Người Việt ít cần ‘món ăn tinh thần’?

Người Việt ít cần ‘món ăn tinh thần’?

Trần Trọng Linh Gửi tới BBC từ Geneva, Thụy Sĩ

Văn hoá nghệ thuật nói chung luôn được coi là đỉnh cao của trí tuệ và văn minh nhân loại.

Mục đích của chính của nghệ thuật là giúp cho con người hướng tới những giá trị cao đẹp: Chân, thiện, mỹ.

Trong văn hoá đương đại ngày hôm nay nghệ thuật còn đưa đến cho chúng ta những không gian trải nghiệm thực tế và những định nghĩa nghệ thuật mới. Mục đích cuối cùng là đem đến những suy ngẫm, sẵn sàng đón nhận sự khác biệt và tự vấn chính bản thân.

Trong một khoảng thời gian quan sát và nghiên cứu tôi nhận thấy trong các bảo tàng nghệ thuật hay những nơi diễn ra các sự kiện văn hoá nghệ thuật: thơ ca, âm nhạc, biennale nghệ thuật đương đại, festival âm nhạc, múa… rất ít người Việt Nam có nhu cầu quan tâm đến văn hoá nghệ thuật.

‘Người Việt và nhu cầu văn hóa’

Vậy lý do ở đây là gì khi mà đối với những người phương tây thì văn hoá như một thứ nhu cầu không thể thiếu được hàng ngày đối với mỗi người?

Phần lớn người Việt không biết địa chỉ của bảo tàng quốc gia nằm ở đâu, hay bỏ ra 2 đô la mỗi năm để mua một đầu sách.

Phải chăng người Việt Nam ít có nhu cầu hưởng thụ đời sống văn hoá tinh thần hay có thể nói người Việt ít có nhu cầu tự vấn bản thân?

Việt Nam sau hơn hai thập niên mở cửa kinh tế cũng đã cải thiện đáng kể, thậm chí còn nổi hẳn lên một thế hệ người giàu.

Họ sẵn sàng bỏ ra cả triệu đô để được làm chủ một chiếc xe hơi hay bỏ ra cả vài chục ngàn đô để có một chiếc túi xách.

Còn đối với tầng lớp bình dân hay trung lưu, họ cũng sẵn sàng bỏ ra cả ngàn đô để có được một sản phẩm công nghệ đời mới nhất được.

Trong khi đó phần lớn người Việt không biết địa chỉ của bảo tàng quốc gia nằm ở đâu, hay bỏ ra 2 đô la mỗi năm để mua một đầu sách.

Ảnh hưởng từ văn hóa tuyên truyền?

Cũng không khó để lý giải những hiện tượng tâm lý trên.

Trong khi suốt một quá trình dài người Việt chịu một sự ảnh hưởng không nhỏ từ hậu quả chiến tranh và chủ nghĩa cộng sản, cái tôi cá nhân bị loại bỏ triệt để.

“Bầy cừu” ngoan ngoãn đón nhận tất cả những cái gì mà chủ nghĩa cộng sản “bú mớm” qua hệ thống truyền thông.

Những loại hình văn hoá dân gian truyền thống ẩn chứa những giá trị đạo đức cơ bản như Tuồng, Chèo, Cải Lương, Ca Trù, Chầu Văn… dần bị xoá sổ.

Bù vào những khoảng trống văn hoá thì đã có bộ máy truyền thông khổng lồ của chủ nghĩa cộng sản.

Những serie phim tài liệu được lặp lại liên tục trên các kênh truyền hình quốc gia, tung hô những vị lãnh tụ chính trị với quá khứ hào hùng được nhuộm đỏ bằng máu của người dân.

Để giảm áp lực “tẩy não” và “nhồi sọ” thì đã có những Game Show giải trí truyền hình được xen kẽ khéo léo vào nội dung chương trình phát sóng.

‘Tri thức, văn hóa và nhu cầu sinh tồn’

Tri thức và văn hoá là những thứ khó nắm bắt và cần phải có nhiều thời gian tích luỹ, hơn nữa tri thức cũng khó để đem ra cho mọi người thấy rằng “trí khôn của ta đây”.

Để khẳng định sự tồn tại của mình trước sự “im lặng” chết chóc của “bầy cừu”, họ chọn cách thể hiện đẳng cấp xã hội bằng cách trang trí lên mình những giá trị vật chất để phủ lấp cái thiếu thốn, tự ti và nghèo nàn tri thức của mình.

Sẽ chẳng có vấn đề gì khi mỗi người có quyền sử dụng đồng tiền theo ý thích của mỗi người và không ai có quyền phán xét họ.

Mâu thuẫn ở đây là khi phần lớn người Việt có mức thu nhập dưới 5 đô la một ngày thì sự “rũ bùn đứng dậy sáng loà” của một bộ phận nhỏ của tầng lớp mới giầu đã tạo nên một khoảng cách quá lớn về giàu nghèo.

Tri thức và văn hoá là những thứ khó nắm bắt và cần phải có nhiều thời gian tích luỹ

Mâu thuẫn phát sinh nhưng người Việt thiếu tri thức để xử lý tình huống hơn nữa những giá trị truyền thống cơ bản không còn được coi trọng.

Kết quả là mâu thuẫn được giải quyết bằng xung đột bạo lực giữa các tầng lớp xã hội.

Không thể loại bỏ một yếu tố rất lớn ảnh hưởng không nhỏ đến sự tiếp cận của người dân đối với văn hoá nghệ thuật, đó là áp lực tâm lý giải quyết nhu cầu sống tối thiểu hàng ngày luôn là mục đích được ưu tiên hàng đầu.

Sự ám ảnh tâm lý của chiến tranh, mối đe doạ chiến tranh rình rập của người anh em cộng sản phương bắc. Những áp lực tâm lý trên đẩy con người ta vào một vòng quay sinh tồn mang tính bản năng: Kiếm ăn và tồn tại.

Vai trò của giới trí thức

Đối với tầng lớp nghệ sỹ trí thức, vụ án “Nhân văn Giai phẩm” từ đầu năm 1955 và bị dập tắt tháng 06/1958 do ba nhà văn hoá trí thức lớn khởi xướng, Trần Dần, Lê Đạt và Hoàng Cầm, với đòi hỏi của họ là tự do sáng tác và tự do tư tưởng.

Từ sự khởi xướng này, với sự góp mặt của nhiều tầng lớp trí thức Việt Nam, tờ báo mang tên “Nhân văn” và các tập “Giai Phẩm” mang nội dung chính trị ngày càng rõ rệt.

“Những loại hình văn hoá dân gian truyền thống ẩn chứa những giá trị đạo đức cơ bản như Tuồng, Chèo, Cải Lương, Ca Trù, Chầu Văn… dần bị xoá sổ.”

Mục đích của những tri thức này là hướng đến một xã hội tự do dân chủ.

Nội dung này đáp ứng được nguyện vọng của quần chúng nhưng lại đánh vào tử huyệt của chế độ. Chính vì thế đảng cộng sản Việt Nam đã phát động một chiến dịch xóa sổ Nhân văn Giai phẩm.

Kết quả là những ai dính dáng đến Nhân văn Giai phẩm đều nhận được sự trừng phạt từ chế độ.

Thành phần chủ chốt thì bị tù đày, văn nghệ sỹ thì bị cải tạo lao động. Giáo sư trí thức thì bị cách chức, mất việc. Tất cả phải sống nốt phần đời còn lại trong đói nghèo im lặng và bị cách ly với XH.

Bài học kinh nghiệm xương máu này chính nỗi kinh hoàng sợ hãi cho nhiều thế hệ trí thức nghệ sỹ sau này.

Kết quả là các trí thức nghệ sỹ áp dụng chung một phương pháp “3 không”: Không nghe, không thấy và không làm.

“Những hệ luỵ của chủ nghĩa cộng sản thực chất chỉ là những bề nổi của một tảng băng, bên cạnh thói quen nhẫn nhịn và thụ động của một nền văn minh canh nông cùng ý thức và hệ tư tưởng vẫn còn mang đậm Nho Giáo”

Sau này cũng có một vài nghệ sỹ đề cập đến những vấn đề chính trị xã hội nhưng cũng chưa tạo ra được những ảnh hưởng lớn với XH; phần nhiều là những nghệ sỹ dùng câu chuyện chính trị để trang trí cho mình trước những con mắt của những người bảo trợ nghệ thuật đến từ các nước phương tây.

Những hệ luỵ của chủ nghĩa cộng sản thực chất chỉ là những bề nổi của một tảng băng, bên cạnh thói quen nhẫn nhịn và thụ động của một nền văn minh canh nông cùng ý thức và hệ tư tưởng vẫn còn mang đậm Nho Giáo.

Tất cả những nguyên nhân trên tạo ra một bức tranh ảm đạm của một xã hội thiếu tính nhân văn và thay vào đó là hình ảnh bạo lực, thù hằn và niềm tin giữa con người bị đổ vỡ.

Rõ ràng văn hoá nghệ thuật ở đây đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong bất cứ một xã hội nào.

Để thay đổi được ý thức hệ tư tưởng của cả một dân tộc là điều không tưởng nhưng chúng ta có thể bắt đầu từ mỗi cá nhân.

Chìa khoá tri thức, văn hoá nghệ thuật tôi cho rằng là một lời giải không tồi để mở cánh cửa đến với nền văn minh nhân loại.

Hãy bắt đầu từ ngày hôm nay nếu bạn không muốn cuộc đấu tranh thách thức những hiện trạng xã hội chuyền lại cho đời sau.

Đây là trách nhiệm của chính thế hệ chúng ta. Hỡi các bạn trẻ hãy vượt qua nỗi sợ hãi trong mỗi chúng ta, chỉ có những trái tim tuổi trẻ mới đủ lãng mạn và nhiệt huyết để mơ ước đến một xã hội tươi sáng hơn cho Việt Nam.

Hồ Chí Minh quay trong Ðèn Cù

Hồ Chí Minh quay trong Ðèn Cù

Ngô Nhân Dụng

Nguoiviet.com

Ðèn Cù của Trần Ðĩnh được bán ở Hà Nội với giá 600 ngàn đồng mỗi cuốn; tương đương 25 đô la là giá bản in bán ở Mỹ. Một blogger nổi tiếng kể chuyện chính cô đi mua được một cuốn Ðèn Cù bên lề đường, và được bớt, chỉ phải trả 400 ngàn. Hai cuốn Bên Thắng Cuộc của Huy Ðức cũng được in chui và dân Việt Nam nô nức tìm mua. Vô tình, các ông Huy Ðức và Trần Ðĩnh đã giúp cho nhiều người thêm công việc làm và gia tăng lợi tức. Trong đó chắc phải có nhiều anh chị em công an; vì những vụ làm ăn chui, từ ngành in sách lậu đến buôn bán ma túy, nếu không được công an bảo kê thì ai làm ăn gì được?

Hiện tượng Ðèn Cù cho thấy người dân Việt vẫn khao khát muốn thêm biết thêm sự thật. Ðảng Cộng Sản Việt Nam không muốn dân đọc Ðèn Cù, nhưng họ vẫn cho cán bộ văn hóa mở chiến dịch chỉ trích, quảng cáo cho cuốn sách.

Tuần này, một nhà báo mới từ Anh quốc gọi phỏng vấn tôi về cuốn Ðèn Cù. Nhờ ông là một nhà báo giỏi theo dõi sát, biết rõ dư luận ở Việt Nam hơn, nên nghe ông đặt câu hỏi tôi được nghe mấy thắc mắc của độc giả trong nước về cuốn sách. Thí dụ, có người phê bình rằng Trần Ðĩnh nhớ nhầm về năm, tháng diễn ra trận đánh ở Núi Hồng. Tác giả có thể nhớ nhầm lắm. Một nhà văn ngoài 70 tuổi mới bắt đầu viết kể chuyện đời mình; đến lúc gần 85 tuổi mới cho in, chắc phải có lúc nhớ lẫn lộn. Chính tôi viết mục này, cũng có khi ghép ngày tháng nọ vào một biến cố kia, hoặc nghĩ đén tên người này mà đánh máy thành tên người khác. Ðáng lẽ ra một tác giả như Trần Ðĩnh phải có hai ba thư ký, mỗi người phụ trách tìm tài liệu kiểm soát lại xem trí nhớ của mình có chính xác không. Khi soạn cuốn Ðứng Vững Ngàn Năm, tôi cứ ước mình là một giáo sư đang dạy môn lịch sử. Giáo sư có thể mướn sinh viên tra cứu tài liệu giúp mình! Các em chỉ cần theo lời giáo sư chỉ dẫn mà đi tìm trong thư viện, coi cái gì ông thầy nói đúng, cái gì không chắc chắn. Sẽ tránh được khối chỗ lầm. Ngoài tiền công được nhà trường trả, cuối năm thầy còn cho thêm điểm. Vì ngay việc tìm tòi tài liệu cũng giúp cho các em hiểu biết thêm về nghề nghiên cứu.

Cho nên, nếu trong Ðèn Cù có những chi tiết không đúng, hoặc không chắc chắn, thì chúng ta cứ chờ có người dẫn ra các chứng cớ xác thực hoặc các nguồn đáng tin hơn.

Nhưng ông Trần Ðĩnh không viết lịch sử. Ðóng góp quan trọng của ông không phải là những chứng liệu sử học, mà là kinh nghiệm sống, của một cá nhân đã quan sát và ghi lại những gì thấy chung quanh mình. Nhờ thế mà người đọc bây giờ cũng như các thế hệ sau được biết thêm, hiểu thêm về lịch sử nước ta trong hơn nửa thế kỷ. Tác giả có thể nhớ nhầm vài chi tiết, không quan trọng; vì độc giả biết còn nhiều người sẽ viết về cũng những năm tháng đã qua.

Chẳng hạn, Trần Ðĩnh kể chuyện ông Hồ Chí Minh đã cải trang, tới coi cuộc đấu tố bà Nguyễn Thị Năm, một địa chủ có nhiều công nuôi các cán bộ chủ chốt của đảng Cộng Sản trong nhiều năm, trước khi bị Cộng Sản gán tội địa chủ và đem giết một cách tàn nhẫn. Có người trong nước, chuyên nghiên cứu lịch sử đảng Cộng Sản, nói rằng Trần Ðĩnh viết không đúng. Vì ông ta không bao giờ thấy một tài liệu nào trong lịch sử đảng ghi về sự kiện này.

Nghe xong, tôi phải cố nhịn không bật cười, vì kính trọng cuộc phỏng vấn nghiêm trang của một đồng nghiệp. Nếu ông bạn không gọi sang từ London sang, mà gặp riêng nhau ở chỗ khác, thì nghe kể có người nêu nghi vấn trên chắc tôi đã hỏi ngay, cho cả hai cùng cười: Phán như thế, tức là ông ta muốn nói chỉ những gì do ban nghiên cứu lịch sử đảng Cộng Sản viết thì mới là sự thật, đảng không nói gì tức là bịa, phải không? Nhưng nhịn được cười, tôi đã trả lời rằng: Chuyện ông Hồ có đến xem cuộc đấu tố bà Nguyễn Thị Năm hay không, điều đó không quan trọng lắm. Ðối với lịch sử, điều quan trọng là: “Giết hay Không Giết?”

Nếu chỉ căn cứ vào lịch sử chính thức của đảng Cộng Sản Việt Nam thì trong đời tư của Hồ Chí Minh không hề có nhân vật nào tên là Nông Thị Xuân, Ngay cả bà vợ Tăng Tuyết Minh cưới nhau ở Quảng Châu cũng không được phép hiện diện trên trái đất, như ký giả Kim Hạnh làm chứng. Cô chỉ đụng tới chuyện đó là bị cách chức ngay. Nhưng các chi tiết trong cuộc đời Hồ Chí Minh, như chuyện ông đã đổi tên bao nhiêu lần; ông bị Stalin nghi là không thật sự cộng sản; hoặc đời sống tình dục của ông thế nào, ông người Nghệ An thật hay là một người gốc Hẹ, vân vân; những chi tiết đó cũng không cần bàn nhiều quá. Ðối với nhân vật lịch sử này, điều quan trọng nhất là ông ta đã làm gì để cho nước Việt Nam bây giờ phải sống trong một xã hội đạo lý suy đồi, tham nhũng nhơ bẩn, kinh tế lạc hậu, thua kém các nước chung quanh?

Ông Ðoàn Duy Thành, nguyên phó thủ tướng chính phủ Hà Nội, khi bàn về những sai lầm của cuộc “Cải Cách Ruộng Ðất,” đã kết luận rằng nó “đã để lại hậu quả lâu dài cho dân tộc, cho đất nước, là sự hận thù, sự lừa dối, xảo trá, vu khống như: tố điêu, ép cung, bịa chuyện… gây tai họa cho bao gia đình, làm nát đi những truyền thống tốt đẹp về gia đình, họ hàng, làng xóm, mà cha ông ta đã dày công xây dựng hàng nghìn năm.” Với thành tích phá ruỗng nền tảng đạo đức của ông cha, thì chuyện đời tư ông Hồ ra sao, ông có mấy vợ hay nhân tình, đều chỉ là chuyện nhỏ.

Bên cạnh tội phá hủy di sản tinh thần dân tộc, ông Hồ còn dựng lên một guồng máy chuyên chế, dành độc quyền kinh tế và chính trị riêng cho đảng mình; chính bộ máy đó gây nên tình trạng chậm tiến cho dân tộc. Bác Sĩ Phạm Hồng Sơn nhận xét: “Khi cầm quyền, cụ Hồ đã để cho chính phủ của cụ tạo ra nhiều tiền lệ cầm quyền độc đoán, nhẫn tâm, phi dân chủ hay dân chủ giả hiệu, có thể nói lớn đến mức mà vết hằn sâu của nó đến nay vẫn còn hiện rõ trong cả hệ thống chính quyền hiện thời.” Bác Sĩ Phạm Hồng Sơn không cần phải kể chi tiết. Riêng cảnh bao người dân lương thiện bị bắt vào trong đòn công an rồi chết cũng đủ thấy di sản của chế độ do Hồ Chí Minh dựng lên kinh hoàng thế nào.

Trước những tội lớn trong cuộc Cải Cách Ruộng Ðất, chúng ta thấy những chi tiết, như Hồ Chí Minh có đi xem cuộc đấu tố bà Nguyễn Thị Năm hay không, chẳng còn quan trọng nữa! Ðiều quan trọng là: “Giết hay Không Giết?” Về những cuộc đấu tố giết oan mấy trăm ngàn “địa chủ,” cựu Ðại Tá Phạm Quế Dương nhận xét: “Cụ Hồ… kêu gọi ‘Tuần Lễ Vàng’ để lấy tiền. Ðáng lẽ, ông phải cảm ơn người ta mà ông quay lại đánh người ta. Chuyện đó đáng để lịch sử lên án.” Ðảng Cộng Sản bây giờ vẫn hô hào “học tập đạo đức cách mạng” của của Hồ Chí Minh, chắc họ không nhớ ông Hồ giải nghĩa đạo đức cách mạng là gì. Ông nêu đức tính duy nhất cho các đảng viên học tập, là phải hoàn toàn theo lệnh đảng, đảng bảo làm gì thì cứ thế làm theo. Chế độ độc tài gây ra bao tai họa cho dân tộc. Trong thế giới loài người bây giờ còn ai muốn trẻ em học thứ đạo đức đó hay không?

Nghĩ lại, thì vị nào trong ban nghiên cứu lịch sử đảng đã nêu ra nghi vấn trên chắc chỉ nói cho xong bổn phận của mình thôi, chưa chắc ông ta đã nghĩ kỹ trước khi lên tiếng. Khi biết Ðèn Cù mới xuất bản, chắc ông Tô Huy Rứa đã ra lệnh cấp dưới phải mở ngay một cuộc càn quét để tiêu diệt uy tín của cuốn sách và tác giả. Những vị “ăn cơm chúa múa tối ngày” bèn làm theo chỉ thị. Thế là, mỗi ông mỗi bà được phát Ðèn Cù đem về đọc, bới lông tìm vết thấy chỗ nào đánh được thì đánh. Viết xong, nộp bài cho đủ chỉ tiêu; sau đó mới ngồi đọc lại, cười khúc khích với nhau. Làm việc như vậy cho nên mới có người đưa ra thứ lý luận “chuyện này ban nghiên cứu lịch sử đảng không nói gì cả, tức là nó không có thật.” Nói như vậy, mà không cần biết người dân nghe sẽ bật cười như thế nào! Họ biết dân sẽ cười bể bụng, nhưng không quan tâm. Vì đằng nào cũng vậy, lâu nay dân Việt Nam còn tin những gì họ viết đâu mà mình phải cố gắng tìm tòi, suy nghĩ, hại sức khỏe?

Ðó cũng là cách suy nghĩ và làm việc của quý vị đã mở cuộc triển lãm về“Cải Cách Ruộng Ðất,” rồi phải đóng cửa ngay. Ðó cũng là tác phong của mấy ông bà làm cuốn phim lịch sử chỉ có hai ba người mua vé vào coi. Hôm qua, thành phố Hà Nội mới tổ chức kỷ niệm 60 năm “Ngày Giải phóng Thủ đô” với hơn 3500 quan chức đại biểu tham dự tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia. Một bạn đọc từ trong nước cho tôi biết hơn 30 chỗ bắn pháo hoa tưng bừng. Trước đó mấy ngày, mấy ông bà “lãnh đạo” đã cải chính về tin hủy bỏ bắn pháo hoa vì dân than phiền tốn tiền vô ích. Ðã lỡ mua pháo rồi, tiền hối lộ của nhà bán pháo đã bỏ túi rồi, làm sao hủy bỏ được? Dân Hà Nội có một đêm coi pháo bông thỏa thích, vừa coi vừa chửi. Nhưng quý vị “lãnh đạo” đâu cần biết thằng dân nó nói cái gì!

Tại sao họ hành động như vậy? Vì họ biết ngày tan hàng rã ngũ đang tới gần, ngày càng gần hơn. Tiếp tục “múa tối ngày” như trong cái đèn cù, còn được ngày nào hay ngày đó.

‘Mạng xã hội là nguồn tin chính ở VN’

‘Mạng xã hội là nguồn tin chính ở VN’

Hoàng Xuân Nhà báo tự do, gửi cho BBC từ Sài Gòn

  • 10 tháng 10 2014

Máy tính, điện thoại và máy tính bảng đang được dùng để đọc tin.

Vài năm gần đây là một giai đoạn đáng quan sát trong lịch sử báo chí Việt Nam.

Sự thay đổi ngôi vị trong làng báo diễn ra như những đợt sóng trào, những tên tuổi và cách làm báo mới tinh đột nhiên chiếm lĩnh sự quan tâm của dư luận, hất cẳng những “ông trùm” lừng danh, và đến lượt mình, đôi khi rất ngắn ngủi, chỉ trong vòng sáu tháng một năm, chúng lại chìm xuống nhường cho các những cái tên khác.

Tên của tờ báo không còn phản ánh trung thực nội dung chúng đang truyền tải nữa.

Cách đây mười mấy năm, những cái tên lớn như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Pháp luật TP HCM, Lao Động, Công an TP HCM, Sài Gòn Tiếp thị, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Phụ nữ TP HCM, Hoa học trò, gần như độc chiếm trong lĩnh vực được nêu rõ trong cái tên của mình, và một gia đình bình thường sống ở thành phố thường mua hết những tờ đó cho nhu cầu thông tin của từng người, phù hợp với giới tính và lứa tuổi.

Báo chính thống thoái trào

Tiếc thay, khi đạt đến đỉnh cao phong độ cũng chính là lúc những tờ báo kể trên thoái trào.

Nguyên nhân thì nhiều và không ít trong số đó đã được làng báo theo dõi với tất cả sự hồi hộp và lo lắng, thậm chí là gay cấn.

Nhiều hạn chế thông tin được đưa ra so với thời kỳ trước đó, khiến các tờ báo khó khăn trong cuộc chạy đua cung cấp thông tin nóng và thật cho xã hội, nhưng đồng thời cũng khiến các tin tức hay ho càng được săn lùng hơn bao giờ hết, đặc biệt là các tin chính trị.

Vậy là để tăng hiệu quả kinh tế và số phát hành, một số tờ báo rời khỏi lãnh địa của mình để nhập vào cuộc đua săn lùng tin tức chính trị xã hội.

” Khi mạng xã hội ra đời thì cuộc thoái trào với tốc độ nhanh dần của báo chí Việt Nam nói chung gần như không thể cưỡng lại được nữa.”

Thay đổi này mang lại một ít thành công ban đầu nhưng sau đó người đọc nhận thấy chính trị chỉ là một phần trong mối quan tâm của họ, và khi các tờ báo yêu thích đều đăng những tin tức giống hệt nhau thì họ bắt đầu giảm số đầu báo mua hàng tháng và tìm tin tức ưa thích từ các nguồn khác.

Khi mạng xã hội ra đời thì cuộc thoái trào với tốc độ nhanh dần của báo chí Việt Nam nói chung gần như không thể cưỡng lại được nữa.

Chừng 31 triệu người dùng Internet ở Việt Nam (chiếm 34, 1% dân số cả nước, tính tới 31/3/2012, theo Trung tâm Internet Việt Nam) là thị trường hết sức hấp dẫn cho những người đưa tin.

Theo số liệu của Hội nhà báo Việt Nam, hiện có trên 20.000 hội viên (số nhà báo đã được cấp thẻ). Số người viết báo thực sự phải nhiều hơn khá nhiều. Hầu như mỗi nhà báo Việt Nam đều có một tài khoản trên mạng xã hội.

Trên đó, thoát khỏi sự hạn chế cùng những ràng buộc bất thành văn của báo chí “chính thống”, vô số tin tức được sản xuất ngay trong vòng vài phút, hoặc thậm chí vài giây-đủ để chụp một ảnh và post nó lên mạng.

Các tin tức sốt dẻo này nhiều khi được thông báo song song với sự việc đang diễn ra, với văn phong cá nhân đậm nét-vốn là điều mà báo chí “chính thống” không thể đáp ứng.

Cuối ngày, sau khi hoàn thành phần tin tức theo nhiệm vụ cho tờ báo mình đang làm việc, không ít nhà báo lại tiếp tục bình luận và đưa các tấm ảnh của sự kiện lên trang cá nhân.

Sự tương tác nhanh chóng và dễ dàng trên mạng xã hội giúp chỉ trong vài chục phút, hàng trăm, thậm chí hàng ngàn người đọc tha hồ bình luận và cung cấp thêm những thông tin họ có, khiến một status vài dòng chữ ban đầu nhanh chóng lớn lên như một quả cầu tuyết.

Những điều báo Đảng không đưa

Vụ nhà sư ‘Thích Ai Phôn’ bùng nổ nhờ các mạng xã hội Việt Nam

Với sự trợ giúp của Internet, có những thông tin hết sức thú vị mà người đọc rất khó-hoặc không thể tìm thấy trên hàng trăm cơ quan truyền thông chính thống của Việt Nam.

Ví dụ bảng so sánh chi tiết giá vàng và tỷ giá USD/VNĐ qua từng năm được post lên hồi đầu năm ngoái cho thấy sự lạm phát khủng khiếp.

Phát ngôn của các quan chức vào đầu nhiệm kỳ và giữa nhiệm kỳ được đặt cạnh nhau cho thấy ông ta đã thực sự hành động như thế nào.

Những tấm ảnh phản ánh thực tế đối chọi, như công trình hoành tráng tưởng niệm các bà mẹ Việt Nam anh hùng và cuộc sống nghèo khó của một bà mẹ Việt Nam đang còn sống… cung cấp sự thật sau những thành tích được thổi phồng.

Có những thông tin bắt đầu từ mạng xã hội, lan rộng dần và khi lên cao trào thì bức bách ngay cả các tờ báo thận trọng nhất nhập cuộc, nếu không muốn hàng ngày chứng kiến lượt view tụt thê thảm.

Gần đây nhất là câu chuyện của một nhà sư được “dân mạng” hài hước đặt cho cái tên là Thích Ai Phôn, do vị này khoe ảnh cầm iphone 6 (so với thu nhập trung bình của người Việt là khá cao) và điện thoại Vertu, thậm chí cả trước một bàn ăn đầy ngập món … sushi, cá sống.

Nhà sư này đã bị kỷ luật và đề nghị bãi miễn chức vụ tôn giáo sau khi dại dột post những tấm ảnh này lên trang cá nhân.

“Nhạy cảm” hơn là tin tức về cuộc biểu tình của sinh viên học sinh Hồng Kông vừa qua.

Mạng xã hội Việt Nam đưa tin và hình ảnh khác báo chính thống

Tin tức được người dùng mạng xã hội khắp thế giới cập nhật từng giờ.

Sự phân loại báo chí “chính thống” rất rõ nét trong thời gian xảy ra sự việc này. Có báo lập tức vào cuộc, những báo này lập tức tăng số phát hành, bài viết được chia sẻ nhanh chóng, dân mạng khen tấm tắc. Có báo hầu như phớt lờ.

Có báo e dè nhìn đồng nghiệp, sau đó, khi bị làn sóng mạng xã hội đánh tụt view thì mới thận trọng vào cuộc. Áp lực từ mạng xã hội-những người đọc tự do và khao khát tin tức khách quan ngày càng mạnh và rõ nét.

Tuy nhiên, không ít người đọc vẫn mong mỏi được cung cấp thông tin từ một cơ quan truyền thông cấp quốc gia: trong những ngày đó, nhận xét được khá nhiều người chia sẻ là “Hôm nay VTV vẫn im thin thít!”.

Với những ưu điểm không thể chối cãi, mạng xã hội đã trở thành tờ báo chung lớn nhất và thú vị nhất cho người đọc lẫn người viết ở Việt Nam.

” Các tờ báo lớn trên thế giới đã biến mạng xã hội thành mạng lưới cộng tác viên vô tận, với khả năng tương tác cực lớn, còn ở Việt Nam thì ngược lại”

Có số lượng áp đảo nhà báo và người dùng Internet “thú nhận” thích đọc và thường xuyên đọc tin tức trên mạng xã hội hơn báo chí chính thống.

Vô số trang mạng của nhóm được lập ra giúp các thành viên có không gian thoải mái hơn rất nhiều để trao đổi, phân tích tin tức các loại-thường là tin tức chính trị và kinh tế. Ở đó người tham gia có thể đọc được vô số thông tin hay ho-mà chẳng tốn xu nào, ngoài cước phí Internet.

Thực ra xu hướng “nền báo chí do người đọc tạo ra” đã hình thành trên thế giới từ cách đây hơn 10 năm.

Khái niệm này do nhà báo Dan Gillmor, một cây bút bình luận chính trị, nhà nghiên cứu tại Trung tâm nghiên cứu Internet và xã hội tại Đại học Harvard đặt ra.

Các tờ báo lớn trên thế giới đã biến mạng xã hội thành mạng lưới cộng tác viên vô tận, với khả năng tương tác cực lớn giúp tìm ra những tin tức được quan tâm nhất, cũng như thêm chi tiết cho nó. Tuy nhiên vai trò của tờ báo vẫn là áp đảo.

Ở Việt Nam thì ngược lại. Đó là hệ quả tất yếu giữa việc 700 cơ quan truyền thông chính thống ngày càng lạnh ngắt, cứng đơ, nhàn nhạt một màu với thực tế cuộc sống sôi động và biến chuyển không ngừng.

Một Tỉ Người Tầu

Một Tỉ Người Tầu

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

TQ là đất nước của một chế độ tuyệt vọng.

Lê Phú Khải

Gần hai năm trước, tôi có một bài báo ngắn được phổ biến trên trang Đàn Chim Việt. Mãi đến cuối tháng rồi, vẫn còn có đôi vị “độc giả” gửi lời bình luận. Xin đơn cử một:

47 Phản hồi cho “Nghĩa muội Tạ Phong Tần”

1.    Ông Nội – says:

20/09/2014 at 15:12

Nơi đây – Có được mấy con vện vàng 3 khoang , sủa theo bồi bút Tàu gian họ Tưởng này ?

Đây là lần gần nhất, chứ không phải là duy nhất – kể từ khi ông Hồ Quang Lợi, Trưởng Ban Tuyên Giáo Thành Ủy Hà Nội, tổ chức nhóm chuyên gia đấu tranh tham gia bút chiến trên internet – tôi bị qúi vị “chuyên gia đấu tranh” buộc tội là … “Tàu gian!”

Sự cáo buộc này, nói nào ngay, không hoàn toàn vô cớ vì tôi nói được tiếng Hoa. Chỉ tiếc là vốn liếng Hoa Ngữ của tôi vô cùng giới hạn, vỏn vẹn chỉ có mỗi một câu thôi: “Bỉ ngộ dách mánh mìn báo.”

Đó cũng là câu ngoại ngữ đầu đời tôi học được từ một phụ nữ Trung Hoa. Có hôm, bà rụt rè đến xin mẹ tôi cho được để nhờ trước cửa nhà một cái thúng bán bánh mì vào buổi sáng.

Bên trong cái thúng này là một lò than be bé, với xoong xí mại đặt bên trên, cùng với vài chục ổ bánh mì nho nhỏ. Bánh mì xí mại giá̀ hai đồng. Một đồng chỉ có bánh mì không rưới thêm nước thịt, kèm mấy cọng dưa chua làm bằng củ cải trắng và cà rốt đỏ au.

Bà cụ không rách rưới nhưng trông rất lôi thôi và tàn tạ: bộ quần áo xẩm lùi xùi, cái nón cói cong vành (hẳn là phải mang từ cố quốc) bao quanh một khuôn mặt già nua, buồn bã và cam chịu.

 

Ảnh: flickr.com

Dù mỗi sáng tôi chỉ mua một đồng bánh mì thôi (dách mánh mìn báo) nhưng luôn luôn được bà ưu ái cho (thêm) một viên xí mại, kèm theo một nụ cười hiền …miễn phí.

Thế là mỗi sáng tôi có dư ra được một đồng. Đồng bạc còn lại, tôi mang “nộp” ngay cho bà cai trường – người có một mẹt hàng khiến cho tất cả những đứa trẻ con (con nhà nghèo) như tôi đều phải thèm thuồng: me ngào, cóc và xoài xanh ngâm nước đường, mức dừa, kẹo cau, đậu phụng, bánh qui, quả mác mác, quả sim hay say chín …

Tôi suýt chết cái tên là “Tiến bánh mì xí mại” thì bà cụ đột ngột  qua đời. Từ đó, thỉnh thoảng, trong xóm vẫn còn có tiếng rao (“loong sữa pò, de chai, pao pán hông”) của cụ ông nhưng nghe yếu hẳn ớt và buồn bã hơn nhiều.

Hình ảnh những người khách trú trong trí tưởng ấu thời (xa xôi) của tôi, xem ra, hoàn toàn khác xa với của qúi vị “thương lái” Trung Quốc ngày nay – ở Việt Nam:

Từ việc mua đuôi trâu, móng trâu, rễ hồi, ốc bươu vàng tới việc sẵn sàng thu mua phế liệu, đỉa, cá cơm với giá cực cao – những hành động tưởng như vô thưởng vô phạt nhưng lại ẩn chứa những dụng ý sâu xa của lái thương Trung Quốc…

Thâm độc hơn, chúng mở chiến dịch thu mua dây đồng vụn với giá cao “trên trời”, đẩy từng đoàn “đồng tặc” lùng sục chặt trộm dây đồng từ các đường điện cao thế, băm nát mạng lưới điện quốc gia. Sau đó là thu mua cáp quang phế liệu với mức giá trên trời.

Đến khi dân nghèo lặn xuống biển chặt phá mạng cáp quang viễn thông, thì dân chúng mới “ngã ngửa” ra mục đích sâu xa của chúng là phá hoại con đường huyết mạch thông tin của Việt Nam…

Tôi chưa bao giờ có dịp gặp gỡ những vị “thương lái TQ” có ý đồ  “thâm độc” và “phá hoại” như thế nhưng lại có dịp tiếp xúc (qua sách vở) với nhiều người Tầu khác: Lão Tử, Khổng Tử, Lý Bạch, Thôi Hiệu, Mạnh Hạo Nhiên, Kim Thánh Thán, Lỗ Tấn, Ba Kim, Kim Dung, Lâm Ngữ Đường, Mặc Ngôn, Trương Hiền Lượng, Lưu Hiểu Ba, Dương Kế Thằng…

Tam Giáo (Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo) ở Việt Nam có đồng quy hay không là điều mà tôi hoàn toàn không “bảo đảm,” và cũng không dám lạm bàn nhưng tôi biết chắc chắn là cá nhân mình – đôi lúc – có hơi bị quân tử Tầu (chút xíu) là do ảnh hưởng của Khổng Phu Tử và … Kim Dung!

Cũng không ít lúc tôi trở nên … “thoát tục” (và văng tục: “Đ…má, tao đéo care cái con cặc gì ráo trọi”). Thái độ sống “vô vi” này, không chừng, tôi bị lây từ Lão Tử. Chắc là thằng chả chớ còn ai vô đây nữa?

Bởi vậy, thỉnh thoảng, quí vị dư luận viên vẫn gọi tôi là “Tầu Tưởng” (tưởng) cũng không trật chi nhiều – dù tôi chưa đến Trung Hoa bao giờ và vẫn ao ước có dịp được sống ở đất nước này (vài ngày) cho biết.

May mắn sao, tháng rồi, tôi vớ được cuốn Đèn Cù của ông Trần Đĩnh. Tác giả có cơ hội đi “du học” ở tuốt bên Tầu, nhiều năm, và chuyện ông  kể về dân tộc này cứ khiến tôi cứ suy nghĩ mãi:

Bữa ấy tôi đang đọc báo chữ to gần Da Xan Ting – Đại thiện đình (Nhà ăn lớn). Một sinh viên Trung Quốc đến bên tôi. Trắng, đẹp, kính trắng, mắt hiền.

– Xin lỗi, anh là lưu học sinh Việt Nam?

– Vâng, còn anh ala Thượng Hải? (ala tiếng Thượng Hải là chúng ta, chúng tôi).

– Tôi là… (anh nói tên nhưng tôi không nhớ), muốn nói chuyện một ít với anh, có được không?

Anh nhờ tôi chuyển cho sứ quán Việt Nam một thư đề nghị Bắc Việt Nam hãy tôn trọng hiệp định Genève, đình chỉ đưa quân và vũ khí vào trong Nam cũng như rút lực lượng đã phi pháp cài lại từ 1954.

– Làm gì có chuyện ấy nhỉ?

Hoàn toàn bị xúc phạm, tôi vừa ngớ ra ngạc nhiên vừa khó chịu. Anh đốt đảng anh thôi chứ lại định đốt cả đảng tôi nữa ư?

– Có, đài nước ngoài thường xuyên lên án, tố cáo Bắc Việt Nam.

– Sao anh tin những thứ ấy?

– Đọc các đại tự báo đây anh có tin không?

Tôi quay đi và nói:

– Tôi không chuyển thư anh được vì bận và vì ý kiến của anh thiếu cơ sở.

Nhưng từ hôm ấy, tôi bỗng cứ lởn vởn nghĩ ta có vi phạm hiệp định Genève thật không? Chả lẽ ta chính nghĩa lại bội ước? Chả lẽ bản chất ta hoà bình lại thích chiến tranh?

Lúc ấy thật tình tôi không biết đảng có phương án kế hoạch cài cán bộ và quân lính ở lại miền Nam cũng như tiến hành nghiên cứu ngay từ đầu hình thế bờ biển để sau này lập “đội thuyền không số” có cơ sở ở huyện Thuỷ Nguyên. v.v…

Tuần sau tình cờ tôi gặp anh “Thượng Hải” ở gần Đại lễ đường. Anh đi với một cô gái trăm phần trăm Shang hai gu niang, Thượng Hải cô nương. Cô gái nhìn tôi như có ý hỏi anh bạn đi bên: “Cha từ chối đưa thư đấy phải không?”

Không nghe thấy nhưng tôi cáu – đinh ninh cô gái nói nei jia huo, thằng cha kia. Cùng lúc thấy cô gái rất đẹp. Picasso có lẽ lấy mẫu kiểu tóc đuôi ngựa ở cô gái thanh tú này.

Chẳng hiểu sao tôi rẽ ngoắt luôn. Tức. Không, có cả ghen vớ ghen vẩn.

Khi chống phái hữu, nhiều giáo sư, sinh viên bị đưa đi, tôi có ý tìm anh “Thượng Hải”. Không thấy nữa. Nghĩ cô gái Thượng Hải nếu không xuống nông thôn lao động cải tạo – để bị người ta cưỡng hiếp, chửa hoang và treo cổ chết – thì chắc phải bỏ học và bỏ cái đuôi ngựa “văn hoá đồi truỵ phương Tây”, tôi bỗng bồn chồn cùng ân hận lạ lùng.

Tôi chưa hiểu với tôi những ông thày sống động đầu tiên chỉ ra con đường và cách thức đấu tranh cho dân chủ chính là làn sóng “phái hữu” trong đó có anh sinh viên cùng cô bạn gái xinh đẹp của anh. Sau này trong gian nan phải chịu đựng tôi mới nhận ra hình ảnh của họ càng đậm nét trong tôi.

Nhưng tại sao anh sinh viên đeo kính trắng lại chọn tôi để nhờ chuyển thư phản đối ta “phạm pháp” đưa súng ống, binh lính vào Nam? Anh đọc thấy gì ở trên mặt tôi. Một hừng sáng nào đó ư? Một kiểu Nàng Kiều với Đạm Tiên ngày Thanh Minh.

Tôi còn một bạn học, người Nam Kinh. Lúc “phái hữu” lên tiếng, anh từng bảo tôi:

– Chắc cậu cũng biết truyện “cô gái quàng khăn đỏ?” Chúng ta đấy. Cũng quàng khăn đỏ cả mà. Hỏi bà ơi, tại sao tai bà to thế? Bà nói: Để bà nghe thấu bọn phản động chúng nó thì thào. Thế sao mắt bà sáng thế? À, sáng mới thấy được chỗ chúng nó ẩn nấp. Còn răng? Sao răng bà to thế? Răng bà to để ăn thịt những đứa khoẻ thắc mắc về bà… như cháu. Ăn luôn.

Tôi hỏi anh:

– Người Trung Quốc nghĩ như cậu có nhiều không?

– Zen ma shuo ya? Nói sao nhỉ? Một nửa đi. Nhưng nửa kia có loa ở mồm và có súng trên tay. (Trần Đĩnh. Đèn Cù, Westminster, CA: Người Việt, 2014).

Thiên An Môn 1989. Ảnh: wikipedia

Đó là “một nửa nước Trung Hoa” khi mới rơi vào tay đám cộng sản Tầu. Cho tới khi xẩy ra biến cố Thiên An Môn thì tôi tin rằng không phải là một nửa mà có đến ba phần tư dân số nước này đã trở nên “phản động.”

Đến sáng nay, 30 tháng 9 năm 2014, South China Morning Post đi tin:

“Hàng chục ngàn người đang chiếm lĩnh đường phố, đòi hỏi Bắc Kinh phải cải cách dân chủ.” Bây giờ thì tôi tin rằng bốn phần năm người Tầu cũng đang muốn thoát Trung (cộng) y như tuyệt đại đa số dân Việt hiện nay.

Hồng Kông 2014. Ảnh: Dickson Lee. Nguồn: South China Morning Post

Nói cách khác là dân Việt có một tỉ người Tầu đồng cảnh nhưng dường như không mấy ai để ý đến điều này – trừ nhà báo Lê Phú Khải. Hôm 26 tháng 5 năm 2014 vừa qua, ông nói chắc (như bắp) thế này đây:

Bắc Kinh sợ nhất cái gì?… Sợ nhất Việt Nam dân chủ.Vì, Bắc Kinh giống hệt Hà Nội: Đang ngồi trên kho thuốc nổ.

Chế độ đảng trị độc tài ở Trung Quốc đã tạo ra những mâu thuẩn đối kháng trong lòng nó và không có cách nào hoá giải được. …

Một Việt Nam cải cách chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền lúc này là tiếng sét ngang tai đối với độc tài đảng trị ở TQ. Việt Nam dân chủ là tiếng gọi mênh mông được vẫy chào từ hàng triệu trái tim TQ bị đè nén bởi bạo quyền bấy lâu nay.

Chữ “triệu” trong đoạn văn thượng dẫn được cho in đậm vì tôi tin rằng ông Lê Phú Khải viết lộn nên xin phép được viết lại: “Việt Nam dân chủ là tiếng gọi mênh mông được vẫy chào từ hàng tỉ trái tim TQ bị đè nén bởi bạo quyền bấy lâu nay.”

Chúng ta nên ứng xử khôn ngoan hơn với một tỉ đồng minh đang sống kề bên.

IMF: Trung Quốc qua mặt Mỹ, trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới

IMF: Trung Quốc qua mặt Mỹ, trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới
Saturday, October 11,  2014

Nguoiviet.com

BẮC KINH, Trung Quốc (NV) – Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) vừa thông báo Trung Quốc đã qua mặt Hoa Kỳ, trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới, theo một bản tin của Fox News.

Thủ Tướng Lý Khắc Cường của Trung Quốc nói chuyện với Thủ Tướng Angela Merkel hôm 10 Tháng Mười, nhân chuyến thăm Ðức, quốc gia Châu Âu có buôn bán lớn nhất với Trung Quốc. (Hình: Adam Berry/Getty Images)

Nền kinh tế Hoa Kỳ luôn giữ vị trí số một thế giới kể từ năm 1873, sau khi qua mặt Anh.

Theo tác giả bài báo, ông William Wilson, một nghiên cứu sinh kỳ cựu tại Trung Tâm Nghiên Cứu Châu Á thuộc The Heritage Foundation, so với mức độ tăng trưởng kinh tế trong vài thập niên vừa qua, chuyện Trung Quốc qua mặt Hoa Kỳ không làm nhiều người ngạc nhiên.

Và điều này cũng không nhất thiết làm người Mỹ lo lắng. Tất cả tùy thuộc chính quyền Hoa Kỳ xoay xở như thế nào.

Có hai phương pháp so sánh căn bản ở đây, để có thể đo lường tổng sản lượng quốc gia (GNP) của một nước.

Ngoài ra, sức mua hàng (PPP) cũng được tính vào việc so sánh giá cả giữa các quốc gia.

Hầu hết giá hàng hóa ở Trung Quốc đều rẻ hơn ở Mỹ, nhưng tổng sản lượng gần như bằng nhau giữa hai quốc gia.

Theo IMF, GNP của Mỹ khoảng $17,400 tỉ và của Trung Quốc khoảng $17,600 tỉ, dựa trên mức đo lường của PPP.
Hồi năm 2005, nền kinh tế Mỹ lớn gấp đôi nền kinh tế Trung Quốc.

Trong vòng 5 năm tới, vẫn theo IMF, kinh tế Trung Quốc sẽ tăng thêm 20% so với hiện nay, theo dự đoán của ông Wilson.

Phương pháp thứ nhì không tính sức mua hàng giữa hai quốc gia, nhưng lại tính tỉ giá hối đoái giữa đồng đô la của Mỹ và đồng nguyên của Trung Quốc.

Và nếu theo phương pháp này, nền kinh tế Mỹ lớn hơn nền kinh tế Trung Quốc tới $7,000 tỉ. Và phải mất một thời gian Trung Quốc mới đuổi kịp Mỹ.

Dân số đông cũng là một lợi thế của hai quốc gia này.

Với dân số đông và nền kinh tế quốc gia lớn mạnh, Hoa Kỳ có được sức mạnh chính trị giúp tạo ra trật tự thế giới sau Thế Chiến 2.

Sự quyết đoán hơn của chính phủ Trung Quốc trong thời gian gần đây cũng có liên quan đến mức tăng trưởng kinh tế.

Mặc dù thu nhập tính trên đầu người giữa hai quốc gia còn cách biệt rất lớn – $54,700/người ở Mỹ và $7,600/người ở Trung Quốc – mức tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc làm nhà nước thu được nhiều tiền hơn và tạo thêm được ảnh hưởng trên thế giới.

Tóm lại, chuyện một quốc gia có số dân gấp bốn lần nước Mỹ một ngày nào đó có nền kinh tế lớn hơn không phải là một sự đe dọa hay sốc đối với mọi người.

Người Trung Quốc có cơ hội giàu có bây giờ vẫn tốt hơn so với trước đây, và chuyện Trung Quốc mở rộng thị trường kinh doanh và đầu tư cũng là điều tốt cho thế giới, chứ không chỉ đối với các nhà đầu tư, người tiêu dùng, và nhà xuất cảng ở Mỹ, theo ông Wilson.

Ông kết luận rằng, đe dọa xuất phát từ quyền lực mà đảng và nhà nước Trung Quốc tích tụ được qua kết quả kinh tế.
Muốn ngăn chặn đe dọa này, Hoa Kỳ phải kiên trì, một yếu tố quan trọng trong chính sách ngoại giao, với sự hỗ trợ của một nền quốc phòng mạnh mẽ, cộng với thị trường kinh tế rộng mở. Nếu thành quả kinh tế của Trung Quốc là một đe dọa thực sự thì đó là vì Hoa Kỳ thiếu sự kiên quyết. (Ð.D.)

Ai cần ai giải phóng?

Ai cần ai giải phóng?
October 05, 2014

Nguoiviet.com

Tạp ghi Huy Phương

“Chuyến tôi đi xe đò đứt thắng,
Ð. mẹ đời, đ. má tương lai”
(Ca Dao, 30 tháng 4)

* Chương ba mươi tám “Ðèn Cù”

Tôi cho rằng chương sách đáng đọc nhất của tác phẩm “Ðèn Cù” là chương 38, chương sách nói về ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nếu độc giả không có thời giờ hay ít quan tâm, đọc một chương sách này cũng đã đủ.

Xe tăng của quân đội Bắc Việt tiếp tục đổ vào miền Nam Việt Nam vào ngày 12 tháng 5, 1975, để ngỡ ngàng trước đời sống sung túc của người dân miền Nam. (Hình: AFP/Getty Images)

Cũng như “Bên Thắng Cuộc” của Huy Ðức viết về ngày Sài Gòn thất thủ, khi mà cờ xí, biểu ngữ ngợp trời, loa phóng thanh ầm ĩ loan tin ngày đại thắng, Trần Ðĩnh cảm nhận được cái thất vọng, hụt hẫng, đau đớn của một người đã bao nhiêu năm, bỏ hết tuổi thanh xuân đi theo kháng chiến để chống Tây diệt Mỹ, tàn sát anh em để thống nhất đất nước! Những gì Huy Ðức suy nghĩ trước đây hẳn không khác hơn Trần Ðĩnh, Dương Thu Hương hay tất những người Việt Nam:

“…Ngày 30 tháng 4, 1975, ngày nhiều người tin là miền Bắc đã giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc.” (Lời Nói Ðầu – Bên Thắng Cuộc.)

Hạ màn! Câu nói nửa chừng của Trần Ðĩnh “Chả lẽ trời đất quỷ thần lại phù hộ…” cho chúng ta hiểu là kẻ xấu, bọn tà đã… thắng! Trời quả là không có mắt như câu nói ngày xưa của nhân gian!

Trên báo Nhân Dân, sau ngày 30 tháng 4 tại Hà Nội, Trần Ðĩnh bất mãn vì chi tiết trong bài báo của Bùi Tín nói đến thực đơn của tổng thống “Ngụy” (trưa hôm đó có hai món chính là gân bò hầm sâm và cá thu kho mía,) mà theo Trần Ðĩnh, “Kiểm kê sự ăn uống của tư sản, địa chủ vốn nằm quen thuộc trong cẩm nang phát động quần chúng căm thù bọn bóc lột.” Theo tôi, thêm vào đó là sự thèm khát miếng ăn, để xem bọn “ngụy” nó ăn gì? Chi tiết đó có thể làm kẻ chiến thắng hả hê nhưng sự thật có đáng hiện diện trong một bài báo của một tổng biên tập lớn của một tờ báo lớn, trong một ngày máu xương chất đống hay không?

Một ông cụ thổi kèn Tây trong ban nhạc của triều đình Huế thời Bảo Ðại, tập kết ra Bắc, sau ngày “chiến thắng” chỉ còn độc một đôi dép râu, không có cả…bít tất. Ông cụ nói như lời trăng trối:

“Cảm ơn ông, đoàn với ai, tụ với ai? Vợ con chưa biết hiện ở đâu, đi theo nhà khác mất rồi có khi. Họ hàng thì chết trong Tết Mậu Thân… Tôi về đó vẫn lại trơ làm thằng tập kết đợt hai trơ trọi một mình… Ra đi để thống nhất đất nước, bây giờ ai thống nhất với thân già tôi?”

Trần Ðĩnh cũng như triệu triệu người miền Bắc ngây ngô, mơ màng thằng dân trong này bị bóc lột tận xương tủy, không có nổi cái chén mà ăn cơm, trong hành lý vào Nam của Trần Ðĩnh có năm bảy thứ cứu đói vào, trong đó có cả một cái thùng nhựa đựng nước kẻo sợ trong Nam không có được cái miểng sành chăng?

Người ngoài Bắc nô nức đi Nam xem chúng nó bị bóc lột đến cỡ nào, không ngờ “trong kia dân nó ối chà giàu ơi là giàu. Vàng chỉ năm chục đồng một cây. Tủ lạnh vài chục đồng một chiếc. Lạnh cứ là liên lu liền lù suốt năm. Bảo cho tay vào lâu là hóa ra đá!” hay “buồng nào cũng máy lạnh. Xin lỗi anh, tôi thấy sướng nhất là đi toa lét!”

Dân miền Nam quả là không đợi không chờ ai vào giải phóng. Câu chuyện của Minh Trường, phóng viên nhiếp ảnh TTX (1971) kể lại cái hí hửng của kẻ “giải phóng” khi vào Sài Gòn đã bị một thau nước lạnh dội vào mặt. Bà mẹ ra mở cửa, thấy mặt anh thì vội vàng chấp tay lạy:

“Anh còn sống thì tôi mừng nhưng anh về thì tất cả các đứa con bao lâu nay sống với tôi, chăm sóc phụng dưỡng tôi đều đã bị các anh lôi đi tù hết mất rồi. Anh về thì nhà này tan nát, thì tôi trơ trọi. Thôi, tôi xin anh, anh đi với đồng chí của anh đi cho mẹ con tôi yên!”

Thân phụ Trần Ðĩnh di cư vào Nam từ năm 1954 đã sụt mất 17 kg từ ngày “giải phóng,” thấy con khốn khổ vì đảng thì mừng, và ngay những ngày đầu tiên đã có nhận xét:

“Chưa có thời nào mà bắt người thua trận bị tù hàng chục vạn như thời Cộng Sản. Các tay này không biết lòng dân là thế nào sao?… Cái khó chịu nhất là dân trong này thấy mình bị khinh miệt.”

“Bố đi bộ về đến đầu phố thì bị một anh bộ đội cầm súng gác giữ lại hỏi đi đâu mà nhanh thế. Bố nói tôi già nên muốn mau về nhà nằm. Không được, đứng nghiêm năm phút! Bố lại ngỡ như thuở bé đi học đứng nghiêm là quay mặt vào tường nên quay vào tường thì anh ấy lại vặn sao quay mặt đi? Trốn giáo dục à? Lại quay lại nhìn thiên hạ qua lại nhìn mình. Ðứng đã ngán lại phải nghe loa ca ngợi chiến thắng, phân tích chiến thắng…”

Dân Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh sau ngày được “giải phóng,” đua nhau vào Sài Gòn mua bán ve chai, như Trần Ðĩnh đã viết:

“Gặp ve chai đồng nát đạp xe tơi tới ở Sài Gòn, tôi chợt thấy mình thường hay hỏi: ‘Thanh hay Nghệ đấy?’ Ðâu chỉ hai căn cứ địa lớn này của Ðói. Khắp mọi nơi! Từ Nam chí Bắc…”

“Nhìn mặt bà ve chai này tôi bỗng nhớ câu ‘chiến thắng mang gương mặt khổ đau cùng cực’ của Olga Bergolzt, nhà thơ nữ Nga bị đày ải hết đời. Bà ta nói thay cho tất cả những ai sống với Cộng Sản. Cộng Sản lúc đầu hấp dẫn nhờ đưa ra các hứa hẹn thỏa mãn toàn bộ các nhu cầu của con người. Nhưng phiệu hết. Chỉ còn bành trướng quyền lực của cộng là nhu cầu duy nhất phải thỏa mãn. Vỡ mộng, dân bèn có nhu cầu trừng phạt cái tội lừa dân. Và cậy đến bất cứ thứ gì không phải cộng.”

Người phụ nữ quê ở Nga Sơn, Thanh Hóa, mua ve chai này, đã đi thanh niên xung phong – bất mãn, thất vọng trước thời thế, cho rằng:

“Bây giờ đấy, đứa ăn chẳng có mà đứa thì sướng quá vua. Biết trước là ra một trời một vực thế này thì chả đi hy sinh làm gì. Hai cụ không nghe thấy dân đã có câu ca đấy ư?… Áo lính chưa ráo máu đào, Mà xe vợ tướng đã vào tới nơi.” Ðẹp… Nhưng cháu chỉ muốn Mỹ nó lại thả bom cho tan hết…”

Cộng Sản vào Nam, một năm sau khi Trung Cộng dùng vũ lực chiến Hoàng Sa, báo Sài Gòn Giải Phóng đã ca tụng và đoan chắc:

“Trung Quốc vĩ đại không chỉ là người đồng chí, mà còn là ông thầy tín cẩn, đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có được ngày hôm nay, thì chủ quyền Hoàng Sa thuộc Trung Quốc hay thuộc ta cũng vậy thôi. Khi nào chúng ta muốn nhận lại, Trung Quốc sẽ sẵn sàng giao lại.”

Và cái chính sách nhân đạo khoan hồng của Cộng Sản Bắc Việt kiểu Phạm Văn Ðồng:

“Ðế quốc Mỹ và tay sai đã biến chúng từ con người thành ra dã thú. Cách mạng phải cải tạo chúng từ thú trở lại thành người. Phải giam chúng lại để chúng không làm hại nhân dân được nữa. Ðồng thời phải cải tạo chúng để chúng cải tà quy chính.”

Mấy năm sau, Cộng Sản lộ nguyên hình là một lũ cướp ngày, từ chuyện lùa dân đi kinh tế mới, đánh tư sản, đổi tiền, tổ chức thu vàng cho vượt biển “bán chính thức,” dân chủ vạn lần hơn tư bản đâu không thấy, nhưng tham ô, lừa đảo khốn nạn hơn cả trăm lần xã hội miền Nam trước đây.

Giải phóng! Bọn cháu Trần Ðĩnh năm đứa cả trai lẫn gái, đứa lớn chưa đầy 17 tuổi kéo nhau xuống tàu vượt biển để thấy ông bác bao nhiêu năm đi theo Cách Mạng là không cần thiết, chỉ làm khổ đồng bào, bà con ruột thịt, tốn máu xương của nhân dân mà thôi!

Có một điều, cần phải nói ra đây, tác giả Trần Ðĩnh vì thói quen chữ nghĩa, trong chương ba mươi tám đã viết rằng, “Gia đình tôi mất liên hệ với nhau đã lâu” (ý nói cha con cách biệt). Thật ra không nghe nói chuyện cha con ông từ bỏ nhau, mà chỉ vì hoàn cảnh Bắc Nam không “liên lạc” được với nhau mà thôi!

Chiều nay ngồi viết riêng cho em,

“Chiều nay ngồi viết riêng cho em,”
Cho em bài hát êm đềm, trôi theo từng tiếng tơ mềm
Nhờ mây gửi đến riêng cho em
Cho em ngàn lời yêu thương, trôi trên nụ cười phong kín.”

(Từ Công Phụng – Bài Cho Em)

(1Cor 15: 1-2)

Trần Ngọc Mười Hai

Viết riêng cho em hay cho anh/cho chị lẫn mọi người, về một kinh-nghiệm để đời, thì ai ai cũng muốn viết. Bần đạo đây nhiều lúc cũng thế, nghĩa là rất muốn viết những điều như sau:

Hôm ấy, một ngày đẹp trời ở Úc, bần đạo “đến hẹn lại lên”, cứ lên và lên mãi đến tận Đại Học Công giáo ở Strathfield, Sydney để nghe cha giáo Kevin O’shea dạy tiếp về đề-tài “Đức Kitô lịch-sử ở Phúc Âm”. Trong lúc đợi giờ, bần đạo bèn đánh bạo đến hỏi thày thêm về chủ-đề “Tái Phúc-Âm-hoá Đời Sống” mà Đức Phanxicô đưa ra là có ý gì, thì được thày chỉ dạy bằng trao-đổi ngắn như sau:

Tái Phúc-Âm-hoá đời sống ư? Thì, cũng giống công việc lâu nay anh đang làm, đây thôi.

-Dạ, lâu nay con có làm được việc gì cho nên chuyện đâu, thưa cha!

-Đúng! Việc anh đang làm tuy chưa nên chuyện và thành chuyện thực sự, nhưng cũng là những cố-gắng dịch và viết về Phúc Âm/Tin Mừng theo ý-định của người viết, đó cũng là “Tái Phúc-Âm-hoá” một số người, đấy chứ!…

-Dạ, cho đến hôm nay con chỉ mới dịch một số đề-tài do cha đưa ra, mà thôi…

-À ra thế. Tôi có nghe anh em đây nói là: anh làm được khối việc cho nhiều người. Hãy tiếp tục làm những điều mình thấy là cần thiết, bởi lẽ công việc anh đang làm tuy chưa nhiều nhưng rồi ra, cũng sẽ giúp anh hiểu được ý-nghĩa và mục-đích do Đức Giáo-Hoàng Phanxicô chủ-xướng”.

Thú thật với bầu bạn và với tôi, đôi điều là: nghe bậc thày dạy giảng-giải, bần đạo đây thấy đầu óc mình càng mù tối thêm. Thành thử, suy đi nghĩ lại, cũng thấy ngại. Ngại, như ý/lời người nghệ sĩ khi xưa hàm-ẩn một tình-huống cũng tương-tự:

“Chiều nay ngồi viết riêng cho em,

Cho em bài hát êm đềm,

trôi theo từng tiếng tơ mềm.

Nhờ mây gửi đến riêng cho em,

Cho em ngàn lời yêu thương,

trôi trên nụ cười phong kín.”

(Từ Công Phụng – bđd)

Lại cũng thú thật thêm nữa, là: mỗi lần đưa ra vấn-đề thần-học nào về Kinh thánh, bần đạo đây vẫn có thói quen hơi bị kém là cứ tìm đến với thi-ca/âm nhạc để thêm hứng-thú. Nhưng âm-nhạc và thơ văn vẫn cứ chuyển-tải những ý-tứ cũng rất buồn như chuồn-chuồn-gẫy-cánh mùa thu lá rụng, nên mới cảm-thông câu ca tiếng hát của nghệ-sĩ:

“Mùa Thu chợt đến trong cô đơn,

Buồn bay lên mờ lấp khung trời chiều lạnh lùng.

Trời còn gọi tiếng mưa đêm nay,

Mưa ơi! Đừng làm buồn mắt em thơ ngây.

(Từ Công Phụng – bđd)

Buồn như “mưa đêm nay”, “buồn bay lên mờ lấp khung trời chiều lạnh lùng”, nên hôm nay lại xin trần-tình rất chân-tình cùng bạn đọc và bạn đạo, rằng: đôi lúc ngồi cắn bút nghĩ chuyện mình làm bấy lâu nay, lại cứ tưởng đó là chuyện “ruồi bu”, vô bổ, chẳng bõ biền gì, nên cũng ngại. Nhiều đêm nằm suy nghĩ, thấy dự-án này/khác cứ trào tuôn, muốn thực-hiện ngay tức thời, nhưng nghĩ lại thấy khá ngại, đành thôi.

Nay, ngoài chất kích-tác từ bậc thày ban phát, bần đạo đây lại thấy có người khác cũng cảm-kích cho đó là chuyện nên làm, và cần làm. Chẳng hạn như, vừa qua, bần đạo lại đã nhận được điện-thư của một bạn đồng-môn lớp dưới viết những giòng thân thương ngắn gọn, nhưng nhiều ủi an, như sau:

“Anh Tá ơi,

Cám ơn những bài viết của anh.

Em đọc mãi mà không hết.

Em thích nhất đoạn tóm tắt câu chuyện “Mười điều Chúa không hỏi, khi gặp ta…”

là đã thấm rồi.

Chắc có lẽ, em sẽ đọc đi đọc lại ít nhất thêm 2 lần nữa,

mới hiểu kỹ những gì anh viết.

Chúc anh cứ thế mà cứu thế bằng ngòi viết nhé.

-eLam”

(trích thư điện nhiều phấn-kích của cựu đệ-tử Cứu Thế Nguyễn Duy Lâm gửi hôm 07/9/14)

Đọc thư người em đồng-môn gửi, thấy mình như đang ngâm nga lời ca, lại những hát:

“Ô hay! Mùa Thu đến bao giờ?

Mưa bay buồn giăng mắc khung trời.

Người về từ trên đó để nhìn làn môi thắm.

Cớ sao em còn buồn, để mùa Thu đến rồi đi.”

(Từ Công Phụng ­- bđd)

Vâng. Vấn-đề đặt ra hôm nay, không phải để ngâm nga thấm thía các lời thơ hoặc lời thư, từ đâu đó hay nhạc-bản hoặc điện-thư mà là ý-từ của đấng bậc trên cao tít đã chủ-xướng đề-tài  để ta học-hỏi, nghiên cứu. Nghiên cứu Lời Chúa, có những ý chủ chứ không chỉ những lời lẽ trong trình-thuật truyện kể đầy nghĩa đen tuyền, vật vờ, khúc-mắc.

Nghĩ thế rồi, bần đạo bèn mạnh-dạn tiến vào nguồn thơ cũng là nguồn của những thư và thơ từ một bậc thày khác đã đề-nghị học trò và độc-giả của ông nghiên cứu Phúc-Âm cách bài-bản như sau:

“Buổi hội thảo mùa Xuân USCC hôm ấy ở New Orleans chừng độ tháng 6/2014 Tổng Giám Mục Joseph Tobin, CSsR chủ-quản bang Indianapolis Hoa Kỳ, có nói về đường-lối mà Đức Phanxicô đang theo đuổi, cho thấy một cung-cách cũng rất khác về tác-vụ thừa-sai rao-giảng Tin Mừng. Và từ đó, thách thức ta đừng làm nản lòng mọi người về hình-ảnh riêng-biệt của các vị lãnh-đạo mục-vụ thiết-lập ở Hoa Kỳ…” (Lm Kevin O’Shea CSsR, Giáo án giảng-dạy thần-học “A Colloqyu on Collegiality”, tổ-chức ở Sydney hôm 23/8/2014 tr. 46)

Được kích-thích bằng một cảm-hứng cũng khá lạ, bần đạo lại tìm đến một bậc thày khác cũng có nhiều kinh-nghiệm từng-trải ở bục giảng tại một số đại-học Công giáo ở Hoa Kỳ, lại có nhiều nhận-định rất nền-tảng, mà ông dùng làm lời tựa cho cuốn sách nổi tiếng của ông, có liên-quan đến công-trình nghiên-cứu về diện-mạo đa-dạng của Đức Giêsu.

Nhưng, để làm nhẹ bầu khí khô-khan, rất căng-dãn cũng nên chạy về với truyện kể để thư giãn, như sau:

“Truyện rằng:

Trong một vụ cướp ngân-hàng ở xứ miền đặc sệt tính-chất toàn-trị, tên cướp nọ hét lên:

-Tất cả hãy đứng im. Nên nhớ rằng, tiền bạc đây thuộc về Nhà Nước, còn mạng sống thuộc bọn người.

Mọi người nghe xong bèn lẳng lặng nằm ụp xuống nghĩ ngợi: Điều này được gọi là “Cách thức Khai-tâm để thay đổi lề-lối suy nghĩ cũng đã mòn”. Lúc ấy, có cô nhân-viên nằm trên bàn theo tư-thế gợi cảm để làm lạc hướng ý-đồ của các tay cướp. Tên cướp khác, thấy thế bèn hét lên:

-Cô kia làm ơn cư xử cho văn-minh một chút, bọn tôi là các tay cướp chứ không phải là những kẻ hiếp dâm, đâu!

Điều này, được các vị điều-nghiên đặt thành văn-vẻ, gọi là: Hành xử chuyên nghiệp – Tập-trung vào công việc mà mọi người được huấn-nghiệp!

Khi tên cướp quay lại, có tên cướp trẻ khác từng tốt-nghiệp với bằng chuyên-nghiệp Cao-học Quản-trị Kinh-doanh nói với tay cướp trọng tuổi hơn mới chỉ tốt-nghiệp trường phổ-thông, rằng:

-Đại ca à. Có cần đếm xem ta cướp được bao nhiêu không? Tên cướp già kia gằn giọng:

-Mày ngu lắm. Tiền nhiều thế, đếm thế chó nào được! Đợi đấy, tối nay báo/đài sẽ cho biết ta cướp được bao nhiêu, rồi sẽ rõ!

Điều này, cũng lại được gọi là: “Thực-chất của Kinh-nghiệm – Ngày nay kinh-nghiệm quan-trọng hơn giấy tờ, sách vở.

Khi băng cướp rời khỏi hiệntrường xảy ra, viên giám-đốc chi-nhánh ngân-hàng định gọi điện-thoại báo cho cảnh-sát biết, thì viên Kế-toán-trưởng đã vội vã chạy đến thì thầm vào tai ông  mà bảo rằng:

-Đợi đã sếp. Hãy bỏ 5 triệu hôm trước ta rút ra làm chuyện khác, coi như tổng-số bị băng đảng cướp mất.

Điều này được gọi là: Phương-sách Bơi theo Giòng nước – Chuyển đổi Tình-huống Bất-lợi Trở-thành Thuận-lợi.

Viên Giám-đốc tự nhủ:

-Tuyệt! Nếu mỗi tháng ta lại có một vụ cướp thì hay biết mấy!

Điều này gọi là: Loại bỏ những điều khó chịu – Hạnh-phúc là chuyện quan-trọng nhất!

Hôm sau, báo/đài truyền hình loan tin: bọn cướp đã lấy đi 100 triệu đô khỏi ngân-hàng. Các tay cướp nghe tin bèn thực-tế đếm chỉ thấy mỗi 20 triệu, bèn giận dữ nói:

-Chúng ta mạo-hiểm mạng sống mình chỉ để lấy 20 triệu, bọn lãnh-đạo kia chúng ngồi chơi xơi nước thế mà cũng cướp được của công đến 80 triệu. Đúng là học-hành có bằng-cấp, chúng mới được ngồi ghế ấy, chúng cướp tiền một cách siêu-đẳng hơn ta.

Điều này, theo sách vở được gọi là: Kiến-thức có giá-trị như vàng ròng…”

(truyện kể trích từ mạng toàn-cầu tuy mang tính hư-cấu, nhưng nhiều ý-nghĩa để ta suy)

Vâng. Theo người kể, thì: mỗi sự việc con người làm đều có ý-nghĩa sao đó. Ý-nghĩa tùy vào nghiên-cứu lẫn nhận-định của mỗi nhóm, mỗi người, cũng khác nhau.

Vâng. Đúng thế. Áp-dụng vào việc nghiên-cứu/học hỏi đứng-đắn có chất-lượng, lại cũng thấy nhiều đấng bậc, nhiều vị từng nghiên-cứu/học-hỏi có bài-bản, rất vững chắc. Trong công-cuộc điều-nghiên/học hỏi về sự việc gọi là “Tái Phúc-Âm-hoá đời sống gia-đình”, lại cũng thấy có vị, từng đề-nghị một phương-án cũng bài-bản.

Nhưng, do bởi tính-cách bài-bản của việc nghiên-cứu, đề nghị bạn và tôi ta lại hát:

“Giòng sông nào vắng xa chưa em

Ru lên hồn tuổi thơ này, thêm một lần chuốc u buồn

Hồn lên ngàn phím tơ vương êm

Ru em bằng lời ca đêm, ru lên tuổi buồn em mang.

Giòng sông rồi vắng xa thôi em

Đời trôi theo ngày tháng, mang nhiều kỷ niệm buồn

Tuổi thơ còn có mơ không em

Hay trôi miệt mài ngày tháng trong cô liêu.”

(Từ Công Phụng – bđd)

Những mong rằng, bạn và tôi, ta có nghiên-cứu/học-hỏi nhiều về “Tái Phúc-âm-hoá đời sống” cũng đừng “miệt mài ngày tháng trong cô-liêu”. Đừng “ru em bằng lời ca đêm”, “ru lên tuổi buồn em mang”. Có như thế, ta mới hăng-say nghiên-cứu, học-hỏi những điều khá khó, như sau:

“Học hỏi/nghiên cứu về Đức Giêsu qua Phúc-Âm, tôi đề-nghị ta nên xem xét Tân-Ước không chỉ như văn-bản riêng-biệt/độc-lập xuất-hiện ở bên ngoài thế-giới Do-thái, nhưng nên nhìn đó bằng lăng-kính của văn-minh Do-thái cùng thời, tức: cội-nguồn của Giáo-Hội thời nguyên-thủy.

Dĩ nhiên, ý-nghĩ sử-dụng các văn-bản của Do-thái vốn có đi từ Kinh thánh (tức niên biểu khoảng từ 1000 đến 200 năm trước Công Nguyên) ngang qua văn-chương liên-ước (vốn có niên-biểu từ 200 đến 100 năm trước Công nguyên) tức là: từ thời Mishna cho đến thời-kỳ ra sách luật Talmud của các rabbi (tức: niên-đại 200 sau Công-nguyên). Khi ấy, việc diễn-giảng Phúc Âm cũng không là công-tác mới mẻ gì, nhưng vào thời ấy cũng đã thấy nhiều vị thức-giả đã sử-dụng Tân-Ước như công-cụ học-hỏi tính uyên-bác, độc-đáo của Kinh thánh suốt 3 thế-kỷ đầu, và đặc biệt hơn nữa, là các thế kỷ mới về sau.

Tuy nhiên, phần lớn các học-giả đều đã tiếp-cận chủ-đề xảy ra với hầu hết các đấng bậc của Giáo-Hội, thì: một cách minh-nhiên hay mặc-nhiên đi nữa, các vị ấy đã đưa dẫn vào việc phân-biệt phẩm-chất có khác biệt giữa Tân-Ước và các văn-bản ngoài Kinh-thánh ở người Do thái. Đối với các vị ấy, văn-chương Do-thái đã tạo được nền-tảng, qua đó các học-giả uyên-bác ở thời trước đã lập ra Tân-Ước lại vượt lên trên nhiều văn-bản khác nhờ tính cao-siêu của Bản-văn Kinh-thánh này. Nói cách khác, các học-giả thời ấy vẫn coi Phúc Âm như bậc cha ông, còn các sách hoặc văn bản “ngoài luồng” khác của người Do thái không phải là Tân-Ước, chỉ được coi như bậc tôi đòi, phụ-lệ nếu có nhắc đến, thì cũng chỉ là khi được Truyền-thống cho phép, thôi.

Ngày nay, có nghiên-cứu học-hỏi, ta cũng nên sử-dụng phương-án nào dân-chủ hơn, tức: hãy để mỗi bên có quyền ăn nói đồng-đều. Tôi đây vốn là sử-gia, nên vẫn coi Đức Giêsu, coi Giáo-Hội tiên-khởi và Tân-Ước như thành-phần và một phần của Do-thái-giáo ở thế-kỷ đầu đời, hầu tìm cách đọc văn-bản ấy theo tư-thế “tự-thân”, hơn là qua cặp mắt của một thần-học-gia vẫn luôn đặt-để trong điều-kiện nào đó; rồi từ đó, lại sẽ bị ảnh-hưởng nhiều suốt hai thiên-niên kỷ vừa rồi, với niềm tin Kitô-giáo có sự chỉ-đạo của Giáo-hội.

Nói khác đi, khi ta đạt được cung-cách khám-phá ra ý-nghĩa của ý và lời trong ngôn-ngữ gốc mà người thời đó vẫn nói, tức là: để xem người nghe vào thời đó hiểu/biết sự việc như thế nào, thôi. Ngôn-ngữ do Đức Giêsu và đồ-đệ Ngài vốn là người Galilê sử-dụng thời ấy, lại là tiếng Aram, một ngôn-ngữ của người Do-thái na ná giống như tiếng Hip-ri, vốn được phần đông người Do-thái gốc Palestin vẫn sử-dụng cách rộng-rãi. Trên thực-tế, Đức Giêsu huấn-dụ mọi người và biện-bạch với bạn bè hoặc những người kình-chống Ngài, lại chỉ là tiếng Aram thôi. Và, hình-thức đích-thực về nguyên-ngữ nơi giáo-huấn của Đức Giêsu, ngoại trừ độ hơn chục lời Ngài nói bằng tiếng Aram, là được giữ lại trong Phúc-Âm thôi, còn lại đều đã nhanh chóng biến mất.

Giả như ai đó có được bản-văn Phúc Âm viết bằng tiếng Aram, thì việc ấy cũng không tồn-tại lâu dài, và chắc chắn ngày nay ta không còn giữ được thế. Cùng vào thời ấy, Giáo hội tiên-khởi đã thành-công trong việc giao-dịch với thế-giới ngoài đạo (tức: không phải là người Do-thái) bằng tiếng Hy-Lạp, thế nên toàn-bộ thông-điệp do các tông-đồ chuyển tải, như Phúc-Âm hoặc các thư luân-lưu và tài-liệu nào khác được ghi bằng tiếng Hy-Lạp, tức là hình-thức sớm-sủa nhất của Tân-Ước ta vốn có.

Nhưng, Tân Uớc viết bằng tiếng Hy-Lạp lại chỉ là “bản dịch” tư-tưởng chân-phương cũng như ý-kiến của Đức Giêsu và đồ-đệ Ngài suy-nghĩ hoặc nói ra bằng tiếng Aram, tức: bản dịch không là toàn-bộ ngôn-ngữ cũng rất khác, mà là bản tháp-ghép hệ tư-tưởng của Phúc Âm được đưa vào môi-trường văn-hoá và đạo-giáo rất xa lạ với thế-giới La-Hy bên ngoài Đạo. Thành thử ra, công việc của nhà nghiên-cứu, diễn-giải trước nhất, là: phải kiếm-tìm cung-cách trở về với Đức Giêsu-Do thái đã từng nói cho những người Do-thái dõi theo chân Ngài qua tương-quan/trao-đổi bằng tiếng nói quen-thuộc với người Do-thái. Từ đó, người học-hỏi nghiên cứu còn phải biết xem xét lời lẽ nào được gán cho là do Đức Giêsu nói ra, và giáo-huấn về Đức Giêsu trong Tân Ước viết bằng tiếng Hy Lạp ngõ hầu xem có gì đổi-thay hoặc triển-khai ý-nghĩa hoặc ngay cả hiện-tượng ngầm bóp méo từng nổi lên từ động-thái đề ra tư-tưởng bằng mạch văn mang tính văn-hoá Hy-Lạp…” (xem Geza Vermes, The Changing Faces of Jesus, Penguin Compass 2002, tr. 2-3)

Chỉ bấy nhiêu lập-trường đề ra cho người nghiên-cứu việc Phúc-Âm-hoá đời sống thôi, thì bần đạo đây thấy cũng khá ngại. Ngại, không vì thấy đó là chuyện rắc-rối đòi nhiều thời-gian và công-sức hơn nữa. Nhưng, ngại ở chỗ: ý-thức về sự cần-thiết của động-thái “Phúc-Âm-hoá đời sống” theo cách nào đó, cho nhẹ nhàng/dễ chịu, thôi.

Như thường lệ, mỗi khi làm thế, bần-đạo vẫn có thói quen không được tốt cho lắm, là: hay chạy về với thơ văn/âm-nhạc hoặc truyện kể để lấy hứng, rồi học tiếp. Thi-ca và âm-nhạc hôm nay vốn được trích-dẫn, chỉ quanh-quẩn những ý/tình cũng hơi bị “chênh” hoặc “trệch” khỏi chủ-đề mình bàn. Thôi thì, để gợi hứng, nên ta cũng nên hài lòng với những gì mình có thể hoặc không thể làm được, mà thôi.

Có thể và không thể, là chuyện hôm nay bần-đạo tìm ra được nguồn hứng có những câu ca, đã vừa hát lại vừa để coi xem có ai phản-đối, hay không. Không thấy gì, nên lại đề nghị bà con ta trở về với ca-từ nhè nhẹ, sau đây:

“Chiều nay ngồi viết riêng cho em,

Cho em bài hát êm đềm,

trôi theo từng tiếng tơ mềm.

Nhờ mây gửi đến riêng cho em,

Cho em ngàn lời yêu thương,

trôi trên nụ cười phong kín.”

(Từ Công Phụng – bđd)

Cũng có thể, là: bạn bè/người thân của bần đạo không mấy hài lòng về giải-pháp bất chợt và tạm thời cho qua ngày. Thế nên, bần đạo lại nhớ đến lời thánh-nhân hiền lành, từng nói nhiều lời khích-lệ cũng dễ nể, để bạn và tôi, ta theo đó mà sống và hành-động cho đúng phép. Như thế, phải chăng gọi đó là: “tái Phúc Âm-hoá cuộc sống” của riêng ta? Phúc-Âm-hoá đời sống của chính mình, là: về mà nghe lại những lời-lẽ mình từng nghe/từng biết vào thời trước, rất như sau:

“Thưa anh em,

tôi xin nhắc lại cho anh em

Tin Mừng tôi đã loan báo

và anh em đã lãnh nhận cùng đang nắm vững.

Nhờ Tin Mừng đó,

anh em được cứu độ,

nếu anh em giữ đúng như tôi đã loan báo,

bằng không thì anh em có tin cũng vô ích.”

(1Cor 15: 1-2)

Nhắc nhớ và nhắc nhở thế rồi, lại sẽ hy-vọng rằng: bậc thày dạy sẽ không đòi-hỏi nhiều hơn nữa, để ta sống. Bởi, nhắc nhớ và nhắc nhở, là: nhắc mãi rằng: “Nhờ Tin Mừng” ta được cứu-độ, ta mới “giữ đúng (lời thánh hiền) loan báo”; bằng không thì, ta “có tin cũng vô ích”, thôi.

Vâng. Rất đúng. Nhắc nhớ và nhắc nhở bằng lời nói hay truyện kể vẫn là cung-cách của dân con trong Đạo sống ở đời có quá nhiều việc và chuyện làm ta sao lãng hoặc quên đi việc “Phúc-Âm-hoá đời sống” của riêng ta. Nhắc nhớ và nhắc nhở, còn nhắc bằng lời khuyên-răn của bậc thày khác, từng có nhận-định về tình-hình nghiên-cứu về Đức Giêsu lịch-sử như sau:

“Rất có thể, là: các vấn-nạn khúc-mắc được đề cập rất nhiều, lại đã tìm ra cơ-ngơi nơi thế-giới của đại-học-đường, bỏ rời thế-giới chính-thức của Giáo-hội bằng thứ ngôn-ngữ tư-riêng và khác-biệt như một sưu-tập đầy những vấn-nạn. Cái khó của sứ-vụ thừa sai nay cho thấy là: càng ngày càng có nhiều người học-thức hơn xưa và cũng có rất nhiều người nay suy-tư theo ngôn-ngữ và/hoặc cung-cách “đại-học” cả khi họ phân-tách câu nói hoặc tạo tiết-tấu một cách khác mọi người.” (x. Lm Kevin O’Shea CSsR, Focus on Historical Jesus Studies with Special Reference to ‘Jesus of Nazareth’ by Joseph Ratzinger/Pope Benedict XVI, August 2007, tr. 65)

Trên thực tế, rất có thể là như thế. Càng có thể hơn, lại cũng nhắc nhở và nhắc nhớ chính mình và mọi người về công-tác “Tái Phúc-Âm-hoá đời sống”, nghĩa là sống địch-thực cuộc sống luôn thực-thi lời dạy từ Tin Mừng trong nguyện cầu.

Vào với ví-dụ cụ-thể thì: khi lần chuỗi Mân Côi, cũng nên suy về lời nguyện/chúc như: “Nguyện Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể-hiện dưới đất, cũng như trên trời”. Và, ở kinh Kính Mừng, ta lại có lời nguyện/chúc khác, như câu: “Đức Chúa Trời ở cùng Bà”, tức: ở cùng chúng ta, để rồi lại cũng kết thúc bằng một lời tụng/chúc, như sau: Sáng Danh Đức Chúa Cha, và Đừc Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần…” và lời xưng cuối là tiếng “Amen” tức: những ước và mong cho mọi sự xảy ra, sẽ tốt đẹp như vậy.

Cụ thể của mong ước, là ước mong sao tinh thần và quyết tâm “tái Phúc-Âm-hoá đời sống” của mình và của người, sẽ thành hiện-thực. Thêm nữa, nhắc nhở và nhắc nhớ chính ta và mọi người về chủ trương “Tái Phúc-Âm-hoá đời sống” chính mình và mọi người, vào mọi lúc. Chứ không chỉ trong vòng một năm thánh, mà thôi.

Nhắc nhớ và nhắc nhở, như thể vào lần tấn-phong linh-mục cho các phó-tế, Giám mục chủ-quản hoặc chủ-trì buổi lễ vẫn nhắc nhớ và nhắc nhở các tân-chức cách riêng, và mọi người nói chung, là: “Hãy nhớ mà sống điều mình giảng rao, chứ đừng rao giảng những điều mình từng sống!” Nếu dân con nhà Chúa, ở đây và bây giờ đều làm thế, thì công cuộc “tái Phúc-Âm-hoá đời sống” Kitô-hữu, cũng sẽ đạt.

Để minh hoạ cho quyết-tâm “tái Phúc-Âm-hoá đời sống” của mình, theo đề-nghị của thánh-hội năm 2014 này, dưới đây là truyện-kể có thể coi đó như lời khuyên khi ai đó quyết-tâm “tái Phúc-Âm-hoá cuộc sống”. Truyện kể, cũng nhè nhẹ như vẫn diễn ra ở nhiều nơi/nhiều chốn, nhất là ở khung trời nào đó bên phương Đông, phương Đoài như sau:

Trước nhất là lời khuyên-răn:

“Nếu bạn muốn buông xuôi một vài thứ, không còn quyết-tâm đeo đuổi như lúc đầu còn hăng-say, thì bạn nên đọc 2 câu chuyện dưới đây. Hy vọng, nó sẽ giúp ích được cho bạn điều gì đó.

Sau đến là truyện kể, nối tiếp những hai lần, rằng:

“Có cô gái nọ tìm đến một nhà sư, để rồi hỏi:

– Thưa thầy, con muốn buông một vài thứ mà không thể, con mệt mỏi quá.

Nhà sư đưa cho cô gái 1 cốc nước và bảo cô cầm lấy, đoạn ông liên tục rót nước sôi nóng vào cốc, nước chảy tràn ra cả tay, làm cô bị phỏng, cô buông tay làm vỡ cốc.

Lúc này nhà sư từ-tốn nói:

– Đau rồi tự khắc sẽ buông!

Và tiếp theo đó, là lời bàn của người kể, rất như sau:  “Vấn đề là, tại sao phải đợi cho tổn thương thật sâu, rồi mới buông?” Câu truyện tiếp theo cũng kể về việc nắm và buông, như sau:

“Có một chàng trai đến tìm nhà sư, và anh hỏi:

-Thưa thầy con muốn buông xuôi vài thứ nhưng con do-dự quá, con mệt-mỏi vô cùng.
Nhà sư đưa anh ta 1 cái tách và bảo anh cầm, đoạn ông rót đầy tách trà nóng vừa mới pha xong.
Chàng trai cảm thấy nóng quá nhưng vẫn không buông tay, mà chuyển từ tay này sang tay kia, cho đến khi nó nguội đi rồi uống và nhận thấy rất ngon. Lúc này nhà sư mới từ-tốn nói:

– Nếu cứ đau là buông, thì con đã bỏ lỡ những thứ tốt đẹp sau đó rồi!

Và, người kể lại cũng có lời sau đây: “Vấn đề là tại sao cứ đau là phải buông trong khi còn có thể làm cho nó tốt đẹp lên.

Và rồi, người nghe cũng có thêm lời bàn khác theo kiểu “Mao Tôn Cương” như sau: “Bài học rút ra là thế này: Trong cuộc đời vốn dĩ phức tạp này, chỉ ta mới biết lúc nào nên cầm lên và lúc nào thì bỏ xuống các sự việc của chính mình.” (Truyện kể sưu tầm trên mạng, mới đây thôi).

Sưu tầm truyện kể, cũng chỉ để minh-hoạ những gì mà bạn và tôi, ta muốn nói và muốn nghe, khi quyết-tâm. Như, quyết-định để tâm thực-hiện chủ-trương do Đức Giáo Hoàng đề xướng và coi đó như tôn-chỉ để dân con trong Đạo thực-hiện vào năm 2014 này.

Kể thế rồi, nay ta lại cứ hiên ngang đầu cao mắt sáng hát lên lời ca tuy hơi buồn, nhưng trong đó vẫn có chút gì vui vui, nếu người người vẫn cứ quyết tâm “viết riêng cho em” những điều sau đây:

“Chiều nay ngồi viết riêng cho em,

Cho em bài hát êm đềm,

trôi theo từng tiếng tơ mềm.

Nhờ mây gửi đến riêng cho em,

Cho em ngàn lời yêu thương,

trôi trên nụ cười phong kín.”

(Từ Công Phụng – bđd)

Viết riêng cho em hay cho ai đó, cũng cứ nên viết “ngàn lời yêu thương”. Để rồi lời ấy sẽ cứ gọi là “trôi trên nụ cười phong kín”, rất thực-thà.

Thế đó là ý-nghĩa của lời ca và cũng là đôi điều tâm niệm xin mạn phép gửi đến bạn và đến tôi, trong ngày này. Và, những ngày sắp tới, suốt cõi đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn muốn gửi đến tất cả

Những lời viết riêng

Rất yêu thương

Trong cõi đời này.

Ném nhân-cách vào ngàn sâu ký-ức

“Ném nhân-cách vào ngàn sâu ký-ức,”

Trát bùn tanh lên mặt đã bao năm”.

(dần từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mt 22: 15-21

Mai Tá diễn dịch

Ném sao được nhân-cách của mọi người, như nhà thơ từng cảnh-báo. Nhân-cách và nhân-vị của con người chỉ có thể trao-trả cho con người, dù người ấy ở nơi cao tít chốn cầm-quyền cai trị muôn dân. Nhân-cách và nhân-vị của con người vẫn là ý-tưởng chỉ-đạo mà khi xưa bậc thánh-hiền đã ghi lại nơi trình thuật, để cảnh-giác người nghe biết Tin-Mừngh CHúa bảo ban.

Trình thuật Tin Mừng hôm nay, thánh-nhân hiền-từ lại cũng ghi chép lời bảo-ban mà các nhà hiền-triết khi xưa tóm gọn bằng một triết-thuyết rất “con người” qua nhận định: “Sống trước đã, triết lý sau”. Triết lý sống và sống triết lý, hoặc chính trị-tà trị vẫn là cách thế, để sống. Sống đúng đường lối, hợp với đạo làm người.

Chính vì thế, nên: dân thường ở huyện, nay dù vẫn còn ở trong hay đã ra khỏi cộng-đoàn kẻ tin vào Đức Chúa, lại vẫn nghĩ: Ngài chẳng khi nào uỷ thác cho Giáo hội trọng trách kinh-bang tế-thế, hoặc chính-trị nào hết, để hỗ-trợ cho lập-trường của mình, dù nhiều người cứ viện-dẫn đoạn trình-thuật Tin Mừng hôm nay, để làm bằng.

Nhận thức ý-nghĩa cũng như bối-cảnh của đoạn Tin mừng nay viết lên, chắc hẳn chẳng ai muốn cho Giáo hội cứ “ru rú” ngồi trong “góc khuất” xa khỏi cửa để suy-tư, dẫn dụ nhau về những thực-tại của chân-lý vĩnh-cửu. Và, cũng chẳng thấy ai reo hát lời thánh vịnh cũng rất xưa, nhưng chỉ lưu tâm để ý đến thánh ca hợp thời đại, thôi.

Thời Chúa sống, ta hẳn cũng rõ biết nhiều lãnh đạo hội đoàn vẫn tự hào cho rằng mình thuộc giống giòng đạo hạnh, siêng chăm như nhóm Biệt Phái, rất nhiệt thành. Biệt Phái hay Nhiệt thành, là đám người mộ đạo quá mức bình thường, được tổ chức rất qui củ, lớp lang vào cuối thời kỳ người La Mã còn đô hộ Do thái.

Một trong những cố gắng mà nhóm Nhiệt thành cổ vũ đến cùng là duy trì việc nộp thuế cho đám dân quân đô hộ. Lúc ấy, chắc cũng có một số người dám nghi ngờ Đức Kitô thuộc nhóm này nên mới tìm đến gạn hỏi, đặt bẫy. Nhưng, Ngài luôn chứng tỏ là Ngài đứng về phía những người nghèo hèn, ốm đau bệnh tật,  những nữ phụ tai tiếng và cả đám người sống bên lề xã hội nữa.

Tin Mừng cho thấy Đức Kitô luôn công kích các tay đầu nậu tôn giáo đương thời. Ngài cũng đã nhiều lần khuấy động, thức tỉnh bọn người còn ngủ vùi tại những nơi Ngài đặt chân đến. Ngài chống đối mọi hình thức bạo động, khủng bố; luôn khuyên dạy các đồ đệ dõi theo bước chân dài truyền giáo, biết quên mình đi mà yêu thương và nguyện cầu cho những kẻ hãm hại chính mình. Các tay ma đầu, tác oai tác quái luôn rình rập sơ hở để báo cáo lấy điểm với phe nắm quyền.

Đức Kitô còn muốn mọi người phải tỏ ra công minh chính trực như Đức Chúa vẫn trông chờ nơi thế giới phàm trần. Đã nhiều lần, Ngài hằng minh định rằng không nên dựa vào vũ khí hoặc sự khiếp sợ, trả thù, mà chỉ có tình thương mới có thể biến đổi được tâm can những người làm chính trị, nắm giữ quyền hành.

Chính trị của Đức Chúa chính là tình yêu ngự trị chứ không phải thứ tà trị hay tà ma, ác thần đang còn ngự trị nơi lòng dạ của kẻ xấu. Dứt khoát không thể nghi ngờ được là Ngài thuộc nhóm “Nhiệt thành” bợ đỡ đám quỷ ma thống trị.

Tin Mừng hôm nay diễn tả, Đức Kitô, thay vì xoáy mòn, đảo lộn uy quyền của người trần thế, ngược lại, Ngài vẫn nâng đỡ và yểm trợ họ. Ngài không chỉ làm có thế, mà còn làm hơn thế nữa. Ngài không chỉ nói “Những gì của Xêda, hãy trả lại cho Xê-da” mà còn thêm: “và đem về với Đức Chúa những gì thuộc về Đức Chúa”. Chân lý thực tiễn này gồm tóm mọi vua quan, tiến chức nơi trần thế.

Mọi quyền năng, đất nước, mọi giới chức nắm giữ quyền hành, xuất tự Đức Chúa, phải được đưa về với Đức Chúa. Điều này có nghĩa: với tư cách là con dân của Đức Chúa, chúng ta chẳng thể nào đem nghĩa vụ ta có đối với trần thế để rồi thu về một mối, trao tất cả cho mình Đức Chúa mà thôi. Làm như thế là sai lầm và còn nguy hiểm nữa.

Cứ liên tưởng đến những chương sử đen tối của thế kỷ vừa qua, sẽ thấy nhiều chuyện trái khoáy đã xảy ra với cả những người công chính chuyên đi lễ hằng tuần mà vẫn chẳng biết kết hợp hài hòa giữa thói quen giữ đạo ngày của Chúa với trách nhiệm ngoài đời vào ngày trong tuần.

Trách nhiệm ở ngoài đời tức là thứ chính trị rất chính đáng để ta có thể mãi mãi ngự trị trong tình yêu của Đức Chúa. Có lẽ vì thiếu kết hợp hài hòa mà sự dữ, quái ác vẫn cứ ngang nhiên tồn tại.

Các bậc trưởng thượng trong Giáo hội lâu nay phụ trách việc công bố Tin Mừng cho người trần thế vẫn có bổn phận dùng mọi cơ cấu chính trị, hoặc diễn đàn thế giới để làm công tác mà Bề Trên giao phó. Đó là công tác phối hợp hài hoà sao cho Tình yêu của Đức Chúa với con người được thể hiện với toàn thể tạo vật và người đời. Đời cũng như Đạo. Bên trong cũng như bên ngoài dân được chọn.

Bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Ysaya đã sử dụng cùng một thông điệp tương tự để nhắc nhở chúng ta về Tình yêu của Đức Chúa khi Ngài gọi chúng ta bằng tên riêng của mình. Đôi lúc, có thể có người trong chúng ta sẽ không đồng ý với các bậc trưởng thượng trong Giáo hội và e ngại rằng các đấng không nắm được thông tin chính xác, nên đôi lúc có thể đã dẫm chân lên nhau, vượt phạm vi, giới hạn của quyền bính.

Nếu quả có thế, chúng ta cũng nên nói cho các vị ấy biết. Đồng thời cũng phải nâng đỡ, hỗ trợ để các đấng có được một lập trường thông thoáng, biết uyển-chuyển khả năng suy xét, phán đoán của mình.

Tuy nhiên, cũng đừng bao giờ nhẹ dạ nghe theo lời dụ dỗ của những kẻ phóng đãng chỉ muốn Hội thánh xa rời truyền thống chân chính của Đạo. Những người này chỉ cù cưa biện luận, muốn đưa ra một định hướng phóng túng khiến ta dễ nghe theo, bằng những bánh vẽ đủ mầu sắc đa dạng hoặc còn tô điểm thêm bằng những ưu tiên hấp dẫn, vẫn ban phát cho cộng đồng nhân loại.

Nếu Hội thánh tỏ dấu không muốn tham dự tích cực vào những chuyện chuyển đổi xu hướng xấu xa, thì việc Đức Kitô đã sống, chết đi và sống lại từ cõi chết cho con người sẽ trở nên hư luống, vô bổ. Điều chắc chắn là: chúng ta vẫn phải đem đến cho đời (tức Xê-da) những gì người đời có quyền được hưởng nhân danh mọi tốt lành, của chung.

Nói cách khác, mọi người vẫn phải tỏ ra trung thành với Đức Chúa, là Đấng đã kêu mời tất cả các Xê-da trên trần thế, hãy cứ trông chờ vào những gì mình đã thực hiện hoặc chưa kịp đưa vào hiện thực.

Bởi vì, lúc ấy có thể chúng ta sẽ được yêu cầu giải thích lý do tại sao vẫn để cho một số người rời bỏ cộng đoàn. Vẫn còn có những người bỏ cuộc, thiếu kiên nhẫn trông chờ quà tặng của Đức Chúa, ngay từ đầu.

Cuối cùng, dù ta có tự hào mình thuộc thành phần đứng đắn hoặc chính quy, thì việc ra đi hoặc phân tán cộng đoàn đều là dấu hiệu không tốt; đều là thứ chính trị trái với kỳ vọng của mọi người. Chí ít, đối nghịch với lời truyền của Đức Chúa.

Vì thế, chính trị chẳng bao giờ chống đối ý định của Đức Chúa. Chí ít, là của Đạo. Đó chỉ là tà trị.

Trong cảm-nghiệm những gì Chúa tỏ-bày, tưởng cũng nên ngâm lại lời thơ ở trên, rằng:

“Ném nhân-cách vào ngàn sâu ký-ức,

Trát bùn tanh lên mặt đã bao năm.

Mới ngoài hai mươi mà trầm-trọng chứng đau lưng,

Bởi luồn cúi mỗi ngày dăm bẩy bận”.

(Nguyễn Tất Nhiên – Lần Cuối)

Nhà thơ, luôn ghi nhớ sự việc thiếu nhân-cách nơi đám người “nhiệt-thành”/“báng bổ” chỉ biết luồn cúi, nịnh-bợ giới cầm quyền, mất nhân-cách. Thứ nhân-cách đầy tính-chất đạo-hạnh của bậc hiền-nhân quân-tử đà biến dạng cả chốn thiền-môn, rất Đạo.

Trình-thuật, nay còn là lời cảnh-tỉnh gửi mọi giới, ở khắp nơi, để người người lo chỉnh-đốn sống đích-thực thứ triết-lý nhân-hiền nhà Đạo, rất chính-mạch còn tồn-tại. Và, đó còn là lời nhắn-nhủ “cứ trả về cho Thiên-Chúa, những gì là nhân-lành/hạnh-đạo của Thiên-Chúa, để người người nhờ đó sống yên vui, suốt đời mình.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá diễn dịch

Hầu hết người Việt, người Hoa đều muốn theo tư bản

Hầu hết người Việt, người Hoa đều muốn theo tư bản
October 09, 2014

Nguoi-viet.com


WASHINGTON DC (NV) .-
Lòng ham muốn của người dân có thị trường tự do ở những nước cộng sản như Việt Nam và Trung Quốc cao hơn những nước tư bản truyền thống như Mỹ, Anh quốc, theo tổ chức Pew nghiên cứu.

Một phụ nữ và một ông bước vào một khu thương xá ở Bắc Kinh. Lòng ham muốn thị trường tự do rất cao ở Việt Nam và Trung Quốc so với các nước khác. (Hình: AP Photo/Ng Han Guan)

Có đến 95% các người dân ở Việt Nam được phỏng vấn nói rằng hầu hết mọi người sẽ khá hơn nếu sống trong nền kinh tế thị trường. Trong khi đó, có 76% người Trung Quốc cũng nghĩ như thế, theo cuộc khảo cứu dư luận toàn cầu của tổ chức Pew thực hiện với các cuộc phỏng vấn gần 49,000 người trên khắp thế giới.

Kết quả như thế chắc chắn làm giới lãnh đạo các chế độ độc tài đảng trị tại Việt Nam cũng như tại Trung Quốc khó chịu dù họ thừa biết nhân dân chẳng ưa gì guồng máy thống trị.

Tại Việt Nam, nhà cầm quyền cố gắn cái đuôi “Xã hội chủ nghĩa” vào chủ trương theo đuổi kinh tế thị trường khi chen chân vào chuỗi sản xuất và tiêu thụ toàn cầu.

Chỉ vì cái chủ trương đầu ngô mình sổ ấy mà nền kinh tế Việt Nam ngày càng tụt hậu so với các nước khu vực, khoảng cách giầu nghèo giữa tầng lớp cai trị và tham nhũng bắt tay với đám “tư bản thân hữu” so với đại đa số quần chúng thì càng ngày càng cách biệt lớn lao.

Pew là một tổ chức nghiên cứu xã hội trụ sở ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn do tổ chức Pew Charitable Trusts tài trợ thực hiện các dự án nghiên cứu khác nhau, trong đó có dự án nghiên cứu thái độ sống của người ta trên thế giới (Global attitudes project).

Sự mở rộng giao thương giữa các nước đã kích thích sản xuất và tiêu thụ toàn cầu, giúp tăng trưởng kinh tế nhanh ở một số nước trong đó có Việt Nam và Trung Quốc vốn là những nước nông nghiệp và thiếu ăn. Nhờ vậy, nhiều người dân đã thoát cảnh thiếu đói thường xuyên. Một số người trở thành tầng lớp trung lưu trong xã hội, thậm chí giầu có nổi bật trong xã hội.

Trong khi đó, nền kinh tế tại những nước tư bản cố cựu như Hoa Kỳ và Anh quốc thì tăng trưởng rất thấp hoặc có những giai đoạn đối phó với suy thoái kinh tế rất khó khăn. Nạn thấp nghiệp cao và lương bổng thì cũng không tăng.

Những kinh nghiệm sống ở những nước đang phát triển, muốn thoát ra khỏi tình trạng chậm tiến và tại những nước vốn có nền kỹ nghệ tiên tiến và mức sống khá cao, có thái độ khác nhau về thị trường tự do hiện nay cũng như tương lai.

Đến 65% những người ở các nước kỹ nghệ tiên tiến nói rằng con cháu của họ sẽ nghèo khổ hơn cha mẹ của chúng. Nhưng trái lại, tại những quốc gia lương bổng thấp hay trung bình, ít nhất là phân nửa những người được phỏng vấn cho rằng con cái của họ sẽ khá hơn cha mẹ.

Sự lạc quan về tương lai cao nhất là tại Việt nam khi có đến 94% người ta cho rằng đời con họ tốt đẹp hơn, trong khi tỉ lệ lạc quan 85% tại Trung Quốc. Trong khi đó, chỉ có 30% người ở Hoa Kỳ, 23% người Anh Quốc, 15% người ở nước Ý, 14% người Nhật, và 13% người Pháp tiên đoán tương lai sẽ tốt đẹp hơn cho đám trẻ con của họ hiện giờ.

Trên toàn thế giới, đến 60% người được phỏng vấn nói rằng khoảng cách giữa giàu và nghèo là “vấn đề rất lớn” ở nước của họ. Thiếu công ăn việc làm được coi là vấn đề nghiêm trọng hơn. Nói chung, có đến 66% người trên thế giới cho là người ta sẽ khá hơn dưới chế độ tư sản cho dù có khoảng cách giữa giàu và nghèo với một số người.

“Người ta sẵn sàng chấp nhận một mức độ bất cân bằng nào đó để có thị trường tự do”. Bà Katie Simmons, một chuyên viên nghiên cứu cấp cao của tổ chức Pew phát biểu.

Quan ngại về sự bất cân bằng (khoảng cách giàu nghèo) lên cao nhất ở Hi Lạp và Lebanon. Đến 84% người được phỏng vấn ở hai nước này coi đó là vấn đề lớn trong khi tại Nhật Bản chỉ có 28%.

Dù xếp hạng sau Việt Nam và Trung Quốc về ưa chuộng thị trường tự do, người Mỹ vẫn tin tưởng vững chắc rằng mọi cá nhân chịu trách nhiệm cho chính số phận của mình. Tại Hoa Kỳ, 57% người ta (chỉ đứng sau Venezuela với 62%) từ chối ý tưởng cho là “sự thành công trong đời sống được quyết định bởi các lực lượng bên ngoài sự kiểm soát của chúng ta”.

Người Mỹ cũng nhiều phần (73%) tin tưởng hơn các người ở những quốc gia khác nói rằng nỗ lực làm việc rất quan trọng để khá hơn trong đời sống.

Được biết, Pew phỏng vấn khảo sát với 48,643 người lớn tại 44 nước trên thế giới bằng cả hai phương pháp là qua điện thoại và phỏng vấn trực tiếp từ Tháng Ba đến Tháng Sáu.(TN)

Bàn Thờ Cho Người Nô Lệ

Bàn Thờ Cho Người Nô Lệ

Du khách đến viếng thăm nước Tanzania bên Phi-Châu không thể không dừng chân trước Nhà Thờ chính tòa Anh-Giáo tại Zanzibar.

Bước vào nhà thờ, người ta có thể đọc ngay lời chào đón được viết trên tường như sau: “Bạn đang ở trong nhà thờ chính tòa của Ðức Kitô.  Nơi đây đã từng là chợ buôn người nô lệ”.

Ngôi thánh đường này đã được xây ngay trên chính khu đất mà ngày xưa người da trắng đã tập trung không biết bao nhiêu người Phi-Châu để buôn bán đổi chác như những con thú.

Ðặc biệt nhất là bàn thờ của ngôi thánh đường:  đây là nơi mà trước khi được bán, người nô lệ phải chịu đánh đòn.  Sở dĩ người ta phải dùng roi để quất vào người nô lệ là để xem người ấy còn khỏe mạnh không.

Cột trụ ở ngay lối vào nhà thờ là một cây thánh giá gỗ có mang tên của nhà giải phóng Livingstone, một nhà thám hiểm người Anh, đã hô hào chống lại cuộc buôn bán vô nhân đạo này.  Cây thánh giá mang tên ông đã được chạm trổ từ gốc cây nơi ông thường đứng để hô hào cuộc chiến bãi bỏ việc buôn bán người nô lệ.

Mãi đến ngày 06 tháng 6 năm 1873, việc buôn bán người nô lệ mới chính thức bị cấm chỉ bằng một đạo luật.  Kể từ đó, phẩm giá đích thực của người da đen mới được nhìn nhận.

Cũng như một Đan-viện dòng kín đã được dựng lên ngay bên cạnh trại tập trung Auschwitz bên Ba Lan để âm thầm nhắc nhở về những độc ác dã man mà con người đã có thể làm cho người khác, thì nhà thờ chính tòa Anh-Giáo tại Zanzibar cũng là một nhắc nhở về một quá khứ vô cùng đau thương và đen tối của cả nhân loại, khi con người chỉ xem những giống người khác như thú vật để đổi chác.

Nhưng một tưởng niệm không chỉ dừng lại ở khía cạnh kết án, nó còn là một mời gọi để cam kết sống đích thực hơn.

Ðối lại với chà đạp dã man phải là sự tôn trọng yêu thương mà con người phải có đối với tha nhân.

Cuộc sống của người Kitô chúng ta được xây dựng trên một tưởng niệm vô cùng cao cả: đó là cái chết của Ðức Kitô được thực hiện trong Thánh Lễ.

Thánh lễ vừa là một nhắc nhở về cái chết vô cùng dã man mà Ðức Kitô đã trải qua, vừa là một tưởng niệm về Tình Yêu vô bờ của Thiên Chúa đối với con người, vừa là một mời gọi sống yêu thương, yêu thương đến nỗi có thể chết thay cho người khác…

Chúng ta không thể tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu mà vẫn tiếp tục cưu mang hận thù, mà vẫn nuôi dưỡng sự khinh rẻ đối với tha nhân.

Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Lá thư quá hay !!!

Lá thư quá hay !!!

Bạn thân mến,
Lâu lắm rồi giới trẻ chúng tôi mới nhận được một bài viết nói lên sự thật ở đất nước tôi, dù sự thật ấy làm chúng tôi hết sức đau buồn.
Xin cám ơn bạn. Ở đất nước tôi có câu
“sự thật mất lòng” nhưng cũng có câu “thương cho roi cho vọt”, “thuốc đắng dả tật”.
Bức thư của bạn đã làm thức dậy trong tôi niềm tự ái dân tộc lâu nay được ru ngủ bởi những bài học giáo điều từ nhà trường như “Chúng ta tự hào là một nước nhỏ đã đánh thắng hai cường quốc Pháp và Mỹ”.

Bạn đã nói đúng: “Tôi đang nhìn thấy một thế hệ, họ không còn biết phải tin vào điều gì, thậm chí còn không dám tin vào chính mình. Là một người Việt, khó lắm. Thật vậy sao?”
Bạn biết đặt câu hỏi như thế là bạn đã có câu trả lời rồi. Những gì tôi viết sau đây chỉ là những lời tâm tình của một người trẻ thiếu niềm tin, với một người bạn đến từ một đất nước vững tin vào dân tộc mình, vào chính bản thân mình.
Bạn nói đúng. So với nước Nhật, nước Việt chúng tôi đẹp lắm. Đối với tôi không có tấm bản đồ của nước nào đẹp như tấm bản đồ của nước tôi. Tấm bản đồ ấy thon thả đánh một đường cong tuyệt đẹp bên bờ Thái Bình Dương ấm áp. Trên đất nước tôi không thiếu một thứ gì cho sự trù phú của một dân tộc. Nhưng chúng tôi thiếu một thứ. Đó là Tự Do, Dân Chủ.

Lịch sử của chúng tôi là lịch sử của một dân tộc buồn.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Người đã từng nhận được đỉa vàng tại đất nước Nhật của các bạn năm 1970 (bán được trên 2 triệu bản) với bài hát “Ngủ Đi Con” đã từng khóc cho đất nước mình như sau:

“Một ngàn năm nô lệ giạc Tàu
Một trăm năm nô lệ giạc Tây
Hai mươi Năm nội chiến từng gày
Gia tài của mẹ để lại cho con
Gia tài của mẹ là nước Việt buồn”.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong “hai mươi Năm nội chiến từng ngày” ông sống tại miền nam Việt Nam nên nỗi đau của ông còn nh hơn nỗi đau của người miền Bắc chúng tôi. Ông còn có hạnh phúc được tự do sáng tác, tự do gào khóc cho một đất nước bị chiến tranh xâu xé, được “đi trên đồi hoang hát trên những xác người” được mô tả người mẹ điên vì đứa con “chết hai lần thịt xương nát tan”.
Nếu ông sống ở miền Bắc ông đã bị cấm sáng tác những bài hát như thế hoặc nếu âm thầm sáng tác ông sẽ viết như sau:

“Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm nô lệ giặc Tây
Bảy mươi năm Cộng Sản đọa đày
Gia tài của mẹ, để lại cho con
Gia tài của mẹ là nước Việt Buồn”

Bị đô hộ bởi một nước Tàu tự coi mình là bá chủ ở phương Bắc, bị một trăm năm Pháp thuộc. Một ít thời gian không bị ngoại bang đô hộ chúng tôi không có minh quân như Minh Trị Thiên Hoàng ở nước bạn. Huống gì thay vào đó chúng tôi bị cái xui là một trong những nước hiếm họi bị thống trị bởi một chế độ bị coi là quái vật của thế kỷ.

Tại sao người Việt tham vặt.

Vì họ đã từng đói kinh khủng.Trong cuộc chiến tranh gọi là chống Mỹ chống Pháp người dân miền Bắc chúng tôi đã đói đến độ mất cả tình ngườiVì một ký đường, một cái lốp xe đạp, vài lạng thịt người ta tố cáo nhau, chơi xấu nhau dù trước đó họ là người trí thức. Cho nên ăn cắp là chuyện bình thường.
Tôi cũng xin nhắc cho bạn, năm 1945 hàng triệu người Việt miền Bắc đã chết đói vì một lý do có liên quan đến người Nhật các bạn đấy. Xin bạn tìm hiểu phần này trong lịch sử quân Phiệt Nhật ở Việt Nam.

Tất nhiên người Việt vẫn nhớ câu “nghèo cho sạch, rách cho thơm” nhưng “thượng bất chính , hạ tắc loạn”.
Khi chấm dứt chiến tranh. Người Việt biết họ phải tự cứu đói mình chứ không ai khác. Kẻ có quyền hành tranh dành nhau rừng vàng biển bac, kẻ nghèo xúm lại hôi của những xe chở hàng bị lật nhào .

Thật là nhục nhã, thật là đau lòng.

Bạn bảo rằng ở nước bạn người dân giữ gìn vệ sinh công cộng rất tốt. Còn ở Việt Nam cái gì dơ bẩn đem đổ ra đường.
Đúng vậy. Nhưng Tự Do, Dân Chủ đã ăn vào máu của các bạn để các bạn ý thức rõ đây là đất nước của mình.

Còn chúng tôi? Chúng tôi chưa thấy nước Việt thực sự là của mình.
Ngày trước Nước Việt là của Vua, Có khi nước Việt thuộc Tàu, rồi nước Việt thuộc Pháp, rồi nước Việt là của Đảng Cộng Sản.

Rung của cha ông để li đã từng trở thành của của hợp tác xã, rồi ruộng là của nhà nước chỉ cho dân mượn trong một thời gian nhất định. Đất là của nhà nước nếu bị quy hoạch người dân phải lìa bỏ ngôi nhà bao năm yêu dấu của mình để ra đi.

Cái gì không phải là của mình thì người dân không cảm thấy cần phải gìn giử.
Nhưng sự mất mát đau lòng nhất trên đất nước chúng tôi là mất văn hóa và không còn nhuệ khí. Biết làm sao được khi chúng tôi
được dạy để trở thành công cụ chứ không được dạy để làm người.

Tiếc thay bản chất thông minh còn sót lại đã cho chúng tôi nhận ra chúng tôi đang bị dối gạt. Nhất là trong những giờ học về lịch sử, văn chương.
Lớp trẻ chúng tôi đã mất niềm tin và tìm vui trong những trò rẻ tiền trên TV trên đường phố.
Nhớ năm nào nước của bạn cất công đem hoa anh đào qua Hà Nội cho người Hà Nội chúng tôi thưởng ngoạn. Và thanh niên Hà Nội đã nhào vô chụp giựt, bẻ nát cả hoa lẩn cành, chà đạp lên chính một nơi gọi là “ngàn năm Thăng Long văn hiến”.
Nhục thật bạn ạ. Nhưng lớp trẻ chúng tôi
hầu như đang lạc lốithiếu người dẫn đường thật sự chân thành thương yêu chúng tôi, thương yêu đất nước ngàn năm tang thương, đau khổ.
Thật buồn khi hàng ngày đọc trên báo bạn thấy giới trẻ nước tôi hầu như chỉ biết chạy theo một tương lai hạnh phúc dựa trên sắc đẹp và hàng hiệu. Họ không biết rằng nước Hàn có những hot girls, hot boys mà họ say mê còn là một quốc gia cực kỳ kỷ luật trong học hành, lao động.
Bạn nói đúng. Ngay cả bố mẹ chúng tôi thay vì nói với chúng tôi “con hãy chọn nghề nào làm cuộc sống con hạnh phúc nhất” thì họ chỉ muốn chúng tôi làm những công việc, ngồi vào những cái ghế có thể thu lợi tối đa dù là bất chính.
Chính cha mẹ đã chi tiền để con mình được làm tiếp viên hàng không, nhân viên hải quan, công an giao thông… với hy vọng tiền thu được dù bất minh sẽ nhiều hơn bội phần.
Một số người trẻ đã quên rằng bên cạnh các ca sĩ cập với đại gia có nhà trăm tỉ, đi xe mười tỉ còn có bà mẹ cột hai con cùng nhảy sông tự tử vì nghèo đói. Mới đây mẹ 44 tuổi và con 24 tuổi cùng nhảy cầu tự tử vì không có tiền đóng viện phí cho con. Và ngày càng có nhiều bà mê tự sát vì cùng quẩn sau khi đất nước thái bình gần 40 năm.
Bạn ơi.
Một ngày nào chúng tôi thực sự có tự do, dân chủ chúng ta sẽ sòng phẳng nói chuyện cùng nhau. Còn bây giờ thì :

“Trải qua một cuộc bể dâu
Những đều trông thấy mà đau đớn lòng”.

Dù sao cũng biết ơn bạn đã dám nói ra những sự thật dù có mất lòng.
Và chính bạn đã giúp tôi mạnh dạn nói ra những sự thật mà lâu nay tôi không biết tỏ cùng ai.

Thân ái.
Tiểu My

Chống tham nhũng có giới hạn thì có chống được không?

Chống tham nhũng có giới hạn thì có chống được không?

Anh Vũ, thông tín viên RFA
2014-10-08

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng chống tham nhũng thì phải như đánh chuột đừng để vỡ bình

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng chống tham nhũng thì phải như đánh chuột nhưng đừng để vỡ bình

nguyenphutrong.net

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa qua  khi tiếp xúc cử tri Hà Nội lại có phát biểu về công tác chống tham nhũng tại Việt Nam. Ý kiến mới đưa ra đó tiếp tục gây nhiều phản ứng trong dân chúng về vấn nạn bị cho là ‘chưa có thuốc chữa’ này.

Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế công bố năm 2013, thì Việt Nam xếp hạng 116/177 quốc gia và bị coi là quốc gia có tình trạng tham nhũng cao.

“Chữa ung thư bằng thuốc nhức đầu”

Đánh giá về thực trạng tham nhũng ở VN,  TS. Đinh Văn Minh Phó Viện trưởng Viện Khoa học Thanh tra – Thanh tra Chính phủ thấy rằng ở VN tham nhũng là tình trạng phổ biến ở mọi ngành, mọi cấp, mọi lĩnh vực. Tuy vậy theo ông Đảng và nhà nước VN đã hết sức coi trọng và có nhiều biện pháp cụ thể để xử lý vấn nạn này.

Từ Hà nội, TS. Đinh Văn Minh nói:

“Ở VN tham nhũng có rất nhiều, đã gây ra sự bức xúc cho người dân, bởi vì tham nhũng nhỏ đa số ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người dân trong việc liên hệ với các cơ quan công quyền. Cái đó làm cho hình ảnh cơ quan hành chính công bị méo mó và người dân thiếu sự tin tưởng, thậm chí là họ rất khó chịu. Nguyên nhân không phải do nhà nước không quan tâm đến cái đó đâu, mà vấn đề là thiếu giải pháp đồng bộ”  TS. Nguyễn Quang A .

” Ông TBT có nhầm một chút khi coi đó là cái bình quý, nhưng tôi và người dân nghĩ đấy là cái bình vôi. Mà trong cái bình vôi ấy đầy rẫy lũ ma quỷ và chính cái lũ ma quỷ do cái bình vôi ấy sinh ra nó đã hoành hành, không chỉ tham nhũng mà chúng nó còn làm đủ các điều tác oai tác quái khác

TS. Nguyễn Quang A”

Nói về những hạn chế của công tác phòng chống tham nhũng, ngày 6.10.2014, khi tiếp xúc với cử tri Hà Nội TBT Nguyễn Phú Trọng nói rằng: “Chống tham nhũng đòi hỏi khôn ngoan, cần có con mắt chiến lược. Bác Hồ dạy rồi, cha ông ta dạy rồi, đánh con chuột đừng để vỡ bình, làm sao diệt được chuột mà bảo vệ được bình hoa. Không phải xới tung lên tất cả, gây mất niềm tin, nghi kỵ lẫn nhau, rối loạn sẽ rất nguy hiểm.”

Đánh giá về phát biểu của TBT Nguyễn Phú Trọng, TS. Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện phản biện IDS thấy rằng đây là việc đáng mừng, theo ông đó là việc thú nhận sự thất bại hoàn toàn của việc chống tham nhũng từ người đứng đầu Đảng CSVN.

Từ Hà nội, TS. Nguyễn Quang A nói:

“Ở đây ông TBT có nhầm một chút khi coi đó là cái bình quý, nhưng tôi và người dân nghĩ đấy là cái bình vôi. Mà trong cái bình vôi ấy đầy rẫy lũ ma quỷ và chính cái lũ ma quỷ do cái bình vôi ấy sinh ra nó đã hoành hành , không chỉ tham nhũng mà chúng nó còn làm đủ các điều tác oai tác quái khác. Cho nên theo tôi nên tìm cách vứt cái bình vôi đó đi là cách hay nhất. Rất đáng tiếc là ông TBT tuy đã chân thành thừa nhận sự thất bại của cuộc đấu tranh chống tham nhũng, nhưng ông ấy vẫn cố bám vào cái bình vôi ấy thì vô phương cứu chữa”.

Khi được hỏi về những nguyên nhân khiến cho việc chống tham nhũng ở VN không có hiệu quả, tình trạng tham nhũng ngày càng tăng, không có dấu hiệu suy giảm.

” Có vị đại biểu tâm sự mỗi lần ra họp Quốc hội là lãnh đạo địa phương căn dặn rất kỹ: phát biểu gì cũng được, trừ tham nhũng, vì nếu còn cơ chế xin cho thì mình xin ai cho. Càng không nên phát biểu tham nhũng ở địa phương vì dại gì vạch áo cho người xem lưng

ông Lê Như Tiến”

TS. Đinh Văn Minh thấy rằng đây là vấn đề nhạy cảm vì có liên quan đến tiền bạc và quyền lực. Theo ông người tham nhũng hầu hết là người có chức vụ, có quyền lực và cả một hệ thống nên không dễ có thể làm được. Song theo ông quan trọng là nhà nước chưa có các biện pháp xử lý thích đáng.

TS. Đinh Văn Minh nói:

“Chúng tôi dưới góc độ nghiên cứu trong quá trình cải cách thể chế và tình hình thực tế diễn ra thì có một nhận xét là hiện nay chúng ta chống tham nhũng nhưng tham nhũng “chay”nhiều quá. Tham nhũng thực chất là hành vi hướng tới chiếm đoạt tiền và tài sản, cho nên chống tham nhũng là chúng ta phải hướng tới việc đòi lại hay giành lại những cái tài sản mà những kẻ tham nhũng lấy lại của nhầ nước và nhân dân. Mục đích của nó phải là như vậy và điều đó phải được nhấn mạnh, nhưng tiếc rằng do các thiết chế từ trước tới nay của chúng ta chưa được quan tâm đến một cách đúng mức và thỏa đáng cho nên kết quả hết sức hạn chế.”

Không thể chống tham nhũng trong chế độ độc đảng

Theo báo Tuổi trẻ, ông Lê Như Tiến, Phó Chủ nhiệm UB Văn hóa , giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng cho biết: “Có vị đại biểu tâm sự mỗi lần ra họp Quốc hội là lãnh đạo địa phương căn dặn rất kỹ: phát biểu gì cũng được, trừ tham nhũng, vì nếu còn cơ chế xin cho thì mình xin ai cho. Càng không nên phát biểu tham nhũng ở địa phương vì dại gì vạch áo cho người xem lưng. Vậy là cuộc chiến chống tham nhũng có nguy cơ triệt tiêu trên diễn đàn Quốc hội”.

” Muốn chống tham nhũng thì phải có tự do ngôn luận, phải có sự kiềm chế quyền lực từ bên ngoài hoặc là giữa các bên ở bên trong, như các bên trong nội bộ của Đảng. Nhưng kiềm chế thì phải cương quyết, chứ không phải là sợ vỡ cái bình vôi. Và những người ấy phải được lựa chọn theo tài năng và đức độ

TS. Nguyễn Quang A”

TS. Nguyễn Quang A cho rằng trong chế độ độc đảng cai trị như ở VN, thì một khi bản thân thể chế chính trị đã tạo điều kiện sinh ra và khuyến khích tham nhũng thì không bao giờ có thể chống tham nhũng được.

TS. Nguyễn Quang A nhận định:

“Muốn chống tham nhũng thì phải có tự do ngôn luận, phải có sự kiềm chế quyền lực từ bên ngoài hoặc là giữa các bên ở bên trong, như các bên trong nội bộ của Đảng. Nhưng kiềm chế thì phải cương quyết, chứ không phải là sợ vỡ cái bình vôi. Và những người ấy phải được lựa chọn theo tài năng và đức độ chứ không phải theo tiêu chuẩn vừa Hồng vừa Chuyên. Các điều kiện như thế đã không có ở chính quyền hiện nay ở VN thì làm sao mà chống tham nhũng được? Do vậy những hô hào chống tham nhũng từ trước đến nay chỉ là mị dân mà thôi.”

Nói về giải pháp nhằm diệt trừ vấn nạn tham nhũng ở VN, TS. Nguyễn Quang A thấy rằng, ở một thể chế chính trị tương đối độc đoán như Singapore ngay từ đầu họ đã đào tạo và lựa chọn một đội ngũ quan chức có trình độ, tài năng, có trách nhiệm, liêm khiết và coi việc được phục vụ nhân dân là một vinh dự. Còn ở VN với thể chế như hiện nay thì vô phương.

TS. Nguyễn Quang A nói:

“60 năm vừa qua Đảng CSVN không có một sự lựa chọn con người như thế, những kẻ leo lên đỉnh chót của quyền lực không phải là người tinh hoa thì làm sao có thể. Trừ khi có một người thực sự có tài năng và uy quyền, nhưng khả năng ấy chỉ có thể khi người ta bắt đầu xây dựng một chính quyền. Chứ còn ở một chính quyền đã tồn tại 60 năm nay và ngày càng thối nát ra thì tôi nghĩ là vô phương cứu chữa. Chính vì vậy tôi nói Đảng CSVN không còn tương lai ở đất nước này nữa ”.

Ở VN hiện nay, Đảng CSVN cho rằng tham nhũng là một nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ. Tuy vậy, điều đó chỉ là sự biện hộ cho sự không trong sáng của chính quyền hiện tại trong thể chế chính trị độc đoán và độc đảng lãnh đao. Không thể chống tham nhũng nếu không có các thiết chế cần thiết để tăng cường sự kiểm soát sự công khai và minh bạch của một nhà nước pháp quyền.