế! Vậy có ai trên quả đất này còn giấc mơ, “một buổi sáng thức dậy, bỗng dưng…thành người Việt Nam” nữa không? Và cũng không ai trách, một người Việt khi ra ngoài, phải tự thanh minh: “Phải, tôi là người Việt Nam, nhưng là người Việt Nam đang ở nước ngoài, hay tôi là một người Việt Nam nhưng không phải là Việt Nam Cộng Sản hiện nay.”

Người Việt hầu hết đều thấy hổ thẹn, có người kêu gọi “đi tìm một nhân cách của con người Việt Nam đã mất!” Đã mất có nghĩa là ngày xưa, nhân cách ấy đã có, từ cái thời mà người Việt không có, không biết đến Cộng Sản là gì. Xây dựng thì khó, có khi hàng thế hệ, nhưng phá bỏ thì dễ, chỉ cần vài năm.

Người xưa ra đường làm việc bậy, trong xóm làng, thì người ta hỏi là con cái nhà ai, để chửi là con…mất dạy! Thời nay, không còn ai cần đến danh dự của cha mẹ, họ hàng, gia tộc, vì chúng không biết xấu hổ, thì ra đường, người ta hỏi đây là dân nước nào vậy!

Tổ tiên chúng ta đã bỏ ra ba vạn để có danh dự cho Việt Nam, nhưng bây giờ chế độ Cộng Sản trong nước đã bán danh ấy có…ba đồng!

(*) “Chẳng tin thì ông đi đôi

Cha con nhà nó còn ngồi đằng kia.”

(Ca dao mới)

Vấn đề Hỏa Ngục

Vấn đề Hỏa Ngục

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ all-about-the-virgin-mary.com)

Hỏa Ngục có thật, không là chuyện mơ hồ hoặc bịa đặt để hù dọa. Hỏa Ngục như một Biển Lửa, lửa-của-các-loại-lửa, cực mạnh và vô cùng khủng khiếp, không như lửa bình thường ở thế gian này. So với Lửa Hỏa Ngục và Lửa Luyện Hình, lửa thế gian chỉ như “gió mát” mà thôi. Đừng cứng lòng mà phải khốn nạn đời đời!

Bài chia sẻ này gồm vài chứng cớ mạnh mẽ và khủng khiếp mà các thánh nhân đã được mặc khải và trực tiếp cảm nghiệm thực tế về nơi ở ngùn ngụt lửa của ma quỷ . Các mặc khải này đã được Giáo hội chuẩn nhận vì hoàn toàn phù hợp với các giáo huấn trong Phúc Âm. Kitô hữu không buộc phải tin các mặc khải tư, nhưng các mặc khải về Hỏa Ngục này khả dĩ giúp chúng ta suy nghĩ nghiêm túc hơn và sâu sắc hơn về sự bí ẩn và thực tế của Hỏa Ngục.

Tháng Mười Một, tháng cầu cho các linh hồn nơi Luyện Hình, là dịp thuận tiện để chúng ta cùng kiểm tra và xác định lại đức tin của chính mình. Hãy chú ý các “bí quyết” mà ma quỷ áp dụng để cám dỗ và khiến chúng ta phạm tội. Mưu ma chước quỷ thật đáng sợ!

1. THÁNH TIẾN SĨ TERESA ÁVILA (1515–1582)

Thánh nữ Têrêsa Ávila là nhà thần bí, tiến sĩ Giáo hội. Bà cho biết:

“Một hôm, khi tôi đang cầu nguyện, tôi thấy chính mình trong một lúc, không biết thế nào, rõ ràng chìm vào Hỏa Ngục. Tôi biết đó là Ý Chúa muốn tôi thấy nơi mà ma quỷ đang sẵn sàng đối với tôi, tôi đáng như vậy vì tội của tôi. Thời gian kéo dài một lúc, nhưng có vẻ như tôi không thể quên được dù tôi còn sống nhiều năm sau đó. Lối vào có vẻ hẹp và dài , giống như lò lửa , rất tối tăm và chật chội . Nền như đầy nước, bùn lầy, hôi thối, kinh tởm, và đầy sâu bọ gớm ghiếc. Phía cuối là khoảng trống rỗng như khoang trống ở trên vách tường, tôi thấy mình bị nhốt giam ở đó . Không có gì khoác lác trong lời tôi nói đâu” .

“Với những gì tôi cảm thấy lúc đó, tôi không biết bắt đầu từ đâu nếu tôi phải diễn tả nơi đó. Rất khó giải thích. Tôi cảm thấy lửa trong linh hồn tôi nhưng tôi không thể diễn tả. Đau khổ thể lý của tôi không thể chịu nổi . Tôi chịu các đau khổ nhất trong đời, như các thầy thuốc diễn tả là teo gân khi tôi bị tê liệt, không thể so sánh với các dạn bệnh khác, ngay cả những gì tôi nói, Satan bắt tôi phải chịu. Nhưng những điều đó chẳng là gì so với những gì tôi cảm thấy lúc đó, nhất là khi tôi thấy không có sự tạm ngưng hoặc kết thúc cực hình” .

“Các cực hình đó không là gì so với nỗi thống khổ của linh hồn tôi, một cảm giác áp bức, ngột ngạt, đau nhói, cùng với cảm giác vô vọng và tàn khốc, tôi không biết mô tả như thế nào. Nếu tôi nói rằng linh hồn tiếp tục bị xé ra khỏi thân xác thì cũng chưa chính xác, vì điều đó ngụ ý nói sự hủy diệt sự sống bằng tay của người khác, nhưng ở đây, chính linh hồn tự xé ra từng mảnh . Tôi không thể mô tả lửa hoặc nỗi vô vọng trong lòng, hơn cả mọi sự giày vò và đau khổ . Tôi chưa thấy ai bị hành hạ như tôi, tôi cảm thấy mình đang cháy và bị xé ra từng mảnh. Tôi lặp lại rằng đó là lửa trong lòng, và nỗi vô vọng là cực hình khủng khiếp nhất ” .

“Khi vào nơi khủng khiếp đó, không còn hy vọng được thoải mái, tôi không thể ngồi hoặc nằm, không có khoảng trống nào hết. Tôi như bị đặt vào khoảng không trên vách tường, nhìn mình rất khủng khiếp, xung quanh tôi là những tiếng rên la. Tôi không thể hít thở. Không có ánh sáng, chỉ có bóng tối dày đặc. Tôi không biết mô tả nó như thế nào. Dù không có ánh sáng, nhưng mọi thứ có thể gây đau khổ bằng cách bị thấy mà vô hình” .

“Lúc đó, Đức Mẹ không cho tôi thấy Hỏa Ngục nữa. Sau đó, tôi có một thị kiến khủng khiếp nhất, trong đó tôi thấy hình phạt của các tội lỗi. Các hình phạt nhìn rất khủng khiếp, nhưng vì tôi không còn đau đớn nữa, nỗi kinh hoàng của tôi cũng không còn ghê gớm…” .

“Tôi quá đỗi hoảng sợ khi thấy thị kiến đó, nhìn như nơi mà tôi thấy sáu năm trước, sức nóng tự nhiên của cơ thể khiến tôi rùng mình mỗi khi tôi nghĩ tới nó. Vì thế, trong mọi đau khổ mà tôi có thể phải chịu, tôi luôn nhớ rằng mọi đau khổ trên thế gian này không là gì cả. Có vẻ chúng ta than phiền vô cớ. Tôi lặp lại rằng thị kiến này là một trong các điều thương xót của Thiên Chúa. Đó là điều tuyệt vời nhất đối với tôi, vì điều đó đã hủy diệt nỗi lo sợ của tôi về sự rắc rối và sự mâu thuẫn của thế gian, vì điều đó đã làm tôi đủ mạnh mẽ để chống lại, tôi tạ ơn Đức Mẹ là Đấng giải thoát tôi khỏi những nỗi đau khổ kinh khủng và lâu dài như vậy” .

2. NỮ TU JOSEFA MENENDEZ (1890–1923)

Nữ tu Josefa Menendez, người Tây Ban Nha, qua đời năm 1923 ở tuổi 33, là một trong các nhà thần bí “nổi tiếng” của thế kỷ XX. Nữ tu này có cuộc đời ngắn ngủi nhưng chịu nhiều đau khổ, và được mặc khải trong đa phần cuộc đời, gom lại trong cuốn “The Way Of Divine Love” (Cách Thức của Tình Chúa). Bà đã được đưa tới Hỏa Ngục để chứng kiến và cảm nhận nỗi thống khổ. Nữ tu Josefa buộc lòng phải viết về Hỏa Ngục, vì bà làm vậy chỉ là làm theo ý muốn của Chúa. Đây là chứng cớ:

“Linh hồn tôi rơi vào vực thẳm, rộng bao la, không thấy đáy… Rồi tôi bị đẩy vào một hồ lửa, giống như ở giữa các tấm ván đang cháy, các đinh nhọn sắc và các thanh sắt nóng đỏ như muốn đâm vào da thịt tôi. Tôi cảm thấy như thể chúng muốn tuốt lưỡi tôi ra nhưng không thể. Cực hình này khiến tôi đau đớn đến nỗi mắt tôi như không còn nhìn thấy. Tôi nghĩ đó là vì lửa cháy, bừng cháy… Không móng tay nào của tôi không đau đớn, người ta không thể nhúc nhích dù chỉ một ngón tay để cho bớt đau nhức, không thể thay đổi tư thế , vì cơ thể có vẻ như bị dát mỏng và bị gấp đôi lại . Các âm thanh khó phân biệt và lời phỉ báng không ngừng, dù chỉ trong một thoáng. Mùi hôi thối kinh tởm làm ngột ngạt và làm hư hại mọi thứ, như thể mùi thịt thối rữa bị cháy, pha lẫn với mùi hắc ín (nhựa đường) và lưu huỳnh… Đó là sự pha tạp mà không thể so sánh với bất cứ mùi gì khác trên thế gian này… Mặc dù các cực hình này rất rùng rợn, không thể chịu đựng nổi, không thể mô tả được… Nhữ gì tôi viết ra đây chỉ là bóng mờ nhạt của những gì mà linh hồn phải chịu, không lời nào có thể mô tả nỗi đau khổ khốc liệt như vậy” (ngày 4-9-1922) .

“Đêm nay, tôi được đưa tới một nơi hoàn toàn tăm tối … Xung quanh tôi có bảy hoặc tám người. Tôi chỉ có thể thấy họ qua ánh lửa. Họ ngồi nói chuyện với nhau. Một người nói: Chúng ta phải rất cẩn thận kẻo bị phát hiện, vì chúng ta dễ bị phát hiện lắm” .

“Ma quỷ nói: Hãy xúi giục họ bất cẩn … nhưng hãy ở phía sau để không bị phát hiện… cứ dần dần rồi họ sẽ chai lì , chúng ta sẽ kéo nó về phía xấu xa. Hãy cám dỗ những người khác tham lam , ích kỷ , giàu có mà không cần làm việc, dù đúng luật hay không. Hãy kích thích người ta khoái nhục dục và ham vui . Hãy làm cho thói xấu làm mờ mắt họ… Với những người khác… hãy vào trái tim họ… nên biết khuynh hướng của tâm hồn họ…! Hãy làm cho họ yêu thích… yêu thích say đắm…! Hãy làm việc hết sức… đừng nghỉ ngơi… đừng thương hại! Cứ để họ say mê ăn uống ! Như vậy sẽ dễ cho chúng ta… Hãy để họ tiếp tục tiệc tùng và chè chén . Ham vui là cửa ngõ để chúng ta đến với họ…” (ngày 3-2-1923) .

“Tôi thấy vài linh hồn sa Hỏa Ngục, trong số đó có một em gái mới 15 tuổi, nó nguyền rủa cha mẹ đã không dạy nó kính sợ Thiên Chúa và không cho nó biết có Hỏa Ngục . Nó cho biết rằng đời nó ngắn ngủi nhưng đầy tội lỗi, vì nó đã chiều theo mọi thứ mà thể xác và đam mê đòi hỏi…” (ngày 22-3-1923) .

“Hôm nay, tôi thấy rất nhiều người phải vào lò lửa… Họ có vẻ như người trần gian và một quỷ hét lớn: Thế giới đã chín muồi cho ta thu hoạch…! Ta biết rằng cách tốt nhất để bắt giữ các linh hồn là khuấy động lòng ham vui của người ta… Hãy ưu tiên tôi… Tôi trước mọi người… không có sự khiêm nhường đối với tôi! Hãy cứ để tôi vui thỏa… Với dạng này chắc chắn chúng ta chiến thắng… và chúng sẽ xuống Hỏa Ngục” (ngày 4-10-1923) .

3. THÁNH NỮ FAUSTINA (1905–1938)

Nữ tu Faustina, người Ba Lan, được Giáo hội tuyên thánh ngày 30-4-2000, đã được Chúa cho thấy Hỏa Ngục năm 1936. Chị ghi trong Nhật Ký số 741:

“Hôm nay, tôi được thiên thần dẫn tới vực thẳm Hỏa Ngục. Đó là nơi tra tấn dữ dội, rất khủng khiếp và rộng lớn! Các cực hình tôi thấy: Cực hình thứ nhất tạo thành Hỏa Ngục là mãi mãi xa cách Thiên Chúa ; cực hình thứ hai là lương tâm cắn rứt đời đời ; cực hình thứ ba là tình trạng mãi mãi bất biến ; cực hình thứ tư là lửa thiêu đốt mà không hủy diệt linh hồn – đau khổ khủng khiếp, vì đó là lửa tinh thần (không như lửa thường), đốt lên bởi cơn giận của Thiên Chúa; cực hình thứ năm là bóng tối dầy đặc và ngột ngạt khủng khiếp , mặc dù tối tăm, ma quỷ và các linh hồn vẫn thấy nhau, thấy người khác và thấy chính mình; cực hình thứ sáu là đời đời ở với Satan ; cực hình thứ bảy là tuyệt vọng , căm thù Thiên Chúa, với các lời phỉ báng và nguyền rủa hèn hạ . Các linh hồn hư mất phải cùng nhau chịu các cực hình này, nhưng đó không là chấm dứt đau khổ. Có các loại cực hình đặc biệt dành cho các linh hồn cá biệt. Có các cực hình của ngũ quan . Mỗi linh hồn chịu những nỗi đau khổ khủng khiếp, không thể diễn tả nổi, liên quan những gì họ đã phạm tội . Có các hang động và hầm hố có các cực hình khác nhau. Hẳn là tôi đã chết giấc khi nhìn thấy các cực hình này nếu Thiên Chúa không nâng đỡ tôi. Hãy cho các tội nhân biết rằng họ sẽ chịu cực hình đời đời theo các giác quan mà họ đã dùng để phạm tội ” .

“Tôi viết điều này theo lệnh của Thiên Chúa, để không linh hồn nào có thể viện cớ gì mà nói rằng không có Hỏa Ngục hoặc không có ai ở đó , vì thế không ai có thể nói như vậy. Tôi là Nữ tu Faustina, theo lệnh của Thiên Chúa, đã được thăm Hỏa Ngục để tôi có thể nói cho các linh hồn biết về Hỏa Ngục và làm chứng về sự hiện hữu của Hỏa Ngục ”.

“Tôi không thể nói về Hỏa Ngục bây giờ, nhưng tôi đã được lệnh của Thiên Chúa viết về Hỏa Ngục. Ma quỷ rất căm thù tôi, nhưng chúng phải vâng lời tôi theo lệnh của Thiên Chúa. Những gì tôi viết chỉ là bóng mờ nhạt của những gì tôi thấy . Nhưng tôi chú ý một điều: Đa số các linh hồn ở đó là những người đã không tin có Hỏa Ngục . Khi tôi tới đó, hầu như tôi không thể hồi phục vì hoảng sợ. Các linh hồn chịu cực hình ở đó thật khủng khiếp! Cuối cùng, tôi cầu nguyện tha thiết hơn để xin ơn hoán cải cho các tội nhân. Tôi không ngừng cầu xin lòng thương xót của Thiên Chúa tuôn đổ trên họ. Lạy Chúa Giêsu của con, thà con chịu khổ cực cho đến tận thế, giữa các đau khổ nhất, còn hơn con phản nghịch Ngài vì tội nhỏ nhất ” .

4. FATIMA – BA TRẺ THẤY HỎA NGỤC

Năm 1917, trong thời gian Thế Chiến I, Đức Mẹ đã hiện ra với ba trẻ nhỏ tại Fatima, Bồ Đào Nha, vào các ngày 13 từ tháng Năm tới tháng Mười. Trong lần hiện ra ngày 13-7-1917, Đức Mẹ đã cho ba trẻ em này thấy Hỏa Ngục. Đây là chứng cớ:

“Đức Mẹ xòe tay ra, những tia sáng như xuyên thấu thế gian, chúng tôi thấy như là biển lửa. Chìm trong biển lửa đó là ma quỷ và các linh hồn trong dáng vóc con người, như than hồng trong suốt , mọi thứ như đồng đen hoặc hoặc bóng lộn, lơ lửng trong lửa cháy , lửa bốc cao đưa người ta lên như đám khói, rồi lại rơi xuống như những đốm lửa trong ngọn lửa lớn, không trọng lượng hoặc mất thăng bằng, ở giữa những tiếng la hét và kêu than vì đau khổ và tuyệt vọng , điều đó làm chúng tôi sợ hãi và phát run vì hãi hùng. Cảnh tượng đó khiến chúng tôi bật khóc, như thể người ta nghe được vậy” .

Ma quỷ có thể phân biệt bằng cách nhìn chúng giống như những con vật lạ lẫm, gây hoảng sợ, cự tuyệt, đen đủi và trong suốt như những cục than hồng. Chúng tôi sợ hãi và xin Đức Mẹ cứu giúp, Đức Mẹ nói với chúng tôi bằng giọng buồn: “Các con đã thấy Hỏa Ngục, nơi các linh hồn tội lỗi phải vào. Như vậy, khi các con đọc Kinh Mai Côi, hãy đọc câu này sau mỗi chục kinh: Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu chúng con cho khỏi Hỏa Ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn ” .

Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Nếu tay hoặc chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà cụt tay cụt chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã thì hãy móc mà ném đi; thà chột mắt mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hoả ngục” (Mt 18:8-9) .

Chúng ta cùng sám hối và chân thành cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài” [Tv 50 (51):3-6].

Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu. Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài” [129 (130):1-4] .

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Nếu không còn một ngày để sống

Nếu không còn một ngày để sống

Chuacuuthe.com

M. Hoàng Thị Thùy Trang.

VRNs (01.11.2014) – Sống cho mọi người nhớ đến đã khó, chết đi rồi mà không một ai quên đó mới là điều khó khăn hơn gấp bội. Ngày nay, có rất nhiều cách giúp cho người ta khiến người khác nhớ đến mình khi còn đang sống. Có những cách gây ấn tượng một cách tự nhiên, chính trực. Ví như những nhà bác học, những thiên tài, những bậc vĩ nhân… Ngược lại, là cách gây chú ý bằng việc gây sốc, làm ra một loạt những vụ scandal. Tất nhiên, cách gây chú ý nào thiên về sự công chính chắc chắn sẽ khiến người ta nhớ mãi với lòng ngưỡng mộ, thương mến. Nếu như thế giới ai cũng cố gắng dù chỉ một lần khắc ghi tên tuổi của mình vào lòng nhân loại thì chắc chắn cuộc sống này sẽ bớt bất hạnh hơn. Khổ nỗi người tốt thì ít mà kẻ ác lại nhiều. Cho nên số lượng kẻ gây sốc cho người khác nhớ thì nhiều mà người gieo ấn tượng lại ít.

Quả thật, sống cho người ta thương đã khó, chết cho người ta nhớ lại càng khó hơn. Thế nhưng, đó chỉ là những cái nhớ cái thương của nhân loại. Còn cái nhớ với những kẻ đã qua đời đối với tín hữu Kytô giáo lại hoàn toàn khác biệt. Người tín hữu có bổn phận nhớ đến tất cả mọi anh chị em đã qua đời không phải vì những ấn tượng tốt họ đã làm hoặc các lỗi lầm họ đã phạm, nhưng chính là tình thương mến thương, sự hiệp thông của lời cầu nguyện giữa người đã qua đời và kẻ còn đang sống.

Giáo hội dành riêng tháng 11 để cầu nguyện cho mọi tín hữu đã mất, nhằm nhắc nhớ cho những ai còn đang sống biết rằng đến lượt mình, một ngày nào đó rồi cũng sẽ bỏ lại tất cả mà ra đi. Vậy hãy sống như thể hôm nay là ngày cuối cùng để sống, thay vì sẽ làm ra những điều gây sốc thì hãy tạo ấn tượng bằng cách khắc ghi những hành động đẹp giữa lòng thế giới, để khi mất đi, mọi người sẽ nhớ đến mình trong niềm tiếc thương và nhung nhớ.

Nói thì nói thế, nhưng thực tế lại không thể chút nào. Ai chẳng thích sống khiến người ta thích, người ta thương, người ta nhớ, nhưng đâu phải muốn là được. Chỉ khi nào bạn chọn Thiên Chúa làm cùng đích đời mình và bước đi trong đường lối của Ngài mới hòng mong có được những ấn tượng tốt trong lòng thế giới. Riêng ai sống chỉ biết đến bản thân mình, sống buông thả theo những đam mê, dục vọng cá nhân thì làm sao có thể?

Ai biết sống chu toàn lề luật Chúa, người ấy sẽ được diện kiến nhan thánh Ngài. Trái lại, ai từ chối Thiên Chúa, sống phản nghịch đường lối Ngài, chắc chắn sẽ phải chịu diệt vong. Giáo hội dành riêng tháng này để cầu nguyện cho họ, nhờ lời cầu nguyện của nhiều người mà Thiên Chúa đoái thương tha thứ những lỗi lầm họ đã trót phạm.

Nếu chỉ còn một ngày để sống, ai cũng biết nói rằng tôi sẽ sống yêu thương hơn. Nhưng thực tế, chẳng ai chịu tin rằng tôi chỉ còn có một ngày để sống. Ai cũng nghĩ còn lâu tôi mới chết, tôi sẽ còn sống lâu lắm, rất lâu, rất lâu. Ai đang ở trong Giáo hội đau khổ đều có một lỗi lầm lớn nhất là như vậy. Vì cho rằng tôi sẽ còn sống lâu lắm kìa, không cần phải thay đổi. Đâu ngờ rằng, một ngày để sống xảy đến thật. Khi đã không còn cơ hội, họ mới bắt đầu đau khổ hối tiếc. Nhưng cái giá trị một ngày để sống không còn nữa, họ đã đánh mất cơ hội của mình và giờ đây chỉ còn đau khổ và hối tiếc. Bổn phận của chúng ta những người còn đang sống là cầu nguyện cho họ.

Tất nhiên, những ai khi còn sống biết khắc ghi tên tuổi mình bằng hành động đẹp, thì giờ đây khi họ no đầy ơn phúc trên Thiên quốc, chắc chắn họ sẽ cầu nguyện cho những kẻ khi còn sống hoặc đang sống chỉ biết gây rối, gây sốc bằng những hành động điên loạn của mình.

Mầu nhiệm Giáo hội cùng thông công là như vậy. Chúng ta những người đang sống trong Giáo hội lữ hành, hãy biết ý thức dù tôi đang sống đây nhưng luôn nhớ rằng sẽ có ngày mình chỉ còn một ngày để sống Và nếu ngày ấy là hôm nay, thì hãy biết sống tốt hơn, hầu không phải hối tiếc khi thời gian không còn nữa.

Lạy Chúa, nếu chỉ còn một ngày để sống, chắc chắn con sẽ thưa với Ngài rằng con sẽ sống tốt hơn. Nếu như con không thể khắc vào lòng người những ấn tượng tốt để khi chết đi có thể khiến người khác nhớ đến mình, thì con cũng biết khắc vào lòng Chúa tình yêu, sự hy sinh và lòng mến, để khi không còn một ngày để sống, con sẽ không phải hối tiếc vì chưa biết yêu thương.

M. Hoàng Thị Thùy Trang.

Ký ức 25 năm cuộc cách mạng nhung: Hungary

Ký ức 25 năm cuộc cách mạng nhung: Hungary

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-10-30

10302014-25y-velv-memories.mp3

Hàng chục ngàn sinh viên Tiệp Khắc biểu tình đòi đa đảng và chấm dứt chế độ Cộng sản, họ đã được sư hỗ trợ của phong trào bất đồng chính kiến từ đó dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản vào ngày 10 tháng 12, 1989 ở Tiệp Khắc.

Hàng chục ngàn sinh viên Tiệp Khắc biểu tình đòi đa đảng và chấm dứt chế độ Cộng sản, họ đã được sư hỗ trợ của phong trào bất đồng chính kiến từ đó dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản vào ngày 10 tháng 12, 1989 ở Tiệp Khắc.

AFP

Ngày 9/11 năm nay kỷ niệm 25 năm bức tường Berlin sụp đổ. Sự kiện đó trở thành biểu tượng của cuộc cách mạng Đông Âu thành công, xóa đi hệ thống cộng sản tại lục địa này. Nhân dịp này chúng tôi tìm gặp những nhân chứng của của diễn biến lớn lao bậc nhất trong xã hội loài người, để nghe câu chuyện ký ức 25 năm trước của họ. Hôm nay chúng tôi bắt đầu bằng quốc gia cộng sản đầu tiên chuyển biến trong năm 1989: nước Hungary.

Sự sụp đổ của hệ thống cộng sản

Đó là giai điệu dòng Danube xanh, con sông chảy ngang vùng Trung Âu thơ mộng, chảy ngang nước Hungary êm đềm, nơi cách đây đúng một phần tư thế kỷ đã bắt đầu những sự kiện khơi mào cho cuộc cách mạng nhung làm sụp đổ cả hệ thống cộng sản.

Mùa hè năm 1989, hàng trăm ngàn người Đông Đức sang Hungary tìm đường sang Áo và Tây Đức. Trong một hành động mang tính biểu tượng, ngày 27/6/1989 hai Ngoại trưởng Hungary và Áo dùng kềm cắt bỏ hàng rào ngăn cách hai quốc gia.

Ngày 19/8/1989 những tổ chức dân sự Hungary tổ chức một sự kiện tên là Picnic toàn Âu để nói lên nguyện vọng về một châu Âu thống nhất, hàng ngàn người Đức đang tị nạn ở Hungary đã vượt biên giới sang nước Áo.

” Những người tị nạn Đông Đức đã bỏ hết vật dụng của họ, những người đi bằng xe Traban một loại xe điển hình của Đông Đức thời đó cũng quẳng xe lại ở biên giới, quẳng đồ đạc, thậm chí nhiều người bồng bế con cái, bỏ cả giày dép, đi chân đất tiến về phía biên giới

Anh Nguyễn Hoàng Linh”

Anh Nguyễn Hoàng Linh hồi tưởng những ngày tháng lịch sử ấy, khi anh là sinh viên tại thủ đô Budapest:

Khi cách biên giới khoảng vài cây số thì những người tị nạn Đông Đức đã bỏ hết vật dụng của họ, những người đi bằng xe Traban một loại xe điển hình của Đông Đức thời đó cũng quẳng xe lại ở biên giới, quẳng đồ đạc, thậm chí nhiều người bồng bế con cái, bỏ cả giày dép, đi chân đất tiến về phía biên giới. Phải nói rằng đó là một hình ảnh đối với anh em chúng tôi hết sức là cảm động, phải nói  là chấn động.

Cảm xúc rất là đặc biệt, tôi nghĩ là ai ở Hungary thời kỳ đó mà bỏ qua những cái đó thì bỏ qua những ấn tượng rất là lớn trong đời người.

Những cảm xúc chấn động của các sinh viên người Việt lúc ấy còn kèm theo cả sự ngạc nhiên. Tiến sĩ Vũ Hồng Lâm, hiện là một nhà nghiên cứu tại Trung tâm Đông nam Á ở Hawaii, là sinh viên năm thứ ba tại đại học Bách khoa Budapest vào năm 1989 nhớ lại rằng vừa bước ra khỏi khủng cảnh bao cấp khốn khó của Việt nam, thì Hungary đối với anh đã là một loại thiên đường.

Thế mà đọc báo thấy giới gọi là trí thức họ nói là tình hình rất khó khăn, chúng ta phải thay đổi rất ghê gớm. Đối với tôi đó là một cái gì rất là khó hiểu, và tôi tò mò để tìm hiểu. Thì mới hiểu rằng họ có những so sánh riêng còn người Việt nam mình nghèo quá thì như vậy đã là tốt rồi. Rõ ràng là họ có sự so sánh, họ muốn chuyển từ chế độ xã hội chủ nghĩa sang tư bản, muốn có một chế độ giống như Áo, giống như Đức để sung sướng, thoãi mái tự do hơn. Bản thân mình lúc đó chỉ là sinh viên thôi thì cũng cảm thấy thích thú với chuyện đó. Mình cảm thấy một dân tộc đang là một đàn cừu, rồi được tự do, được làm những việc lớn, mình cảm thấy thích thú lắm.”

” Rõ ràng là họ có sự so sánh, họ muốn chuyển từ chế độ xã hội chủ nghĩa sang tư bản, muốn có một chế độ giống như Áo, giống như Đức để sung sướng, thoãi mái tự do hơn. Bản thân mình lúc đó chỉ là sinh viên thôi thì cũng cảm thấy thích thú với chuyện đó. Mình cảm thấy một dân tộc đang là một đàn cừu, rồi được tự do

Tiến sĩ Vũ Hồng Lâm”

Hiệu ứng dây chuyền

Chuyển biến chính trị ở Hungary giống như một mồi thuốc châm ngòi cho một phản ứng dây chuyền lan khắp Đông Âu, làm sụp đổ cả hệ thống cộng sản xây dựng dưới bóng quân đội Liên xô từ sau năm 1945. Hơn hai tháng sau khi hàng rào biên giới Áo Hung bị gỡ bỏ, một hàng rào khác mang tính biểu trưng của bức màn sắt và xung đột chiến tranh lạnh bị xóa bỏ, đó là bức tường Berlin ngăn đôi thủ đô nước Đức bị đập tan vào ngày 9/11/1989.

Nhưng tất cả những sự kiện được lịch sử ghi lại chỉ là những dấu mốc, còn quá trình thay đổi ở Hungary đã diễn ra từ lâu, từ năm 1956 khi cuộc nổi dậy của người dân Hungary bị xe tăng Liên xô đàn áp, dẫn đến cái chết của người lãnh đạo cộng sản Hung lúc đó ủng hộ cuộc nổi dậy là ông Imre Nagy.

” 25 năm sau nhìn lại sự kiện Hungary và Đông Âu, Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho rằng cuộc chấn động đó không những ảnh hưởng đến cách suy nghĩ về sự tự do trong tư tưởng, trong văn hóa của những người Việt sống tại Đông Âu mà còn ảnh hưởng đến cả người Việt trong nước nữa”

Tiến sĩ Nguyễn Quang A, hiện là một nhà hoạt động xã hội dân sự tại Hà nội, nói rằng chính ở Hungary, nơi mà ông học tập trước khi cuộc cách mạng 1989 nổ ra, ông đã nhận ra những lỗi không thể sửa chữa được của hệ thống cộng sản:

Vâng chính xác như vậy. Tức là ở đó, mình có nhiều thông tin hơn do cái sự cởi mở của người ta. Và mình tiếp cận được với những người có ý kiến khác nhau, mình nghe được những chính kiến khác nhau, thì mình phát hiện ra cái hệ thống này không thể phát triển được, không thể tồn tại một cách lâu dài.”

25 năm sau ngày những người cộng sản Hungary thay đổi ý thức, cùng với những người đối lập với họ tháo bỏ bức tường ngăn cách Đông Tây, cộng đồng người Việt tại Hungary vẫn hãy còn là một cộng đồng nhỏ so với các cộng đồng người Việt hải ngoại khác. Nhưng theo anh Nguyễn Hoàng Linh hiện sống và tham gia hoạt động truyền thông của người Việt tại Budapest thì người Việt ở đây đã bắt đầu quan tâm đến đời sống chính trị của quốc gia Hungary.

25 năm sau nhìn lại sự kiện Hungary và Đông Âu, Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho rằng cuộc chấn động đó không những ảnh hưởng đến cách suy nghĩ về sự tự do trong tư tưởng, trong văn hóa của những người Việt sống tại Đông Âu mà còn ảnh hưởng đến cả người Việt trong nước nữa.

Một hôm bước chân về giữa chợ,

Một hôm bước chân về giữa chợ,

Chợt thấy vui như trẻ thơ. Đời ta có khi là đóm lửa,
Một hôm nhóm trong vườn khuya.
Vườn khuya đóa hoa nào mới nở, đời ta có ai vừa qua.”

(Trịnh Công Sơn – Đêm Thấy Ta Là Thác Đổ)

(2Cor 1: 12 )

Trần Ngọc Mười Hai

Kìa, này bạn gần/xa. Bạn hát, sao nhiều thế? Nhiều thế, tức: cứ về đêm, là thấy thác đổ sao? Cứ về phố chợ, là thấy vui đời trẻ thơ sao? Lời bạn hát, có lẽ chưa thuyết phục mọi người, nhiều cho lắm. Nay đề nghị, bạn hãy hát thêm câu tiếp để xem sự việc ra sao, dẫu có thế nào! Câu ấy như sau:

“Một đêm bước chân về gác nhỏ,

chợt nhớ đóa hoa Tường Vi.

Bàn tay ngắt hoa từ phố nọ,

giờ đây đã quên vườn xưa.

Một hôm bước qua thành phố lạ,

thành phố đã đi ngủ trưa.

Đời ta có khi tựa lá cỏ,

Ngồi hát ca rất tự do.

Nhiều khi bỗng như trẻ nhớ nhà,

Từ những phố xưa tôi về.

Ngày xuân bước chân người rất nhẹ,

Mùa xuân đã qua bao giờ”.

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Thơ/nhạc bạn hát, cũng thơ mộng thật không ít. Tuy nhiên, dù bạn hát nhiều như thế nhưng nói năng lại rất ít. Thôi thì, chi bằng ta cứ ngồi đó nghe bầy tôi đây kể chuyện nhà Đạo, sẽ vui hơn. Vui, vì biết chuyện vừa xảy ra ở Thượng Hội Đồng Giám Mục Rôma, cũng từa tựa như chuyện trong làng/ngoài xã, ta đoán kết-cuộc ngay trước đó, rồi. Bởi, nhà Đạo của có tên tục gọi là “Vũ như Cẩn” (tức Vẫn Như Cũ) hoặc Nguyễn Y Vân (tức Vẫn Y Nguyên) mà.

Nhưng, trước khi xem sự thể ra sao ở nhà Đạo, bầy tôi chợt có ý-định đề-nghị bạn là: ta cứ nghe thử bọn trẻ kể chuyện tiếu lâm nhạt/chay, cũng hay hay:

“Truyện rằng:

Có hai bé em, xem chương-trình hỏi/đáp trên truyền-hình, lại cứ bảo:

-Khó quá mày nhỉ! Năm ngoái, chị tao biết trước đề thi cả 30 phút, thế mà vẫn rớt đấy!

-Vậy sao? Như thế, vẫn chưa bằng bà cô tao từng biết trước đề thi cả hai tháng, mà vẫn ra rìa, ngoài hạng!

-Ủa! Cô mày thi gì mà khó đậu thế?

-Thi Hoa Hậu ấy mà.

-Thi Hoa hậu mà khó thế sao?

-Đúng. Thường thì không, nhưng đằng này lại thi Hoa Hậu Phu Nhân, mới chết chứ!”

(Trích tiếu-lâm trên mạng, đọc cho qua).

Vâng. Truyện tiếu-lâm mà đọc trên mạng, thì đương nhiên chỉ cho qua dăm ba phút phù-du, chứ nào có là sự thật đâu mà để ý! Đằng này, chuyện nhà Đạo tuy nghiêm-trang/nghiêm-túc thấy vui. Vui, là bởi: nhà Đạo thường hay kể lể về các buổi họp-hành/bàn-luận rất cao-siêu nhiệm mầu nhà thờ, nhà thánh cũng nghiêm-trang như sau:

Tại Thượng Hội Đồng  vừa qua, cặp vợ chồng người Úc là ông Ron và bà Marvis Pirola nói rằng: “gia đình phải đối mặt với sự căng-thẳng trong việc bảo-tồn chân-lý đức tin trong khi vẫn phải thể-hiện lòng từ-bi và thương xót”. Họ kể lại việc bạn bè họ phải làm thế nào khi người con đồng tính của mình muốn đem bạn tình về nhà, dịp Giáng sinh: “Nó là con của con mà!”…

Vợ chồng này giải thích: “Dần dần chúng con nghiệm thấy có mối liên-hệ đặc-biệt giữa bí-tích hôn-nhân của chúng con là do Đức Kitô thiết-lập có liên-hệ trong đời sống tính-dục. Hôn-nhân là bí-tích diễn-tả trọn vẹn trong quan hệ tính dục.” “Chúng con tin rằng chỉ khi nào vợ chồng kính-trọng việc hợp-nhất trong tính-dục như phần quan-yếu của đời sống tâm-linh, thì họ mới hiểu rõ được giá-trị cao đẹp của giáo-lý hôn-nhân vốn được trình-bày trong Tông Huấn Humanae Vitae. Chúng con cần các phương-pháp mới và ngôn-ngữ dễ hiểu để chạm tới trái tim của mọi người…”

…Về điều này, ông Ron và bà Marvis đã giải thích thêm: “Mô-hình truyền-giáo cho các giáo xứ phải có khả-năng trả-lời các tình-huống tương-tự!” “Nhiệm-vụ và mục-đích chính của Giáo-huấn có từ Giáo-Hội là cho thế giới biết về tình-yêu của Thiên-Chúa.”

Cặp vợ chồng người Úc này còn kể lại kinh-nghiệm thực-tế khác: “Một người bạn của chúng con đã ly-dị, có nói rằng: đôi khi cô ấy cảm thấy mình không hoàn-toàn được đón-nhận trong giáo xứ mình ở. Tuy vậy, cô vẫn tham-dự thánh-lễ thường-xuyên và vẫn giáo-dục con cái rất tốt. Đối lại, giáo-xứ lại không có thiện cảm gì với cô và việc cô ly dị là một chướng tai/gai mắt đối với họ. Từ những người như cô, chúng con ngộ ra rằng: tất cả chúng con vẫn còn nhiều khiếm-khuyết trong cuộc sống. Nhận ra được khiếm khuyết, chúng con sẽ bớt đi việc phán-xét người khác. Bởi, phán xét làm cản-trở việc loan-báo Tin Mừng.” (Hoàng Minh tường trình về Thượng Hội Đồng Giám Mục Rôma tháng 10/2014 trên www.chuacuuthe.com 07/10/2014)

Kể ra, thì cũng tội. Đường đường là vợ chồng, thì ông bà Ron và Marvis Piola vẫn là cặp phối-ngẫu lý-tưởng sống đạo-hạnh, đại-diện cho Giáo-hội ở Úc “đem chuông đi đánh xứ người”. Kết cuộc, cũng  không có quyền “bỏ” phiếu, tức: chỉ gióng tiếng chuông lạ, nghe đã khó.

Kể ra, lại cũng vui. Đường đường, là nhà Đạo Công giáo, lâu lâu tổ-chức một “Thượng Hội Đồng” tốn kém khá nhiều để bàn “chuyện” của các gia-đình Công-giáo khắp nơi, có cả chuyện nghe được và được nghe, giống như chuyện của ông Vũ Như Cẫn, cũng công phu nhưng khó thành.

Kể ra, thì những chuyện xảy đến trước/sau ngày “Thượng Hội Đồng” kết thúc, có nhà báo/nhà văn và cũng là nhà đạo kia/nọ lại nhấn-mạnh đôi điều qua giòng trích-dẫn rất như sau:

Kết thúc Thượng Hội Đồng ngoại-thường về những thách đố mục-vụ gia-đình, mà không che giấu gì những khó khăn được trải qua trong suốt hai tuần tranh-luận vừa qua, Đức Phanxicô đã rút ra một bản tổng-kết tích-cực về kinh-nghiệm Thượng Hội Đồng này, được sống trong tự do phát-biểu thực-sự.

“Bằng tinh-thần đoàn-thể-tính và hội-đồng-tính, ta đã thực sự sống kinh nghiệm Thượng Hội Đồng, thực-sự hành-trình liên-đới cùng một con đường với nhau. Cũng như: trên mỗi con đường, đã có những thời-điểm chạy nhanh, hầu như muốn chinh-phục thời-gian và đạt tới đích một cách nhanh hết sức có thể, và những thời-điểm mỏi-mệt (…), những thời điểm nhiệt thành và hăng say khác…” (xem Tý Linh, Đức Phanxicô Kết Thúc Thượng Hội Đồng Bằng Một Bài Phát Biểu Đanh Thép, www.xuanbichvietnam.net 19/10/2014)

Bằng tinh-thần đoàn-thể-tính và Hội-đồng-tính”, có lẽ là “ý chính” trải rộng trong ngày các đấng bậc lu-bù họp hành để xem xét mọi sự, cho “rõ chuyện”. Bằng “hành-trình liên-đới và cùng một con đường với nhau”, có thể là “bài bản” hoặc “đường-đi-nước-bước” mà Giáo hội thời hiện-tại đang bước dần vào đời thường, của người thường.

Bằng bài bản của “tinh-thần tập-thể” hiểu theo đường-lối chính-mạch trong Đạo, thì: có thể là như thế. Thế nhưng, hiểu theo tầm-kích của báo đạo và/hoặc báo đời, ở ngoài đời thì có lẽ sẽ như sau:

“Thật ra, cũng không là chuyện thường tình xảy đến, khi người Công-giáo khắp nơi tụ-tập tại Rôma để xem Giáo hội mình đưa quyết định này khác, có theo cách-thế trong sáng/minh-bạch hay không? Các báo-cáo/tường-trình từ Thượng Hội Đồng về “chuyện” gia-đình, khiến ai có thói quen coi việc bàn-luận và cãi vã trong phòng kín, đều là “Sự đã rồi”, hết. Các đề-tài được Giáo hội gần như đồng-loạt biểu-quyết, ít ra cũng cho thấy: nay nhen-nhúm trong lòng Giáo-hội mức độ nào đó về tính đa-dạng, khác kiểu ít thấy kể từ ngày Công Đồng Vaticăng II kết thúc…” (X. Neil Ormerod, Catholic Church returns to Pluriformity of Vatican II, www.eurekastreet.com.au/article.aspx?aeid=42160 19/10/2014)

Thế đó, lại có thêm đôi nhận-định của đấng bậc khác ở đâu đó Úc-Châu, Âu-Châu hay Mỹ-Châu, mà người người nên để mắt hoặc tai xem thế nào. Trước nhất, là ý-kiến của một vị thày dạy ở Melbourne, Úc như sau:

“Phần đông dân chúng trông mong nhiều vào Thượng Hội Đồng Giám Mục hồi tháng 10/2014 khi phác-thảo được chuẩn-bị, rất kỹ…

Cuối cùng thì, với nhiều người, Thượng Hội Đồng Giám Mục kỳ này, là một thất-bại không nhỏ với vị Giáo-hoàng năng-nổ là Đức Phanxicô đương-đại. Thất-bại, để rồi mọi chuyện lại rơi vào bàn tay sắt đá của nhóm Giám-mục bảo-thủ. Là người đau khổ nhiều vì thất-bại, Đức Giáo Hoàng Phanxicô xem ra thấy cũng hiện rõ trên nét mặt.

Độc-giả ở đây, hẳn biết rõ Đức Phanxicô lâu nay thường tỏ-bày rằng: ngài chẳng bao giờ muốn hoặc có ý-định thay-đổi giáo-huấn của Hội-thánh, thế nên động-thái thư-thả, trầm-tĩnh của ngài cũng không có gì lạ. Đức đương kim Giáo-hoàng đây đơn-giản chỉ muốn tìm khả-năng mới để Giáo-hội Công-giáo có thể đến với người sống ngoài lề, hoặc xa cách. Điều, mà ngài quả-quyết cũng không có trọng-lượng là bao, đối với người vẫn cứ trông mong Giáo-hội có được đổi thay, cả những người chống đối mọi thay-đổi, cũng đều thế. Cả hai phía đều tin rằng: cung-cách thừa-tác mục-vụ, tự căn-bản, không thể thay-đổi nếu ta không đổi-thay về học-thuyết, lẫn tín-điều.

Thế nhưng, Đức Giáo Hoàng Phanxicô muốn cho điều ngài nói mang ý-nghĩa rất nhiều. Ý-nghĩa, có thể là ngài vẫn từng coi Thượng Hội Đồng kỳ này là một chiến-thắng đối với tầm-nhìn của ngài về sự quản-cai Giáo-hội, tức: cho phép người tham-gia cầm quyền được dự phần vào cuộc bàn cãi có mở rộng, mà trong đó không có rào cản nào, ở xung quanh.

Tính cởi mở trong trao-đổi được nhấn mạnh bằng thái-độ thẳng-thắn, bộc trực và sự khác-biệt trong say mê phát-biểu giữa các giám-mục khác nhau về trường-phái hoặc ngoài Thượng Hội Đồng. Tính trong-sáng cũng được tỏ-lộ qua thương-lượng để phác-thảo một văn-kiện “nháp” hầu đề-bạt và lấy phiếu bầu cho văn-kiện chung-cuộc.

Có thể nói, thách-thức lớn mà Thượng Hội Đồng đặt ra cho các Giám-mục tham-dự họp khi các ngài quay trở về địa-phận mình, là: làm sao tháp-nhập được tính cởi mở, trong-sáng trong quản-trị, lại là những điều lộ rõ nơi động-thái của quan-chức có mặt ở Thượng Hội Đồng. Đức Phanxicô đã chứng-tỏ rằng: cung-cách quản-cai giáo-hội xưa nay được xây dựng trên việc kềm-chế/kiểm-soát và bảo mật, có lẽ cũng nên thay thế cách nào đó cho tốt đẹp hơn; thay thế, nhưng trong đó vẫn có sự tham-gia của người dân bên dưới bằng các khuyến-khích đối-thoại cùng cởi mở và bằng sự trong-sáng/minh-bạch. Có giám mục coi đó là chuyện nên cổ võ; có vị, lại cứ coi như mình đang bị áp-lực từ gương lành của Đức Giáo hoàng hầu khai-phá thêm khả-năng khác có lợi cho giáo-hội địa phương mình…” (xem Lm Andrew Hamilton, Synod Affirms Francis’ vision of Church Governance, www.eurekastreet.net 21/10/14)

Với người ngoài, như nghệ-sĩ ở trên vẫn hát có câu ca khá lạc-điệu như:

“Nhiều đêm thấy ta là thác đổ,
Tỉnh ra có khi còn nghe.
Nhiều khi thấy trăm nghìn nấm mộ,
Tôi nghĩ quanh đây hồ như.
Đời ta hết mang điều mới lạ,
Tôi đã sống rất ơ hờ.
Lòng tôi có đôi lần khép cửa,
Rồi bên vết thương tôi quì.
Vì em đã mang lời khấn nhỏ,
Bỏ tôi đứng bên đời kia”.

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Với đấng bậc nhân-hiền lành thánh, lại có ý/lời vẫn từng dẫn dụ như sau:

“Điều khiến chúng tôi tự hào là

lương tâm chúng tôi làm chứng rằng:

chúng tôi lấy sự thánh thiện

và chân thành Thiên Chúa ban

mà cư xử với người ta ở đời,

đặc biệt là với anh em.

Chúng tôi không cư xử theo lẽ khôn ngoan người đời,

nhưng theo ân sủng của Thiên Chúa.

(2Cor 1: 12)

Không cư xử theo lẽ khôn-ngoan người đời”, là lối cư-xử theo tính tập-thể rất hiệp-nhất, đúng như nhận-định của đấng bậc thày dạy từng đứng bục ở trường lớp rất Công-giáo, như sau:

“Nơi Giáo hội, ta nói nhiều về Tập-đoàn Giám mục, Hồng Y và đôi khi cả đến đoàn-ngũ linh-mục nữa, theo cung-cách mà các ngài vẫn thực-thi công-việc theo đội-ngũ. “Tôi rất lấy làm cảm-kích khi thấy ngài thực-thi hoạt-động theo tập-thể-tính biết dường nào” (Hồng Y Sean O’Malley nói về Giáo hoàng Phanxicô).

Loại hình tập-thể-tính như thế, vẫn còn thấy bên ngoài Giáo-hội đôi lúc nhiều hơn ở bên trong, hoặc giữa các đấng với nhau.

Lý do để ta có thể gọi được như thế, là vì: Giáo hội mình đích-thực là sự hiệp-thông hoặc như ai đó vẫn cứ gọi là: Tính tập-thể. Tính tập-thể vừa là ‘tiến-trình’ vốn dĩ cho phép Giáo-hội trổi bật lên trên và còn là sự diễn-tả về những gì khiến Giáo-hội phải trở-thành. Đáng tiếc thay, điều này thường không mấy hiện rõ, cho đủ. Giáo-hội mà lại không ‘hiệp-thông’ thì không phải là Giáo-hội. Và Hiệp-thông không thể xảy đến nếu không có tập-thể-tính.

Nay, ta sẽ cùng với Đức Giáo Hoàng Phanxicô đi vào hiểu-biết ngọn-ngành về Giáo-hội như một hiệp-thông (mà tiếng Hy-Lạp gọi đó là: koinonia). Với Giáo-hội hôm nay, thì vấn-đề “tập-thể-tính” đơn-giản lại chỉ được coi như một từ-vựng khác nữa về ‘hiệp-thông’ mà thôi, chứ chưa mang đúng ý-nghĩa, của từ-vựng.

Tập-thể-tính, hoặc hiệp-thông hoặc tính-cách được thấy ở Thượng Hội Đồng, vv.. còn mang ý-nghĩa của cung-cách mới được nhấn mạnh lần nữa về đường-lối suy-tư và sống-thực của Giáo hội. Điều này, làm nổi bật sự việc ta đến với nhau đi vào động-thái kết-hợp thành-viên Giáo-hội qua tư-cách là nhóm/hội vốn dĩ tự mình và do mình chọn theo cách tự-nhiên và theo đúng luật-lệ vẫn tản mác, khác nhau. Tập-thể-tính hoặc gọi đó là tính gì đi nữa, vẫn yêu-cầu để cho quyền cá-nhân riêng-lẻ cứ thế ra đi. Yêu-cầu ấy, do bởi các cá-thể và bè/cánh trong nhóm/hội ra như thế để dễ được sự đồng-tâm nhất-trí trong nhóm/hội đoàn-thể đang trào dậy. Điều này không làm cho nhóm/hội này khác trở thành bất-lực. Thật ra, thì sự đồng-tâm nhất-trí vượt khỏi lựa-chọn thông-phần sẻ-san để rồi sẽ không sử-dụng bất cứ quyền-bính nào mà cá-nhân hoặc phân-bộ nào đó có thể có, hầu để cho nhóm/hội được tốt-lành. Có thể nói, đây là khí-cụ tạo lợi-ích chung.

Ngoài ra, nói về tính tập-thể tức: không có ý nói phải làm sao tạo được đa số phiếu tuyệt-đối với thành-viên tham-dự; hoặc ít ra cũng phải 2/3 phiếu hoặc đa số tuyệt đối các phiếu bầu. Đây là vấn-đề thuộc về não-trạng. Nhưng, không là não-trạng của việc thắng/thua.

Điều này, không có nghĩa là mình cảm thấy vui lòng/thoải mái trước khi, trong lúc hoặc sau khi xảy đến sự việc. Điều này, cũng không là câu trả lời cho vấn-nạn nào ta không đồng-thuận với nó.

Tính tập-thể không là đòi hỏi phải hoàn-toàn đồng-thuận, nhưng đòi tất cả mọi người ở đó, phải tôn-trọng lẫn nhau. Và điều đó, còn quan-trọng hơn cả trách-nhiệm trở thành dân-con vào mọi lúc. Điều đó, đòi hỏi phải hủy bỏ/tách rời bất cứ và toàn-bộ quan-điểm nào mang tính cứng-ngắc hoặc cố-định.

Tính tập-thể, không có nghĩa là: lắng tai nghe những vị cứ cho rằng điều mình kể là những điều mà Đức Giáo Hoàng vẫn thích nghe.

Hiệp-thông lại cũng không mang ý-nghĩa của sự việc hoàn-toàn thống-nhất ý-kiến. Mà là cung-cách để ta khai-thác sự khác-biệt trong khi ta sống với những thứ ấy. Đó còn là cung-cách cứ để họ sống với ta. Đó là bối-cảnh để làm sáng tỏ bất cứ bất-đồng nào có thể.

Đây cũng không là đấu-trường trong đó ta có thể chống-đối sự bất khoan-nhượng với bất nhượng-bộ. Đó cũng không là cung-cách để ta củng cố những gì được đưa ra như quan-điểm triệt-để, hoặc đường-lối để người người đào sâu rẽ chia.

Tập-thể-tính bao gồm việc xem người khác bất-đồng với mình về chuyện gì, là địch-thủ chứ không là địch-thù của mình. Tính-chất này đòi phải có sự đồng-hàng với mọi người, không vì điều họ nói hoặc do họ bỏ phiếu bầu thuận hoặc nghịch, mà vì họ đang có mặt ở đó.

Đang có mặt ở đó”, đấy mới là vấn-đề, chứ vấn-đề tuyệt-nhiên không do mức-độ thông-minh hoặc trọng-lực của luận-cứ khi tranh-cãi. Tiến bước thêm về phía trước, là cốt để dời chỗ đi từ sự bất-đồng chính-kiến về giải-pháp đưa ra cho đến bất-đồng về những điều được coi như vấn-nạn muôn thuở. Và cứ thế, ta tiến dần về với vấn-nạn nào thực-sự là vấn-đề hoặc cả việc tự xem mình có thế không hoặc có còn như thế không. Đó, mới thành chuyện!

Nói tóm lại, đây là cách-thức ta thể-hiện sự khác-biệt trong hiệp-nhất; và cứ tạo hiệp-nhất mới-mẻ hơn…” (Xem Lm Kevin O’Shea CSsR, Spelling Out The Issues of Collegiality, Strathfield ACU Workshop 23/8/2014, tr. 1 & 2 …)

Đi vào đời, đã thấy ngay đám trẻ bé đối-xử với nhau theo tính tập-thể, không uẩn-khúc. Nhưng, đã quan-niệm thoải mái qua các đoạn tả cảnh/tả tình về tình đời, như sau:

Để tả cảnh hoặc tả tình ông nội mình, có em nhỏ từng mô-tả như sau:

“Nhà em có nuôi một ông nội. Ông nội suốt ngày chẳng làm gì cả, chỉ trùm chăn ngủ. Đến bữa ăn, ông tỏ dấu vẫn cứ hỏi: Cơm chín chưa bay?

Để tả dụng cụ lao-động, em lại thích viết những điều như:

“Chiếc xẻng nhà em có rất nhiều công-dụng, và dùng nó để xúc phân của con chó nữa!”

Mô-tả về ông bố, có đoạn văn bất hủ của một học-trò khác như sau:

“Bố em có một hàm răng vàng, hàm răng vàng luôn chỉ bảo em những điều hay lẽ phải.”

Và, để miêu-tả mùa Xuân, có em lại viết rằng:

“Mùa xuân ở quê em mở rất nhiều hội. Vào những ngày ấy, trên đường có rất nhiều các ông các bà tay cầm ô đen ô đỏ, có vị còn mặc áo dài áo ngắn đứng ngồi lố nhố. Các cụ nói chuyện râm ran, như bầy chim líu lo gọi mẹ, mà em chẳng hiểu gì hết…”

Tả cây chuối, có em nọ lại viết những câu như:

“Nhà em có cây chuối rất to, chiều nào em cũng leo lên cây chuối, để thấy rõ hết mọi người ở bên dưới. Ngồi trên cành chuối rung rinh, em rất thích.”

Trả lời câu “Hãy tả con vật mà em yêu thích nhất”, có em nọ lại đã viết:

“Nhà em có nuôi một con gà trống rất đẹp. Em rất yêu nó. Vì hằng ngày nó tỏ ra hiên-ngang với các con gà mái yếu ớt. Hàng ngày, em cho nó ăn nên chiều chiều nó gáy những tiếng như con gà trống lớn coi thường mọi gà con dưới nó.”

Tả cái cặp đi học, có em khác lại cũng viết:

“Bố em mua cho em cái cặp rất to và đẹp, hàng ngày em đeo nó đến trường, cái cặp đựng được nhiều sách vở, nó to như cái bình thuốc sâu của mẹ.”

Tả cô giáo mà em yêu quí, em kia tả rất lẹ:

“Cô giáo em rất đẹp. Cô có vầng trán cao thể-hiện sự thông minh. Mái tóc cô dài thướt tha như giòng nước. Nhưng cái mà em thích nhất, vẫn là cái răng nanh của cô. Nó làm cho nụ cười của cô thêm phần quyến rũ. Cô hay đọc tập làm văn cho tụi em chép, nên em viết văn cũng giống cô…”

Tả người thày em yêu quí nhất, có em tả thế này:

“Thấm thoát đã 3 mùa hoa ban nở, thầy giáo phải tạm biệt chúng em để về xuôi. Cả làng cả bản đứng tiễn thầy vô cùng ngậm ngùi. Riêng em đứng nhìn theo thầy đến khi thầy xa dần, xa dần, đến khi nhỏ bằng con chó em mới quay lại bản.”

Tả anh lính chiến, có em tả như sau:

“Lính chiến làng em cao một thước hai, cây súng anh mang dài thước rưỡi. Thế mới oai…”

(Trích: “Các bài văn bất hủ của học trò” ở lên mạng, đọc cho biết).

Ở quê nhà, các em cũng đã học cách viết văn để miêu-tả những điều mình nhận-xét, như mọi người. Nhưng, người nhà Đạo lại suy-nghĩ hoặc viết-lách vẫn “cao siêu” hơn thế, rất nhiều. Cao và siêu, đến độ nhiều vị có chức-tước hoặc ngạch-trật cứ cãi nhau suốt, tưởng chừng không bao giờ chấm dứt.

Chấm và dứt sao được, khi người trong cuộc lại cứ nói và cứ cãi, những điều mình chẳng khi nào trải-nghiệm. Chấm và dứt làm sao, khi nhiều người những muốn nói điều mình trải-nghiệm, nhưng vì không ở cùng mạch chính, nên không có quyền quyết-định bằng lá phiếu.

Tóm lại, vấn-đề gì cũng thế, dù diễn ra ở trong hay ngoài cuộc, càng thấy khó bàn-cãi, nói chi đến “cuộc chơi”, ở đời. Thế đó, một vài ý mọn ở đâu đó, có bạn đạo nọ gom góp, nhặt nhạnh để lưu-giữ hầu biến nó thành kinh-nghiệm đời, cho mai sau. Kinh và nghiệm, là những gì bạn và tôi, ta cần cảm và nghiệm nhưng lại không hề “kinh nhi viễn chi”.

Trần Ngọc Mười Hai

Tuy chưa có kinh nghiệm

Quản cai ai cả

Nhưng vẫn muốn nghiệm và kinh

Hết mọi người mọi vị

ở trong đời.

Anh với tôi mộng canh trường

“Anh với tôi mộng canh trường,”

“Giăng kề song cửa, hoa kề gối

“Anh truyện sầu, tôi truyện mến thương”.

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Ga 2: 13-22

Mai Tá lược dịch

Truyện sầu hay truyện mến thương của tôi và anh, đâu chỉ là chuyện của thi ca, và âm nhạc. Truyện như thế, vẫn trải dài ở nhiều nơi, cả ở ngoài đời lẫn trong Đạo.

Rất nhiều người ở đời thường, vẫn hay tỏ bày nỗi ngạc nhiên rất mực, khi khám phá ra rằng: ngay như nhà Đạo, vẫn có chuyện phân biệt giữa đền thánh với nguyện đường, ở địa phương. Điều mà nhiều người thường nghĩ, đó là: đền thánh Phêrô không phải là Nhà Thờ Chánh Toà của Giáo phận La Mã. Thậm chí, có khách hành hương còn đến đây, để tìm cho ra ngai triều của Đức Giáo Hoàng, tức Đức Giám Mục thành Rôma, nhưng không thấy.

Có người lại cứ tưởng chiếc ghế chạm trổ công phu của thánh Phêrô đặt sau bàn thờ trên cao, là ngai-triều chính-hiệu của ngài, nhưng vẫn lầm. Có người lại cứ nghĩ: chiếc ghế di-động mà Đức Giáo Hoàng thường ngồi, là ngai triều của ngài, cũng  không đúng.

Thánh đường Latêranô đích-thực là Vương Cung Thánh Đường, của La Mã. Ở nơi đó, có ngai-triều của Đức Giám Mục thành Rôma, rất đúng thực. Từ thế kỷ IV, Giáo hội dùng nơi này để cung-hiến thành chốn thánh dâng lên Chúa.

Nơi đây, mỗi năm Đức Giáo Hoàng vẫn thân-hành đến chủ-trì các nghi lễ phụng-tự, rất long trọng. Và chính tại thánh-đường này, ngài uy-nghi ngồi trên ngai-toà mình ngõ hầu ban huấn-từ, giãi-bày nhiều điều cho dân Chúa biết.

Trong cuộc sống Giáo hội, nhiều giáo hội địa phương cũng dùng việc kỷ-niệm cung-hiến thánh đường trong giáo-phận mình, coi như lễ trọng. Cung-hiến thánh-đường Latêranô, là lễ-hội toàn-cầu, nhằm nhắc ta nhớ mà hiệp-thông với Đức Giáo Hoàng, trên cương-vị ngài là Giám Mục thành La Mã.

Bằng vào cử-chỉ này, ta chứng-tỏ rằng: Giáo-hội mình là Giáo-hội của chung, rất Công giáo. Nhưng, điều đáng buồn, là: đôi khi ta cũng thấy nhiều người nghĩ rằng họ được phép chọn-lựa giữa Giám-mục địa-phận mình với cả Giám-mục thành La Mã nữa. Điều này, thật cũng có ý nghĩa, nhưng đó không phải là tính-cách chung, của Công giáo.

Nói cho cùng, dù ta có lòng mến mộ Đức Giáo Hoàng đặc-biệt thế nào đi nữa, thì tình-cảm riêng-tư của ta vẫn không dẫn đến kết-quả như một hiệp-thông với ngài. Bởi, ta chỉ có thể hiệp-thông với Đức Giáo Hoàng khi có được sự thông-hiệp ngang qua Giám-mục sở tại của mình, mà thôi.

Và, Đức Giám mục địa phận sở tại của ta cũng chủ sự cùng một Tiệc Thánh Thể như và với Đức Giám Mục thành La Mã là Đức Giáo Hoàng.

Trong cuộc sống thường-nhật, nhiều nguời cũng mắc phải sai lầm tựa như thế, cũng là điều dễ hiểu thôi. Nhiều năm qua, Hội-thánh ta vẫn tập-trung vào vai-trò của Đức Giáo Hoàng mạnh đến độ ta sẽ được tha thứ nếu nghĩ rằng Đức Giáo Hoàng chỉ là Cán bộ Cấp Cao của Giáo triều Vaticăng.

Và Đức Giám Mục sở tại lại là Giám-đốc hay Thủ-trưởng, một chi-nhánh của giới cầm-quyền.

Nên, khi Đức Giáo Hoàng ra lệnh “hãy nhảy lên”, thì ta hỏi: “Dạ thưa, cao đến cỡ nào ạ?” Thành thử, vấn-đề này xem ra hơi giống thái-độ của những người “bảo hoàng hơn vua”, luôn có nguồn sử của Hội thánh, cũng tương tự như thế.

Chính vì thế, nên Công Đồng Vatican II đã làm sáng-tỏ vai-trò của Đức Giáo Hoàng trong việc quản cai, giáo-huấn và thực-thi hiến-pháp, trong Giáo hội. Công Đồng Vatican minh định rất thận trọng, là nhằm hồi-phục chức-năng đúng-đắn khi xưa, về cương-vị lãnh-đạo của Đức Giáo Hoàng.

Công Đồng đây cho thấy, việc cai quản, giáo huấn và thi hành giáo-luật luôn chứa-đựng một bối-cảnh, vẫn có từ khi trước. Công Đông vẫn dạy rằng: Đức Giáo Hoàng thực thi cương-vị lãnh-đạo như vị thủ-lĩnh tối cao trong số các Giám mục. Ngài là mục-tử mang tính toàn-cầu. Là, dấu chỉ của sự hiệp-nhất trong Hội thánh.

Và, là người có trọng-trách giáo-huấn, duy-trì và bảo-vệ niềm tin của toàn-thể Hội thánh, ngang qua phương cách mà ngài xác nhận với những người anh em Giám mục có cùng một trọng trách trong giáo hội địa phương của các ngài.

Chính từ đó, nguồn cội của cụm từ “vâng phục” lại có ý nghĩa của sự việc “lắng nghe một cách cẩn trọng”.

Vì thế nên, Tiệc thánh hôm nay là để ta cử-hành sự hiệp-nhất trong đa-dạng, khi ta tập-trung nhấn mạnh đến Mẹ thánh Giáo-hội đối với các giáo-hội Công giáo La Mã, ở địa phương.

Cầu mong sao, từ đó ta lĩnh-hội được điều tốt đẹp để có quyết-tâm với Đức Giám Mục sở tại nơi ta sống. Bởi, ngài cũng là đấng kế-vị của các thánh tông đồ. Và, ngài cũng đáp-ứng với lời kêu gọi của Đức đương kim Giáo Hoàng giúp ngài nghĩ ra các phương-cách khả dĩ thực-hiện công việc phục-vụ Hội thánh. Đó, là “dấu chỉ” lớn lao hơn cho sự hiệp-nhất Đạo của Chúa với thế-giới nhân-trần, trong lai thời.

Cũng cầu mong sao, để mỗi người chúng ta nhớ được rằng: tinh-thần mà Tin Mừng hôm nay muốn tỏ-bày, chính là sự việc Giáo-hội cũng được dựng-xây bằng gạch hồ thật đấy. Thế nhưng, Thân Mình Rất Hiển Vinh của Đức Kitô lại vẫn được đúc-kết bằng những người con biết sống-thực tình yêu thương cứu-độ Ngài ban cho thế-giới, rất hôm nay.

Trong tinh-thần cảm-nghiệm những điều như thế, ta lại sẽ ngâm nga câu hát của nhà thơ ở trên, vẫn hát rằng:

“Anh với tôi mộng canh trường,

Giăng kề song cửa, hoa kề gối

Anh truyện sầu, tôi truyện mến thương.

Anh buồn từ thuở giăng lên núi

Ấy độ tôi về ước lại mong.”

(Đinh Hùng – Cặp Mắt Ngày Xưa)

Nỗi buồn, thuở nào cũng vẫn là buồn một nỗi thời muôn thuở. Miễn anh và tôi, ta cũng chớ buồn vì sự chênh-lệch quyền-bính ở nhà thờ và nhà Đạo, rất hôm nay. Bởi lẽ, quyền-bính với quyền-hành ngày hôm nay, dù ở nơi nào đi nữa, vẫn là vấn-đề muôn thuở của tôi và của anh, rất sáng ngời, đầy bực bõ.

Thế nên, giải quyết được tranh-chấp quyền-hành ở mọi chốn, cũng là giải quyết tận gốc mọi nỗi buồn của người con trong nhà Đạo, suốt mọi thời.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch