Trường hợp quỉ ám gia tăng vì trò chơi Cầu Cơ, theo các chuyên gia từ Vatican.

Trường hợp quỉ ám gia tăng vì trò chơi Cầu Cơ, theo các chuyên gia từ Vatican. 


Trần Mạnh Trác

11/9/2014

 

Hiệp hội quốc tế của những chuyên gia về quỉ ám (International Association of Exorcists, AIE) báo động rằng các vụ quỉ ám đã đạt đến một mức độ báo động.

“Chúng ta phải dành nhiều nỗ lực hơn vào việc mục vụ khẩn cấp này để giúp đỡ cho những trường hợp bị quỉ ám đang gia tăng một cách phi thường ở khắp mọi nơi,” là lời tuyên bố của bác sĩ Valter Cascioli, phát ngôn viên của AIE, sau khi hiệp hội kết thúc phiên họp thuờng niên thứ 12 tại Roma từ ngày 20 đến 25 tháng 10 vừa qua. Phiên họp qui tụ 250 giáo sĩ có năng quyền trừ quỉ và các chuyên gia và bác sĩ tâm bệnh trên khắp thế giới.

Theo ông, thì số các vị Hồng Y và Giám Mục đăng ký tham gia kỳ họp này đã tăng lên nhiều so với các năm trước bởi vì đã có những dấu hiệu cho thấy rằng hoạt động cuả ma quỉ đang gia tăng tại giáo phận nhà.

Hoạt động cuả ma quỷ gia tăng vì một số nguyên do, một là vì đức tin cuả hàng giáo dân bị suy giảm, hai là vì tính hiếu kỳ, nhiều người đã thử tham dự vào những hoạt động huyền bí (occult activity) như cầu cơ hoặc lên đồng (Ouija boards and séances.)

Cầu Cơ, mà giới trẻ ở Việt Nam thường rủ nhau chơi để so tài gan dạ với nhau, là một biến thể cuả một trò chơi huyền bí ở Mỹ goị là Ouija boards, là một sáng kiến có đăng ký do hãng Parker Brothers sản xuất. Ngày nay tập đoàn Hasbro đã mua bản quyền và Ouija là một thương hiệu độc quyền.

Thực ra việc Cầu Cơ đã có từ rất lâu ở bên Trung Hoa, Ấn Độ và thế giới Cổ Hy La. Những sử liệu thời nhà Nguyên còn ghi chép về việc dùng một bảng gỗ có vẽ nhiều dấu hiệu vô nghĩa để dùng vào công việc bói toán. Một ‘con đồng’ được ‘nhập’ sẽ chỉ vào nhiều dấu hiệu với nhau tạo nên những ‘bút tự’ để giải đáp những vấn nạn cuả thân chủ.

Những cách bói toán như thế đã bị nhà Thanh cấm đoán vì lý do mê tín dị đoan và sự lạm dụng cuả những đám buôn thần bán thánh.

Giới khoa học ngày nay cũng bác bỏ mọi sự huyền bí siêu nhiên cuả các trò Cầu Cơ, những cuộc nghiên cứu Tâm Lý Học đã chứng minh rằng sự chuyển động cuả con ‘Cơ’ (cái phím hình trái tim hay là đồng xu có lỗ ) chỉ là kết quả cuả một tình trạng gọi là hiệu ứng vô thức (ideomotor effect). Càng nhiều người tham gia thì hiệu ứng càng tăng lên. Có lẽ vì vậy mà những chỉ dẫn về Cầu Cơ thường ghi chú rằng phải có 3 người chơi thì mới nên bắt đầu, nếu không có thể sẽ bị “Tà ma ám hại’.

(Những nghiên cứu cho thấy xác xuất cuả việc Cầu Cơ là khoảng 62%. Trong khi 50% là sự may rủi bình thường, vậy thì hiệu ứng vô thức là 12%, tức là một ảnh hưởng cũng rất nhỏ mà thôi).

Tới đây, tưởng cũng xin tạm ngưng để ghi chú rằng Việt Nam là nơi duy nhất đã phát triển hình thức Cầu Cơ thành một tôn giáo: đó là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, hay còn được gọi là đạo Cao Đài.

Tín đồ Cao Đài tin rằng Thượng Đế đã dùng hình thức Cơ Bút để giáng truyền kinh sách và tổ chức tôn giáo cho họ.

Những bình luận và phê phán sau đây không có ý nhắm vào đạo Cao Đài, vốn đã chứng tỏ là một tôn giáo đáng tôn kính, mà chỉ nhắm vào những hoạt động bình dân coi việc Cầu Cơ là một trò chơi tiêu khiển như đã nói ở trên.

Nhiều thanh niên thiếu nữ đi tìm hoạt động huyền bí như thế, bắt đầu vì sự tò mò có vẻ như vô tội hoặc vì bản tính thích những sự kinh dị. Nhưng dần dà đã có nhiều người bị ám ảnh và bắt đầu đào xâu hơn vào những hoạt động phù thủy, ma quái.

Các nhà cố vấn về giới trẻ thường coi đó như là một giai đọan ‘tăng trưởng bình thường.’ “Đừng làm to chuyện,” là lời khuyên cuả họ cho các bậc cha mẹ. “Cứ bỏ lơ qua chuyện đó thì sớm hay muộn, cháu nó sẽ lớn lên.”

Tuy nhiên, bác sĩ Valter Cascioli không đồng ý như vậy. “Bất kỳ sự tham gia nào vào những điều huyền bí, dù là thụ động, vẫn có thể là một thảm họa và nên phải từ chối và tránh xa,” ông nói.

“Cho dù sự khởi đầu là vì thiếu hiểu biết, nông cạn, ngu dốt hoặc tích cực tham gia do ước muốn hoặc chỉ là để xem cho biết thì…”

“Hậu quả luôn luôn là một tai họa.”

Ảnh hưởng đến người tham gia bao gồm nhiều hệ lụy về vật lý, tâm lý, tinh thần và đạo đức. Kể ra là những sự lo lắng, những cơn hoảng loạn, những cơn ác mộng, những hành vi tự hủy, những suy nghĩ liên tục về cái chết… Trong một vài trường hợp nặng, hoạt động huyền bí dẫn đến việc bị quỉ ám.

“Cho dù chúng ta có biết hay không, có hiểu được hay không, cho dù việc đó là làm cho vui, một trò giải trí hoặc vì lý do nào khác, thì những tác động tàn phá cũng giống như nhau.”

“Mọi người đều bị lừa và tin tưởng sai lầm rằng họ đang liên lạc được với một linh hồn của những người thân, nhưng trong thực tế họ đang đối thoại với quỉ và mời nó vào cuộc sống của họ,” bác sĩ Cascioli nói tiếp.

“Cái gọi là ‘Thực thể tâm linh’ dấu giếm và phản bội chúng ta về danh tính thực sự của nó, nó chỉ cho chúng ta biết về những điều mà chỉ có một phần là dựa trên sự thật; do đó nó dụ dỗ chúng ta, lừa phỉnh và cố gắng xâm nhập vào chúng ta, “ông giải thích.

Cha Stephen Doktorczyk, một linh mục của Giáo Phận Orange, đã chữa lành và cầu nguyện cho nhiều người đang ở trên bờ vực cuả việc bị quỉ ám.

Ngài đề nghị rằng nhiệm vụ của cha mẹ khi có những đứa con bị lôi kéo vào những hoạt động huyền bí như Cầu Cơ là phải cầu nguyện bằng cách lần hạt Mân Côi và phải ngăn cản không cho chúng tham gia bất kỳ loại hoạt động huyền bí nào nữa.

“Ma quỉ là một tên rất thông minh. Nó biết du giỗ người ta bằng những thứ dường như là vô hại. Vì trong thư cuả thánh Phêrô đã viết (1 Peter 5: 8-9:) ‘Kẻ thù là ma quỷ thì luôn luôn rình mò xung quanh chúng ta như sư tử rình mồi để mà ăn tươi nuốt sống. Hãy chống lại nó, và hãy kiên trì trong đức tin. ”

“Tôi đã giúp cho quá nhiều những tình huống liên quan đến những người, vì ngây thơ, đã bắt đầu tìm hiểu về những điều huyền bí. Bây giờ thì họ ước ao rằng họ có thể quay trở lại quá khứ mà làm khác đi,” Cha Doktorczyk nói thêm.

Theo Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, thì mọi người phải xa lánh tất cả các hình thức “bói toán” có liên quan đến việc nhờ ma quỷ, hoặc gọi hồn người chết hoặc tìm việc tiết lộ các sự kiện tương lai.

Sách Giáo Lý Công Giáo dậy về ‘Bói toán và ma thuật’ rằng:

-Tất cả những hình thức bói toán nhằm biết vận mệnh tương lai, đầu trái nghịch với lòng tôn kính và phó thác cho một mình Thiên Chuá. Những cách thực hành ma thuật hoặc phù thủy nhằm có một quyền hành bí ẩn đối với đồng loại, đều nghịch với đức thờ phượng.

Đoạn 2116 cuả phiên bản tiếng Anh (CCC) còn liệt kê rõ ràng những việc phải tránh là “Xem tử vi, coi chiêm tinh, xem chỉ tay, bói theo điềm hay xin xâm, dùng người ngoại cảm…”

“Một lỗi phổ biến là chúng ta tin tưởng rằng ma quỷ và các lĩnh vực huyền bí là không có thật,” bác sĩ Cascioli nói; “nhưng ma quỷ là có thật, và Kinh Thánh đề cập đến nó tới 118 lần dưới những cái tên khác nhau như Satan, Ma quỉ, và hoàng tử của thế gian.”

Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó (Bài mở đầu)

Dưới ánh sáng của nền Văn minh Trung hoa cổ đại: Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó

Nguyễn Tiến Dân

16-10-2014

Bài mở đầu

QUỶ CỐC TỬ

持枢 TRÌ KHU

持Trì (cầm,nắm) – 枢Khu (trục, bản lề của cánh cửa). Trì khu, tức là phải tìm cho ra và nắm cho chắc điểm mấu chốt, điểm quan trọng nhất của sự vật, sự việc. Dựa vào đó, mà xử lý công việc. Công việc, sẽ  được giải quyết rất nhẹ nhàng. Giống như, mở 1 cánh cửa nặng, bằng cách đẩy nó quay quanh bản lề. Nói rộng ra, Quỷ Cốc Tử cho rằng: Tìm và Hiểu cho bằng được, quy luật của Tự nhiênThuận theo nó – sẽ tồn tại và phát triển bền vững. Tìm và Hiểu cho bằng được, quy luật của xã hội. Đi ngược với nó – chắc chắn, sẽ bị diệt vong. Nguyên tắc này, đúng với từng người, khi họ học phép dưỡng sinh. Đúng với từng doanh nghiệp, khi họ sản xuất và kinh doanh. Đúng với từng giáo phái, khi truyền Đạo cho tín đồ. Đúng với từng thể chế chính trị, khi Trị nước – An dân.

持枢谓春生夏长,秋收冬藏 . Trì khu, vị Xuân sinh – Hạ trưởng – Thu thu – Đông tàng .

Mùa Xuân, tiết trời mát mẻ, không khí ẩm thấp. Cây cối, nhờ thế mà vươn lên mơn mởn. Động vật chui ra khỏi hang, để đi tìm mồi. No ăn – rửng mỡ, chúng đi kiếm bạn tình. Vì thế, nói: “Xuân là mùa thuận tiện cho sự sinh sản”.

Mùa Hạ, trời nắng chói chang, thời tiết nóng nực. Cây cối vươn cành, tiếp thu ánh sáng mặt trời. Chất dinh dưỡng, được chuyển hóa, để nuôi cành lá xum xuê – nuôi quả ngọt lớn dần. Bào thai trong bụng động vật, cũng được nuôi dưỡng, để dần thành hình hài. Vì thế, nói : “Hạ là mùa của sự trưởng thành”.

Mùa Thu, trời trong xanh, gió mát. Cây – Quả đã chin nục. Người nông dân, đi gặt hái thành quả của mình. Thiên nhiên, chào đón những sinh linh mới ra đời. Vì thế, nói: “Thu là mùa của sự thu hoạch”.

Mùa Đông, cây trút lá, trơ những cành khẳng khiu đứng giữa trời. Chúng, hầu như không phát triển. Động vật, chui vào hang, để đi ngủ đông. Các loại hạt giống, mà người nông dân gieo, cũng im lìm, nằm dưới lớp tuyết dày. Vì thế, nói: “Đông là mùa của sự nghỉ ngơi – tàng trữ”.

天之正也,不可干而逆之. 逆之者,虽成必败. Thiên chi chính dã, bất khả can nhi nghịch chi. Nghịch chi giả, tuy thành tất bại.

Tứ quý luân phiên, bốn mùa thay đổi. Đó là, 1 trong những quy luật vận hành của Tự nhiên. Tự nhiên, bao giờ cũng được phát triển 1 cách có tuần tự. Con người, không thể tự tiện can thiệp. Cố tình can thiệp: Thành công, nếu có, chỉ là nhất thời. Chung cuộc, chắc chắn sẽ nhận được bại vong.

故人君亦有天枢,生养成藏. Cố nhân quân, diệc hữu thiên khu: Sinh – Dưỡng – Thành – Tàng .

Từ người Dân, cho đến bậc Đế vương. Từ hội nhóm, đảng phái, cho đến Quốc gia. Không ai thoát khỏi được vòng luân hồi của Tự nhiên: Xuất sinh – Dưỡng dục – Trưởng thành – Tàn lụi.

Con người ta, phải trải qua quá trình thai nghén trong bụng mẹ. Đủ ngày – đủ tháng, mới được sinh ra đời. Những đứa trẻ sinh thiếu tháng, chúng thường không được khỏe. Nuôi dưỡng chúng, rất vất vả và tốn kém. Nhiều người mê tín, họ chọn mổ đẻ vào những ngày – giờ đã định. Hy vọng, với những lá số Tử vi đã được chọn trước đó, sau này, con mình dễ trở thành ông nọ – bà kia. Có lẽ, họ không biết: Kể cả những thầy Tử vi cao tay nhất, không ai có thể lên và nói chính xác, về lá số của các cháu bé đó.

Chủ nghĩa Mác cho rằng: Xã hội loài người, phải lần lượt vận động qua các hình thái, Nguyên thủy – Nô lệ – Phong kiến – Tư bản – Cộng sản. Và, “cách mạng vô sản”, chỉ có thể thành công, khi nó xảy ra đồng thời, trên phạm vi toàn Thế giới.

Ông Lê nin, “Vận dụng sáng tạo” cái chủ thuyết này. Ông ta, làm “cách mạng vô sản” ở phạm vi 1 nước Nga. Khi đó, nền tảng công nghiệp của chủ nghĩa Tư bản,  còn chưa được phát triển đầy đủ. Cuộc cách mạng ấy, “đẻ non – chín ép”, mà vẫn thành hình hài – vẫn không bị chết yểu. Thậm chí, có lúc còn mạnh đến mức: Có thể tranh bá với Thiên hạ. Những người CS, họ phục ông Lê nin lắm. Họ, tôn ông ta là Thánh. Đâu hay rằng: để giữ được như thế, Liên xô đã phải trả giá, bằng bao nhiêu thời gian – bằng bao nhiêu tiền của – bằng bao nhiêu sinh mạng. Cuối cùng, “mèo vẫn hoàn mèo”. Liên xô vẫn phải tan rã. Một kết cục, thật là bi thảm.

Ông Lê nin đã “giỏi”, nhưng có người, còn trăm ngàn lần giỏi hơn. Đó là Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh, đã “vận dụng” chủ nghĩa Mác, 1 cách có tính chất “Đột – phá”. Hồ Chí Minh và đảng của ông, liều lĩnh đến mức: Cho tiến hành cách mạng vô sản, ở 1 nước Phong kiến lạc hậu. Phương thức sản xuất thì vừa nhỏ, vừa manh mún. Nền tảng công nghiệp, hầu như không có gì. Giai cấp công nhân (theo đúng nghĩa), còn chưa được hình thành. Ấy thế mà, ông cùng với toàn đảng của ông, vẫn cố nuôi hy vọng, có thể bỏ qua giai đoạn phát triển Tư bản. Để “Tiến nhanh – Tiến mạnh – Tiến vững chắc lên Chủ nghĩa xã hội”. Một ảo tưởng vĩ đại. Để đến bây giờ, đảng CS Việt nam, phải âm thầm trở lại điểm xuất phát: Bắt đầu, xây dựng lại, nền kinh tế thị trường của chủ nghĩa Tư bản. Tuy vậy, những người CS Việt nam, vẫn không nhận và không chịu trách nhiệm, cho hàng loạt, những sai lầm của họ. Đất nước Việt nam, đâu có may mắn, để được hưởng sự vô can đó. Cả dân tộc Việt, đang phải trả giá, cho cái ảo tưởng vĩ đại của đảng CS Việt nam.

亦复,不可干而逆之.逆之, 虽盛必衰. Diệc phục, bất khả can nhi nghịch chi.Nghịch chi, tuy thịnh tất suy.

Những quy luật của xã hội, phải luôn được tôn trọng. Không được làm trái. Làm trái với quy luật của xã hội, tạm thời, có thế hưng thịnh. Nhưng , chung cuộc, chắc chắn sẽ bị suy vong.

此天道人君之大纲也. Thử Thiên đạo, Nhân quân chi đại cương dã.

Đó là quy luật của Tự nhiên, là Cương lĩnh căn bản của Quân chủ khi thống trị Quốc gia.

Lời bàn:

1-Hiểu được Trì khu, mỗi cá nhân, sẽ luyện được phép dưỡng sinh. Luyện được phép  dưỡng sinh, con người ta sẽ khỏe mạnh và trường thọ.

-Hãy sống hòa hợp với Thiên nhiên. Cơ thể của bạn, phải được tiếp xúc với bầu không khí ẩm thấp của mùa Xuân . Đừng vì cái nắng cháy da của mùa Hè, mà suốt ngày ngồi trong phòng lạnh. Hãy đến công viên, để tận hưởng thời tiết mát mẻ, dễ chịu của mùa Thu. Khi Đông về, hãy co ro đôi chút. Làm được như thế, cơ thể bạn sẽ dẻo dai và săn chắc. Thỏi thép kia, sở dĩ cứng rắn, bởi nó được nung trong lửa đỏ và tôi trong nước lạnh. Đừng nên ăn quá nhiều. Khiến dạ dày, chẳng còn có lúc được nghỉ ngơi. Đừng bắt trẻ con, học đến mức mụ mị. Hãy dành thời gian, để chúng chơi đùa và chiêm nghiệm những điều đã học. Đừng nên lạm dụng chất kích thích. Kháng sinh, chỉ dùng trong những trường hợp hi hữu.

-Có 1 định nghĩa vui: “Con người ta, chỉ hạnh phúc, khi mọi cái lỗ trên người, đều thông”. Hãy nói về 1 cái lỗ, rất ít được chú ý, lỗ chân lông. Nhiệm vụ chính của nó, là tống cặn bã dưới da ra ngoài. Về già, cơ thể ta yếu đi. Lỗ chân lông sẽ nở to ra, để giúp cho sự bài tiết tốt hơn. Nhiều người, muốn chống lại quy luật ấy. Họ săn lùng các loại thuốc, có thể làm “se khít lỗ chân lông”. Hy vọng, các loại thuốc ấy, sẽ giúp họ, lấy lại vẻ mịn màng của tuổi trẻ. Đâu hay, vẻ đẹp ấy, nếu có, cũng chỉ được nhất thời. Nhưng, mồ hôi không được toát ra, “bí hạ” nó sẽ “phá thượng”. Nay mai, viêm da và mặt mũi thì sần sùi như quả cam sành. Đó là điều, chẳng cần phải bàn cãi.

2-Những doanh nhân thành đạt, bao giờ họ cũng làm những việc, mà mình có thể mạnh. Không bao giờ, làm việc trong lĩnh vực, mà mình chẳng hiểu gì. Bao giờ, họ cũng sản xuất và bán ra những thứ, mà thiên hạ cần. Không cố tình sản xuất và bán ra, những thứ mà chỉ riêng mình thích. Khi máy ảnh kĩ thuật số ra đời, không ai dại gì, tiếp tục sản xuất film và máy ảnh dùng film. Dây chuyền sản xuất ấy, dù đắt tiền đến đâu, cũng phải bị phế bỏ. Không được luyến tiếc.

Cọp chết, để lại da – Người ta chết, để lại tiếng”. Con người ta, già rồi là phải chết. Chết rồi, thương mấy cũng phải đem chôn. Cái mà, người đã khuất, có thể để lại cho hậu thế, đó chính là sự nghiệp.

Đức Thánh Trần, dặn gia nhân: “Sau khi ta chết, hãy đem xác đi thiêu. Tro cốt, cho vào lọ sành. Chôn trong vườn, rồi phủ đất và trồng cây lên trên”. Đơn giản, chỉ có vậy. Nhưng, danh tiếng và sự nghiệp lẫy lừng của Đức Thánh, đâu có thể vì thế, mà nhanh chóng mai một theo thời gian.

Quang Trung Hoàng đế, sau khi chết, được con cái và các vị đại thần tôn vinh. Được cúng lễ linh đình. Được xây lăng to – mả lớn. Nhưng, ích gì. Sau khi chết, thân xác vẫn bị quan quân nhà Nguyễn, quật lên để làm nhục.

Ở nhiều nước, người ta chỉ trưng bày (bêu) xác của người đã khuất, trong trường hợp cần hạ nhục họ. Đổng Trác, bị người đời căm ghét. Khi chết, xác bị bêu trên phố, cho Thiên hạ tới phỉ nhổ. Cũng vì chưa chôn, nên binh lính mới có thể mạo phạm đến thi thể. Họ, cắm bấc vào rốn Đổng Trác, rồi đốt. Mỡ chảy lênh láng ngoài đường.  Gaddafi, được nhiều người “yêu” quá. Thế nên, sau khi chết, xác bị trưng bày nhiều ngày, ở lò mổ súc vật.

Hy vọng sau này, ông Lê nin, ông Mao… không bị đối xử như thế.

Sự nghiệp mà không có, dẫu cố tình, có để lại cái xác khô ở trên đời, phỏng có ích gì. Chỉ rác tai, để nghe Thiên hạ đàm tiếu.

Đạo đức – Tư cách chẳng ra gì, dẫu có được đem tạc bia đá – đúc tượng đồng và lập đền, để thờ cúng ở khắp mọi nơi, phỏng có ích gì. Cuối cùng, tránh sao cho khỏi, bị quần chúng tròng dây vào cổ, mà kéo sập xuống.

3-Trái đất này, có rất nhiều tôn giáo, như Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Hòa hảo, Tin lành…Tuy có nhiều nét khác nhau, về hình thức, về tổ chức, về nghi lễ thờ phụng…Nhưng, hết thảy, đều có 1 mẫu số chung. Đó là, các tôn giáo ấy, luôn dạy chúng sinh, làm điều Thiện – sống Ngay thẳng. Nhẫn nhịn và Thương yêu đồng loại. Nó hợp với tâm tư, nguyện vọng và tình cảm của cả loài người. Vì vậy, nó được nhiều tín đồ tự nguyện theo . Nó có gốc rễ bền vững. Nên nó sẽ trường tồn.

Ngược lại. Ý thức hệ CS, căn bản dựa trên 2 trụ cột: Bạo lực và dối trá.

-Một trong những nguyên tắc cơ bản của học thuyết CS, đó là đấu tranh giai cấp. Muốn có chính quyền ư? “Súng (sẽ) đẻ ra chính quyền”. Cần gì phải rèn tài năng và tu đức độ: Để được dân bầu – Để được nắm chính quyền, 1 cách đàng hoàng và tử tế. Muốn có của cải ư? Cần gì phải học hành – phải siêng năng – phải tiết kiệm. Hãy đi ăn cướp của nhà giàu. Nếu có bị họ đánh chết, âu cũng chỉ là 1 cách, để giải thoát. Đó là, nguyên ý của câu: “Trong cuộc đấu tranh (giai cấpnày, giai cấp vô sản: Nếu được, thì được tất cả – Nếu mất, họ chỉ mất đi xích xiềng nô lệ”. Để được việc, họ sẵn sàng, xử tử cả những ân nhân của mình. Những người, đã từng nuôi nấng – cưu mang họ, trong lúc còn trứng – nước. Để thâu tóm quyền lực, họ chẳng  ngần ngại, dùng những thủ đoạn hèn hạ nhất, để thanh trừng, ngay cả đồng đội của mình. Họ bắt: Con phải tố cha – Vợ phải chửi chồng. Phá nát nền tảng đạo đức – gia đình. Để thâu tóm nhà máy – ruộng đất, họ xá gì chuyện bất hiếu: Lừa gạt, cả những giai cấp, đã sinh ra mình. Đâu rồi, lời hứa: “Nhà máy về tay thợ thuyền – Ruộng đất về tay dân cày”. Mượn nhà của ân nhân, thích thì chiếm đoạt luôn (trường hợp gia đình cụ Trịnh Văn Bô). Mượn đất của Tôn giáo, rồi thẳng tay cướp lấy (trường hợp Nhà Chung và giáo xứ Thái Hà). Mượn tiền của Dân, rồi lì lợm tìm mọi cách để chiếm đoạt. Người ta đi đòi, thì vu oan – giáng họa, để làm hại người ta.

-Trong các nhà trường CS, từ bé đến lớn, các cháu học sinh, được dạy 1 mớ kiến thức hổ lốn, cộng với thói ăn gian – nói dối. Học “Cuội” và thi cử không trung thực. Cho nên, bằng cấp của Việt nam, đâu có được Quốc tế thừa nhận. Học vị Tiến sĩ, khó là thế. Nhưng, cán bộ CS, ai cũng có.

Những người CS, nói mà không hề biết xấu hổ, rằng: “Việt nam, là nước theo chế  độ Dân chủ”. Rằng: “Dân chủ ở Việt nam, cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản”. Họ, cũng leo lẻo nói rẳng: “Đi lên CNXH, là khát vọng của Nhân dân” và “Nhân dân Việt nam, không có nhu cầu đa đảng”. Nhưng, họ không bao giờ, dám làm 1 cuộc Trương cầu Dân ý về việc này. Bởi làm thế, họ sẽ bị lòi đuôi.

Lừa bịp Nhân dân đã quen. Đến Thủ tướng của họ, họ cũng không tha: “Tỉnh nào tôi đi làm việc, (cũng) đều (báo cáo, GDP tăng) từ 9 đến 14%,trong khi cả nước, (GDP cũng) chỉ (tăng có) 5,8%” (Những chữ in đậm, là nguyên văn lời ông Nguyễn Tấn Dũng).

Trừ Giáo sư Ngô Bảo Châu, còn ai cũng hiểu, 1 mệnh đề thật là đơn giản: “Toán học, không thể có chỗ đứng, trong 1 đất nước, mà ở đó, Tổng của những con số dương, là 1 số âm”.

Chủ thuyết CS, đầy rẫy những chuyện phi Luân thường – Đạo lý. Đâu có hợp lòng Dân. Nó trường tồn sao được.

4-Những người, làm nghề vận tải hỗn hợp sông – biển, bao giờ họ cũng phải tính toán con nước. Sao cho, khi thủy triều lên, họ sẽ ngược dòng – khi triều xuống, họ sẽ xuôi dòng. Hiệu quả kinh tế, sẽ rất lớn.

-Chính quyền, nếu ví như 1 con thuyền – thì Ý chí của Nhân dân giống như 1 dòng nước chảy xiết. Thuận lòng Dân, không tốn mấy sức lực, con thuyền cũng mau chóng về đến đích. Đối nghịch với Nhân dân, khác nào con thuyền, ngược dòng trong bão tố. Đợi đến khi: “Lật thuyền, mới biết sức Dân như nước”, thì mọi chuyện, đã trở nên quá muộn mằn.

Sau Đệ nhị Thế chiến, Nga xô chiếm được hàng loạt các nước ở Đông Âu. Họ dùng lưỡi lê và xe tăng, áp đặt cho Dân chúng ở đó, những Nhà nước Cộng sản. Những Nhà nước đó, không hợp với tâm nguyện của Nhân dân sở tại. Cuối cùng, nhà tù cộng với sự đàn áp, kìm kẹp hết sức dã man, cũng phải chịu thua ý chí của Nhân dân. Trước khí thế của quần chúng, Những nhà nước CS ở đó, đã sụp đổ tan tành.

-Đảng CS chỉ biết đến mình. Quyền lợi của đất nước, họ vơ hết vào lòng. Chính quyền, họ độc chiếm. Nhưng nghĩa vụ và trách nhiệm, chẳng thấy họ nhận bao giờ. Quy luật “Âm – Dương hòa hợp”, không được tôn trọng. Khiến xã hội đảo điên – thiên hạ hỗn loạn.

-“Chọn lọc Tự nhiên”. Đó là, một trong những quy luật phát triển của sinh giới.

Những người CS, họ không tôn trọng quy luật này. Thể chế của họ, được xây dựng trên cơ sở độc tài. Họ chủ trương: Triệt hạ đối lập, để không phải cạnh tranh.

Cán bộ của họ: Không phải, được chọn lọc ra, từ những người có tài. Không phải, được Nhân dân chọn lọc ra, từ những cuộc bầu cử Tự do và Bình đẳng. Xã hội, được điều hành, bởi những cán bộ là “Con ông cháu cha” – bởi những kẻ được “cơ cấu”, do có nhiều tiền và nhắm mắt tuân theo lệnh cấp trên, “bất cần biết đúng sai”. Những loại dốt nát – mù quáng đó: Nói gì sai đấy – Làm đâu hỏng đó. Bởi thế, chính thể của họ, không thể bám rễ được vào cuộc sống. Dĩ nhiên, nó không có sức sống. Chính thể ấy, đã già nua, lại đầy bệnh hoạn. Đứng vững sao được.

-Trên thế gian này, thông thường: Nhà nước, quản lý xã hội phải bằngLuật pháp. Những người CS, họ làm ngược lại.

Trong 1 phiên điều trần trước Quốc hội, một vị Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, ngang nhiên phát biểu: “Ơ nước ta xử đúng cũng được, xử sai cũng được, xử hòa cũng được, xử thắng cũng được, xử thua cũng được. (nguồn: “Tính nghiêm minh của Pháp luật”).  Đó là, lời thú nhận công khai, giữa thanh thiên – bạch nhật, rằng: “Những người Cộng sản, đang quản lý xã hội trên cơ sở Luật rừng”. Và dưới chế độ CS, không còn có khái niệm, gọi là Công lý và Đạo lý.

Sơ qua như thế, để thấy: Những người CS, họ đang đi ngược với những quy luật của Tự nhiên – của Xã hội. Bởi thế, dẫu tạm thời họ còn đang tồn tại, trong một thực lực, có vẻ rất mạnh. Nhưng , 太强必折 . Tháicường – tất chiết . Cứng quá, chỉ tổ dễ gãy. Ăn thua gì. Tương lai, họ sẽ đi theo vết xe đổ của Nga xô và các nước CS Đông Âu. Đó là 1 điều chắc chắn. Vấn đề còn lại, chỉ là nhanh hay chậm mà thôi.

Nguyễn Tiến Dân

Địa chỉ : 208 phố Định Công Thượng – quận Hoàng mai – Hà nội .

Điện thoại : 0168-50-56-430.

Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 1: Văn sư.

Dưới ánh sáng của nền Văn minh Trung hoa cổ đại: Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó  –  Bài 1: Văn sư.

Nguyễn Tiến Dân

27-10-2014

Đôi lời của tác giả: “Lục thao”, là 1 trong “7 bộ Binh pháp kinh điển” của Trung hoa cổ đại (Võ kinh thất thư). Không dừng lại, ở việc luận binh. “Lục thao”, còn dạy các bậc Đế vương, cách trị nước – an dân. Đọc “Lục thao”, ta sẽ hiểu, vì sao các thể chế Dân chủ, trường tồn và ngày càng phát triển bền vững. Tại sao, các thể chế độc tài, ngày càng thưa hiếm và suy vong. Ngẫm vào thực trạng của Đất nước, ta sẽ thấy, tương lai của đảng CS Việt nam, “tươi sáng” đến mức nào.

Xin lần lượt, giới thiệu “Lục thao”, với bạn đọc.

VĂN SƯ

Thiên này, thuật chuyện gặp nhau lần đầu, giữa Chu Văn vương và Khương Tử nha. Chu Văn vương, là vị Vua, giỏi đến mức, có thể đặt lời thoán, chú thích cho “Chu dịch”. Nhưng, chưa bao giờ vỗ ngực, tự cho rằng, mình là “đỉnh cao trí tuệ của Nhân loại”. Vì đại nghiệp diệt Thương, ông xuống mình, “cầu hiền như khát”. Khương Thái công, hung hoài thao lược. Chỉ hận, chưa gặp được minh chủ. Bèn về chốn sơn cùng – thủy tận, câu cá – đợi thời.

Chí lớn, gặp nhau. Bởi thế, sơ kiến mà đã như cố tri. Hai người, thảo luận sách lược thu phục thiên hạ. Mục tiêu và các biện pháp thi hành. Họ, dùng ngay việc câu cá, làm đề tàì, để triển khai thảo luận.

Biết Văn vương còn do dự, bởi nhà Thương quá mạnh. Khương Thái công, ngầm chi rõ: Đó chỉ là, cái mẽ ngoài. Sự thực, Thương triều đã mục ruỗng, đến tận xương – tận tủy. Nhà Chu, nên thừa cơ, mà đoat thủ thiên hạ. Muốn thu phục được Thiên hạ, phải có người đứng đầu, để tập hợp quần chúngNgười này, phải có đầy đủ cả Nhân – Đức – Nghĩa – Đạo. Những phẩm chất này, Trụ vương của nhà Thương không có. Trong khi, Văn vương đủ đầy.

Hai người, đồng quan điểm: Đất nước, phải là của Nhân dân (Dân chủ) và phải để cho mọi người, được “Ngôn luận tự do”.

文师

文王将田,史编布卜曰:“田于渭阳, 将大得焉. 非龙, 非螭, 非虎, 非羆,兆得公侯. 天遗汝师, 以之佐昌, 施及三王”。Văn vương tương điền, sử Biên bố bốc viết : “Điền vu Vị dương, tương đại đắc yên. Phi long, phi li, phi hổ, phi bi, triệu đắc công hầu. Thiên di nhữ sư, dĩ chi tá xương, thi cập tam vương”

Văn vương muốn đi săn. Ngài sai sử Biên, đoán cát hung. Sử Biên gieo quẻ, rồi bẩm lại: “Đến bờ bắc của sông Vị thủy,  Đại vương sẽ thu hoạch được rất lớn. Không phải được rồng, đươc li (Theo truyền thuyết, giống như rồng, sắc vàng, không có sừng), không phải được hổ, được gấu. Điềm báo, đươc công hầu, mà trời dành riêng, để làm quân sư cho Đại vương. Vị công hẩu này, sẽ giúp Đại vương, hưng nghiệp tận ba đời”

文王曰: “兆致是乎?”  Văn vương viết: “Triệu chí thị hồ”

Văn vương hỏi: “Điềm tốt đến thế sao ?”

史编曰: “编之太祖史畴为禹占, 得皋陶, 兆比于此” . Sử Biên viết : “Biên chi Thái tổ sử Trù, vi Vũ chiêm, đắc Cao Đào. Triệu tỉ vu thử”

Sử Biên đáp: “Xưa, Thái tổ của thần là sử Trù, chiêm bốc cho vua Vũ. Quẻ ấy, báo đươc quý nhân Cao Đào. Điềm hôm nay, giống như vậy”

文王乃斋三日, 乘田车, 驾田马, 田于渭阳, 卒见太公, 坐茅以渔 . Văn vương nãi trai tam nhật, thừa điền xa, giá điền mã, điền vu Vị dương. Tốt kiến Thái công, tọa mao dĩ ngư

Mừng quá, Văn vương bèn trai giới ba ngày. Sau đó, sai sửa soạn loan giá (xe Vua), để ông mang đi đón hiền tài, ở bờ bắc của sông Vị thủy. Đến đó, ngài thấy Thái công, đang ngồi trên đám cỏ lau um tùm, để câu cá. Lưỡi câu đã thẳng, không mắc mồi, lại còn để trên  mặt nước. Tai lắng nghe chim hót, mắt nhắm nghiền suy tư.

文王劳而问之, 曰: “子乐渔耶?” . Văn vương lao nhi vấn chi, viết: “Tử lạc ngư da”

Thấy lạ, Văn vương xuống ngựa. Lệnh cho tùy tùng đứng ngoài. Ngài vất vả, tự tay rẽ cây mở đường, vào để gặp Thái công. Gặp rồi, mới hỏi thăm rằng : “Ông lão, ông thích câu cá theo kiểu gì, mà lạ vậy ?”

太公曰: “臣闻君子乐得其志, 小人乐得其事”. Thái công viêt: “Thần văn quân tử lạc đắc kì chí, tiểu nhân lạc đắc kì sự”.

Thái công đáp: “Thần nghe, người quân tử, chỉ mãn nguyện, khi thỏa được chí của minh. Kẻ tiểu nhân, chỉ vui, khi được việc của mình”.

Sinh thời, trung tướng Trần Độ, “Những mơ xóa ác ở trên đời”. Cho nên, nguyện “phó thân cho đất trời”, để đi làm “cách mạng”. Đất nước đã thống nhất. Nhưng, nhận thấy: Dưới chế độ mới, cái ác, không có bị mất đi. Nó lại luân hồi. Chí chưa thỏa. Ông tiếp tục đấu tranh. Cho dù, bị mất hết mọi quyền lợi của cá nhân. Thật là, 1 vị Chính nhân – Quân tử.

Đối nghịch với Trần Độ. Biết bao nhiêu kẻ, sẵn sàng, làm những việc táng tận lương tâm. Miễn sao, chúng giữ được, cái ghế quyền lực của mình.

今吾渔甚有似也, 殆非乐之也 . Kim ngô ngư thậm hữu tự dã, đãi phi lạc chi dã.

Nay, thần ngồi câu cá ở đây, cũng vậy. Mệt mỏi và không vui thú gì, với việc đi câu.

文王曰: “何谓其有似也?”.  Văn vương viết: “Hà vị kì hữu tự dã?”

Văn vương hỏi: “Sao lại cho rằng, có sự giống nhau ở đây?”

太公曰: “钓有三权, 禄等以权, 死等以权, 官等以权”. Thái  công viết : “Điếu hữu tam quyền: Lộc đẳng dĩ quyền – Tử đẳng dĩ quyền – Quan đẳng dĩ quyền”

Thái công trả lời : “Những tay câu thiện nghệ, đều hiểu: Muốn câu cá gì, phải sắm thính – luyện mồi, cho phù hợp với sở thích của loài cá đó. Thánh nhân, chiêu nạp hiền tài, giúp mình mưu việc lớn, cũng phải làm như vậy :

+Có kẻ theo ta, mong hưởng bổng lộc. Hãy lấy nhà đất, lương bổng, sổ hưu ra, mà chiêu dụ nó.

+Có người theo ta, để giúp dân – cứu nước. Gian khó, họ không sờn lòng. Hi sinh, họ không quản ngại. Hãy khắc thẻ tre, lưu danh họ vào lịch sử. Hãy lập đền thờ, để dân chúng, muôn đời hương khói cho họ. Người đã khuất rồi. Nhưng vợ con họ, vẫn còn đó. Nhớ thay mặt người ta, mà chăm sóc cha me – vợ con họ, cho đàng hoàng – tử tế. Chớ nói đãi bôi – Đừng làm lấy lệ.

+Lại có người, nghiện quyền lực, mà đi theo ta. Hãy lấy chức tước, mà ban cho họ.

, thì cho làm đội trưởng đội thiếu nhi. Lớn, hãy lấy lon thượng – đại tướng ra, mà phong bừa phứa cho họ. Hãy lấy nhôm mỏng, dập thànhhuân – huy chương, rồi gắn chi chit lên ngực họ. Già rồi, cũng phải dựng lên những hội hữu danh – vô thực như: hội khuyến họchội bảo vệ người tiêu dùng … rồi ấn họ vào đấy. Loại này, ngồi không dễ sinh tật. Nhưng chớ trao quyền lực, để chúng phục vụ nhân dân, cho đến “hơi thở cuối cùng

夫多久以求得也, 其情深, 可以观大矣 . Phù đa cữu dĩ cầu đắc dã, kì tình thâm, khả dĩ quan đại hĩ

Người ta đi câu, lâu mau – nhiều ít, khoan hẵng nói. Nhưng, ai cũng mong được cá. Đó là, chân lí sâu xa .Từ việc ngồi câu cá, ta có thể, ngẫm ra nhiều việc lớn trong Thiên hạ.

文王 曰: “愿闻其情” . Văn vương  viết : “Nguyện văn kì tình”

Văn vương : “Xin rửa tai, lắng nghe”

太公曰: “源深而水流, 水流而鱼生之, 情也”. Thái công viêt: “Nguyên thâm nhi thủy lưu, thủy lưu nhi ngư sinh chi, tình dã”

Thái công chỉ dòng Vị Thủy, mà nói rằng: “ Đầu nguồn sâu, lưu vực rộng thì con sông đầy nước. Sông đầy, thì đưa dòng phù sa, đi nuôi dưỡng, cho những cánh đồng phì nhiêu. Đưa nguồn thức ăn dồi dào, đi nuôi dưỡng các loài cá tôm. Khiến chúng sinh sôi – phát triển. Đó là, lý Tự nhiên”.

根深而木长, 木长而实生之,情也 . Căn thâm nhi mộc trường, mộc trường nhi thực sinh chi, tình dã

Ngài chỉ 1 cây cao, trên bờ Vị Thủy, mà tiếp rằng: “Rễ có sâu, thì cây mới có thể vươn cao. Cây càng vươn cao, thì lượng gỗ sinh ra càng nhiều. Đó là, lý Tự nhiên”.

Cây có bộ dễ chùm, càng cố vươn cao, càng dễ bị bão quật ngã. Những chính thể, không bám rễ được vào cuộc sống, càng “phát triển nóng” bao nhiêu, càng chóng sụp đổ bấy nhiêu. Đó cũng là, lý Tự nhiên.

君子情同而亲合, 亲合而事生之, 情也. Quân tử tình đồng nhi thân hợp, thân hợp nhi sự sinh chi, tình dã.

Chậm rãi nhìn Văn vương, Thái công nói tiếp: “Những người Quân tử, họ có lí tưởng tương đồng. Những cách biệt về địa lí, những khác biệt về xuất thân, không thể ngăn được họ kết thân với nhau. Kết thân được với nhau, họ sẽ phát huy được thế mạnh của mỗi người. Nhân dân và Đất nước, đang chờ những quyết sách của họ. Đó là, Chân lí”.

言语应对者, 情之饰也 . Ngôn ngữ ứng đối giả, tình chi sức dã.

Trong một cộng đồng, lời ta nói ra, nhiều người hiểu. Nhưng nỗi lòng ta, mấy ai biết cho. Bởi vậy, người ta phải dùng ngôn ngữ – chữ viết, để biểu đạt tình cảm.

言至情者, 事之极也 . Ngôn chí tình giả, sự chi cực dã.

Lời nói chí tình, bao giờ cũng xuất phát từ trái timNgười ta dùng nó, để góp ý chân thành với nhau. Lời nói chí tình, có thể, đẩy sự việc, đi theo hai hướng trái ngược nhau:

+Gặp những người nhỏ nhen, họ sẽ ghét ta. Bởi, họ cho rằng, ta cố tình bới móc, dạy khôn, đố kị và nói xấu họ. Ai đã từng góp ý (phản biện) về bô xit, về xây mới tòa nhà quốc hội, về điện hạt nhân…chắc thấu hiểu điều này.

+Gặp những người đại lượng, họ sẽ cảm ơn ta. Bởi, ta làm cho họ, tỉnh táo nhìn lại mình. Gạn đục – Khơi trong, họ sẽ không mắc, những sai lầm ngớ ngẩn. Không có tấm gương, ai mà nhìn thấy vết nhọ, ngay trên trán của mình? Không cám ơn tấm gương, sao được.

今臣言至情不讳, 君其恶之乎? Kim thần ngôn chí tình bất húy, quân kì ố chi hồ?

Nay, thần sẽ nói, những lời chí tình, không kiêng nể. Đại vương, có muốn nghe không ? Nghe rồi, có truy chụp thần không ?

(Ngay từ đầu, Khương Tử Nha đã đề xuất với Văn vương: Hãy để cho những người xung quanh, được nói thẳng chính kiến của mình. Nói cách khác, hãy để cho họ, được Tự do ngôn luận. Không biến họ, thành những con vẹt. Nói những lời, không phải suy nghĩ thực của lòng mình).

文王曰: “惟仁人能受直谏, 不恶至情. 何为其然”. Văn vương viết: “Duy nhân nhân năng thụ trực gián, bất ố chí tình. Hà vi kì nhiên?”

Văn vương nói: “Chỉ những người nhân nghĩa, mới có khả năng tiếp thu, những lời can gián ngay thẳng – chân thành. Họ đâu ganh ghét, đố kị với những người khuyên can họ. Đó, chẳng phải là lẽ tự nhiên ư?”

太公曰: “缗微饵明, 小鱼食之”. Thái công viết: “Mân vi nhĩ minh, tiểu ngư thực chi”

Thái công trả lời: “Dùng chỉ làm dây câu – dùng hạt cơm làm mồi. Người ta, chỉ câu được cá thầu dầu, thòng đong, cân cấn. Giỏi lắm, thì được con cá mài mại”.

缗调饵香, 中鱼食之 .  Mân điều nhĩ hương, trung ngư thực chi.

Dùng cước làm dây câu – dùng giun làm mồi. Người ta, có thể câu được cá trê – cá chép.

缗隆饵丰, 大鱼食之.  Mân long nhĩ phong , đại ngư thực chi.

Dùng cáp lụa làm dây câu – dùng con chó, con vịt làm mồi. Người ta, có thể ra khơi, mà câu cá mập – săn cá sấu.

夫鱼食其饵, 乃牵于缗. Phù ngư thực kì nhĩ, nãi khiên vu mân.

Con cá kia, tham mồi. Nên, bị trói buộc, bởi dây câu.

人食其禄, 乃服于君. Nhân thực kì lộc, nãi phục vu quân.

Con người ta, ăn lộc của Nhà nước, nên phải phục vụ Vua.

故以饵取鱼, 鱼可杀 . Cố dĩ nhĩ thủ ngư, ngư khả sát

Dùng mồi đi câu, ta có thể bắt được cá.

以禄取人, 人可竭. Dĩ lộc thủ nhân, nhân khả kiệt.

Dùng bổng lộc đãi người. Người ta, có thể tận tâm – kiệt lực với ta .

以家取国, 国可拔. Dĩ gia thủ quốc, quốc khả bạt.

Làm cho vài kẻ có chức – có quyền, ở cái nước man di – mọi rợ kia, được “vinh thân – phì gia”. Nước ấy, chiếm dễ như bỡn. (Nhưng, có giữ được hay không, lại là chuyện khác hẳn) .

以国取天下, 天下可毕 Dĩ quốc thủ thiên hạ, thiên hạ khả tốt

Đem quyền lợi của nước này, dâng cho nước khác. Đem tử huyệt của nước nọ, nói với nước kia. Rồi xúi giục, xúc xiểm chúng đánh nhau. Đã đánh nhau, là sứt đầu – mẻ trán, là kiệt quệ. Khi kiệt quệ, tất phải nhờ ta, đứng ra dàn xếp. Việc thiên hạ, do ta dàn xếp. Thiên hạ ấy, không phải của ta, thì hỏi rằng: Thiên hạ ấy, là của ai?

Nhớ khi xưa:

Trung cộng, xua quân đánh chiếm Hoàng sa của Việt nam. Tàu chiến của Đệ thất Hạm đội, đã lừng lững tiến vào, định can thiệp. Ta biết rất rõ: Chỉ cần, có sự hiện diện của Hải quân Hoa kì (không cần họ nổ súng), “ bố bảo”, Trung cộng cũng không bao giờ, dám đánh chiếm Hoàng sa. Nhưng cuối cùng, tàu chiến Hoa kì, được lệnh rút ra. Để mặc đồng minh VNCH, chiến đấu anh dũng trong tuyệt vọng. Và để mất Hoàng sa. Hoa kì, không đến nỗi, “Giữa đường, thấy sự bất bình, chẳng tha”. Họ cũng thừa biết, cái giá phải trả, cho việc đánh mất chữ tín, khi bỏ mặc đồng minh.

Nhưng ở đây, họ có chủ ý. Vì, đó là bài “Vứt xương, cho sư tử cắn nhau”. Hoàng sa, rõ ràng không phải của Mĩ. Nhưng miếng mồi này, lại được Mĩ, sử dụng 1 cách cực kì thâm – hiểm :

+Trung quốc, chẳng có chứng cớ pháp lí vững chắc nào, để khẳng định, Hoàng sa là của họ. Phi nghĩa, nhưng lại cướp được Hoàng sa, 1 cách quá dễ dàng.Trung cộng, làm gì mà không biết, có sự tiếp tay của Hoa kì. Dĩ nhiên, phải chịu ơn họ. Chịu ơn Hoa kì, quà ra mắt: Chống LX mạnh hơn. Bức tường “đoàn kết” trong phe cộng sản, sẽ nứt thêm một mảng to tướng.

+Mâu thuẫn giữa giữa Việt nam DCCH và Trung quốc, từ nay, sẽ hết sức căng thẳng. Họ, sẽ luôn gầm ghè nhau. Sức mạnh của họ, bởi thế sẽ giảm đi đáng kể.

+Bắc Việt ở thế kẹt :

-Nếu không nói ra, sẽ bị hiểu là bán nước . Đồng thời, Trung quốc sẽ có cớ, để nói Hoàng sa là của họ

-Nói ra, Trung quốc chắc chắn cũng không hoàn trả Hoàng sa. Đã thế, còn mất đi viện trợ. Trong khi, Bắc Viêt đang hết sức cần đến nguồn viện trợ này . Để “giải phóng Miền nam – thống nhất Đất nước”.

-Hậu quả, Nhân dân Miền nam nói riêng và Nhân dân cả nước nói chung, mất đi thiện cảm, với chính phủ VNDCCH và Mặt trận DTGPMN.

Tình hình biển Đông, ngày càng phức tạp. Chứng tỏ, người Mĩ hết sức cao tay. Những con diều hâu ở Bắc kinh, đã tỏ ra hết sức sốt ruột. Chúng, liên tục gây hấn. Còn người Mĩ, dùng đúng bài của Trung cộng khi xưa: “Mi không đụng đến ta, thì ta cũng không đụng đến mi”. Và tuyên bố, đứng ngoài tranh chấp lãnh thổ. Sự thực, có phải như thế không? Ngàn lần Không. Hoa kì đang ung dung, chờ gặt hái thành quả của mình. Bắc kinh chưa nổ súng, nhiều nước đã xun xoe, chạy đến cầu cạnh Hoa kì. Trước kia, đuổi họ đi. Nay, năn nỉ, mời họ vào. Chỗ đứng chân của Hoa kì, trong Chiến lược toàn cầu, đã trở nên quá vững chắc. Chưa kể tình huống: Bắc kinh do bị ấm đầu, mà khai chiến ở Biển Đông. Họ chưa chắc, đã chiếm được Trường sa. Nhưng, có thể khẳng định, 1 cách chắc chắn rằng: Cả khu vực này, sẽ tình nguyện, xin nằm trong mặt trận chung, để chống Trung quốc. Tất nhiên, do Hoa kì đứng đầu. Tấm lưới, mà Hoa kì tung ra, để bao vây Trung quốc, đã dần được xiết chặt.

Đây có thể, được coi là, mẫu mực của sách lược “Dĩ quốc thủ thiên hạ”

呜呼, 曼曼绵绵, 其聚必散.  Ô hô,man man miên miên, kì tụ tất tán.

Ô hô, Thương triều kia, từ khi tụ nghĩa, để khởi binh – lập nghiệp đến nay, thời gian đã quá dài. Thành cao – hào sâu; binh hùng – tướng hổ, ăn thua gì. Chẳng qua, chỉ là cái mẽ ngoài. Thực chất, dân chúng ghê tởm, họ đang quay lưng – sĩ phu khinh bỉ, họ đã ngoảnh mặt. Xã hội thối nát – quan lại bạo tàn. Mục ruỗng, đến tận xương – tận tủy rồi. Đã đến lúc:

Mây tán   –  Tuyết tan  –  Hoa tàn   –  Trăng lặn .

嘿嘿昧昧, 其光必远.  Mặc mặc muội muội, kì quang tất viễn

Trong đêm đông âm u và lạnh lẽ, ánh hào quang, phát ra từ ngọn Hải đăng, sẽ được người ta, trông thấy từ rất xa. Giữa cái tối tăm – mù mịt đến mức đặc quánh của nhà Thương, với ánh hào quang, vừa mới nhen nhóm của nhà Chu. Không nói, Thiên hạ cũng biết, phải đi theo con đường nào.

微哉! 圣人之德, 诱乎独见. 乐哉! 圣人之虑, 各归其次, 而树敛焉 . Vi tai! Thánh nhân chi đức, dụ hồ độc kiến. Lạc tai! Thánh nhân chi lự, các qui kì thứ, nhi thụ liễm yên.

-Thánh nhân, chỉ có mỗi 1 cách, để thể hiện Đức hạnh của mình: Hãy làm, cho quần chúng thấy – Thấy rồi, người ta sẽ tin – Tin rồi, người ta sẽ yêu quí và kính trọng mình.

Xin hãy 1 lần, nghe theo lời khuyên của Tổng thống Việt nam Cộng hòa, ông Nguyễn Văn Thiệu. Để, nhìn vào việc làm của lãnh đạo CS:

Ông thì nhìn thấy sâu – mà không dám bắt. Ông thì nhìn thấy chuột – nhưng chẳng dám đập. Ông thì hứa: “không chống được tham nhũng, xin từ chức” – nhưng rồi thấy, ông xù. Ông Chủ tịch Quốc hội quyết sai – ông bắt Dân, phải chịu trách nhiệm thay mình.

Từ trên xuống dưới, rặt 1 loại võ mồm. Chuyên ăn tục – nói phét. Làm gì có Đức hạnh, mà bắt Dân tin.

-Thánh nhân, ngày đêm trăn trở. Sung sướng gì hơn, khi chứng kiến, dòng người trong Thiên hạ, lũ lượt đổ về theo mình. Nhân tâm tụ hợp. Đó là, điều kiện tiên quyết, cho việc “dựng công – lập nghiệp”.

文王曰: “立敛若何,而天下归之?”. Văn vương viết: “Lập liễm nhược hà, nhi thiên hạ qui chi?”

Văn vương hỏi: “Thánh nhân, phải tạo lập ở mình, những phẩm chất gì, khiến Thiên hạ, họ tự nguyện theo?”.

太公曰: “天下非一人之天下, 乃天下之天下也. Thái công viết: “Thiên hạ phi nhất nhân chi thiên hạ, nãi thiên hạ chi thiên hạ dã”.

Thái công đáp :  “Thiên hạ, không phải là của riêng của 1 người, hoặc là của riêng của 1 nhóm người.Thiên hạ, là của người trong Thiên hạ”. Nói cách khác, chính những người DÂN, đang sinh sống trên đó, mới là CHỦthể của Thiên hạ. Và, muốn thu phục được Thiên hạ, khoan hẵng nghĩ đến mình. Đầu tiên, phải học cách cúi đầu trước Thiên hạ.

Cách đây mấy nghìn năm, giữa thời phong kiến thối nát, luôn coi, Thiên hạ là của Vua. Khương Tử nha, đã nêu ra luận điểm, hoàn toàn trái ngược: “Thiên hạ là của Dân”. Thật là tuyệt vời. Rõ ràng, Khương Tử nha, đã đi trước thời đại. Nhà Chu, tiếp thu ý tưởng “Dân chủ” của Khương Tử Nha. Sửa đổi cho phù hợp và thi hành tốt điều này. Nên, tồn tại khoảng 800 năm (Lâu gấp 14 lần, so với Liên xô – “Thành trì” của phe XHCN)

同天下之利者, 则得天下 .  Đồng thiên hạ chi lợi giả, tắc đắc thiên hạ.

Ai, có khả năng, chia cho mọi người, cùng hưởng thụ nguồn lợi của Thiên hạ. Người đó, sẽ chiếm được Thiên hạ.

Ở các nước, theo thể chế Dân chủ, tiền thuế của dân, tiền bán tài nguyên…được công khai cho toàn dân biết. Được đưa vào quỹ an sinh xã hội. Người ta dùng nó, để chi trả cho Giáo dục, cho Y tế, cho Trị an, cho chăm sóc Môi trường…Vì thế: Trẻ con, đi học không mất tiền. Thất nghiệp, có Nhà nước trợ cấp. Đau ốm, được chăm sóc thuốc men cộng với tình thương mến. Nhân dân, yêu quí Nhà nước. Những Nhà nước ấy, sụp đổ sao được.

擅天下之利者, 则失天下 . Thiện thiên hạ chi lợi giả, tắc thất thiên hạ.

Ngược lại, nguồn lợi của Thiên hạ, mình khư khư độc chiếm. Chuyện mất Thiên hạ, chỉ là vấn đề thời gia .

Ông Saddam Hussein và ông Gaddafi đều có một điểm chung: Tất cả, mọi quyền lợi kinh tế – chính trị – văn hóa của đất nước, đều được đem gom hết vào mình, vào gia đình mình, vào cánh hẩu của mình.Tóm lại là độc tài. Kết quả: Không những mất Thiên hạ, mà bản thân ?

Một người, bị quần chúng tóm cổ, lôi ra khỏi ống cống. Van lạy, cũng không được tha. Giữa thanh thiên – bạch nhật, bị đập chết, một cách thê thảm. Xác, được trưng bày, trong lò mổ xúc vật.

Người kia, may mắn hơn chút xíu . Được đem ra xét xử, một cách đàng hoàng. Nhưng cuối cùng, đâu có thoát được, cái thòng lọng của giá treo cổ.

Đảng CS Việt nam, đâu có kém cạnh gì những ông đó. Quyền lợi của Đất nước, họ vơ hết vào lòng. Chính quyền, họ độc chiếm. Tương lai của họ, là con đường, mà 2 ông kia đã đi.

天有时, 地有财, 能与人共之者, 仁也. Thiên hữu thời, địa hữu tài. Năng dữ nhân cộng chi giả, NHÂN  dã.

Trời, cho con người ta thời cơ – Đất, cho con người ta sản vât. Biết đem chia những thứ đó, cho mọi người cùng hưởng. Thế mới là, có NHÂN.

Nói về tuyển chọn cán bộ. Ở Việt nam, không ai không biết đến “tứ ệ”: Hậu du(con ông cháu cha) – Tiền t – Quan h – Trí tu. Những người thực tài, họ rất ít có cơ hội, để được phục vụ Tổ quốc – phục vụ Nhân dân.

Việt nam, hút được dầu mỏ. Nhưng, dân chúng, chẳng hề biết, bán được bao nhiêu tiền và tiền ấy, được dùng vào việc gì. Chỉ biết, họ vẫn phải mua xăng, với giá thành, mà thuế và phí, đã chiếm non nửa trong số đó.

Đâu dễ gì thuyết phục, để Nhân dân tin rằng, những người CS, họ có NHÂN.

仁之所在, 天下归  之.  Nhân chi sở tại, thiên hạ qui chi.

Ở đâu có NHÂN, Thiên hạ sẽ theo về đấy. Những kẻ bất Nhân, Thiên hạ sẽ quay lưng – ngoảnh mặt.

免 人之死, 解人之难, 救人之患, 济人之急者, 德也 . Miễn nhân chi tử, giải nhân chi nan, cứu nhân chi hoạn, tế nhân chi cấp giả , ĐỨC dã.

Phải khoan dung – độ lượng. Tháo gỡ, những khó khăn cho người dân. Cứu họ, trong cơn hoạn nạn. Tiếp tế, khi họ gặp cảnh thiên tai. Làm được tất cả những cái đó, Đại vương đã để ĐỨC cho Thiên hạ.

Công an CS, bắt dân lành vì những tội tào lao. Vào nha môn, khỏe mạnh. Lúc ra, chỉ là cái xác, không hồn. Không phải 1, mà là nhiều. Nhiều như thế, nhưng chẳng thấy kẻ nào, bị đền tội. Ngược lại, người Dân có lỗi tí ti, họ bị hành hạ lên bờ – xuống ruộng. Chế độ như thế, đâu gọi là có đức.

Không những, không tìm cách tháo gỡ khó khăn cho người dân. Chế độ CS, luôn tìm mọi cách, để hành Dân. Cán bộ của họ, thản nhiên dạy nhau: “Việc dễ, không làm cho khó, lấy đâu thịt chó mà ăn”. Chế độ như thế, đâu gọi là có đức.

Khi người ta đau yếu, không có tiền, đừng mong được bệnh viện CS cứu chữa. Không có phong bì, đừng mong có thái độ ân cần. 3 đến 4 thằng dân đen, nằm chung 1 giường bệnh, là chuyện bình thường. Tính mạng của chúng, đáng kể gì. Bao nhiêu kinh phí, còn phải dồn cho cán bộ CS. Để, họ được đi chữa bệnh, ở những bệnh viện tốt nhất thế giới. Chế độ như thế, đâu gọi là có đức.

Khi người ta, gặp thiên tai – địch họa. Lâm vào cảnh, màn trời – chiếu đất. Cán bộ CS, cũng chẳng bỏ lỡ dịp, để xà xẻo cả vào tiền cứu trợ của cộng đồng. Họ “Ăn của dân, không chừa 1 thứ gì”(Lời bà Nguyễn Thị Doan). Chỉ có chế độ thất đức, mới sinh ra những loại cán bộ như vậy.

德之所在, 天下归之 . Đức chi sở tại, thiên hạ qui chi.

Phải có Đức, Thiên hạ mới theo. Nếu Đại vương thất Đức. Dẫu có bị kề gươm vào cổ, Thiên hạ, người ta cũng không đi theo Đại vương.

与人同忧同乐, 同好同恶者, 义也 .  Dữ nhân đồng ưu đồng lạc, đồng hiếu đồng ố giả , NGHĨA  dã

Biết cảm thông, mà không hả hê với nỗi đau của người khác. Biết hân hoan, mà không ganh ghét với thành công của họ. Cùng sở thích với Thiên hạ. Cùng ghét cay ghét đắng, những gì Thiên hạ không ưa. Làm được như thế, gọi là có NGHĨA.

Trên đời, ai cũng muốn, làm những việc mình say mê. Làm rồi, phải được hưởng thành quả. Không ai muốn, bị kẻ khác cướp công.

Câu chuyện anh em Đoàn Văn Vươn, ở Tiên lãng – Hải phòng, là 1 ví dụ nổi bật, để thấy cái NGHĨA của những người CS.

义之所在, 天下赴之. Nghĩa chi sở tại, thiên hạ phó chi.

Đại vương có nghĩa, bá tính trong Thiên hạ, họ sẽ giao phó tính mạng – của cải – tài sản cho Đại vương.

Bạn cho chính quyền CS vay tiền của – cho họ mượn tài sản ư? Hãy tin tưởng 1 điều: Họ, sẽ không bao giờ, hoàn trả lại bạn. Đi đòi ư? Nhà tù của chế độ, còn rộng chỗ lắm. Họ sẽ vu oan – giáng họa, để tống bạn vào. Bạn mong chờ điều chi, khi lũ “Đầu trộm – đuôi cướp”, chúng lại ngồi, ở ghế quan tòa?

凡人恶死而乐生, 好德而归利, 能生利者, 道也 . Phàm nhân ố tử nhi lạc sinh, hiếu đức nhi qui lợi. Năng sinh lợi giả, ĐẠO dã.

Con người ta, không ai thích chết chóc, bệnh tật, nghèo hèn, thiên tai, mất mùa, thi trượt, lỗ vốn, khổ nhục, tù tội…Ai cũng thích được sống lâu, khỏe mạnh, phú quí, được tôn vinh, hiển danh. đắc ý, làm ăn phát tài, học hành tấn tới…Ai, cũng quí trọng, người nhân đức – việc nhân nghĩa. Nhưng trên hết, người đời hành động, theo cái lợi của riêng mình. Giúp dân, sinh lợi và trừ hại cho họ, đại vương, đã thực sự : “thế Thiên hành Đạo rồi”.

Khi dân bị hại, chính quyền không trừ được hại cho họ. Người xưa, đã xếp chính quyền ấy, vào loại vô Đạo. Trên cả mức ấy, có chính quyền chuyên làm hại dân – hại nước. Nhưng, chưa thấy người xưa, đặt ra cái thứ hạng gì, để có thể, xếp nó vào?

道之所在, 天下归之.  Đạo chi sở tại, thiên hạ qui chi.

Ở đâu có đạo, Thiên hạ sẽ theo về.

文王再拜曰: “允哉, 敢不受天之诏命乎!” 乃载与俱归. 立为师 . Văn vương tái bái viết: “ Doãn tai, cảm bất thụ thiên chi chiếu mệnh hồ !” Nãi tải dữ câu qui. Lập vi sư.

Văn vương, bái tạ 2 lần, rồi nói: “Nghe tiên sinh giảng giải, khác nào, như quét được đám mây mù, mà trông thấy trời xanh. Ta đâu dám, không tiếp thụ, chiếu mệnh của Ngọc Hoàng thượng đế”. Nói đoạn, mời Khương Thái công, ngồi cùng xe, hồi triều. Lập làm quân sư.

Lời bàn:

-Quản Trọng, là Tể tướng của nước Tề, thời Xuân Thu. Ông đã từng tổng kết: 争天下者, 必先争人 – tranh Thiên hạ giả, tất tiên tranh nhân. Nghĩa là, muốn thu phục được Thiên hạ, đầu tiên, phải nghĩ đến chuyện giành dân.

Nhà buôn, muốn bán được hàng, bao giờ, họ cũng tìm mọi cách, để chiếm được tình cảm của khách hàng. Họ cải tiến mẫu mã – tăng chất lượng hàng hóa – giảm giá thành và tăng chất lượng dịch vụ. Họ biết, không làm tốt việc đó, chỉ có mỗi con đường: Phá sản và đi ăn mày. Đối với nhà buôn, không vui sướng gì hơn, khi chứng kiến cảnh khách hàng, ùn ùn đổ về mua và dùng sản phẩm của mình.

Trong bầu cử, ở các thể chế Dân chủ. Ứng cử viên nào, cũng phải vận động cử tri. Thuyết phục họ. Để họ tin mình, để họ theo mình và để họ dồn phiếu cho mình. Thắng cử rồi, họ tận tâm – tận lực, phục vụ Nhân dân. Những ông Chủ – bà Chủ của họ.

Những người CS, thì khác. Họ luôn tâm niệm 1 điều: “súng đã đẻ ra được chính quyền”, thì “súng cũng sẽ giữ được chính quyền”. Bởi thế, họ chỉ cần, tìm mọi cách để nắm lực lượng vũ trang và hết lòng chăm lo cho chúng. Đối với họ, quần chúng, chỉ là một con số 0 tròn chĩnh. Giỏi lắm, quần chúng là nơi để họ bóc lột – là nơi để họ sai khiến và là nơi, để họ bố thí của ôi thiu – dư thừa. Họ thản nhiên ăn trên – ngồi trốc trên đầu Nhân dân. Đó là, sai lầm chết người của CS. Không có ai dạy, để cho họ biết rằng: Không có Dân, chính quyền, chỉ như một con thuyền nằm trên bờ.

Nga xô và các nước CS Đông Âu sụp đổ. Những người CS, họ đổ riệt cho: “Âm mưu diễn biến Hòa bình” và “Các thế lực thù địch và phản động”. Xem ra, họ chẳng khác gì, những con đà điểu. Thích rúc đầu vào cát, để không muốn nhận ra, 1 sự thực rằng: Chính những ung nhọt, trong lòng chế độ CS và chỉ nó, mới có thể phá nát những chế độ CS. Ung nhọt đó, bắt nguồn từ chỗ: “bất Nhân – phi Nghĩa – thất Đức – vô Đạo”. Họ, không có, những phẩm chất của 1 bậc Đế vương. Nên dân chúng không theo. Mất dân, cho nên họ mất tất.

Ở Việt nam cũng vậy. Mấy triệu con người, đã phải gạt nước mắt, bỏ lại nhà cửa, bỏ lại người thân, bỏ lại Đất nước, mà ra đi. Họ, thà làm mồi cho cá mập, thà bị cướp biển giết chóc – cưỡng đoạt, chứ nhất định, không chịu sống dưới chế độ CS. “Chế độ CS, phải như thế nào, người ta mới bỏ đi ồ ạt như thế chứ”.

Khi bỏ nước, để đi tìm “mảnh đất hứa”: Người ta, chọn đến xứ, có “cờ 50 sao”. Chẳng ai chọn đến xứ có “cờ 5 sao” cả. Chẳng cứ cá nhân, các Nhà nước cũng vậy. Khi cần chọn đồng minh, ai cũng chọn Hoa kì. Không ai chọn Trung quốc. Tất nhiên, trừ nhà nước CHXHCN Việt nam. Bởi, người thông minh, họ phải biết, đi tới chỗ sáng. Nơi có NHÂN – NGHĨA – ĐỨC – ĐẠO. Chỉ có ngu dốt, mới chịu sa chân, để bước vào nơi tối tăm mù mịt.

Nguyễn Tiến Dân

Địa chỉ: 208 phố Định Công Thượng – quận Hoàng mai – Hà nội

Điện thoại: 0168-50-56-430.

Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 2: Doanh hư

Dưới ánh sáng của nền Văn minh Trung hoa cổ đại: Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 2: Doanh hư

Nguyễn Tiến Dân

DOANH HƯ

Thiên này, thảo luận việc hưng – suy – trị – loạn của 1 quốc gia.

Việc đó, không phụ thuộc, vào mệnh Trời. Không phụ thuộc, vào vị trí địa lí của Quốc gia. Không phụ thuộc, vào tập quán sinh hoạt của người Dân. Việc đó, hoàn toàn phụ thuộc, vào người đứng đầu quốc gia. Người đứng đầu giỏi, Đất nước sẽ phồn vinh. Nhân dân, sẽ ấm no – hạnh phúc. Ngược lại, lũ hôn quân – vô đạo, chúng, sẽ đưa Đất nước, đến chỗ điêu tàn. Đẩy dân chúng tới chỗ lầm than.

盈虚

文王问太公曰: “天下熙熙, 一盈一虚, 一治一乱, 所以然者, 何也. Văn vương vấn Thái công viết: “Thiên hạ hi hi, nhất doanh nhất hư, nhất trị nhất loạn, sở dĩ nhiên giả hà dã?”

Văn vương hỏi Thái công: “Thiên hạ, vốn dĩ hỗn loạn và phức tạp. Quốc gia: Có lúc, hưng thịnh – Có lúc, suy vong. Đất nước: Có lúc, của cải dư thừa – Có lúc, chết đói đầy đường. Dân chúng: Có lúc, an cư – lạc nghiệp. Có lúc, loạn lạc – bất yên. Cơ sự ấy tại đâu?”

其君贤不肖不等乎, 其天时变化自然乎? Kì quân hiền bất tiếu bất đẳng hồ, kì thiên thời biến hóa tự nhiên hồ?

Vua hiền, hay Chúa u mê không giống nhau, mà sinh ra chăng? Hay tại thiên thời – tự nhiên biến hóa, mà thành ra như vậy?

太公曰: 君不肖, 则国危而民乱. 君贤圣, 则国安而民冶. 祸福在君不在天时. Thái công viết: “Quân bất tiếu, tắc quốc nguy nhi dân loạn. Quân hiền Thánh, tắc quốc an nhi dân trị. Họa phúc tại Quân, bất tại thiên thời”

Thái công đáp: “Người đứng đầu Đất nước, có Tài hèn – Chí cùn. Tầm nhìn thiển cận. Tư duy nhiệm kì. Đã thế, lại còn ích kỉ. Chắc chắn, Quốc nguy, mà Dân loạn. Người đứng đầu Đất nước, Tài giỏi – Thông minh, có tầm nhìn xa – trông rộng. Hết lòng vì Dân – vì Nước. Chắc chắn, Quốc an, mà Dân trị. Họa – phúc của 1 Quốc gia, tại Vua – tại Chúa – tại người lãnh đạo.Thiên thời vô can”.

Cứ gì Quốc gia. Bill Gates, khởi đầu sự nghiêp, gần như, với 2 bàn tay trắng. Ông, chỉ có trong tay, niềm đam mê. Chỉ có trong tay, trí tuệ sắc bén. Cộng với, đầu óc tổ chức, cực tài. Bây giờ, nói đến ông và Microsoft, ai mà chẳng biết. Chương trình Bô xít của chúng ta, có dàn lãnh đạo, quá tồi. Chưa làm, đã thấy cửa bại. Nhưng, vẫn đâm đầu vào. Để đến giờ, càng làm – càng chết.

Cứ gì Doanh nghiệp. Gia đình nào, có ông bố tài năng – đức độ, có bà mẹ đảm đang – tháo vát. Gia đình ấy, ắt thuận hòa, ăn gia làm nên. Ngược lại, ông bố bất tài – nghiện ngập, bà mẹ vụng về – cờ bạc. Dẫu có hàng núi vàng, gia đình ấy, vẫn lục đục, chẳng bao giờ yên.

文王曰: 古之贤君可得闻乎?Văn vương viết: “Cổ chi hiền quân, khả đắc văn hồ?”

Văn vương hỏi: “Cổ đại, vị nào, có thể được coi là Vua hiền?”

太公曰: 昔者帝尧之王天下也, 上世所谓贤君也. Thái công viết: “Tích giả, Đế Nghiêu chi vương thiên hạ dã, thượng thế sở vị hiền quân dã”

Thái công trả lời: “Cổ – kim, đều ca tụng Đế Nghiêu. Ngài xứng đáng, được coi là, vị Vua hiền”.

文王曰:其治如何? Văn vương viết:“Kì trị như hà” .

Văn vương hỏi: “Đế Nghiêu, trị lí thiên hạ ra sao?”

太公曰: 帝尧王天下之时. 金银珠玉不饰, 锦绣文绮不衣. Thái công viết: “Đế Nghiêu vương thiên hạ chi thời, kim ngân, châu ngọc bất sức; cẩm tú, văn ỷ bất y”.

Thái công trả lời: “Đế Nghiêu khi làm Vua: Ngài, không dùng vàng bạc – châu báu, làm đồ trang sức. Không dùng lụa là – gấm vóc, để may y phục. Quần áo mặc, không may vá – thêu thùa cầu kì”.

奇怪珍异不视. 玩好之器不宝. Kì quái trân dị bất thị, ngoạn hảo chi khí bất bảo.

Việc li kì, không nghe. Vật quí hiếm, không xem. Trong nhà, không tàng trữ bảo vật, như ngà voi – sừng tê. Cũng không chứa đồ đẹp đẽ – chế tác cầu kì, như trống đồng, bình vàng, chén ngọc. Việc đó, Ngài dặn lại con cháu, xui lãnh đạo CS, loại như ông Lê Khả Phiêu. Để, ông ấy làm.

淫佚之乐不听, 宫垣屋室不垩. Dâm dật chi nhạc bất thính, cung viên ốc thất bất ác.

Nhạc dâm dật, không nghe. Thi Hoa hậu, không xem. Giữa thanh thiên – bạch nhật, trai gái, ôm riết lấy nhau, mà đú đởn trước liệt tổ – liệt tông, Ngài cấm chỉ. Hành vi đó, Ngài đóng hòm, cho xuất khẩu, sang Bộ Văn hóa của nước Nam.

Phòng Ngài ở: Tường, không cho bả – Vách, chẳng cho sơn. Xem ra, tư dinh của Ngài, chẳng bằng cái bếp, trong biệt thự của ông Bùi Thanh Quyến. Bí thư của 1 tỉnh, nhỏ xíu ở Việt nam.

甍、桷、椽、楹、不斫,茅茨偏庭不剪. Manh, giác, chuyên, doanh bất chước; Mao tỳ biên đình bất tiễn.

Cột, kèo, rui, mè để dựng nhà, Ngài không cho đẽo gọt – chạm trổ cầu kì. Mái điện, lợp bằng cỏ gianh. Nếu có lòa xòa, cũng chẳng cần cho cắt tỉa.

Thế mới hay, người xưa, chẳng biết thưởng ngoạn. Cung điện của Ngài, sánh sao cho được, với Hội trường Ba đình của Việt nam. Vậy mà, những người CS, họ vẫn cho đập đi. Để, xây Trụ sở Quốc hội mới. Tỷ lần, hoành tráng và đẹp đẽ hơn. Để, các ông nghị – bà nghị, có chỗ, vào đó mà ngủ gật.

鹿裘御寒, 布衣掩形. Lộc cừu ngự hàn; bố y yểm hình

Mùa đông, dùng da hươu, may áo. Khoác lên người, chỉ cốt chống rét. Mùa hạ, dùng vải thô, may y phục. Mặc vào người, chỉ cốt kín thân.

粝粱之饭, 藜藿之羹. Lệ lương chi phạn, lê hoắc chi canh

Cơm ăn, dùng gạo giã dối, để thổi. Canh chan, dùng rau hoang dã, để nấu. Không bao giờ, uống những chai rượu, giá bằng mấy con trâu. Chẳng cho phép, bán đi hàng chục tấn thóc. Để lập vườn, trồng sau sạch, chỉ dành riêng cho mình.

不以役作之故, 害民耕绩之时. Bất dĩ dịch tác chi cố, hại dân canh tích chi thời

Không cố, cưỡng ép dân, đi phu – đi lính. Nay hội, mai hè triền miên. Để làm hại tới ngân quỹ của Quốc gia và nông vụ của người Dân.

Thời Đế Nghiêu, “Vua – tôi đồng lòng. Anh – em hòa thuân. Cả nước gắng sức”. Bởi thế, Xã hội thanh bình. Toàn dân, liên kết, thành 1 khối thống nhất. Những nước láng giềng, dẫu có dã tâm, cũng không dám đến, để nhòm ngó. Nuôi làm gì lắm lính, để tổn hại, đến Ngân quỹ Quốc gia.

Những người CS, họ không có khả năng, đoàn kết được toàn dân. Họ, chẳng sợ Trung quốc. Vì, đấy là “bạn tốt” của họ. “Bạn ấy”, chỉ nhòm ngó thứ khác. “Bạn ấy”, đâu có nhòm ngó, ngai vàng của họ. Họ chỉ sợ, Nhân dân, sẽ lật đổ họ. Như Nhân dân, đã lật đổ các chế độ CS ở Nga xô và các nước CS Đông Âu. Vì thế, Công an “nhiều như quân Nguyên”. Nhưng, được giành phần lớn, để đi theo dõi và trấn áp người dân. Cướp – giết – hiếp – nghiện ngập đầy đường, đâu có thấy, bóng dáng các anh. Bộ đội, đông vô kể. Nhưng, thỉnh thoảng mới thấy họ. Khi, họ đi duyệt binh và khi, họ bám càng công an, để đi cưỡng chế Dân oan. Lãnh thổ, bị xâm phạm, chẳng thấy, ông lính nào, đến nhòm ngó.

削心约志, 从事乎无为. Tước tâm, ước chí. Tòng sự hồ vô vi.

Không muốn cao sang. Chẳng hề mơ mộng. Dân trí còn thấp, không siết ngân sách giáo dục, dành tiền nuôi gà nòi. Để mong, được giải Nô bel hão huyền. Kinh tế còn nghèo, không màng, xây những công trình “Xứng tầm khu vực và thế giới”. Chỉ cốt, khoe sự tham ăn và ngu dốt của mình.

Thuận theo tự nhiên, thuận theo dân ý mà trị nước, chăn dân. Ngài, không quy hoạch khu dân cư, ở vùng trũng. Bởi thế, triều cường, dẫu có lên đến đỉnh, cũng chẳng hề ảnh hưởng, đến việc đi lại và sinh hoạt của Nhân dân. Thuận theo nguyện vọng của Nhân dân, Ngài, tuyển chọn quan lại, thật kĩ càng.

吏忠正奉法者尊其位. Lại trung chính, phụng pháp giả, tôn kì vị.

Tiêu chuẩn, để tuyển chọn quan lại, bao gồm: Trung thành – Chính trực – Thượng tôn pháp luật. Và, chỉ những người, làm tốt các tiêu chí đó, mới được thăng chức.

Tục ngữ Việt nam, có câu: “Ăn cây nào – Rào cây ấy”. Quan lại, lĩnh lương của Nhà nước. Họ, phải có nghĩa vụ, trung thành với Tổ quốc và hết lòng, phục vụ Nhân dân. Họ không thể nhập nhèm: Lĩnh lương của Nhà nước, nhưng lại tuyên thệ trung thành và làm việc, cho 1 cái đảng nào đấy. Giống như sư sãi: Khi đã qui y, họ được ăn oản. Bắt buộc, họ phải ở lại chùa, mà quét lá đa. Họ, không được phép, mang lộc Chùa, để về, xây nhà thờ Tổ của mình.

Quan lại thời nay, đầy kẻ gian dối. Bằng cấp, chúng đi mua. Tuổi tác, chúng khai man. Quả trứng, có thể ăn cắp được. Xá gì, mà chúng, chẳng dám trộm bò. Đưa những kẻ lươn lẹo, vào hệ thống chính quyền. Chúng, sẽ phá nát chính quyền và chia nhau, ăn hết sạch của cải của Nhân dân.

Khi làm viêc, quan lại: “Lục thân đến, không được nhận – Đầu đảng nói, không được nghe”. Chỉ biết, “Thượng tôn pháp luật”. Pháp luật, cho người dân, được “Tự do ngôn luận”. Đừng bịt mồm – bịt miệng người ta. Pháp luật, cho người dân, được “Tự do đi lại”. Chớ xích chân – trói cẳng người ta. Pháp luật, cho người dân, được “Ứng cử tự do”. Đừng đem, “Mặt trận Tổ quốc” ra, làm trò mèo, để loại bỏ người ta.

廉洁爱人者厚其禄. Liêm khiết, ái nhân giả, hậu kì lộ.

Muốn Quan lại liêm khiết – thương dân, ít nhất, cũng phải trả cho người ta, đồng lương đủ để sống. Các thể chế Dân chủ, họ đều thực hiện cách này. Nhưng, thể chế CS, thì không. Cán bộ của họ, có đồng lương chết đói. Muốn sống sung túc, họ không từ 1 thủ đoạn nào, để vơ vét của Nhân dân.

民有孝慈者爱敬 之. Dân hữu hiếu từ giả, kính ái chi.

Xã hội, thời Đế Nghiêu. Những người, được kính trọng nhất: Không phải, là bọn trọc phú, lắm tiền. Không phải, là kẻ dốt nát, có quyền cao – chức trọng. Những người: Ở nhà mình, họ Hiếu thảo – Ra ngoài đường, họ Từ tâm. Họ, là người tốt, từ trong – ra ngoài. Họ, được cả xã hội, kính trọng.

Thời CS, cả xã hội, xun xoe trước những kẻ giàu và quị lụy, đến mức hèn hạ, trước những kẻ cầm quyền. Từ tâm và Hiếu thảo, là những thứ xa xỉ, hiếm gặp vô cùng. Mấy ai, biết rằng: Có bác sĩ, đã cấy vi trùng phong, vào dái tai của mình. Để chứng minh, bệnh phong không dễ lây. Để kêu gọi, cả xã hội, đừng kì thị những bệnh nhân, mắc chứng bệnh phong. Bao nhiêu người, biết rằng: Có cô nuôi dạy trẻ, lăn xả vào miệng rắn độc, để cứu cháu bé. Cô, bị rắn cắn. Nhưng, cháu được bình yên. Xã hội, thời CS, vinh danh họ, hay nghĩ rằng, họ là những người điên?

尽力农桑者慰勉之. Tận lực nông tang giả, ủy khuyến chi.

Tận lực, tăng gia sản xuất – khai hoang phục hóa, như Đoàn Văn Vươn. Ngài về tận nơi: Cầm tay, mà biểu dương – Cho vay thêm tiền, mà làm vốn – Cấp thêm ruộng đất, cho mà làm ăn. Bởi Ngài biết, Vươn mà ăn to – làm lớn, bao nhiêu người chậm chạp, họ sẽ có phận nhờ.

Trong hoàn cảnh, nhà nghèo – vốn ít – con đông. Những gia đình căn cơ, họ không bao giờ chia đều – cào bằng. Họ dồn tiền vốn – đất đai, cho đứa nào có khả năng, để nó sản xuất. Họ dồn tiền của – thời gian, cho đứa nào thông minh, để nó đi học. Họ gom vàng – bạc, cho đứa nào tháo vát, để nó vượt biên. Những người con đó, sau này, sẽ dìu dắt, tất cả những người còn lại của gia đình.

Những người CS, họ làm ngược lại. Đất đai – vốn liếng, họ không giao cho những người tài giỏi. Họ, giao hết vào tay, lũ đầu đất. Đầu tư vào chúng, khác nào, đổ tiền vào 1 cái thùng, không đáy. Không sạt nghiệp, sao được.

旌别淑德, 表其门闾. Tinh biệt thục đức, biểu kì môn lư.

Phụ nữ, có “Tiết hạnh khả phong”, được mọi người biết, ngay từ khi, đặt chân đến cổng làng.

Chư hầu, có quý bà, trải qua ba – bốn đời chồng, cuối cùng vẫn lấy được Vua. Vẫn được Vua, lập làm Hoàng hậu. Sự ô nhục ấy của Vua chư hầu và sự “tài giỏi” của Hậu, sẽ được vinh danh, nơi cửa chuồng trâu.

平心正节, 以法度禁邪伪. Bình tâm chính tiết, dĩ pháp độ cấm tà ngụy

Khí tiết thanh cao – Tấm lòng ngay thẳng. Lấy pháp luật, mà cấm chỉ tà ngụy – đồng cốt – bói toán quàng xiên. Không bao giờ, nghe lời xui dại của lũ Hòa thượng Quốc doanh, để làm những chuyện nhảm nhí. Tỉ như đúc 2 quả tim, rồi yểm cho tượng Thánh Gióng, lẫn con ngựa đồng. Nếu, những người CS, tin rằng, phải có sự ấy, thì tượng mới Linh thiêng. Bắt buộc, ta phải nghĩ rằng: Họ, đang hạ bệ, Thần tượng Hồ Chí Minh. Bởi, chắc chắn 1 điều: Trong lồng ngực của Chủ tịch, bây giờ, không có quả tim của Người.

所憎者, 有功必赏. Sở tăng giả, hữu công tất thưởng.

Người mà mình không ưa, có công, vẫn được trọng thưởng.

Trung tá Ngụy Văn Thà, cùng các chiến sĩ Hải quân Việt nam Cộng hòa, đã anh dũng hy sinh, để bảo vệ, sự toàn vẹn lãnh thổ của Đất nước. Dẫu, không ưa chế độ Việt nam Cộng hòa. Nhưng, những người CS, vẫn phải có nghĩa vụ, vinh danh họ. Thế, mới phải Đạo.

所爱者, 有罪必罚. Sở ái giả, hữu tội tất phạt.

Người mà mình yêu quí, có tội, vẫn phải lôi ra chém đầu.

Xưa, Khổng Minh, phải gạt nước mắt, để chém Mã Tốc – một đệ tử yêu của mình. Do can tội, để mất Nhai đình. Nay, Vinashin, làm thất thoát của Đất nước, có nhõn 4 tỉ USD. Nhà nước CS, cho toàn dân biết “Bộ Chính trị quyết định, không xử phạt 1 ai”. Phép nước, “nghiêm” đến thế là cùng.

存养天下鳏, 寡, 孤, 独. 赈赡祸亡之家. Tồn dưỡng thiên hạ quan, quả , cô , độc ; Chẩn thiệm họa vong chi gia .

Lập trại dưỡng lão, để nuôi dưỡng người già yếu – cô đơn – cô nhi – quả phụ. Tổ chức cứu tế, cho những gia đình, gặp địch họa – thiên tai.

其自 奉也甚薄, 其赋役也甚寡. Kì tự phụng dã thậm bạc, kì phú dịch dã thậm quả

Bản thân sống cần kiệm – sinh hoạt đạm bạc. Thu của dân thì nhẹ thuế – ít phí. Không tùy tiện, bắt dân phu phen – tạp dịch.

Thông qua, 1 ví dụ cụ thể, là chiếc ô tô. Chúng ta hãy xem, những người CS, họ đã học được những gì, ở Đế Nghiêu. Chiếc ô tô, phải cõng trên mình nó, ít nhất, 3 loại thuế và 7 loại phí. Loại nào, cũng rất “nhẹ”. Cho nên, để sở hữu, một chiếc Hyundai SantaFe nhập khẩu, người tiêu dùng, phải bỏ ra, khoảng 83.000 USD. Trong khi, chiếc xe này, có giá tại Mỹ, chỉ là 23.000 USD.

CS, không chịu làm. Nhưng, họ ăn quá dầy.

故万民富乐而无饥寒之色. Cố vạn dân phú lạc nhi vô cơ hàn chi sắc.

Cho nên, vạn dân giàu có – yên vui. Muôn nơi, rộn tiếng cười. Không đâu, ngộ cảnh đói – rét.

百姓戴其君如日月, 亲其君如父母. Bách tính đái kì Quân như nhật nguyệt, thân kì Quân như phụ mẫu.

Trăm họ, mang ơn Vua, như đội ơn, hai vầng Nhât – Nguyệt. Thân thiết, kính trọng Vua, như cha mẹ của mình.

Đó, cũng chính là lý do, giải thích tại sao: “Các thế lực thù địch và phản động”, lẫn “Âm mưu diễn biến Hòa bình”, không dám và không thể, lật đổ được, vị Vua thân yêu của họ.

文王曰:大哉!贤君之德也! Văn vương viết: “Đại tai! Hiền Quân chi Đức dã”.

Đức hạnh của bậc Thánh nhân, cao siêu vời vợi. Rút gọn lại, chỉ gồm: Cần – Kiệm – Liêm – Chính. Chí công – Vô tư. Ai, mà chẳng nói được. Nhưng, có phải, ai cũng làm được như Đế Nghiêu đâu.

Vì thế, Văn vương phải thốt lên : “Ôi! Vĩ đại thay, cái Đức của bậc Thánh nhân”.

Lời bàn:

Ở Việt nam, có 1 ông, Trung ương ủy viên – phó trưởng Ban Tuyên huấn. Ông ta, làm như thể, mình là người đầu tiên, phát hiện ra 1 sự thật: “Nước ta, cùng Hàn Quốc, cách đây 50 năm, đều trong một hoàn cảnh giống nhau. Vậy mà hôm nay, ở Việt Nam, có khoảng 90.000 người Hàn Quốc. Họ, đều là những ông chủ – bà chủ. Còn, 90.000 người Việt ở Hàn Quốc. Tất thảy, đều đi đến đó, để làm tôi tớ”. Nếu biết điều, xin ông, hãy nói tiếp: “Nhật bản và Hàn quốc, giàu có và Văn minh. Bởi, họ có ban lãnh đạo tài giỏi, hết lòng vì Dân – vì Nước. Lãnh đạo Việt nam, có những phẩm chất ngược lại. Bởi thế, chúng ta đã – đang và sẽ mãi mãi, vẫn nghèo hèn và lạc hậu. Không thể khác được”.

Ông Tố Hữu, có 1 câu thơ: “Ta tự hào đi lên. Ôi Việt nam”. Không tự hào, sao được. Bởi, đường tới Thiên đàng của chúng ta, Thiên hạ, chẳng ai dám đi. Vì, họ biết, đích đến của nó, là vực thẳm. Chỉ có ta, nhắm mắt và hiên ngang bước tới. Đường chúng ta đi, lồi lõm, giống như mặt ruộng, lúc mới cày. Phố xá chúng ta ở, mưa xuống là thành sông. Sông ngòi của chúng ta, đen ngòm và đặc quánh. Đầy túi nilon và dư thừa xác xúc vật. Thủ đô “nghìn năm văn hiến”của chúng ta, bẩn thỉu – hôi thối – nhếch nhác – lộn xộn và kệch cỡm. Con người của chúng ta, được đảng giáo dục. Cho nên, Văn – Võ toàn tài. Văn: Bằng cấp của chúng ta, chẳng được ai tôn trọng và công nhận. Đi ra nước ngoài, họ cảnh báo chúng ta, bằng tiếng Việt: Xin đừng ăn cắp của họ. : Động tí, là đánh – chửi nhau. Đi ăn cắp chó, cũng có thể, bị đập chết, như 1 con chó. Những người cai trị chúng ta, họ thật là nhân từ. Họ, cư ngụ, trong những căn biệt thự xinh đẹp. Mặc kệ người Dân, sống vất vưởng. Họ, coi người dân, chỉ bằng nửa con mắt. Công an của chúng ta, “giỏi nhất Thế giới”. Bằng chứng, chính họ, phát truyền đơn, cảnh báo cho du khách, trộm cắp ở Việt nam, nhiều hơn rươi.

… và …

Xem bức tranh, phác họa 1 cách vội vàng đó. Bạn, thấy tự hào hay nhục nhã, khi cầm trên tay, cuốn Hộ chiếu của nước CHXHCN Việt nam? Quan trọng hơn, bạn nghĩ, đấng Quân vương của chúng ta: Hiền minh, hay là lũ đầu đất?

Những người CS, họ lập ra, cái gọi là, Ban Tuyên giáo Trung ương. Giao cho, 1 ông vua của đảng CS, cầm đầu. Tập hợp trong đấy, tinh những Giáo sư – Tiến sĩ. Họ được đào tạo, 1 cách, hết sức bài bản. Chuyên “định hướng dư luận” và “đấu tranh, với các luồng tư tưởng, đối nghịch với đảng CS”. Hướng ra nước ngoài, tất nhiên, họ không dám rồi. Bởi, ra ngoài đó: Ăn nói mà u mê – Diễn thuyết mà lẩm cẩm. Thiên hạ, người ta lập tức cấm cửa. Họ không dỗi hơi, nói chuyện với thằng khùng. Trong nước, một mình – một chợ. Sao chẳng dám, lập 1 diễn đàn công khai. Để, những tinh hoa của đảng CS, đối thoại trực tiếp với Nhân dân và vạch rõ, những luận điệu sai trái của “Các thế lực thù địch và phản động” ?

Chiến thắng “đối lập”, bằng lý luận và thực tiễn. Bao giờ, cũng vẻ vang hơn, chiến thẳng họ, bằng nắm đấm. Ban Tuyên giáo Trung ương, hãy chứng tỏ: các Anh – các Chị, có bản lĩnh; các Anh – các Chị, không phải là 1 thực thể thừa và các Anh – các Chị, không bao giờ, chịu núp sau đũng quần của ngành Công an. Xin, các Anh – các Chị, hãy dũng cảm lên.

Mang chiêng, đi đấm ở xứ mình.

Không kêu, cũng phải đánh 1 hồi, cho Thiên hạ biết danh

Nguyễn Tiến Dân

Địa chỉ : 208 phố Định Công Thượng – quận Hoàng mai – Hà nội

Điện thoại : 0168-50-56-430

ĐỪNG TỨC TỐI MỘT CÁCH VÔ LÝ

ĐỪNG TỨC TỐI MỘT CÁCH VÔ LÝ

Nguyễn Trọng Vĩnh

Việt Nam và Ấn Độ hợp tác khai thác dầu khí tại vùng biển phía nam của Việt Nam, Trung Quốc cũng phản đối. Sau chuyến thăm Ấn Độ của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, hai nước sẽ lại tăng cường hợp tác khai thác dầu khí ở biển Đông thuộc vùng biển của Việt Nam.

Báo nhân dân TQ tức tối phản đối, nói: ” Hà Nội phải thực tâm trên vấn đề tranh chấp chủ quyền biển, đảo,… Việt Nam đã khai thác trái phép trên biển Đông thu lợi khổng lồ,… dùng nước khác để chọc tức TQ,… Việt Nam nên chứng tỏ thực tâm trong quan hệ với TQ” .

Ô hay! Việt Nam và Ấn Độ hợp tác khai thác trong lãnh hải và thềm lục địa của mình phù hợp với UNCLOS, công ước Liên Hợp Quốc về luật biển 1982, việc gì mà TQ phải hằn học?

Ai trái phép? Nhà cầm quyền TQ chỉ dựa vào cái “đường chín đoạn” (lưỡi bò) mà chính phủ Tưởng Giới Thạch tự vẽ từ năm 1948 phi lý, phi pháp, không giải thích được, bị quốc tế phủ nhận để tuyên bố chủ quyền gần hết biển Đông mới là trái phép vì biển Đông là đường hàng hải quốc tế, chứ đâu phải là cái “ao nhà” của TQ! Đúng là sự tức tối của lòng tham bành trướng, bá quyền.

Ai không thực tâm?

Chính là TQ không thực tâm với Việt Nam.

Khi TQ nêu ra phương châm 16 chữ và 4 tốt, lãnh đạo Việt Nam thực hiện nghiêm chỉnh. TQ đã không thực hiện, trái lại còn gây ra bao nhiêu điều tai ác trên bộ và trên biển đối với Việt Nam.

Ngày 27/10/2014, Dương Khiết Trì sang Hà Nội, thái độ tỏ ra ôn hòa, đấu dịu nói những là: “quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và TQ đang phát triển lành mạnh, tranh chấp cần giải quyết hòa bình, song phương, việc ổn định tình giữa hai bên là phù hợp với nguyện vọng giữa hai nước, có lợi cho hòa bình, ổn định và phát triển…“, trong khi đó TQ vẫn xúc tiến hoàn thiện đường bay và căn cứ quân sự tại cụm bãi đá Gạc Ma chiếm của Việt Nam năm 1988 nhằm đến thời cơ nào đó đánh chiếm nốt Trường Sa của Việt Nam, còn chuẩn bị xây dựng “bến tàu nổi” ở đây nữa. Rõ là “miệng nam mô bụng một bồ dao găm”. TQ thật tâm với quan hệ Việt -Trung như thế ư?!

Nhớ lại trước đây, trong thời kỳ TQ đặt giàn khoan HD 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, bị chúng ta phản đối quyết liệt, dư luận thế giới phê phán, Dương Khiết Trì cũng đã sang Việt Nam lúc đó ông ta vẫn còn nêu ra với ta nhiều yêu cầu vô lý có tính vị kỷ nào là: “Việt Nam không nên làm quá ồn ào vấn đề tranh chấp, không nên kiện TQ, không nên công bố những tư liệu mà Việt Nam nói là có về các quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) làm cho Thế giới “hiểu nhầm” (!), không nên xích gần với Mỹ, v.v.”. Sau khi ông ta về, báo chí TQ còn láo xược đăng :“Đồng chí Dương Khiết Trì sang Việt Nam để kêu gọi đứa con hoang đãng trở về“!!

Lần này (27/10/2014), ông ta sang đội lốt ôn hòa, hạ giọng (tạm giấu bồ dao găm đi), cố ý làm như tình hình biển Đông đã lắng dịu là nhằm mục đích gì?

Chả là trước các hội nghị APEC, ASEAN, EAS trong đó có TQ và nhiều nước tham dự, ông Tập muốn khoác lại cho mình chiếc áo “trỗi dậy hòa bình” giả dối để trong các hội nghị đó, người ta không nêu vấn đề biển Đông và chỉ trích TQ gây tình hình căng thẳng. Đó là thủ đoạn ngoại giao xảo quyệt của nhà cầm quyền TQ: “hòa dịu là sách lược, bá chiếm biển Đông là chiến lược”, “hòa dịu tạm thời, để thực hiện quyết tâm không thay đổi”.

Các nước ASEAN và cộng đồng quốc tế sẽ không mất cảnh giác.

N.T.V.

Nguyên nhân đưa đến sự sụp đổ bức tường Berlin

Nguyên nhân đưa đến sự sụp đổ bức tường Berlin

Những mảnh tường của Bức tường Berlin được trưng bày để bán tại thành phố Teltow, gần Berlin, Đức, vào dịp kỷ niệm 24 năm bức tường này sụp đổ.

Những mảnh tường của Bức tường Berlin được trưng bày để bán tại thành phố Teltow, gần Berlin, Đức, vào dịp kỷ niệm 24 năm bức tường này sụp đổ.

Andre DeNesnera

29.10.2014

WASHINGTON—

Ngày 9 tháng 11 đánh dấu 25 năm ngày bức tường Berlin sụp đổ.

Các sử gia nói trong các thập niên 1960 và 1970, Tây Đức đã phát triển một nền kinh tế vững mạnh, và Tây Berlin chia sẻ sự thịnh vượng đó.

Ông Frederick Taylor, một chuyên gia về Bức tường Berlin, tác giả cuốn The Berlin Wall – A World Divided 1961-1989 – tạm dịch là Bức tường Berlin – Một Thế giới chia cách 1961-1989, nói rằng Đông Đức cũng có một hình thức tiến bộ kinh tế nào đó, tuy không ở mức ngang với Tây Đức.

Ông Taylor nói: “Trong thời gian từ 1961 đến khoảng 1973-74, tiêu chuẩn sinh hoạt và sự sẵn có của hàng hóa tiêu thụ bên trong Đông Đức được cải thiện rất nhiều. Có máy giặt, máy truyền hình, thậm chí cả xe hơi – có thể phải đợi 5 năm mới mua được một chiếc, nhưng tôi nghĩ vào năm 1961, chỉ có ba phần trăm người Đông Đức có được xe hơi, và đến 1975 thì tỷ lệ đó là 15 phần trăm. Không phải là nước Mỹ, nhưng cũng rất tốt so với tình trạng trước đó. Vấn đề là tất cả là nhờ vào dầu và nguyên liệu do Nga trợ cấp.”

Vào giữa thập niên 1970 diễn ra vụ chấn động về dầu hỏa ở Trung Đông, đẩy mạnh giá dầu. Các khoản trợ cấp của Liên bang Xô viết bị cắt và theo ông Taylor, giới lãnh đạo Đông Đức không còn có khả năng cung cấp cho công dân hàng tiêu thụ nữa.

Ông Taylor nói: “Hoa quả và rau cỏ nhập khẩu chẳng hạn, bắt đầu biến mất khỏi các quầy hàng. Chỉ là những thứ lặt vặt – như không có đủ hắc ín để rải đường, nên đường càng ngày càng xấu. Lúc đầu đã khá xấu, nhưng còn tệ hơn nữa vào thập niên 1970 và bước vào thập niên 1980. Các tòa nhà không được sửa chữa. Mọi thứ không được nhập – các mặt hàng xa xỉ vân vân – chỉ có được nếu có những khoản ngoại tệ lớn, tiền có giá, cụ thể là đôla Mỹ hay đồng Mark của Đức chẳng hạn.”

Ông Taylor và những người khác nói cho đến khi ông Ronald Reagan lên làm tổng thống năm 1980, quân đội, nhưng nhất là sự yếu kém về kinh tế của Đông Âu và toàn bộ khối Xô viết đã trở nên rõ ràng.

(Ảnh tư liệu) Tổng thống Mỹ Ronald Reagan (phải) và nhà lãnh đạo Liên bang Xô viết Mikhail Gorbachev ký Hiệp ước Các lực lượng Hạt nhân tầm trung (INF) tại Tòa Bạch Ốc, 8/12/1987.

(Ảnh tư liệu) Tổng thống Mỹ Ronald Reagan (phải) và nhà lãnh đạo Liên bang Xô viết Mikhail Gorbachev ký Hiệp ước Các lực lượng Hạt nhân tầm trung (INF) tại Tòa Bạch Ốc, 8/12/1987.

Các nhà phân tích nói một người cảm thấy sự yếu kém này và biết rằng chế độ cộng sản phải thay đổi là ông Mikhail Gorbachev, người đã trở thành nhà lãnh đạo liên bang Xô viết vào tháng 3 năm 1985.

Ông Serge Schmemann là một cựu thông tín viên ở Moscow và Bonn của tờ New York Times, nêu nhận xét:

“Một khi ông Gorbachev đề xuất chính sách đổi mới glasnost, một khi ông nới lỏng những dây trói, là tất cả các nước Đông Âu bắt đầu cảm nhận một hình thức phong trào hoặc bên trong các đảng cộng sản hoặc từ bên dưới lên – một sự cởi lỏng.”

Tại Đông Âu, sự độc quyền của các đảng cộng sản, được Liên bang Xô viết hỗ trợ từ mấy chục năm, đang trên đường bị phá huỷ. Ba Lan và Hungary dẫn đầu.

Các chuyên gia phân tích nói năm 1989 là một năm quyết định. Sử gia Frederick Taylor nói một quyết định của ông Gorbachev đã có hậu quả tức thời cho Đông Âu – nhất là Đông Đức.

Ông Taylor kể: “Điểm thực sự cấp thiết vào năm 1989 xuất hiện vào mùa hè khi mọi sự rõ ra là ông Gorbachev, nhà lãnh đạo cải cách mới ở Liên bang Xô viết không sẵn sàng sử dụng Hồng Quân để đàn áp giới bất đồng, đàn áp các cuộc biểu tình, đàn áp sức ép đòi cải cách ở bên trong Đông Đức. Và giờ khắc mà theo một cách nào đó, ông ấy rút đi một phần tư triệu ngọn mác đã giữ vững toàn bộ nước cộng sản Đông Đức, cũng chính là lúc bức tường trở nên vô vọng.”

Ông Gorbachev thực sự đã bác bỏ chủ thuyết Brezhnev nói rằng nếu bất cứ nước nào tìm cách tách ra khỏi sự kiểm soát của Xô viết, thì Moscow có thể dùng vũ lực can thiệp như vào năm 1956 ở Hungary, và năm 1968 ở Tiệp Khắc.

Các chuyên gia phân tích nói một khi ông Gorbachev có quyết định đó, các diễn biến ở Đông Âu và nhất là ở Đông Đức tăng hẳn nhịp độ.

Ông Taylor nói vào tháng 8, chính phủ Hungary đã có quyết định quan trọng là mở cửa biên giới với nước Áo.

Ông Taylor kể: “Điều này có nghĩa là thực ra, lần đầu tiên từ gần 30 năm, người dân Đông Đức có thể ra khỏi nước để sang một nước bạn cộng sản, đó là Hungary – và bước vào một nước tư bản là nước Áo, rồi từ đó đi bất cứ nơi nào họ thích: đi Munich, Miami, Montevideo – bất cứ nơi nào họ muốn. Và sau đó những người còn ở lại Đông Đức đã biểu tình đòi cải cách, đòi được phép đi lại một cách dễ dàng và hợp pháp, đòi chấm dứt những cuộc bầu cử gian lận, đòi cải thiện kinh tế.”

Nhà sử học nói các cuộc biểu tình tăng lên khắp Đông Đức trong các tháng 9 và tháng 10 năm 1989. Các cuộc biểu tình đó ôn hoà. Các cuộc biểu tình lớn nhất diễn ra ở thành phố Leipzig.

Ông Taylor nói vào đầu tháng 10, một cuộc tập hợp ồ ạt được tổ chức ở thành phố ấy. Các binh sĩ dù tinh nhuệ sẵn sàng chờ lệnh. Họ được phép sử dụng đạn thật nếu cần. Ông Taylor nói người đứng đầu đảng Cộng sản Đông Đức là ông Erich Honecker cùng các nhà lãnh đạo khác xem cuộc biểu tình trên đài truyền hình.

Ông Taylor nhắc lại: “Họ phải quyết định phải làm gì. Và đây là điểm then chốt mà ông Honecker, một người theo chủ trương cứng rắn cũ, vẫn còn lẩm bẩm, ‘ta phải có biện pháp nào đó. Ta phải đưa tất cả những tay cảnh sát này và đám binh sĩ này tới, mà chúng ta lại không làm gì cả.’ Và ông đã quay ra nói với vị tướng lãnh quân đội trong phòng. Và vị tướng lãnh quân đội nói ‘Tôi sẽ không làm điều đó. Tôi sẽ không ra lệnh ấy.’ Và đó chính là lúc – thời điểm đó và việc ông Gorbachev không muốn sử dụng Hồng quân. Và rõ ràng là không thể ngăn được các cuộc biểu tình bằng vũ lực. Có thể nói sẽ không giống như Quảng trường Thiên An Môn. Phải lưu ý rằng Bộ chính trị của đảng Cộng sản Đông Đức là một trong số ít các nước Đông Âu đến năm 1989 đã gửi lời chúc mừng ban chấp hành trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc sau vụ đàn áp Thiên An Môn hồi tháng 6 năm 1989.”

Trong vòng vài tuần lễ, ông Erich Honecker đã ra đi. Ban lãnh đạo mới chuẩn bị các quy định cập nhật cho việc du hành ra nước ngoài.

Một cảnh vệ Tây Berlin đứng trước bức tường bê tông chia cắt Đông và Tây Berlin ở Bernauer Strasse, trong khi các công nhân Đông Berlin chất các khối gạch lên bức tường để xây cao bức tường chắn này, 7/10/1961.

Một cảnh vệ Tây Berlin đứng trước bức tường bê tông chia cắt Đông và Tây Berlin ở Bernauer Strasse, trong khi các công nhân Đông Berlin chất các khối gạch lên bức tường để xây cao bức tường chắn này, 7/10/1961.

Tại một cuộc họp báo ngày 9 tháng 11 ở Đông Berlin, ông Guenter Schabowski, một thành viên của Bộ chính trị cầm quyền Đông Đức, tuyên bố du hành tư nhân và xuất cảnh vĩnh viễn khỏi Đông Đức nay được phép. Được hỏi khi nào thì luật lệ có hiệu lực, ông Schobowski nói ngay lập tức, không trì hoãn.

Sau đây vẫn là lời sử gia Frederick Taylor:

“Đa số dân chúng ở Đông Berlin, nhất là vào thời điểm khi các diễn biến quan trọng xảy ra hàng ngày, đã không theo dõi tin tức chính thức của Đông Đức kể lại toàn bộ việc này theo một phiên bản được sửa đổi và nói hãy xếp hàng một cách có trật tự tại văn phòng cấp hộ chiếu ở địa phương vào ngày mai. Họ xem truyền hình của Tây Đức và đài truyền hình Tây Đức nói ‘bức tường đã sập, bức tường đã mở.’ Và trước cuối bản tin 15 phút, mọi người bắt đầu đến nơi, người dân Đông Đức, người dân Đông Berlin bắt đầu đến các trạm kiểm soát khác nhau và nói, ‘được rồi, chúng tôi phải làm gì để ra khỏi đây?’”

Rất mau chóng, hàng ngàn người Đông Đức đã tụ tập ở các trạm kiểm soát. Ông Taylor nói vụ chen lấn tại các chốt biên giới này không thể tưởng tượng được. Binh sĩ canh gác không được lệnh nào. Cuối cùng họ nói, “Hãy mở các cổng ra.”

Ông Taylor kể tiếp: “Thế là hàng ngàn người, dĩ nhiên ùa vào Tây Berlin và mọi việc bung ra. Đến hết đêm, tất cả các chốt biên giới khác đều mở và người Đông Berlin tràn vào Tây Berlin, còn người Tây Berlin, thì tràn vào Đông Berlin, bởi vì, tại sao không? Ta có thể trở lại mà.”

Cựu thông tín viên của tờ New York Times Serge Schmemann có mặt ở đó.

Ông nói: “Vào khoảng nửa đêm, tôi đến bức tường và buổi liên hoan lên đến cực điểm. Có người nhảy múa trên bức tường, đổ xô qua bức tường, và tất cả những người Tây Đức đem rượu sâm panh tới. Rượu đổ tràn hàng trăm thước về mọi hướng. Đó là một buổi liên hoan trác tuyệt kéo dài nhiều ngày. Và tôi còn nhớ đó là một trong những bữa tiệc đẹp nhất mà tôi từng đến dự. Thực là một giờ khắc hân hoan tột cùng.”

Cuối cùng, bức tường Berlin đã sụp đổ mà không có một tiếng súng nổ. Như sử gia Anh Frederick Taylor nói, vào cuối ngày 9 và 10 tháng 11 mọi người đều cảm thấy rằng mọi thứ và bất cứ thứ gì đều có thể xảy ra được.

Bàn về sự cúi lạy

Bàn về sự cúi lạy

VietTuSaiGon

RFA

Gặp một đám tang qua đường, bạn dừng bước, ngả nón và cúi đầu trong im lặng để cầu nguyện cho linh hồn của người đã khuất được bình an, ấm áp. Việc cúi đầu được xem như một lần cúi lạy trước một đồng loại có thể là thân quen mà cũng có thể là không thân quen vừa từ giã cõi đời, đi về một phương trời vô định nào đó giữa vũ trụ mênh mông này. Sự cúi lạy trong tâm niệm này mang hàm ý lưu luyến và cung kính trước một sự ra đi…

Trước một vị cao niên hay một vị lãnh đạo tinh thần, người đã khai sáng cho bạn giữa cõi đời u minh và tăm tối, giữa những dằng co cơm áo gạo tiền, hình ảnh của những vị này giúp bạn nhận chân được sự vô thường của cuộc sống cũng như giá trị của tính điềm đạm trong địa hạt tinh thần, bạn có thể cúi lạy bằng tất cả cảm xúc và lòng ngưỡng mộ.

Trước một số phận éo le, cay đắng cần đến sự chia sẻ của bạn nhưng bạn đành bất lực bởi khả năng có hạn của mình, bạn có thể cúi lạy như một lời tạ lỗi và cũng là một sự chia sẻ, một chút ân cần, thương yêu mà chẳng còn cách nào giải bày, bạn cúi lạy.

Trước một nấm mộ hoang của đồng loại, bạn cám cảnh, lòng lân mẫn của bạn thôi thúc bạn thắp một nén tâm nhang và cúi lạy như một sự biết ơn giữa vô thường, giữa vòng quay sinh thành bại diệt, đồng loại vô danh đã giúp bạn thắp ngọn lửa bi tâm.

Bạn cúi lạy trước di ảnh của ông bà, cha mẹ, anh em bằng hữu, sự cúi lạy của mang mang thông điệp như một lời nhắn nhủ ân cần đến các vong linh rằng họ luôn sống trong tim bạn và sự ra đi của họ không làm bạn nguôi nhớ… Sự cúi lạy của bạn thay cho lời cầu chúc người trong di ảnh được vãng sanh cực lạc.

Bạn cúi lạy trước vẻ đẹp huyền nhiệm của tạo hóa vì khoảnh khắc bất chợt bạn đã hòa mình vào thiên nhiên và nhận chân được giá trị đích thực của đời sống cát bụi, nhận chân được sự bí nhiệm của đấng tạo hóa và nhận ra sự nhỏ nhoi, phiêu diêu của một hữu thể nói cười như bạn. Sự cúi lạy của bạn mang dấu ấn của lòng biết ơn và ngưỡng mộ một điều gì đó không thuộc về lý trí phán xét…

Tất cả sự cúi lạy của lòng kính ngưỡng, tri ân, chia sẻ, tính lân mẫn, tri đức và nhân tính đều mang lại sự thay đổi thế giới, ít nhất là thay đổi thế giới quan trong cái nhìn của bạn, giúp cho bạn biết khiêm cung và tôn trọng những giá trị tiền nhân, thế giới. Nhưng, cũng có nhiều sự cúi lạy khiến cho thế giới này trở nên  chật chội và ngột ngạt, khiến cho người cúi lạy cũng như kẻ nhận lạy trở nên nhỏ bé, ti tiện, vô nhân tính.

Hành vi cúi lạy của một anh thanh niên Việt Nam với nước mắt giàn giụa bên cạnh cô bạn gái giữa một tiệm bán điện thoại di động tại Singapore vì tiệm này không chịu giải quyết cho anh ta trả lại điện thoại Iphone 6 sau những nhầm lẫn về thủ tục của anh ta đã khiến cộng đồng mạng bức xúc, khiến cho bất kì người Việt Nam nào đều cảm thấy mình bị xúc phạm bởi hình ảnh người Việt Nam, cộng đồng Việt Nam đã bị bôi bẩn, bị hạ nhục.

Vì sao một thanh niên Việt Nam không đến nỗi nghèo khổ, thiếu ăn, cũng không mang bất kì dị tật nào trên thân thể lại có hành xử kì cục và bệnh hoạn như thế trước đồng loại không cùng ngôn ngữ? Câu trả lời, có lẽ không phải riêng gì anh thanh niên này, chắc chắn là thế, bởi thói quen, tập khí nhược tiểu của một dân tộc đã bị kiềm chế trong bầu không khí ngột ngạt mấy mươi năm nay, trong đó các vấn đề văn hóa, giáo dục, kinh tế và chính trị đã tác động đến từng hành vi của người dân.

Xét về kinh tế, với nền kinh tế theo cơ chế tập thể một thời gian dài, con người đói khổ, chầu chực miếng ăn như súc vật, sau đó chuyển đổi thành kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một lần nữa manh nha và bùng nổ sự trí trá, hèn hạ, chịu nhục, chịu đấm ăn xôi của đa phần nhân dân lép vế, không có quyền lực bởi mọi thứ quyền lực cũng như đầu mối lợi lộc đã bị thâu tóm vào một nhóm nhỏ.

Về văn hóa, suốt mấy mươi năm sống trong văn hóa nói láo, chỉ điểm, đấu tố và khủng bố tinh thần đối với bất kì người dân nào dám nói lên sự thật, dám bày tỏ chính kiến đã khiến cho dũng khí của người Việt bị tiêu tan rất nhiều, khí chất của người Việt bị thay đổi theo chiều hướng nhút nhát, sợ hãi từng ngày từng giờ… dân khí Việt Nam càng lúc càng trở nên lụn bại và suy đồi.

Về giáo dục, nền giáo dục theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong một cơ chế hoàn toàn thị trường, việc mua bán chữ, mua bán bằng giả, mua bán chức vị trong ngành giáo dục, đút lót, hối lộ để được đi dạy và hối lộ bằng sex cho các quan ngành giáo dục diễn ra nhan nhản, con người được nuôi dạy, đào luyện trong một sinh quyển tham lam, đánh mất lòng tự trọng và sa đọa. Với nền giáo dục như vậy, liệu con người có còn nhân cách hay không chứ đừng nói đến dũng khí với dân khí!

Và, trên hết là về chính trị, với nền chính trị độc đảng, độc tài, luôn hướng con người đến cái nhìn một chiều, nhìn thẳng vào miếng ăn và bất cứ sự suy tư nào cũng đều bị kiểm duyệt và hỏi tội. Sự sợ hãi, hèn nhát của người dân là mục tiêu của nhà cầm quyền, đương nhiên con người trở nên hèn mạt, rẻ rúng và họ cũng chẳng biết làm gì khác ngoài sự quì lụy nếu chưa kịp suy tư về bản thân, xã hội.

Hiện tượng người thanh niên Việt Nam quì lụy trên đất khách để xin xỏ chủ cửa hàng mà không nhất quyết báo cảnh sát ngay từ đầu cho thấy anh ta không tin tưởng vào công lý bằng sự quì lụy của mình. Bởi tin vào hiệu quả của sự quì lụy, van xin nên anh ta đã chọn cách này để thương lượng với cửa hàng điện thoại thay vì báo cảnh sát để sự việc được đưa ra ánh sáng pháp luật.

Điều này chỉ nói lên rằng anh ta đã sống trong một xã hội mà ở đó sự quì lụy, van xin có sức nặng hơn công lý, ở đó, công lý không giúp đỡ gì được cho người bị lừa/hại, hơn nữa kẻ lừa đảo là kẻ có tiền hơn anh ta, cũng đồng nghĩa với việc kẻ đó có dây mơ rễ má đến kẻ nắm quyền. Chính vì đụng đến kẻ có quyền lực sẽ mang lại thua thiệt, anh ta đã chọn cách tủi hổ nhất, đau khổ và nhục nhã nhất để lấy lại công bằng bản thân.

Đương nhiên, không ai nễ hành vi này, kể cả những người bạn Singapore đang bức xúc yêu cầu cửa hàng Air Mobile phải đóng cửa, thậm chí có một chút thương xót và hổ ngươi cho kiếp làm người. Nhưng điều đó không có nghĩa là người ta chê anh ta đốn hèn hay tệ mạt. Bởi lẽ, người đủ sâu sắc sẽ đặt vấn đề nhân cách của cá thể trong mối tương quan tập thể mà người đó đã sống chứ không vội vã chê người ta nếu chưa hiểu rõ bối cảnh lịch sử, chính trị, văn hóa, giáo dục mà con người đó phải thụ nhận hằng ngày.

Sự quì lạy của anh chàng thanh niên Việt Nam giữa cửa hàng điện thoại ở Singapore một lần nữa phản ánh với thế giới tiến bộ một thông điệp rõ ràng: Người Việt Nam, tuổi trẻ Việt Nam đã thật sự tuột dốc trên tiến trình trưởng thành của nhân loại. Và vì đâu người Việt trở nên hèn yếu? Câu trả lời cũng như biện pháp chữa trị “nhân cách Việt” không còn thuộc về dân tộc Việt Nam nữa mà đã đến lúc nó thuộc về lương tri nhân loại!

Chén thuốc đắng

Chén thuốc đắng

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Thói đời ai cũng thích khen để thỏa mãn lòng tự ái, không ai thích chê, mặc dù ông Tuân Tử đã nói, “Người ta chê ta mà chê phải là thầy của ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta…”

Nhưng một khi mình đã không thích lời chê thì lý trí lu mờ, đâu còn cho đó là lời chê phải nữa, người tự mãn cho cái gì của mình cũng nhất, cũng phải, ai đó đừng có đụng vào, không khéo người chê mình chỉ vì lòng ganh tị, có khi là thù nghịch.

Mới đây thôi vào, vào ngày 20 Tháng Mười, đài VOA loan tin trang mạng “The Guide to Sleeping in Airports” đã xếp hạng hai phi trường quốc tế lớn nhất của Việt Nam là Tân Sơn Nhất và Nội Bài là hai phi trường tệ nhất Châu Á trong bảng khảo sát 2014, Nội Bài ở Hà Nội xếp thứ 5 và phi trường Tân Sơn Nhất ở Sai Gòn cũ giữ hạng 8 vì các điều kiện cơ sở hạ tầng và phục vụ yếu kém.

Cuộc khảo sát được thực hiện qua ý kiến bầu chọn của những người du khách, dựa vào các yếu tố chính như vệ sinh tại phi trường, thái độ phục vụ của nhân viên hàng không, và điều kiện về cơ sở vật chất tại phi trường. Hai phi trường này quá chật hẹp với số lượng du khách, bẩn thỉu, ồn ào, thiếu máy điều hòa không khí, hành lý ra dây chuyền chậm, bị thất lạc và hay bị mất cắp, nhân viên phi trường hống hách, thiếu thiện cảm.

Lập tức các viên chức của hàng không Việt Nam giẫy nẩy lên, bác bỏ, cho rằng đây là một cuộc đánh giá không phải của một cơ quan chuyên môn, thiếu khách quan, không đúng với thực tế. Đúng là đứa nào chê ta chắc chắn là chê sai và đúng là kẻ thù của ta.

Viên chức, cán bộ hàng không Việt Nam mỗi năm bỏ ra bao nhiêu tiền để xuất ngoại nghiên cứu học hỏi lối tổ chức làm ăn của nước khác, nhưng chẳng đem lại ích lợi gì cho đất nước.

Một “kẻ thù” khác là ông Joel Brinkley, cựu phóng viên New York Times, người từng đoạt giải Pulitzer, sau một chuyến đi Việt Nam 10 ngày, ông đã nhận xét rằng người Việt thích ăn sóc, chim chóc và chuột bọ. “Nói chung bạn không thấy bất kỳ loại động vật nào, cả hoang dã lẫn thú nuôi. Chúng biến đi đâu hết cả? Bạn có thể sẽ ngạc nhiên khi biết, chúng bị ăn thịt cả rồi.”

Lập tức ông bị các cây bút Việt Nam chỉ trích Brinkley là “hồ đồ, trịch thượng và phân biệt chủng tộc.” Người ta đòi đuổi việc Brinkley, đòi ông phải xin lỗi công khai. Những phản ứng giận dữ đã khiến công ty xuất bản Tribune Media Services phải ra thông cáo thừa nhận rằng bài viết của ông Joel Brinkley không đạt yêu cầu về báo chí.

Một cuộc đánh giá khác chắc chắn là thiếu khách quan, là tạp chí Economist đánh giá chỉ số dân chủ năm 2012, xếp hạng Việt Nam đứng thứ 144 trên tổng số 167 quốc gia được xếp hạng. Theo danh sách của tạp chí này, Việt Nam nằm trong nhóm chính phủ độc tài thiếu dân chủ. Lập tức, bà Nguyễn Thị Doan, phó chủ tịch nước, tuyên bố, “Dân chủ của Việt Nam ‘cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản!’” Cái đứa xếp hạng Việt Nam vào hạng dân chủ tồi tệ hẳn là đứa ngu dốt, không bằng chính trị gia Nguyễn Thị Doan, cũng là chủ tịch danh dự Hội Nữ Trí Thức Việt Nam, người có cái “lưỡi gỗ” và phải đại trí thức mới có sự so sánh lẫy lừng như thế. Bà này còn nói thêm, “Người dân chưa hiểu đúng về dân chủ đi liền với kỷ cương nên một số người đã cố tình lợi dụng dân chủ để gây rối, chia rẽ làm tác động xấu đến trật tự, an toàn xã hội.”

Trong khi tờ Guardian loan tin mỗi năm, 5 triệu con chó bị làm thịt ở Việt Nam, và Tây phương lên án chuyện ăn thịt chó là mọi rợ, thì có lập luận cho rằng, “…Sự cấm đoán quốc tế về vấn đề thịt chó sẽ bị xem như một quyết định của khối tư bản trong mưu đồ ồn ào muốn áp đặt nét văn hóa Tây phương vào các quốc gia Á Châu!” Thật hết chỗ nói. Ở đâu cũng có bàn tay tư bản thò vào! Vậy thì chúng ta là Cộng Sản Á Châu, chúng ta tiếp tục ăn thịt chó!

Khách du lịch Tây phương đến Việt Nam thường than phiền và không muốn trở lại thăm viếng một lần nữa. Ông Matt Kepnes trên www.twitter.com/nomadicmatt đã than phiền: “Không ai muốn trở lại một nơi mà họ cảm thấy bị bạc đãi. Khi tôi ở Việt Nam, tôi đã bị liên tục làm phiền, bán quá đắt, bị lường gạt và bị ngược đãi. Tôi đã gặp người bán hàng trên đường phố liên tục nâng giá. Có người phụ nữ bán bánh mì không trả tiền lẻ cho tôi; người bán thức ăn bắt tôi trả gấp ba trong khi tôi thấy những người khác trước mặt tôi chỉ trả một phần; người tài xế taxi gian lận đồng hồ đếm km trên đường đến trạm xe buýt. Trong khi mua áo thun ở Hội An, ba phụ nữ đã cố gắng giữ cho tôi trong cửa hàng của họ cho đến khi tôi mua một cái gì đó, thậm chí họ còn níu áo sơ mi của tôi.”

“Trên một chuyến đi Vịnh Hạ Long, các nhà điều hành tour du lịch đã không cung cấp nước trên tàu và họ đã lấy khách quá tải, khiến cho người trả tiền cho phòng một người đột nhiên thấy mình với người lạ cùng phòng … đôi khi trong cùng một giường!”

Một nhân viên thuộc ngành du lịch Nhật có dịp viếng Sài Gòn, ông Shimata, phẫn nộ, “…nói tới Việt Nam thì đấy là quốc gia xấu xa tồi tệ nhất và nỗi bất mãn trong tôi sẽ tăng lên tới mức 150%. Tôi ghét Việt Nam. Mà nói đúng ra thì tôi ghét người Việt Nam hơn là ghét Việt Nam. Tôi căm ghét thứ văn hóa ‘móc được cái gì thì móc’ của người Việt.”

Nếu ngành du lịch ở Việt Nam yếu kém, thì đó không phải là lỗi con người mà lỗi vì tiền.

“Tổng Cục Du Lịch thiếu kinh phí, thiếu tiền để làm những clip quảng cáo cho du lịch Việt Nam” như ông Nguyễn Mạnh Cường, phó tổng cục trưởng Tổng Cục Du Lịch Việt Nam, nhiều lần khẳng định.

Quỹ Kinh Tế Mới (NEF) đánh giá Việt Nam là một dân tộc hạnh phúc thứ nhì của nhân loại, trong bảng xếp hạng chỉ số Hành Tinh Hạnh Phúc (HPI) của năm 2012. Nhưng thông thường để đánh giá một quốc gia hạnh phúc hay không, có phát triển về chất lượng sống hay không, thì cần căn cứ vào cách xếp hạng và chỉ số phát triển con người của Liên Hiệp Quốc. Đó là chỉ số HDI (Human Development Index). HDI bao gồm mức thu nhập, tỷ lệ biết chữ, tuổi thọ và một số nhân tố khác của một quốc gia. Ngay cả GDP (tổng sản phẩm quốc nội) cũng chỉ là một chỉ tiêu để đánh giá HDI quốc gia đó. Theo chỉ số phát triển con người, thì quốc gia có HDI cao nhất là Na Uy (2009), còn Việt Nam đứng thứ 116. Đó mới có thể coi là chỉ số hạnh phúc!

Việt Nam chỉ thích loại đánh giá “giá trị” như NEF, nhưng bất mãn về sự đánh giá của Liên Hiệp Quốc xếp Việt Nam vào hạng 116.

Trái với Nam Hàn, sau 40 năm bị chia cắt, Việt Nam với 40 năm thống nhất đất nước vẫn là một quốc gia trì trệ, lạc hậu và bị mọi người khinh ghét, tự mãn với “đỉnh cao trí tuệ,” “rừng vàng biển bạc,” “đã đánh thắng ba đế quốc sừng sỏ,” không muốn học hỏi và mở mắt. Bị chia cắt từ năm 1945, chỉ trong vòng 40 năm, Nam Hàn đã tiến những bước tiến dài. Từ một quốc gia lạc hậu nghèo đói, Seoul dã hãnh diện đăng cai tổ chức Olympic 1988. Kỹ nghệ xe hơi, gắn máy, hóa chất, kỹ nghệ đóng tàu, phim ảnh, mỹ phẩm, hàng tiêu dùng của Nam Hàn đã nổi danh thế giới. Ngày nay, Nam Hàn có những ông chủ thuê chuyên viên, công nhân của thế giới làm việc cho mình, chứ không phải cậy cục đi xin việc làm thuê, ở đợ cho các nước khác trên khắp thế giới như Việt Nam. Học hỏi nền giáo dục và tinh thần dân tộc từ Nhật, kỹ nghệ điện ảnh từ Hollywood, khoa học, kỹ thuật của Tây phương, ngày nay các thương hiệu Hyndai, KIA, GM Daewoo, Samsung… có thể cạnh tranh với xe cộ, máy móc hàng hóa Nhật, vốn được cả thế giới yêu chuộng.

Truyền hình Nam Hàn có trường “dạy làm người” và “dạy làm ăn” thì Việt Nam chỉ có truyền thống rỉ tai “dạy ăn” cho nên cán bộ đảng, viên chức cao cấp, người nào cũng giàu có, sống xa xỉ, vương giả mà nhân cách càng ngày càng sa sút.

Trong khi người Nam Hàn yêu nước, ủng hộ và tiêu dùng hàng nội hóa để phát triển kinh tế, thì Việt Nam đua đòi tiêu dùng hàng hóa cao cấp, đắt tiền của ngoại quốc để khoe mẽ sự giàu sang của dòng họ hay cá nhân mình như xe hơi cao cấp, điện thoại đời mới, mỹ phẩm đắt tiền. Nếu có ai phê bình đến đất nước và con người Việt Nam thì sĩ diện hão, đem tự ái dân tộc ra để tránh né, chúi đầu vào cát, chê trách hay miệt thị người khác.

Không uống được chén thuốc đắng, làm sao hết được bệnh tật.

CÁC LINH HỒN NƠI LUYỆN NGỤC ĐANG CẦN NHỮNG THỨ GÌ?

CÁC LINH HỒN NƠI LUYỆN NGỤC ĐANG CẦN NHỮNG THỨ GÌ?

Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

Mới đây, truyền thông Trung Quốc đưa tin cảnh sát tỉnh Sơn Đông vừa bắt giữ 11 đối tượng chuyên đào mộ trộm xác chết đem bán cho người khác để phục vụ cho hủ tục làm “đám cưới ma” ở nước này.Được biết nạn mua bán

xác chết vì thế mà trở thành một “nghề” béo bở ở Trung Quốc, nhằm phục vụ cho những khánh hàng có người thân chết mà chưa lập gia đình. Người nhà mua xác chết để làm đám cưới cho thân nhân trong gia đình vừa mới qua đời, với quan niệm cho rằng người thân của họ sẽ không “cảm thấy” cô đơn nơi chín suối, khi bên cạnh họ có cả “cô dâu” hoặc “chú rể”. Xác “cô dâu” mua được sau đó sẽ được chôn cạnh “chú rể” cho có đôi, có cặp(x. tuoitre24h.net/kinh-hai-nan-dao-trom-xac-chet-dem-ban).

Các đối tượng sau khi bị bắt đã khai báo rằng “xác đã chết nhiều năm không có giá trị bằng những xác vừa được chôn. Giá một xác chết có lúc cao đến 20.000, thậm chí 30.000 nhân dân tệ(tương đương 5-7 chục triệu đồng).

Rõ ràng đây là một việc làm phi pháp, nặng tính mê tín dị đoan, vì xuất phát từ quan niệm cho rằng “trần sao thì âm vậy”.

Thế giới của cõi âm, tức là thế giới mai sau theo cái nhìn của Kitô giáochúng ta, hoàn toàn khác. Và thứ mà người chết cần vì thế cũng khác hoàn toàn. Không phải là một cô dâu hay một chú rể, một người vợ hay một người chồng, cũng không phải là vàng bạc của cải, nhà lầu xe hơi, hay đồ ăn thức uống…

Những thứ đó thực sự khi chết đều không còn cần thiết nữa, vì chúng chỉ cần cho con người khi còn sống mà thôi. Khi chết, thân xác nằm lại trong lòng đất và chịu sự mục nát theo qui luật tự nhiên, nên những thứ thuộc về vật chất có mang theo cũng trở nên vô ích. Chuyện dựng vợ gã chồng, chuyện sinh con cái đều thuộc về thế giới này, thế giới vật chất hữu hình. Cả đồ ăn thức uống mà người thân cúng tế cũng không dùng được; có chăng chỉ là để tưởng nhớ về sự hiện diện của người đã khuất.

Vậy người chết cần những thứ gì? Người chết cần những thứ dành cho linh hồn. Mà linh hồn là thiêng liêng, vô hình, nên những thứ mà linh hồn cần cũng là những thứ thiêng liêng.

Những thứ thiêng liêng vô hình, người Kitô hữu chúng ta gọi là ơn Chúa. Linh hồn người thân chúng ta cần ơn thánh Chúa Kitô để được thanh luyện khỏi những vấn vương của bụi trần; linh hồn người thân chúng ta cần ơn thánh Chúa Kitô để được thứ tha những tội lỗi và hình phạt; và linh hồn người thân chúng ta cần ơn thánh Chúa Kitô để được tái sinh trong Vương Quốc Hằng Sống.

Nhưng ơn thánh Chúa ban qua cách thức nào? Ơn thánh Chúa ban cho người quá cố, qua thái độ lúc còn sinh thời, người đó hằng tin tưởng gắn bó với Chúa và tha thiết cậy trông. Ơn thánh Chúa ban qua lời cầu nguyện của những người thân đang còn sống nơi trần thế. Ơn thánh Chúa ban qua lời chuyển cầu của Đức Mẹ, các thánh và những người lành đã ra đi trước. Ta gọi đó là hiệp thông công đức, hay là “mầu nhiệm các thánh cùng thông công”.

Phật giáo cũng có lễ cầu siêu; Kitô giáo chúng ta có lễ cầu hồn. Cầu siêu tức là cầu nguyện cho hồn người chết được siêu thoát. Cầu hồn cũng có nghĩa là cầu cho linh hồn người đã qua đời sớm được siêu thăng. Có điều khác ở chỗ bên Phật giáo cầu cho âm hồn được siêu thoát, để tiếp tục đầu thai vào kiếp khác, có khi là một kiếp thấp hơn: một con vật nào đó, như chó mèo chẳng hạn. Còn ta cầu cho linh hồn được siêu thoát, tức là được giải thoát khỏi những tơ vương của bụi trần tục lụy, để được đi vào cõi phúc hạnh ngàn thu. Một khi được siêu thoát rồi thì sẽ được vĩnh viễn sống với Chúa muôn đời. Hơn thếnữa,cầu cho các linh hồn được siêu thoát cũng có nghĩa là cầu cho họ được thần hóa, tức là được nên thần thánh. Dĩ nhiên, ta không chỉ cậy dựa vào công trạng hay đức hạnh của mình không thôi, mà trên hết và quan trọng hơn hết vẫn là cậy trông vào hồng ân cứu độ của Đức Kitô.

Và Thánh lễ ta đang dâng là một phương thế giúp người thân chúng ta đón nhận được hồng ân cứu độ cách dồi dào hơn.Với niềm xác tín như thế, giờ đây chúng ta cùng sốt sắng dâng lời nguyện chung.

Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

NHÀ THƠ KIÊN GIANG

NHÀ THƠ KIÊN GIANG

Tác giả: Lm. PX. Ng Hùng Oánh

Lạy Chúa ! Con là người ngoại đạo,

Nhưng tin có Chúa ở trên cao ,

Trong lòng con , giữa màu hoa trắng,

Cứu rỗi linh hồn con , Chúa ơi !

Nhà thơ đã qua đời tại bệnh viện Nguyễn tri Phương ,quận 5, tp HCM. thọ 86 tuổi . Tên thật nhà thơ là Trương khương Trinh, sinh tại tỉnh Rạch giá (bây giờ là Kiên giang)

Là nhà thơ với các tác phẩm : Hoa trắng thôi cài trên áo tím ( !962) (Lạy Chúa con là người ngoai đạo), Lúa sạ Miền Nam ( 1970), Quê hương thơ ấu . I6 vở tuồng  Cải lương, trong đó vở kịch “Người vợ không bao giờ cưới” đã giúp Thanh Nga đóng vai xuất sắc đoạt giải Thanh Tâm và trở thành ngôi sao trong làng cải lương .

Thời học trò, ông học ở Cần thơ, học  trường tư thục Nam Hưng . Cậu học trò nầy dốt toán, giỏi văn, chuyên làm giùm luận văn cho chúng bạn,.. Cậu để ý tới cô NH thường mặc áo bà ba trắng, quần đen, mang guốc gỗ. Cậu đã từng lẽo đẽo đi theo cô đến tận nhà cô ở xóm nhà thờ . Có lần không có tiền xe về quê, Nh gửi tiền cho . Đi kháng chiến, một anh bạn cho biết :” Con Tám NH vẫn chờ mầy đó”. Có dịp qua Cần thơ, Cậu  tới nhà cô NH, xin phép gia đình cho cậu nói truyện . Sau Cậu nghe tin NH đi lấy chống, sinh con đặt tên ghép NH và cậu. Ông chồng biết, nổi ghen… Sau nầy nhà thơ biết chuyển đổi  bốn câu thơ :

Xe tang đã khuất  nẻo đời ,

Chuông nhà thờ khóc tiễn người ngàn thu,

Từ nay tóc rũ khăn sô,

Em cài hoa tím trên mồ người xưa .

thành kết :

Lạy Chúa ! Con là người ngoại đạo,

Nhưng tin có Chúa ở trên trời,

Trong long con giữa mùa hoa trắng,

Cứu rỗi linh hồn con, Chúa ơi !

Trong tháng linh hồn nầy, Đức Giáo  hoàng Phanxicô gặp khách hành hương (O2- 11 -2014) kêu gọi cầu nguyện cho nhưng ngưởi qua đời có thể là nhửng tín hữu , người  nguổi lạnh, khô khan, những người chưa biết Chúa, những người chống lại Chúa .

Chắn chắn là lời cầu xin của nhà thơ (Lạy Chúa con là người ngoại đạo )  được Chúa đón nhận cách đặc biệt .

Lm Fx Nguyễn Hùng Oánh

Bảo mẫu hành hạ trẻ em gây nhức nhối

Bảo mẫu hành hạ trẻ em gây nhức nhối

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2014-11-06

TTVN11062014.mp3

giu-tre-622.jpg

Một trung tâm giữ trẻ tư nhân tại TPHCM, ảnh minh họa.

RFA PHOTO

Tình trạng bảo mẫu hành hạ trẻ em ở các nhà trẻ tư nhân cũng như một số cơ sở dạy trẻ nhà nước đã làm dấy lên nỗi lo chung của xã hội về hiện tại và tương lai. Nếu như hiện tại, kiểu sống vô cảm, tàn nhẫn đã lấn sân đến tận các bảo mẫu, những người làm công việc nuôi dưỡng từ thể xác đến tâm hồn của các em nhỏ thì vấn đề nhân cách của những em nhỏ từng bị các bảo mẫu hành hạ sẽ ra sao trong tương lai là câu hỏi gây nhức nhối đến những bậc làm cha làm mẹ, đến xã hội.

Tính vô cảm và nạn hối lộ

Một người tên Thúy, sống ở quận 12, Sài Gòn, có con đang độ tuổi gửi trẻ, chia sẻ:

“Nói chung là làm nghề bảo mẫu thì phải được đào tạo kỹ mới làm được, ở mình thì họ hơi lôm côm. Nguyên nhân chính là do sự vô cảm của xã hội mình nó nhiễm vào từng cá nhân bảo mẫu, một cách không có ý thức. Vậy nên khi họ bộc phát những hành động như vậy thì bản thân họ, thứ nhất là họ thiếu tự chủ, thứ hai là nếu họ nghĩ như vậy là tội ác thì họ đã không làm rồi. Mỗi ngày, những vấn đề của xã hội làm họ vô cảm, họ trở nên phi nhân tính, khi họ bạo hành như thế với các thiên thần – trẻ em. Ở các nước thì những bảo mẫu được đào tạo rất kỹ, nghiêm túc thậm chí lương của họ có thể là cao nhất trong giáo dục , nhưng ở mình thì ngược lại, đời sống của các bảo mẫu không được đảm bảo, dần dần… Nói chung là rõ ràng để xảy ra những việc như vậy thì tôi thấy tệ lắm!”

” Nguyên nhân chính là do sự vô cảm của xã hội mình nó nhiễm vào từng cá nhân bảo mẫu, một cách không có ý thức.
-Chị Thúy “

Theo bà Thúy, hiện tượng bảo mẫu hành hạ trẻ em không còn là trường hợp cá biệt ở một số nơi mà là hiện tượng xã hội đã đi đến chỗ phổ biến khắp mọi hang cùng ngõ hẻm Việt Nam. Ngay cả em gái của bà về làm dâu xứ Bắc cũng than thở về tình trạng này, báo chí cũng đôi lần nói về chuyện bảo mẫu xứ Bắc hành hạ trẻ em một cách man rợ, không còn gì để nói.

Và miền Nam, đặc biệt là thành phố Sài Gòn, theo bà Thúy dự đoán thì có vẻ như không có bất kì cơ sở nuôi dạy trẻ nào không tiềm tàng nguy cơ hành hạ trẻ em. Lý giải về điều này, bà Thúy đưa ra hai giả thuyết: Tình trạng xã hội bị băng hoại nhân tính và; Nạn hối lộ đã tiếp tay cho thói phân biệt đối xử và tàn nhẫn với trẻ em.

Ở khía cạnh xã hội bị băng hoại, một phần do giáo dục, phần khác do cạnh tranh khốc liệt, do cơ chế tham ô, hối lộ và toa rập quá cao, con người chỉ còn biết nghĩ đến lợi nhuận và làm giàu bất chấp lương tri có ray rứt hay không. Chính điều này dẫn đến xã hội dần trở thành một guồng máy quay cuồng mất hết nhân tính, và càng về sau, con người càng phải sống trong một sinh quyển thiếu tình người, thiếu lòng yêu thương. Chính vì vậy, việc các bảo mẫu, về mặt chữ nghĩa là bà mẹ thứ hai nuôi giữ trẻ lại đối xử tàn tệ với trẻ em chỉ là hệ quả của một xã hội băng hoại tận gốc rễ.

Nạn hối lộ, nếu chỉ nhìn bên ngoài thì người ta cứ nghĩ rằng nó chỉ diễn ra ở các quan chức và một số cơ quan nhà nước, trên thực tế thì nạn hối lộ đã len vào tận chân tơ kẽ tóc của bất kì người nào, không chừa một ai, làm chức lớn thì hối lộ lớn, làm chức nhỏ thì hối lộ nhỏ, không làm chức nào cũng hối lộ cho quan chức hoặc hối lộ giữa những kẻ không chức quyền với nhau nhằm bôi trơn một số quan hệ nào đó. Tiền hối lộ ở Việt Nam cũng giống như dầu nhớt bôi trơn động cơ xe, việc hối lộ các bảo mẫu cũng nằm trong hệ lụy này.

giu-tre-400.jpg

Ảnh minh họa chụp trước đây. RFA PHOTO.

Thường thì cha mẹ nào cũng thương con và lo lắng khi con mình đến lớp, nhất là các lớp vỡ lòng hay đến nhà trẻ, chính vì thế cha mẹ hay gửi gắm con cái cho các bảo mẫu, cô giáo mầm non. Cũng vì nếp nghĩ và thói quen hối lộ, đút lót bởi sống quá lâu trong văn hóa hối lộ, đút lót nên người ta không ngần ngại trao phong bì cho các bảo mẫu, giáo viên mầm non để con mình được chăm sóc kĩ hơn, tốt hơn. Và đương nhiên muốn con mình được tốt hơn, cha mẹ phải có tiền, mà trong một lớp mầm non, có mấy trẻ em có cha mẹ đủ tiền để đút lót cho bảo mẫu, giáo viên?

Đặc biệt là các lớp mầm non, nhà giữ trẻ ở những khu công nghiệp, những xóm nghèo, trẻ em ở đây toàn con nhà khó khăn, thiếu thốn, việc chi trả tiền hằng tháng cho con đi học đã khó khăn lắm rồi, lấy đâu ra tiền để bỏ phong bì. Có lẽ chính vì thế mà hầu hết các cơ sở nuôi dạy trẻ từng bị phanh phui hành hạ trẻ em đều nằm ở các vùng nghèo khó, hơn nữa, những em bé bị hành hạ mà báo chí trong nước đã nêu đều có hoàn cảnh cha mẹ khó khăn, làm công nhân hoặc lao động phổ thông. Những dấu hiệu này cho thấy trẻ em Việt Nam đã bị phân biệt đối xử ngay từ lúc bước vào giai đoạn giáo dục vỡ lòng.

Tương lai sẽ về đâu?

Một người mẹ khác tên Liên, sống ở quận Tân Bình, Sài Gòn, có con đang độ tuổi mẫu giáo, chia sẻ:

“Khi họ học nghề chẳng hạn như sư phạm mầm non đi, nhưng mà họ không được truyền lửa, truyền thông điệp tình yêu trong nghề nghiệp đó thì khi họ ứng xử như vậy, họ không thấy có gì áy náy hay ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp của họ. Phụ huynh khi lo cho con mình thì thường tặng quà, còn với họ, thu nhập của họ không được cao nên khi nhận những món quà đó, họ thấy đôi khi còn nhiều hơn cả tiền lương của họ nữa, vậy nên không tránh khỏi những đứa trẻ mà cha mẹ có tiền thì được đối xử tốt hơn, luôn được thiên vị, còn những đứa trẻ con nhà nghèo thì… Nói chung là những trường quốc tế, trường tư thục thì ít xảy ra tình trạng đó hơn là trường nhà nước thì thu nhập của giáo viên mầm non, bảo mẫu thấp nên không tránh khỏi tình trạng họ muốn kiếm thêm từ phụ huynh, tâm lý mà…!”

” Khi họ học nghề chẳng hạn như sư phạm mầm non đi, nhưng mà họ không được truyền lửa, truyền thông điệp tình yêu trong nghề nghiệp đó thì khi họ ứng xử như vậy, họ không thấy có gì áy náy.
-Chị Liên”

Theo chị Liên, sự thiệt thòi bao giờ cũng dành cho người nghèo, không có quyền thế. Một gia đình người làm công nhân khu công nghiệp như chị với thu nhập cả hai vợ chồng mỗi tháng chưa đầy bảy triệu đồng cho cả hai vợ chồng, mọi chi tiêu, điện nước, chỗ thuê trọ, ăn uống và tiền đến nhà giữ trẻ của con chị cũng chỉ trông vào chưa đầy bảy triệu đồng, thiếu trước hụt sau. Đôi lúc chị cũng muốn dành phong bì cho cô bảo mẫu để con chị được chăm sóc tốt nhưng dành mãi cũng không đủ, nhiều khi dành được vài trăm ngàn, định bỏ phong bì thì con chị lại bệnh, cuối cùng, chị đành bỏ qua khoản này.

Đương nhiên khi bỏ qua khoản phong bì cho bảo mẫu, anh chị luôn sống trong bất an về con mình bởi vì khu vực chị sống từng có nạn bảo mẫu hành hạ trẻ em. Và cha mẹ của đứa bé bị hành hạ vốn là bạn cùng công ty với chị Liên, cặp vợ chồng này cũng nghèo khổ, vất vả, không có tiền để gửi gắm con. Chính vì không có tiền gửi gắm con nên con của các gia đình nghèo luôn bị phân biệt đối xử, luôn phải chịu hành hạ. Điều này làm ảnh hưởng đến tương lai của trẻ em rất nặng nề.

Chị Liên bày tỏ sự lo lắng của mình trong tình trạng phân biệt đối xử với trẻ em nhà nghèo như hiện tại. Tương lai, các thế hệ mới sinh ra lớn lên sẽ phân biệt đối xử với nhau rất nặng nề và nhân cách của chúng cũng sẽ bị méo mó bởi ngay từ nhỏ, chúng đã sống trong sự phân biệt đối xử, sống trong bạo lực và hành vi man rợ. Nỗi đau này là món quà của xã hội hiện tại dành tặng cho đất nước tương lai.

Nói đến đây, chị Liên bật khóc.

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

httpv://www.youtube.com/watch?v=QsbNemCQZVk

Cảnh người già neo đơn nơi thành phố (RFA)

Công bố báo cáo về tự do tôn giáo 2014: Tôn giáo thiểu số tiếp tục bị đàn áp

Công bố báo cáo về tự do tôn giáo 2014: Tôn giáo thiểu số tiếp tục bị đàn áp

Chuacuuthe.com


Các tôn giáo thuộc thiểu số vẫn bị đàn áp tại nhiều nơi trên thế giới. Ảnh minh họa

Các tôn giáo thuộc thiểu số vẫn bị đàn áp tại nhiều nơi trên thế giới. Ảnh minh họa

VRNs (06.11.2014) – Sài Gòn –  Theo vaticaninsider – Vấn đề tự do tôn giáo trong bản báo cáo thế giới năm 2014 cho thấy, có một sự tuột dốc đáng báo động. Phần lớn các quốc gia có bạo loạn xảy ra là những đất nước Hồi giáo. Kitô giáo vẫn là tôn giáo bị bắt bớ nhiều nhất.

61 trong số 196 quốc gia có những chuyển biến, thì hầu hết theo hướng xấu đi: chỉ có 6 nước tình hình khả quan hơn trong khi 55 nước trở nên tệ hơn. Một sự giảm mạnh nổi lên trong vấn đề tự do tôn giáo trong bản báo cáo thé giới năm 2014, xuất bản bởi tổ chức Trợ Giúp cho Giáo Hội Đau Khổ (Aid to the Church Need). Đây là tái bản thứ 12  của bản báo có đã được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1999 và phân tích mức độ tự do tôn giáo nào được tôn trọng ở 196 quốc gia.

Theo Report 2014 trình bày sáng ngày 03.11 vừa qua tại Roma, bạo  loạn tôn giáo tiếp tục chi phối truyền thông quốc tế.  Bản báo cáo gần đây nhất xác nhận rằng, khủng bố tôn giáo không chỉ lan tràn khắp nơi mà thực sự tăng nhanh.  Điều kiện của các tôn giáo nhỏ ngày càng xấu đi ở mỗi quốc gia. Thỉnh thoảng, tình hình trở nên tệ hơn do luật pháp hoặc phân biệt hiến pháp hoặc sự chống đối tôn giáo liên quan tới xung đột dân tộc hoặc bộ lạc. Trong những trường hợp khác, các nhóm tôn giáo đàn áp hoặc muốn loại bỏ các nhóm khác hoặc chính quyền cố gắng giới hạn lại các hoạt động của một nhóm tôn giáo nào đó.

Thay đổi được ghi nhận ở 66 đất nước trong tổng số 196 quốc gia. Tuy nhiên, chỉ có 6 quốc gia chứng kiến sự tiến triển của các tôn giáo nhỏ trong khi tình hình ngày càng trở nên tồi tệ ở 55 quốc gia còn lại. Điều này có nghĩa là tình hình các nhóm tôn giáo trở nên ảm đạm trong hầu hết 30% quốc gia được khảo sát từ tháng 10 năm 2012 đến tháng 6 năm 2014.

Có 20 quốc gia vi phạm tự do tôn giáo ở mức cao, nói cách khác là không có tự do tôn giáo. Bao gồm 14 quốc gia xảy ra bắt bớ tôn giáo có liên can tới Hồi giáo cực đoan: Afhanistan, Ả Rập Saudi, Ai Cập, Iran, Iraq, Libya, Maldives, Nigeria, Pakistan, Công hòa Trung Phi, Syria, Somali, Sudan và Yemen. 6 đất nước tôn giáo bị bắt hại bởi chính quyền là Azerbaijan, Myanmar, Trung Quốc, Triều Tiên và Uzbekistan. Bản báo cáo nhấn mạnh rằng phần lớn những đất nước vi phạm mạnh mẽ tự do tôn giáo là những đất nước Hồi Giáo.

Ở phương Tây, căng thẳng tôn giáo đang leo thang do ảnh hưởng chủ nghĩa vô thần, thuyết duy vật và làn sóng di dân và tỵ nạn là những người có niềm tin và văn hóa khác với nước đó.

Châu Á là lục địa có nhiều vi phạm tự do tôn giáo nhất. Sự gia tăng một tôn giáo được ghi nhận tại nhựng quốc gia có một tôn giáo chính, không chỉ là Hồi giáo, nhưng còn có Hindu hay Phật giáo. Lo lắng lớn nhất ở Châu Phi là sự lớn mạnh của Hồi giáo.

Pv.VRNs