Trẻ em vào đời và cạm bẫy xã hội

Trẻ em vào đời và cạm bẫy xã hội

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2014-10-07

RFA

tre-em-622.jpg

Hai đứa trẻ đi bán vé số ở khu công nghiệp Sóng Thần II – Bình Dương.

RFA PHOTO

Trẻ em sớm vào đời, học hành dang dở và luôn phải đối mặt với nhiều cạm bẫy xã hội luôn là vấn đề nan giải hiện nay tại Việt Nam. Một phần do nghèo đói, phần khác do cha mẹ không ý thức được trách nhiệm làm cha làm mẹ cũng như không thấy được giá trị của việc học tập bởi bản thân họ cũng chưa bao giờ được học tập cho đàng hoàng. Có hàng trăm nguyên nhân dẫn đến trẻ em sớm bỏ học vào đời. Nhưng có hai nguyên nhân chi phối nhiều nhất, đó là sự nghèo khổ, bất công xã hội cũng như sự tăm tối của một bộ phận dân cư bị đẩy xuống tầng đáy xã hội.

Các thành phần trẻ em vào đời

Một nhà giáo gốc Quảng Nam, tên Trung, hiện đang dạy môn toán ở quận Tân Bình, Sài Gòn, chia sẻ:

” Rõ ràng bỏ học sớm và vào đời sớm là hoàn toàn không tốt rồi. Vấn đề đó mang tính xã hội nhiều, vấn đề học ở trong nhà trường và giáo dục không tạo được cơ hội cho các em học.
-Một nhà giáo”

“Bây giờ, rõ ràng bỏ học sớm và vào đời sớm là hoàn toàn không tốt rồi. Vấn đề đó mang tính xã hội nhiều, vấn đề học ở trong nhà trường và giáo dục không tạo được cơ hội cho các em học. Vì việc đẩy thành tích như hiện nay, như các em học bình thường mà được lên hai lớp, rồi càng lên thì các em càng không thể học, rồi chán học, đâm ra mất hứng thú, bỏ học. Thứ hai là tác động ngoài xã hội, các em chưa đủ khôn ngoan nên dẫn đến ham chơi, bỏ học.”

Theo thầy giáo Trung, nói về vấn đề bỏ học và sớm vào đời của trẻ em, cần phải chia thành hai nhóm, nhóm con nhà giàu, nhà quan chức và nhóm con nhà nghèo. Nếu như nhóm con nhà giàu, nhà quan chức bỏ học để chơi bời lêu lổng ở các quán, các tựu điểm và gây ra nhiều tai ương cho xã hội thì nhóm con nhà nghèo bỏ học sớm sẽ đi làm thuê rày đây mai đó, bữa được bữa mất, đi bán vé số, đi lượm ve chai, thậm chí đi xin.

Giữa hai nhóm bỏ học sớm gồm con nhà nghèo và con nhà giàu có một điểm chung là nguy cơ cướp giật, con đường đồi trụy và tương lai mịt mùng đang chờ đón chúng. Và nếu như nhóm con nhà giàu bỏ học sớm một thời gian quay về phá gia bằng cách trộm cắp tiền của cha mẹ thì nhóm con nhà nghèo sẽ mang tiền về phụ giúp cha mẹ bằng nhiều cách. Nhưng có một điểm chung là cả hai nhóm này có thể kết hợp trở thành nhóm trộm cướp, đầu lĩnh sẽ thuộc về nhóm con nhà giàu và tham mưu cho đầu lĩnh sẽ thuộc về nhóm con nhà nghèo.

tre-em-400.jpg

Trẻ em đi bán vé số ở Lái Thiêu. RFA PHOTO.

Và còn một vấn đề khác là có thể nói rằng tỉ lệ 100% các học sinh, trẻ em bỏ học sớm đều có gia đình không được ổn định, nếu không phải là thiếu ổn định về kinh tế thì tính ổn định về văn hóa của gia đình đó cũng có vấn đề trầm trọng. Ví dụ như con nhà nghèo quá, kinh tế có vấn đề trầm trọng, buộc lòng cha mẹ phải cắn răng cho con nghỉ học để lao động phụ giúp họ. Ngược lại, những gia đình có kinh tế khá giả nhưng bản thân cha mẹ lại có vấn đề,  nếu không có người ngoại tình thì bản thân họ cũng là những hàng cha mẹ vô ý thức, không quan tâm đến tương lai con cái mà định giá cuộc đời này bằng tiền bạc, mãi mê lao đầu kiếm tiền, để con hư hỏng.

Nói đến đây, vị thầy giáo này lắc đầu chua chát, đưa ra kết luận là hầu như Việt Nam thuộc vào diện có trẻ em mù chữ đứng đầu khu vực, và không dừng ở đó, mọi cạm bẫy xã hội luôn nhắm vào trẻ em. Điều này cho thấy tương lai đất nước sẽ rất tăm tối khi mà hàng hàng lớp lớp thanh niên tử tế phải sống bên cạnh hàng hàng lớp lớp thanh niên kém ý thức, vô văn hóa và quen với cuộc sống đầu đường xó chợ, lấy đường phố làm nhà, lấy trộm cắp, cướp bóc và buôn bán ma túy làm kế sinh nhai.

Những cạm bẫy xã hội

Một người mẹ có con bỏ học sớm, lêu lổng và theo băng nhóm, yêu cầu giấu tên, buồn rầu chia sẻ:

“Kinh tế đóng vai trò quyết định, do kinh tế gia đình nên nó không coi trọng việc học, do bản thân nó không thấy hứng khởi khi học, xã hội, bạn bè đưa đẩy, đàn đùm, bản thân nó không quý sự học mà muốn có tiền.”

” Kinh tế đóng vai trò quyết định, do kinh tế gia đình nên nó không coi trọng việc học, do bản thân nó không thấy hứng khởi khi học, xã hội, bạn bè đưa đẩy.
-Một người Mẹ”

Theo người mẹ này, cái sự nghèo đôi khi đưa đẩy con người vào chỗ không lối thoát, như con trai của bà chẳng hạn, từ lớp vỡ lòng cho đến lớp sáu, cháu là một học sinh ngoan, hiền và có thành tích học tập luôn giỏi. Thế nhưng khi bước vào lớp bảy, do yêu cầu phải đi học thêm nhiều môn nhưng gia đình bà không có đủ tiền cho cháu đi học, đến lớp, cháu thường bị gọi lên dò bài đầu tiên và bị hỏi những câu rất lạ, rất khó, kết cục là học kỳ một của lớp bảy, cháu tuột hạng từ học sinh giỏi xuống còn học sinh trung bình khá. Và rồi mọi bất bình, hư hỏng manh nha.

Ban đầu cháu chỉ giấu bà chuyện tranh thủ đi bán vé số, về sau, cháu cúp tiết để đi bán vé số vì nghĩ rằng giờ học chính không quan trọng mà làm thế nào để có tiền học thêm. Khi người mẹ phát hiện con mình đi bán vé số cũng là lúc đã quá muộn màng, gần hai tuần bươn chải với gió sương cuộc đời, tâm tính và nhân cách của đứa bé đã hoàn toàn thay đổi.

Từ một đứa bé ngoan hiền, dễ thương, con của bà trở nên khó tính, hung hăng và cáu gắt. Tìm hiểu ra bà mới biết là trong quá trình đi lang thang bán vé số, đứa bé đã va chạm quá nhiều, hai lần bị du đãng hù dọa lấy mất vé số, một lần đánh nhau với một đứa bán vé số khác. Chính cuộc sống quay cuồng và khốc liệt nơi đầu đường xó chợ trong những ngày cúp học đã đẩy con bà đến chỗ hung hãn và phản kháng.

Khi bà biết chuyện thì mọi việc đã quá muộn màng. Đứa con ngoan và chăm học đã hoàn toàn thay đổi, chẳng còn ham học, không những chán học mà nó luôn coi trọng đồng tiền và nghĩ rằng chỉ có tiền mới giải quyết được mọi thứ trong cuộc sống. Bà rất buồn phiền vì chuyện này nhưng chưa biết tính làm sao với con mình. Chung qui, mọi chuyện cũng do cái nghèo và sự nhạy cảm của con bà mà ra. Chứ nếu con bà kém thông minh một chút, không sớm bị mặc cảm vì nghèo thì câu chuyện đã hoàn toàn khác. Bà buồn bã đưa ra kết luận.

Hiện nay, vấn đề trẻ em sớm bỏ học để bươn chải với cuộc sống và có nguy cơ sa vào những cạm bẫy cuộc sống đang là vấn đề có chiều hướng nảy nở tại Việt Nam, đặc biệt là tại một số khu vực dân nghèo, vùng sâu vùng xa Việt Nam.

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

TÁC HẠI CỦA THIỀN YOGA -phần một

TÁC HẠI CỦA THIỀN YOGA – phần một

Tác giả: Phan sinh Trần

Tuần trước ngày 17 tháng 9 năm 2014,  trong nhóm chia sẻ lởi Chúa, Houston Texas,  Chị Oanh có lên làm chứng và cho biết có một chị quen đến xin cầu nguyện vì khi di tập thiền được vài lần  thì bị một sự lạ, mối khi chị hát kinh Vinh Danh Chúa trong Thánh Lễ Misa  ở nhà thờ thì hai chân bủn rủn và muốn té khụy, không tài nào giữ thăng bằng, tâm hồn bất an và luôn lo âu sợ hãi. Chị  muốn tìm Cha  để được cầu nguyện xin Chúa giải thoát .

Chị Oanh nói , vì chưa có thể gặp Cha ngay nên chị cần hết lòng tuyên danh Chúa và tôn thờ Ngài duy nhất , xin Chúa chữa lành là sẽ được bình an và nếu may mắn thì sẽ có thể hết.

Chị bị ám đã làm như lời Chị Oanh . Cám ơn Chúa, cho đến nay, người bị ám đã lành được hơn 90%.

Cũng may đây là con quỉ xoàng không mạnh mẽ lắm  và Chị này vốn rất sốt sắng đạo đức nên lực lượng tối tăm chưa thể chiếm hữu Chị hoàn toàn.

Thiền Yoga là phương cách làm cho tâm trí trống rỗng và chú tâm vào giây phút mình đang hiện hữu bỏ qua tất cả các ý thức khác (Thiền Minh Sát, Vipassana), bỏ qua mọi hiện hữu chung quanh ta. Trong khi thiền , đọc câu niệm bằng tiếng Phạn hoăc Hindu để tập trung, ý nghĩa của câu niệm có thể là: hư vô, Phật, Thượng Đế, Thần Govinda,Yêu thương,  …

Khi Thiền đã trở thành chủ quan, nghĩa là khi tâm trí của người Thiền mở rộng vô hạn đến nỗi không ý thức cá nhân nào còn tồn tại, đó là lúc đã đạt được Đồng Nhất Vũ Trụ, đồng hoá vào Ý Thức Duy Nhất mênh mang trong vũ trụ …

–  Giáo hội Công Giáo , Thanh Bộ Giáo Lý Đức Tin có giáo huần về thiền tháng 10, năm 1989, ký bỏi Đức Hồng Y Ratzinger , sau này là Đức Thánh Cha Benedict XVI:

Tôi đã tìm thấy rằng  kỹ thuật Yoga không hữu dụng và có tiềm năng làm tổn hại tinh thần lớn lao, đáng kể. Bất kỳ là ai , một khi đã dâng đời mình cho Chúa Giê Su Ki tô và có tương quan gần gũi với Chúa trong Chúa Thánh Thần thì không cần những kỹ thuật có nguồn gốc từ các tôn giáo không phải là Ki tô.

https://forums.catholic.com/attachment.php?attachmentid=15565&d=1354124166

– – Đức Thánh Cha John Paul II trong “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng” năm 1994, khi nhận định về thiền tập  tiếp tục nhấn mạnh vể sự dậy dỗ của Thánh bộ Giáo Lý Đức Tin đã nêu ở trên.

Các lời chứng khác của Ki tô hữu vốn là bệnh nhân Thiền , do Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt sưu tầm được  ở Pháp nơi mà Thiền rất phổ biến từ những năm 1970, đáng kể có lời chứng của Linh mục Robert Thorn :

http://niemhyvong.net/forum/archive/index.php?t-7486.html

– Tôi (Cha Robert Thorn) có một người bạn thân, một người luôn rất điềm đạm và an hoà và tôi hỏi anh làm thế nào mà được như thế. Anh ta đáp: ‘À, tôi tập Siêu Nghiệm Thiền.’ Tôi biết một chút ít nhờ anh chỉ dạy, và quyết định tập thử. Từ khi khởi sự, tôi cảm thấy một sự an bình tràn ngập thân tôi. Tôi thực sự cảm thấy một sự bình an lớn lao lạ thường…

Cuối cùng, tôi trở thành huấn luyện viên môn Siêu Nghiệm Thiền….
… Tôi vẫn còn tập thiền và cảm thấy bị phụ nữ cuốn hút không cưỡng. Lúc đó, tôi vẫn còn đang sống trong tội. Tôi trở lại Mễ du (trên đường đến chỗ hẹn hò với một phụ nữ Thổ Nhĩ Kỳ để làm một cuộc chạy trốn đầy lãng mạn ở Istanbul).
…Vào một tối nọ, tôi được một cảm nghiệm khi tham dự nghi thức chữa lành ở trong nhà thờ ngay sau thánh lễ. Tôi đang quỳ gối, tưởng tượng như Máu Đức Kitô đang đổ tràn trên tôi. Tôi nhắm mắt lại và bất thình lình tôi nhìn thấy một con vật đen thui xấu xí, một thứ gì đó giữa cua càng và ong, đi qua lại trước con mắt tâm trí tôi.
Tôi nói theo bản năng: ‘Đó là một thần khí xấu. Tôi cần thoát khỏi nó’.

… Khi một linh mục nghe tôi xưng tội về chuyện đó, ngài nói: ‘Á à, nghe hấp dẫn chứ nhỉ. Kể tôi nghe anh có ăn chay không?’ Tôi đáp: ‘Dạ, có’ và vị linh mục nói tiếp: ‘Tốt, vì quyền năng của Chúa Thánh Thần sẽ mạnh hơn khi anh có ăn chay.’

Vị linh mục đó trừ  quỷ cho tôi,  qua một đêm dài sốt sắng cầu nguyện, chúng tôi tuyên bố từ bỏ mọi gắn bó với những thần khí xấu ở bên trong tôi nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Tôi cảm thấy đau đớn lạ thường ở trong ruột (chú thích: như trường hợp của anh Chánh học Yoga và thiền theo phái “Con đường chân phúc (Ananda Marga)”. Nó bắt đầu thoát khỏi cổ họng tôi giống như bị ợ chua liên tục, có lúc tôi thực sự nhìn thấy một luồng khí thoát ra ngay khỏi miệng tôi ! Tôi bị lê trên sàn nhà trong khi vị linh mục rảy nước phép trên người tôi, ngài đặt tượng chịu nạn trên bụng tôi và tôi đau đớn kinh khủng…

Lời chứng của chị Sylvie:

…Một buổi tối, người bạn gái hỏi con có muốn dự buổi thực tập ngồi thiền không. Cô bạn giải thích: “Đây là lối suy niệm siêu hình, hay đúng hơn, là kiểu ngồi thiền tìm kiếm hư vô”. Con tự nhủ: “Mình cứ thử xem sao. Biết đâu sẽ gặp được Thiên Chúa, thay vì đi đến nhà thờ!” Nghĩ thế nên con theo bạn dự buổi ngồi thiền. Người hướng dẫn buổi ngồi thiền là một phụ nữ. Bà nói với chúng con: “Suy niệm kiểu này sẽ mang đến cho con người sự điềm-tĩnh, sự tự-chủ, niềm bình-an, trở về với nguồn cội của tư tưởng và đạt được những sức mạnh phi thường, kể cả các bí thuật thần thiêng!” Lời giải thích nghe thật êm tai, đưa hồn giới trẻ chúng con vào cõi mộng .. Nếu chỉ ngồi thiền trong một thời gian không lâu mà đạt được những điều vừa nói, thì quả thật là quá hay và quá dễ! Chúng con phải ngồi thiền mỗi ngày hai lần và mỗi lần 20 phút. Trong vòng 20 phút đồng hồ, con phải ngồi yên và chỉ lập đi lập lại hai tiếng duy nhất là “hư-vô”. Ban đầu, con cảm thấy mình hạnh phúc và hớn hở với ý nghĩ: “Chắc hẳn rồi đây mình sẽ khám phá nhiều điều lạ lùng. Và biết đâu, mình chẳng khám phá được Thiên Chúa?” Nhưng rồi, thời gian qua đi cùng với việc thực hiện phương pháp ngồi thiền, con không hề khám phá ra ánh sáng. Trái lại, con cứ càng ngày càng chìm sâu trong bóng tối đen dày đặc! Thật là hãi hùng kinh khiếp. Cứ mỗi lần con ngồi yên nhắm mắt là đầu óc con quay cuồng giữa hư-vô tư-tưởng, rồi, hư-vô tư-tưởng, rồi, hư-vô tư-tưởng! Sau 20 phút ngồi thiền, thể xác con có phần nghỉ ngơi chút ít, nhưng linh hồn con lại rơi vào lo âu sầu khổ và tràn đầy tuyệt vọng. Tâm trí con cứ bị ám ảnh bởi hai tiếng hư-vô .. hư-vô .. hư-vô! Và vì chỉ lập lại hai tiếng hư-vô nên con không còn cầu nguyện cùng Chúa GIÊSU và Đức Mẹ MARIA nữa. Trong khi đó hai tiếng hư-vô làm con khiếp sợ và chỉ muốn tìm cách trốn thoát.

Trong cơn khốn cùng, Mẹ MARIA đã giơ tay cứu vớt con. Trong phòng con có Bức Tượng Đức Mẹ nhỏ. Con thưa với Đức Mẹ: “Xin Mẹ đến giúp con!” Con chỉ nói với Đức Mẹ có thế thôi…

Rồi con gặp một vị Linh Mục. Ngài giúp con lãnh nhận bí tích Hòa Giải và trao ban ơn tha thứ của Thiên Chúa cho con. Thật là cuộc giải phóng tuyệt diệu! Con được tái sinh trong ơn thánh và tìm được hai vị Chủ Chăn dấu ái của cuộc đời con. Đó là Chúa GIÊSU KITÔ và Đức Mẹ MARIA. Con thay thế hai tiếng hư-vô bằng lời Kinh dấu ái: Kính Mừng MARIA Đầy Ơn Phước. Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ. Và GIÊSU Con lòng Bà gồm phúc lạ. Thánh MARIA Đức Mẹ Chúa Trời. Cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen.

http://www.binhcang.com/yoga.html

Chúng tôi xin phép tường trình và mong được các Anh Chị Em Công Giáo đang tìm kiếm và thực tập thiền định quan tâm đến sự nguy hiểm của Thiền.

Tuy nhiên, thiết nghĩ cũng cần phân biệt giữa Thiển Yoga có hại cho tâm hồn, hại cho tinh thần  vốn khác với  thể dục Yoga vốn là phương pháp tập thở, tập các cử động,  thì không có hại nhưng có lợi cho thân thể.

TÁC HẠI CỦA THIỀN YOGA – phần hai.

TÁC HẠI CỦA THIỀN YOGA – phần hai.

Tác giả: Phan Sinh Trần

“Thiền”vốn là từ gọi chung cho một phương pháp , cách thế trong đó con người định tâm dồn hết tâm trí hướng về một nguồn chân lý nào đó. Cũng giống như thể thao vốn bao gồm rất nhiều bộ môn, thiền cũng vậy, ngày nay ta có thiền của đạo Ấn độ giáo, Phật giáo, Lão giáo, Do Thái giáo, đạo Thời mới, Sikh, rồi đến thiền Yoga, thiền Đại thừa, thiền Nguyên Thủy , thiền Mật tông, …

Theo tự điển Bách Khoa Toàn Thư trên mạng Wikipedia, hầu như các tôn giáo  đều có pháp thiền.

Thiền của Phật Giáo bắt nguồn từ thế kỷ thứ nhất, thực hành tập trung tâm trí vào thời khắc hiện tại của thế giới bên trong (nội tại) từ bỏ hẳn thế giới bên ngoài và liên tiếp lập lại một lời niệm, từ đó làm chuyển đổi hạnh kiểm, thái độ sống của mình .

Thiền của Hồi Giáo, thực hành lần chuỗi và lập lại 99 tên của Chúa,  bắt đầu vào khoảng thế kỷ thứ tám hay thứ chín.

Thiền của Đạo Ba hải bao gồm cầu nguyện và kiểm điểm bản thân qua Lời của Thượng Đế, …

Thiền của Thiên Chúa Giáo, phương tây, tiến triển từ thế kỷ thứ sáu, bằng cách thực hành  Lectio Divina, bao gồm việc đọc và suy niệm Kinh Thánh, bởi các tu sĩ dòng Biển Đức ,

Điều quan trọng là tìm ra sự khác biệt của Thiền Ki tô giáo và các môn Thiền khác.

–          Thiền Ki tô giáo hướng về chủ thể của vũ trụ là Thiên Chúa độc nhất và duy nhất.

–          Thiền Ki tô giáo không bao giờ cho phép linh hồn mình loại bỏ Thiên Chúa và trở nên trống rỗng vì khi không có Chúa ngự trị ở đó thì sẽ có các Tà Thần len lỏi vào. Kinh Thánh nói rất rõ về điều này:

Khi thần ô uế xuất khỏi một con người, thì rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi, mà không ra. Bấy giờ nó nói: “Ta sẽ về lại nhà ta, nơi ta đã bỏ đi”. Ðến nơi, nó thấy nhà đó để trống và đã quét tước, và trang trí hẳn hoi. Bấy giờ nó đi, và đem theo nó bảy thần khác dữ dằn hơn nó; chúng vào mà lập cư ở đó. Và tình cảnh cuối cùng người ấy lại tệ hơn trước. Cũng sẽ xảy ra như vậy cho thế hệ xấu xa này!” ( Mát Thêu 12:43-45)

Ni cô Thích nữ Diệu Tuyết, tu tại Chùa Phổ Hiền, kể rằng, trong một lần đi tụng kinh cho người chết cô đã bị quỉ nhập, tâm thần hoang dại, không còn tỉnh táo, nó làm cô không thiết ăn uống, tắm rửa trong một năm rưỡi trời, rồi cô được Chúa cứu qua sự giới thiệu và cầu nguyện của một Bà Dì theo đạo Chúa đến thăm cô tại nhà. Sau đó, khỏi bênh rồi thì đức tin lung lay, cô lại về Chùa, lại tiếp tục tụng niệm và lần này, tâm hồn trống rỗng cô bị mấy con Quỉ dữ dằn, hung ác hơn rất nhiều nhập vào nhà linh hồn của Cô, chúng miệt thị và nguyền rủa ngày đêm “ Mày chết đi “ làm cô hoàn toàn mất tự chủ và tự tử đến 4 lần trong vòng một tuần lễ. Sau những ngày đó, vào lần cuối cùng, cô mua bốn lưỡi lam, nghiền nhỏ và nuốt vào bụng, Bác sĩ không biết giải phẫu cách nào để cứu vì từ ruột bao tử , ở đâu cũng có mảnh lưỡi lam, chỉ cần cử động hay nuốt nước bọt thì cũng làm cô đau đớn lắm. Lần này thì cô chỉ biết hoàn toàn nhờ cậy duy nhất một mình Chúa Giê su, đấng duy nhất có quyền năng trên Ma Quỉ, đấng duy nhất có thể chữa lành và cô hy vọng Chúa sẽ đến cứu mình. Kết quả là Chúa lại ra tay thêm một lần nữa  làm phép lạ cho cô khỏi cả bịnh thể xác lẫn bệnh tâm linh. Cô bắt đầu một đời sống mới, dâng hiến cho Chúa, cầu nguyện, đọc Kinh Thánh và kết hiệp nên một với Chúa kính yêu của cô và hòa đồng vói các bệnh nhân phong cùi bị người đời từ bỏ. Như vậy, ta có thể thấy rằng, “Cầu nguyện, suy niệm bằng Kinh Thánh”  chính là cách Thiền mới của cô.

–          Thiền Ki tô giáo nhấn mạnh và đòi hỏi sự thực hành Lời Chúa trong cuộc sống để việc Thiền định thực sự mang lại hoa trái tốt lành. Nếu chỉ có thiền mà ta không đi vào trần đời và thực hành Lời Chúa thì không có kết quả nào hết. Cái khác biệt về cơ cấu ở đây, là yếu tố Thiền nhập thế và Thiền hành sự của Ki tô giáo.

–          Tột đỉnh của Thiền Ki tô giáo là sự kết hiệp trở nên một với Chúa. Đó là tình trạng mà “ Linh hồn Con ở trong Chúa và Chúa Ba Ngôi ở trong con”, Đức Chúa Giê Su có lời hứa nguyện sau đây cho những ai hết lòng tìm kiếm và thực hành Lời Ngài:

Phần Con, Con đã ban cho chúng vinh quang Cha đã ban cho Con để chúng nên một như Chúng Ta là một:

Con trong chúng và Cha trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một,…(Gioan 17:22-23)

Xin đơn cử một thí dụ điển hình về Thiền dẫn đến kết hợp với Chúa qua trường hợp của Thánh nữ Faustina, được ghi lại trong nhật ký của Ngài,  bắt đầu bằng giai đoạn thiền ” đi tìm Chúa ” của mình :

–          Sự thinh lặng sâu thẳm bao phủ linh hồn tôi. Không có một áng mây nào che khuất mặt trời khỏi tôi. Tôi tắm mình trong áng sáng mặt trời để tình yêu Thiên Chúa có thể thực hiện việc biến đổi tôi hoàn toàn. Tôi muốn ra khỏi tuần tĩnh tâm này như một vị thánh, bất chấp tất cả; nghĩa là bất chấp tình trạng xấu xa của bản thân, tôi vẫn mong muốn trở thành một vị thánh, và tin vào Lòng Thương Xót Chúa có thể tác thành từ một kẻ khốn cùng như tôi, …

–          Con muốn sống và chết như một linh hồn thánh thiện, với ánh mắt luôn cắm chặt vào Chúa, lạy Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá, mẫu gương các hành động của con. Con thường nhìn quanh để kiếm tìm các tấm gương, nhưng không tìm được gì thỏa đáng, và con nhận ra sự thánh thiện của con dường như chao đảo. Nhưng từ nay về sau, mắt con sẽ cắm chặt vào Chúa, lạy Chúa Kitô, Đấng hướng đạo toàn thiện của con. Con tin tưởng Chúa sẽ chúc lành cho các nỗ lực của con (NK 1333).

Rồi khi đã gặp được Chúa , ta hãy lắng nghe xem Chúa nói gì với Thánh nữ qua thiền chiêm niệm Lòng thương xót Chúa :

Hỡi con nhỏ của Cha, con đừng nản chí. Cha biết niềm tín thác vô hạn con trao đặt nơi cha; Cha biết con ý thức về lòng nhân lành và tình thương xót của Cha. Vậy Cha con mình hãy hàn huyên cho hết những gì đang đè nặng trái tim con.

Linh Hồn: Có đủ thứ đủ chuyện nên con không biết phải nói điều nào và phải trình bày như thế nào.

Chúa Giêsu: Con hãy nói cho thật đơn giản như chỗ bạn bè với nhau. Hỡi con, bây giờ con hãy kể cho Cha biết điều gì cản trở con tiến bước trên đường trọn lành?

Linh Hồn: Sức khỏe yếu nhược đã kiềm hãm con trên đường trọn lành. Con không thể chu toàn các phận sự. Con vô dụng như một bánh xe thừa thãi trên một cỗ xe. Con không ham mình và giữ chay được đến mức các thánh đã làm. Lại nữa, không ai tin là con bệnh tật, thành ra nỗi đau tinh thần làm trầm thống thêm nỗi đau thể xác, và con thường xuyên phải chịu nhục nhã. Lạy Chúa Giêsu, làm sao ai lại có thể nên thánh trong những hoàn cảnh như thế?

Chúa Giêsu: Con nhỏ của Cha ơi, đúng thế, tất cả điều ấy đều là đau khổ. Nhưng đâu còn con đường nào khác dẫn lên trời ngoài con đường thánh giá. Cha là người thứ nhất đã đi con đường ấy. Con phải biết đó là con dường ngắn nhất và bảo đảm nhất…

…Ái nữ của Cha ơi, nếu Cha muốn qua con mà đòi mọi người tôn sùng Lòng Thương Xót của Cha, thì con phải là người trước tiên trổi vượt trong niềm tin tưởng vào lòng thương xót ấy. Cha đòi hỏi con những hành vi nhân ái được thực hiện và yêu mến Cha. Ở mọi nơi trong mọi lúc, con hãy tỏ lòng nhân ái với người lân cận. Con không được thoái thác, kiếm cớ chữa mình hay tự miễn cho mình điều ấy.

Cha ban cho con ba phương thế để sống nhân ái với người chung quanh: thứ nhất – bằng hành vi, thứ hai – bằng ngôn từ, thứ ba – bằng cầu nguyện. trong ba cấp độ này hàm chứa lòng nhân ái sung mãn và bằng chứng không thể nghi ngờ về tình yêu dành cho Cha. Bằng cách này, một linh hồn sẽ tôn vinh và sùng kính Lòng Thương Xot Cha (NK 742).

“Hỡi ái nữ của Cha, con hãy cho cha các linh hồn. Con hãy biết sứ mạng của con là cho Cha các linh hồn bằng lời cầu nguyện và hy sinh. Khuyến giục họ tín thác vào Lòng Thương Xót của Cha (NK 1690).

Chúng ta có một vị thần quyền năng trên hết các Thần, vị Thần đó hoàn toàn có thể thông cảm và có thể gặp gỡ khi ta biết tìm đọc và  suy tư Lời Chúa đến mức Lời trở thành hơi thở của đời sống ta, đến mức Lời trở thành hành động cụ thể ta dâng hiến cho Anh Em mình. Khi đó ta sẽ có kinh nghiệm rất sống động và xác thực về một vị Chúa lưu ngụ trong đời sống của ta. Trong cuộc đời , tôi đã gặp nhiều cao thủ Thiền Lòng thương xót Chúa với kết quả cụ thể không những cho đời sống đơn sơ, vui tươi, đầy ánh sáng của họ mà còn có hiệu lưc trên  nhiều người mà họ cầu nguyện cho.

Chúc bạn qua kinh nghiệm của việc Thiền “Lòng thương xót Chúa” , lúc ba giờ chiều mỗi ngày trong đời , rồi ra , bạn có cơ hội thốt lên từ những trải nghiệm rằng:

Chúa kính yêu ơi ,

Ngài ngọt ngào và tuyệt hảo dường bao !

HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA ĐỨC MARIA

HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA ĐỨC MARIA

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Khi nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta dễ có cảm tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời bình an thư thái.  Vì các nghệ nhân thường tạo ra những hình ảnh về Đức Mẹ đẹp đẽ, hiền từ, dường như siêu thoát mọi cảnh khổ đau ở trần gian.  Khi ngợi ca Đức Mẹ là tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô nhiễm nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ đã được tạo dựng đặc biệt, hoàn hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và mãi mãi là như thế, không tiến, không lùi, đẹp như một pho tượng đúc sẵn.

Nhưng nếu đọc Phúc Âm kỹ lưỡng, ta sẽ thấy hành trình đức tin của Mẹ không phải luôn luôn bằng phẳng, êm xuôi, dễ dàng.  Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ, uốn nắn Mẹ.  Và vì thế đã để Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn đau khi tin nhận và bước theo Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ nhất: Thiên Chúa mời gọi Mẹ bỏ chương trình riêng để sống theo chương trình của Thiên Chúa.  Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong một làng quê nhỏ bé.  Cô muốn cuộc đời mãi mãi bình thản êm xuôi như thế.  Nhưng Thiên Chúa đã đến khuấy động đời cô.  Khi đề nghị Maria làm mẹ, Thiên Chúa đã mở ra trước mặt cô một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng đầy gian khổ chông gai.  Maria đã ngoan ngoãn thưa “Xin vâng.”  Lời thưa “xin vâng” của Maria làm ta nhớ đến tổ phụ Abraham.  Như Abraham đã từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương lai bấp bênh theo tiếng Chúa mời gọi, Maria cũng đã từ bỏ chương trình riêng trong nếp sống bình dị, để đi vào chương trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất ổn, hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ hai: Thiên Chúa gửi đến cho Đức Mẹ nhiều đau khổ.  Vì nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria phải gánh chịu nhiều đau khổ.

Đau khổ thứ nhất là bị Giuse nghi ngờ.  Làm sao giải thích cho Giuse hiểu.  Làm sao tránh được búa rìu dư luận.  Không những bị nghi ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa.  Thời ấy, những cô gái chửa hoang sẽ bị ném đá cho đến chết.  Nhưng vững tin vào Thiên Chúa, Đức Maria đã để mặc Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi chuyện.  Ngài chỉ biết cúi đầu, thinh lặng vâng phục và phó thác.

Đau khổ thứ hai là Đức Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu trong cảnh cơ bần: không nhà cửa, không giường chiếu, không mùng mền.  Thiếu thốn mọi phương tiện.  Chung số phận với súc vật.

Đau khổ thứ ba là bị vua Hêrôđê tìm giết nên phải trốn sang Ai Cập.  Con trẻ sơ sinh yếu ớt.  Sản phụ chưa được nghỉ ngơi lại sức đã phải đi lên đường trốn chạy.  Tuy nhiên, nỗi cực nhọc phần xác không sánh được với nỗi đau đớn trong tâm hồn: Tại sao lại mang lấy thân phận tội đồ?  Tại sao lại bị người đời thù ghét, săn đuổi?

Đối diện với những đau đớn ấy, chắc chắn niềm tin của Đức Maria phải lung lay, nghi hoặc:  Con Thiên Chúa mà phải chịu nghèo khổ, khốn cùng đến thế sao?  Tuy có chao đảo, nhưng Đức Maria vẫn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ ba: Đức Maria bị dứt lìa khỏi Chúa Giêsu.  Niềm vui và hạnh phúc của người mẹ là đứa con, nhất là con một.  Con là tất cả của mẹ.  Con quý giá hơn chính mạng sống của mẹ.  Tách con ra khỏi mẹ khác nào lấy gươm đâm vào tim mẹ.  Thế mà Chúa Giêsu đã tách lìa Đức Maria rất sớm.  Phúc Âm ghi lại hai lần Chúa Giêsu từ chối Đức Mẹ.

Lần thứ nhất: Khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cả nhà đi lên Giêrusalem dự lễ.  Tan lễ, Chúa Giêsu đã tự tiện ở lại, để thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày.  Trong ba ngày đó, Đức Maria đã trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau đớn, cực nhọc.  Vậy mà khi gặp cha mẹ, Chúa Giêsu đã nói: “Cha mẹ tìm con làm gì.  Cha mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con ư?”  Lời này khiến cho Đức Maria buồn phiền không ít vì thấy đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.

Lần thứ hai: Khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Đức Maria và mấy người bà con đến tìm Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu không ra tiếp, lại còn nói những lời như chối từ liên hệ huyết thống:

“Kẻ nghe lời Cha ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ ta”.

Những lời nói và thái độ của Chúa Giêsu như thế chắc chắn khiến cho Đức Maria buồn phiền. Nhưng những lời nói và thái độ ấy cũng giúp thanh luyện Đức Maria khỏi những tình cảm riêng tư, những liên hệ sinh học tự nhiên để bước vào tình yêu rộng lớn của Thiên Chúa và tạo lập những dây liên hệ siêu nhiên với Ngài.

Cuộc thanh luyện cuối cùng: Đức Maria phải chứng kiến cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá.  Còn gì buồn hơn khi mẹ mất con.  Còn gì đau đớn hơn khi mẹ thấy con chết đau đớn, tủi nhục giữa tuổi thanh xuân.  Ở đây ta cũng nhớ lại tổ phụ Abraham.  Để thử thách ông, Thiên Chúa đã truyền cho ông sát tế Isaác, đứa con trai duy nhất.  Đức Maria cũng được mời gọi hy sinh người con duy nhất của mình.  Đau đớn hơn tổ phụ Abraham vì Đức Maria phải chứng kiến hy lễ đó hoàn tất.  Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ Chúa Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân cây thập giá đau nỗi đau của Chúa Giêsu, nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu.  Và khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức Maria như bị mất tất cả, bị tước đoạt tất cả những gì yêu quý nhất.  Đứng dưới chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người nghèo nhất.  Mẹ chẳng còn gì cho riêng mình.  Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu, Mẹ chỉ còn biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa.

Như vậy Thiên Chúa đã dẫn đưa Đức Maria từ bỏ chương trình riêng tư, từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì thân thiết nhất của mình, để đi vào chương trình của Thiên Chúa, để trọn vẹn phó thác cho Thiên Chúa.

Ngày nay khi lần chuỗi Mân Côi là ta ôn lại hành trình đức tin của Mẹ.  Hành trình đầy thử thách gian khổ nhưng cũng đầy chiến thắng vinh quang.

Xưa kia lễ Mân Côi được mừng để kỷ niệm cuộc thắng trận ở Lepante.  Ngày nay, khi mừng lễ Mân Côi ta mừng Đức Mẹ Maria đã chiến thắng chính bản thân, đã vượt qua hết những thử thách và đạt tới đích điểm của hành trình đức tin.

Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Mẹ, biết từ bỏ ý riêng mình để thực hiện ý Thiên Chúa. Xin giúp con can đảm vượt qua mọi thử thách và giữ vững niềm tin tưởng phó thác trong tay Chúa.

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Anh chi Thụ Mai gởi

THĐGM: “Chúng con sẽ làm gì khi đứa con đồng tính muốn đem bạn tình về nhà trong dịp lễ họp mặt gia đình?”

THĐGM: “Chúng con sẽ làm gì khi đứa con đồng tính muốn đem bạn tình về nhà trong dịp lễ họp mặt gia đình?”

Chuacuuthe.com

VRNs (07.10.2014) -Sài Gòn- Theo Vaticaninsider- Tại cuộc họp Thượng Hội Đồng hôm qua, một cặp vợ chồng người Australia là ông Ron và bà Marvis Pirola nói rằng “gia đình phải đối mặt với sự căng thẳng trong việc bảo tồn chân lý đức tin trong khi vẫn phải thể hiện lòng từ bi và thương xót”. Họ kể lại việc có một số bạn bè của họ phải làm như thế nào khi người con đồng tính của họ muốn đem bạn tình về nhà trong dịp lễ Giáng sinh: “Nó là con của con mà!”

Chiều qua, tiếng nói của một cặp vợ chồng người Australia, ông Ron và bà Marvis Pirola, đại diện cho gia đình Công giáo Úc tham dự THĐ, đã chia sẻ với các tham gia viên về vấn đề của gia đình. Lời chứng của họ cho thấy kinh nghiệm thực tế của giáo dân với các vấn đề và thách đố nơi gia đình phải đối mặt hôm nay.

Cặp vợ chồng giải thích rằng “Dần dần chúng con nghiệm thấy rằng có mối liên hệ đặc biệt giữa bí tích hôn nhân của chúng con là do Chúa Kitô thiết lập với mối liên hệ trong đời sống tính dục. Hôn nhân là một bí tích diễn tả trọn vẹn trong quan hệ tính dục.” “Chúng con tin rằng chỉ khi nào các cặp vợ chồng kính trọng việc hợp nhất trong tính dục như là một phần thiết yếu của đời sống tâm linh thì họ mới có thể hiểu rõ được giá trị cao đẹp của giáo lý hôn nhân như được trình bày trong Tông Huấn Humanae Vitae. Chúng con cần những phương pháp mới và ngôn ngữ dễ hiểu để chạm tới trái tim của mọi người. ”

Cặp vợ chồng đại diện cho các gia đình nói tiếp: “giáo hội tại gia” [tức là các gia đình] có thể giúp cho Giáo hội trong vai trò rao giảng Tin Mừng”. “Ví dụ, Giáo Hội liên tục phải đối mặt với sự căng thẳng để bảo tồn chân lý trong khi vẫn phải thể hiện lòng từ bi và thương xót. Các gia đình phải đối mặt với sự căng thẳng này trong mọi lúc.” Đôi vợ chồng làm sáng tỏ hơn bằng cách đưa ra một ví dụ liên quan đến đồng tính luyến ái. “Những người bạn của chúng con đã lên chương trình họp mặt gia đình vào lễ Giáng sinh, khi đó người con trai đồng tính của họ nói rằng anh ta cũng muốn mang bạn tình của mình về nhà họp mặt. Các bậc phụ huynh này hoàn toàn tin tưởng vào giáo lý của Giáo Hội và họ biết rằng con cháu của họ sẽ chứng kiến việc tiếp đón của người con trai này với bạn tình của anh ta trong đại gia đình. Phản ứng của họ có thể được tóm gọn trong câu này: “Nó là con của chúng con mà!”

Về điều này, ông Ron và bà Marvis giải thích thêm: “một mô hình truyền giáo cho các giáo xứ phải trả lời được với các tình huống tương tự như vậy!” “Nhiệm vụ và mục đích chính của Giáo huấn của Giáo Hội là cho thế giới biết về tình yêu của Thiên Chúa.”

Đôi vợ chồng người Australia đã kể lại một kinh nghiệm thực tế khác: “Một người bạn đã ly dị của chúng con nói rằng đôi khi cô ấy cảm thấy mình không hoàn toàn được đón nhận trong giáo xứ của mình. Tuy vậy cô vẫn tham dự thánh lễ thường xuyên và giáo dục con cái rất tốt. Đối lại giáo xứ không có thiện cảm với cô và việc cô ly dị là một chướng mắt cho họ. Từ những người như cô, chúng con ngộ ra rằng tất cả chúng con còn giữ những yếu tố khiếm khuyết trong cuộc sống. Nhận ra sự khiếm khuyết, chúng con sẽ bớt phán xét người khác, phán xét sẽ làm cản trở việc loan báo Tin Mừng.”

Hoàng Minh

Việt Cộng, ‘nòng nọc đã đứt đuôi!’

Việt Cộng, ‘nòng nọc đã đứt đuôi!’
September 28, 2014

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Nòng nọc là cóc mới nở từ trứng ra, sống thành đàn ở đám ruộng, ao, có đuôi ve vẩy, người ta tưởng rằng chúng là họ nhà trê. Nhưng đến thời kỳ nòng nọc đứt đuôi nhảy lên bờ sống trên cạn là giống cóc nhái.

Câu thành ngữ: “Nòng nọc đứt đuôi,” ý nói rõ ràng dứt khoát, việc nào ra việc ấy, không còn che giấu được!

Hình bìa tác phẩm Ðèn Cù của Trần Ðĩnh. (Hình: Người Việt)

Việt Cộng dù ngụy trang dưới chiêu bài, nhãn hiệu nào, khi đứt đuôi thì cũng nhảy lên bờ thành Việt Cộng.

Theo trang web Wikipedia, “Trong các chiến dịch tố Cộng của mình năm 1956, Tổng Thống VNCH Ngô Ðình Diệm đã phổ biến từ Việt Cộng để chỉ những người ‘Cộng Sản Việt Nam,’ viết ngắn gọn của từ Việt Nam Cộng Sản, (Vietnamese Communist). Sau khi Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam được thành lập năm 1960, dân chúng miền Nam Việt Nam cũng gọi những người Cộng Sản miền Nam bằng danh từ này. Khi quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam, họ cũng chịu ảnh hưởng của cách gọi này và gọi một cách ngắn gọn là VC (viết tắt từ “Việt Cộng” và đọc theo tiếng Anh là “vi-xi”), hoặc đọc thành Victor Charlie – do hai chữ cái V và C lần lượt được phát âm là Victor và Charlie theo bảng mẫu tự ngữ âm của NATO.”

Theo khuynh hướng Cộng Sản, Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Ðồng Chí Hội do Nguyễn Ái Quốc tổ chức năm 1925 ở Quảng Châu (Trung Quốc).

Năm 1929 đổi thành Ðông Dương Cộng Sản Ðảng.

Năm 1930, Ðông Dương Cộng Sản Ðảng cùng các tổ chức Cộng Sản khác ở Việt Nam thống nhất lại thành đảng Cộng Sản Việt Nam.

Ngày 19 Tháng Năm, 1941, Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, ra đời, mang danh là một liên minh chính trị, nhưng thực chất cũng chỉ là đảng Cộng Sản Việt Nam của Hồ Chí Minh, đã gây ra bao nhiêu cảnh nồi da xáo thịt, đổ máu, cắt cổ mổ bụng, thả xác trôi sông hãi hùng!

Cuối năm 1945, đảng giải tán trở thành Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác.

Ðến năm 1951, lại thành đảng Lao Ðộng, không còn chữ Cộng Sản hay Ðông Dương. Lúc đổi sang tên Ðảng Lao Ðộng, theo tác giả Trần Ðĩnh của tác phẩm Ðèn Cù, cái tên này nhiều người thắc mắc hơi yếu, thì Hồ Chí Minh bảo đã thỉnh ý Stalin và Stalin bảo lấy tên này, như Mông Cổ đã lấy tên đảng Nhân Dân Cách Mạng vậy! (Ðèn Cù, trang 544)

Năm 1976, sau khi chiếm miền Nam, đảng này trở lại là đảng Cộng Sản Việt Nam.

Cái gọi là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam được Bộ Chính Trị Ðảng Cộng Sản nặn lên trong thời gian chiến tranh chống Mỹ, cũng lập chính phủ, cũng đặt danh quân đội để tỏ ra cuộc chiến tranh này là giải phóng chứ không phải là chiến tranh xâm lược từ miền Bắc, nhưng thực chất, đây là bàn tay dài của Hà Nội thò vào miền Nam, nhân sự lãnh đạo, binh lính, vũ khí ồ ạt chở vào Nam.

Trước 1975, mặt trận này tuyên bố là tổ chức độc lập với miền Bắc, nhưng không độc lập với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa khi đó tuyên bố chủ quyền trên cả nước cho đến khi Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam tuyên bố chủ quyền ở miền Nam năm 1969 (!). Câu văn quả là mâu thuẫn, tối nghĩa khi nói rằng mặt trận này “độc lập với miền Bắc, nhưng không độc lập với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.”

Mặt trận này được thành lập ngày 20 Tháng Mười Hai, 1960, nhưng bị “giải thể” vào ngày 31 Tháng Giêng, 1977, sau khi chấm dứt vai trò cần trình diễn của mình, và sát nhập hoàn toàn với Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam. Khi ẩn, khi hiện, khi bí mật, khi công khai, khi Ðảng Lao Ðộng, khi Ðảng Cộng Sản, khi Ðảng Dân Tộc Việt Nam, khi Mặt Trận Việt Minh, Mặt Trận Tổ Quốc thì cũng là chiêu bài cho một giai đoạn nào đó phải thay họ, đổi tên, nòng nọc phải đến lúc “đứt đuôi” để trở thành cóc…Việt Cộng.

Chiêu bài giải phóng dân tộc là con nòng nọc, đứt đuôi rồi thì thành cóc, cóc Cộng Sản, áp đặt cái đảng đã tàn lụi, thối rữa ở Liên xô, ở Ðông Âu lên dân tộc Việt Nam.

Và dù dưới những danh xưng “Cộng Hòa Nhân Dân” hay “ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa,” kiểu “Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa” hay “Cộng Hòa Nhân Dân Triều Tiên” thì đích thực họ vẫn được cai trị bởi Ðảng Cộng Sản.

Danh từ Việt Cộng để chỉ một nước Việt Nam hiện nay đang bị cai trị bởi một đảng mang tên Cộng Sản, cũng như Trung Quốc hiện nay là Trung Cộng chính danh.

Hai tiếng Việt Cộng viết tắt là VC như ngày trước cả thế giới đều hiểu là “Vietnam Communist.” Vậy thì “Vietnam Communist Party” được hiểu là Ðảng Việt Cộng, “Vietnam Communist Party Congress” là Quốc Hội Việt Cộng, “Vietnam Communist Government” là chính phủ Việt Cộng.

Ðó là cách dùng chữ nghĩa đúng nhất, chính danh và chính từ, không mập mờ lộn xộn.

Thủ Tướng Việt Cộng Nguyễn Tấn Dũng tham dự hội nghị Siri Lanka hay Ðại Tướng Việt Cộng Lê Hồng Anh đi Bắc Kinh… thì danh cũng chính mà ngôn cũng thuận, làm chi phải lẩn quẩn loanh quanh “cho đời mỏi mệt.”

Theo định nghĩa của một vài sử gia như Kallie Szczepanski thì Việt Cộng là những người trong hàng ngũ Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, chống cả chính phủ miền Nam cũng như Hoa Kỳ (1959-1975).

Nhưng bà cũng nói thêm: “Việt Cộng được yểm trợ và huấn luyện bởi chính phủ Cộng Sản miền Bắc” (The Viet Cong were supported and trained by the government of communist North Vietnam.) Vậy thì Cộng Sản Bắc Việt không được gọi là Việt Cộng thì gọi là gì? Ðây chỉ là một sự ngụy biện. Theo báo chí và tất cả nhân dân miền Nam thì không phân biệt Cộng Sản Nam Bắc, tất cả đều là Việt Cộng!

Thế thì sao khi nói đến cơ chế này, đảng này, các viên chức, cán bộ trong nước thường lẩn tránh hai chữ Cộng Sản, trong khi ở ngoài nước, báo chí, truyền thanh đều không nói thẳng hai tiếng Việt Cộng để phân biệt với thể chế Việt Nam (Cộng Hòa) ngày trước.

Ba mươi năm trong cuộc chiến tranh tự vệ của miền Nam, danh từ Việt Cộng (VC) mang hẳn một nghĩa xấu: Việt Cộng pháo kích, Việt Cộng đặt mìn, Việt Cộng cắt cổ, mổ bụng, Việt Cộng vi phạm lệnh hưu chiến… nên Việt Cộng đi đến đâu dân lành bỏ làng bỏ xóm chạy đến đó. Một câu chuyện khá “tiếu lâm” được kể trong ngày “Cách Mạng:”

Một anh Việt Cộng hỏi một bác nông dân rằng, “Sau ngày 30 Tháng Tư, cách mạng vào Sài Gòn, bác thấy dân tình như thế nào?”

Người nông dân thực thà trả lời: “Rất mừng là từ nay trở đi, không còn bọn Việt Cộng đắp mô, giật mìn và ban đêm về thu thuế nữa!”

Chỉ sau một thời gian ngắn, cách mạng đã đứt đuôi nòng nọc để lộ hình…Việt Cộng. Việt Cộng phủ dụ, ve vuốt dân, gọi dân là chủ, nhưng khi Việt Cộng nắm chính quyền thì dân là kẻ thù. Kể cả ngày nay, người Cộng Sản có thể nhận mình là bộ đội, là cách mạng, là xã hội chủ nghĩa Việt Nam…nhưng không ai nhận mình là Việt Cộng, vì Việt Cộng đã mang quá nhiều tiếng xấu.

Có những nông dân chết vì ăn lầm nòng nọc mà tưởng là một loại cá trê nhỏ, không ngờ đó là con cóc chưa đứt đuôi. Hàng triệu người Việt Nam đã chết vì nghĩ cóc là nòng nọc, Cộng Sản là yêu nước, Cộng Sản là giải phóng, Cộng Sản là có tinh thần dân tộc!

Có một người can đảm nhận “phe mình” là Việt Cộng, không còn phân biệt Cộng Bắc hay Cộng Nam, đó là nhà văn Trần Ðĩnh trong “Ðèn Cù.” Rõ ràng nhất là ở trang 463 (…Bắc Kinh đánh luôn Việt Cộng để thanh minh mình không xúi Việt Cộng xé Hiệp Ðịnh Paris chiếm Sài Gòn), trang 469 (Chiến tranh đau khổ thì dân nổi dậy lật đổ đã là một trong mấy bằng chứng quan trọng để Việt Cộng lập vụ án chống đảng lật đổ lẫy lừng trong đảng sử), trang 560 (Cái thằng được rước vào giúp Việt Cộng nâng cấp chiến tranh lên hiện đại hóa (…) lại đi cài tay sai để lật đổ Việt Cộng?).

Xin cám ơn chữ nghĩa của nhà văn Trần Ðĩnh.

Ðọc hết Ðèn Cù, chúng ta có thể kết luận, “Việt Cộng tàn thì Việt Nam mới khá lên được.”

ĐTC với các vận động viên khuyết tật: Các con là dấu chỉ niềm hy vọng

ĐTC với các vận động viên khuyết tật: Các con là dấu chỉ niềm hy vọng

Chuacuuthe.com

2

VRNs (05.10.2014) -Sài Gòn- Theo news.va-Thứ bảy, 04.10 hôm qua là một ngày thật đáng nghi nhớ đối với hàng ngàn vận động viên khuyết tật của Ủy ban Paralympic Ý, cùng với các thân nhân của họ quy tụ tại Đại Thính Đường Phaolô VI để gặp gỡi Đức Thánh Cha Phanxicô.

Cuộc gặp gỡ với ĐTC là một phần trong sự kiện thể thao Paralympic với chủ đề “Tin để Sống” dành cho người khuyết tật sẽ khai mạc vào cuối tuần này.

ĐTC đã gởi lời cám ơn đến các vận động viên và ngài nói sự kiện này một “lễ hội”. Đức Thánh Cha nói rằng nhiều quốc gia hiện nay đã xem thể thao như là một cách thức để “thúc đẩy mối liên hệ giữa người với nhau từ các nền văn hóa và môi trường khác nhau.”

Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh rằng thể thao là cơ hội cho người ta “thúc đẩy một nền văn hóa hòa nhập và loại bỏ một nền văn hóa loại trừ.”

Đức Thánh Cha nói rằng việc tham gia thi đấu của các vận động viên khuyết tật “là một dấu hiệu của niềm hy vọng lớn lao.” Đó là bằng chứng tỏ tường cho thấy “tất cả mọi người đều có những tiềm năng mà đôi khi chúng ta không thể tưởng tượng nổi, và có thể phát triển bằng sự tự tin và tình đoàn kết.”

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các vận động viên rằng những nỗ lực của họ sẽ thúc đẩy thế giới nhìn về một nền thể thao không còn rào cản, và các vận động viên sẽ không đơn độc. “Thiên Chúa là Cha của chúng ta sẽ ở với các con.”

Hoàng Minh

Bây giờ đã đến Tháng Mười .

Bây giờ đã đến Tháng Mười .

Tác giả: Đỗ Công Minh

Người ta kể lại rằng, trên một chuyến xe lửa về Paris, một chàng sinh viên ngồi cạnh một cụ già. Anh ngạc nhiên vì thấy giữa kinh thành Paris tráng lệ, giữa thời buổi hiện đại  mà vẫn còn có người  còn lâm râm lần hạt mân côi. Chờ đến lúc xe lửa ghé một ga trên đường, hành khách lên xuống ồn ào khiến cụ ông cũng ngưng cầu kinh, anh  hàn huyên với cụ.: “Cụ ơi, thời buổi này mà cụ còn lạc hậu quá. Có ai lần hạt nữa đâu?  Bây giờ chỉ còn mấy người nhà quê, thất học mới lần hạt như cụ thôi !” Cụ ông quay sang  chàng trai trẻ từ tốn trả lời :” Không phải thế đâu cháu, hãy khiêm tốn một chút đi. Cháu đang còn đi học à ?” . “Dạ phải, Cháu đang học đại học Paris “. Chàng thanh niên vẻ tự hào trả lời. Cậu còn hỏi địa chỉ và số điện thoại của người đồng hành để về sau có dịp nào đó ghé thăm và trò chuyện. Cụ ông vui vẻ gửi cho cậu tấm danh thiếp vừa đúng lúc cụ rời chuyến xe với cái bắt tay thân thiện. Chàng thanh niên không màng đứng lên tiễn chân , thản nhiên nhìn. Tấm danh thiếp có ghi hàng chữ LOUIS PASTEUR – Viện sĩ – Hàn Lâm Viện Paris. Câu chuyện không thấy ghi tiếp về tâm tình, thái độ của chàng thanh niên  sau đó thế nào.  Chuyện có thật và đã được chính nhà bác học kể lại .

Tháng 10, Tháng Mân côi. Tháng mừng kính Mẹ Maria. Giáo hội dành cả một tháng không phải chỉ là để con người chúc mừng Mẹ, bởi Mẹ, một con người trần gian tuyệt hảo, đấng hiệp công cứu chuộc nhân loại cùng Chúa Giêsu, đã được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác mà là để con cái có dịp chạy đến cùng Mẹ, xin ơn cứu giúp. Đức Maria, một con người có lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa.  Là người trần gian, khi được Thiên sứ viếng thăm và loan báo chương trình cứu độ của Thiên Chúa: tuyển chọn đấng  cưu mang Chúa Giêsu, Mẹ đã từ tốn khiêm cung nêu thắc mắc của mình :”Việc đó xảy ra thế nào được , vì tôi không nghĩ đến việc vợ chồng “. Nhưng khi được sứ thần giải thích, Mẹ đã thưa : “Xin Chúa thực hiện nơi tôi điều Ngài muốn “. Kể từ lời Xin Vâng ấy  mà Mẹ đã trở thành Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của nhân loại. Tháng Mân Côi là tháng  Giáo hội nhắc nhở con cái mình luôn biết chạy đến cùng Mẹ để“Đến với Chúa Giêsu nhờ Mẹ Maria “ (Ad Jesum per Mariam )  và chính phương thế gần gũi dễ dàng nhất  là tràng chuỗi Mân côi. Mỗi người chúng con mượn lời Sứ Thần kính mừng Mẹ, qua đó xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho chúng con lúc này và trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời trần gian. Lần hạt không phải là lặp đi lặp lại những điệp khúc của một câu ca, nhưng là những lời tuyên xưng của chúng con,  mỗi khi suy niệm mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa đến với nhân loại.

Ngày hôm nay, không ít người có thái độ như chàng thanh niên trong mẩu chuyện nói trên, trong đó có con. Nhiều lúc con cũng nhìn anh chị em con lần hạt Mân côi rồi biện minh cho sự lười biếng, khô khan của mình. Nào là : không có thời gian. Rồi còn viện dẫn Lời Chúa, không nên đọc nhiều vì Chúa cũng dạy “không nên thờ Ta bằng môi bằng miệng “ hoặc “ Không phải cứ thưa Lạy Cha, Lạy Cha mà được vào nước trời “

Lạy Chúa! Xin tha thứ vì thái độ không đúng của con. Xin Chúa giúp con nhận ra Tràng chuỗi Mân Côi với các mầu nhiệm suy gẫm chính là  sách Tin Mừng thu gọn. Lần chuỗi nếu không thể một lúc 50 kinh, con có thể đọc 10, 20 kinh Mân côi với lòng thành tín nguyện xin, chính là con đang học và sống Lời Chúa mỗi ngày. AMEN .

Fx Đỗ Công Minh

Biểu tình ở Hong Kong: Khi bọn chim mồi hô khẩu hiệu

Biểu tình ở Hong Kong: Khi bọn chim mồi hô khẩu hiệu
October 04, 2014

Nguoiviet.com

Trần Tiến Dũng (Từ Sài Gòn)

Từ Hong Kong, diễn biến chuyện tấn công người biểu tình và thái độ người không ủng hộ biểu tình ôn hòa cho thấy, giá trị đấu tranh đòi quyền dân chủ đã đứng trước kẻ thù mới, tuy không lạ nhưng nguy hiểm không kém gì chuyện công an  Hong Kong-Trung Quốc dùng bạo lực đàn áp biểu tình.

Thái độ hung hãn của những ‘con chim mồi’ phản biểu tình ở Hồng Kông. (Hình: Getty Images)

Những kẻ tấn công biểu tình và những kẻ chống biểu tình muốn sống ngoan- ổn đinh theo khung chuồng chuyên chế áp đặt của Trung Quốc đã ném ra loại vũ khí tối thượng của họ: “Người Hong Kong cần làm việc kiếm tiền, Người Hong Kong cần phải ăn.”

Người Trung Quốc hiện nay không bị nạn đói như các thế kỷ trước đây và không có dịch đói như một số vùng ở Châu Phi. Người Hong Kong, kể cả dân mới nhập cư từ lục địa có mức sống hơn hẳn nhiều quốc gia kém phát triển. Và một điều căn bản là họ chưa bao giờ không ăn và mất miếng ăn dù chỉ một bữa.

Vậy thì, họ trưng ra cái vũ khí. Cần kiếm tiền, cần ăn để làm gì. Họ chính xác là những con chim mồi cùng với chủ chuồng chim trưng ra miếng ăn để nhốt hốt sự ý thức tự do.

Như những sinh viên Hong Kong đang biểu tình đang chứng minh là cha ông họ đến Hong Kong và xây dựng Hương Cảng, chấm dứt ám ảnh đói nghèo và nay họ muốn xây dựng Hong Kong cho lúc này và tương lai chấm dứt nỗi ám ảnh trở thành nô lệ cho tập đoàn chuyên chế độc tài Bắc Kinh.

Không có bọn làm nhiệm vụ những con chim mồi thì Bắc Kinh không thể nhốt vào cái lồng lớn hơn một tỉ người Trung Hoa. Việt Nam, Cu Ba, Bắc Triều Tiên bầy đàn người làm chim mồi cũng không thiếu.

Nhưng lịch sử chứng minh chưa bao giờ bọn chim mồi và thế lực độc tài có thể nhốt hốt hết những trái tim và ý thức đấu tranh cho quyền con người trong ánh sáng tự do-dân chủ.

Những chiếc dù trên đầu và những cánh nơ vàng trên ngực các công dân trẻ và già của Hong Kong hôm nay sẽ là con đường lớn, không chỉ riệng cho họ mà còn là đích đến tương lai những dân tộc đang sống dưới tai họa độc tài.

KINH KÍNH MỪNG – LỜI KINH CẦU CHO HÒA BÌNH

KINH KÍNH MỪNG – LỜI KINH CẦU CHO HÒA BÌNH

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

1. Kinh Kính Mừng

Kính mừng Maria đầy ơn phúc

Đó là câu đầu tiên trong Kinh Kính Mừng chúng ta vẫn thường xuyên đọc nhất là trong tháng Mười. Nhưng nguồn gốc của lời Kinh này phát xuất từ miệng sứ thần Gabriel khi chào kính Đức Maria lúc truyền tin (Lc1,28). Đức Maria là Đấng đầy ơn phúc như lời sứ thần nói, vì có Thiên Chúa ở cùng. Phúc của Mẹ thật cao với khôn sánh, lời bà Ê-li-sa-bet xác nhận : ” Em thật có phúc hơn mọi người nữ, vì Đấng em cưu mang thật diễm phúc“. Ai có Thiên Chúa ở cùng, người ấy được đầy ơn phúc. Đức Maria là người diễm phúc không chỉ Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, mà Mẹ còn cưu mang Thiên Chúa ngay trong lòng mình nữa.

Những lời của sứ thần Gabriel và của bà Ê-li-sa-bet trên đây đã được Giáo hội dùng để chúc tụng ngợi khen Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta. Đồng thời Giáo hội thêm vào đó lời cầu khẩn Mẹ thương nâng đỡ phù trì “Thánh Maria ĐứcMẹ Chúa Trời… và trong giờ lâm tử”.

Phụng vụ mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay, dựa trên trang Tin Mừng (Lc 1,26-38) lại dìu ta về với “Đức Maria đầy ơn phúc“. Mẹ có phúc trước hết là vì Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, và Con lòng Mẹ gồm phúc lạ. Thế nên Giáo hội không ngớt lời lặp đi lặp lại danh xưng hạnh phúc này : “Kính mừng Maria đầy ơn phúc” để tôn vinh Mẹ Maria. Đức Maria là người hạnh phúc vì Mẹ đã đón nhận hồng phúc, được tuyển chọn để cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và làm Mẹ Đấng Cứu Thế, là Mẹ Thiên Chúa. Nếu yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời, thì Đức Maria cũng rất hạnh phúc khi được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và chính Mẹ cũng biết dành trọn vẹn tình yêu thương của mình cho Thiên Chúa.

Mẹ được đầy ơn phúc, Mẹ cũng muốn cho con cái mình hạnh phúc, vì mẹ nào mẹ chẳng thương con. Nên khi con cái lầm đường lạc lối, sa lầy trong tội, Mẹ đã mở rộng vòng tay, dẫn lối chỉ đường cho con người đạt tới hạnh phúc với lời nhắn nhủ : “Hãy ăn năn đền tội, hãy năng lần hạt Mân Côi“. Làm theo lời dặn dò của Mẹ, Hội Thánh đã thoát nhiều cơn giông tố hiểm nguy xác hồn, phá tan được bao bè rối, mang lại bình an trong tâm hồn.

2. Ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng

Chính Mẹ đã dạy chân-phước Alanô : “Bất-cứ ai trung thành đọc Kinh Mân Côi và suy ngắm những Mầu Nhiệm sẽ được ân thưởng. Mẹ sẽ xin cho họ được tha mọi hình phạt và mọi tội lỗi trong giờ họ chết“.

Thánh Bênađô nói : “Kinh Kính Mừng làm cho Quỉ Dữ trốn chạy, Hỏa Ngục run sợ“.

Còn thánh Bônaventura nói : “Mẹ Maria chúc phúc cho những ai đọc Kinh Kính Mừng“.

Theo thánh Montfort “Những người rối đạo, những người vô tín ngưỡng, những người kiêu căng chê ghét hay khinh thị Kinh Kính Mừng, là những người có dấu bị trầm luân Hỏa-Ngục. Không có gì có hiệu-lực được lên Nước Thiên Chúa bằng đọc Kinh Mân Côi“.

Thánh Anphongsô “Nhờ Kinh Mân Côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trên đường trọn lành. Biết bao người được ơn chết lành và hưởng phúc Thiên đàng“.

Kinh Mân côi là kinh chính Ðức Trinh Nữ đã khuyến khích khi hiện ra với Cô Bernardette ở Lộ đức (1858) cũng như trong các lần hiện ra với ba em mục đồng Lucia, Phanxicô và Giaxinta 6 lần từ 13 tháng 5 tới 13 tháng 10 năm 1917. Cả 6 lần Đức-Mẹ đều thúc-dục : “Các con hãy tiếp tục đọc Kinh Mân Côi hằng ngày“. Và nhất là : “Các con hãy đọc kinh Mân côi để cầu nguyện cho hòa bình“.

3. Lời kinh cầu cho hòa bình

Chúng ta đang sống trong một tình hình quốc tế đầy những căng thẳng, càng ngày càng gia tăng, khiến ngày mùng 07 tháng 9 năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô phải mời gọi cả Hội Thánh ăn chay cầu nguyện cho hòa bình tại Syria và những nơi bạo lực đang hoành hành. Lời cầu của Hội Thánh đã được nhận lời, chiến tranh đe dọa Damacus đang qua đi, nhưng tại Trung Đông, Ai Cập, Triều Tiên và cả Thánh Địa xem ra Hòa Binh vẫn vắng bóng. Năm nay, năm 2014, Đức Thánh Cha đã kêu gọi thế giới nhiều lần cầu nguyện cho Irắc, không những kêu gọi cầu nguyện cho hòa bình tại Israel và Palestin mà còn tổ chức cầu nguyện với nguyên thủ quốc gia cả hai nước. Trong tình hình hiện nay, chỉ biết chạy đến với Thiên Chúa, để khẩn xin hòa bình cho thế giới và. Việc làm trong tháng này là hãy lần hát Mân Côi, như Giáo hội vẫn thường làm trong các cơn túng cực. Vì chỉ có lời cầu nguyện mới vượt  qua được các biên giới các quốc gia và các ngăn cách của thù ghét cũng như không hiểu nhau, mới đem lại bình an cho nhân loại. Chúng ta hướng về Ðức Maria, Nữ vương hòa bình, và khẳng định rằng, nơi nào thiếu hòa bình, nơi nào con người tỏ ra bất lực hay không muốn dẹp đi mầm mống thù ghét và chết chóc, thì việc trợ giúp phải đến từ Trời. Chính Ðức Maria, Nữ vương hòa bình, Ðấng đem chúng ta trở lại với Chúa Cha.

Trước những thế lực mạnh hơn, chúng ta thường cảm thấy bất lực. Khi nghĩ đến sức mạnh của những thế lực trên trái đất này định đoạt số phận của nhân loại, chúng ta cảm thấy bị giới hạn và bất lực, chúng ta chỉ biết tin tưởng vào lời cầu nguyện mà thôi, chúng ta tin cậy vào một sức mạnh lớn hơn, là Thiên Chúa. Ðức Maria, như gương mẫu của sự phó thác hoàn toàn cho thánh ý Chúa. Và với tình mẫu tử, Mẹ sẽ dẫn đưa chúng ta đến với Chúa Kitô, theo dõi chúng ta trên đường đến với Chúa Cha, Ðấng có thể cải hóa và làm cho các tâm hồn con người tùng phục thánh ý của Người.

Vậy kinh Mân Côi càng có lý do hơn nữa để xúc tiến hòa bình, một hoà bình cho tới nay vẫn chưa trở lại. Với lời Mẹ Maria dạy và kinh nghiệm của các thánh về ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng, chúng ta hãy sốt sáng đọc kinh Mân Côi, để cầu nguyện cho bản thân, cho gia đình, cho Giáo hội, cho quê hương và cho toàn thế giới.

Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân Côi, cầu cho chúng con.

Nữ Vương bình an, cầu cho chúng con. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Mây, sao còn bay mãi không quay về đây?

“Mây, sao còn bay mãi không quay về đây?”
“Sao còn lờ lững che ngang, rừng cây.
Sao còn hờ hững với tôi, từng giây.
Hay còn mơ nghĩ đến ai nào đây”?

(Nhạc Ngoại Quốc – Lời Việt: Mây Lang Thang do Nam Lộc viết)

(1Cor 15: 10-11)

Trần Ngọc Mười Hai

Mây bay mãi, không quay về đây, điều đó thật dễ hiểu. Nhưng nếu hỏi mây: “Sao còn hờ hững với tôi từng giây, hay còn mơ nghĩ đến ai nào đây?” thì bố ai mà trả lời cho đúng được. Còn khó hơn cả cái trò “Đố vui để …chọc” nữa, nếu bạn lại cứ hát và cứ hỏi những câu nghe phát khiếp, như sau:

“Mây, xin dừng chân đến bên tôi, một đêm.

Xin đừng bay chốn môi hôn, thật êm.

Xin đừng nghe gió dâng lên, thật cao.

Xin đừng ân ái với muôn, vì sao”.

(Nam Lộc – bđd)

Hát như thế, kể cũng khá ư là lấn cấn. Lấn và cấn hơn nữa, vẫn là câu hát đầy những xót xa suốt một đời, chỉ vì yêu! Thôi thì, hỡi bạn và hỡi tôi, ta cứ nghe xong bài hát đã, rồi sẽ biết.

“Đời tôi đã, xót xa nhiều cũng vì yêu!

Niềm thương nhớ, biết đến bao giờ làm mây quên lãng!

Chào mây nhé, mây bay về, về phía trời cao!

Ôi niềm ao ước, mối tình tha thướt, như làn mây lướt!”

(Nam Lộc – bđd)

Chao ôi, những lời là lời và cũng là lời lẽ, rất tiếng Việt! Lời Việt, nhiều lúc cũng thấy nói: “xót xa một đời, cũng vì yêu!” Ôi chao! nhạc và lời. Nhạc và lời đây, muốn nói lên một nhận-định gồm những nhắn nhủ gửi đến mọi người, mỗi khi yêu.

Vâng. Có thể là như thế. Như thế, tức: nghệ-sĩ đời, nay vẫn cứ là hay hát những lời tình-tứ rất nhiều tình-tự như “lang thang” nhiều mây xám, xót xa nhiều, chỉ vì yêu! Ấy vậy mà, mây mưa vần vũ lại vẫn yêu hoài và yêu mãi, rất lang thang/lảng vảng giống như mây! Vâng. Một khi đã có tình-tự đầy những mây mưa, trăng gió, với bão lòng, thì nghệ sĩ nhà mình còn muốn hát, thêm một câu như sau:

“Mây, mây buồn mây khóc mỗi khi vào mưa.

Hay là mây nhớ mối duyên tình xưa.

Khi tình chưa biết đớn đau là chi,

Khi dòng nước mắt chưa hoen vào mi.”

(Nam Lộc – bđd)

Mây mà cũng biết buồn biết khóc sao? Biết cả đến nói đùa như những điều tai nghe mắt thấy được cả những chuyện tưởng như thật. Thật ra thì, không chỉ mỗi người nghe và người thấy là biết được điều ấy mà thôi, nhưng cả người hát những lời như thế đấy, cũng thấy thoải mái với những lời từ đấng bậc vị vọng ở trên cao, rất Giáo-hội! Những lời lẽ rất hài-hước rất đáng cười rộ như sau:

“Hôm ấy, ngày Tình-nhân năm 2014, Đức Giáo Hoàng Phanxicô có bài nói chuyện với các cặp vợ chồng, nam nữ thứ thiệt. Rồi, trong một thoáng rất nhanh, hầu như để minh-hoạ cho những điều tốt/xấu gặp phải trong đời chồng/vợ, Đức Phanxicô bèn có lời nhắn với người nghe như một sự thật, rằng: Anh chị em, đừng tỏ ra hãi sợ khi phải giáp mặt với các khó khăn trong đời vợ/chồng…

Mọi người chúng ta đều đã biết: chẳng bao giờ có cái-gọi-là gia-đình trọn-hảo hết. Cũng chẳng khi nào lại có cái-gọi-là người-chồng-lý-tưởng, hết. Người chồng hoặc người vợ lý-tưởng, chẳng bao giờ xuất hiện trên cõi đời này… Nói đến đây, Đức Giáo Hoàng bèn ứng-khẩu bằng câu nói: ‘Tôi đây, dù cũng có mẹ/có cha nhưng chả bao giờ có cái-gọi-là “bà già vợ” hết, nhưng trong suốt đời mình, tôi cũng từng chiến đấu không ngừng nghỉ với những Satan, rất đầy mình… giống như thế. Nói đến đây, tôi sực nhớ đến câu hỏi: có gì khác biệt giữa cái mà bên tiếng Anh người ta gọi là “Out-laws” (tức: những người sống ngoài vòng pháp-luật) và “In-laws” (tức: “xuôi-gia” hoặc “oan-gia” bên tiếng Việt). Nhưng, thực tế vẫn có câu: “The outlaws are always wanted, but not in-laws”.. (tức: người sống ngoài vòng pháp-luật luôn được chiếu-cố vẫn rất muốn, còn hai bên xuôi-gia thì không!). Nói đến đây, Đức Giáo Hoàng bèn nhớ lại câu chuyện khá buồn cười về các bà mẹ vợ/mẹ chồng rất “in-laws”, bèn kể lại như sau:

Có lần đi sở thú để tham quan/thư giãn, tôi chợt thấy tự dưng có người đàn ông cứ hớt-hơ hớt-hải chạy đến chỗ tôi yêu cầu một điều gì xem chừng quan-trọng lắm. Không để cho người này kịp phân-trần, tôi bèn hỏi trước:

-Chuyện gì thế anh?

-Dạ thưa cha. Cũng vẫn chuyện bà má vợ của con mà ra thôi!

-Cha chả, chắc anh đây lại gặp rắc rối với bà má vợ rồi phải không?

-Dạ không phải thế đâu, thưa Cha. Chả là: bà má vợ của con sơ ý thế nào đó, té ngay xuống chuồng nuôi nhốt mấy chú cá sấu ở đằng đó, mà thôi!…

-Thế, anh muốn tôi làm gì cho anh đây? Nhảy xuống đó để cứu cụ bà má vợ anh hả?

-Dạ, không dám đâu. Con chỉ xin Cha cầu nguyện nhiều cho mấy cá sấu đáng thương ấy, thôi!”

(Truyện kể trên mạng: Pope Francis meets lovers for St Valentine’s jokes about mother-in-laws, Philip Putella 14/2/2014)

Quả là, Tây với Ta hay Tầu, đâu cũng có khác-biệt trong đối-xử với xui-gia hoặc oan-gia, có bà má chồng/má vợ, ở nhà. Với người Việt, thì chỉ “bà mẹ chồng” mới thành chuyện. Còn bên Tây, người ta chỉ “ái-ngại” mỗi “Bà dzà dzợ” thứ thiệt, chứ chẳng chơi.

Lại cũng thế, điều khác-biệt giữa người thường ngoài đời và đấng bậc ở trong Đạo, là như câu hát: “Đời tôi đã xót xa nhiều, cũng vì yêu” thấy cũng “sợ”. Sợ ở đây, không chỉ mấy chú cá sấu dữ-tợn đang đói bụng, mà là: sợ ai đó chỉ vì mỗi chữ “yêu” hoặc “ghét”, thôi! Cũng vì, quá yêu vợ/yêu chồng, nên mới sợ?

Sợ hay không, những ai có kinh-nghiệm từng-trải về chuyện yêu-đương hay đương yêu, mới biết được. Sợ ở đây, thật ra cũng chẳng là sợ “sự-thật-mất-lòng”, ai nào biết.  Thôi thì, hôm nay, đề-nghị bạn/đề-nghị tôi, ta cứ để đó mọi chuyện, hạ hồi phân-giải. Nay, hãy đi vào phần “phiếm loạn” cho mọi người nhờ.  Nhưng, trước khi đi vào đoạn “phiếm” khá tương-đối, lại cũng xin đề-nghị bạn/đề-nghị tôi, ta nghe thêm đôi câu hát để nghĩ tiếp:

“Mây, mây còn phiêu lãng đến bao giờ đây?

Mây còn ngơ ngác lang thang về đâu?

Xin dừng chân nói với nhau một câu.

Xin đừng câm nín vơi nhau dài lâu”.

(Nam Lộc – bđd)

Vâng đúng thế. “Xin đừng câm nín với nhau dài lâu” nhưng hãy cứ phiếm. Phiếm, bằng sự thể kể ra đây đôi điều vẫn cần bàn, ở chốn thị thành, như sau:

“Anh chị em thân mến,

Hôm nay tôi viết thư này gửi đến anh chị em nhân ngày lễ Đức Mẹ Dâng Chúa Vào Đền thờ. Thánh-sử Luca cho ta biết: đã từ lâu, Đức Mẹ và thánh Giuse vẫn tuân-giữ luật Môsê, nên đã quyết-định đem Hài Nhi Giêsu vào Đền thờ mà dâng Ngài lên Thiên-Chúa. Và khi ấy, có người đàn ông tên Simêôn, là người công-chính, mộ-đạo và có cả bà Anna được Thánh Thần Chúa thúc đẩy đã ra đi gặp các ngài, nên nhận ra được Hài Nhi Giêsu đích-thực là Đấng Thiên-Sai, Chúa gửi đến. Ông Simêôn lúc ấy đã xin bồng/ẵm Hài Nhi trên tay mà chúc tụng Thiên-Chúa rồi nói: cuối cùng thì ông cũng đã “thấy” được ơn cứu-chuộc tỏ ánh vinh-quang trên dân Người.

Và thánh Anna, dù đang ở tuổi cao niên, cũng thấy được nguồn sinh-lực mới giúp bà khởi sự nói cho mọi người biết về Hài Nhi Đức Chúa. Đây là hình-ảnh tuyệt đẹp: bậc cha mẹ trẻ hiệp cùng với hai vị cao niên được Chúa run rủi để gặp gỡ nhau. Hài Nhi Đức Chúa là Đấng đem mọi người đến với nhau và nối-kết mọi thế-hệ được hiệp-thông yêu thương lẫn nhau. Ngài là suối-nguồn tình-yêu đã vượt qua mọi giai-đoạn tự lôi kéo mọi sự về mình, bứt phá tâm-trạng lẻ loi, buồn bã. Bằng vào hành-trình rong ruổi theo cách của gia-đình đùm bọc, anh chị em vẫn cùng nhau san sẻ nhiều thời-khắc quý-báu trong đời, như: cùng ăn uống, ngơi nghỉ, làm việc lao động, giải-trí cũng như cầu-nguyện hoặc đi hành hương đây đó, vẫn là những giờ phút hỗ trợ nhau.

Đàng khác, nơi nào không có tình yêu-thương, ở đó chẳng bao giờ có niềm an vui,êm ấm. Và tình-yêu đích-thực chỉ đến với ta từ Đức GIêsu mà thôi. Ngài phú-ban cho ta lời lẽ chiếu sáng con đường ta rong ruổi trên đường đời và Ngài còn ban cả Bánh sự sống phụ giúp ta trong chuỗi ngày rong ruổi đường dài ấy.

Anh chị em trong các Gia đình thân mến,

Lời lẽ và tâm tình anh chị em nguyện cầu cho Thượng Hội Đồng Giám mục sắp diễn ra nơi đây, sẽ là thứ vàng bạc/châu báu làm giàu Hội thánh ta. Tôi xin gửi lời cảm tạ và cũng xin anh chị em thêm lời cầu nguyện cho tôi , để tôi có sức phục vụ dân con của Chúa trong sự thật và tình thương-yêu. Cũng xin Mẹ rất thánh và thánh Giuse luôn tháp-tùng tất cả anh chị em và giúp anh chị em vững bước trong yêu-thương và chăm sóc, đùm bọc lẫn nhau. Giờ này đây, tôi thật lòng khẩn nài Thiên Chúa đầy lòng xót thương đổ muôn ơn lành thánh xuống tất cả mọi gia-đình”. (x. tập san The Majellan Family số tháng 7-9/2014, trích dẫn thư Đức Giáo Hoàng Phanxicô gửi hết mọi gia-đình, tr. 1-3).

Thế đó, là lời lẽ của đấng bậc ở tít trên cao toà nhà Hội thánh diễn tả về tình gia-đình, và tình mọi người cần có với gia-đình và với nhau. Dù, người đó có là “mẹ chồng” hay “mẹ vợ”, cũng vẫn tốt. Miễn sao tình thương-yêu lành-thánh cứ đổ tràn lan sang với mọi người.

Thế đó, là tình-yêu vẫn được ấp-ủ trong gia đình. Gia đình sẽ không là gì cả, nếu không có tình-yêu. Bởi tình-yêu, là cột-trụ chống đỡ và gìn giữ mọi thứ tình của người đời. Cả với bạn bè/người thân. Cả với chòm xóm, nhóm-hội đoàn thể trong xã hội hoặc Giáo-hội.

Tình gia-đình trước hết và trên hết, vẫn được bậc mẹ cha trân-trọng và duy-trì bất chấp mọi hoàn-cảnh đau-đớn, khó-khăn có thể có. Điều này, được người viết không ghi danh viết xuống thành thơ, thành văn rất tâm-tình, như truyện kể nhè nhẹ, ở bên dưới:

“Truyện rằng:

Cái nghèo cái đói thường trực trong ngôi nhà nhỏ này, nhưng dường như, nỗi cơ cực bần hàn ấy không buông tha họ. Cậu con bắt đầu cắp sách đến trường cũng là lúc nỗi mất mát lớn bỗng nhiên đổ ập xuống đầu họ. Cha qua đời vì cơn bạo bệnh. Hai mẹ con tự tay mình mai táng cho người chồng, người cha vắn số.

Người mẹ góa bụa ở vậy, chị quyết không đi bước nữa. Chị biết, bây giờ chị là chỗ dựa duy nhất cho con trai mình. Chị cặm cụi,chăm chỉ gieo trồng trên thửa ruộng chật hẹp, tài sản quý giá nhất của hai mẹ con chị. Ngày qua ngày, năm nối năm, những tấm giấy khen của cậu con trai hiếu học dán kín cả bức tường vôi nham nhở. Nhìn con trai ngày một lớn lên, ngoan ngoãn, học hành giỏi giang, nước mắt bỗng lăn trên gò má chị.

Học hết cấp hai, cậu thi đậu vào trường cấp ba trọng điểm của thành phố. Gánh nặng lại oàn lên vai người mẹ. Thế nhưng không may thay, khi giấy báo trúng tuyển về đến tay cậu cũng là lúc mẹ cậu ngã bệnh. Căn bệnh quái ác làm chị liệt nửa chi dưới. Vốn là lao động chính của gia đình, giờ chị chẳng thể đi lại bình thường như xưa nữa nói chi đến chuyện làm nông. Cậu bé vốn hiểu chuyện, thương mẹ vất vả, cậu xin nghỉ học:

– Mẹ này, con nghỉ học thôi, ở nhà làm ruộng thay mẹ. Đi học, tiền đâu mà đóng học phí, tiền sinh hoạt phí, lại còn mỗi tháng nộp 15 cân gạo nữa, nhà mình biết lấy đâu ra số gạo đó.
– Có thế nào con cũng không được bỏ học. Con là niềm tự hào của mẹ.Chỉ cần con chăm chỉ học hành, còn những việc khác, con không phải bận tâm.

Hai mẹ con tranh luận rất lâu, cậu kiên quyết không đi học nữa vì không muốn mẹ mình khổ. Cậu trở nên ngang bướng và lì lợm. Phải đến khi nóng nảy quá không kiềm chế được, mẹ cậu giơ tay tát cậu một cái vào má, cậu mới sững người lại.Đây là cái tát đầu tiên trong đời cậu con trai mười sáu tuổi. Mẹ cậu ngồi thụp xuống đất và khóc nức nỡ…

Nghe mẹ, cậu khăn gói vào trường nhập học. Lòng cậu nặng trĩu. Người mẹ đứng lặng hồi lâu, nhìn bóng con trai khuất dần… Ít lâu sau, có một người mẹ lặc lè vác bao tải dứa, chân thấp chân cao đến phòng giáo vụ. Chị nộp gạo cho con trai. Chị là người đến muộn nhất. Đặt bao gạo xuống đất, chị đứng thở hổn hển một hồi lâu rồi nem nép đi vào.

Thầy Hùng phòng giáo vụ nhìn chị, nói:

-Chị đặt lên cân đi. Mở túi gạo ra cho tôi kiểm tra.

Chị cẩn thận tháo túi. Liếc qua túi gạo, hàng lông mày của thầy khẽ cau lại, giọng lạnh băng:
-Thật chẳng biết nên nói thế nào. Tôi không hiểu sao các vị phụ huynh cứ thích mua thứ gạo rẻ tiền đến thế cho con mình ăn. Đấy, chị xem. Gạo của chị lẫn lộn đủ thứ, vừa có gạo trắng vừa có gạo lức lẫn gạo mốc xanh đỏ, cả cám gạo nữa, đây còn có cả ngô nữa… Thử hỏi, gạo thế này, chúng tôi làm sao mà nấu cho các em ăn được. Thầy vừa nói vừa lắc đầu.

-Nhận vào! Thầy nói, không ngẩng đầu lên, đánh dấu vào bảng tên của học sinh. Mặt người mẹ đỏ ửng lên. Chị khẽ đến bên thầy nói:

-Tôi có 5 đồng, thầy có thể bổ sung vào thêm cho cháu để phụ tiền sinh hoạt phí được không thưa thầy?

-Thôi, chị cầm lấy để đi đường uống nước. Thầy nói và vẫn không ngẩng đầu lên nhìn người phụ nữ tội nghiệp đang loay hoay, khổ sở, mặt đỏ ửng, chân tay thừa thải vì chẳng biết làm thế nào. Chị chào thầy rồi lại bước thấp bước cao ra về.

Đầu tháng sau, chị lại đến nộp gạo cho con trai. Thầy lại mở túi gạo ra kiểm tra rồi lại cau mày, lắc đầu. Thầy có vẻ lạnh lùng, ác cảm:

– Chị lại nộp loại gạo như thế này sao? Tôi đã nói phụ huynh nộp gạo gì, chúng tôi cũng nhận, nhưng làm ơn phân loại ra, đừng trộn chung như thế này. Chúng tôi làm sao mà nấu cơm cho ngon để các em ăn được? Chị nghĩ thử xem, với loại gạo hổ lốn thế này, liệu chúng tôi có thể nấu cơm chín được không? Phụ huynh như các chị không thấy thương con mình sao?
– Thầy thông cảm. Thầy nhận cho, ruộng nhà tôi trồng được chỉ có thế! Người phụ nữ bối rối.
– Thật buồn cười cái nhà chị này! Một mảnh ruộng nhà chị có thể trồng đến hàng trăm thứ lúa thế sao? Nhận vào! Giọng thầy gằn từng tiếng và vẫn không ngẩng đầu lên nhìn chị.
Người mẹ im bặt, mặt chị trở nên trắng bệt, nhợt nhạt. Chị lí nhí cảm ơn thầy rồi lại lặng lẽ bước thấp, bước cao ra về. Dáng chị liêu xiêu, đổ vẹo trong cái nắng trưa hầm hập như đổ lửa.

Lại sang đầu tháng thứ ba của kỳ nộp gạo. Chị lại đến. Vẫn dáng đi xiêu vẹo, mồ hôi mướt mải trên trán, ướt đẫm lưng áo của người mẹ trẻ. Bao gạo nặng dường như quá sức với chị.
Thầy lại đích thân mở túi gạo ra kiểm tra. Lần này, nét giận dữ in hằn trên mặt thầy. Thầy rành rọt từng tiếng một như nhắc để người phụ nữ ấy nhớ:

– Tôi đã nói với chị thế nào. Lần này tôi quyết không nhân nhượng chị nữa. Chị làm mẹ mà sao ngoan cố không thay đổi gì thế này. Chị mang về đi. Tôi không nhận!

Người mẹ thả phịch bao gạo xuống đất. Dường như bao nỗi ấm ức, đau khổ và bất lực bị dồn nén bao ngày đột nhiên bừng phát. Chị khóc. Hai hàng nước mắt nóng hổi, chan chứa trên gương mặt sớm hằn lên nét cam chịu và cùng quẫn. Có lẽ, chị khóc vì tủi thân và xấu hổ. Khóc vì lực bất tòng tâm.

Thầy Hùng kinh ngạc, không hiểu đã nói gì quá lời khiến cho người phụ nữ trẻ khóc tấm tức đến thế. Chị kéo ống quần lên để lộ ra đôi chân dị dạng. Một bên chân quắt queo lại rồi nói:
– Thưa với thầy, gạo này là do tôi… Tôi đi ăn xin, gom góp lại bao ngày mới có được. Chẳng giấu gì thầy, chân cẳng tôi thế này, tôi làm ruộng thế nào được nữa. Cháu nó sớm hiểu chuyện, đòi bỏ học ở nhà giúp mẹ làm ruộng. Thế nhưng tôi kiên quyết không cho, kiên quyết không để con tôi thất học. Có học mới mong thoát khỏi cảnh cơ cực này. Nhà chỉ có hai mẹ con, cha cháu mất sớm… Thầy thương tình, thầy nhận giúp cho. Không nộp gạo, con tôi thất học mất!

Người mẹ trẻ này đều đặn ngày nào cũng thế. Trời còn tờ mờ, khi xóm làng còn chưa thức giấc, chị đã lặng lẽ chống gậy, lê mình rời khỏi thôn. Chị đi khắp hang cùng ngõ hẻm bên xóm khác xin gạo. Đi mãi đến tối mịt mới âm thầm trở về. Chị không muốn cho mọi người trong thôn biết.

Lần này người bị xúc động mạnh lại là thầy Hùng. Thầy đứng lặng hồi lâu rôi nhẹ nhàng đỡ chị đứng lên. Giọng thầy nhỏ nhẹ:

– Chị đứng lên đi, người mẹ trẻ! chị làm tôi thực sự bất ngờ. Tôi đã có lời không phải với chị. Thôi thế này, tôi nhận. Tôi sẽ thông báo với trường về hoàn cảnh của em học sinh này, để trường có chế độ học bổng hổ trợ cho học sinh vượt khó.

Người mẹ trẻ đột nhiên trở nên cuống quýt và hoảng hốt. Chị gần như chắp tay lạy thầy. Giọng chị van lơn:

– Xin thầy. Tôi có thể lo cho cháu, dù không đầy đủ như các bạn nhưng tôi lo được. Khổ mấy, vất vả mấy tôi cũng chịu được. Chỉ xin thầy đừng cho cháu hay chuyện này. Đây là bí mật của tôi, mong thầy giữ kín giùm cho.

Chị kính cẩn cúi đầu chào thầy như người mà chị mang một hàm ơn lớn, đưa tay quệt mắt rồi lại nặng nhọc, liêu xiêu ra về. Lòng thầy xót xa. Thầy Hùng đem câu chuyện cảm động này báo với hiệu trưởng. Ban giám hiệu trường giữ bí mật này tuyệt đối. Nhà trường miễn phí toàn bộ học phí và sinh hoạt phí cho cậu học sinh có hoàn cảnh đặc biệt này. Ngoài ra, học lực của cậu rất khá, đủ tiêu chuẩn nhận được học bổng của trường.

Cuối cấp, cậu dẫn đầu trong danh sách những học sinh xuất sắc của trường. Cậu thi đậu vào trường đại học danh tiếng nhất của thủ đô. Trong lễ vinh danh học sinh ưu tú, khi tên cậu được xướng lên đầu tiên, mẹ cậu lặng lẽ đứng ở một góc khuất, mỉm cười sung sướng.

Có điều rất lạ, là: trên sân khấu hôm ấy, có ba bao tải dứa sù sì được đặt trang trọng ở một góc phía ngoài cùng, nơi mọi người có thể dể dàng nhìn thấy nhất. Ai cũng thắc mắc, không hiểu bên trong ấy chứa thứ gì.

Trong bầu khí trang nghiêm buổi lễ ấy, thầy hiệu trưởng rất xúc động và kể lại câu chuyện người mẹ trẻ đi ăn xin nuôi con học thành tài. Cả trường lặng đi vì xúc động.Thầy hiệu trưởng ra dấu cho thầy Hùng phòng giáo vụ đến mở ba bao tải ấy ra. Đó là ba bao gạo mà người mẹ với đôi chân tật nguyền lặn lội khắp nơi xin về. Thầy nói:

– Đây là những hạt gạo mang nặng mồ hôi và nặng tình của người mẹ yêu con hết mực. Những hạt gạo đáng quý này, Tiền, vàng cũng không thể mua nổi. Sau đây, chúng tôi kính mời người mẹ vĩ đại ấy lên sân khấu.

Cả trường lại một lần nữa lặng người đi vì kinh ngạc. Cả trường dồn mắt về phía người phụ nữ chân chất, quê mùa đang được thầy Hùng dìu tùng bước khó nhọc bước lên sân khấu. Cậu con trai cũng quay đầu nhìn lại. Cậu há hốc miệng kinh ngạc. Cậu không thể ngờ rằng người mẹ vĩ đại ấy không ai khác chính là người mẹ thân yêu của cậu.

– Chúng tôi biết, kể ra câu chuyện này sẽ khiến cậu học sinh ưu tú nhất trường bị chấn động rất mạnh về tâm lý. Thế nhưng, chúng tôi cũng mạn phép được nói ra vì đó là tấm gương sáng, tấm lòng yêu thương con vô bờ bến của người mẹ. Điều đó hết sức đáng quý và đáng được trân trọng. Chúng tôi muốn thông qua câu chuyện cảm động này, giáo dục các em học sinh thân yêu của chúng ta về đạo đức và lối sống, về tình người và những nghĩa cử cao đẹp. Hôm nay, một lần nữa chúng ta vinh danh những người cha, người mẹ đã cống hiến, hy sinh cả đời mình vì tương lai con em…

Giọng thầy hiệu trưởng đều đều, ấm áp và hết sức xúc động. Tai cậu ù đi, cậu chẳng nghe thấy gì nữa cả, mắt cậu nhòe nước. Mẹ cậu đứng đó, gầy gò, khắc khổ, mái tóc đã sớm điểm bạc, mắt bà cũng chan chứa niềm hạnh phúc và ánh mắt ấm áp, yêu thương ấy đang hướng về phía cậu với cái nhìn trìu mến.

Người phụ nữ ấy run run vì chưa bao giờ đứng trước đám đông. Run run, vì những lời tốt đẹp mà thầy hiệu trưởng đã giành cho mình. Với chị, đơn giản tất cả chỉ xuất phát từ tình yêu bao la mà chị giành cho con trai. Chị không nghĩ được thế nào là sự hy sinh hay đạo lý lớn lao ấy.
Cậu con trai cao lớn đứng vụt dậy, chạy lên ôm chầm lấy mẹ mà mếu máo khóc thành tiếng:

-Mẹ ơi ! Mẹ của con…(Linh Đan dịch từ truyện ngắn khuyết danh của Trung Quốc)

Dịch từ bản nào cũng là dịch. Diễn từ bài ở đâu, cũng là diễn. Miễn là, văn bản và bài bản đều diễn-tả tình thương yêu từ người này đem đến cho người khác. Có thể, tình thương yêu đó do từ người mẹ. Cũng có thể từ người thầy, người cha tinh-thần ở chốn cao, nơi Hội thánh. Tất cả đều nói lên thứ tình cần cần diễn-đạt, như đấng thánh hiền-lành khi xưa từng ghi rõ, cho mọi người:

“Nhưng tôi có là gì,

cũng là nhờ ơn Thiên Chúa,

và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu;

trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác,

nhưng không phải tôi,

mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi.

Tóm lại, dù tôi hay các vị khác rao giảng,

thì chúng tôi đều rao giảng như thế,

và anh em đã tin như vậy.”

(1Cor 15: 10-11)

Quả có thế. Không có Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu đến với mọi người, thì bạn và tôi, ta có làm gì đi nữa cũng không xong.  Nghĩ thế rồi, hỡi bạn và tôi, ta cứ hát lên lời ca đầy tình-tứ có làn mây vẫn tràn đầy yêu-thương như tự bao giờ:

“Mây, mây còn phiêu lãng đến bao giờ đây?

Mây còn ngơ ngác lang thang về đâu?

Xin dừng chân nói với nhau một câu.

Xin đừng câm nín vơi nhau dài lâu”.

(Nam Lộc – bđd)

Hát thế rồi, xin bạn và xin tôi từ nay đừng âm-thầm, câm nín như mây bay lơ lửng khắp tầng trời. Nhưng hát nói lên, hát lên những lời tình-tứ đầy tình-tự yêu thương, nồng thắm, khắp muôn nơi.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những đám mây vô tình

Cứ quanh quẩn bên mình

Suốt nhiều ngày.

Không chịu bay.

Em tự ngàn xưa chuyển buớc về,

“Em tự ngàn xưa chuyển buớc về,”

“Thuyền trao sông mắt dẫn trăng đi”.

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mt 22: 1-14

Lm Richard Leonard, sj

Mai Tá lược dịch.

Chuyển bước về, người người đều chuyển từ thuyền, từ sông nước có gió ngàn lồng lộng, rất trăng sao. Chuyển bước thời hôm nay, nhà Đạo mình cũng cứ chuyển, nhưng vẫn mang nặng một tình-tự thân-thương, đằm thắm của nhiều người.

Thời buổi hôm nay, nhiều người vẫn chuyển cho nhau những tình-tự thân thương như tình vợ chồng trẻ cứ muốn cho con cái mình kinh qua hành-trình lĩnh-nhận Thanh Tẩy, vì nhiều lý do rày rất khác. Với một số người thời Hội thánh tiên khởi, rõ ràng Thanh Tẩy là nghi-thức chú-trọng nhiều đến việc đặt tên, nêu tuổi.

Cũng có người quan-niệm đây là nghi-tiết khởi đầu, để rồi sẽ có buổi vui ăn uống, mừng em bé. Người khác hỏi đến, cũng chẳng biết rõ tại sao mình lại muốn thế. Tuy nhiên, họ vẫn nghĩ: có làm thế, mới đúng phép Đạo, như mọi người. Với một số cha mẹ khác, thì họ nay hiểu rõ nguồn-gốc mọi chuyện, nên muốn truyền lại cho con, những gì mình học hỏi, đó là sự sống của Đức Chúa.

Mỗi khi cử-hành nghi-thức thanh-tẩy, tôi thường giải-thích cho mọi người hiểu rõ rằng: ở 3 thế kỷ đầu đời của Giáo-Hội, bí-tích thanh-tẩy được thực-hiện vào lúc trời tờ mờ sáng, sau lễ Phục Sinh. Làm thế, không chỉ để ăn-khớp với lễ Phục-Sinh của Chúa cho đồng bộ, mà vì muốn giữ kín sự việc con dân lĩnh-nhận Thanh-tẩy, cho an-toàn.

Ròng rã hơn 300 năm trước, tín-hữu Chúa nhận thanh-tẩy vào buổi sáng, còn để các vị có thể đi vào cõi chết, giấc buổi trưa. Với họ, thanh-tẩy không có nghĩa đi ra ngoài để sinh-hoạt, mà là có sự sống và có cả sự chết nữa.

Qua dụ-ngôn tham-dự Tiệc, Đức Giêsu muốn mọi người biết, rằng: có những người cứ tưởng mình đương-nhiên sẽ trở-thành tín-hữu, nên đã khước-từ. Ngược lại, cũng có người trong Đạo, lại tưởng rằng mình sẽ chẳng bao giờ đáp-ứng được lời gọi mời của Chúa, nên vẫn gia-nhập chiên đàn Hội-thánh, rất hăng say.

Vào những ngày đầu, khi đề-cập đến Tiệc cưới, Giáo-hội Chúa đều ám-chỉ hai việc: một, Tiệc Thánh là Tiệc Lòng Mến. Tiệc, cuộc sống vĩnh-cửu. Lạ thay, khi dùng ảnh-hình của buổi Tiệc có ăn và có uống, dụ-ngôn Chúa kể đưa ra, ít nói đến thịt thà – thức ăn, nhưng lại cứ nói đến cảnh người ra/kẻ vào, trong thánh lễ. Tại sao thế?

Điều này, cho thấy: thái-độ của người được mời đã bỏ lỡ cơ-hội đến với Tiệc cưới của Hoàng-gia, là điều ít thấy xảy ra, nơi thế-trần. Điều thường thấy hơn, là thái-độ của dân con bần-hàn, đã nhận ra món quà quí giá, được ban phát.

Nhận ra, cả người ban tặng, nên họ mới “ăn vận” cho đúng cách và biết rõ nơi mình sẽ đến, là nơi đâu/chốn nào. Ngược lại, cũng có người không biết cách xử-thế cho đúng với hoàn- cảnh/địa-vị của mình, nên đã không nói thành lời, khi được mời.

Những người theo cách-thế thứ hai, là cộng-đoàn dân Chúa vào thời đầu. Là, những vị dám lĩnh-nhận nguồn nước thanh-tẩy. Nhưng sau lại gian-dối, bội-phản cộng-đoàn các thánh, vào thời bách hại. Khi các thánh khám-phá ra chuyện đó, đều thấy rằng: thực-khách theo cách thứ hai, không có đủ tư-cách tham gia, nên đã bị loại trừ.

Nơi cộng-đoàn thời thánh-sử Mát-thêu, thì: hầu hết những người gian-dối đều phải trả giá rất cao, bằng chính cuộc sống của mình. Bởi thế nên, sự việc hồi-hướng trở về với Đạo của Chúa, cũng trở-thành sự-kiện cần đắn đo, suy-nghĩ.

Thời hôm nay, chuyện dụ-ngôn ghi ở trên, có ý-nghĩa gì đối với mỗi người chúng ta? Chắc chắn, Tin Mừng không đặt vấn-đề bảo rằng: ta nên ăn vận thế nào cho phải phép, khi đi tham-dự thánh-lễ của Lòng Mến. Cũng chẳng ai hỏi: ta có thái-độ sống ra sao, khi mọi người đều nghĩ về đời sau, chốn vĩnh hằng là nơi mình đạt đến mãi sau này.

Dụ ngôn hôm nay, không cốt ý nói đến những hãi hùng/lo sợ mỗi khi ta ra trước toà án để chịu cuộc phán xét mà người xưa gọi là “trả lẽ”, sẽ phải xử-sự thế nào? Ăn làm sao nói làm sao?

Nhưng, điều mà dụ-ngôn muốn nêu thành vấn-đề, chính là: ta phải trở thành  người khó-nghèo, bần hàn cho đủ hoặc đúng cách, mới nhận ra được quà tặng Chúa phú ban, khi Ngài mời gọi ta gia-nhập cộng-đoàn niềm-tin mà Hội-thánh vẫn đời chờ. Có là người rộng lượng đủ, ta mới có thể đáp-ứng lại lời kêu mời, khẩn thiết của Đức Chúa.

Bởi một lẽ, khi nêu vần-đề như thế, là để ta nghiêm-chỉnh xét và xem những gì mình sẽ ăn nói và hành-động. Để rồi, ta sẽ có thái độ đúng đắn, hầu đem các giá-trị của những hành-xử ta từng có và vẫn có trong đời mình cả vào lúc mình ở nhà hay đang lao-động tại sở làm cũng như ở chốn vui chơi, giải-trí cho khuây khoả và cũng để xét lại xem cung-cách mình đối xử với nhau lâu nay ra thế nào.

Chính những điều như thế, mới chứng-tỏ ý-nghĩa của việc ta bày-tỏ bằng hành-động. Và bằng vào những cử-chỉ như thế, người khác mới đánh giá là: ta có thực sự là người chân phương, tử tế, ý-nhị về niềm tin hay không? Hoặc, ta cũng chỉ là kẻ dối-gian/bội phản như bất cứ người nào khác; hoặc, ta lại cũng không biết cách ăn vận, xử thế và nói năng cho hiền-từ, tử tế, thế thôi.

Tựa như tín-hữu thời tiên-khởi ngày nay ta cũng ăn vận mầu trắng rất “trinh trong” mỗi khi ta nhận ơn thanh-tẩy từ Đạo Chúa. Trinh trong mầu tiệc cưới rất trắng tinh, là sắc mầu thích-hợp với nghi-tiết thanh tẩy của Giáo-hội.

Cũng tựa như người thời trước, vào những tháng ngày ta nhận-lĩnh ơn thanh-tẩy, ngày nay không có nghi thức đặt tên, nêu tuổi như trước nữa. Và, cũng chẳng phải là nghi tiết giao tế xã hội, để mà ăn uống.

Hôm nay đây, chỉ là ngày thường trong tuần tựa hồ như khi ta nhận thiệp hồng từ bà con/bạn bè vẫn muốn mời chào ta tham-dự tiệc cưới, mỗi thế thôi. Nhận thiệp mời ngày thanh-tẩy hay lễ cưới, tức là ta được nhắn hãy tham-dự lễ-hội vui-tươi của cuộc sống, có Chúa cùng tham-dự.

Vào các tiệc-tùng buổi ấy, mọi người đều xử-sự theo đúng cung-cách họ tuyên-tín. Ở nơi đó, kẻ dối-gian/bội phản đều đã cao bay xa chạy, cả trăm dặm. Họ đâu còn bận tâm gì nữa mà ngoái cổ quay đầu lại, để làm chi.

Tiệc cưới cuộc sống hôm nay, còn là tiệc ngàn đời có Chúa/có ta, có cả cộng-đoàn thân-thương, lành thánh rất Nước Trời là như thế.

Trong tinh-thần nghiệm-sinh tiệc ngàn đời luôn có Chúa, tưởng cũng nên ngâm nga lời thơ ở đời vẫn còn hát, rằng:

“Em tự ngàn xưa chuyển buớc về,

Thuyền trao sông mắt dẫn trăng đi.

Những giòng chữ lạ buồn không nói,

Nét lửa bay dài, giấc ngủ mê.

(Đinh Hùng – Gặp Em Huyền Diệu)

Gặp em hay gặp Chúa, vẫn cứ thất “nét lửa bay dài, giấc ngủ mê”. Ngủ có mê, cũng đừng “chuyển bước về” ngàn xưa ấy. Để rồi, em với tôi , ta cùng về chốn Huyền Diệu của tình yêu-thương Chúa vẫn gửi đến mỗi người trong ta. Ngài gửi, để ta vui sống mãi chốn Nước Trời hiền-hoà, rất hôm nay.

Lm Richard Leonard, sj

Mai Tá lược dịch.