Chuyện từ Đất lên Trời 100

Chuyện từ Đất lên Trời 100

Điều quan trọng chẳng phải là tuổi tác, mà là sức sống trong con người bạn, là sự can đảm chấp nhận thử thách, dám dấn thân vào những chuyến phiêu lưu trong hành trình vô tận của cuộc sống.

Điều quan trọng không phải là cuộc sống của bạn luôn luôn bằng phẳng, rằng bạn chưa bao giờ phải nếm trải nỗi đau, mà chính là tinh thần bất khuất, là con tim ngoan cường không chịu đầu hàng nghịch cảnh của bạn. Liệu bạn sẽ đối mặt với những khó khăn, thử thách của mình như thế nào? Liệu bạn có dám dấn thân, thử sức mình thêm một lần sau khi thất bại, hay lại run rẩy, thu mình lại vì sợ sẽ lại bị tổn thương? Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào bạn, vào bản lĩnh của bạn, và đó mới chính là điều quan trọng của cuộc sống.

Điều quan trọng không phải là bạn đặt ra cho mình bao nhiêu quy tắc sống, cũng không phải bạn đã tuân theo chúng nghiêm chỉnh như thế nào? Mà chính là thái độ của bạn với cuộc sống. Liệu bạn có dám yêu hết lòng, có dám thể hiện cảm xúc một cách tự nhiên thay vì kìm nén chúng vì những chuẩn mực nào đó mà mình đã đặt ra?

Điều quan trọng không phải bạn là người cứng rắn đến thế nào? Cũng không phải việc bạn chưa từng để người khác thấy những giọt nước mắt yếu đuối của mình, mà chính là khả năng vững vàng khi bị mọi người buộc tội chỉ vì đã dám sống thật với lòng mình và chính là sự tự tin ngay cả khi không ai trao niềm tin nơi bạn.

Điều quan trọng không phải bạn là người xinh đẹp ra sao? Không phải bạn sở hữu một làn da trắng ngần, một vóc dáng đáng mơ ước, mà chính là tâm hồn của bạn có thật sự nhạy cảm với nỗi đau đồng loại, có nhận ra vẻ đẹp cuộc sống, có biết tận hưởng từng ngày mà mình đang may mắn có được.

Điều quan trọng không phải là số của cải bạn đang sở hữu, cũng không nằm ở ngôi nhà lộng lẫy, chiếc xe sang trọng… mà chính là việc những vật chất đó có thực sự làm cho bạn hạnh phúc, có là phương tiện giúp bạn đạt đến mục đích cao đẹp của mình, hay là ông chủ mà suốt đời bạn phụ thuộc, tôn thờ?

Điều quan trọng không nằm ở việc bạn bè của bạn có quyền cao chức trọng không? Mà chính là tình cảm họ dành cho bạn, là lòng sẵn sàng sát cánh cùng bạn trong hoàn cảnh khó khăn.

Điều quan trọng không phải là bạn có bao nhiêu tấm bằng danh giá trong tay, không phải bạn đã học được những gì, với ai và ở nơi đâu, mà chính là cách bạn vận dụng chúng trong cuộc sống này, và ở việc chúng có thể giúp bạn vững vàng hơn, trưởng thành hơn hay không?
(Trích Hạt giống Tâm hồn)
httpv://www.youtube.com/watch?v=JBEt6l4aW7E&list=UU8Z8xvp0-Qwkhlsfcll6Zqg

VƯỢT QUA HẬN THÙ: TRƯỜNG HỢP CỦA NƯỚC PHÁP VÀ ĐỨC (SAU THẾ CHIẾN THỨ HAI)

VƯỢT QUA HẬN THÙ: TRƯỜNG HỢP CỦA NƯỚC PHÁP VÀ ĐỨC (SAU THẾ CHIẾN THỨ HAI)

Image result for Irène Laure (1898 – 1987)

Irène Laure (1898 – 1987).

Bài viết của  :   Đoàn Thanh Liêm

Trich Bán Nguyệt San Giáo Sĩ Việt Nam số 237

Giữa hai dân tộc nước Pháp và nước Đức đã từng có một sự hận thù nặng nề ghê gớm kéo dài trong nhiều thế hệ, phát sinh từ ba cuộc chiến tranh liên tục, bắt đầu từ năm 1870 với cuộc chiến tranh Pháp – Phổ (franco-prussian war), rồi đến đệ nhất thế chiến 1914 – 1918, và sau cùng là đệ nhị thế chiến 1939 – 1945. Nhưng kể từ giữa thập niên 1950, hai nước này đã vượt qua được sự thù hận ân oán lâu đời đó, để mà cùng hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm góp phần cực kỳ quan trọng vào việc xây dựng được một khối thị trường chung Âu châu (European Common Market). Và rồi tiến tới thêm một bước kỳ diệu nữa, đó là thiết lập được một thực thể chính trị kinh tế quan trọng bậc nhất trong thế giới hiện đại, tức là tổ chức Liên Hiệp Âu châu (European Union EU), mà hiện gồm có 27 quốc gia thành viên, với dân số tổng cộng là 500 triệu người, với đơn vị tiền tệ chung gọi là đồng euro, và tổng sản lượng quốc gia GDP lên đến 20 ngàn tỷ dollar (20 trillion).

Sự hòa giải và hợp tác giữa hai quốc gia cựu thù này có thể được coi là một sự kiện nổi bật nhất trong lịch sử của Âu châu nói riêng, cũng như của cả thế giới nói chung, trong thời cận đại kể từ khi thế chiến thứ hai chấm dứt vào năm 1945, cho đến đầu thế kỷ XXI của chúng ta ngày nay. Cái thành tựu vĩ đại và ngoạn mục như thế là do sự đóng góp về cả trí tuệ và về cả tâm hồn của biết bao nhiêu nhân vật xuất chúng từ phía cả hai dân tộc Pháp và Đức. Và bài viết này xin được ghi lại cái quá trình phục hồi và xây dựng hết sức tích cực của một số nhân vật kiệt xuất đó.

Để bạn đọc dễ dàng theo dõi câu chuyện, người viết xin trình bày sơ lược về bối cảnh lịch sử tại khu vực Tây Âu, trước khi mô tả chi tiết về tiến trình hòa giải và hợp tác của hai nước Pháp và Đức trong nửa sau của thế kỷ XX.

I – Bối cảnh lịch sử cận đại tại Tây Âu.

Như ta đã biết vào năm 1870, nước Pháp do Napoleon III lãnh đạo đã bị thất trận nhục nhã trước đội quân tinh nhuệ của nước Phổ (Prussia) dưới thời cầm đầu của thủ tướng Bismarck. Việc thất trận này đưa đến sự thóai vị của Hòang Đế Napoleon III và sự giải thể của nền Đệ nhị Đế chế ( the Second Empire) và sự ra đời cùa nền Đệ Tam Cộng Hòa ( the Third Republic) của nước Pháp. Nhưng nước Pháp lại còn mất cả vùng đất Alsace-Lorraine ở phía đông bị chuyển vào tay người Đức – (do nước Phổ sáp nhập hợp thành nước Đức thống nhất vào đầu thập niên 1870)-. Đây là cả một nỗi cay đắng hận thù sâu đậm của dân Pháp đối với người Đức. Chỉ cần đọc bài viết “ Buổi học cuối cùng” (La derniere classe) của nhà văn Alphonse Daudet, ta cũng đủ thấm thía cái nỗi niềm tủi nhục uất hận của người dân Pháp trong vùng đất bị tước đọat này.

Tiếp theo vào năm 1914 – 18, lại xảy ra cuộc thế chiến thứ nhất giữa phe Đức – Áo và phe Đồng Minh do Pháp – Anh đứng đầu. Cuộc chiến tranh này gây thiệt hại rất nặng cho cả hai nước Đức và Pháp. Vì Đức cuối cùng bị thua trận, nên vùng đất Alsace-Lorraine lại trở về với Pháp. Nhưng vì nước Đức bại trận bị đối xử quá khắc nghiệt, nên người Đức thật bất mãn, hận thù phe Đồng Minh, đặc biệt đối với dân tộc láng giềng là Pháp.

Cho nên, đến năm 1939 lại xảy ra thế chiến thứ hai rất tàn bạo khủng khiếp, mà bắt đầu vào năm 1940 nước Pháp thua trận và bị quân đội Đức quốc xã của Hitler chiếm đóng với sự đàn áp hết sức tàn bạo khốc liệt. Vì thế mà mối hận thù giữa hai dân tộc Pháp-Đức lại càng thêm nặng nề bi đát. Rốt cuộc, năm 1945 nước Đức lại thua trận nữa, và cả Âu châu bị tàn phá kiệt quệ với hàng chục triệu nhân mạng bị tiêu vong.

Như vậy là chỉ trong vòng 70 năm từ năm 1870 đến năm 1940, giữa hai dân tộc Pháp và Đức đã xảy ra 3 cuộc chiến tranh đẫm máu với bao nhiêu triệu người bị giết và tàn phế, bao nhiêu tài sản bị hủy họai, và nhất là sự căm thù giận ghét mỗi ngày lại càng thêm chồng chất tích lũy giữa hai bên.

II – Quá trình Hòa giải và Hợp tác Pháp – Đức sau năm 1945.

Sau khi cuộc chiến tàn bạo dã man kết thúc, người dân hai nước bàng hòang trước sự đổ nát hoang tàn và kiệt quệ về mọi mặt. Rồi tiếp liền theo là cuộc chiến tranh lạnh gay go căng thẳng giữa hai phe cộng sản do Liên Xô lãnh đạo và phe tư bản do Mỹ dẫn đầu. Nhằm lôi kéo khu vực Tây Âu về phía mình, kể từ năm 1948 nước Mỹ đã hào phóng viện trợ đến trên 13 tỉ dollar cho các quốc gia đồng minh tại đây thông qua một chương trình tái thiết Âu châu, mà thường được gọi là kế hoạch Marshall.

Nhưng vai trò chủ yếu trong công cuộc phục hồi, tái thiết và hòa giải ở Tây Âu là do các nhà lãnh đạo chính trị có tầm vóc đặc biệt lớn lao, điển hình như thủ tướng Konrad Adenauer của Tây Đức, ngọai trưởng Robert Schuman của Pháp, và đặc biệt là kế hoạch gia đại tài với viễn kiến sâu sắc Jean Monnet người Pháp. Đã có quá nhiều sách báo viết về sự đóng góp đồ sộ làm nền móng vững chắc cho sự tiến bộ của Âu châu từ trên 65 năm nay của những nhân vật chính trị kiệt xuất này, cho nên tôi thấy không cần phải trình bày dài dòng chi tiết thêm nữa về họ.

Mà đúng theo với nhan đề của bài này, tôi muốn viết về một nhân vật tiêu biểu của Xã hội Dân sự ở Âu châu, mà có sự đóng góp thật vĩ đại vào tiến trình hòa giải của hai dân tộc Pháp và Đức trong mấy thập niên gần đây. Nhân vật lỗi lạc đó chính là bà Irène Laure người Pháp, mà tôi xin dành được đề cập đến với nhiều chi tiết hơn trong phần tiếp theo liền sau đây.

III – Câu chuyện của Irène Laure ( 1898 – 1987).

Irene Laure xuất thân là một cán sự điều dưỡng và đã từng giữ nhiệm vụ quản lý bệnh viện.  Victor người chồng của bà là một thủy thủ và là môn đệ của nhà lãnh đạo cộng sản Pháp Marcel Cachin. Trong thế chiến thứ hai, Irène tranh đấu trong hàng ngũ kháng chiến tại vùng hải cảng Marseille chống lại quân Đức quốc xã. Bà có người con trai bị mật vụ Gestapo tra tấn tàn bạo, nên đã có sự căm thù tột cùng đến độ mong cho mọi người dân Đức phải chết hết, và “ quốc gia này phải bị xóa bỏ khỏi bản đồ của Âu châu”. Sau khi chiến tranh kết thúc, Irène được bầu vào Quốc hội Lập hiến và làm Tổng thư ký của tổ chức “Phụ nữ Xã hội Pháp” với số đòan viên lên tới 3 triệu người.

Tháng chín năm 1947, Irène đến tham dự một hội nghị quốc tế tại thành phố Caux Thụy sĩ, cùng với nhiều đại biểu từ các nước Âu châu. Hội nghị này là do tổ chức Moral Re-Armament MRA (Tái Võ trang Tinh thần) đảm trách, nhằm quy tụ nhiều nhân vật văn hóa xã hội, tôn giáo để cùng nhau trao đổi về vấn đề tái thiết Âu châu. Sẵn có sự căm thù đối với người Đức, Irène đã chuẩn bị rời bỏ Hội nghị khi được biết là có một số người dân Đức cũng tham dự cuôc gặp mặt này. Nhưng bà đã ngưng chuyện bỏ về, khi được một người trong Ban Tổ chức nói với Irène rằng : “ Bà là một người theo khuynh hướng quốc tế xã hội, làm sao mà bà lại có thể tái thiết được Âu châu, nếu bà loại trừ cả một dân tộc Đức?”

Dẫu vậy, khi được mời ăn bữa trưa với một phụ nữ Đức, thì Irène đã bị “xốc rất nặng”, đến nỗi phải nằm lì trong phòng suốt hai ngày đêm liền, không ăn không ngủ. Bà bị dằn vặt trăn trở với lửa hận thù còn ngùn ngụt nóng chảy trong tâm can, và cầu xin ơn trên hướng dẫn soi sáng cho mình. Sau cuộc tranh đấu nội tâm gay go căng thẳng này, Irène đã lấy lại được sự bình tĩnh và chấp nhận đến gặp người phụ nữ Đức như đã được giới thiệu cách đó mấy bữa.

Trong bữa ăn này, Irene không hề động đến món nào, mà lại xổ ra tất cả những gì đã chất chứa trong mình sau khi đã trải qua bao nhiêu sự tàn bạo của quân đội Đức quốc xã. Rồi bà nói với người đối diện : “ Tôi phải nói ra tất cả chuyện này, vì tôi muốn được giải thoát khỏi nỗi giận ghét này “ (I want to be free of this hate).

Một sự im lặng kéo dài. Thế rôi người phụ nữ Đức mới lên tiếng, chia sẻ với Irène về những gì bản thân mình đã trải qua trong thời chiến tranh. Bà này tên là Clarita von Trott có chồng tên là Adam vốn là một người chủ chốt trong vụ âm mưu ám sát Hitler vào ngày 20 tháng Bảy năm 1944. Âm mưu thất bại và Adam bị tử hình, để cho một mình Clarita phải nuôi nấng hai đứa con. Clarita tâm sự với Irène : “Người Đức chúng tôi đã không chống đối đủ, đã không chống lại chế độ quốc xã sớm hơn và với quy mô đủ lớn, và chúng tôi đã đem lại cho chị và cho chính mình và cho cả thế giới những đau khổ đầy đọa dằn vặt không sao kể cho xiết được. Tôi muốn nói lời xin lỗi với chị “ (I want to say I am sorry).

Sau bữa ăn này, hai bà phụ nữ cùng các thông dịch viên đã yên lặng ngồi trên gác thượng nhìn xuống hồ Geneva. Rồi Irène lên tiếng nói vời người bạn mới người Đức rằng bà tin tưởng là nếu cả hai người cùng cầu nguyện, thì Thiên chúa sẽ giúp họ. Irène cầu kinh trước, xin cho mình được giải thoát khỏi lòng hận thù để có thể còn xây dựng được tương lai. Và rồi đến lượt Clarita cầu nguyện bằng tiếng Pháp. Irène bất giác đặt tay trên đầu gối của kẻ thù địch trước đây của mình. Sau này, Irène tâm sự : “Từ lúc đó, cây cầu bác ngang qua sông Rhin đã được xây dựng, và cây cầu đó đã đứng vững mãi, không bao giờ gẫy đổ được.” (And that bridge always held, never broke)- (Ghi chú : Sông Rhin là biên giới giữa hai nước Pháp và Đức).

Cuối cùng Irène đã phát biểu trong một phiên họp khoáng đại của Hội nghị trước sự hiện diện của 600 tham dự viên. Bà nói : “ Tôi đã ghét nước Đức đến độ muốn thấy nước này bị xóa bỏ khỏi bản đồ châu Âu. Nhưng tại đây, tôi thấy sự hận thù của mình là điều sai lầm. Tôi xin lỗi và tôi mong được xin tất cả các bạn người Đức có mặt nơi đây tha thứ cho tôi…” Liền sau đó, một phụ nữ Đức bước lên và nắm tay bà Irène. Sau này Irène thuật lại : “ Lúc đó, tôi biết rằng tôi sẽ dành hết cuộc đời còn lại của mình để đem cái thông điệp của sự tha thứ và hòa giải này đến khắp thế giới.”

Và quả thật vào năm sau 1948, Irène cùng chồng là Victor đã qua bên nước Đức suốt 3 tháng , đi khắp nơi để tham dự 200 phiên họp và phát biểu tại Quốc hội của 10 tỉnh bang của xứ này. Ở đâu, bà cũng nói lời xin lỗi của mình. Và đổi lại, thì cũng có rất nhiều vị tướng lãnh và sĩ quan, cùng các chính khách người Đức cũng đều lên tiếng xin lỗi với bà.

Và đó là bước khởi đầu cho cả một quá trình lâu dài của sự hòa giải và hàn gắn giữa hai dân tộc Pháp và Đức, ngay từ hạ tầng cơ sở của quảng đại quần chúng nhân dân tại hai nước. Có thể nói là cái “phong trào quần chúng tự phát này” đã có tác động mãnh liệt thúc đảy cho tầng lớp lãnh đạo chính trị tại hai quốc gia này thực hiện mau chóng sự Hòa giải và Hợp tác Hội nhập giữa hai dân tộc và góp phần chủ yếu vào công cuộc xây dựng thành công cho Liên Hiệp Âu châu như ta thấy ngày nay ở thế kỷ XXI vậy./

California, Tháng Hai 2011

Đoàn Thanh Liêm

Ân nghĩa hay nợ nần?

Ân nghĩa hay nợ nần?

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Ngày Lễ Tạ Ơn rồi cũng đã qua đi trong bình lặng, nhưng những chùm đèn trang trí vẫn lấp lánh qua mùa Giáng Sinh và còn sáng trong đêm qua năm mới. Tôi không biết trong những ngày qua, nhân mùa Thanksgiving ở Hoa Kỳ, bình tâm mà nói, không biết chúng ta đã nhớ đến ai, nghĩ đến ai hay đã đền được ơn ai chưa?
Image result for picture of thank you

Những người Anh đến Tân Thế Giới (Châu Mỹ) những ngày đầu tiên, trên một con thuyền tên là Mayflower, sau này thường được gọi là “Người Hành Hương” (Pilgrims). đến Thuộc Địa Plymouth thuộc vùng Tân Anh (New England) khi mùa Đông đang đến, vì đói và lạnh, một nửa trong số họ đã qua đời vì không chịu nổi mùa Đông khắc nghiệt. Vào đầu mùa xuân, họ may mắn gặp được những thổ dân da đỏ tốt bụng giúp đỡ lương thực, dạy họ cách sinh tồn bằng cách trồng hoa màu, săn bắt để có lương thực. Về sau khi cuộc sống đã ổn định, người Pilgrims đã tổ chức một buổi tiệc để tạ ơn Chúa Trời cũng như những người thổ dân vì đã giúp cho họ có thể sống còn đến ngày hôm nay, bằng những bữa tiệc, mà sau này đã trở thành những buổi Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving) rất có ý nghĩa.

Nói chuyện mang ơn thì dễ nhưng trả ơn thì khó. Cuối cùng những thế kỷ sau, những kẻ ra ơn là những người Da Đỏ bị tập trung vào những khu dành riêng cho họ gọi là khu tập trung, và dùng nhiều phương cách để đồng hóa họ như buộc phải bỏ y phục dân tộc, cắt tóc ngắn, tập ăn muỗng nĩa, đặt tên lại theo cách của người da trắng, “văn minh hóa” bằng cách cưỡng ép trẻ Da Đỏ vào các trường nội trú, học tiếng Anh và Kinh Thánh, để cuối cùng hôm nay chúng ta thấy người Da Đỏ gần như bị diệt chủng.

Cách cư xử của 950 tù nhân nam nữ Anh quốc đi trên 11 chiếc thuyền buồm, đặt chân lên nước Úc, đã đối xử với thổ dân Úc là những người chủ nhà, cũng không khác gì hơn. Một chính sách đồng hóa và tiêu diệt thổ dân khốc liệt đã được thi hành. Từ năm 1930 đến 1970, 100,000 nghìn trẻ em thổ dân đã bị tách khỏi gia đình khi còn rất nhỏ từ tay cha mẹ, có người chỉ mới mười tháng tuổi, và đem nuôi tại khoảng 500 cô nhi viện, nhà thờ hay các gia đình trên khắp nước Úc để xóa bỏ tên tuổi, văn hóa, cội nguồn của chúng. Đó là sự kiện cố gắng diệt chủng thổ dân Úc hay là câu chuyện “những thế hệ bị đánh cắp” như lời xin lỗi được Thủ Tướng Kevin Rudd năm 2008.
thank you photo: thank-you thank-you.jpg

Khi người ta không muốn cho mình là kẻ chịu ơn, hay không muốn trả ơn thì cho chuyện người ta đã giúp đỡ mình là vì họ nợ mình, từ những kiếp trước hay ngay nhãn tiền. Bởi vậy, thay vì ta nói, “Anh mang ơn Em!” thì chúng ta lại nói, “Anh còn nợ Em!” Trả hết nợ là xong, chẳng có ơn mà cũng không còn nghĩa!

Khi nước Mỹ mở rộng vòng tay đón người vượt biên tị  nạn hay bỏ công của để điều đình với những kẻ thắng trận, cho những người tù chính trị được sang định cư tại Hoa Kỳ, thì đã có nhiều người cho rằng vì người Mỹ trước đây đã can thiệp vào chiến tranh Việt Nam, nên ngày nay phải có trách nhiệm đón người tị  nạn Việt Nam vào đất Mỹ. Nói chung là Mỹ nợ người Việt Nam nên phải trả, thế thôi!

Nghĩa là sòng phẳng, chẳng ai phải mang ơn ai.

Đọc lịch sử Hoa Kỳ, mới thấy quả là người Mỹ nợ nần quá nhiều, những món nợ không trả bằng tiền bạc mà trả bằng xương máu của thanh niên nước Mỹ. Chỉ nói đến các cuộc chiến tranh lớn, trong Thế Chiến Thứ I (1914-1918) người Mỹ đã nợ gì phe Anh, Pháp, Nga, Ý để phải hy sinh 35,516 người, không kể đến số mất tích và bị thương; Đệ II Thế Chiến (1941-1945) có 405,399 binh sĩ tử trận vì chung lưng với Đồng Minh (Nga- Anh- Pháp) để chống phe Trục (Đức- Nhật- Ý); Chiến Tranh Triều Tiên (1950-1953) Mỹ hy sinh 116,516 người, đã tiến đến sông Áp Lục để ngăn chặn làn sóng đỏ Trung Cộng; trong Chiến Tranh Việt Nam 58,209 thanh niên Mỹ hy sinh cho miền Nam trước hiểm họa Cộng Sản Bắc Việt với sự tiếp tay của Liên Xô-Trung Cộng.

Trong chúng ta, những người Việt trên đất Mỹ, đã mang ơn nước Mỹ, nhưng gần như hầu hết chúng ta đã quên hay không còn nghĩ đến.

Nếu nước Mỹ không văn minh, đạo đức, tự do và nhân đạo thì gia đình chúng ta đã không đến đây. Không nghe gia đình nào vượt biên giới phía Bắc để qua Vân Nam, Quảng Đông, cũng không nghe con tàu vượt biển nào được tàu Liên Xô vớt để đem về Mạc Tư Khoa.

Nhưng có những người mang ơn không muốn nói ra một lời cám ơn, đừng nói chi tổ chức được một ngày để tạ ơn nước Mỹ đã cho chúng ta đến đây, cơm no áo ấm, sống một cuộc đời có tự do, nhân phẩm và là nơi cho thế hệ con em chúng ta có cơ hội thăng tiến, trở thành con người hữu dụng.

Tôi không dám ngỏ một lời với tất cả người Việt hôm nay trên đất Mỹ, tôi chỉ dám hỏi số nhỏ bạn bè của tôi, những người bạn tù ngày trước, và cả cho tôi, đã có cơ hội nghìn vàng đến đây. Chúng ta còn nhớ ai đã lái chiếc xe đón gia đình trong ngày chúng ta đến phi trường John Wayne, hay một phi trường nào đó trên đất Mỹ? Ai đã đi thuê cho gia đình chúng ta cái apartment, là nơi chúng ta về trú ngụ trong những tháng năm đầu tiên ở đây? Ai là người mang chúng ta đến ngôi chợ, mua giúp cho chúng ta những món ăn để sửa soạn cho bữa ăn tự túc đầu tiên? Ai là người dẫn chúng ta đi lo những thủ tục nhập cư mà tất cả đối với chúng ta là những điều hoàn toàn lạ lẫm?

Ai là người ngồi bên cạnh chúng ta trong những ngày tập lái xe, với những bảng hiệu giao thông hãy còn lạ mắt?

Có bao nhiêu câu hỏi, nhưng chỉ có hai câu trả lời đơn giản: Có hay không!

Chúng ta đã đi qua bao nhiêu thành phố, đã trú ngụ trong bao nhiêu căn nhà, làm bao nhiêu nghề sinh sống, thay đổi bao nhiêu chiếc xe đi, gặp gỡ bao nhiêu bạn bè quen biết, nhưng tựu trung, chúng ta còn nhớ được những gì và những gì nay đã mờ nhạt trong trí nhớ.

Ngày Lễ Tạ Ơn qua đã lâu rồi, như nó đã từng đến và qua đi trong hơn hai mươi năm nay, từ ngày chúng ta đặt chân đến đây, và cùng với gia đình ăn bữa tối sum họp vào buổi chiều ngày Thứ Năm tuần thứ tư trên đất Mỹ.

Chúng ta đã từng nợ nần ai và đã từng đưa bàn tay ra cho ai vịn, giúp đỡ cho ai được một vài chuyện cần thiết? Câu chuyện không có gì là lớn lao, nhưng đôi khi chúng ta không muốn làm hay chưa làm được, vì vẫn thường nghĩ rằng nó là quá nhỏ!

Tình yêu đó cho em,

“Tình yêu đó cho em,
tháng năm trên từng phím Xuân lay,
đóa môi xinh giòng tóc mây bay”.

(Ngô Thụy Miên – Tình Khúc Mùa Xuân)

(Mc 1: 1-3)

Trần Ngọc Mười Hai

Gọi đó “Mùa Xuân” ư, ngay cả lúc: “Tình” anh cho em chỉ như “Xuân lay” trên từng phím, mà thôi sao? Gọi đó “Tình khúc” ư, đúng vào khi: đoá môi xinh trên giòng tóc… có mây trắng bao bọc, cả đấy chứ? Thôi thì, anh có gọi đó là “Tình Khúc Mùa Xuân” hay “Tình tự mùa…” gì đi nữa, cũng vẫn được. Miễn sao, anh để nghệ sĩ mình hát tiếp những câu sau, rồi sẽ tính:

“Mùa Thu lá heo may gọi về.

Mùa Ðông nắng hanh trên tuổi thề.

Mình đan nắng ru mây ước mơ xa vời.

Một hôm gió Xuân sang,

Mây lang-thang cài tóc em mang.

đến thăm em chiều nắng miên-man.

Rồi Thu đến sao em giận-hờn.

Rồi Ðông đến sao em lạnh-lùng.

Ðường phố vắng thênh-thang ru buồn gót chân”.

(Ngô Thụy Miên – bđd)

Vâng. Nghệ sĩ nhà mình, hễ nói về mùa Thu là y như rằng: anh hay chị sẽ nói những là: “lá heo may”, “em giận hờn”.

Vâng. Rồi Đông đến, cũng lại có anh hay chị rày sẽ bảo: “Nắng hanh trên tuổi thề”, “Sao em lạnh lùng” rồi lại hát: đường phố thênh thang ru buồn gót chân, thôi.

Là thơ văn nghệ sĩ hay người viết nhạc, thì anh hoặc chị mới viết thế; chứ nếu là nhà Đạo như tôi/như bạn, hẳn ta lại sẽ như mọi người, nói nhiều về … tín-lý, giáo-điều luật-lệ phụng vụ, nghe u sầu, man mác, chốn thiên thu lu bù nhiều buổi.

Vâng. Giả như bạn và tôi có bảo thế, cũng chẳng có gì là quá đáng đâu! Bởi, với nhà Đạo mình, hễ ai nói triết-lý hoặc thần-học, lại sẽ dùng những cụm-từ khá “nho nhã”, cứng cỏi, nhiều biện-chứng, mà thôi. Chứ đâu như đấng bậc Dòng Chúa Cứu Thế ở Úc, từng là Giám-tỉnh một thời, nay lại thích kiểu tự-thuật giòng chảy Tin Mừng rất Mác Cô như sau:

“Tôi nay cũng đã già. Nên, xin bạn bỏ lỗi cho tôi, nếu tôi nói điều gì hơi lan man, mơ hồ, nhiều quên sót! Tôi đây lại cũng ngu dại, nên nếu có ai hỏi tôi điều gì về địa-dư, sử-ký hoặc nhân-văn, cũng đành chịu. Có vị khác lại những cho rằng: tôi hơi bị “đần”! Viết lách, thì chẳng hay ho/khéo léo gì cho lắm. Giảng-giải cũng chẳng được mấy ai nghe. Nhưng, thật tình mà nói, tôi có cố gắng nặn óc/vắt trán cho nhiều, cũng chỉ có thể ghi lại đây đôi ba giòng ký-sự vào những ngày trí nhớ với trí khôn của tôi, chưa cùn lụt.

Nhưng, với Ngài và về Ngài, thì tôi đây chẳng quên sót điều gì hết. Quên sao được, khi Ngài chinh-phục toàn-thể nhân-loại, mãi đến hôm nay! Ngài là niềm đam-mê tôi mến-mộ suốt một đời. Và tiểu sử Ngài, với tôi, vẫn là dấu-ấn thánh-thiêng từng đánh động tôi rất nhiều thời, và có lẽ cả những thời/những buổi sau này nữa.

Ấy chết! Dường như tôi vừa quên bẵng đi mất một điều là đã không tự giới thiệu chính mình với bà con người đọc về con người kém cỏi của tôi đây! Rỏ thật đoảng! Thôi thì, giờ đây, tôi xin làm cái việc ấy ngay tức thời, bây giờ nhé.

Vâng. Tên tôi vỏn-vẹn chỉ mỗi hai chữ: Mác-cô, thôi. Các đấng bậc đạo-hạnh/lành thánh lại cứ gọi tôi là “Máccô Thánh-sử”, nghe thế mới tội làm sao! Là độc-giả, hẳn bạn cũng nhớ ra, là: tôi đây, vốn dĩ được nhiều người biết đến, là do tôi đã cả gan viết lên nhiều trang giấy những Tin rất Mừng về bản chất “Người” của Ngài. Mọi người lại cứ đua nhau gọi đó là Tin-Mừng-theo-thánh-Mác-cô, mới đáng sợ. Vâng, nhìn từ góc cạnh nào đó, tôi cứ bị các vị cho rằng: tôi là tác-giả của Tin Mừng ấy. Nhưng thôi, hãy để tôi kể cho các bạn nghe: tôi đây, từng “đổ mồ hôi sôi nước mắt” mỗi khi nặn từng chữ và từng chữ cho cuốn ấy đó!

Quả là, quí bạn có lòng khoan-dung/độ-lượng lắm mới cho phép tôi khoe-khoang một chút về bản thân mình. Thế nên, nay tôi cũng học cách khoan-dung/lành sạch như thế. Nói cho cùng, tôi là kẻ đi tiên-phong sáng-chế ra lối viết gọi là Phúc âm, tựa như thế. Thế rồi, nhiều vị còn chịu khó tiếp nối công việc viết lách giống như tôi. Các vị ấy, làm cũng được việc lắm. Nhưng riêng tôi, vẫn là người tiên-phong khởi-xướng, công việc này, ngay từ đầu. Sao lại thế, ư?

Vâng. Người thời nay, thường hay chĩa mũi vào đời tư người khác. Nếu bạn đây, muốn biết thêm đôi chút lai-lịch đời tư của riêng tôi, thật cũng khó lòng. Bởi, trí nhớ của tôi nay tàn-tạ cũng nhiều sau bao năm tháng chộn-rộn đến thế, còn gì? Có thể, tôi cũng là người Do thái, La Mã hoặc gia dĩ thuộc giống giòng hào-kiệt xứ Syria, cũng không chừng. Thật tình mà nói, tôi cũng chẳng nhớ gì về mấy chuyện ấy, hết. Tín-hữu thời đầu như tôi, vẫn cứ pha-trộn giống nòi/giòng-tộc như thế. Cộng-đoàn nơi tôi sống, đã bị ảnh-hưởng cũng khá nhiều do truyền-thống của ông Phêrô và Phaolô, từng để lại. Hai vị ấy đều là vĩ-nhân. Và, riêng tôi lại có được cảm-hứng rất nhiều cũng là do từ các tư-tưởng của các ông Phaolô mà các bạn gọi là thánh tông-đồ là thế đấy!

Cộng-đoàn tôi khi ấy, vẫn không là thánh hội như các bạn từng gọi đâu. Có lẽ, bạn nên gọi chúng tôi là “cộng đoàn nhà-thờ” cũng đúng thôi. Bởi, nhóm/hội cộng-đoàn tôi chung sống, phần đông là những người Do-thái ở giai-cấp thấp; và mấy người khác lại cũng là người ngoài đạo như: đám “kinh-doanh”/mậu-dịch, hoặc dân-con chỉ sử-dụng cuốc xẻng, và đám người chuyên hầu hạ kẻ khác, mà thôi. Rất ít người trong chúng tôi là nghệ-nhân hoặc dân có học, hoặc đám người tuyển-chọn trong xã-hội đâu. Thành thử… thành thử… ừ nhỉ!” (xem thêm Lm Michael Gilbert CSsR, Mark my words, The Majellan Family số tháng 10-12 năm 2014, tr. 3-4)

Thế đấy là tự-thuật, lời lẽ của đấng bậc thánh-nhân, có tên tục là Mác-cô. Thế nhưng, xin bạn hãy dừng chân đứng lại đôi ba phút để nghe nghệ-sĩ đời cũng tự-thuật bằng đôi câu hát, vẫn cứ hỏi và hát một đoản-khúc như sau:

“Chiều còn mưa bay,

ướt bước chân mòn lãng du,

ướt áo cho tình thấm sâu.

Ướt đóa môi hồng hững hờ,

Rũ ướt cung đàn,

buồn dâng mây tím giăng ngang,

buồn vương ân ái phai tàn”.

(Ngô Thụy Miên – bđd)

Vâng. Nghệ-sĩ đời thường hay hát thế. Hát rồi, người lại hỏi:

“Mùa Xuân đến chưa em?
Bước chân ai dìu tiếng mưa đêm,
vắng xa chưa giòng tóc mây bay?
Mùa Thu vẫn chưa nguôi giận hờn,
Mùa Ðông vẫn chưa thôi lạnh lùng,
Giòng lá cuốn em mang – trôi dài mãi trôi”.

(Ngô Thụ Miên – bđd)

Vâng. Lời vàng thánh-nhân khi xưa viết, vẫn như “Giòng lá cuốn em mang, trôi dài mãi trôi”. Lá cuốn trôi nghe còn được. Lời thánh-nhân, mà lại cũng trôi/cũng cuốn khiến “em mang”, e rằng hát thế rất không ổn cho cả người đọc lẫn người nghe. Thế nên, nghệ-sĩ hôm ấy lại đã hát thêm nhiều câu khác, hỏi rằng: “Mùa Xuân đến chưa em?” như sau:

“Mùa Xuân đến chưa em?
Bước chân ai dìu tiếng mưa đêm
Vắng xa chưa giòng tóc mây bay?
Mùa Thu vẫn chưa nguôi giận hờn
Mùa Ðông vẫn chưa thôi lạnh lùng
Giòng lá cuốn em mang – trôi dài mãi trôi.”

(Ngô Thụy Miên – bđd)

Tự thuật về Ngài theo kiểu gọi-là-của thánh-sử Mác-cô, là nói cũng khá nhiều về đời và Lời của Thày mình, như hậu-duệ thời nay thêm đôi điều như sau đây:

“Những gì tôi viết ngắn gọn ở trong đó, chỉ là đôi giòng kể để người đọc lẫn người nghe có dịp thưởng-thức chuyện đời hoạt-động của Đức Giêsu, mà thôi. Tôi đây, vẫn muốn cổ-vũ mọi người hãy xác-tín và khai-triển niềm tin mình đạt được, từ nơi Ngài. Thời tôi sống, làm gì có lớp Giáo-lý, để kể những câu chuyện thần-thiêng thánh-hoá ra như thế! Câu truyện về Đức Giêsu-thần-tượng của tôi, hầu hết được các vị thừa-tác mang theo đây đó mà phổ-biến dần cho người chưa từng biết đến. Có những điều, được viết thành câu thành cú, có ý-tứ đầy đủ cả. Lại có những đoạn, những câu trong đó văn-vẻ không mấy gẫy gọn. Thế nên, tôi cố nhặt nhạnh/sắp-xếp thành cú-pháp, kẻo nó lạc mất lúc nào cũng không hay. Sắp xếp sao cho dễ hiểu, để bạn bè của tôi nơi cộng-đoàn kẻ tin dựa vào đó mà truyền sang cho người khác, nữa.

Công việc của tôi, không vì thế mà mọi người cứ tưởng là khá dễ. Nhiều lúc, vẫn thấy căng-thẳng, lại cũng khó hiểu vì chính tính-chất rất “người” của Ngài; vì cả lối sống lẫn ý/lời do Ngài mặc-khải ra ngoài. Một số nguồn-mạch tôi thu-thập, cũng chỉ để định ra rằng: Ngài là Đấng Mêsia đã chiến-thắng thu-hồi lại nguồn tài-nguyên nhân-vật-lực. Có chỗ, chỉ để nói lên sự việc Ngài từng làm như “sự lạ ít thấy” cốt mô tả Ngài là Công-nhân vĩ-đại giống như nhân-vật nọ kể ở phim truyện Harry Potter đa năng/đa dạng, thời hôm nay. Tôi nhất-quyết kể hết sự thật về Ngài. Dĩ nhiên, làm được thế, cũng cần có Chúa Thánh Thần gợi hứng/dẫn dắt, và hỗ trợ nhiều. Dù sao đi nữa, tôi vẫn là người chịu trách-nhiệm về lời kể trong các  trình-thuật mà tôi nghe/biết ngõ hầu đúc-kết, bấy lâu nay…” (xem thêm Lm Michael Gilbert, bđd)

Quả là, lời tự-thuật của sử-gia đầu đời về Lời Chúa cũng từa-tựa như thế. Như thế, tức: tác-giả Mác-cô là người “góp nhặt” và “sắp xếp” chuyên ghi chép các động-thái cũng như Lời vàng của Đức Giêsu, mà cộng-đoàn tiên-khởi hằng tin-tưởng bằng niềm tin không lay chuyển.

Công việc do Mác-cô thánh-sử thực-hiện, không đơn-giản như một số các thần-học-gia Kinh-thánh từng chú-giải. Trong số các vị này, cũng nên kể ở đây một số ý-kiến nổi-bật như sau:

“Vào Đại-hội Giới-trẻ Thế-giới năm 2000, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị đã tặng cho mỗi người trong số hai triệu người có mặt những hai bản Tin Mừng theo thánh Mác-cô: một để giữ lấy cho mình, cuốn kia để tặng người khác. Trên trang mạng nối-kết toàn-cầu, có đến cả triệu địa-chỉ mạng dành cho thánh Mác-cô. Trong khi đó, thánh Mát-thêu chỉ được có 250 ngàn địa chỉ, và thánh Luca được 150 ngàn địa-chỉ thôi. Riêng Tin Mừng theo thánh Mác-cô là sách được dịch ra số lượng nhiều nhất và dịch ra nhiều ngôn-ngữ nhất thế-giới. Các trình-thuật do thánh Mác-cô ghi, lại cũng được diễn-xuất qua nhiều bản kịch nói nhất; và ngày nay, lại cũng được cho diễn rất nhiều lần, vào những năm tháng gần đây. Cùng một lúc, tác-giả Mác-cô lại chính là người ít được cảm-kích, biết đến. Đồng thời, sứ-điệp mạnh-mẽ và cấp-bách của thánh-nhân lại cũng bị nhiều tín-hữu bỏ qua, chẳng ngó ngàng gì cả.

Mới đây, lại có nhà phê-bình từng bảo: “Về Phúc Âm do thánh Mác-cô viết, có nhiều điều khác với tác-giả Tin Mừng khác. Thánh Mát-thêu thì dẫn-dụ chỉ bảo. Thánh Luca làm hài lòng người đọc lẫn người nghe. Thánh Gioan lại cứ đều đều một giọng điệu khá trầm trầm. Còn thánh Mác-cô ư? Thánh Mác-cô lại khiến mọi người để ý ghi vào tâm-khảm, mà suy nghĩ và thực hiện lời dạy trong đó. Thánh Mác-cô là tác-giả Tin Mừng từng kích-hoạt người đọc đầy kịch-tính nhất trong 4 Tín Mừng cả thảy…” (Loren Rosson)

Có nhà phê-bình Kinh-thánh nọ từng gọi thánh Mác-cô là nhà thần-học của sự mỏng dòn/dễ vỡ, nữa đấy!” (Yves Bourquin) (Xem thêm Lm Kevin O’Shea, Some Recent Insights Into the Gospel, Ausralian Catholic University workshop 02/9/2006, tr.6)

Ở một đoạn khác, diễn-giả trên lại cũng viết tiếp:

“Đọc Tin Mừng theo thánh Mác-cô, người đọc và nghe không hề thấy có chương/đoạn nào viết về thời thơ-ấu của Đức Giêsu hết. Nơi Tin Mừng này, ta gặp gỡ Ngài như bậc Niên-Trưởng tham-gia vào các vấn-đề quan-yếu của cuộc sống. Tác-giả Mác-cô giữ kín lai-lịch của Đức Giêsu. Ngài không thực-hiện các “sự lạ ít thấy” để minh-xác Ngài là Đấng Cao-cả. Ngài chấp-nhận mọi hiểm-nguy và luôn tạo nguy-hiểm cho uy-quyền trần-thế và cả sự sống để mang lại sự giải-thoát rất có tính hiền-lành/tử-tế của sự sống, tức: Vương Quốc Nước Trời cho người khác, dù việc ấy có mang đến cho Ngài nhiều bách-hại và cả đến nỗi chết nữa. Đức Giêsu ở Tin Mừng theo thánh Mác-cô, là Đấng không có uy-quyền nào trên chúng-dân thời đó hết. Ngài có uy-quyền trên hết mọi sức lực bất-nhân vốn dĩ chỉ muốn kiểm-soát con người mà thôi…” (xem thêm Lm Kevin O’Shea CSsR, bđd tr. 14)

Tựu-trung thì, có kể ra hay trích-thuật, cũng chỉ như thánh-nhân là người đầu-tiên từng làm công việc như thế ấy bằng vào lời khẳng-định ở đầu bài, như sau:

“Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô,

Con Thiên Chúa:

Trong sách ngôn sứ Isaya có chép rằng:

Này Ta sai sứ-giả của Ta đi trước mặt Con,

người sẽ dọn đường cho Con.

Có tiếng người hô trong hoang địa:

Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa,

sửa lối cho thẳng để Người đi.”

(Mc 1: 1-3)

Có tự-thuật hoặc ghi chép, kể lể nhiều điều cho chúng-nhân nghe, vào thời buổi này có lẽ cũng như người kể về sự-kiện tràn lan thời khoa-học vi-tính, như lời người mẹ dặn đứa con nào đó, những lời dặn sau đây:

“Con yêu,

Hiện tại, hẳn con rất tự-hào và phấn-kích khi đã trở-thành chủ cái iPhone. Điều này thật tuyệt, phải không con?! Con là cậu bé 13 tuổi tốt bụng và có trách-nhiệm, vì vậy, nhận món quà này là hoàn-toàn xứng-đáng. Nhưng, để sử-dụng nó, con phải tuân theo quy-tắc nhất-định. Hãy đọc kỹ những “luật” sau đây:

Con yêu,

Tất cả mong ước của mẹ là con sẽ trở-thành chàng trai khoẻ mạnh, có thể làm chủ công-nghệ chứ không phải là nô-lệ của nó. Nếu con thấy khó khăn trong việc tuân theo luật-lệ mẹ đưa ra, đồng-nghĩa với việc con mất quyền sở-hữu cái iPhone này!

Mẹ rất yêu con và mong chờ nhiều thật nhiều tin nhắn sắp tới của con từ chiếc iPhone này. Con đừng nặng-nề với những điều-khoản dưới đây! Nó chỉ là những bài học làm “kim chỉ nam” cho con trong cuộc sống.

1. Cái điện-thoại này là của mẹ. Mẹ đã bỏ tiền mua nó. Mẹ chỉ đang cho con mượn thôi. Như vậy là Mẹ quá tốt rồi, phải không?

2. Mẹ luôn biết mật-khẩu (password).

3. Nếu có người gọi đến, con hãy nghe. Hãy nói “Hello!” và luôn có thái-độ đúng mực. Không bao giờ được phớt lờ cuộc gọi đến từ bố mẹ.

4. Trả lại điện-thoại cho bố/mẹvào 7h30 tối hàng ngày và 9h tối vào cuối tuần. Điện-thoại của con sẽ tắt vào ban đêm và chỉ được mở lại vào 7h30 sáng. Hẳn con không thích ai gọi điện cho bạn vào ban đêm lại nghe thấy tiếng bố/mẹ bạn ấy trả lời?! Hãy học cách tôn-trọng khoảng thời-gian riêng của người khác để con cũng được tôn-trọng.

5. Không được mang điện-thoại đến trường. Hãy trò chuyện trực-tiếp với người con định nhắn tin nếu có cơ hội. Giao-tiếp là một kỹ-năng quan-trọng trong cuộc sống. Tin nhắn có thể giúp con kết bạn để duy trì nó, cần nhất sự chân-thành.

6. Nếu điện-thoại rơi vào WC, rơi xuống đất và hư hỏng hay bị mất… con phải chịu trách-nhiệm hoàn-toàn cho việc sử-chữa, đền bù. Vì đó là lỗi của con nên bất kỳ ý-định xin xỏ nào, mẹ cũng tuyệt-đối không chấp-nhận. Con có thể kiếm tiền bằng các vật như: cắt cỏ, trông em, dọn nhà…

7. Không được dùng phone để nói dối hay lừa lọc người khác. Không được nhắn tin hay gửi email có tính khích-bác hay sỉ-nhục ai đó. Gây tổn-thương cho người khác thì một ngày không xa con sẽ phải trả giá đắt.

8. Điện-thoại là để con giữ-gìn và củng-cố mối quan-hệ. Không phải để xem phim “đen” hay vào những trang web “bẩn” học điều xấu. Tất cả nội-dung tìm-kiếm trên web cần phải chia sẻ với bố/mẹ. Bố/mẹ quản-lý con quá chặt? Đừng nghĩ thế, con yêu! Là bố mẹ đang “bảo vệ” con và muốn dành điều tốt nhất cho con.

9. Tắt máy hoặc để mode “im lặng” khi con đang trong nhà hàng, rạp chiếu phim. Đừng để iPhone biến con thành người thô-lỗ!

10. Không được gửi hay nhận hình ảnh “khoe thân” nhạy cảm của con hoặc người khác. Nếu con không nghe lời thì dù thông-minh đến đâu cũng có ngày con bị cám dỗ và làm những việc phải hối-hận cả đời.

11. Không cần thiết phải chụp/quay quá nhiều video, Sự trải-nghiệm, cảm-nhận mọi thứ và bài học/kiến-thức rút ra mới là quan-trọng nhất.

12. Thỉnh thoảng hãy quăng điện-thoại đi mà vui sống. Đừng để điện-thoại ràng buộc, chi phối thời-gian của con. Hãy học cách sống thiếu nó!

13. Đừng chỉ chăm chăm cúi đầu vào điện-thoại khi ngồi cùng bạn bè/người thân. Có những khoảnh-khắc quí-báu mà con sẽ đánh mất đấy! Hãy nhìn ngó xung quanh, con sẽ nhận thấy cuộc sống thật nhiều điều thú vị và tươi đẹp.

14. Nếu không tuân-thủ những “luật lệ” trên, mẹ sẽ đòi lại điện-thoại . Chúng ta sẽ ngồi nói chuyện và bắt đầu lại từ đầu. Mẹ luôn bên con”. (Người trích dịch: Sưu-tầm)

Phải chi có những vị, những người cha/nguời mẹ nói cho con cái hoặc nói cho nhau nghe về cung-cách sống thực Tin Vui An Bình, thời mình. Phải chi, có đấng bậc vị vọng ở nhà Đạo mình từng trích-dẫn Lời thư của vị thánh hiền lành từng dẫn-dụ bà con trong Đạo những lời lẽ như sau:

“Anh chị em biết đấy! khi ở với anh chị em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu-ích cho anh chị em. Còn anh chị em, anh chị em đã bắt chước chúng tôi và noi gương Chúa” (1 Th 1: 5)

Đó mới là, cốt lõi của việc sống Đạo trong đời sống. Sống, bằng cách “bắt chước chúng tôi và noi gương Đức Giêsu…”

Sống bắt-chước Chúa, bằng việc “rao báo Tin Vui An Bình nơi Lời Chúa. Chứ không bằng việc khuyến-dụ người ngoài Đạo trở-thành Công-giáo. Mà là: dẫn-dắt họ tìm đến Chúa, qua yêu thương/giùm-giúp những người sống chung quanh mình…” (xem thêm Lm Frank Doyle, Suy Niệm Lời Ngài năm A, Chúa Nhật thứ 30 thường niên năm A, nxb Tôn Giáo 2012 tr. 206)

Đó mới là truyền giáo theo đúng nghĩa. Truyền giáo, không là dụ dỗ người ở ngoài phải hồi-hướng-trở-về mà đi theo Đạo mình. Truyền-giáo, vẫn là và còn là rao báo cho nhau những Tin Vui An Bình mình sống. Mình chỉ sống Tin Vui ấy, nếu vẫn theo lời dạy của Bậc Trên, như một trải-nghiệm về cuộc sống rất An Vui, đầy tin tốt.

Thế đó, là chuyện phiếm đường dài ngày hôm nay, xin được gửi đến bạn và đến tôi, như một cảm-nghiệm trong đời, có cuộc đời đầy vui thú. Vui thú rất nhiều, để rồi bạn và tôi, ta sẽ hiên ngang mà hát lên những lời mà nghệ-sĩ đời từng vẫn hát:  

“Một hôm gió Xuân sang,

Mây lang-thang cài tóc em mang.

đến thăm em chiều nắng miên-man.

Rồi Thu đến sao em giận-hờn.

Rồi Ðông đến sao em lạnh-lùng.

Ðường phố vắng thênh-thang ru buồn gót chân”.

(Ngô Thụy Miên – bđd)

Đường phố hôm nay có “vắng thênh-thang ru buồn gót chân”, lần thần như thế, cũng chỉ vì em nhỏ của tôi/của bạn đã quên đi nhiều lời căn dặn để đời, rất quí giá.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ mong

Cho chính mình sẽ không quên

những lời dặn

có Tin Vui An Bình

vào mọi thời.

Anh viết cho em bài thơ nho nhỏ,

“Anh viết cho em bài thơ nho nhỏ,”

Bài thơ xanh, ánh mắt hẹn tình cờ,

Có những chữ HOA yểu điệu

Không phải đại danh từ.”

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Ga 1: 6-8, 19-28

Mai Tá lược dịch

Thơ xanh anh viết, có chữ Hoa yểu điệu. Thờ Yêu Ngài biên, là nguồn tư-liệu Ngài gửi mãi đến cho ta hầu ta dàn trải đến với mọi người. Đây, cũng là ý thơ và ý-từ được thánh-sử ghi chép ở trình-thuật đầy chữ “Yêu”, vào Chúa Nhật hôm nay.

Chúa nhật hôm nay vẫn được gọi là “Chủ nhật Hồng” là vì ý nghĩa của sự vui mừng, trong phụng vụ.

Vào thời kỳ đầu của kỷ nguyên trong Đạo, mùa Vọng được coi như “Mùa Chay đến chậm”. Vào thời ấy, hai mùa Chay và Vọng thường kéo dài đến 5 tuần lễ. Cả hai đều được đánh dấu bằng nhưng phút giây kiêng khem, sám hối. Vào hai mùa sám hối và ăn năn như thế, tín hữu được phép có một Chủ nhật nhẹ nhàng, thư giãn, bớt chay kiêng nhiệm nhặt. Vào mùa Chay, Chúa nhật “Mừng vui lên anh em!” rơi vào tuần thứ ba, của chiều dài 5 tuần lễ.

Riêng Mùa Vọng, đến thế kỷ thứ X, được rút xuống còn 4 tuần, rất vừa đủ. Và vào thế kỷ thứ XII, thánh Giáo hoàng Grêgôriô Cả, lại cho phép giảm nhẹ tính nhiệm nhặt rất căng của Mùa này bằng một vài đổi thay trong việc chay tịnh, hành xác. Tuy nhiên, Chủ nhật Hồng gọi là Chủ Nhật “Mừng vui lên anh em!’ , rất phù hợp với điều mà Hội thánh muốn nhắn nhủ ta hãy nhìn trực diện vào ngày Chúa quang lâm, tái thế.

Để có thể nhìn trực diện vào một ngày như thế, ta thử quan sát nhân vật điển hình được ghi trong Phúc Âm: anh mõ làng. Anh “Mõ” hôm nay quyết hô to nơi hoang địa. Hô to, sứ vụ của Đức Chúa, để toàn thế giới nhận ra Ngài. Anh tên là Gio-an, một người chuyên trách chuyện tẩy rửa.

Qua Phúc Âm, ta nhận ra là: anh thuộc mẫu người đại diện cho lòng khiêm tốn, nhún nhường. Trách vụ của anh, là lo khai quang dọn dẹp mọi ngả đưòng đời để con người được tới với Vương Quốc của Chúa, ở thế trần. Ngày nay, có lẽ ta chẳng còn đánh giá thấp tài nghệ của cái-gọi-là “tài năng trẻ”, được phát hiện.

Phúc Âm hôm nay minh chứng: các chuyên gia này vẫn chọn Gioan Tiền Hô hay còn gọi “Tẩy giả”, để làm quan thày cầu bàu cho mình. Có giai thoại đời thường tương tự như trình thuật được kể hôm nay, đó là truyện: Fleming, nông gia nghèo sống ở Tô cách Lan, hồi thế kỷ thứ 19.

Một hôm, đang làm việc trên đồng ruộng, anh phát giác ra có tiếng khóc ré của em bé sơ sinh nào đó, từ đồng lầy, nước mặn. Fleming bỏ mặc đồ nghề, ù té chạy về phía có tiếng khóc , bèn thấy chú bé con đang nằm dẫy trong nôi, mình mẩy đầy bùn nhơ, đang ngoi ngóp giành lại sự sống quý báu, với tử thần. Chú bé mặt đỏ tiá tai, khóc gào không ngớt, Fleming bèn vực bé em ra khỏi nỗi chết đang rình rập.

Ngày hôm sau, Fleming đi lao động, lại thấy cỗ xe tứ mã tự dưng dừng lại, để hỏi thăm. Một người đàn ông dáng vẻ lịch lãm bước khỏi xe, đến gần chỗ Fleming đừng và tự giới thiệu ông là cha ruột của đứa trẻ mà Fleming đã cứu sống.Hôm nay, ông thân hành tìm đến Fleming để tỏ lòng cảm ơn anh, và muốn hậu tạ người ân nhân đáng quý, là anh.

Vốn nhà nghèo, nhưng Fleming nhất định từ chối. Quyết chẳng nhận tiền bạc của bất cứ một ai, bao giờ. Ngay lúc ấy, cậu con của Fleming xuất hiện ở thềm cửa, giương mắt nhìn và dõi theo câu chuyện đối đáp giữa cha mình và người khách lạ.

Đoán biết cậu này chắc là quý tử của ân nhân gia đình mình, nhà quý tộc đề nghị Fleming cho phép ông được đón cậu con trai anh lên tỉnh ăn học. Mọi chi phí ông sẽ nhận bảo trợ. Hai bên đồng thuận. Thiếu niên lên đường.

Bẵng đi nhiều năm, quý tử của nông gia Fleming đã tốt nghiệp tại trường y khoa nổi tiếng nhất của Anh Quốc, là đại học St Mary ở London. Anh chính là ngài Alexander Fleming, người đầu tiên phát hiện ra kháng sinh Pênixilin.

Ít năm sau đó, con trai của nhà quý tộc gặp hôm trước bị lên cơn viêm phổi, may nhờ có thần dược Pênixilin do Alexander Fleming khám phá ra, nên một lần nữa đã thoát chết. Nay, thế giới nay đã rõ danh tánh của nhà quý tộc nọ chính là ngài Randolph Churchil của Anh. Và người con thoát chết hai lần, lại là cố thủ tướng nước Anh, Winston Churchill.

Thánh Gi-an Thanh Tẩy, hiện thân cho Giáo Ước cũ, cũng đã nhận ra được là Đức Kitô đến với nhân trần, là vì con người. Cho con người. Bởi thế, thánh nhân mới khuyến khích bạn bè và thù địch hãy nhận biết Đức Giêsu chính là Giao Ước Mới. Giao Uớc Vĩnh Cửu mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại.

Tựa nông gia Fleming và ngài Randolph Churchill, thánh Gioan thanh tẩy có lẽ đã không nhận thức được điều mình làm, vào lúc ấy. Giống nhiều người chất phác, quê mùa nào khác, Gioan Tẩy Giả đã nhận chân Đức Kitô đích thực là Tình yêu mặc lấy hình hài rất khiếm khuyết của con người phàm trần.

Qua biệt tài khám-phá ra tài năng và qua hành động tiến cử Đức Giê-su, thánh Gio-an đã giúp cho tín hữu thời của Chúa, biết nhận thức và tin tưởng rằng những gì Đức Chúa hứa với tiền nhân thời Cựu Ước, nay thành hiện thực nơi Đức Kitô. Ngài chính là Giao Ước Mới, rất đích thực.

Thành thử, ta cũng chớ nên ngạc nhiên khi thấy Hội thánh chọn Gio-an Tẩy Giả là nhân vật chủ chốt rất thánh trong Tin Mừng hôm nay, là cốt để ta chiêm ngưỡng, và bắt chước. Đúng như ý nghĩa của Chủ Nhật Hồng “Mừng vui anh em!”, hôm nay.

Ta vui mừng, thật ra chẳng phải vì ơn cứu thoát đã nằm trong tầm tay của Đức Chúa. Mà vì, ta còn được kêu mời khám-phá ra tình yêu thương của Ngài, qua động tác nhân từ, hiền lành ta phải có.

Hôm nay, Hội thánh mời gọi và khuyến khích mỗi người chúng ta hãy ra công thực hiện và tiến cử hành vi nhân hiền mà chắc chắn ta phải và sẽ thực hiện. Thực hiện cho bằng được. Thực hiện, để lấy thiên nhiên vạn vật và ân sủng làm nòng cốt cho mọi công việc còn lại, cho ta.

Đó là ý nghĩa của mầu Hồng. Là, chủ đích của Chủ Nhật Hồng giữa mầu tím ngắt, nơi mùa Vọng. Một mùa, có sám hối, chờ mong. Hồng và tím, đó là niềm vui và hy vọng. Vui, vì Chúa đến. Hy vọng, vì Ngài sẽ lại đến lần nữa. Ngài đến nữa và đến lại, trong vinh quang Phục Sinh. Với mọi người.

Trong tâm-tình cảm-nghiệm điều Chúa nói ở trình-thuật, ta lại sẽ ngâm lên lời thơ trên, những vang vọng mà rằng:

“Chúng ta đi vào là hoa Tình Sử,

Hơi thở em hoà sương khói Đường thi.

Anh đọc cho em những giòng cổ tự

Ai-cập và cổ La-Hy.

Anh viết cho em bài thơ nho nhỏ,

Bài thơ xanh, ánh mắt hẹn tình cờ.

Có những chữ Hoa yểu điệu,

Không phải đại-danh từ.”

(Đinh Hùng – Đường Vào Tình Sử)

Quả rất đúng, đường vào Tình Sử, nhất thứ là thứ Tình của Đức Chúa là con đường đầy chữ Yêu. Chữ Yêu ấy, để ta còn sống thực suốt mọi thời, nơi trần thế, trong đợi chờ ngày Chúa đến với dân gian.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

TÔI ĐÃ ĐỨNG BÊN NGƯỠNG CỬA CỦA CÁI CHẾT

TÔI ĐÃ ĐỨNG BÊN NGƯỠNG CỬA CỦA CÁI CHẾT

Cà Cuống

Số là cách nay trên 10 năm, tôi đã đứng trên ngưỡng cửa của cái Chết.

Dr. Monsour rất có uy tín ở Houston, Texas, đã đích thân điều trị cho tôi, cuối cùng cũng phải tuyên bố bó tay (give up) trước căn bệnh viêm gan C mãn tính của tôi, ông còn lưu ý tôi là đừng mất công chạy chữa nữa, vì ông mà phải đầu hàng và cũng không còn thuốc nào trị nổi, thì không còn bác sỹ nào có thể giúp cứu mạng tôi được, dĩ nhiên tôi tin lời ông, vì tôi biết rõ khả năng và kinh nghiệm chuyên môn của ông, nhưng có lẽ vì cái máu tếu trong người tôi quá nhiều, nên tôi vẫn tủm tỉm cười.

Ông rất ngạc nhiên và hỏi tôi là không sợ chết sao mà còn cười được. Tôi bật cười thành tiếng, và trả lời ông rằng, nếu bác sỹ bảo tôi sợ mà thoát chết, thì tôi xin sợ ngay, còn nếu đàng nào cũng chết thì tại sao lại sợ.

Thực tế cho thấy là có những vua chúa giầu sang, quyền uy tột bực, với cả đàn ngự y tài giỏi, mà cũng vẫn chết, thì tôi là cái thá gì mà không chết, và khi đã biết là sớm muộn gì cũng phải chết, thì sợ cũng chết, vậy ngu gì mà sợ, cứ “enjoy to the fullest” những ngày còn lại, và “ready” để đáp chuyến tàu định mệnh đi đoàn tụ với vợ con tôi đã ra đi trước tôi.

Cũng xin nói thêm là trước khi phát giác ra bị lây nhiễm Viêm Gan C, vì vô máu quá nhiều trong một ca đại phẫu thuật trước đó khoảng mười năm, chết lên chết xuống, phải nằm bệnh viện tới cả hai tháng rưỡi.

Vào thời điểm đó y khoa chưa tiến bộ tới mức có thể “scan” để khám phá ra trong máu người hiến có virus gì hay không, nên tôi mới bị lãnh đủ.

Ông bác sĩ cũng cười theo, đồng ý với tôi, nhưng còn vớt vát rằng, đúng vậy, nhưng lần đầu tiên ông nghe một bệnh nhân chết đến nơi, mà vẫn dám lý luận ngang tàng như thế.

Ông hỏi tôi là tuy không bác sỹ nào có thể cứu mạng tôi được nữa, nhưng chính bản thân tôi có thể tự cứu mình được,  có muốn ông chỉ cho không.

Tôi đáp là tuy không sợ chết, nhưng nếu có cách gì kéo dài mạng sống để “enjoy” cuộc đời, thì dĩ nhiên là muốn chứ.

Ông tâm tình với tôi rằng, ông cũng đã chỉ cho nhiều người, nhưng chưa thấy ai có đủ ý chí mạnh mẽ và kiên nhẫn mà áp dụng được, vì nói ra thì tưởng dễ, nhưng làm được không dễ, nhưng ông cho là tôi có đủ ý chí qua sự đối đáp với ông, nên ông nghĩ là chắc tôi làm được, và nếu làm được, thì có thể sống khỏe mạnh thêm hai ba chục năm nữa, còn không thì chỉ trong thời gian ngắn, bệnh sẽ phát triển sang ung thư và hậu quả ra sao thì ai cũng biết rồi khỏi cần nói nữa.

Ông còn lưu ý tôi là nếu làm được và thấy có hiệu quả tốt thì nên phổ biến rộng rãi tới mọi người, coi như làm chuyện phúc đức vậy.

Bí quyết của ông là:

1/ Phải empty hoàn toàn cái đầu, không được để cái gì lảng vảng trong đầu. Khi có chuyện cần giải quyết, thì ngồi xuống lấy giấy bút ra mà “brainstorm”, rồi ghi ngay xuống giấy, sau đó phải “clear” liền cái “mind”, chỉ khi nào tới lúc phải giải quyết thì lấy cái “note” đó ra mà áp dụng như cái máy thôi. Nói thì tưởng là dễ, nhưng ai mà không có “bill” nọ  “bill” kia, lại còn bị những người chung quanh làm phiền tới mình, nhưng cần quyết tâm mà làm cho bằng được, vì đó là sự lựa chọn giữa lằn ranh sống và chết.

2/ Phải ráng cười thật nhiều, cười từ khi mở mắt buổi sáng tới khi lên giường ngủ buổi tối. Nếu tự mình không cười được, thì phải nghĩ cách chọc sao cho thiên hạ cười để có thể cười theo.

3/ Nếu có hoàn cảnh, có điều kiện thì nên đi du lịch thật nhiều, ngoại cảnh sẽ giúp cho hào hứng, quên đi căn bệnh chết người của mình.

Cà Cuống tui đã cân nhắc giữa tiền bạc và mạng sống, cuối cùng chọn lựa “retire” non vào tuổi 62, để có thể hoàn toàn nghỉ ngơi, và đi du lịch, đi “cruise” khắp nơi khắp chốn, đồng thời kiên trì luyện tập, vậy mà cũng phải mất trên 6 tháng mới có thể giữ cho cái đầu rỗng bông được.

Bây giờ thì không còn tham, sân, si, không còn thù hận, ghen ghét, đố kỵ ai, cho nên khi nhìn ngược vào cái đầu mình, thì chỉ còn thấy trống rỗng mà thôi.

Trong quá trình luyện tập, một hình thức như thiền vậy, đôi khi bị phân tâm, là thấy phía dưới xương sườn bên tay mặt như bị kiến cắn, hiểu ngay là “virus C” thừa cơ ra ăn lá gan, lại phải lập tức “clear” liền mọi sự cho cái đầu trống rỗng ra ngay.

Ai ghét bỏ, hay kiếm chuyện mắng chửi, cũng chỉ đáp lại bằng nụ cười tha thứ, và còn cầu xin ơn trên ban phước lành xuống cho họ nữa, không còn như hồi xưa, ăn miếng trả miếng theo kiểu “oeil pour oeil, dent pour dent” ngay.

Để có thể chọc cười mọi người, Cà Cuống tôi sưu tầm đầy một bụng tiếu lâm, để hoạt náo trên xe cho bà con vui cười trong những chặng đường dài, hầu quên đi mệt mỏi.

Và kể như đã thành công, cả hai căn bệnh chết người là viêm gan C mãn tính, gan đã bị xơ cứng tới 3/4, và tiểu đường nữa, nhưng nhờ bí quyết của ông bác sỹ tài ba chỉ dạy, mà cả hai căn bệnh hiểm nghèo đều vẫn còn “under control”.

“Empty” cái “mind” là chính yếu, còn cười và du lịch là hai cái phụ, nhằm hỗ trợ cho cái đầu mà thôi.

Kinh nghiệm bản thân là trên mười năm trước, ai biết tôi, kể cả bà vợ, cũng không tin là tôi có thể sống sót được, vì qua hai thời kỳ hóa trị (chemotherapy), mỗi kỳ sáu tháng, cộng chung là đúng một năm, tôi chỉ còn như cái xác chết biết đi.

Trước đó, tôi cân nặng 170 lbs, nhưng sau thời gian điều trị, bệnh đã không thuyên giảm, mà còn sụt xuống chỉ còn 110 lbs, không thể tự ngồi lên được, mà bà nhà tôi phải vực dậy, tóc rụng đầy gối, ăn không được, ngủ không được. Nhất là bộ mặt của tôi mới thực thảm thê, nó bị choắt lại nhăn dúm như trái ô mai khô, nhưng mầu sắc thì xám xịt lại như da người chết. Ai quen biết, và ngay cả bà nhà tôi, cũng tin chắc là tôi không thể nào qua khỏi.

Tôi rất biết ơn Dr. Monsour đã động viên tinh thần tôi, ổng nói là tin tưởng tôi có ý chí mạnh, nhất định sẽ làm được.

Và quả thiệt tôi đã làm được, trước sự ngạc nhiên của mọi người quen biết, trọng lượng đã leo dần từ 110 lên 142 lbs, ăn ngon ngủ khỏe, năm ngoái khi trở lại Sapa, vẫn còn có thể leo lên tận cổng trời với sự trợ giúp của cây gậy kỷ niệm, vật bất ly thân.

Tôi vẫn tiếp tục đi du lịch đều đều trên khắp 5 châu 4 biển. Riêng tại quê hương tôi, thì không còn xó xỉnh nào là không có dấu chân tôi, có nơi đi đi lại lại cả năm sáu lần, mà vẫn cảm thấy thích thú như thường.

Theo Dr Monsour, thì nếu áp dụng được bí quyết của ông, thì ngay cả ung thư cũng có cơ may thoát hiểm.

Tôi kể lại kinh nghiệm sống thực tế của tôi, theo lời dặn dò của ông bác sỹ tài ba và giầu tình người, để nếu ai chẳng may rơi vào hoàn cảnh như tôi, thì có thể vững niềm tin mà tự cứu lấy minh.

Đặc biệt là đừng bận tâm tới chuyện chết chóc, vì đó là quy luật tự nhiên của Trời Đất, có sinh là phải có tử, không ai có thể tránh né được, thì cứ hoan hỉ mà chấp nhận thôi. Do đó, tôi rất tin vào thuyết định mệnh, và luật Nhân Quả.

Mến chúc tất cả mọi người thật nhiều may mắn và luôn vui cười, như bản thân tôi đã từ cõi chết trở về, chỉ nhờ vào bí quyết trong đó có cười, đó cũng là lý do thúc đẩy Cà Cuống tôi khai sinh ra Câu Lạc Bộ Cười, hầu mang lại cho bà con bằng hữu những tiếng cười thật sảng khoái, cho cuộc đời lên hương, và trẻ mãi không già.

ĐTC: khiêm tốn để biết Chúa, quỳ gối để làm thần học

ĐTC: khiêm tốn để biết Chúa, quỳ gối để làm thần học

Chuacuuthe.com

1

VRNs (03.12.2014) – Sài Gòn- theo news.va- Những ai muốn học biết những mầu nhiệm nơi Thiên Chúa thì cần phải quỳ gối, vì Thiên Chúa chỉ mặc khải cho những tâm hồn khiêm nhường. Đó là những lời của Đức Thánh Cha trong bài giảng Thánh lễ sáng thứ Ba, 02.12 tại nguyện đường Santa Martha.

ĐTC nói rằng: Nơi đôi mắt người nghèo có khả năng nhìn ra Chúa Kitô và qua Ngài, họ nhìn thấy khuôn mặt của Thiên Chúa. Còn những người khác muốn hiểu mầu nhiệm nơi Thiên Chúa ngoài trí thông minh ra họ cần phải “quỳ gối” để học trong một thái độ khiêm nhường, nếu không “họ sẽ không hiểu được gì cả.”

Bài giảng của Đức Thánh Cha dựa trên đoạn Tin Mừng trong ngày theo Thánh Luca (x. Lc 10, 21-24) nói về mối liên hệ của Chúa Kitô trong việc Ngài ca ngợi và tạ ơn Cha.

Chúa Giê-su cho chúng ta biết về Chúa Cha, nói cho ta biết về mối hiệp thông sâu xa bên trong Thiên Chúa. Và những ai sẽ được Chúa Cha mặc khải cho? “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn”. Chỉ có những ai có tâm hồn bé mọn mới có khả năng đón nhận được mặc khải này. Đó là những tâm hồn khiêm nhường trong lòng, hiền lành, những người cảm thấy cần phải cầu nguyện, để mở lòng cho Thiên Chúa, những người muốn trở nên nghèo trước Chúa; chỉ những ai muốn sống các mối phúc thật: một tinh thần nghèo khó”.

Do đó, nghèo chính là ân huệ sẽ mở ra cánh cửa đến với mầu nhiệm Thiên Chúa. Ân huệ này đôi khi nơi những nhà nghiên cứu thần học có thể bị thiếu.

“Nhiều nhà thần học có khả năng nghiêu cứu rất tốt, rất chuyên chăm! Nhưng nếu họ làm thần học mà không biết quỳ gối, bằng một thái độ khiêm nhường như trẻ thơ, họ sẽ không hiểu bất cứ điều gì. Việc nghiên cứu sẽ cho họ nhiều điều, nhưng họ sẽ không hiểu bất cứ điều gì về mầu nhiệm Thiên Chúa. Chỉ với ai có tinh thần nghèo khó thì mới có khả năng đón nhận sự mặc khải của Chúa Cha qua Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không như một viên đội trưởng, một vị tướng quân đội, một kẻ cai trị quyền lực. Không! Ngài giống như một chồi lộc. Như chúng ta nghe trong bài đọc I:. “Một chồi non sẽ từ gốc tổ Jesse mọc lên”. Ngài là một chồi nụ khiêm tốn, nhẹ nhàng, và hiền lành, để mang lại ơn cứu độ cho người bệnh tật, kẻ nghèo hèn, người bị áp bức.”

ĐTC cũng nói rằng mầu nhiệm nơi Chúa Giêsu là mầu nhiệm của sự khiêm nhường. Đó là mầu nhiệm mang đến “ơn cứu độ cho những người nghèo, mang lại sự an ủi vui mừng cho ngượi đau yếu, kẻ tội lỗi và những ai hoạn nạn.”

Trong Mùa Vọng này, chúng ta hãy nài xin Chúa đem chúng ta đến gần hơn với mầu nhiệm của Ngài và để làm được điều đó chúng ta hãy sống cách khiêm tốn, hiền lành, khó nghèo, cảm nhận mình là kẻ tội lỗi. Vì vậy Thiên Chúa sẽ đến và cứu chúng ta, giải thoát chúng ta. Xin Chúa ban cho chúng ta ân sủng này.

Hoàng Minh

Mạng lưới Xã hội Dân sự VN gởi thông điệp nhân ngày Nhân quyền Quốc tế

Mạng lưới Xã hội Dân sự VN gởi thông điệp nhân ngày Nhân quyền Quốc tế

RFA

Ngày Nhân quyền Quốc tế 10-12-2014

Ngày Nhân quyền Quốc tế 10-12-2014

Nhân Ngày Quốc Tế Nhân Quyền mùng 10 tháng Mười Hai, 24 tổ chức Xã Hội Dân Sự Việt Nam đã đứng chung trong bản thông điệp gửi toàn thế giới, phản đối mọi hành vi xâm phạm nhân quyền của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam trên luật pháp cũng như trong hành xử. Ngay sau khi bản thông diệp được công bố, Hải Ninh của Ban Việt Ngữ Đài Á Châu Tự Do đã có một cuộc trao đổi với Cô Nguyễn Hoàng Vy, người đại diện cho Mạng Lưới Blogger Việt Nam ký tên trong thông điệp nhân quyền 2014.

Hải Ninh: Được biết là những tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam vừa đưa ra một thông điệp nhân ngày nhân quyền thế giới, chị có thể tóm tắt nội dung của thông điệp này hay không?

Hoàng Vy: Nội dung của thông điệp mà tổ chức xã hội nhân sự đưa ra dịp kỉ niệm ngày quốc tế nhân quyền gồm có 5 nội dung chính.

Thứ nhất là phản đối hành vi xâm phạm nhân quyền của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam trên pháp luật cũng như trên hành xử. Thứ hai, yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam sửa lại Hiến pháp và luật lệ theo đúng tinh thần của bản tuyên ngôn luật pháp nhân quyền. Thứ ba, yêu cầu nhà cầm quyền trả tự do ngay tức khắc và vô điều kiện cho tất cả các tù nhân lương tâm. Thứ tư, yêu cầu nhà cầm quyền chấm dứt việc sử dụng bạo lực để chống lại các nhà hoạt động cho nhân quyền. Thứ năm, yêu cầu nhà cầm quyền phải tôn trọng những quyền tự do căn bản của con người.

” Thứ nhất là phản đối hành vi xâm phạm nhân quyền của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam trên pháp luật cũng như trên hành xử. Thứ hai, yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam sửa lại Hiến pháp và luật lệ theo đúng tinh thần của bản tuyên ngôn luật pháp nhân quyền…

Hoàng Vy”

Hải Ninh: Theo chị trong 5 điểm đó thì điểm nào chính phủ Việt Nam làm được ngay?

Hoàng Vy: Trong 5 điểm đó nếu thực tâm muốn thay đổi thì thay đổi được lập tức cả 5 điểm đó ngay bây giờ, nhưng mà để giữ được sự độc tài lãnh đạo của họ thì họ không muốn thay đổi. Chỉ có những điều họ có thể thay đổi để trao đổi với thế giới là trả tự do cho các tù nhân lương tâm để mà đổi lấy những vấn đề ngoại giao của họ.

Hải Ninh: Mình có nói là sửa lại Hiến Pháp mới theo luật nhân quyền thế giới, vậy sửa đổi hiến pháp như thế nào?

Hoàng Vy: Tức là sửa lại những điều trong hiến pháp và các luật lệ mà nó có các điều vi phạm vào các quyền tự do căn bản của người dân như là điều 4 trong hiến pháp hay là điều 88, điều 258, điều 79 những điều luật có thể bắt bớ hoặc cầm tù những người bất đồng chính kiến.

Hải Ninh: Chị mong đợi gì ở cộng đồng quốc tế khi đưa ra thông điệp này?

Hoàng Vy: Mình hi vọng là thứ nhất Việt Nam đã gia nhập và là thành viên của hội đồng nhân quyền của Liên Hợp Quốc thì với vai trò đó thì các nước trên thế giới họ giám sát chặt chẽ hơn việc thực thi dân quyền ở Việt Nam. Với uy thế ngoại giao của họ, họ sẽ áp lực lên chính phủ Việt Nam, buộc chính quyền Việt Nam phải tôn trọng nhân quyền.

Hải Ninh: Mạng dân sự việt Nam và mạng lưới blogger Việt Nam mà do chị đại diện sẽ làm gì để buộc nhà nước Việt Nam tuân thủ các vấn đề về nhân quyền?

Hoàng Vy: Cái khuynh hướng hoạt động của mạng lưới blogger Việt Nam như chúng ta đã thấy thì các blogger có các việc làm rất cụ thể để mà thúc đẩy nhân quyền ở Việt Nam từ dã ngoại nhân quyền đến chiến dịch 0258, rồi phong trào không bán nước, và mới đây là chiến dịch chúng tôi muốn biết. Khuynh hướng hoạt động của các blogger là không phát động một chiến dịch hay lựa chọn một công việc đòi hỏi những người tham gia là những người giỏi nhất can đảm nhất mới làm được. Chúng tôi muốn lựa chọn những mục tiêu cụ thể để đặt nhà cầm quyền vào thế tiến thoái lưỡng nan.

” Việt Nam đã gia nhập và là thành viên của hội đồng nhân quyền của LHQ thì với vai trò đó thì các nước trên thế giới họ giám sát chặt chẽ hơn việc thực thi dân quyền ở Việt Nam. Với uy thế ngoại giao của họ, họ sẽ áp lực lên chính phủ Việt Nam, buộc chính quyền Việt Nam phải tôn trọng nhân quyền

Hoàng Vy”

Và quan trọng nhất là phải lựa chọn những công việc đơn giản để cho tất cả mọi người ai cũng có thể tham gia, cũng có thể làm được. Mình tin rằng với hành động nhỏ bé của hàng ngàn người thì mới có thể làm nên cuộc thay đổi lớn và đó là tiêu chí là khuynh hướng hoạt động của mạng lưới blogger Việt Nam mà thúc đẩy vấn đề nhân quyền ở Việt Nam.

Hải Ninh: Khi mà chị nói đến vấn đề mà đặt nhà cầm quyền vào thế tiến thoái lưỡng nan, ý chị là thế nào?

Hoàng Vy: Tức là những việc làm của chúng tôi hoàn toàn là trên tinh thần là ôn hòa đặt nhà cầm quyền Việt Nam không thể nào có thể bắt bỏ tù những người tham gia những chiến dịch của chúng tôi như là dã ngoại nhân quyền, hoặc là ai cũng có quyền tham gia buổi dã ngoại nhân quyền, ai cũng có thể phát tuyên ngôn quốc tế nhân quyền hoặc là tham gia thảo luận về quyền con người trong các buổi cafe nhân quyền hay tham gia chiến dịch 0258, đi trao tuyên bố 0258 cho các đại sứ quán cũng như các cơ quan phi chính phủ, các cơ quan của liên hợp quốc. Ai cũng có thể tham gia vào phong trào không bán nước với những hoàng động rất cụ thể rất là nhỏ,rất đơn giản và tham gia được hết mà những điều đó không vi phạm vào bất cứ điều gì, nhà cầm quyền không thể dập họ vào bất cứ điều gì để bỏ tù họ được.

Hải Ninh: Ngoài những vấn đề vừa đề cập chị còn gì để bổ sung không?

Hoàng Vy: Chúng tôi hy vọng rằng thông điệp của chúng tôi sẽ được Liên Hợp Quốc và các nước, các cơ quan ngoại giao của các nước trên thế giới chuyển tới nhà cầm quyền, gây áp lực lên nhà cầm quyền phải thay đổi và tôn trọng nhân quyền tại Việt Nam. Bên cạnh đó thì chúng tôi cũng cam kết thực hiện việc phổ biến những kiến thức tổng quát về nhân quyền đến nhiều người dân hơn nữa để họ biết và họ quan tâm hơn nữa về vấn đề nhân quyền và cùng sát cánh với chúng tôi trong việc bảo vệ nhân quyền.

Thời Mạt Vận Của CS

Thời Mạt Vận Của CS

Vietbao.com

Gió đã đổi chiều đưa hai chế độ CS ở Trung Quốc và VN vào thời kỳ mạt vận. Đất lành chim đến, đất dữ chi đi. Dân Sàigòn là dân của thủ đô kinh tế của CSVN, một chế độ CS còn sót lại lớn hàng thứ hai, lại là 1 trong 5 thành phố trên thế giới người dân đem vốn qua Mỹ đầu tư theo qui chế đầu tư EB5 để được nhập cư ở lại như thường trú nhân, đông nhất trong năm 2014. Và Trung Cộng là chế độ CS lớn nhứt Á châu nhưng người dân đầu tư ra ngoại quốc nhiều nhứt.

Một, liên quan đến dân Saigon, tin của truyền hình IBC-TV, trích dẫn từ Hiệp hội Đầu tư Hoa Kỳ, theo một phúc trình của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, cho biết Sàigòn, cựu thủ đô của VN Cộng Hoà, hiện là thủ đô kinh tế của VNCS được xếp hàng thứ 4 trong 5 thành phố trên thế giới có người được cấp visa nhập cảnh đầu tư EB5 vào Mỹ đông nhứt. Ba thành phố dẫn đầu gồm Quảng Châu của Trung Quốc; Seoul của Nam Hàn, và Đài Bắc của Đài Loan. Thành phố Quảng Châu của Trung Quốc chiếm hàng đầu với 8.237 trường hợp được cấp visa vào Hoa Kỳ theo diện đầu tư nhập cư. Seoul có 149 trường hợp; Đài Bắc 97 trường hợp và Sài Gòn, Việt Nam với 92 trường hợp. Hạng thứ 5 là thành phố Abu Dhabi của Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất với 78 trường hợp.

Điều đáng lưu ý là Việt Nam và Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống Nhất qua mặt Nhật Bản và Mexico để lọt vào danh sách 5 thành phố hàng đầu của thế giới có nhiều thương nhân đầu tư vào Hoa Kỳ. Phúc trình này cũng tiên đoán rằng, các nhà đầu tư Trung Quốc ghi danh nhập cảnh Hoa Kỳ theo diện EB5 sẽ dẫn đầu danh sách này trong năm 2015.

Hai, dân ở Trung Cộng ra ngoại quốc đầu tư, hiện nay số vốn người TQ đầu tư ở hải ngoại lớn hơn số của các nước ngoài đầu tư vào TQ. Đầu tư của TQ ra ngoại quốc tăng lên 18% trong mười tháng đầu năm 2014. Đây là một cuộc đảo lộn của phong rào ngoại quốc đầu tư vào TQ vì nhân công rẻ. Bên cạnh những lý do tâm lý, chánh trị, TC đang bài Nhựt, cạnh tranh với Mỹ, bành trướng đụng chạm với nhiều nước Á châu Thái bình dương, còn có lý do kinh tế. Tiền lương của TQ tăng nên ngoại quốc không đưa việc làm vào TQ nữa.

Phong trào xuất ngoại đầu tư kinh doanh sản xuất này đa dạng và đa diện, khác hơn giai đoạn Đảng Nhà Nước TC mua các công ty ngoại quốc ở các nước để có đủ nguồn cung nguyên liệu quặng mỏ, lúa gạo nhập cảng vào TQ, nhứt là dầu lửa nên kinh tế TC cần đầu tư như con người cần hơi thở. Bây giờ người dân TQ lẫn các công ty của nhà nước bung ra mua lại các công ty ngoại quốc trong đủ mọi lãnh vực, từ thực phẩm đến kỹ nghệ cơ khí, và các công nghệ tiên tiến hàng đầu. Tổng số tiền TQ đầu tư ở các nước năm 2013 là 625 tỉ đô la. Con số thống kê chính thức của Nhà Nước TC cho thấy, trong vòng 10 năm, số đầu tư Trung Quốc ra ngoại quốc đã tăng gấp 30 lần.

TQ trở thành nhà đầu tư lớn thứ ba trên thế giới, chỉ đứng sau Hoa Kỳ và Nhật Bản. Mỹ và Úc là hai nước được TQ đầu tư nhiều nhất. Nhưng đầu tư của TQ ở ngoại quốc cũng có nhiều bất trắc, không phải do ngoại quốc mà do trong nước nhà, Đảng Nhà Nước kiểm soát tài chánh, đòi hỏi điều kiện đầu tư quá nhiều. Thí dụ như điều kiện đưa nhiều công nhân và chuyên viên qua, các công trường, công ty của TC có lối sống đễ gây bất mãn cho người địa phương. Nên khoảng 80% đầu tư của TQ vào các mỏ ở nước ngoài đều thất bại.

Ba và sau cùng, Mỹ là đất lành cho người Việt nhập cư và quốc gia để người ngoại quốc vào đầu tư an toàn và lợi lộc bền vững nhứt. Tiêu biểu như 39 năm người Việt của VNCH ở Miền Nam đến Mỹ định cư trong cuộc hành trình đầy gian khổ, chết chóc nhưng cuộc định cư đầy thành đạt làm vẻ vang dân Việt. Một dân tộc VN yêu tự do, dân chủ, xây dựng nhân quyền đã rõ rệt trưởng thành trong lòng văn minh Tây Phương, trải dài từ Tây Âu, sang Bắc Mỹ, xuống Úc Châu. Một VN Hải Ngoại (Việt Nam D’Outre Mer) đã thành hình, như một nước Pháp Hải Ngoại (France d’ Outre- Mer) trong thời Đức Quốc Xã tạm chiếm nước Pháp, đã đấu tranh đem lại tự do, dân chủ cho nước nhà. Mà Mỹ là trung tâm điểm vì có gần hai triệu người, hơn phân nửa số người tỵ nạn CS trên thế giới. Tại Mỹ là trung tâm chuyển ánh sáng tự do, dân chủ, nhân quyển về VN, có Little Saigon người Việt hải ngoại thân thương gọi là thủ đô tinh thần của người Việt tỵ nạn CS. Little Saigon là nơi phát khởi phong trào Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của VNCH được hàng chục tiểu bang, hàng trăm quận hạt, thành phố của hơn phân nửa dân số Mỹ thừa nhận là biểu tượng của người Việt Nam tự do.

Về chánh trị, thế quốc tế của VN Hải Ngoại mạnh hơn của chế độ CS Hà nội vì CS Hà Nội chiếm được lãnh thổ, cướp được chánh quyền, mà không lãnh đạo được nhân dân, không thống nhứt được non sông mà đoàn kết được dân tộc. Quốc Hội Liên Âu, Mỹ, Úc, trái tim của nhân dân và chánh quyền tiến bộ các nước tự do, dân chủ trên thế giới đứng về phía chánh nghĩa đấu tranh cho tự do, dân chủ của người Việt Hải Ngoại, trong thời đại kinh tế toàn cầu và dân chủ hóa hoàn vũ được văn minh Tin Học yểm trợ. Người Việt tại nhiều nước trên thế giới, nhứt là tại Mỹ đã đi vào dòng chánh chánh trị, chánh quyền, quân đội. khoa học kỹ thuật, thể dục thể thao, nghệ thuật thứ bảy, truyền thông của Tây Phương.

Về kinh tế, VN hải ngoại, người Việt đã vượt qua thời kỳ chân ướt chân ráo nơi quê hương mới, một cách thần kỳ. Tự do, dân chủ rõ rệt là điều kiện tiên quyết của phát triển kinh tế. Mỗi năm người Việt Hải Ngoại chỉ gởi cho không để giúp bà con cô bác, bạn bè – chơi chơi thôi – con số đã trên mấy tỷ Đô la. Theo thông lệ số tiền gởi cho của những người định cư ở Mỹ như dân Hispanics, Phi luật Tân, Trung Đông, số tiền cho chỉ chiếm dưới 5%, số tiền kiếm được. Lợi tức đồng niên hải ngoại tính trên đầu người nhiều hơn cả trăm lần trong nước. Theo Ngân Hàng Thế giới trung bình một người Việt trong nước chưa đến 450 Đô/năm

Về văn hóa xã hội, tại Mỹ cũng như tại Tây Âu, Úc Châu, tuy chưa có số thống kê khoa học, con số ước lượng người Việt Hải Ngoại tốt nghiệp đại học 4 năm trên 25% dân số hải ngoại. Nói gọn cứ 4 người Việt Hải Ngoại thì có 1 người tốt nghiệp đại học 4 năm tại các trường đại học trình độ giảng huấn văn hóa, khoa học, kỹ thuật tân tiến nhứt hoàn cầu. “Chất xám” của người Việt Hải Ngoại là cái CS Hà nội thèm muốn nhứt, nhưng dù khan cổ gọi mời, trí thức VN Hải Ngoại đi VN thăm quê hương, thăm người thân thì có, ở lại với CS thì không.

Tiếng Việt hải ngoại đã tiến triễn theo đà tiến hóa của ngôn ngữ, tiếp nối dòng ngôn ngữ Việt của người Việt Quốc Gia trong bao thời kỳ độc lập VN, Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn, Đệ nhứt, Đệ Nhị Cộng Hòa, và vẫn trường tồn và phát triển sau 3 lần Bắc Thuộc, 1 lần Pháp Thuộc, và CS đọa đày. Những “từ CS” như “hồ hỡi, phấn khởi, sô vanh, ưu việt, đồng tình”, thành tử ngữ (langue morte). Ở hải ngoại người Việt còn phát huy thêm những chữ nghĩa liên quan đến chánh trị tự do, dân chủ và khoa học kỹ thuật là những chữ VN còn thiếu vì hoàn cảnh lịch sử và chiến tranh của nước nhà trước năm 1975. Báo chí, truyền thông sách vở hải ngoại phát triễn ngoài sức tưởng tượng. Điều đó cho thấy quyền lực mềm của tự do, dân chủ đã làm gió đổi chiều đưa đẩy CS vào thời kỳ mạt vận./.(Vi Anh)

Thôi cũng đành một kiếp trăm năm,

“Thôi cũng đành một kiếp trăm năm,

đời người sẽ qua.”
“Cũng đành một thoáng chiêm bao,tình người cũng xa.
Cũng phôi pha,những điêu ngoa theo vết môi cười tàn tạ.

(Từ Công Phụng – Chiếc Que Diêm)

(Lc 19-29-31/1Cr 12: 13)

Trần Ngọc Mười Hai

“Một kiếp trăm năm” ư? Ối chao, mọi sự rồi cũng xong và “đời người rồi (cũng) sẽ qua”. “Một thoáng chiêm bao” sao? Ối chà! Quả thật “tình người cũng xa”, “vết môi cười (rồi cũng) tàn tạ”, mà thôi.

Vâng. Đúng là như thế! Đời người và tình người, nào khác xa những thứ và những sự như tình của người đời, giống truyện kể để mào đầu cho chuyện thần-học, khô lông lốc. Trước hết, ta hãy nghe câu truyện kể cũng ngắn gọn, ở bên dưới:

“Truyện rằng:

Có chàng trai nọ, đi đây đó rất nhiều ngày trong đời mình. Ấy thế mà, anh vẫn không cẩn trọng, để đến nỗi gẫy mất ống quyển ở chân trái, đành phải bó bột cũng khá lâu. Thoạt vào lúc tháo băng, bác sĩ có xem xét rồi dặn dò anh đừng nên đi cầu thang nữa, kẻo bị lại như lần trước. 4 tháng sau, anh trở lại phòng mạch bác sĩ nói trên để tái khám, đã vội hỏi:

-Thưa bác sĩ, nay tôi đi cầu thang được chưa?

-Được thì vẫn được! Nhưng, anh vẫn phải thật cẩn thận đó, kẻo nguy to.

Nghe vậy, anh bèn thở phào nhẹ nhõm rồi tuyên bố với phân trần, rằng:

-Đỡ quá chừng chừng. Mấy tháng nay, làm thằng bé cứ phải trẻo qua cửa sổ rồi tuột theo đường ống nước, đến là cực!”

“Đến là cực”, còn là trải-nghiệm vẫn nhận thấy đằng sau câu hát của ai đó, hay của người nghệ-sĩ vẫn hát những câu sau đây:

“Thôi cũng đành một kiếp phong ba, lệ tình cũng xa.
Xuống đời ta những nguôi ngoai, rồi người cũng xa.
Cũng xa ta, cũng xa ta theo dòng nghiệt ngã mù lòa.
Vì lời em sớm muộn gì cũng một lần gian dối.
Tình anh sớm muộn gì cũng đưa vào tăm tối.
Đời anh sớm muộn gì…
Đời em sớm muộn gì…
Tình ta sớm muộn gì… cũng hấp hối!…
Rót cho đầy hồn nhau, đắp cho đầy đời nhau,
những men nồng tình sâu rã rời.”

(Từ Công Phụng – bđd)

Những câu như thế, hát hoài hát mãi vẫn không chán. Nhưng, sao nghệ sĩ nhà mình lại cứ thêm những câu chưa quen tai, như thể để ví von đời mình, như:

“Thôi cũng đành như chiếc que diêm một lần lóe lên.
thắp đời em sáng lung linh, buồn một cõi riêng.
Những đêm sâu, những canh thâu,
nghe nước mắt nặng giọt sầu.
Thôi cũng đành như kiếp rong rêu, một lần hóa thân.
cuốn về phong kín tim ta một đời chói chang.
Những đam mê, những ngô nghê.
với tình người nhỡ lời thề,
Thôi cũng đành như tấm gương tan, mờ phai vết xưa.
Xót giùm cho tấm thân ta ngựa bầy đã xa.
Những đêm mơ thấy tan hoang.
Hương tình vừa chớm muộn màng.

(Từ Công Phụng – bđd)

Ấy đấy! Đời người và đời mình đẹp như thế, mà sao người xưa vẫn cứ hát hò và so sánh với que diêm hay que củi, đến là tàn tạ.

Vốn là nghệ sĩ, thôi thì anh có ví-von so-sánh với đời người thế nào cũng được. Đằng này, đường đường một đấng anh-hào, ở nhà đạo, mà anh lại cứ “nhi nhô” dăm ba câu tuyên bố với giảng giải những điều mà mọi người đều nghe từ thời đức thày Alexandre de Rhodes, thế mới chết không.

Vâng. Nhắc đến cố đạo thời cổ, bần đạo lại nhớ đến sự-kiện xảy đến vào năm 2012 khi ghé viếng thủ-phủ mang tên Esfahan ở Iran, bất chợt gặp được mộ-phần của vị cố đạo vinh-quang một thời làm thừa sai tiên-phong ở miền đất rất A-na-mít, nhưng lại lìa trần chốn lặng thinh lặng ở miền đất, rất đạo Hồi. Cố đạo Alexandre De Rhodes (1591-1660), mà tiếng Việt mình lại phiên-âm là: A-Lịch-Sơn Đắc-Lộ nghe chẳng khác nào A-lịch-Sơn Đại Đế, đến là thế.

Phải công nhận, là: cố đạo A-Lịch-Sơn rất Đắc Lộ từng có công-đầu đậm-sâu với nền ngôn-ngữ La-Bồ-Việt một thời. Nhưng, về thần-học, đức thày lại chuyên-chở mãi hình-thức sống đạo rất ư “buồn tình” mà người đời nay cứ diễn tả bằng những “câu chuyện đời” đầy ý-nghĩa của chuyện anh đã hứa, như thứ văn hoá của những hứa hẹn như sau:

“Hứa và hẹn rằng:

“Anh sẽ nhận em làm vợ, và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với em. Khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, lúc ốm đau hay khi khỏe mạnh, lúc hoạn nạn hay khi bình an, anh hứa sẽ yêu thương và tôn trọng em mỗi ngày, suốt đời anh.”

Đám cưới diễn ra một cách tốt đẹp. Cô đồng ý lấy anh, một nhân viên IT khô khan và ít lãng mạn. Còn cô là giáo viên dạy vũ đạo, duyên dáng và xinh đẹp, các chàng trai theo đuổi cô không ít. Và, cũng không ai lọt vào mắt xanh của cô. Nhưng khi anh đến, anh yêu cô bằng tình yêu chân-thành và hoàn-toàn lấy lòng gia đình cô, bạn bè cô cũng ủng-hộ anh. Anh làm việc lương không cao, cũng không đẹp trai, thậm chí anh không phải là mẫu người cô thích, thế mà cô lại lấy anh. Đôi lúc, cô cũng không hiểu vì sao cô lại đồng ý lấy anh.

Sau đám cưới, anh và cô ra riêng, cuộc sống của hai người dù ít tiếng cười nhưng chưa bao giờ có chuyện cãi cọ, buồn phiền; và, cô thấy anh cũng không đến nỗi khô-khan như cô nghĩ, những ngày lễ như valentine, 8/3…. Cô đều có hoa quà từ nơi anh. Có thể nói, anh là người chồng rất tốt. Hàng ngày anh chở cô đến chổ dạy, rồi mới đến công-ty làm việc. Cuối tuần, anh chở cô về bên ngoại, hoặc gặp-gỡ bạn-bè. Và, anh luôn cố gắng làm cho cô hạnh-phúc.

Nhưng rồi cuộc sống đã không cho họ hạnh-phúc được lâu dài, lại phải đối mặt với cuộc sống mới, một cuộc sống thật khó chấp nhận… Một hôm, đang làm việc, anh nhận được điện-thoại của cô, nhưng không phải là cô mà là giọng nói khác:

-Xin lỗi, anh có phải là chồng của chị Diễm không ạ?

-Ai đang dùng điện thoại của vợ tôi vậy.

-Em cùng làm với Diễm, anh…anh vào bệnh viện ngay đi, Diễm mới bị tai nạn, đang cấp cứu ở bệnh viện Chợ Rẫy.

-Sao…Sao vậy, có chuyện gì với Diễm vậy, giọng anh như lạc đi, nghẹn ngào, anh không tin vào chuyện đang xảy ra.

-Anh vào bệnh viện nhanh đi.

Nói rồi người đó cúp máy mà không giải thích gì thêm. Anh lo lắng, hoảng hốt chạy vào bệnh viện, một lúc sau ba mẹ anh và ba mẹ cô ấy cũng đến, mọi người đều không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Sáng nay, anh và cô đang vui vẻ ăn sáng với nhau, thế mà….

Sáu tiếng phẩu thuật là sáu tiếng anh đứng ngồi không yên, lòng như lửa đốt. Thấy vị bác sĩ trọng tuổi bước ra khỏi phòng phẫu-thuật, anh hỏi:

-Vợ tôi sao rồi, bác sĩ?.

-Tạm thời cô ấy đã qua cơn nguy kịch, còn phải ở lại bệnh-viện để kiểm tra thêm- ông thở dài- nhưng có lẽ cô ấy khó mà đi lại được. Thông báo của bác sĩ làm anh chết lặng, cô là giáo viên vũ đạo, nếu không đi lại được thì chắc cô chết mất, anh đến bên cô, nhưng không biết nên nói gì. Lúc đó anh ao-ước, giá như anh chịu đựng được những gì cô đang gánh chịu… Nhưng đó là điều không thể xảy ra.

Sau ba tuần ở bệnh viện, cô về nhà trên chiếc xe lăn, khuôn mặt phờ phạc, cả ngôi nhà như u-ám hẳn đi. Từ khi cô biết cô không thể đi lại được nữa, thì mọi thứ xung quanh cô dường như đã chết. Cô không thể nhảy múa được nữa, nghĩa là không thể làm những gì cô yêu thích; với cô, như thế chẳng khác nào chết nửa cuộc đời..

Và cũng từ đó, anh cố gắng để thấy cô cười, bây giờ, mọi việc trong nhà đều do anh một tay sắp xếp, từ giặt dũ đến nấu ăn. Cô thì vẫn thế, lúc nào cũng u buồn.

Mỗi buổi sáng, anh cố gắng dậy sớm, dọn điểm tâm cho cô ăn, anh luôn gọi cô dậy sau khi mọi thứ đã chuẩn bị xong.

-Bà xã!, dậy ăn sáng đi, anh chuẩn bị xong hết rồi- anh vừa nói vừa lay cô dậy

-Anh để em yên. Em không thích ăn gì hết, để em yên- cô gắt lên.

Anh để chiếc xe lăn bên cạnh giường và chuẩn bị đi làm, chính anh cũng không biết nên làm gì để cô thoát khỏi hoàn-cảnh hiện-tại. Bây giờ gánh nặng gia-đình đặt cả lên vai anh, tai nạn của cô cũng đã tiêu-tốn hết số tiền mà hai vợ chồng dành-dụm được, giờ anh phải làm việc thật cật-lực, để có tiền lo cho cô, nhưng anh chưa bao giờ bỏ cuộc hay gục ngã, ngoài công việc ở công-ty anh còn nhận thêm các công việc khác như: thiết-kế trang “web”, lập-trình phần mềm, bất cứ việc gì có thể làm ra tiền anh đều làm, đêm nào anh cũng thức đến nửa đêm. Và, anh vẫn luôn yêu cô như ngày nào. Và, cô nhờ anh cũng dần dà lấy lại được niềm tin trong cuộc sống.

Anh cố gắng tiết-kiệm để mua thêm cho cô một cái “laptop” để cô tiện nói chuyện với bạn bè, khỏi lạc lõng những lúc vắng anh. Mỗi chiều đi làm về, anh đều đưa cô dạo quanh khu phố, để cô tìm được chút niềm vui. Anh nấu những món ăn cô thích, ở đâu có bác sĩ giỏi anh đều sắp-xếp thời-gian đưa cô đi chữa bệnh. Anh chưa bao giờ từ bỏ, luôn động-viên cô phải cố-gắng, nỗ lực. Công việc chăm-sóc của anh làm cho cô thấy ấm lòng, cô không còn tự-ti vì đôi chân tàn-tật nữa, cô bắt đầu học cách chấp-nhận nó. Nhưng đôi khi, vì sự chăm sóc của anh khiến cô thấy tủi thân, cô thấy mình mắc nợ anh nhiều quá

Một hôm, đang giặt quần áo thì nghe tiếng xoong chảo leng keng trong nhà bếp, anh chạy vào thì thấy cô đang cố gắng để nấu món gì đó

– Em đang làm gì vậy?

– Hì, em định nấu bữa tối- cô nhoẻn miệng cười.

– Thôi, em nghỉ ngơi đi, mấy chuyện này để anh lo.

– Nhưng mà em muốn nấu- cô phụng phịu

– Cái bếp cao vậy sao em nấu được, cứ để đó cho anh, em không thấy là anh phải lo đủ chuyện rồi sao, đừng làm anh lo lắng thêm nữa…

Cô lặng lẽ đẩy xe vào phòng, mắt nhòe đi. Cô thấy mình thật vô dụng, những việc tầm-thường của đàn bà con gái mà cũng không giúp được anh. Mấy ngày sau cô vẫn buồn vì chuyện đó.

Anh càng chăm sóc cô, cô càng thấy mình vô dụng, đôi lúc ý-định tự-sát chợt lóe lên trong đầu cô, nhưng cô đã không làm thế, vì cô rất yêu anh. Mỗi đêm, anh ôm cô và thì thầm: “Ngủ ngon em nhé, mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi”. Nhưng cô chưa kịp say giấc thì anh lại trở dậy, lại lọc cọc/lạch cạch với máy tính khô-khan, tự nhiên lòng cô quạnh thắt, rồi những suy-nghĩ mong-lung cứ chập chờn trong đầu cô: “Nếu không vì mình, anh đâu phải khổ-cực như vậy, tất cả là tại mình, giờ mình nên làm gì đây. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu cô: LY HÔN.

Chiều hôm sau, khi anh vừa đi làm về, trên bàn đã có sẵn tờ giấy, anh cầm lên đọc, nét mặt sa sầm lại, đó là đơn ly-hôn, cô đã viết và đã ký.

– Cái này là sao đây- anh chìa tờ giấy ra trước mặt cô

– Em không muốn làm khổ anh nữa, anh ký đi

Anh suy nghĩ một lúc rồi hỏi lại cô: “em thực sự muốn anh ký thật chứ?”. Cô nhìn anh gật đầu. Anh im lặng, đi chuẩn bị bữa tối, ăn xong thì anh đi đâu mất. Tối đó, cô ở một mình, rất lâu rồi cô mới ở một mình trong đêm tối, tự nhiên cô thấy lạc lõng, nỗi cô đơn như đang gặm nhấm dần trái tim cô.

Đã nửa đêm, anh vẫn chưa về, “anh đi đâu?” Cô bắt đầu lo lắng và không biết nên làm gì ngoài việc khóc, cô thấy nhớ anh vô cùng, rồi cô ngủ thiếp đi. Khi thức giấc đã là 9h sáng, anh vẫn chưa về, cô trở mình, phải khó khăn lắm cô mới lên được chiếc xe lăn, cô đẩy xe đi một vòng quanh nhà, sao mà cảm giác u-ám quá, cô muốn ăn cái gì đó, nhưng chẳng ai giúp được cô lúc này. Đành vậy, cô quay về phòng, chẳng biết làm gì, đầu óc trống rỗng.

Khoảng 11h thì anh về, tay cầm ít rau củ, để nấu bữa trưa. Sau một lúc thì xong, anh đẩy cô ra bàn ăn. Cô chẳng nói gì, chỉ lặng lẽ ăn, cũng không dám nhìn anh. Đang ăn thì anh nhìn quanh và nói:

– Anh mới vắng nhà có một đêm, sao mà bừa bộn quá vậy, chén bát chẳng ai rửa, quần áo cũng chẳng ai giặt, nhà cửa cũng chẳng ai lau, nói rồi anh thở dài…

Tự nhiên cô thấy miếng cơm trong miệng chát đắng, cô biết anh đang trách móc cô, nhưng biết làm gì hơn. Rồi anh nói tiếp:

– Còn em nữa, chân em như vậy, bộ muốn anh ký vào tờ giấy đó thật hả?

– Dạ…em trả tự do cho anh, em không muốn anh phải khổ vì em nhiều nữa

– Thế anh ký rồi em sẽ ra sao, em suy nghĩ kỹ chưa?

– Rồi anh à

– Không hối hận chứ? anh ngừng đũa hỏi.

– Thì em đã ký rồi, giờ chỉ còn anh quyết định thôi.

Anh rời bàn ăn, một lúc sau anh quay trở lại, trên tay anh cầm một con lật đật bằng gỗ, ngày xưa anh tặng cô, anh để con lật đật xuống bàn rồi đẩy nó ngã xuống, nó lại đứng bật dậy như chưa từng ngã, anh nói:

– Cuộc sống có đôi lúc làm chúng ta gục ngã, nhưng chúng ta phải biết cách đứng dậy em à, em tàn tật thì sao chứ, không đi được thì sao chứ, hãy để anh làm đôi chân cho em nhé, đừng có tự-ti nữa.

Mắt cô bắt đầu nhòe đi vì những lời anh nói.

– Nhưng em….

– Không có nhưng nhị gì hết, em có nhớ những gì anh đã nói trong hôn lễ không, anh hứa sẽ yêu thương và tôn trọng em suốt đời anh, dù có chuyện gì xảy ra- anh nắm lấy tay cô- hãy để anh thực-hiện điều đó em nhé, Anh Yêu Em!!!.

Cô òa khóc như một đứa trẻ, những giọt nước mắt hạnh-phúc lăn dài trên má cô

– Em xin lỗi, em không bao giờ để anh phải buồn nữa đâu, em cũng yêu anh.

Anh đưa tay gạt đi những giọt nước mắt trên má cô:” Đừng khóc nữa, nước mắt hòa với cơm mặn lắm đó, em biết không hả?” (Truyện kể do tác già “St” sưu-tầm và phổ-biến)

Đọc đến đây, hẳn sẽ có ai đó nhạt-nhoà nước mắt? Nghe truyện kể do nhứng người từng sống trong đời kể về đời người, nhà Đạo mình hẳn sẽ tưởng tượng tình-huống ấy, như những thứ mà cố đạo xưa lại gọi đó là “luyện ngục” hoặc tệ hơn, là: “hoả ngục cuộc đời”, tức: toàn những ngục và ngục, thôi.

Những là, ngục-thất, ngục-tù hoặc ngục … ngã đểu chỉ về nơi chốn con người chôn-chặt con người bằng hận-thù, tức: một hình-ảnh nào đó hiểu theo nghĩa bóng, chứ làm gì có thật.

Thế nhưng, nghe “cố đạo” thời nay giảng-giải ở nhà thờ hoặc trên báo/đài cổ-lỗ-xĩ, hẳn người đọc và người nghe tưởng chừng “cố đạo” A-Lịch-Sơn Đắc-lộ vẫn còn sống ở đâu đó, xứ Ba Tư lừ-đừ Iran/Iraq, đến sợ. Quả thật, không gì sợ bằng, mãi đến hôm nay, mà đức thày John Flader ở Tuần Báo Công Giáo Sydney, vẫn “sát khí đằng đằng” một lời kể, như sau:

“Khi có ai lại ngờ-vực về một khía-cạnh của niềm tin qua đó ta không tìm ra chứng cớ nhãn tiền về chuyện đó, thì cũng khó mà thuyết-phục được họ, dù cho ta có sử-dụng bao nhiêu là luận cứ hoặc “bằng chứng”, cũng đành thôi.

Chắc bà con mình còn nhớ dụ ngôn Chúa kể để tả về người giàu có nọ và ông Lazarô trong đó người giàu có ấy nay đang ở hoả-ngục, cố nài-nỉ Abraham gửi Lazarô về lại nhà cha mình như sau:

Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Ladarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!” Ông Ápraham đáp: “Chúng đã có Môsê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó”.  Ông nhà giàu nói: “Thưa tổ phụ Ápraham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối”. Ông Ápraham đáp: “Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin”. (Lc 16: 29-31)

Vì thế nên, ta không thể trông mong những người đa-nghi ấy lại có thể tin vào là có hoả-ngục cho dù ta có bảo họ là: đã có nhiều người từng thấy cảnh hoả-ngục. Quả thật, trên đời này vẫn còn những người như thế…” (xem Lm John Flader, Is there a hell? You can sadly bet on it, The Catholic Weekly 23/11/2014 tr. 26)

Nếu bạn và tôi, ta gọi những-người-không-tin là hoả-ngục-có-thật một nơi chốn, họ đều là những người đa-nghi cứ nghi-kỵ, nghi-ngờ hoặc nghi-vấn nhiều thứ, thì ngày nay con số những người như thế chừng như lên đến gần 6 hoặc 7 tỷ rồi, phi trừ trường-phái tin và hiểu theo kiểu đức thày nhà đạo tên John họ là Flader ở Sydney, thôi.

Thôi thì, đức thày nay đã già lại cứ chuyên chăm chuyện giảng dạy giáo-lý/sách phần của “thời cổ” thì một ngày rất gần đây, đức ngài cũng sẽ “diện kiến” ngục thất đầy những lửa mà chữ nho hoặc tiếng nôm ta gọi cách nho-nhã là “hoả-ngục”, cũng chẳng sao.

Vấn-đề là: ngày nay, làm sao thuyết-phục được giới-trẻ đến nhà thờ để nghe “cố đạo” thời-đại vẫn níu kéo nền thần-học cổ-lỗ đến chết được. Chết nhiều hơn và nhiều nhất, vẫn là câu kết của đức thày ở bài viết trên, có câu “thòng” rất ư là chắc nịch, như sau:

“Vậy thì, có hoả-ngục thật đấy. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những ai mà ta nghĩ là đang sống xa vời Chúa để họ ăn-năn hối cải và đừng tới nơi đó. Có thể lời cầu của ta sẽ cứu họ.” (xem Lm John Flader, bđd)

Thôi thì, cãi vã tranh luận mà làm gì, khi ngôn-từ và ý-niệm khô-khan, trừu-tượng của thần-học cổ-lỗ mà lắm khi bạn và tôi, ta cứ tưởng đó là lối học về thần rất chính-mạch có chính-đáng chăng?

Tốt hơn hết, có lẽ ta nên sống thực lời dạy theo đúng ý tác-giả Tin Mừng viết và sống những 40 hoặc 70 năm sau thời đại Đức Giêsu từng sống. Các tác-giả Tin Mừng từng đặt vào miệng Thày Giêsu mình những câu khuyên/lời dạy chỉ mang tính văn-hoá của người xưa, rất Do-thái, mà thôi.

Thôi thì, ta cũng nên đi vào lời khuyên/dạy đầy hưng-phấn của các đấng bậc rất thánh trong Đạo từng đúc-kết ý-nghĩa Lời Thày dạy, bằng câu nói để đời nhưu sau:

“Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn,

mai sau tôi sẽ được biết hết,

như Thiên Chúa biết tôi.

Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến,

cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến.”

(1Cr 13: 13)

Với người đời, chí ít là người ngoài đạo, thì sống “đức mến cao trọng hơn cả”, là sống bằng những tư-tưởng rất đúng đạo-làm-người, như truyện kể làm kết-luận ở bên dưới:

“Tại vùng trang trại xa xôi, có người nông-dân nọ, năm nào cũng trồng được những cây ngô rất tốt. Năm nào ông cũng mang ngô tới hội-chợ liên-bang và năm nào ngô của ông cũng đạt giải nhất. Ai cũng cho rằng ông có những bí-quyết riêng độc-đáo. Có lần, một phóng-viên đến phỏng-vấn ông phát-hiện ra rằng: nông-dân này luôn san-sẻ những hạt giống ngô tốt nhất của mình với hàng xóm ở trang trại xung quanh.

Ông bèn hỏi:

– Tại sao bác lại chia những hạt giống tốt nhất đi, trong khi năm nào họ cũng đem sản-phẩm đến cùng một hội chợ liên-bang để cạnh-tranh với sản-phẩm của bác vậy?
– Anh không biết ư, gió luôn thổi phấn hoa và cuốn chúng từ trang trại này sang trang trại khác, từ cánh-đồng này sang cánh-đồng khác. Nếu những người hàng xóm quanh tôi chỉ trồng được những cây ngô xấu thì việc thụ phấn do gió rõ ràng sẽ làm giảm chất-lượng ngô của chính trang-trại của tôi. Tức là, nếu tôi muốn trồng được ngô tốt, tôi cũng phải giúp những người xung quanh trồng được ngô tốt đã!

Cuộc sống cũng như vậy. Những người muốn được hạnh-phúc phải giúp những người sống quanh mình hạnh-phúc. Những người muốn thành-công phải giúp những người quanh mình thành-công. Giá trị cuộc sống của bạn được đo bằng những cuộc sống mà bạn “chạm” tới. (trích truyện kể do một vị ký tên là “St” từng sưu-tầm, mới vừa gửi lên mạng).

Nghe kể thế rồi, thiết tưởng bạn cũng như tôi, ta cứ âm-thầm cất lên lời ca tiếng hát rất vang vọng một nhắn-nhủ, bảo rằng:

“Tình ta sớm muộn gì… cũng hấp hối!…
Rót cho đầy hồn nhau, đắp cho đầy đời nhau,
những men nồng tình sâu rã rời.”

(Từ Công Phụng – bđd)

Vâng. Hãy “rót cho đầy hồn nhau”, “những men nồng tình sâu”, rồi ra cuộc sống của bạn và của tôi, cũng sẽ đong đầy nhiều ý-nghĩa. Những ý và nghĩa của thứ tình thương-yêu rất đẹp trong đời. Dành cho hết mọi người.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn không tin hoả ngục

như nơi chốn

nhưng còn tin vào thiên-đàng

như tình-huống đàng hoàng

Có kềm hãm giữ mình khi giận tức,

“Có kềm hãm giữ mình khi giận tức,”

Có thứ tha những kẻ nghịch ghét ghen.

Thì tâm hồn mình sẽ mạnh thêm lên.

Sớm nhận thức đâu là phần thưởng thật.”

(Dẫn từ thơ Nguyên Đỗ)

Mc 1: 1-18

Mai Tá lược dịch

Kềm giữ với hãm mình, còn gì bằng vào lúc mình đang thèm khát. Thèm và khát, không chỉ bây giờ hoặc mai sau, nhưng cả vào mọi tuổi, mọi thời như tâm-tình của chú bé Đanien, kể bên dưới.

Mùa vọng năm ấy, chú bé Đanien tự dưng chạy đến ôm hôm người mẹ hiền, đề nghị một yêu cầu rất nhỏ: “Quà Giáng Sinh năm nay, mẹ nhớ mua cho con một chiếc xe, mẹ nhé.” Nghe lời xin, người mẹ giựt mình, nhưng vẫn từ tốn đáp lại: “Con ạ, nhà mình còn nghèo, mẹ không đủ sức mua xe cho con đạp chơi đâu. Hay là, con chạy đến xin Chúa Hài đồng, xem sao!”

Bé Đanien bèn chạy vào bàn, viết ngay một lá thư ngắn đại ý nói:

Chúa dấu yêu, con biết mình phải thật là ngoan mới được Chúa cho quà. Con nay đã ngoan từ hồi khuya sớm. Vậy, con xin Chúa cho con một chiếc xe đạp nho nhỏ thôi. Chúa nhớ gửi xuống cho con nhé.

Ký tên Đanien.

Viết xong, đọc lại thấy không ổn. Đanien nghĩ lại, mình đâu có ngoan gì cho lắm, mà dám xin món quà lớn lao như thế. Nghĩ vậy, bé xé thư đi rồi viết lại:

“Chúa dấu yêu ơi. Để con kể Chúa nghe nhe. Suốt năm rồi, con là đưa bé khá ngoan. Con muốn xin Chúa một chiếc xe đạp, chạy chơi. Chúa đồng ý cho con nhé.

Ký tên: Đanien của Chúa.”

Viết xong, bé Đanien lại nghĩ: Viết thế này, cũng chưa được đúng cho lắm, lại xé thư, viết lần nữa:

“Chúa Giêsu bé nhỏ của con ơi, lâu nay con vẫn nghĩ con là đưa bé ngoan và giỏi. Có thể nào Chúa cho con một chiếc xe đạp được không?

Ký tên, Đanien.”

Cuối cùng, bé nghĩ: “vẫn không xong. Phải làm thế này, mới chắc ăn”. Đanien chạy một mạch đến nhà thờ. Bưng đại bức tượng nhỏ nơi máng cỏ mang vể cất dưới gầm giường để mẹ mình khỏi la mắng, rồi viết một thứ khác, đầy doạ nạt:

“Chúa mên yêu, con vừa trót dại phạm một điều răn, là: làm bẹp mất búp bê của nhỏ em con, và nhiều chuyện khác khủng khiếp hơn. Con ôm tượng Mẹ Maria về nhà con rồi. Chúa có muốn nhìn lại Mẹ của Chúa dịp Giáng sinh này, thì phải tặng cho con chiếc xe đạp mới. Chúa biết mình phải làm gì rồi, phải không?”

Lời lẽ trong thư Đanien viết cho Chúa Hài Đồng, giống hệt thư tống tiền của băng đảng ngoài đời. Trong đời thường, chuyện của Đanien cũng na ná đôi chút chuyện của nhiều người chúng ta. Nhiều lúc, ta vẫn nghĩ là mình có thể cù cưa/mặc cả với Chúa, rất nhiều điều, để đạt ý mình mong ước. Tuy nhiên, các vụ kèo nài/mặc cả như thế thường không xứng với niềm tin của người tín hữu Đức Kitô, nhất thứ trong khung cảnh mùa Vọng.

Tình huống kèo/trả giá là yếu tố xưa cũ vẫn còn lưu lại nơi đầu của tác giả lịch sử thánh khi ngài viết bài đọc, như: sấm của tiên tri Isaya, như thánh vịnh 84, thư của thánh Phaolô và cả đến Phúc Âm thánh Mác-cô nữa, nhất nhất bộc lộ tâm trạng kèo nài/hạch sách, thế nào đó.

Các bài đọc hôm nay, nhắc nhớ ta một điểm: Đức Chúa vẫn yêu thương loài người. Ngài chẳng bao giờ giữ lại điều gì riêng cho Ngài. Và, khi chấp nhận thân-phận bọt bèo của người phàm có da có thịt, thì Ngài vẫn làm tất cả để ta nhận ra được tình thương yêu cứu-độ, Ngài tặng không. Ngài đã trưng-dẫn tình thương yêu của Ngài bằng chính cuộc sống, để ta theo đó mà làm.

Thành thử, ta phải sống cuộc đời Ngài tặng ban, ăn ở cho công-minh chính-trực và biết thương-yêu ở mức cao độ. Từ đó và qua đó, ta mới thay-đổi được thế-giới đời thường ta đang sống; hầu biến cải thế-giới nên tốt đẹp hơn.

Các tình-huống cuộc đời trong đó ta cứ kèo nài/trả giá với Chúa, vẫn thấy dẫy đầy trong thần-học, cũng như kinh-nguyện/phụng-vụ. Tệ hơn nữa, có nhiều tình-huống ta cứ ngụp lặn trong các thói tật giống như thế, từ thế-hệ này sang thế-hệ khác. Thậm chí, có người còn cả gan trả giá với Chúa bằng nhiều hình thức, rất cầu xin. Thương thảo. Tỉ như câu:

“Lạy Chúa, nếu Chúa giúp sức cho con qua được đại hạn kỳ này,

nghĩa là: ăn như cũ, ngủ như xưa, nhất định con sẽ ăn ở tử tế hơn..”

Có bạn trẻ, chẳng ngại-ngần đánh bạc cả với Chúa. Nghĩa là, có lời lẽ như:

“Lạy Chúa, con xin hứa: con sẽ quay về đi lễ trở lại như lúc trước,

nếu như Chúa cho con thi đỗ khoa này..”;

hoặc:

“Con hứa sẽ cho cháu nhỏ rửa tội và theo Đạo,

nếu như Ngài cho con làm đám cưới/hỏi cho suông sẻ, trót lọt.

Nhất định con sẽ làm như thế..”

Tệ hơn, có người còn thưa với Chúa, như sau:

“Chúa cho con trúng số đi,

con sẽ cúng dâng nhờ một nửa số tiền con lãnh được, để giúp người nghèo…”

Kèo nài/trả giá, thật chẳng hợp với lẽ Đạo, chút nào. Tuy nhiên, Hội thánh cũng chẳng nên trách móc một ai. Tốt hơn, Hội thánh cứ tự nhận trách nhiệm, rồi sẽ sửa đổi não trạng ù lì/chai sạn của dân đi Đạo.

Vào thời đầu, Kinh thánh đã đưa ta về với những lời khuyên nhắn của thánh Gio-an Tẩy Giả, về: sự sống, nỗi chết và sự Phục sinh quang vinh của Chúa. Cả về việc Chúa Thánh Linh vẫn tiếp tục hoạt động trong ta. Ở đây. Bây giờ.

Kinh thánh cũng dạy ta, rằng: ta thật có phước được Chúa cam chịu mọi hiểm nguy, rủi ro của một bội phản, để ta hiểu rõ thế nào là sống chung với thế giới. Sống trong hiện tại, và cho mai ngày. Chúng ta vẫn ôm trọn vào mình cả một mùa Vọng hôm nay, lẫn các mùa lễ khác trong niên lịch phụng vụ. Nơi đó, chứa đựng mọi chân lý ngàn đời.

Từ đó, ta được dặn là hãy loan truyền Tình thương yêu của Đức Chúa. Ngài gỡ bỏ mọi quyền năng mà Ngài có, để đến với loài người qua thân phận hài nhi bé bỏng. Đấy không phải là hành vi của người chỉ kèo nài, trả giá. Đấy, là diện mạo Đức Chúa, Đấng rất mực thương yêu.

Mùa Vọng năm nay, ta đừng để mình trở thành người con bé nhỏ chỉ biết kèo nài/trả giá với các tay độc quyền đòi thiện chí. Cũng chỉ nên nguyện Chúa Nhân Hiền xin Ngài gửi đến với ta, những gì thật cần thiết, đáng ban ân.

Nguyện cầu để cùng hiệp thông, với nhau. Cầu và nguyện, nhưng vẫn tin rằng Đức Chúa đã nghe tiếng ta khẩn cầu. Chính vì Ngài đã nghe tiếng ta cầu nài, nên Ngài mới cho ta Tình yêu đích thực hiển hiện nới Đức Kitô, Con của Ngài.

Trong tinh-thần hiệp-thông cùng nhau nguyện-cầu, ta lại ngâm vang lời thơ trên rằng:

“Có can-đảm, cả khi mình nhút-nhát,

Có khôn-ngoan trong lúc rất hoang-mang.

Có hiên-ngang cả những lúc đầu hàng,

Mới cảm được cõi hồn cao muôn trượng.”

(Nguyên Đỗ – Mỗi Kinh Nghiệm, Một Bài Học)

Can-đảm cả khi nhút nhát, còn là đức-tính và kinh-nghiệm để đạt “cõi hồn cao muôn trượng”. Cõi hồn ấy, mai ngày sẽ không còn giận tức, ghét ghen hay nhút nhát, nhưng vẫn cứ tỏ-bày thương-yêu, tha thứ với mọi người, rất ở đời.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

ĐÁNH GIÁ THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU 39 NĂM XÂY DỰNG XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

ĐÁNH GIÁ THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU 39 NĂM XÂY DỰNG XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

Bài 2: Về Đặc trưng thứ Hai và Đặc trưng thứ Ba

Trần Quí Cao

Tiếp theo bài 1 đánh giá các thành quả Việt Nam đã đạt được sau 39 năm xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, xét theo các tiêu chí của đặc trưng 1, bài này đánh giá theo các tiêu chí của đặc trưng 2 và đặc trưng 3 (1).

Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ

Chúng ta đã minh định trong bài 1 rằng nước ta không Dân Chủ. Nay ta phân tích chi tiết hơn trong mục này.

Hiểu theo nghĩa thông dụng, Dân Chủ là Nhân dân là chủ của xã hội, của quốc gia. Khái niệm người chủ bao hàm ý: có các quyền tự do đương nhiên của người chủ.

Hiểu theo khía cạnh học thuyết chính trị thì:

Dân chủ là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội, trong đó thừa nhận Nhân Dân là nguồn gốc của quyền lực, thông qua một hệ thống bầu cử tự do. Có hai nguyên tắc mà bất kỳ một định nghĩa dân chủ nào cũng đưa vào. Nguyên tắc thứ nhất là tất cả mọi thành viên của xã hội (công dân) đều có quyền tiếp cận đến quyền lực một cách bình đẳng và thứ hai, tất cả mọi thành viên đều được hưởng các quyền tự do được công nhận rộng rãi (2).

Như vậy, hiểu theo cách thông dụng hay theo khía cạnh học thuyết chính trị, Dân Chủ luôn gắn liền với Tự Do. Không có các quyền Tự Do căn bản, Dân Chúng không thể thực hiện quyền, chức năng làm chủ của mình. Nói cách khác: nếu Dân Chúng không được hưởng các quyền tự do được công nhận rộng rãi trên thế giới thì quốc gia không có Dân Chủ. Các quyền Tự Do Ngôn Luận, Tự Do Báo Chí, Tự Do Ứng và Bầu Cử, Tự Do Lập Hội, Lập Đảng là các quyền Tự Do chính yếu trong một nền Dân Chủ.

Trên thực tế, dân Việt Nam không có bất kỳ một quyền nào trong các quyền kể trên.

Ngoài ra, các nhà chính trị học còn nêu lên một thuộc tính của thể chế Dân Chủ là Tam Quyền Phân Lập. Đây là một đặc điểm chính yếu của chính thể Dân Chủ, đặc điểm này phân biệt chính thể Dân Chủ xứng danh với chính thể Dân Chủ mạo danh.

Nhà cầm quyền Việt Nam luôn khẳng định không có Tam Quyền Phân Lập. Như vậy, rõ ràng là, cùng với các quyền tự do căn bản mà người dân không được hưởng, nước Việt Nam không có Dân Chủ, không do Nhân Dân Làm Chủ.

Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu

Đặc trưng này nói về nền kinh tế với 2 tiêu chí: lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

Nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại.

Hãy so sánh với các nước có trình độ phát triển kinh tế xấp xỉ Việt Nam vài thập niên trước.

Chúng ta đã so sánh với Hàn Quốc bên trên. Trong các tập đoàn lớn nhất của Hàn Quốc (SamSung, Hyundai, LG…) tập đoàn nào cũng có sản phẩm được sản xuất bởi công nghệ hiện đại, cạnh tranh ngang tay với các tập đoàn lừng danh của Nhật và Âu Mỹ… Các tập đoàn này là đối tác kinh doanh toàn cầu được nể trọng của các tập đoàn có truyền thống hùng mạnh của thế giới như General Electric (Mỹ), General Motor (Mỹ), DuPont (Mỹ), Exxon Mobile (Mỹ), BASF (Đức), Siemens (Đức), Total (Pháp)… Khi SamSung triển khai chương trình đầu tư vào Việt Nam, SamSung dành ưu tiên cho các ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam cung cấp cho họ 170 sản phẩm chưa phải là cao cấp, thì Việt Nam không thể cung cấp được một sản phẩm nào!

Hãy so sánh thêm với Thái Lan, một nước có nền kinh tế phát triển chưa cao lắm. Năm 2012, ngành công nghiệp xe hơi của họ đứng thứ 9 trên thế giới, một năm sản xuất khoảng 1 triệu rưỡi chiếc xe trong khi Việt Nam sản xuất khoảng 50,00 chiếc, chỉ khoảng ba bốn phần trăm của họ (3). Với Mã Lai, một nước có nền công nghiệp phụ trợ điện tử được ưa chuộng trong khu vực, với Đài Loan, vùng lãnh thổ kinh tế có vị trí thứ tư trên thế giới về nền công nghiệp phụ trợ cung cấp linh kiện cơ khí cho thế giới… So với các nước đó, thì vị trí Việt Nam chúng ta nằm ở đâu?

Trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, chúng ta xuất khẩu ở dạng thô chứ không ở dạng tinh chế. Chúng ta xuất ở vị trí thấp, thậm chí rất thấp, chứ không ở vị trí cao trên chuỗi giá trị gia tăng. Theo những đánh giá về công nghệ cao, phần đóng góp của công nghệ cao vào nền sản xuất của Việt Nam là rất nhỏ, vài phần trăm.

Việt Nam đã có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại chưa?

Nền kinh tế phát triển cao dực trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu

Trên lý thuyết, Việt Nam có chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Quả thật, các Tổng Công ty, các Tập đoàn Kinh tế nhà nước bao trùm mọi mặt kinh tế đất nước.

Tuy nhiên, trên thực tế, lợi nhuận từ các tổng công ty, tập đoàn đó rơi vào túi một thiểu số cá nhân quyền lực mà người ta thường gọi là  “nhóm lợi ích”. Điều quan trọng là lợi nhuận tìm được bởi các biện pháp độc quyền (thí dụ trong các ngành Điện, Nước, Xăng Dầu, Than, Khoáng Sản…), bằng các biện pháp hành chánh ưu tiên hay cưỡng bức (thí dụ trong ngành Lúa Gạo), bằng các biện pháp tham nhũng, hối lộ (thí dụ được thấy rõ trong các vụ án Vinashin, Vinalines…) chứ không phải bằng cạnh tranh bình đẳng. Lợi thì vô túi riêng của nhóm lợi ích, Lỗ thì dân gánh chịu.

Có phải những sự việc kể trên chỉ là khuyết điểm của phân bổ không công bình, không quan hệ gì với tính công hữu? Thực ra thì mục tiêu của công hữu là nhằm lo cho số đông dân chúng, nếu công hữu chỉ để một thiểu số vơ vét tài sản của số đông thì chế độ công hữu đó chỉ là chiếc áo thầy tu khoác lên mình tướng cướp. Chế độ công hữu vận hành phối hợp với chế độ độc tài sẽ gây tai hại khủng khiếp cho số đông, người dân làm ra đồng nào sẽ bị gỡ tay lấy hết đồng đó.

Hiện nay, chính sách tư nhân hóa, cổ phần hóa các công ty nhà nước đang được đầy mạnh. Trong hoàn cảnh người dân không có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, không được tiếp cận quyền lực, rất nhiều người lo ngại rằng một phần lớn “tư liệu sản xuất chủ yếu” trước đây thuộc “công hữu” và đã được tận dụng tạo “giá trị thặng dư” cho “nhóm lợi ích”, nay sẽ được “tư hữu hóa” để cho “các nhóm lợi ích” chia chác thêm nữa tài sản quốc gia.

Và, như vậy, mục tiêu của công hữu nhằm, như lý thuyết nói, ngăn cản, hạn chế sự bất công, lại có tác dụng đẩy bất công và bóc lột lên một mức cao chưa từng thấy.

Xét trên khía cạnh này, Việt Nam hoàn toàn không có chế độ công hữu xứng danh, nghĩa là không có sự công hữu được thực hiện và quản lý theo những chuẩn mực xã hội văn minh hiện đại.

Tóm lại:

Nước Việt Nam không đạt tiêu chí duy nhất trong đặc trưng thứ hai là do nhân dân làm chủ. Và cũng không đạt hai tiêu chí của đặc trưng thứ ba là có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

Trần Quí Cao

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Hữu Nghĩa. “Những đặc trưng thể hiện yính ưu việt của Chủ nghĩa Xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng”, Tham luận tại tại phiên họp sáng 14/1 Đại hội XI của Đảng (TTXVN/VIETNAM+) LÚC : 14/01/11 16:52.

2. Wikipedia. Dân chủ http://vi.wikipedia.org/wiki/D%C3%A2n_ch%E1%BB%A7

3. Wikipedia. Automotive Industry In Thailand. http://en.wikipedia.org/wiki/Automotive_industry_in_Thailand