Vì sao dối trá ?

Vì sao dối trá ?

RFA

nguyenthituhuy

Trước những vấn nạn của đất nước, của dân tộc ngày hôm nay, những người Việt Nam nào còn một chút lương tri, còn có trách nhiệm và còn suy nghĩ đều tự đặt câu hỏi: « vì sao chúng ta đến nông nỗi này ? ». Và đã có không ít người đi tìm nguyên nhân trong căn tính của dân tộc.

Thế nhưng, nhiều nhà nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn của Phương Tây mà tôi từng có dịp tiếp xúc, trò chuyện và trao đổi, nói với tôi, với những cách diễn đạt có thể khác nhau, nhưng ý tưởng đều rất thống nhất : Đừng tìm nguyên nhân trong truyền thống dân tộc của các bạn. Vấn nạn của các bạn hiện nay đến từ một mô hình chính trị mà các bạn đã nhập khẩu hoàn toàn từ Phương Tây.

Dĩ nhiên, mô hình nhập khẩu đó chính là chủ nghĩa cộng sản.

Theo tôi, điều này rất đáng để chúng ta cùng nhau suy nghĩ một cách thấu đáo.

Ở đây, tôi đưa ra một vấn nạn thôi : sự dối trá.

Chúng ta không phủ nhận được một thực tế là dối trá đang trở thành một hiện tượng phổ biến trong toàn xã hội. Ta có thể tìm thấy sự nhận xét đồng thuận về thực tế này trên báo chí cả lề phải và lề trái, hay lề đảng và lề dân, muốn gọi cách nào thì tùy.

Vậy dối trá có phải là truyền thống của người Việt Nam không, có bắt nguồn từ truyền thống của chúng ta không ? Câu trả lời của tôi là : KHÔNG !

Chúng ta hãy đọc câu này :

« … cách mạng cộng sản luôn luôn là một sự tình cờ có tính lịch sử và một sự lừa dối vĩ đại (tôi nhấn mạnh – NTTH). Theo một nghĩa nào đó thì lí do như sau: không có cuộc cách mạng nào lại đòi hỏi những hoàn cảnh đặc biệt đến như thế và cũng không có cuộc cách mạng nào hứa nhiều như thế mà lại làm ít đến như thế.

Thói mị dân, những lời nói quanh co, không nhất quán là đặc trưng của các lãnh tụ cộng sản, nhất là khi họ buộc phải hứa hẹn một xã hội siêu lí tưởng và “thủ tiêu tất cả áp bức, bóc lột”.”

Người viết đoạn văn này là một lãnh tụ cộng sản cao cấp, đã phải vào tù vì chống lại chính chủ nghĩa cộng sản, vì đã sớm nhận thức được tính phi nhân và sự sụp đổ tất yếu của mô hình cộng sản chủ nghĩa. Đó là Milovan Djilas, cựu phó tổng thống Nam Tư, mà tôi từng nhắc đến vài lần.

Tôi dùng trích dẫn này để chúng ta thấy rằng chính những người cộng sản nói về chủ nghĩa cộng sản như vậy, chính những người cộng sản đã nhìn ra rằng chủ nghĩa cộng sản và sự dối trá là một ; và để chúng ta thấy rằng dối trá là hiện tượng thuộc về bản chất của các xã hội cộng sản trên toàn thế giới. Sự dối trá ấy hoàn toàn không liên quan gì đến truyền thống dân tộc của chúng ta. Trái lại sự dối trá nhập khẩu này đang làm biến dạng tính cách dân tộc của chúng ta. Chúng ta cần cứu lấy dân tộc tính và truyền thống của mình, trước khi quá muộn.

Nếu theo dõi các phân tích mà Djilas tiến hành trong cuốn « Giai cấp mới » ( mà tôi khuyến nghị là chúng ta nên đọc, đặc biệt là Hội đồng Lý luận Trung Ương và những người làm khoa học xã hội ở Việt Nam nên đọc, để hiểu thực chất của xã hội chúng ta) thì ta sẽ không ngạc nhiên trước những biểu hiện « lừa dối vĩ đại » (tôi dùng lại chữ của Djilas) của các lãnh đạo cao cấp.

Dối trá trở thành nguyên lý vận hành của toàn xã hội. Các lãnh đạo, dĩ nhiên, theo phân tích của Djilas, không còn cảm thấy xấu hổ khi nói dối. Lâu dần, không chỉ có các lãnh đạo, mà đến người dân bình thường cũng bị lôi vào và thích ứng với sự dối trá. Các quan hệ xã hội được xây dựng trên sự dối trá. Thậm chí các hiện tượng xã hội cũng được xây dựng trên nguyên lý dối trá này. Các khái niệm không cần phải trùng hợp với nội dung thực tế, nhưng điều đáng nói là tất cả mọi người đều thấy chuyện đó là bình thường. Mỗi người đều thấy việc người khác nói dối là bình thường, việc mình nói dối cũng là bình thường, việc tất cả tham gia vào tấn kịch dối trá của toàn xã hội cũng là bình thường.

Một trong những cách thức để bình thường hóa cái nguyên lý dối trá này là người ta cấp cho mọi sự dối trá cái nhãn hiệu : « kiểu Việt Nam ». Ví dụ nhan nhản, ai cũng có thể cung cấp ngay lập tức. Ở đây tôi chỉ lấy một sự việc : Quốc hội kiểu Việt Nam. Quốc hội có đấy, nhưng không phải do dân chọn (đảng đâu có giấu diếm việc « đảng cử dân bầu »), không làm việc vì lợi ích của dân, cũng không làm việc vì lợi ích của đất nước (hẳn chưa ai quên được rằng trong những ngày dàn khoan Trung Quốc cắm sâu vào lòng mẹ Biển Đông của chúng ta thì Quốc hội Việt Nam không ra nổi một nghị quyết về Biển Đông, họ nhường việc đó cho Quốc hội Mỹ). Rồi bây giờ Quốc hội lại chuyển sang họp kín !!! Vậy thì còn lý do gì cho sự tồn tại của Quốc hội ? Trên thực tế chỉ có cái xác chữ « Quốc hội » tồn tại, cái xác chữ đó không có nội dung. Hàng mấy trăm « đại biểu » ấy không làm nên một Quốc hội thực sự, họ cũng chẳng cần quan tâm xem thế nào là một quốc hội thực sự. Một sự dối trá như vậy được hầu như toàn xã hội chấp nhận một cách bình thường.

Sự dối trá mà chúng ta đang phải chịu đựng hiện nay chính là bản chất của mô hình chính trị mà chúng ta nhập khẩu từ Phương Tây : mô hình chính trị độc đảng cộng sản chủ nghĩa. Mô hình này đã bị chính phương Tây loại bỏ sau khi đã chứng kiến bao nhiêu tội ác, bao nhiêu sự trì trệ, đình đốn và phản tiến bộ do nó gây ra.

Nếu không quyết liệt chống lại sự dối trá đang trở thành phổ biến hiện nay, chúng ta sẽ đánh mất dân tộc tính, đánh mất bản sắc, đánh mất truyền thống, và mất nhiều thứ khác nữa. Và muốn chống lại sự dối trá trên phạm vi toàn xã hội, thì mỗi cá nhân phải có khả năng chống lại sự dối trá đã dần dần định hình trong tính cách của mình.

Chúng ta có làm được điều đó không ?

Paris, 23/11/2014

Nguyễn Thị Từ Huy

THẤT THẤT LAI TUẦN JOHN DOE N. 278

THẤT THẤT LAI TUẦN JOHN DOE N. 278

Ngô Nhân Dụng

Chắc quý vị không ai biết Nguyễn Tuấn. Anh qua đời khi đang ngồi trong quán bánh ngọt tên là Jolly Donuts nằm ở góc Đại lộ Roscoe và Đường De Soto trong thành phố Los Angeles, nước Mỹ. Một chiếc xe hơi SUV lớn đâm thẳng vào tiệm bánh lúc anh đang uống cà phê, khoảng 10 giờ đêm ngày 4 tháng Mười năm 2014.

Khi chết đi, trong túi Nguyễn Tuấn chỉ có mấy tấm vé sổ số cũ, 350 đô la tiền mặt, và một điện thoại di động. Thi hài anh được đưa vào nhà xác thành phố, tạm ghi tên là John Doe No. 278. John Doe là cái tên chung đặt cho những người không biết rõ họ, tên. Giống như lối người Việt gọi những người không rõ họ tên Nguyễn Văn Mỗ. Anh là tên Nguyễn Văn Mỗ thứ 278, trong số mấy trăm di hài vô thừa nhận trong nhà xác Los Angeles, một thành phố dân số gần 10 triệu.

Sở giảo nghiệm (Coroner) chắc đã nhờ cảnh sát hỏi nhân viên làm trong quán cà phê mà đêm nào anh cũng tới, biết người ta gọi anh là “Tuan,” họ “Nguyen.” Vậy chắc tên anh là Nguyễn Tuân hay Nguyễn Tuấn. Nhưng vì anh không mang giấy tờ nào, cũng không thấy thân nhân nào đến nhận diện, cho nên họ vẫn ghi cái tên John Doe No. 278. Dấu tay anh được đưa cho cảnh sát tìm thêm, nhưng họ tìm không thấy trong các hồ sơ lưu trữ. Cả đời anh chưa bao giờ bị bắt vì phạm tội. Có người cho biết tuổi anh, chắc sinh vào năm 1961. Sở Xe tự động (DMV) cho chạy tên Tuan Nguyen 1961 trong máy vi tính, hy vọng tìm ra các chi tiết khác. Máy cho biết có 623 người họ, tên tương tự. Nếu tìm trong hồ sơ của Sở Di trú chính phủ Mỹ, chắc có thể thấy những dấu tay giống của anh; vì khi một di dân vào nước Mỹ thế nào cũng được lấy dấu tay. Nhưng trước đây gần 40 năm chưa có máy vi tính để chứa được nhiều dữ kiện trong hồ sơ các di dân như vậy. Cuối cùng, trước pháp luật, anh chỉ là John Doe No. 278, vô danh.

Thi hài Nguyễn Tuấn đang được giữ trong phòng lạnh của thành phố, với vài trăm người khác. Người ta sẽ lấy mẫu sinh học DNA từ người anh, lưu giữ để sau này cần sẽ dùng. Trong thời gian từ ha đến sáu tháng, nếu không ai đến nhận, anh sẽ được hỏa thiêu, rồi đưa về cất tại nghĩa trang của Quận Los Angeles. Trong vài năm, nếu vẫn chưa ai tìm, tro của anh sẽ được đem chôn. Mỗi năm, vào tháng Mười Hai, thành phố sẽ làm một lễ cầu nguyện cho tất cả những người được chôn chung như anh.

Tôi viết bài này để xin báo Người Việt đăng ngày 22 tháng 11 năm 2014, nhân dịp 49 ngày Nguyễn Tuấn. Để xin quý vị cùng cầu nguyện hương linh anh bước vào một cõi bình an vĩnh cửu.

Tôi biết đến Tuan Nguyen nhờ đọc ký giả David Montero, tác giả bài “Who was Tuan Nguyen?” Tuan Nguyen là ai? trên tờ Los Angeles Daily News, số ngày 25 tháng Mười. Anh Thiện Giao, chủ bút nhật báo Người Việt, đã gửi bài ký hay cho tòa soạn cùng học hỏi. Montero đã tìm thêm, biết Tuan Nguyen là một người Việt trong số những thuyền nhân, “boat people” chạy khỏi nước Việt Nam trước đây hơn 30 năm.

Những người đầu tiên Montero phỏng vấn chắc là các nhân viên tiệm bánh, ai cũng nhớ Tuan Nguyen. Họ cho biết mỗi buổi tối anh đều tới quán đúng 9 giờ, trả một đô la mua ly cà phê. Anh cho rất nhiều đường và chỉ quấy sữa bột, không bao giờ dùng sữa lỏng. Anh ngồi ở một cái bàn nhất định, nếu chỗ đó có ai ngồi thì anh chờ tới lúc bàn trống mới vào. Lý do vì cái bàn đó gần chỗ cắm điện để anh “chạc” máy điện thoại di động. Vì cái máy đó mà mỗi đêm anh đến quán cà phê “chạc” điện. Buổi tối anh qua đời, cái máy vẫn còn chạc chưa đầy.  Chắc anh chỉ dùng cái cell phone để chơi “games,” các trò chơi điện tử. Trong máy không ghi lại một số điện thoại của người nào. Cũng không thấy số điện thoại nào gọi tới mà không gặp. Anh có rất nhiều bạn trong khu này; nhưng chắc anh không gọi cho ai bao giờ.

Tuan Nguyen sống không nhà, một người “homeless.” Mỗi ngày anh đi lượm lon, bán lấy tiền sống. Tối ngủ quanh quẩn trong công viên Canoga Park hay Winnetka Park. Ký giả Montero đã hỏi chuyện bà Lori Huynh, 77 tuổi. Bà biết Tuấn đã 20 năm nay; thân với nhau vì cùng trải qua cảnh vượt biển. Bà Huỳnh đi năm 1980 khi chồng bà còn nằm tù trong trại “cải tạo.” Chiếc thuyền chở 300 người chạy trốn chế độ cộng sản; tới được một hòn đảo ở Indonesia, bà đã sống ở đó sáu tháng. Bà Huỳnh kể lại nhiều cảnh hãi hùng. Năm 1986 bà mua lại một tiệm làm Nails.  Thấy một anh da vàng hay đi qua lại, bà làm quen, mời anh ly cà phê. Hai năm sau Tuấn mới thổ lộ, kể rằng cha mẹ anh đã chết hết trên biển; anh là người duy nhất còn sống sót.

Không biết gia đình Nguyễn Tuấn vượt biển năm nào. Năm nay anh 53 tuổi thì chắc lúc đến nước Mỹ anh đã hơn 13 rồi. Tuấn kể với bà Huỳnh rằng cha mẹ anh từng làm việc tại “cơ quan điện nước” ở thành phố Sài Gòn. Gia đình sống trong khu chúng cư, một khu nhà đẹp đẽ thuộc lớp trung lưu, của sở. Anh đã học Trung học Petrus Ký lúc trường chưa bị đổi tên; vậy trước 1975 anh đã hơn 10 tuổi. Anh kể khi đi học anh giỏi toán. Nhiều người cũng nhớ lại trong túi đeo vai của anh lúc nào cũng có một cuốn sách, lâu lâu anh lại ngồi xuống vẽ các đồ biểu hay hình học.

Nhà báo Montero cũng gặp Ben Massaband, chủ nhân một tiệm giặt khô trong 32 năm qua, nằm bên cạnh tiệm Nails của bà Huỳnh. Lâu lâu Tuan Nguyen vẫn giúp ông đem thùng rác ra cho xe đổ rác lấy. Ông nói, “Tôi gặp Tuan Nguyen nhiều hơn gặp vợ con.” Cô Kate Leone là chủ nhân một tiệm thẩm mỹ gần đó; cô kể có lần Tuan Nguyen đã giúp cô mà không cho cô biết. Một tối Chủ Nhật cô Kate đóng cửa tiệm mà không vặn khóa. Tiệm nghỉ ngày Thứ Hai, đến sáng Thứ Ba cô tới mới biết mình đã quên. Sau khi kiểm soát khắp chỗ, thấy không mất gì cả, cô vào coi lại trong máy truyền hình tự động. Trong cuộn phim cô nhìn thấy anh Tuan Nguyen đã đứng gác trước cửa tiệm giúp cô cả ngày Thứ Hai; có lúc anh đi khỏi, khi quay về lại kiểm soát xem có ai mở cửa vào tiệm hay không. Cô Maria Avila là thợ hớt tóc, biết Tuan Nguyên rất nhiều, mỗi năm cô cắt tóc cho anh hai lần. Cô kể mỗi lần lại bảo cô cắt cho anh không lấy tiền, nhưng lần nào anh cũng từ chối, nhất định trả đủ 10 đô la. Cô vừa nói vừa khóc: “Tuan Nguyên nghĩ chúng tôi săn sóc anh ấy, nhưng thực ra chính anh đã chăm sóc cho chúng tôi.”

Một người bạn “homeless” của Tuan Nguyên là bà Brooke Carrillo, 42 tuổi. Năm ngoái bà bị mất nhà, vì mất việc rồi không đủ tiền trả nợ ngân hàng. Mỗi Thứ Năm bà đến nấu nướng giúp nhà thờ, cung cấp bữa ăn cho những người vô gia cư khác. Tuan Nguyên tuần nào cũng tới, lần chót là hai ngày trước khi anh mất. Bà còn nhớ anh thích ăn mì spaghetti kiểu Ý và nước trái cây. Bà biết anh thường ngủ ở công viên Winnetka Park hoặc một chỗ kín đáo trên con đường đó. Bà Carrillo đang sống trong cái xe hơi cũ của mình, trên nóc xe chất đầy đồ, phủ mền kín. Hàng ngày bà cũng đi lượm lon. Bà cần tiền đổ xăng, vì phải di chuyển chiếc xe hơi trong những ngày đường cấm đậu xe. Bà nhớ lại có lần hết tiền mua xăng, Tuan Nguyên cho. Bà cũng khóc, “Anh ta là một người nhân từ, hào hiệp, không bao giờ làm phiền ai cả.”

Bà Huỳnh vượt biển đã bán tiệm Violet Nails từ năm 2007, sau khi quen Nguyễn Tuấn 20 năm. Bà đã giặn dò người chủ mới “phải trông nom cho Tuấn” như một điều kiện khi bán tiệm. Và những người chủ mới vẫn giữ lời; nghe tin anh chết, ai cũng khóc. Họ đem hoa tới đặt tại nơi xẩy ra tai nạn. Cách đây ít lâu, Tuan Nguyên trúng vé số, được 800 đô la. Anh đã đi mua hoa đến tặng tiệm Violet Nails và mua nước hoa tặng các cô nhân viên.

Ký giả David Montero, dưới tựa bài “Who was Tuan Nguyen?” đã viết thêm một dòng tự nhỏ: “Bạn bè kể lại niềm bí ẩn của người vô gia cư chết tai nạn xe hơi ở LA” (Friends unravel mystery of homeless man killed in LA accident).

Nhưng nhiều bí ẩn khác trong cuộc đời Nguyễn Tuấn sẽ không bao giờ được kể lại. Tại sao anh phải sống không nhà suốt mấy chục năm qua, trong khi nhiều thiếu niên cùng tuổi với anh đến tị nạn ở Mỹ một mình, các em đó vẫn sống  được, nhiều người đã thành công? Anh đã chứng kiến những thảm cảnh nào trong chuyến vượt biển, lúc 14, 15 tuổi Nguyễn Tuấn chỉ kể chuyện đời mình với bà Huỳnh sau hai năm quen biết, và bà kể lại rất ít chi tiết. Có phải vì anh vẫn còn kinh hoàng khi nhớ lạ quá khứ hay không? Cái chết của cha mẹ anh, và bao nhiêu người khác trong chuyến đi đã ảnh hưởng tới tâm não anh thế nào? Anh đã trông thấy những gì, nghe những âm thanh nào trên mặt chập trùng gào thét? Nguyễn Tuấn mang theo những niềm bí ẩn đó xuống tuyền đài. Chắc hương hồn anh đã bay ngay lập tức về Biển Đông tìm gặp lại cha mẹ anh. Dân tộc Việt đã vác cây thánh giá trong bao nhiêu năm, hết cuộc chiến tranh lại đến chế độ độc tài tàn ác khiến mấy trăm ngàn người phải chết chìm trên biển cả khi chạy tị nạn. Nguyễn Tuấn vẫn một mình vác cây thánh giá đó bao nhiêu năm, cho đến ngày 4 tháng Mười năm 2014.

Nhưng có một điều rõ ràng, minh bạch, không bí ẩn trong cuộc đời Nguyễn Tuấn: Anh qua đời, tất cả những người quen biết anh đều thương tiếc – như David Montero kể. Không một ai nói một kỷ niệm xấu nào. Một người “không bao giờ làm phiền ai cả” như bà Carrillo nói về anh, đã khó kiếm. Nhưng Nguyễn Tuấn còn đáng ngợi khen hơn thế nữa. Anh nhân từ, hào hiệp, sẵn sàng giúp đỡ người chung quanh. Thấy có thể giúp được ai, là giúp, như một Hướng Đạo sinh tuân theo lời hứa thứ hai. Giúp một người chủ tiệm quên khóa cửa cho tới một người bạn homeless thiếu tiền đổ xăng; và chắc còn bao nhiêu người khác mà ký giả Montero không gặp. Nguyễn Tuấn sống một mình nhưng không cô đơn, vì lúc nào anh cũng nghĩ đến người khác. Anh sống vô gia cư nhưng có cả một gia đình lớn, là những người gặp gỡ hàng ngày, ai cũng quý mến anh. Anh tận tình giúp người mà không muốn nhờ vả ai, không chờ ai đền đáp. Anh giữ tư cách, không nhận người khác bố thí cho mình, dù chỉ là công cắt tóc trị giá 10 đồng. Khi có tiền, 800 đô la là một món tiền lớn đối với anh, anh không hưởng một mình mà đem chia sẻ niềm vui chung với những người tử tế quanh mình.

Nguyễn Tuấn đã theo một quy tắc cư xử mà loài người vẫn dậy nhau mấy ngàn năm nay: Sống đàng hoàng tử tế; người khác sẽ tử tế với mình. Cứ thế, chúng ta sẽ tạo nên một thế giới gồm những người tử tế.

Một thiếu niên bơ vơ nơi đất khách quê người, không thân thích, không nơi nương tựa; chắc anh đã trả qua những thất bại lớn trong đời nên sống vô gia cư mấy chục năm nay. Nhưng khi qua đời anh vẫn được người khác kính trọng. Anh sống ở Mỹ, nhưng nếu sau khi vượt biển anh có lưu lạc đến xứ Zambia hay Equator thì chắc tư cách đàng hoàng của anh vẫn không thay đổi. Cha mẹ anh đã dậy dỗ thế nào để đứa con giữ được tư cách như thế? Họ đã học hỏi từ đâu mà truyền lại cho anh các đức tính kể trên? Cha mẹ anh chỉ dậy anh theo truyền thống dân Việt. Nền luân lý mấy ngàn năm để lại, cùng nền nếp xã hội trước năm 1975 tạo môi trường đào luyện những con người như Nguyễn Tuấn.

Có ai biết Nguyễn Tuấn không? Chúng ta vẫn có hàng triệu, hàng chục triệu những Nguyễn Tuấn đang được cha mẹ người Việt Nam làm gương và dậy bảo. Để các em sẽ trở thành những con người nhân từ, hào hiệp, sống tư cách đường hoàng như Nguyễn Tuấn. Dù còn ở trong nước hay đang sống khắp bốn phương trời, những Nguyễn Tuấn vẫn mang theo truyền thống luân lý của tổ tiên làm hành trang cho cả cuộc đời.

Nguyễn Tuấn mang trong mình một di sản văn hóa anh đã nhận được từ cha mẹ, ông bà, từ những người cùng sống trong xã hội chung quanh từ lúc anh sinh ra đời. Anh đã  sống di sản văn hóa đó suốt cuộc đời một người vô gia cư. Cuộc sống càng gian nan, các đức tính anh thể hiện càng sáng lên rực rỡ.

Đọc xong bài báo của David Montero, nhiều người không cầm được nước mắt. Nhưng không cần ai thương xót Nguyễn Tuấn. Chúng ta có thể còn hãnh diện về Nguyễn Tuấn. Vì mình là một người Việt Nam như anh. Tôi muốn dậy các con tôi tấm gương của anh: Dù gặp cảnh cùng quẫn đến đâu nữa cũng giữ vững vàng tư cách xứng đáng của một người Việt Nam.

~~~~~~~~~~~~~

– Who was Tuan Nguyen? Friends unravel mystery of homeless man killed in LA accident

–  John Doe N.278

– Valley story: Vietnam refugee dies homeless in Canoga Park for decades

From: huong phan & Nguyễn Kim BBằăng gởi

Đất Nước Việt Nam Mất Dần Vào Tay Tầu Cộng

Đất Nước Việt Nam Mất Dần Vào Tay Tầu Cộng

Vietbao.com

Từ mấy thập niên nay, người dân Việt đã biết rằng giải đất quê hương thân yêu hình chữ S sẽ mất vào tay Tầu Cộng, qua việc đảng Cộng Sản Việt Nam tán tận lương tâm dâng đất cho Tầu Cộng để đổi lấy sự bình ổn chính trị của chúng, nói rõ ra là để cho bọn chúng được yên tâm mà tận hưởng giầu sang, phú quý cướp được từ dân chúng. Nhiều dư luận cho rằng, qua thỏa ước Thành Đô, qua các hiệp ước ký ngầm hoặc công khai với Bắc Kinh, Việt Nam sẽ trở thành một quận huyện của Tầu vào năm 2020. Tuy nhiên, không ai ngờ rằng việc đó đến sớm hơn dự định. Hiện nay, nhiều vùng trên đất Việt Nam đã hoàn toàn thuộc Tầu. Các phu phố rặt Tầu đã mọc lên khắp nơi, từ Thác Bản Giốc, Móng Cáy, xuống miền Trung, khu Gia La-Tân Rai, tới tận Hà Tiên, đâu đâu cũng có những khu phố Tầu, mà người dân ở đó phải nói tiếng Tầu, dùng căn cước Tầu, xài tiền Tầu. Ngay tại Bình dương sát Saigon, năm 2011, Tầu cộng đã dựng nguyên môt thành phố đặt tên là Đông Đô Đại Phố rộng 26 mẫu tây, với số vốn 300 triệu đô la, để phổ biến sinh hoạt rặt Tầu, nghĩa là áp dụng văn hóa Tầu, chữ Tầu thay cho chữ Việt, xài căn cước Tầu, và đặc biệt nhất là cấm tuyệt đối không cho văn hóa Việt được phát triển ở đây. Tuy không có bảng cấm “Người Việt không được vào”, nhưng những người Việt bước vào khu này, nếu không phải là có quan hệ với người Tầu ở đây, thì sẽ gặp những rắc rối khó khăn, những cặp mắt căm thù, khiến phải nhanh chân trở ra. Điều khác biệt giữa Đông Đô Đại Phố và các khu phố Tầu khác trên thế giới ở chỗ đây là một tỉnh lỵ nhỏ của người Tầu và không một dân tộc nào khác được vào đây mua đât, mua nhà như ở các khu phố Tầu khác. Đường phố chính của Đông Đô Đại Phố là một trung tâm thương mại, có 3 mặt tiền giáp với đường lớn rộng 35 mét, cao 3 tầng với đầy đủ các dịch vụ kinh doanh buôn bán, giải trí, ẩm thực rặt văn hóa Tầu với tên cửa hàng chỉ viết chữ Hán. Trong giao dịch ở đây, chỉ có ngôn ngữ Tầu được sử dụng, nói líu lo. Như vậy, có nghĩa là phần đất này đã được bán cho Tầu môt trăm phần trăm.

Tuy nhiên, nếu Đông Đô Đại Phố là cái gai nhọn trong chân người Việt, thì khu Gia Lai-Tân Rai lại ghê gớm hơn vì nơi đó chính là nguồn gốc sự tiêu hủy môi trường và con người chung quanh vùng này. Từ khi lấy tiếng là khai thác bâu xít để lấy quặng nhôm cho đến nay, số lượng nhôm được khai thác chỉ là những con số huyễn hoặc không ai có thể kiểm tra là đúng hay xạo. Trong khi sự thật lại là việc các công nhân Tầu làm việc ở đây chính là những công an, bộ đội Tầu, được lệnh phải lấy được vợ người Việt chung quanh để biến họ thành dân Tầu với những ưu tiên về mọi mặt. Nhiều thôn nữ nghèo khổ trong vùng, khi nghe những lời đường mật dẫn dụ về các đặc quyền đặc lợi mà họ sẽ được hưởng nếu lấy chồng Tầu, thì sẵn sàng “trao duyên cho tướng cướp”. Sau đó, thì sinh con đẻ cái cho chúng, lập thành một dân tộc riêng biệt chiếm lĩnh vùng cao nguyên mầu mỡ này. Những công nhân gốc công an, bộ đội này dành quyền miễn trừ ngoại giao cho chính chúng nó, nếu chúng có xông ra đánh đập, đâm chém người dân chung quanh thì chính quyền sở tại không dám đụng đến, ngược lại, nếu thanh niên trai làng mà có chuyện xích mích với chúng, thì chúng có quyền bắt trói, gông cổ ngay tại cổng trại! Có lần cả gần 200 công nhân-công an Tầu tràn ra đường với gậy gộc đánh đập thanh niên chung quanh chạy trối chết mà công an Việt chỉ biết đứng trơ mắt ốc ra mà nhìn. Gần đây, điều kinh khủng nhất đã xẩy ra: vì xây cất dỏm, nên bùn đỏ tràn hồ làm hủy hoại toàn thể môi trường chung quanh. Bùn đỏ là bùn độc hại, bởi vì có lượng xút rất cao, khoảng 75kg xút/1 tấn bùn đỏ cộng với độ PH rất cao sẽ làm chết hết cây cỏ, động vật, thực vật, phá hủy kim loại. Khi chẩy xuống nguồn nước thì cá tôm sẽ chết hết, người ta nếu ăn vào thì cũng sẽ chết theo tôm cá. Ngoài ra, bùn đỏ còn có thể kéo theo các kim loại nặng và chất phóng xạ nguy hiểm cho đời sống con người. Đồng thời với việc bùn đỏ tràn hồ, việc các xe tải chở Aluminum (hay chở vật liệu gì đó, thì không ai biết được!) chạy qua các thành phố liên hệ, cũng là môt nỗi ám ảnh không dứt cho người dân sống trong vùng này. Các xe tải của công ty khai thác bâu xít chạy ầm ĩ trên các đường lộ đông dân cư và trẻ em, đã gây ra không biết bao nhiêu tai nạn, hoặc lật xe, đổ chất độc xuống đường, hoặc cán chết người vô tội vạ.

Tháng 6 năm 2014, điều mà dân Việt lo sợ nhất đã chính thức xẩy ra: khu kinh tế Formosa, Vũng Áng, Hà Tĩnh của Việt Nam gửi thư lên nhà cầm quyền Hà Nội và yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam cho được lập đặc khu với nhiều quyền hạn vượt ra ngoài khuôn khổ luật pháp bình thường, nghĩa là đòi trở thành một đặc khu người Tầu dưới sự cai trị của người Tầu, dứt khoát chê bỏ chính quyền của đảng Cộng Sản Việt Nam. Tuy đòi hỏi này chưa được chấp thuận, nhưng với sự hèn nhát của Đảng Cộng và dưới áp lực của các bản hiệp ước bán nước cho Tầu, dần dần rồi yêu cầu này cũng được chấp thuận, hoặc cứ tà tà mà thực hiện, không cần phải đánh trống khua chiêng ầm ĩ. Theo thư xin được đặc quyền này gửi cho Phó Thủ Tướng Hoàng Trung Hải là một con cờ của Bắc Kinh, Tổng giám đốc công ty Hưng Nghiệp Formosa Dương Hồng Chí, người Tầu, nói lý do là việc thiết lập đặc khu kinh tế nhằm phục vụ cho quá trình xây dựng cảng nước sâu Sơn Dương và đầu tư các ngành công nghiệp liên quan như gang thép, điện, nước… Thực tế, chúng gửi yêu cầu để tách vùng Vũng Áng, Hà Tĩnh, thành như một vùng tự trị trong lòng giang sơn Việt Nam. Với con số trên dưới 10,000 công nhân Tầu không có giấy tờ hợp pháp, khu Vũng Áng đã có một lực lượng quân sự khá lớn, nếu xẩy ra đụng chạm giữa Việt Nam và Trung Cộng. Điều này cũng là sự thực, không phải phỏng đoán, vì những ai sinh sống gần khu Vũng Áng đều thấy rằng có môt lực lượng an ninh với vũ khí đặc biệt trấn đóng trong khu này. Những khuôn mặt lầm lì, những lần tuần tra có vũ khí của lực lượng công nhân Tầu đã cho người ta thấy rõ dã tâm của bọn Tầu khi đã chuẩn bị sẵn để bất cứ lúc nào cũng có thể tấn công các lực lượng phòng thủ của công anh hay quân đội quanh miền này.

Như thế, với 10,000 “quân nhân” Tầu tại Vũng Áng, cộng với hơn 10.000 “quân nhân” Tầu tại Gia Lai-Tân Rai, và vài chục ngàn “quân nhân” Tầu tại Đông Đô Đại Phố, cùng các lực lượng nhỏ của Tầu nằm rải rác khắp nơi trên đắt Việt,từ Móng Cáy, Hòn Gai, đến Cà Mâu, Hà Tiên… nếu có một trận chiến xẩy ra giữa Tầu Cộng và Việt Cộng thì Việt Cộng sẽ thấy kết quả thua trận ngay trước mắt. Trận chiến 1979 do Tầu khởi xướng chỉ tại mỗi môt miền Bắc, mà Việt Cộng đã phải hy sinh 24,000 người chết, (chưa kể người bị thương), thì trong tương lai, nếu có trận chiến thứ hai xẩy ra giữa “hai anh em môi hở, răng lạnh” này, mà thằng anh đã gài sẵn môt hệ thống “da beo” trên khắp miền đất Việt Nam, nhất định thằng em Việt Cộng sẽ chết không dưới 200,000 người, và như thế, thì lá cờ trắng sẽ được treo trên cột cờ thành phố Hà Nội chỉ trong vòng 3 ngày chiến đấu. Máu Việt Nam sẽ đổ tràn lan trên khắp miền Nam, Trung, Bắc. Thế hệ sau của Việt nam sẽ biến thành thế hệ của Tầu…

Thật đau lòng cho các vua đời Đinh, đời Lê, đời Lý, đời Trần và Hoàng Đế Quang Trung đã hiến dâng tính mạng mình cho đất nước, mà giờ đây, con cháu lại bán đứt đất nước cho giặc! Ôi! Nhục thay! Thảm Thương thay cho dân Việt, đã hơn 4000 năm văn hiến, bảo vệ giang sơn, mà giờ đây, bọn Cộng Nô lại nỡ tâm đem bán để cho chúng hưởng đời tỷ phú huy hoàng.

Chu Tất Tiến

Biết Tạ Ơn Ai

Biết Tạ Ơn Ai

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Đời vẫn vốn không nương người thất thế.
Nguyễn Tất Nhiên

Những ngày cận lễ, tôi hân hạnh nhận được qua email một bài viết mới (“Thanksgiving 2014 & Dân Việt Tỵ Nạn”) của nhà văn Giao Chỉ. Xin được trích dẫn đôi đoạn ngắn để chia sẻ cùng độc giả:

Quả thực người Mỹ đã có đầy đủ lý do để giữ gìn truyền thống với ngày Lễ Tạ ơn vào tháng 11 mỗi năm. Lịch sử ghi rằng vào năm 1620 có một nhóm gia đình người Anh theo Tin Lành đã đi tìm đất mới để sống đời tự do tín ngưỡng…

Trải qua một năm đầu với mùa đông khắc nghiệt, không đủ thực phẩm, không có đủ quần áo, không có nơi cư trú nên di dân đã phải chôn cất 46 người. Qua năm sau, mùa gặt 1621 thành công, di dân cùng dân da đỏ bản xứ tổ chức tiệc mừng lễ tạ ơn trên đất Mỹ.

Đó là ngày lễ hội đầu tiên tại Mỹ Châu và truyền thống còn mãi đến ngày nay…

Đạo luật quốc tịch của Hoa Kỳ ban hành 1790, hơn 200 năm trước đã có những lời vàng ngọc như sau: Bất cứ ai tị nạn đến Hoa Kỳ, sau khi được xác nhận sẽ hưởng quy chế nhập cư.

Như vậy chúng ta hiểu một cách giản dị là nếu đã đến Mỹ thì sẽ có cơ hội trở thành người Mỹ. Căn cứ vào điều khoản của luật 1790, một đạo luật khác đã ra đời năm 1975 có tên là Indochina Migration and Refugee Act…

Khi miền Nam xụp đổ tháng 4-1975 đợt di tản đầu tiên của người Việt đã mở ra một đầu cầu quan trọng cho lịch sử di dân từ Châu Á. Những chuyến đi vô cùng mạo hiểm của thuyền nhân đã làm thành thiên anh hùng ca của con đường đi tìm tự do với hàng ngàn con tàu May Flower của dân Việt đã ra đi trong đó nhiều di dân không bao giờ đến được miền đất Hứa…​

Và dù 5 ăn 5 thua con tàu Mayflower Việt Nam đã ra đi từ khắp miền duyên hải có khi chỉ là những chiếc ghe nhỏ bé mong manh.

Người Việt đã vì nhiều lý do để ra đi suốt bao nhiêu năm qua. Và danh từ Boat People trong tự điển thế giới đã không còn cùng ý nghĩa xưa cũ để chỉ những người sinh sống ở trên thuyền. Boat People ngày nay có nghĩa là người Việt đã đi tìm tự do bằng thuyền vượt biển Nam Hải.

Lịch sử các cuộc di dân của nhân loại đã đưa đến nhận định rằng Ta không thể lựa chọn sinh quán, nhưng ta có thể chọn lựa để sống ở miền đất mà chúng ta yêu quý. (You cannot choose the land you birth, but you can choose the land you love).

Nhận định này, tiếc thay, không hẳn đã hoàn toàn đúng với tuyệt đại đa số người Việt đang sống lây lất ở Cambodia. Phần lớn họ không được chính phủ sở tại xem là cư dân hợp pháp nên vẫn cứ là những boat people (bấp bênh sinh sống trên thuyền) ở Biển Hồ, và nhiều bến bờ khác nữa xuôi theo dòng sông Tonlé Sap.

Ảnh NCB – November 2014

Sau một chuyến đi thăm đồng hương ở đất nước này, nhà báo Văn Quang kết luận:

“Hầu hết là người Việt Nam lưu lạc qua Campuchia vì nhiều lý do khác nhau. Nhưng tựu chung họ là những người đi kiếm sống ở một vùng tưởng rằng đó là đất hứa… Trước hay sau họ cũng phải tìm đường đi thôi. Nhưng đi đâu, làm cái gì để sống là những hòn đá tảng níu chân họ lại. Rồi bao nhiêu đời vẫn cứ thay nhau lầm than cơ cực ở nơi xứ người này, không có lối thoát. Họ vẫn chỉ có một ý nghĩ, ở đây họ còn có chiếc thuyền, dù rách nát, nhưng họ vẫn có một nghề chài lưới kiếm sống qua ngày. Đi nơi khác, chẳng biết bấu víu vào đâu!”

Ảnh NCB – November 2014

Trong bản tường trình (The Situation of Stateless Ethnic Vietnamese in Cambodia) của MIRO – Minority Rights Organization – phổ biến vào tháng 3 năm 2014, tổ chức này đã ví von đám người Việt đang sinh sống nơi đây là “những kẻ đang sống ngoài cửa thiên đàng.” Ngay giữa thiên đàng của xứ Chùa Tháp (ngó bộ) cũng không hạnh phúc hay tự do gì cho lắm, nói chi đến thân phận của những kẻ còn “kẹt” ở bên ngoài.

Họ “kẹt” cái gì vậy Trời?

Xin thưa cái … quốc tịch Cambodia.

Nhà văn Giao Chỉ cho biết “Đạo luật quốc tịch của Hoa Kỳ ban hành 1790, hơn 200 năm trước đã có những lời vàng ngọc như sau: Bất cứ ai tị nạn đến Hoa Kỳ, sau khi được xác nhận sẽ hưởng quy chế nhập cư.” Cao Miên không phải là Mỹ Quốc nên xứ sở này không có luật lệ gì đàng hoàng và rõ ràng, cùng với những lời lẽ “vàng ngọc” như vậy.

Vô số người Việt sinh đẻ ở Miên còn chưa được cấp cái giấy khai sinh, nói chi đến những thứ xa xỉ như thẻ căn cước hay quốc tịch. Và không quốc tịch cũng có nghĩa là không có quyền tiếp cận với tất cả những dịch vụ và quyền lợi tối thiểu như người dân bản xứ: không y tế, không giáo dục, không có quyền sở hữu đất đai hay tài sản …

Thực ra thì những người dân trôi sông lạc chợ này cũng chả ai biết (hay dám) đòi hỏi quyền lợi gì ráo trọi. Tất cả chỉ mong được sống cho nó yên thên thôi nhưng sự mong muốn giản dị này – xem chừng – vẫn còn rất xa tầm tay của họ.

Chính phủ Cambodia đang tiến hành một cuộc kiểm tra dân số mà nhiều quan sát viên cho rằng mục đích chính của nó là nhắm vào đám dân Việt Nam đang ngụ cư ở đất nước này. Ông Sok Hieng – công nhân xây cất,  33 tuổi, sinh ở Nam Vang nhưng có bố mẹ gốc việt – bầy tỏ sự lo âu: “Tôi sợ rằng mình sẽ buộc phải rời khỏi Cambodia vì tôi chưa có thẻ căn cước. Khi tôi đến Việt Nam, họ coi tôi là người Miên; tôi ở giữa người Miên và người Việt.” (Sean Teehan & Phak Seangly. “Vietnamese wary of planned census.” The Phnom Penh Post 26 August 2014).

Nỗi lo sợ của Sok Hieng đã trở thành sự thực vào hai tháng sau, vân theo The Phnom Penh Post, số ra ngày 3 tháng 10 năm 2014: “Chỉ trong vòng một ngày 142 người di dân bất hợp pháp Việt Nam đã bị trả qua biên giới – Census deportations hit 142 in single day.”

Cùng với sự bất an, nếp sống bấp bênh và nghèo khó là nét nổi bật trong sinh hoạt hàng ngày của đa số dân Việt ở Cambodia –  theo như tường trình của thông tín viên Quốc Việt, RFA:

“Hầu hết người Việt sống trên làng nổi, theo bờ sông đều không có đất đai sản xuất nên họ bắt buộc lăn lộn lén lút đi đánh bắt cá. Các gia đình đều muốn cho con em có nơi chỗ ăn học để vươn lên trong xã hội và đóng góp cho đất nước tuy nhiên tất cả đều không có khả năng.”

Nhiều năm trước, sau khi chia tay đồng bào mình ở Cambodia – vào tháng 12 năm 2008 – nhà báo Văn Quang vẫn còn ngoái nhìn, với rất nhiều ái ngại:

“Hình ảnh những bà cụ già lưng còng lom khom trên chiếc ghe mỏng manh, những đứa trẻ con người Việt tháo láo mắt nhìn khách lạ, những gia đình 7-8 đứa con sống lúc nhúc trên chiếc ghe rách tơi tả còn bám theo tôi mãi.”

Đến hôm nay chúng tôi mới lò dò đến xứ sở này, và kinh ngạc nhận ra rằng hình ảnh của “những bà cụ già lưng còng lom khom trên chiếc ghe mỏng manh, những đứa trẻ con người Việt tháo láo mắt nhìn khách lạ” vẫn còn nguyên vẹn như xưa. Thời gian, dường như, không hề trôi trên những bến nước ở nơi đây.

Ảnh NCB. November 2014

Chúng tôi ghé làng nổi Kandal và Chong Kok, thuộc xã Phsar Chhnang – tỉnh Kampong Chhnang – nằm ở phần đuôi của Biển Hồ (nơi hiếm có khách du lịch nào lai vãng) vào cuối tháng 11 năm 2014. Theo lời ông trưởng thôn: nơi đây có 931 gia đình người Việt, nhân khẩu chính xác là 4,760, tất cả đều là người Việt hay gốc Việt.

Người Miên và người Chàm không sống trên ghe, và họ có quyền lựa chọn một lối sống bình thường (trên bờ) như đa phần nhân loại. Số dân Việt Nam đang trôi nổi ở xứ Chùa Tháp thì không. Họ là thứ sắc dân vô tổ quốc (stateless ethnic Vietnamese, theo như cách gọi chính thức của các N.G.O đang hoạt động ở Cambodia) nên  không có quyền sở hữu tài sản hay đất đai, và buộc phải chấp nhận một nếp sống rất bồng bềnh, và vô cùng bấp bênh – như hiện cảnh.

Chúng tôi đi ghe vòng vòng thăm hỏi và trò chuyện với chừng chục gia đình người Việt, những thuyền nhân (boat people) ở Kampong Chhnang. Không ai chuẩn bị gì ráo trọi cho mùa Thanksgiving này cả. Họ hoàn toàn không có chút khái niệm gì về Lễ Tạ Ơn. Họ biết tạ ơn ai, và “tạ” về chuyện gì đây?

Ảnh NCB – November 2014

Có bao nhiêu ông Trần Văn Truyền khác trong vỏ bọc liêm khiết?

Có bao nhiêu ông Trần Văn Truyền khác trong vỏ bọc liêm khiết?

Một Thế Giới

Kiến Giang

23-11-2014

Kết luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương về khối tài sản của ông Trần Văn Truyền là rất rõ ràng. Hầu hết là nhà đất được cấp sai nguyên tắc. Cấp sai thì thu hồi lại, đó là việc đương nhiên. Dẫu vậy, vụ việc liên quan đến ông Truyền gây ra quá nhiều tổn hại. Mà tổn hại lớn nhất, chính là lòng tin của người dân.

Khi một người đầu ngành chống tham nhũng lại vơ vét của cải thì lòng tin của dân về công cuộc chống tham nhũng chắc chắn sẽ bị lung lay và sẽ phát sinh câu hỏi: Có bao nhiêu ông Truyền khác đang khoác vỏ bọc liêm khiết?

Sau kết luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, điều người dân hoang mang không chỉ là những khối tài sản kếch xù thiếu minh bạch mà ông có được.

Hoang mang là đã có lúc, ông với cương vị người đứng đầu cơ quan thanh tra, đã có những tuyên bố mạnh mẽ, đương đầu với quốc nạn tham nhũng. Người ta vẫn tin ông là một người thanh liêm, có trách nhiệm, dám nói dám làm.

Thế nhưng, khi mọi việc vở lẽ, người ta ngao ngán thực tế rằng những gì ông nói trái ngược hẳn với những gì ông làm. Thậm chí, nếu quá tức giận, người ta có thể gọi ông là kẻ “tay ăn cắp, miệng la làng” cũng không có gì quá đáng.

Cuối tháng 12/2007, ông phát biểu đầy cảm khái: “Càng công khai, minh bạch, càng kiểm soát được tình hình; nhất là công khai các hoạt động của bộ máy nhà nước, công khai các việc mà công chức nhà nước phải làm; từ đây công khai, minh bạch luôn cả về tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức”.

Cùng thời gian đó, con gái ông được làm thủ tục mua lại căn nhà ở đường Nguyễn Trong Tuyển, Q.Phú Nhuận mà trước đây ông thuê lại.

Giữa năm 2010, một thời gian chưa lâu sau khi ông làm thụ tục xin mua lại căn nhà rộng lớn ở thành phố Bến Tre và được xét duyệt, ông lại đăng đàn phát biểu hùng hồn: “Đấu tranh chống tham những, tiêu cực rất gian nan, khó khăn nên chúng ta phải có bản lĩnh, dám đương đầu và chấp nhận để đấu tranh. Nếu đấu tranh mà giải quyết được tình trạng tiêu cực thì đó là có lợi cho cái chung, đất nước đang cần, nhân dân đang mong”.

Hoang mang lớn nữa của người dân là tại sao ông Trần Văn Truyền “vô tư” lấy nhà đất công một cách dễ dàng, nhanh gọn. Phát biểu của lãnh đạo đầu ngành TP.HCM và Bến Tre rằng cấp nhà do không biết ông Truyền đã có nhà nơi khác là không hợp lý.

Vì chúng ta có hẳn một hệ thống quản lý tài sản công, thủ tục hóa giá nhà theo nghị định 61 cũng rất nhiêu khê, xác minh rất cặn kẽ. Trong khi ông Truyền không gặp trở ngại nào.

Tại TP.HCM, nói không thể xác minh việc ông Truyền có nhà nơi khác lại càng không thể chấp nhận. Bởi vì căn nhà đó được hóa giá cho con gái ông Truyền, một nhân viên bảo hiểm, không nằm trong diện được xét duyệt. Việc bà này sở hữu một căn hộ cao cấp ở quận 5, TP.HCM dân thường còn biết, không thể nói cán bộ quản lý nhà không biết.

Không thể có cách lý giải nào khác ngoài việc các cơ quan quản lý tài sản công, vì một lý do nào đó, đã không thi hành chức trách của mình, tạo điều kiện cho ông Truyền và gia đình vơ vét của công.

Cuối cùng, một câu hỏi đặt ra, nếu ông Truyền không xây biệt thự hoành tráng, ai sẽ biết ông lắm tiền nhiều của? Không có báo chí vào cuộc phanh phui, cơ quan chức năng nào sẽ vào cuộc điều tra khối tài sản khổng lồ của ông?

Thậm chí, nếu báo chí không đặt vấn đề, có lẽ sự việc của ông Truyền có thể đã rơi vào im lặng. Ông tiếp tục sở hữu tài sản kếch xù, tiếp tục vung tay phát ngôn về đạo đức cán bộ, về minh bạch và chống tham nhũng. Như có lần ông hùng hồn tuyên bố: “Chống tham nhũng hiện không chùng xuống, nếu chùng xuống thì chỉ có báo chí chùng, còn các cơ quan chống tham nhũng khác không chùng”.

Sẽ có nhiều người “tội nghiệp” ông Truyền vì trót phô trương, trót vương giả nên mới bị soi mói. Thực tế, có người cho rằng rất ít cán bộ dám thoát ra ngoài bộ quần áo giản dị, chiếc xe máy bình thường mặc dù đang sở hữu tài sản lớn. Nhiều người đợi đến khi về hưu vài năm mới dám đầu tư chiếc xe hơi vừa giá để tránh soi mói như một hình thức hạ cánh an toàn và nhẹ nhàng. Cán bộ cả gan như ông Truyền còn lắm.

Ông Truyền đáng bị chê trách. Nhưng nhờ ông, dư luận có quyền đặt câu hỏi, có bao nhiêu ông Truyền khác đang ẩn mình? Và bằng cách nào bóc được lớp vỏ bọc liêm khiết?

Một người tỏ ra cương trực, thẳng thắn như ông Truyền lại là người không minh bạch. Người ta không nghi ngại về những cán bộ ít ngoại giao, khép mình. Khi quyền lực đi với quyền lợi quá lớn và dễ dàng như trường hợp của ông Truyền, sẽ có bao nhiêu người giữ được sự công tâm vô tư? Câu trả lời quá khó.

Cũng như quá khó để trả lời câu hỏi: Thu hồi nhà đất của ông Truyền, làm sao “thu hồi” được lòng tin của người dân?

Yết hầu Hải Vân Quan

Yết hầu Hải Vân Quan

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Cái tin “Huế cho tư bản Trung Cộng thuê núi Hải Vân” đã làm cho những người yêu nước, thương nòi xót xa, suy nghĩ và chắc chắn những nhà quân sự phải lạnh toát người. Trong thời thơ ấu cũng như lúc lớn lên trong chiến tranh, tôi đã qua lại đèo Hải Vân nhiều lần, có khi chui đèo bằng xe lửa, có khi lên đèo bằng xe hơi.

Chúng tôi thường gọi tên đèo là Hải Vân thay vì Ải Vân, đỉnh đèo cao hơn mực nước biển khoảng 400 mét và đường đi quanh co 20 cây số qua những ngọn núi cao thấp chập chùng, như ca dao đã mô tả: “Đường bộ thì sợ Hải Vân/Đường thủy thì sợ sóng thần Hang Dơi.”

Đường lên đèo Hải Vân. (Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Ngày xưa ngọn đèo chính là ranh giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành, sau này là cột mốc chia hai xứ Thuận Hóa (Huế-Thừa Thiên) và Quảng Nam-Đà Nẵng. Vua Lê Thánh Tông (1470) đã phong tặng thắng cảnh này là “Thiên hạ đệ nhất hùng quan.”

Đi xe lửa từ Bắc vào Nam hay từ Nam ra Bắc thì phải chui qua nhiều đường hầm do người Pháp đục xuyên núi để đặt đường xe lửa, trong đó nổi tiếng là Hầm Sen dài nhất đến 562 mét đào dưới núi Liên. Địa thế của đèo rất hiểm trở, có nơi núi chênh vênh chạy ra sát với biển sâu thẳm. Chính nơi đoạn đường này, thời Việt Minh, nhiều chuyến xe lửa đã bị giật mìn gây chết chóc cho đồng bào, hơn là thiệt hại cho quân đội Pháp. Mãi đến năm 1953, khi đi xe lửa qua khu vực này, chúng tôi còn thấy nhiều mảnh vải áo quần của nạn nhân còn sót lại dưới khe núi.

Vào mùa Đông mây bao phủ một vùng, phải khó khăn, cẩn thận lắm khi lái xe qua đèo. Vào ban đêm, có khi sương mù, có lần ở Đà Nẵng ra trễ, có đoạn đường, chúng tôi phải theo sát đèn đỏ của xe trước mà đi, khoảnh khắc sơ sẩy là xe rơi xuống vực thẳm.

Đường bộ thì độc đạo, cheo leo, có lúc xe chỉ được chạy một chiều, do vậy khi lên đèo có khi phải mất một hai tiếng đồng hồ, khách phải dừng lại chờ đợi trên đỉnh đèo, nên chỗ này, nhiều hàng quán buôn bán được mở ra để phục vụ du khách.

Không chỉ hiểm trở, Hải Vân còn là yếu điểm quân sự, quan trọng cho con đường huyết mạch giữa hai tỉnh Thừa Thiên-Quảng Nam, mà được coi như yết hầu của miền Trung nước Việt, nếu ai đó muốn khống chế, áp đảo chia cắt đất nước này làm hai. Do vậy, thời VNCH, luôn luôn có các cuộc hành quân của quân đội trong vùng núi hiểm trở Hải Vân để bảo vệ an ninh cho trục lộ huyết mạch Nam Bắc.

Tháng Ba, 1975, Đà Nẵng đang còn yên tĩnh, quân đội VNCH lui binh về phía Nam, nhưng không thể sử dụng xe cộ qua đèo Hải Vân, một mặt vì đã bị tắc nghẽn vì dân chúng chạy loạn, một mặt đây là một đoạn đường không thể sử dụng trong tình huống lui binh, nếu nguy hiểm, nếu xẩy ra một cuộc bao vây chia cắt hay pháo kích. Thảm kịch tại An Dương, Thuận An cho đến cửa biển Tư Hiền của Lữ Đoàn 147 TQLC và của các đơn vị khác, phần chính là nguyên nhân chúng ta không sử dụng được con đường đèo “yết hầu” Hải Vân.

Hiện nay nhiều tỉnh trong nước cả ba miền Bắc Trung Nam đã cho các công ty ngoại quốc thuê những vùng đất biên giới, đầu nguồn hay những vùng quan trọng của đất nước, 87% là những yếu điểm về mặt quốc phòng. Tại những vùng đất này, với sự tiếp tay của cán bộ tham nhũng địa phương, ngoại nhân đã thao túng biến những vùng đất này thành những lãnh địa riêng. Trung Cộng đã trúng thầu và thâu tóm hơn 90% các công trình trọng điểm quốc gia trải dài khắp mọi miền đất nước Việt Nam. Mới đây, khoảng giữa Tháng Giêng, các báo của nhà nước còn cho biết, 60% doanh nghiệp phía Bắc là của Trung Cộng hay do Trung Cộng đứng đằng sau. Hiện nay Trung Cộng đã đầu tư lớn vào hai vùng Vũng Áng, Kỳ Anh, Hà Tĩnh và Cửa Việt, tỉnh Quảng Trị, chỉ cách căn cứ hải quân Du Lâm của Trung Cộng 200 km. Các vùng đất này thành một nơi “cấm địa”không cho người Việt lai vãng, trong tương lai, vùng này sẽ trở thành một căn cứ biển đất của Tàu, dễ dàng chia cắt Việt Nam thành hai miền.

Về cứ điểm Hải Vân, nhiều tướng lãnh CSVN đã lên tiếng, cho đây là “một hiểm họa rất lớn liên quan đến an ninh nhiều mặt của quốc gia” và “mất của cải còn làm lại được, còn mất đất là mất hẳn.” Theo lời cảnh báo này thì mỗi khi ngoại quốc đã thuê rừng, họ có quyền phá rừng, gieo tai họa cho dân chúng, điều đáng lo nhất là nạn di dân ồ ạt, nhất là từ Trung Cộng, xâm nhập vào trên danh nghĩa là công nhân làm việc cho các dự án thuê đất, thuê rừng này.

Với câu hỏi “Vị trí của dự án Trung Quốc trên núi Hải Vân trọng yếu như thế nào?” những cấp chỉ huy quân sự tại Đà Nẵng đã lên tiếng báo động việc cho Trung Cộng đầu tư một khu nghỉ mát trên núi Hải Vân, đưa đến việc chúng nắm “yết hầu” có thể chia cắt đất nước, khống chế toàn bộ vịnh Đà Nẵng!

Giới quân sự này nói rõ, “Nắm vị trí Hải Vân là nắm cả vùng trời, vùng núi, vùng biển khu vực phòng thủ Đà Nẵng!” Điều ai cũng biết là nếu chiến tranh xẩy ra, địch chiếm được vùng núi biển Hải Vân thì rất dễ chia cắt Việt Nam ra làm đôi.

Đây không phải là chuyện không thể xảy ra. Theo báo chí trong nước, “Các nhà phân tích quân sự Trung Quốc sau khi duyệt lại trận chiến năm 1979, đã từng nhiều phen bàn chiến lược đánh úp ngang hông Việt Nam, nhân đó chia cắt Việt Nam thành hai nước để trị!”

Các cấp lãnh đạo Đảng Cộng Sản ở Việt Nam, nhất là các cán bộ đưa chia quyền hùng cứ mỗi địa phương có cái đầu rất nhỏ, nhưng có miệng tham ăn và cái bao tử rất lớn. Từ khi cướp được miền Nam đến nay, tài sản của họ càng ngày càng lớn, mà lòng tham thì vô đáy, đầu óc không có nơi dành cho tiền đồ và số mệnh của đất nước, quê hương. Miễn có tiền, nên cái gì họ cũng có thể đem bán.

Tình trạng hiện nay, rõ ràng là Trung Cộng, tùy theo nhu cầu kinh tế và nhất là quốc phòng, muốn thuê, mướn vùng đất nào trên lãnh thổ Việt Nam cũng được, vì ở Việt Nam hiện nay, cái gì mà không mua được, “Không mua được bằng tiền, thì mua được bằng nhiều tiền!”

Nếu lần này, bọn tham ô sơ suất để cho Trung Cộng thuê Hải Vân, yết hầu của miền Trung thì chẳng khác gì mua dao, đưa cổ cho bành trướng Bắc Kinh cứa.

Trong chuyện di cư bỏ quê hương, làng mạc, anh và tôi, có người chỉ có một lần, nhưng cũng có người hai lần. Riêng trong câu chuyện này, chúng ta có thể đều mất nước đến hai lần: một lần về tay Việt Cộng và một lần nữa về tay Trung Cộng!

Chỉ những điều nhỏ mọn

Chỉ những điều nhỏ mọn

Chuacuuthe.com

VRNs (22.11.2014) – Tin Mừng CN 34 TN (Mt 25, 31- 46) – Lễ Trọng Chúa Kitô Vua

Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng đã tạo dựng đất trời vạn vật, qua đó Ngài đã ban cho con người có được và làm chủ nhiều loại tài nguyên, có “rừng vàng biển bạc”, có khoáng sản vô tận nằm sâu dưới lòng đất, lòng biển,… Ngài cũng là Thiên Chúa Công Bình, tạo dựng nên con người ai cũng như ai, với hai bàn tay trống không đi vào thế giới. Đúng ra, mọi loại tài sản trên toàn cầu, phải được phân chia đồng đều cho tất cả mọi người thuộc mọi chủng tộc quốc gia, như là ý định của Thiên Chúa ngay từ thuở khai thiên lập địa.

Nhưng rồi vì hoàn cảnh, vì điều kiện, vì lý do này lý do khác, cuộc sống con người sau đó đã có nhiều khác biệt, không ai giống ai. Người thì có của ăn của để, người thì không ăn nên làm ra. Đúng như người Việt mình thường nói: “Kẻ ăn không hết người lần không ra”!

Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, hiện khoảng cách chênh lệch giàu nghèo đã tăng gấp gần 10 lần. Có không ít tỉnh, người dân ở vùng sâu vùng xa đời sống nghèo đói còn chiếm tỷ lệ cao: hơn 50%.

Qua các kênh truyền thông gần đây chúng ta đã được biết: Em Phạm Thị Nhung 10 tuổi, học sinh lớp 3 ở Hà Tĩnh. Gia đình quá nghèo, sáng sớm đi học không có gì lót dạ. Nên lúc học về đói quá, đạp xe chao đảo ngã vào thành cầu, lọt xuống sông chết tức tưởi! Hoặc có những em học sinh ở Yên Bái phải ăn cơm với lá rừng, những em khác ở Sơn La phải bẫy chuột để làm thức ăn cho các bữa cơm. Trong khi quá nhiều người dân còn đói khổ, có hoàn cảnh thương tâm là thế, thì một số không ít những đại gia vẫn vô tư “chơi ngông”, làm “lác mắt” thiên hạ, cụ thể: Ông Lê Ân – đại gia Vũng Tàu, sắm chiếc giường đắt nhất thế giới, 6 tỷ đồng. Ông Vũ Hữu Lợi – đại gia Tuyên Quang, dùng chiếc kính mát chỉ…4 tỷ đồng. V.v…và v.v…, còn không ít những người cũng đã “sống chết mặc bây” như thế!

Hôm nay, Chúa nhật cuối cùng của Năm Phụng vụ, Giáo Hội mừng trọng thể Lễ Chúa Giêsu Vua Vũ trụ. Tin Mừng hôm nay nói về Ngày phán xét chung – ngày tận cùng của vũ trụ. Vua Vũ trụ là Vua Tình Yêu – nhưng cũng là Vị Vua Công Bình sẽ xuất hiện trong vinh quang, để xét xử người lành kẻ dữ: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự trên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người…”(Mt 25, 31-32a)

Vì là Vua Tình Yêu, nên Ngài dựa vào tình yêu để xét xử, nhưng cũng vì là Vua Công Bình, nên Ngài cũng xét xử rất công minh chính trực,“không thiên tư tây vị” (Cv 10, 34).

Đọc đoạn Tin Mừng hôm nay khá dài, nhưng chúng ta thấy nội dung không có gì nhiều, chỉ quanh quẩn những đối đáp, phán quyết của Vua vũ trụ với hai loại người bên phải và bên trái Ngài: “Ta đói, các ngươi đã/không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã/không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã/không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã/không cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã/không thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đã/không đến hỏi han”.

Đơn giản chỉ có thế, nhưng không ít người đã phải đứng “bên trái” Chúa!

Vì Đạo Chúa là đạo Tình Yêu, khởi đi từ 10 Điều răn của Chúa, được tóm gọn trong hai điều quan trọng là Kính Chúa – Yêu Người. Suốt cuộc đời 33 năm ở trần gian của Chúa Giêsu, Ngài đã sống yêu thương và cũng dạy các môn đệ sống yêu thương. Phải chăng Ngài đã biết rằng, ngày cuối cùng Ngài sẽ xét xử căn cứ luật yêu thương?

Thánh Phaolô Tông đồ trong 1Cr 13, 1-3 đã nhắc nhớ chúng ta: “Giả như tôi nói được các thứ tiếng nhân loại và thiên thần, giả như tôi được ơn tiên tri và biết mọi sự nhiệm mầu toàn cả trí tri. Và giả như tôi được tất cả lòng tin, khiến chuyển được đồi núi, mà tôi lại không có lòng mến, thì tôi vẫn là không! Và giả như tôi đem cả gia tư vốn liếng mà phát chẩn, và giả như tôi nộp mình chịu thiêu, mà tôi lại không có lòng mến, thì cũng hư không vô ích cho tôi!”.

Qua đó chúng ta thấy rằng lòng yêu mến (mến Chúa yêu người) thật vô cùng quan trọng!

Chúa đã không phán xử con người về những chuyện gì to tát, chỉ duy nhất Ngài đã đồng hóa mình với những anh em hèn mọn, nghèo đói, khổ đau, bệnh tật, tù đày… và nghiêm trị chúng ta, vì: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi đã/không làm như thế cho một trong những kẻ bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã/không làm cho chính Ta vậy!”(Mt 25. 40, 45).

Trong cuộc sống, hằng ngày chúng ta tiếp xúc, gặp gỡ không ít người anh em đói khổ, rách rưới, bệnh tật, tù đày… Nhưng có lẽ đã rất nhiều lần, chúng ta mắc bệnh “vô cảm” như nhiều người trong xã hội hôm nay.

Người hàng xóm nghèo đói bên cạnh nhà, chúng ta đã “mackeno”!; người ăn xin khốn khổ vào nhà, quán càfé, quán ăn ngữa tay xin bố thí, chúng ta “mackeno”!; người bị tai nạn bên đường không ai giúp đỡ, vì sợ liên lụy, phiền phức, chúng ta đi ngang qua vẫn “mackeno”!; người bệnh khốn khổ thập tử nhất sinh đang cần chạy chữa cứu sống, nhưng vì quá nghèo không biết trông chờ ở đâu, chúng ta biết đấy, có điều kiện đấy, nhưng cũng “mackeno”!; những kẻ phải khốn khổ trong vòng lao lý tù tội, hoặc những tai ương khốn khó khác, chúng ta hầu như cũng ít thăm viếng, sẻ chia, vẫn “mackeno”! V.v…và v.v…vẫn “mackeno”!

Chúng ta xem mình như một hòn đảo xa xa ngoài đại dương! Không “sống cùng”, “sống với” ai cả! Chỉ là người ngoại đạo đã không thể sống như vậy được rồi, huống hồ chúng ta là người được gọi là “con Chúa”! Những ngày đầu lúc Đạo Chúa mới được truyền vào nước ta, người lương dân hay gọi đạo chúng ta là “Đạo Giatô” hay “Đạo yêu thương”. Thật chính xác!

Đọc lại đoạn Tin Mừng hôm nay, Bạn và tôi – chúng ta xin Chúa thứ tha nhiều thiếu sót, vì đã không làm gì cho người anh em bên cạnh. Có lẽ vì sự vô tâm, cũng có lẽ vì điều kiện không khá gì hơn, nên chúng ta nghĩ rằng không giúp đỡ được gì nhiều cho họ và bỏ qua những việc chia sẻ nhỏ nhặt. Nhưng chúng ta đâu biết rằng, họ cần tình cảm của chúng ta hơn. Và nếu chỉ được giúp đỡ một chút ít thôi, nhưng đó lại là sự cần thiết vô cùng và niềm hạnh phúc lớn lao của họ. Chuyện nhỏ nhưng tấm lòng lớn, việc mọn nhưng tình yêu bao la!

Đức Hồng y PX Nguyễn Văn Thuận đã viết trong Đường Hy Vọng: “Ẵm đứa bé là chuyện bình thường, nhưng được mẹ ẵm, đối với em bé là hạnh phúc lớn nhất mà em không chịu đổi với bất cứ giá nào”(ĐHV 809).

Và chúng ta không nhớ câu nói mà Chúa đã nói với các môn đệ của mình sao: “Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”(Mt 10, 42)?

Rõ rồi nhé! Chúa không đòi hỏi gì quá đỗi lớn lao, chỉ là những việc làm “nhỏ như con thỏ” thôi, nhưng gói trọn tình bác ái yêu thương của mỗi người chúng ta. Và đương nhiên, rồi Chúa sẽ trả công xứng đáng vô cùng cho chúng ta.

Giữa hai câu phán quyết rõ ràng sau đây của Vị Vua vũ trụ trong ngày Phán xét chung cho toàn thể nhân loại:

“Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa!”(Mt 25, 34).

“Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó!”(Mt 25, 41).

Bạn và tôi, chúng ta muốn được là “con chiên”, được xếp vào bên phải, là “kẻ Cha Ta chúc phúc”; hay là “con dê”, bị đứng vào bên trái, là “quân bị nguyền rủa”?

Muốn được là “bên phải” Chúa, ngay bây giờ Bạn và tôi hứa với nhau, quyết tâm cố gắng, luôn quan tâm đến Chúa nơi người anh em, để sẵn sàng “cho ăn”, “cho uống”, “cho mặc”, “tiếp rước”, “thăm viếng”, “hỏi han” lúc có thể, Bạn nhé!

Hy vọng vào ngày phán xét sau cùng, chúng ta sẽ được gặp lại nhau trong số những “chiên con” bên phải Chúa!

Micae Hữu Liên

Một nền báo chí tự do cho Việt Nam: Bài viết gây xôn xao dư luận

Một nền báo chí tự do cho Việt Nam: Bài viết gây xôn xao dư luận

Hoài Hương-VOA

22.11.2014

Trong bài viết đăng trên tờ the New York Times hôm 19 tháng 11, nguyên Tổng Biên Tập báo Thanh Niên kêu gọi một nền báo chí tự do cho Việt Nam. Ông Nguyễn Công Khế nói đã đến lúc chính phủ Việt Nam phải cho phép truyền thông hoạt động tự do, và đó là điều kiện thiết yếu để Việt Nam có thể tiếp tục nỗ lực cởi trói kinh tế và chính trị. Ông cảnh báo rằng có làm như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam mới lấy lại được niềm tin của nhân dân hầu có thể sống còn.

Bài viết này đã gây xôn xao dư luận cả trong lẫn ngoài nước.

Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, một nhà đấu tranh cho dân chủ đang sống ở Hoa Kỳ, người đã thành lập Diễn Đàn Dân chủ, một tờ báo chui vào năm 1990, nhận định về bài báo này như sau:

“Bài báo này tôi nghĩ, ra rất là đúng lúc, cái vấn đề tự do báo chí đáng nhẽ ra phải được đặt ra lâu rồi. Một cái tiếng nói như Nguyễn Công Khế không đủ để tạo thêm được cái niềm tin. Bây giờ có cởi trói cho tự do báo chí, thì tôi nghĩ là cái niềm tin cũng không chắc đã lấy lại đươc, trừ phi có những cái hành động mạnh mẽ hơn nữa, may ra thì Đảng Cộng sản còn có hy vọng là tồn tại được ở trong nền chính trị Việt Nam trong những thập niên tới.”

Từ trong nước, nhà báo độc lập từng lên tiếng mạnh mẽ đòi hỏi tự do ngôn luận và tự do báo chí, ông Nguyễn Khắc Toàn từng bị tù đầy vì lập trường kiên cường của ông ủng hộ dân chủ, tự do và một chế độ đa nguyên, cho biết ý kiến về bài báo của ông Nguyễn Công Khế:

“Tôi rất hoan nghênh cái lập trường của anh Nguyễn Công Khế đã công khai đòi nhà nước, đòi Đảng Cộng sản Việt Nam phải thực hiện trước mắt là cái quyền tự do báo chí cho xã hội Việt Nam. Thì đây là một cái đòi hỏi rất chính đáng và rất cần thiết. Tiếng nói của anh ấy đã góp phần vào công cuộc đấu tranh đòi tự do hoá ở Việt Nam, trong đó có một cái quyền rất căn bản của xã hội và của nhân dân Việt Nam, đó là cái quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận.”

Nhà báo Nguyễn Khắc Toàn đồng ý với quan điểm với ông Khế rằng đã có một số thay đổi lớn trong giới truyền thông Việt Nam trong 5 năm trở lại đây, và nhà nước Việt Nam đang mất dần sự kiểm soát đối với giới truyền thông. Ông nói:

“Cái sự quản lý, cái sự kiểm soát, cái sự kìm kẹp của bộ máy nhà nuớc, bộ máy Đảng Cộng sản Việt Nam mà đứng đầu là Ban Tuyên giáo, đã quá lỗi thời và lạc hậu, cho nên những gì mà anh Nguyễn Công Khế đã làm việc, đã đứng trong cái hệ thống truyền thông quốc doanh này và anh ấy đã nói là hoàn toàn chính xác.”

Trong bài viết đăng trên báo New York Times, ông Nguyễn Công Khế nói tự do báo chí, tự do ngôn luận là tốt cho đất nước và cũng tốt cho chế độ, nhưng giới quan sát trong và ngoài Việt Nam tin rằng chế độ cầm quyền toàn trị của Cộng sản Việt Nam khó có thể sống chung với tự do báo chí. Giáo sư Đoàn Viết Hoạt cho biết:

“Tôi nghĩ rằng phải có một bản Hiến Pháp hoàn toàn mới, mà không những vậy mà còn phải có một tiến trình để đi đến một bản Hiến Pháp mới, và cái tiến trình ấy nó đòi hỏi một cái quốc hội khác, một cái quốc hội lập hiến. Mà quốc hội lập hiến chỉ có thể xảy ra khi ta có một cuộc bầu cử thật sự tự do và đa đảng. Do đó tôi nghĩ rằng phải thay đổi chế độ thì chúng ta mới có thể có được một nền tự do trong đó có tự do báo chí. ”

Ông Nguyễn Khắc Toàn nói:

“Đảng Cộng sản và chế độ toàn trị mà Đảng đang duy trì không thể sống chung được với cái nền tự do báo chí, cũng như là tôn trọng các quyền con người thực sự ở đất nước này.”

Là một đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, và trong hơn hai thập niên đã từng đứng đầu tờ báo có số lượng độc giả lớn nhất nước, ông Nguyễn Công Khế là một nhân vật từng có ảnh hưởng rất lớn. Liệu ông có gặp khó khăn như những nhà đấu tranh cho các quyền dân chủ và tự do báo chí? Nhà báo Nguyễn Khắc Toàn chia sẻ quan điểm của ông về phản ứng có thể có từ phía chính quyền Việt Nam:

“Tôi tin chắc rằng hiện nay ban Tuyên giáo ở trung ương và Bộ Chính trị Việt Nam và bộ máy kiểm soát, kìm kẹp truyền thông của nhà nước là hiện nay rất bối rối. Đàn áp Nguyễn Công Khế, bịt miệng Nguyễn Công Khế, bắt Nguyễn Công Khế… thì bối cảnh ngày nay không cho phép làm những chuyện đó, nhất là Nguyễn Công Khế là một đảng viên Cộng sản từng đứng đầu một tờ báo tương đối có uy tín trong nước, có số lượng độc giả rất lớn ở trong và ở ngoài nước.”

Ông Nguyễn Khắc Toàn là một cựu chiến binh và cũng là phóng viên tự do, ông từng bị tù đày vì đã đấu tranh để dân chủ hoá đất nước và đòi các quyền tự do, trong đó có tự do báo chí. Cùng với luật sư Lê thị Công Nhân, ông là người đồng sáng lập Công đoàn Việt Nam độc lập để bênh vực và bảo vệ quyền lợi cho những người lao động ở trong nước.

Giáo sư Đoàn Viết Hoạt là một nhà đấu tranh để dân chủ hoá Việt Nam đang sống tại Hoa Kỳ, ông cũng là một trong những nhà đi tiên phong trong cuộc đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền, và tự do báo chí, từng bị cầm tù lâu năm ở Việt Nam vì những hoạt động của ông. Ông được phóng thích và sang Hoa Kỳ đoàn tụ với gia đình từ năm 1998.

Xin xem thêm:

Đã đến lúc những người từng nằm trong cơ chế cũng không chịu được nữa “chiếc áo” chật cứng của cái gọi là “tự do báo chí XHCN” (Bauxite Việt nam)

VƯƠNG QUỐC TÌNH YÊU

VƯƠNG QUỐC TÌNH YÊU

Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy nhiều sự thật quan trọng về kết cục của con người.

Sự thật thứ nhất là: thế giới này sẽ chấm dứt.  Không có gì vĩnh cửu ở đời này.  Mọi sự sẽ qua đi. Những gì được coi là bền vững lâu dài rồi cũng tan thành cát bụi.  Của cải, tài năng, công danh cũng sẽ trở thành hư vô.  Cả đến con người cũ cũng không còn.  Sau cùng mọi người bằng nhau và phải đến trước tòa Chúa để chịu phán xét.

Sự thật thứ hai là: mọi người sẽ bị xét xử.  Tất cả mọi người sẽ tụ tập lại.  Tất cả mọi người sẽ phải trả lời về những gì mình đã làm trong cuộc đời.  Cuộc xét xử sẽ diễn ra công khai.  Những trách nhiệm liên đới sẽ được sáng tỏ.  Những liên hệ thầm kín sẽ được phơi bày.  Nếu trên trần gian ta phải chứng kiến bất công thì tại phiên xử cuối cùng này sẽ có công bằng tuyệt đối.  Chẳng ai có thể mua chuộc vị quan tòa tối cao, quyền uy và công thẳng.

Sự thật thứ ba: sẽ có một vương quốc mới.  Tuy nhiên kết thúc thế giới cũ không phải là chấm dứt tất cả.  Chúa Giêsu tổng kết thế giới cũ để đưa nhân loại vào một thế giới mới.  Thế giới không còn thời gian.  Thế giới vĩnh cửu.  Thế giới không còn đau khổ.  Thế giới hạnh phúc tràn đầy.  Vì Chúa sẽ thiết lập một vương quốc mới: vương quốc tình yêu.  Cuộc xét xử chính là một cuộc tuyển lựa những công dân cho vương quốc mới.  Vì là vương quốc tình yêu nên chỉ những ai có tình yêu mới được vào.  Luật lệ trong vương quốc mới chỉ có một luật duy nhất: luật tình yêu.  Việc cai trị cũng chỉ theo một nguyên tắc duy nhất: tình yêu.  Chúa Giêsu trở thành Vua Tình Yêu.

Sự thật thứ bốn: đời này là cơ hội duy nhất.  Thế giới mới và vương quốc mới không phải bất ngờ mà có, nhưng được xây dựng ngay từ đời này.  Đời này tuy chóng qua nhưng là cơ hội để ta xây dựng vương quốc mới.  Những ai có lòng yêu thương anh em, đặc biệt những anh em nghèo khổ, bé mọn, sẽ được tuyển chọn vào Nước Trời.  Đời này ngắn ngủi nhưng lại là cơ hội duy nhất.  Hết đời này sẽ không còn cơ hội nữa.  Sẽ đi đến chung cuộc.  Vì thế ta phải vội vàng mau mắn thực hành giới luật yêu thương, kẻo không kịp.

Với dụ ngôn ngày phán xét cuối cùng, Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho ta hết những bí mật của vận mạng thế giới.  Và chỉ vẽ cho ta con đường để được nhận vào Nước Chúa: thực hành yêu thương bằng những việc làm cụ thể.  Cho người đói ăn.  Cho người khát uống.  Cho người rách rưới ăn mặc.  Thăm viếng người đau yếu và kẻ tù đầy.  Đây là những việc vừa tầm tay mọi người.  Ai cũng có thể làm được.  Ai cũng có điều kiện để làm.

Lạy Chúa Giêsu Vua Tình Yêu, xin cho con biết thực hành yêu thương, để được nhận vào Nước Chúa. Amen.

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Cầu Tiêu & Quốc Hội

Cầu Tiêu & Quốc Hội

FRA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Cách tổ chức lấy phiếu tín nhiệm của Quốc hội Việt nam có quá nhiều điều bất cập, có lẽ đấy chính là nguyên nhân khiến cho kết quả việc lấy phiếu tín nhiệm của Quốc hội là một việc làm vô ích và không có hiệu quả như mong muốn. Kết quả cuối cùng thì cũng đã thấy, tức là chẳng có ai mất chức, hay bị cách chức như nhiều người kỳ vọng, nghĩa là mọi cái vẫn giữ y nguyên.

Kami

Tôi có việc phải trở lại Singapore, chút xíu. Ai nói gì thì nói, tôi cứ Vietnam Airlines mà chọn mặt gửi vàng.

Đi hãng hàng không của ta, ít ra, cũng có ba cái lợi: khỏi phải nói tiếng nước người, được nghe mọi thông báo của phi hành đoàn bằng tiếng nước mình, và vừa bước chân vào khoang máy bay là các em tiếp viên  phát ngay cho vài ba tờ báo tiếng Việt. Đọc báo nhà nước không chỉ đỡ mệt mà còn thấy khoẻ thêm vì thường chỉ có những tin tức (cùng hình ảnh) vô cùng lạc quan về đồng bào và tổ quốc.

Y như rằng, ngay trang đầu đã có  tin vui:

8h45 sáng, thay mặt ban kiểm phiếu, Trưởng ban Đỗ Văn Chiến đã lần lượt công bố kết quả lấy phiếu tín nhiệm đối với 47 chức danh chủ chốt…

Chủ tịch Quốc hội nhận định, những vị trong danh sách lấy phiếu đều có trọng trách liên quan tới vấn đề lớn. “Đối với những lĩnh vực nóng như ngân hàng, giáo dục, y tế, xây dựng thì Quốc hội đòi hỏi trách nhiệm cao hơn. Phiếu tín nhiệm cao của Quốc hội là sự động viên khích lệ đồng thời là sự đánh giá kết quả đất nước đạt được thời gian qua. Còn phiếu tín nhiệm thấp thể hiện sự đòi hỏi nghiêm túc đối với người được lấy phiếu để các vị này có thể hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ được giao”, Chủ tịch Quốc hội nhận xét.

Cũng theo ông, Quốc hội đã hoàn thành trọng trách nhân dân cả nước giao về đánh giá tín nhiệm bước đầu. Đây sẽ là cơ sở để các lần sau rút kinh nghiệm khi tiến hành quy trình này ở các cấp HĐND.

“Kết quả cuối cùng rất tốt”, người đứng đầu cơ quan lập pháp chốt.

Thật là là “phấn khởi” và yên tâm biết mấy: “Quốc hội đã hoàn thành trọng trách nhân dân cả nước giao về đánh giá tín nhiệm bước đầu”  và tất cả “47 chức danh chủ chốt” đều vẫn được tín nhiệm như thường, dù tỉ số (thấp/cao) cũng có xê xích phần nào hay chút đỉnh.

Phải uống mừng với được, dù chỉ là mừng thầm. Đợi máy bay bình phi, tôi nói nhỏ với một em tiếp viên:

  • Cho chú hai chai Vodka Smirnoff nha.

Nói là “chai” cho nó oai, chớ dung tích chỉ 50ml nhỏ xíu xiu hà, ngó thấy “thương” lắm. Nốc xong hết trơn vẫn chả thấy bõ bèn gì mà niềm vui (về “trọng trách do nhân dân giao phó cho quốc hội đã hoàn thành”) vẫn cứ còn âm ỉ nên tôi nói khẽ với một em tiếp viên khác, vừa chợt đến:

  • Khi nào rảnh, cho chú hai lon Heineken.
  • Hai lận sao?
  • Thì khỏi mất công cháu phải đi tới đi lui, mỏi cẳng, chớ sao!

Tôi nhâm nhi đậu phụng với bia xong thì sự “hồ hởi” cũng nguôi dần nên ngủ thẳng một giấc cho đến khi máy bay đáp xuống phi trường Changi, Singapore.

Đến lúc này mới thấy là bụng hơi nằng nặng. Đúng là mình có hơi quá chén nhưng chả lẽ trước nềm vui “vỡ oà” của cả nước mà mình giữ thái độ lạnh lùng (không uống giọt nào) thì coi sao được, đúng không.

Vừa bước ra khỏi máy bay là đi ngay đến W.C. Dù hơi vội vã trong việc “xả bầu tâm sự” nhưng tôi vẫn không khỏi ngạc nhiên là sao cầu tiêu, cầu tiểu của họ trắng tinh và sạch bóng vậy nè – Trời?

Phần lớn restroom ở trong tất cả những sân bay quốc tế đều sạch sẽ nhưng sạch quá cỡ thợ mộc, sạch như lau như li thì thiệt là chưa từng thấy, và có lẽ chỉ có ở cái phi trường này thôi.

Tôi chỉ bớt kinh ngạc khi bước ra, và nhìn thấy trên bức tường bên phải lối đi có bức hình một phụ nữ chừng đã đứng tuổi (đeo bảng tên Loh Kam Beng) đang cầm chổi tươi cười, với câu chào (“Good Afternoon”) cùng hàng chữ “Please rate our toilet – Xin chấm điểm nhà vệ sinh của chúng tôi,” và bên dưới là 5 cái nút tròn ghi thang điểm theo thứ tự: tuyệt hảo, tốt, trung bình, tệ, rất tệ.

Thường dân Loh Kam Beng và thường dân Tưởng Năng Tiến ở phi trường Changi. Ảnh: NCB

Chỉ có chuyện vệ sinh trong cầu tiêu mà sao thiên hạ lại thực hiện một cách đàng hoàng, rõ ràng, minh bạch, và tiện dụng dữ vậy cà? Không dưng tôi bỗng nhớ lại chuyện lấy phiếu tín nhiệm (kín) của quốc hội ở nước ta, bữa rồi, và chợt cảm thấy có hơi … ngường ngượng!

Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng phát biểu trước QH sáng  14.11 – Ảnh: Ngọc Thắng

Nhìn kỹ bức ảnh với nét tự tín và tươi vui của người phụ trách việc chùi rửa phòng tiêu tiểu ở Singapore, rồi liên tưởng đến bức hình (chụp sáng 14 tháng 11) của ông Chủ Tịch Quốc Hội Việt Nam – trông âu lo và ngượng ngập ra mặt – khiến tôi cũng có đôi chút … lăn tăn: Quả là không có nghề nào đê tiện hay hèn hạ, chỉ có tư cách của người hành nghề mới là điều cần phải quan tâm.

Thì cũng “lăn tăn đôi chút” thế thôi chớ một anh già nát rượu (cỡ  tôi) mà “quan tâm” nhiều quá về chuyện triều đình (e) cũng không… tiện lắm. Không khéo lại còn rách việc thêm ấy chứ. Phát biểu linh tinh là tù tội như không chớ đâu phải chuyện giỡn, mấy cha?

Chui vào taxi, lục xục một hồi mới kiếm ra cái địa chỉ của nơi tạm trú ngụ lần rồi: Hotel 81 Gold, 20 Lorong 20 Geyleng, Singapore 398738.

Gọi là khách sạn cho nó sang chứ thực ra đây chỉ là một thứ phòng ngủ rẻ tiền, với một cái giường bé xíu xiu, và cái phòng tắm nhỏ chưa bằng một nửa … cái giường. Đất ở Singapore không rẻ, và riêng ở Phố Đèn Đỏ Geyleng (chắc) phải mắc cũng cỡ kim cương nên phòng chật, và giá cả “không nhân nhượng” là chuyện tất nhiên.

Biết vậy nhưng tôi vẫn muốn trở lại khu này, trở lại những quán cà phê ở hai con hẻm 20 và 21 (Lorong 20 & 21) với hy vọng được gặp lại những khuôn mặt đồng hương cũ – những phụ nữ mà tôi đã có dịp tiếp chuyện mấy tuần lễ trước, và đã giới thiệu họ (cũng trên diễn đàn này) như Những Cánh Bèo Trôi Ở Geyleng.

Sở dĩ họ trôi dạt đến đây vì Việt Nam không còn chỗ chen chân cho những người bán hàng rong hay bán vé số nữa. Singapore tuy cũng chật hẹp nhưng lòng người, xem chừng,vẫn còn rộng rãi.

Đây là một đảo quốc giầu có, với lợi tức bình quân đầu người hàng năm cao nhất nhì thế giới. Dân bản xứ không ai phải đi làm điếm, bán hàng rong, hoặc đi ăn xin nên họ “nhường”  việc làm này cho những người Việt tha hương – đang bị đẩy đến bước đường cùng.

Người Singapore không chỉ hào phóng mà còn vô cùng cởi mở.  Họ chấp nhận đến bốn thứ ngôn ngữ chính thức khác nhau: tiếng Anh, tiếng Mã, tiếng Tầu, và tiếng Tamil.

Bán giấy chùi miệng là một nghề tương đối mới mẻ của người Việt ở Singapore. (Cũng có người bán vé số nhưng rất ít vì ai cũng ngại phải “ngậm” những tấm vé không bán kịp trước giờ sổ). Dù thời hạn cho phép “du lịch” chỉ trong vòng một tháng, mỗi một chuyến đi – sau khi trừ chi phí máy bay và ăn ở – trung bình một người chịu khó đi bán không ngừng (chừng mười hai tiếng mỗi ngày) có thể để dành được từ tám trăm đến một ngàn đô. Một năm nếu đi được vài lần thì mang về được ba bốn ngàn Mỹ Kim.

Thực khách ở Singapore không ai cần giấy chùi miệng nhưng họ vẫn vui vẻ (và tế nhị) chia sẻ vài đồng tiền lẻ với những kẻ không may ở nước láng giềng, qua hình thức bán/mua. So với dịch vụ xuất khẩu lao động rất nhiêu khê, tốn kém, phải cầm cố nhà cửa, và bị lường gạt đều đều thì “thương vụ” bán giấy chùi miệng (rất lương thiện này) quả một là phát kiến thần tình, rất đáng được hoan nghênh.

Tắm rửa xong, tôi ngủ một giấc cho đến khuya rồi lò dò ra quán đầu đường kêu hai chai bia Carlsberg và một đĩa cơm gà Hải Nam. Cơm giá chỉ ba đô Singapore thôi, nghĩa là chưa tới 2 đồng 50 xu tính theo Mỹ Kim bản vị. Chỉ có điều là hơi ít nhưng  với tôi thì ăn không thành vấn đề, uống mới là … chủ yếu!

Chưa kịp nhấp môi đã nghe tiếng gọi:

  • Ủa, chú còn ở Sing hả? Qua đây ngồi chơi với tụi con đi…

Bàn góc bên kia già trẻ toàn là đàn bà, con gái. Tôi cầm chai bia xề lại, với cái cảm giác dễ chịu như vừa gặp lại người thân:

  • Sao không ai làm ăn buôn bán gì ráo trọi mà tụ tập hết cả xóm ở đây vậy cà?
  • Tụi con ngồi chơi với con Bẩy chút xíu, mai nó về rồi.
  • Sao vậy?
  • Visa hết hạn chú à.
  • Kỳ này Bẩy đi kiếm “bộn” không?
  • Không dám “bộn” đâu! Trừ tiền ăn, tiền ghép phòng chưa chắc còn ngàn đô mà đi bộ ròng rã cả tháng trời thiếu điều muốn “gớt” cái cẳng ra luôn. Làm gái như hai con này mới khá, chớ bán giấy thì cũng như đi ăn xin thôi, được nhiêu đó cũng mừng muốn chết rồi.
  • Đợt sau qua lại nhằm mùa Noel với tết Tây chắc đỡ hơn nhiều.
  • Không chắc có qua được nữa không đó. Nghe nói họ sắp “xiết” lại rồi. Người mình qua mỗi lúc một đông và qua liền liền như vậy mà ai chịu cho thấu …
  • Thiệt, nếu không qua đây được nữa thì ở nhà riết biết làm gì ra mà ăn …

Câu chuyện giữa chúng tôi dù lan man tới đâu, cuối cùng, vẫn dẫn vào một cái ngõ cụt. Tương lai, rõ ràng, không rộng mở cho những cô gái và những người đàn bà Việt Nam mà tôi gặp lại khuya nay – ở Geyleng.

Họ là những người mẹ, người chị đã tảo tần thương khó để giữ cho dân tộc này chưa đến nỗi bị diệt vong. Tôi nhớ là đã có đọc (đâu đó) câu này của Solzhenitsyn khi ông nhắc đến phụ nữ của nước Nga, vào thời Stalin.

Ở Geleyng dường như người ta không ngủ nhưng dù sao thì đêm vẫn cứ tàn dần,   rồi trời bắt đầu hửng sáng. Chúng tôi, cuối cùng, rồi chia tay. Ai đi đường nấy.

Khu Đèn Đỏ Geyleng. Ảnh: NCB.

Tôi mệt mỏi lê bước trở lại khách sạn mà lòng nặng trĩu. Tuy uống khá nhiều bia nhưng trong cái váng vất của hơi men tôi vẫn cứ còn nhớ đến “kết quả tốt đẹp của cuộc lấy phiếu tín nhiệm của quốc hội, đối với 47 chức danh chủ chốt” vừa qua. Tín nhiệm cao, tín nhiệm, tín nhiệm thấp gì cũng vẫn cứ còn tín nhiệm như thường. Nghĩa là vẫn vẫn … y như cũ. Tuyệt nhiên chả có chút thay đổi nào ráo trọi.

Lại chợt nghĩ đến lời của ông T.B.T Nguyễn Phú Trọng: “Đổi mới chỉ là một giai đoạn, còn xây dựng CNXH còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa. ”Nhà đương cuộc Hà Nội vẫn chưa tiến đến giai đoạn đổi mới (thật) nên sẽ còn rất nhiều thế hệ con dân Việt Nam đến Geyleng để bán thân, hay bán giấy, nếu người dân của đất nước  láng giềng vẫn còn tiếp tục mở rộng vòng tay chào đón chúng ta.

Thiệt là quá đã, và quá đáng!

Bi kịch ‘đi tắt đón đầu’

‘Bi kịch ‘đi tắt đón đầu’

 

Tin của trang Diễn Đàn Thế Kỷ về ông 'Hai Lúa' Trần Quốc Hải.

Tin của trang Diễn Đàn Thế Kỷ về ông ‘Hai Lúa’ Trần Quốc Hải.

Bùi Tín

20.11.2014

Mạng Diễn Đàn Thế Kỷ ngày 12/11/2014 loan tin một nông dân Việt Nam quê ở Tân Châu, Tây Ninh, vừa được Nhà Vua Campuchia Norodom Sihamoni phong danh hiệu “Đại tướng quân”. Đó là ông “Hai Lúa” Trần Quốc Hải.

Cũng theo Diễn Đàn Thế Kỷ, năm 2006 ông Hai Lúa chế tạo một chiếc trực thăng. Công trình này gây tranh cãi một thời rồi bị “xếp xó”. Nhưng ông Hai Lúa không bỏ cuộc. Ông say mê sáng chế, cải tiến các máy nông nghiệp như máy nhổ củ mì, máy làm cỏ đồng ruộng, máy rải phân, cả máy thu hoạch mủ cao su. Tuy nhiên, theo lời ông kể lại cho một phóng viên của báo Một thế giới thì ông bị rắc rối với cả trung ương Hà Nội và địa phương Tây Ninh. Nhà nước khuyên ông: Thôi nhé đừng làm nữa.

Diễn Đàn Thế Kỷ thuật lại rằng thế là ông khăn gói sang Campuchia. Các máy nông nghiệp của ông có khách hàng. Ông còn sửa chữa nhiều máy nông nghiệp cũ của nước bạn. Một hôm ông đi qua một doanh trại bộ đội cơ giới có xe bọc thép đã cũ. Ông quan sát nhiều lần và nảy ra sáng kiến có thể tham gia việc bảo quản, sửa chữa, cải tiến xe bọc thép BRDM2. Phía Campuchia đồng ý. Thế là ông và cậu con trai Trần Quốc Thanh lao vào việc. Chẳng bao lâu 5 chiếc xe bọc thép được cải tiến, tiêu thụ xăng giảm từ 40 lít xuống 25 lít/100km, tháp pháo tự động, Campuchia rất hài lòng, vì từng có chuyên gia quân sự VN sang sửa nhưng không đạt, vẫn trục trặc, hư hỏng.

Campuchia đánh giá cao, quý trọng khả năng hiếm có, tinh thần tìm tòi cải tiến, lối sống giản dị khiêm tốn của ông Trần Quốc Hải, rất trọng thị dành cho ông tiêu chuẩn ăn, ở, đi lại như cán bộ cấp cao của quân đội. Gần đây Nhà Vua còn phong cho ông danh hiệu “Đại tướng quân”. Hiện nay cha con ông đang nhận đóng mới 25 chiếc xe bọc thép cải tiến, nâng 6 bánh lên 8 bánh, có thể di chuyển thuận lợi trên địa hình phức tạp hơn.

Trước đây, hồi tháng 6/2014 mạng Đất Việt thuật lại câu chuyện một nhà phát minh khác không được trọng dụng trên đất nước mình. Đó là kỹ sư Phan Bội Trân, học từ Pháp về. Ông ham mê nghiên cứu về tàu ngầm, mò mẫm làm ra tàu ngầm nhỏ cho ngành thể thao du lịch biển . Chiếc tảu làm thử đẩu tiên đặt tên là Yết Kiêu 1, dài 3 mét 2, nặng 1 tấn, vỏ bằng composite, có ống kính viễn vọng, máy cung cấp khí, có bánh lái ở phía trước, phía sau và chiều ngang, có thể lặn sâu 70 mét trong nửa giờ, tất cả bộ phận đều làm từ trong nước, trừ động cơ phải nhập. Tàu ngầm tự tạo cho thể thao, du lịch biển được thử nghiệm từ năm 2010 ở hồ bơi Trường Trung cấp Kỹ thuật Hải quân Sài Gòn. Kết quả được đánh giá là khả quan, thiết thực. Giá thành chừng 10.000 US$. Sáng chế này cũng không được trong nước hoan nghênh, bị ế.

Nhân các sự kiện trên, đã có nhiều tờ báo mạng và blogger trong nước bình luận vì sao chính quyền trong nước không khuyến khích, còn ghẻ lạnh với các nhà sáng chế phát minh từ nhỏ đến lớn của nước mình. Có blogger đau xót nhắc rằng một nước có 24.000 tiến sỹ, 10.000 giáo sư mà chưa sản xuất nổi một chiếc đinh vít hiện đại đúng tiêu chuẩn.

Ai nấy đều rõ Việt Nam là thuộc nhóm đèn đỏ của toàn thế giới về sáng chế, phát minh, về số lượng các bài nghiên cứu có tính chất tìm tòi, khai phá về khoa học và kỹ thuật.

Về nhà khoa học, ngoài nhà toán học Ngô Bảo Châu còn ai nữa? Đây là hậu quả của lối học vẹt, học thuộc lòng, nhồi sọ các công thức chết, không khuyến khích óc tưởng tượng, suy luận, tự tìm hiểu mọi hiện tượng và sự vật, tò mò tìm ra cái mới.

Trao đổi chuyện này với một nhà báo Pháp chuyên về kinh tế các nước châu Á, ông có cách nhìn sâu và độc đáo. Ông bảo cái nguyên nhân của nguyên nhân là nền kinh tế VN không bình thường, không giống ai. Ông giải thích:

– Bình thường mở đầu cho phát triển kinh tế trong một nước nông nghiệp là phải tập trung vào sự nghiệp công nghiệp hóa, từ tích lũy ban đầu rồi tiến dần lên với quá trình hiện đại hóa. Quá trình đó có khi dài hàng thế kỷ, với sự hình thành của một đội ngũ ngày càng đông công nhân tay nghề cao và cán bộ kỹ thuật chuyên sâu, gắn liền với nền giáo dục cung cấp công nhân và cán bộ kỹ thuật lành nghề, mang tinh thần cải tiến, sáng chế phát minh kết hợp với nền khoa học kỹ thuật không ngừng đi kịp với thế giới.

–  Sau vài chục năm nền sản xuất đạt mức công nghiệp hóa, hiện đại hóa cao, vốn tư bản được tích lũy, tích tụ lớn lên dần mới xuất hiện những nhóm tài phiệt hùng mạnh, những đế chế kinh tê – tài chính đại tỷ phú, như ở phố Wall Street ở New York, Hoa Kỳ, từ đó sinh ra những ngân hàng ngày càng lớn để chuyên kinh doanh tiền tệ, cổ phiếu, chứng khoán.

–  Về mặt thuần sản xuất ra giá trị của cải thì nông dân, công nhân, lao động tri thức – kỹ thuật , nhà kinh doanh… mới thật là cái gốc, là những người làm giàu thêm cho xã hội. Còn giới tài phiệt – ngân hàng chỉ là kẻ lợi dụng ăn bám vào giới lao động nói trên, lấy của người này chuyển cho người khác. Cho nên một chế độ tốt là chế độ chăm lo cái gốc, là ưu tiên cho việc sản xuất ra ngày càng nhiều của cải, đào tạo nhiều công nhân tay nghề cao, nhiều cán bộ kỹ thuật tài giỏi, có nền khoa học giáo dục khai phóng khuyến khích tìm tòi, phát minh, sáng chế phong phú, tạo nên nền sản xuất năng suất không ngừng được nâng cao.

Có vẻ như Bộ Chính trị cầm quyền trong nước đã rất coi nhẹ cái phần gốc nói trên, cho nên năng suất lao động xã hội rất thấp, công nhân chuyên nghiệp thiếu trầm trọng, sáng chế phát minh hầu như vắng bóng, kỹ thuật lạc hậu đến mức tận cùng của khu vực, nền giáo dục vẫn theo kiểu giáo điều nhồi sọ. Trong khi đó ngân hàng nhan nhản: ngân hàng Nhà nước, ngân hàng quân đội, ngân hàng xây dựng, gân hàng thương mại, ngạn hàng ngoại thương, ngân hàng tỉnh, ngân hàng huyện, ngân hàng ngành.

Trong Quốc hội không thấy tiếng nói của nhà khoa học – kỹ thuật, không ai biết bộ trưởng khoa học và công nghệ là ông nào. Quốc hội vẫn bàn nhiều đến ngân sách, tiền lương, đến các khoản nợ, nợ quốc gia, nợ của các cơ sở quốc doanh, nợ của ngành ngân hàng, vẫn chỉ lo các nguồn ODA và FDI bị giảm bớt do nền kinh tế của trong nước vẫn chưa đủ sức tự phát triển bình thường.

Phải chăng đây là “nét sáng tạo độc đáo” của Bộ Chính trị các khóa gần đây, đã tạo nên cho giới lãnh đạo của đảng một cuộc đi tắt, đón đầu hoành tráng, không cần chờ cho nền kinh tế trải qua thời kỳ tư bản tích tụ ban đầu để tạo nên cả một hệ thống ngân hàng hùng hậu với những nhóm tài phiệt – tỷ phú đô-la Mỹ, hầu hết là bà con anh chị em bạn hẩu của các quan chức ở đỉnh cao quyền lực.

Với chiến lược đi tắt đón đầu như thế, thì phải 40 năm nữa thu nhập trung bình của người dân VN mới có thể bằng dân Nam Triều Tiên hiện nay, nhưng ngay bây giờ tài sản của các tỷ phú đô-la VN đâu có thua kém các tỷ phú Nam Triều Tiên hay Thái Lan.

Một bạn Pháp ghé tai tôi: Dân Việt Nam các ông hiền quá. Sự phi lý quái đản của nước Việt Nam không thể trông đợi gì ở cuộc cách mạng hoa hồng hay hoa huệ hay hoa sen mà cần phải có một cú điện chấn (un electro-choc). Phải chịu đau, choáng váng, xáo trộn một chút, mọi người thức tỉnh, giật mình, mới có cuộc đổi đời cần thiết và xứng đáng với dân tộc Việt Nam.

‘Lòi’ thêm dự án Trung Quốc ở đèo Hải Vân

‘Lòi’ thêm dự án Trung Quốc ở đèo Hải Vân

Nguoi-viet.com

HUẾ 20-11 (NV) – Không phải một mà là hai dự án đầu tư của Trung Quốc ở khu vực đèo Hải Vân được tỉnh Thừa Thiên – Huế cấp giấy phép đầu tư, bị coi là khu “nhậy cảm” quốc phòng.

Khu vực Cửa Khẻm đang tranh cãi giữa Thừa Thiên – Huế và Đà Nẵng về cấp giấy phép đầu tư cho người Trung Quốc. (Hình: thi ảnh đẹp của VNExpress, Phạm Hồng Hà)

Theo tờ Lao Động hôm Thứ Năm 20 Tháng Mười Một, đưa tin, ngoài dự án lập khu nghỉ dưỡng, biệt thự sang trọng, khách sạn, trung tâm hội họp ở khu vực Cửa Khẻm của công ty World Shine của Trung Quốc, sát đó, còn có dự án nghỉ dưỡng nhỏ hơn của một nhà thầu khác, cũng Trung Quốc, đã được cấp giấy phép đầu tư.

Nguồn tin thuật theo lời ông Nguyễn Quê, phó trưởng ban phụ trách Ban Quản Lý Khu Kinh Tế Chân Mây – Lăng Cô, cho biết “năm 2009 Cty TNHH MTV Bãi Chuối (Tổng giám đốc là ông Lim Kam Lo, dân tộc Hoa – quốc tịch Canada) đã được tỉnh Thừa Thiên – Huế cấp 100ha đất ở khu vực Bãi Chuối (thị trấn Lăng Cô, Thừa Thiên – Huế) để xây dựng khu nghỉ dưỡng.”

Báo Lao Động nói dự án này có vốn đầu tư $102 triệu, thời hạn thực hiện 50 năm, tiến độ thực hiện qua hai giai đoạn (khởi công từ Tháng Giêng, 2009 đến Tháng Tám, 2014). “Tỉnh đang làm tiến độ với Cty này. Vị trí thực hiện dự án nằm cạnh Khu du lịch nghỉ dưỡng quốc tế World Shine – Huế,” ông Quê nói.

Như vậy, người Trung Quốc làm chủ cả hai dự án được tỉnh Thừa Thiên – Huế cấp phép xây dựng khu du lịch nghỉ dưỡng ở chân đèo Hải Vân ở mỏm Đông Nam nhìn ra vịnh Đà Nẵng. Khu vực bị một số tướng lãnh quân đội nói là nhậy cảm quốc phòng, không thể cấp phép cho người ngoại quốc đầu tư khai thác.

Hôm Thứ Năm, tỉnh Thừa Thiên – Huế mở cuộc họp báo phản bác lại các lời cáo buộc của giới chức dân sự và quân sự của thành phố Đà Nẵng, quả quyết khu vực họ cấp phép cho nhà đầu tư ngoại quốc “không có tranh chấp” và cũng không nhạy cảm quốc phòng.

“…dự án khu du lịch nghỉ dưỡng này thuộc khu vực Mũi Khẻm và hòn Sơn Chà, thuộc Khu kinh tế Chân Mây- Lăng Cô của tỉnh. Ranh giới hành chính giữa tỉnh Thừa Thiên- Huế và TP.Đà Nẵng là ranh giới lịch sử, có tính pháp lý, được xác định rõ ràng và tồn tại ổn định từ bao đời nay. Do vậy, việc phân định ranh giới giữa hai địa phương không thuộc diện giải quyết tranh chấp. Tỉnh Thừa Thiên- Huế hoàn toàn không có tranh chấp về ranh giới với Đà Nẵng về khu vực cấp phép dự án,” ông Hoàng Ngọc Khanh, chánh văn phòng UBND tỉnh Thừa Thiên- Huế, cho biết trong cuộc họp báo, theo tường thuật của tờ Dân Việt.

Còn Đại Tá Trần Đình Phòng, chỉ huy trưởng Bộ Chỉ Huy Quân Sự tỉnh Thừa Thiên- Huế, thì có vẻ  bất nhất. Trước thì nói phía quân đội đã khảo sát thấy “không ảnh hưởng” nên không xin ý kiến Bộ Quốc Phòng, nhưng sau lại nói khác.

Khúc trước bản tin Dân Việt thuật lời ông Phòng nói “ngày 21.3.2014, sau khi có chủ trương cấp phép dự án  Khu du lịch nghỉ dưỡng quốc tế World Shine- Huế, Ban quản lý Khu kinh tế Chân Mây- Lăng Cô đề nghị Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh có ý kiến về dự án này. Tại thời điểm đó, phía Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh tiến hành khảo sát và thấy khu vực này không nằm vào các quy hoạch liên quan đến quốc phòng và không ảnh hưởng đến quốc phòng.”

Đoạn sau thì ông nói, theo báo Thanh Niên kể “Ngày 14.10 vừa qua, UBND tỉnh có triệu tập cuộc họp để xem xét báo cáo quy hoạch chi tiết dự án, chúng tôi thấy có một số nội dung liên quan đến an ninh quốc phòng nên đã đề nghị UBND tỉnh có văn bản chính thức báo cáo với Quân Khu 4 và Bộ Quốc Phòng để xin ý kiến.”

Theo lời ông, UBND tỉnh cũng giao nhiệm vụ cho Bộ Chỉ Huy Quân Sự tỉnh xin ý kiến của Bộ Tư Lệnh Quân Khu 4 và Bộ Quốc Phòng về khu vực này. Cho nên “Ngày 17.11, Bộ Chỉ Huy Quân Sự tỉnh đã có văn bản xin ý kiến của Quân Khu 4 và Bộ Quốc Phòng về khu vực 199 ha này. Hiện nay, sau khi chúng tôi xin ý kiến thì Bộ Quốc Phòng cũng đã có ý kiến và cho biết sẽ cử đoàn cán bộ chức năng vào khảo sát lại khu vực này để có ý kiến chính thức có được đầu tư hay không ở khu vực này”.

Còn ông Nguyễn Văn Cao, chủ tịch Thừa Thiên – Huế, thì nói: “Chúng tôi đã làm đúng quy trình và đợi chỉ đạo của thủ tướng để thực hiện. Việc thu hồi dự án cũng sẽ ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, tổn thất cho các bên nhưng chúng tôi sẽ thực hiện nếu thủ tướng chỉ đạo.” (TN)