ĐỪNG ĐỂ LỠ CƠ HỘI GẶP CHÚA

ĐỪNG ĐỂ LỠ CƠ HỘI GẶP CHÚA

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Đức Giêsu trở về thăm quê nhà.  Ngày Sabat, ngày lễ nghỉ hàng tuần, dân làng đến hội đường nghe đọc sách thánh và hát thánh ca từ 9 giờ đến 12 giờ trưa.

Đức Giêsu và các môn đệ cùng tiến vào hội đường cầu nguyện.  Đọc sách luật và thánh vịnh xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng thuyết như một giáo dân tham dự vào chức tư tế.  Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường.  Gương mặt Ngài luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm.  Giọng điệu tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn.  Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người.  Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa.  Họ cảm nhận lòng nhân ái Chúa Cha trên trời.  Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa.  Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt.  Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế?  Sao ông ta được khôn ngoan như vậy?  Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì?”

Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu?  Họ tìm về nguồn gốc chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon.”  Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu.  Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cầy bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội.  Có bao giờ thấy ông nói năng, làm được gì hay lạ đâu?  Ông bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế!  Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm.  Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.

Còn Đức Giêsu, ai đã huấn luyện Ngài?  Ai đã ban quyền phép làm những việc kỳ diệu như thế?  Thân nhân bảo Ngài “mất trí.”  Kinh sư chụp mũ Ngài “nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ.”  Dân chúng chỉ biết ngạc nhiên: chưa từng thấy ai ăn nói, hành động có uy quyền lạ lùng như vậy.  Môn đệ đi theo sát Ngài cũng chỉ biết hỏi: “Ngài là ai mà bão biển phải tuân lệnh.”  Chẳng thấy ai huấn luyện Ngài, chẳng thấy Ngài học tập kinh sư nào.  Chỉ thấy Ngài vào nơi thanh vắng, ngước mắt lên trời cầu nguyện.  Trong âm thầm Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha trên trời.  Đó chính là bí quyết làm cho Ngài khôn ngoan và đầy quyền phép để trừ hàng ngàn quỷ dữ, chữa hàng trăm bệnh nhân mà loài người phải bó tay, cho kẻ chết sống lại, bắt cuồng phong lặng yên…

Dân làng biết Ngài khôn ngoan.  Kinh sư thấy Ngài trừ quỷ.  Môn đệ được Ngài cứu khỏi chết giữa biển cuồng phong.  Nhưng họ chẳng biết Ngài là Con Một Thiên Chúa, chẳng biết Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa; vì thương yêu loài người, đã xuống thế làm người sống với họ như anh em, như bạn bè, để cứu họ khỏi chết đời đời.

Dân làng Nazarét quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu.  Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài.  Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch.”  Mc. Kenzie nói: Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi.”

Còn Đức Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình.”  Một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn “Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận.”  Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin.  Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay.  Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật.

Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay.  Rất nhiều khi chúng ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ, nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy.  Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì chúng ta cho rằng họ nói đúng.  Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì.  Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6, 23.26).  Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương.  Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái.  Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng.  Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.

Đức Giêsu buồn nhưng không cay cú, không tức giận.  Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác.  Những người ở làng quê Nagiarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế.  Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết.  Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse.  Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng.  Họ coi thường Ngài.  Họ không tin Ngài.  Họ hất hủi Ngài.  Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở.  Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó.  Ngài bỏ Nagiarét đi đến các làng chung quanh.  Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa.  Đó là cơ hội cuối cùng cho họ.

Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế.  Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn.  Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối.  Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta.  Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở.  Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng.  Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa.  Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại.  Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta.  Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ.  Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến.

Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương.  Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con.

Lạy Chúa Giêsu, xin mở con mắt đức tin cho mọi người được thấy những sự khôn ngoan, quyền phép lạ lùng của Thiên Chúa đang âm thầm hoạt động trong Giáo Hội, trong thế giới và cả trong vũ trụ, mà con mắt phàm trần không thể thấy được, để họ biết ca ngợi Chúa muôn đời. Amen.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Người Việt Nam làm “đệm thịt“ bảo vệ Trung Quốc?

Người Việt Nam làm “đệm thịt“ bảo vệ Trung Quốc?

Võ Thị Hảo

RFA

* TQ đã sẵn sàng đưa VN ra trận?

Đến nay, theo nhận  định của nhiều chuyên gia có uy tín, chiến tranh Trung – Mỹ có nhiều khả năng xẩy ra trên biển Đông.

Cuộc xung đột trong khu vực này xuất phát từ việc TQ chiếm cứ và xây dựng các đảo trên quần đảo Trường Sa của VN để mở rộng thêm căn cứ không quân, hải quân về phía Nam, tiến tới giành quyền kiểm soát tất cả các vùng nước của biển Đông, nhằm hạn chế tự do hàng hải và hàng không của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Mỹ.

Đương nhiên là Mỹ và khối đồng minh sẽ không chấp nhận sự ngang ngược đó. Nếu TQ không lùi bước, chiến tranh sẽ xẩy ra.

Phạm vi tàn hại của cuộc chiến sẽ rộng lớn, nhưng là điểm chốt của chiến địa, tổn thất trước hết là VN. Không chỉ trên biển, ngay trên đất liền VN, TQ cũng đã khéo léo chiếm dụng những vùng hiểm yếu có thể sử dụng làm căn cứ địa cho chiến tranh biển Đông. Những đường cao tốc nối từ TQ tới VN ngoài nhiệm vụ cho một cuộc chiến tranh kinh tế triệt hạ VN, cướp công ăn việc làm của người VN, còn một chức năng vô cùng quan trọng là để chuyển quân, lương thực vũ khí để chỉ trong vài giờ đã có thể san phẳng VN và tiến ra biển Đông đọ sức với phe Mỹ.

* Địa ngục trần gian

Chiến tranh của thế kỷ 21 khác xưa. Đã kết thúc từ lâu cái thời VN có thể tự hào dùng hầm chông, lối đánh du kích, súng bắn tỉa và hầm bí mật để đánh giặc.

Chiến tranh Trung – Mỹ sẽ là cuộc đối đầu giữa hai cường quốc quân sự với những vũ khí siêu tối tân với khả năng hủy diệt rộng lớn. Và cũng không loại trừ chiến tranh hạt nhân.

Phó Viện trưởng về nghiên cứu toàn cầu của Viện Công nghệ Hoàng gia Melbuorne(Úc) khẳng định: Mỹ và TQ đang chực chờ xông vào một cuộc chiến, bất kể giữa hai nước đang tồn tại một sợ dây quan hệ kinh tế không thể tách rời. Biển Đông trở thành ngòi nổ chiến sự.

Theo báo cáo của Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm, hiện nhiều nước đang gấp rút nâng cấp kho vũ khí hạt nhân.

“Nói trắng ra, một cuộc chiến Mỹ – Trung sẽ là địa ngục trần gian. Nhiều khả năng thế chiến thứ 3 sẽ bắt đầu trong thời gian tới đây. Sẽ có hàng triệu, thậm chí hàng tỉ người chết bởi vũ khí hạt nhân. Những người may mắn sống sót sẽ phải đối mặt với tình trạng nền kinh tế toàn cầu sụp đổ. Đó là tất cả những gì mà thế giới sẽ phải chứng kiến khi giữa hai cường quốc của thế giới xẩy ra xung đột vũ trang“(theo nguoivietaz.com.us).

Mọi người đều biết rằng, nếu VN đứng về phía TQ, giống một nước chư hầu cong tấm lưng còng bọc lấy đất TQ trước biển Đông như hiện nay, thì sẽ không tránh khỏi số phận phải làm „chiếc đệm thịt“ đầu tiên trên chiến trường và tan nát trước khi Mỹ tiến đánh Trung quốc lục địa.

Do vị trí địa chính trị, sự lựa chọn của VN hiện nay có thể gớp phần cùng thế giới ngăn chặn thảm họa đó hoặc nhập khẩu thảm họa đó vào VN nếu cuộc chiến tranh  Trung – Mỹ xẩy ra.

  • VN với truyền thống nhập khẩu chiến tranh

Với sự tham lam và thiển cận của nhà cầm quyền VN, họ đã tạo điều kiện tốt chưa từng có để TQ dễ dàng chiếm cứ VN trên mọi mặt và sử dụng người VN đi đánh nhau với Mỹ để bảo vệ TQ khi cần.

VN lựa chọn lệ thuộc TQ và thực hiện mọi mệnh lệnh của TQ là tự sát  nếu chiến tranh Trung – Mỹ xẩy ra.

Nhập khẩu chiến tranh vào nước của mình và hớn hở đi chết cho kẻ khác trong khi giết dân mình, đó là năng khiếu của nhiều thế hệ cầm quyền VN.

Trong cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn miền Nam miền Bắc, bên Nam đánh nhau với sự viện trợ và vũ khí của Mỹ, bên Bắc đánh nhau để thực hiện  nhiêm vụ „tiền đồn cho phe xã hội chủ nghĩa“ với vũ khí và lương thực của Nga và TQ. Nga và TQ không hề hấn gì, VN chỉ còn lại hoang tàn và hàng triệu người chết.

Nếu nhà cầm quyền VN tiếp tục tăm tối như vậy, lịch sử đớn đau sẽ lặp lại. Khi chiến tranh Trung- Mỹ xẩy ra, dân VN sẽ có được một hân hạnh cũ: làm cái „đệm thịt người“ đi chết cho quyền lợi của TQ, để TQ được yên ổn xây dựng chủ nghĩa xã hội.  Người TQ sẽ giẫm lên những xác chết của người VN mà tiến ra biển Đông. Người VN sẽ lại bị ép buộc mà chết hoặc ngu muội mà chết hoặc bị lừa đảo mà chết nhưng vẫn tự hào rằng chúng ta sẵn sàng hy sinh đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ thành trì của đất nước và chủ nghĩa xã hội.

Nghe thế tưởng như chuyện đùa, nhưng không đùa một chút nào, nếu chúng ta nghe phát biểu của các vị lãnh đạo cao cấp VN và xem hành xử của họ.

Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đến năm 2009 còn tuyên bố: „Việt Nam Cu ba như là trời đất sinh ra. Một anh ở phía Đông, một anh ở phía Tây. Chúng ta thay nhau canh giữ hòa bình cho thế giới. Cu ba thức thì VN ngủ, Việt Nam gác thì Cuba nghỉ“( phát biểu trong chuyến thăm Cuba năm 2009).

Nay thì Cuba đã ngủ theo Mỹ, bỏ nhiệm vụ cùng VN thức canh hòa bình thế giới. Vậy còn VN lẻ loi thì thức canh hòa bình cho TQ vậy! Việc đó đã có Đảng CS VN trước sau kiên định lập trường lo liệu chu toàn.

Một dải đất sạch bóng người VN sau chiến tranh Trung – Mỹ là điều người TQ thấy vô cùng quyến rũ. Đặc biệt là cái chết ấy lại do chiến tranh  và do Mỹ chịu trách nhiệm..

Xuất khẩu chiến tranh ra ngoài lục địa Trung hoa để thực hiện những mưu đồ khác là điều mà nhà cầm quyền TQ khôn ngoan chí ít cũng đã làm cho dân của họ. Còn VN thì lại chỉ có khả năng nhập khẩu chiến tranh về tàn hại đồng bào của mình.

  • Thời cơ cứu nước và chặn chiến tranh

Để bảo vệ mạng sống, người dân VN cần tỉnh táo chống lại khuynh hướng „nhập khẩu chiến tranh“. Đấu tranh bảo vệ đất nước bằng cách chống lại việc bán nước cho TQ của một số kẻ cầm quyền tham lam và đớn hèn chính là cách để ngăn chặn hữu hiệu.

Vì sao Hồng kông – một thành phố nhỏ, dù đã bị trao trả cho TQ nhưng chính quyền nơi này đã không chấp nhận sự áp đặt chính trị của TQ, TQ dù hận tận xương tủy vẫn không dám giở trò đàn áp?

Vì sao Đài loan cũng là lãnh thổ đã bị trao trả cho TQ nhưng Đài loan vẫn ngang nhiên thách thức TQ mỗi khi TQ định làm điều gì đó ảnh hưởng đến sự độc lập và quyền lợi đảo này?

Vì sao Hàn quốc sống ngay bên cạnh Triều tiên hung hãn luôn muốn triệt phá Hàn quốc bằng chiến tranh hạt nhân nhưng Hàn quốc vẫn phát triển lớn mạnh?

Vì sao nước Nhật yên ổn  có một nền chính trị tiên tiến, ổn định và văn minh,  mức sống cao gấp khoảng 30 lần so với người VN?

Là vì họ đã không nhập khẩu chiến tranh, đã kiên quyết nói không với  cộng sản và chủ nghĩa xã hội. Họ không cần đầu tư nhiều tiền vào quân sự vì được bảo vệ bởi những lực lượng quân sự đứng đầu thế giới như Mỹ và khối NATO. Khối này chưa bao giờ phản bội họ.

Người VN hoàn toàn có thể làm được một việc lớn là ngăn chiến tranh Trung – Mỹ xẩy ra.

Thời cơ cứu nước càng đến gần với VN khi vào ngày 24/6/2015, Thượng viện Mỹ đã chính thức thông qua Dự luật HR1314 trong đó có  Dự luật trao quyền đàm phán thương mại cho Tổng thống Mỹ và Dự luật hỗ trợ tổn thất cho những người Mỹ bị ảnh hưởng bởi các hiệp định tự do thương mại quốc tế.

Không nghi ngờ gì nữa, nước Mỹ đã rất linh hoạt trong việc giao cho Tổng thống Obama một đặc cách để quyết định đẩy nhanh đàm phán Thỏa thuận quan hệ đối tác  thương mại T-Tip và đầu tư Xuyên Đại Tây Dương cũng như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)và đặc biệt phục vụ cho quyền lợi của Mỹ ở biển Đông trong đó có liên quan đến việc liên kết chặt chẽ với VN.

VN cần phải nắm lấy bàn tay mà tổng thống Mỹ đưa ra để trở  thành đồng minh thực sự của Mỹ và khối NATO. Đây là khoảnh khắc mà Mỹ mở rộng vòng tay hơn bao giờ hết, bởi chính quyền lợi của Mỹ ở biển Đông. Lúc đó Mỹ và khối NATO sẽ tự động bảo vệ VN theo hiệp định tương hỗ quân sự.

Trong tình thế đó,  TQ bị buộc phải thay đổi cách hành xử, từ bỏ ảo vọng chiếm VN và  và độc chiếm biển Đông. Chỉ có như thế, chiến tranh mới không xẩy ra.

Như thế, người VN mới thoát được ách nô lệ ngàn năm của TQ và  ách nô lệ cộng sản.Và trước hết, gần nhất, là thoát được cuộc chiến tranh mà người VN không nhũng chịu mất nước về tay TQ mà còn phải chết cho TQ. Cuộc chiến đó không đưa VN trở về thời kỳ đồ đá vì ngay cả đá cũng nát và chỉ còn tro xương của người VN cọ vào nhau trong gió của những cánh đồng chết.

VTH

Tiếng khóc ngày mở mắt chào đời!

Tiếng khóc ngày mở mắt chào đời!

Khi khó khăn đau khổ, con người ta thường ứa trào nước mắt và nấc lên tiếng khóc. Do vậy tôi vẫn xem tiếng khóc là dấu chỉ của một cuộc sống lầm than, một số phận hẩm hiu. Khi vừa mới lọt lòng mẹ, em bé òa khóc. Tôi không hiểu nổi tại sao dấu chỉ đầu tiên của một cuộc sống mới vào đời lại là tiếng khóc mà không là tiếng cười. Đời người là hẩm hiu đen tối từ cội nguồn rồi sao!
Qua gặp gỡ và trải nghiệm, tôi nhận ra điều ngược đời khá thú vị nhưng rất thật, đó là con người cũng khóc khi họ đứng trước một niềm vui quá lớn lao không thể diễn tả bằng lời, khóc chứ không phải cười. Tôi hiểu hơn về tiếng khóc chào đời của trẻ thơ, hiểu hơn về đời sống được tặng ban cho con người.
Mỗi khi kỉ niệm ngày sinh, chắc nhiều người cũng nhớ lại tiếng khóc chào đời của mình. Tiếng khóc ấy không còn là dấu chỉ của kiếp sống lầm than. Thay vào đó, nó là sự diễn tả một niềm vui khôn tả, một tâm tình tri ân thay cho lời tạ ơn bởi món quà quá lớn lao đã được trao ban cho tôi.

Thay lời tạ ơn:

Cất lên tiếng khóc chào đời
Thay bao nguyện ước cùng lời tạ ơn!
Tạ ơn mẹ: sinh con ra
Mời ngày chín tháng bao la biển tình
Cho con nên dáng nên hình
Sẻ chia sự sống, thân mình cho con.
Tạ ơn cha: tấm lòng son
Chở che nâng đỡ cho con vào đời
Cho con tình mến diệu vời
Yêu thương gửi gắm tận nơi cung lòng.
Tạ ơn Thiên Chúa quan phòng
Cho con sinh đến ở trong gia đình
Bao la chất chứa ân tình
Tin-yêu nguyện sống cho vinh danh Ngài.

Vinh Sơn Phạm Văn Đoàn, S.J.

Thịnh Vượng Và Nghịch Cảnh

Thịnh Vượng Và Nghịch Cảnh

Một nhà buôn nói rằng: “Chắc là Chúa bất mãn với cuộc sống của tôi hay sao mà công việc làm ăn của tôi không khá được”.

Câu nói của nhà buôn này phản ánh quan niệm chung của những người thường liên kết thịnh vượng với cuộc sống đạo đức, và nghịch cảnh với đời sống vô đạo. Có đúng như thế không?

đông hành với Chúa, đi cùng Chúa

Một trong những câu truyện nghịch cảnh xưa nhất được ghi lại trong Thánh Kinh cũng xoay quanh các vấn đề này. Ðó là câu truyện thánh Gióp. Gióp là một người được Chúa kể là thánh thiện nhất trên mặt đất trong lúc ấy, và cũng là người rất giàu có. Theo quan niệm của thời nay thì phải kể Gióp là bậc tỉ phú, vì tài sản của ông nhiều vô kể. Dường như tay ông chạm tới đâu thì nơi đó cũng biến thành vàng cả. Như mọi người thường nghĩ, Gióp cũng cho rằng mình thịnh vượng là nhờ sống thánh thiện.

Nhưng một ngày kia tai họa bỗng xảy ra bất ngờ. Chỉ trong mấy tiếng đồng hồ toàn bộ sản nghiệp của Gióp tan ra mây khói. Những đàn súc vật đông đảo bị cướp đi hết, con trai, con gái đều bị giết chết, ánh sáng của cuộc đời bỗng nhiên tối sầm lại, và Gióp sống cũng như chết. Lúc đầu Gióp cực kỳ khốn khổ đến nỗi rủa cả ngày mình sinh ra đời, và ước ao được chết đi khi còn trong lòng mẹ. Cay đắng vô cùng, Gióp đã than: “Ðiều ta sợ hơn cả đã đến với ta” (Gióp 3,25).

* * *

Thực sự, thành công vật chất không chứng tỏ là do đời sống thánh thiện, và nghịch cảnh cũng không phải là dấu hiệu của sự trừng phạt. Chúa cho ông Gióp thấy rằng thời gian khó khăn mà ông gặp chính là giai đoạn thử nghiệm. Vào đúng thời điểm, Chúa lại phục hồi thịnh vượng cho ông.

Những gì ta có hay không có không chứng tỏ là ta đang sống đẹp lòng Chúa hay sai ý Chúa. Của cải vật chất có thể phản ảnh tài tháo vát buôn bán của bạn, nhưng không phải là những thứ đánh giá đời sống của bạn.

Phần thưởng của cuộc đời thánh thiện chính là một lương tâm trong sáng và một tấm lòng tinh sạch. Vì lúc ấy bạn sẽ sòng phẳng với mọi người, và bạn biết yêu mến những giá trị bền bỉ hơn vật chất trước mắt. Bạn có thể nghèo hay giàu. Nhưng nếu Chúa vẫn làm chủ cuộc đời bạn thì lúc nào bạn cũng được thỏa lòng.

Giọt Nước Mắt Cuối Cùng
(118 Câu Chuyện Suy Tư Và Cầu Nguyện

Ðôi Hàng Tâm Tư Cho Một Ðời Kitô Hữu)

Dị ứng với chữ nghĩa!

Dị ứng với chữ nghĩa!

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Tôi đồng ý với nhiều người đã cho rằng không có ngôn ngữ Việt Cộng, ngôn ngữ miền Nam mà chỉ có ngôn ngữ Việt Nam và ngôn ngữ phát triển và đa dạng hóa theo thời gian. Nhưng là một người sinh ra và lớn lên, sống ở miền Nam ít nhất là nửa thế kỷ, tôi cảm thấy hụt hẫng và cảm thấy dị ứng với thứ ngôn ngữ hôm nay, nói rõ là thứ ngôn ngữ phát sinh ra từ sau ngày đại họa, khi mà Việt Cộng cai trị toàn bộ đất nước miền Nam.

Người dân Việt Nam hiện nay dùng chữ “siêu” để thay cho chữ “rất
nhiều” hay “rất cao” như bảng quảng cáo này. (Hình: Getty Images)

Không phải dị ứng với chữ nghĩa, mà tôi còn dị ứng với giọng nói của Hà Nội bây giờ, nó khác xa với Hà Nội thanh lịch của bốn mươi năm về trước. Làm sao tôi quên được giọng nói của đài phát thanh Hà Nội, “thủ đô của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” mà mỗi tối, tôi vẫn thường phải nghe cái giọng the thé của cô xướng ngôn viên qua chiếc loa rè treo ở cái chòi gác đầu trại, những đêm rét buốt ở trong những trại tù Hoàng Liên Sơn. Giọng nói đó còn theo đuổi, ám ảnh tôi cho đến ngày hôm nay.

Từ ngày bị anh em “ngoài ta” thống trị, ngoài những tiếng “ngụy ngôn” xảo trá như cách mạng, giải phóng, học tập cải tạo, ngụy quân, ngụy quyền… chúng ta thấy cả một rừng chữ nghĩa đảo lộn trong một xã hội điên đảo. Dân Sài Gòn đã nhìn tận mắt loại chữ nghĩa quái đản, sản phẩm của chế độ mới như “xưởng đẻ,” “cửa hàng thịt phụ nữ,” “nhà đái nam, nhà đái nữ…”

Cũng không phải vì lý do chính trị mà tôi ghét nó, hoặc có định kiến, kiểu “ghét ai ghét cả tông nhân họ hàng,” nhưng tôi ghét cái thứ ngôn ngữ tùy tiện, vô nghĩa và lai căng hay bắt chước Tàu một cách hoàn toàn vô ý thức và thiếu khôn ngoan.

Trước khi đi quá xa, và để cho độc giả khỏi quên, tôi xin nói ngay vào lối nói kiểu Tàu của người trong nước bây giờ. Chúng ta vẫn nghe những tiếng lạ tai từ khi nón cối dép râu “tiến về Sài Gòn,” thứ ngôn ngữ đặc sệt Tàu, mà chúng ta chưa hề nghe, chưa biết dùng nhưng cuối cùng cũng phải dùng, phải nghe nếu không sợ bị lạc đường. Đó là những tiếng hộ khẩu, hộ lý, hải quan, xuất khẩu, trợ lý, thủ trưởng, đăng ký, đường cao tốc, vô tư, bức xúc, bảo vệ, cơ địa, xử lý, khẩn trương, triều cường, giải phóng mặt bằng, quân hàm, sư trưởng… khác xa những gì mà chúng ta đã dùng thời trước.

Cái thì quá Hán, nhưng có cái thì quá nôm na. Thủy Quân Lục Chiến thì gọi là “Lính Thủy Đánh Bộ,” Bạch Ốc là “Nhà Trắng,” trực thăng là “máy bay lên thẳng,” tài xế thì gọi là “lái xe,” đại tiện hay tiểu tiện thì gọi là “ỉa, đái”… có khi nửa nôm nửa hán như “cán bộ gái,” có khi thô bỉ như “giường cứng- giường mềm,” có lúc ngớ ngẩn và vô nghĩa như “làm gái!”

Nếu chữ nghiêm trang, nghiêm chỉnh của chúng ta để nói về một thái độ, một nhân dáng thì vì sao trong nước lại dùng chữ nghiêm túc (nghĩa của nó là đứng yên – toàn thể túc lập!) Nếu chữ “liên lạc” của chúng ta dùng trong nghĩa trao đổi, thông tin thì cũng với nghĩa đó, họ dùng chữ “liên hệ,” như trong nghĩa nó có nghĩa trói buộc với nhau như gia tộc, con cái, họ hàng. Vì chúng ta đâu cần phải “liên hệ” qua điện thoại với một công ty khi chỉ cần mua một món hàng.

Có những địa hạt, việc dùng chữ nghĩa quá tùy tiện và ngu dốt, một cách “nói chữ” như chữ “xử lý” bị lợi dụng một cách nặng nề và không cần thiết như nói “xử lý cá xong” thì đến “xử lý” rau. Thay vì nói đơn giản “một con bọ xít” thì họ nói “một cá thể bọ xít,” thay vì nói “đi dạy học tại trường X.” thì người ta nói “nhận công tác giảng dạy…”

Nói chung là người ta thích dùng “đại ngôn” cho nó oai, ra điều chữ nghĩa, như ông bà ta có câu: “dốt thì hay nói chữ,” quảng cáo cho mấy cái bồn rửa nhà cầu, người ta cũng dùng đến tiếng “hoành tráng.”

Ba chữ “dòng, luồng và chùm” bị lạm dụng và gán ép một cách ngây ngô như: – “Dòng kem dưỡng da;” – “Luồng tư duy, luồng thông tin , luồng văn hóa , khám bệnh ngoài luồng;” – “Chùm ảnh, chùm thơ…”

Trong nước bây giờ thích nói chữ, Tây hay Tàu hơn là thuần Việt: Ảnh “nude” hơn là ảnh khỏa thân , “VIP” hơn là nhân vật quan trọng , “logic” là lý luận, “tuổi teen” hơn là tuổi thiếu niên, “ô tô” thay vì xe hơi, “nội y” thay vì áo quần lót , “sở hữu” hơn là có , “khẩn trương” thay vì nhanh lên.

Nếu vì trời sương mù mà trên xa lộ nhiều chiếc xe hơi đụng nhau dây chuyền (xe nọ đụng đít xe kia) thì vì sao họ dùng chữ “đụng liên hoàn,” cho ra Tàu, trong khi chữ liên hoàn còn có nghĩa “trở lại” như thơ liên hoàn là bài thơ mà câu cuối lặp lại câu đầu tiên. Cái xe đầu tiên bị đụng không thể nào đụng lại cái xe cuối cùng trên đường!

Trong khi chúng ta dùng chữ máy thu thanh (radio) thì Cộng Sản dùng chữ “đài,” chữ này chỉ có thể dùng để chỉ nơi phát thanh, như đài phát thanh Hà Nội. Cũng với lối nói tắt này, đôi khi vô nghĩa, nhưng theo thói quen ở trong nước, người ta vẫn hiểu, như vừa “xuất viện” là mới ở bệnh viện (nhà thương) ra, “nhập viện” là vào nhà thương. Nếu nói “điện” thì phải hiểu nghĩa là điện thoại. Thu phí là thu lệ phí!

Cộng Sản lấy tên Hồ Chí Minh đặt thay cho Sài Gòn có nhiều điều bất tiện và bất kính, vì người ta không thể nói: “Tôi đi… Hồ Chí Minh,” hay “Hồ Chí Minh bây giờ nạn cướp bóc tràn lan” mà phải dùng nguyên câu “thành phố Hồ Chí Minh.” Vì cái tên quá dài, nên bây giờ người Cần Thơ đi Sài Gòn thì chỉ cần nói là “lên thành phố!” là người ta đã hiểu.

Cỡ lớn láo như Phùng Quang Thanh, lên tới đại tướng mà còn mở miệng nói, “Không phong tướng, anh em tâm tư!” thì “chị em ta” cũng có thể nói, “Chị làm em cũng tâm trạng theo chị!” hay “con ấy… cực kỳ!” Danh từ, động từ, tĩnh từ, trạng từ… cứ loạn cả lên, toàn là những thứ “lộng ngôn” và “loạn ngôn” một cách rất “bất quy tắc!”

Thời trước đi học, mà viết, làm luận văn, nói lối này thì chắc chắn là bị thầy, cô giáo sổ…toẹt! Và thời nay nếu bỏ nước ra đi khá lâu, về thăm lại quê hương nên có một người đi theo để thông dịch.

Nói chuyện chữ nghĩa thời nay, thì phải viết thành một cuốn từ điển dày nghìn trang. Tôi không có tham vọng làm một cuộc nghiên cứu hay thống kê mà chỉ ghi.. tạp một vài chuyện mua vui. Nhưng chúng ta cũng nên cẩn thận, đừng ngộ nhận, khi có những tiếng ít nghe, ít dùng, nghe chưa quen tai đã vội chụp nón cối cho nó. Có lần tôi dùng tiếng “xiển dương” trong một bài viết, đã bị một ông bạn già khiển trách “sao lại dùng chữ Việt Cộng?”

Điều đau lòng tôi muốn trình bày với độc giả hôm nay là chúng ta lệ thuộc Tàu cả nghìn năm mà còn giữ được tiếng nói, chữ viết và bản sắc dân tộc. Trong nước nô lệ Cộng Sản mới bốn mươi năm mà dễ chừng ngôn ngữ đã có những sự thay đổi, nhất là ảnh hưởng không ít với những người đã đi ra nước ngoài, đã từng là nạn nhận của Cộng Sản. Tôi đã gặp những người tù chính trị đã ở trong nhà tù tập trung năm, mười năm mà vẫn dùng những danh từ “đi học tập- cải tạo” hay “trước giải phóng- sau giải phóng” một cách không suy nghĩ, thì trách gì vợ con họ, lấy lý do vì ở với Cộng Sản một thời gian dài, nên bị “đồng hóa!”

Một chuyện khác là các cơ quan truyền thông ở hải ngoại, vẫn cho mình là có lập trường chống Cộng nhưng vẫn dùng nguyên bản những tin tức, chương trình trong nước mà không chịu bỏ thời giờ sửa đổi lại theo cách nói và cách viết truyền thống của người Việt tại miền Nam trước 1975 và kể cả tại miền Bắc trước năm 1954.

Có khi vì thiếu vốn, lười biếng hay thỏa hiệp, truyền thông hải ngoại đem luôn cả chương trình làm sẵn, các cuốn phim của các nhà sản xuất hay đài truyền hình Việt Nam chiếu trong chương trình hằng ngày. Do vậy, tuy trên đài truyền hình không có cờ đỏ sao vàng, có chân dung lãnh tụ cộng sản, nhưng ngôn ngữ, hình ảnh, và chương trình từ giải trí đến thời trang, thi hoa hậu, đố vui, thực chất là những đài truyền hình Cộng Sản được soạn ra công phu để dành làm quà cho hải ngoại.

Người ta đã nói đến chuyện con ếch được luộc chín từ từ trong nước lạnh, hay chiến thuật vết dầu loang. Dần đà, chúng ta sẽ nghe quen tai, nhìn quen mắt và bị “luộc” lúc nào không hay.

Và những con người vốn chân chất, thật thà, tin người, chỉ thấy cái lợi trước mắt và cho cá nhân mình, không cảnh giác sẽ còn thua… nữa!

Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe không nghe

“Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe không nghe
Nhất quyết yêu người, cả người thực thà gian dối
Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe không nghe
Cứ cố yêu người dù rằng người đang lừa người.”

(Phạm Duy – Tôi Bảo Tôi Mãi Mà Tôi Không Nghe)

Trần Ngọc Mười Hai

(Êphêso 1: 16-18)

Có thật không đấy? Cái gì mà lại “cứ bảo mãi không nghe không nghe”, là sao thế? Bảo ai? Bảo gì thế? Nếu chỉ bảo, có mỗi mình tôi thôi, thì có thể là như thế, thật cũng đúng thôi. Thế nhưng, bảo gì thì không bảo, sao lại cứ bảo và ban những lời rằng:

“Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe không nghe
Mới chớm yêu đời lại buồn vì đời mau hết
Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe không nghe
Mới biết ái tình là ngờ mình yêu còn ít.

Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe không nghe
Quyến luyến bạn bè để rồi về nhà mong nhớ
Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe không nghe
Cứ thích la cà để rồi chợt thương người nhà.

À thì ra, tác-giả lại đã tự mình bảo mình mãi, mà mình nào muốn nghe theo, nên mới than và vãn rất nhiều lời, rằng:

“Đời sinh tôi ra tôi ra như thế!
Đời sinh tôi ra tôi ra như thế!
Thương tôi thương tôi cho sống say mê.
Không thương không thương xin giết tôi đi !

Đời sinh tôi ra tôi ra như thế !
Đời sinh tôi ra tôi ra như thế!
Thương tôi thương tôi cho sống say mê.
Không thương không thương xin giết tôi đi!

(Phạm Duy – bđd)

Ấy! Đâu dễ như thế. Giết người và giết tôi không được, nên chàng lại hát vẫn một lời, rằng:

“Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe không nghe!

Cứ nói những lời mọi người hằng ngày không nói.

Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe không nghe!

Cứ chối không làm đàn cừu làm con vẹt nữa.

Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe không nghe!

Cứ hát những lời buồn rầu mà người ta giấu.

Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe không nghe!

Cứ hát vui đùa chọc cười người quên nụ cười.

(Phạm Duy – bđd)

À thì ra. Nghệ sĩ già nhà mình, lại cứ viết hoài và viết mãi những lời lẽ rất ý-nhị thuộc mọi thời, mới như thế. Có như thế, “chàng trai già đất Việt” mình mới ngán ngẫm cuộc đời, bèn thêm mãi lời ca rất nên nghe, rằng:

“Đời sinh tôi ra tôi ra như thế!

Đời sinh tôi ra tôi ra như thế!

Thương tôi thương tôi cho sống say mê.

Không thương không thương xin giết tôi đi!

Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe không nghe

“Đứng giữa hận thù chỉ ngờ mình là Horace

Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe không nghe

Chiến đấu quân thù mà tìm chưa ra thù ghét

Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe không nghe…”

(Phạm Duy – bđd)

À thì ra, do bởi ông viết những lời như: “Đời sinh tôi ra tôi ra như thế”, chứ không phải “Trời sinh tôi ra tôi ra như thế”, nên mới thế vậy. Và, giả như người dặn dò và phán bảo, lại là thánh-nhân hiền-lành thời buổi trước, hẳn sẽ khác. Khác ở điểm, là: thánh-nhân hiền-lành chỉ nói và bảo như sau:

“Bởi vậy, cả tôi nữa, từ khi được nghe nói về lòng tin của anh em

vào Đức Giêsu, và về lòng mến của anh em đối với toàn thể dân thánh,

tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa vì anh em,

khi nhắc tới anh em trong những lời cầu nguyện của tôi.

Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô,

Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan

để mặc khải cho anh em nhận biết Người.

Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ,

đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được,

nhờ ơn Ngài kêu gọi,

đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú

anh em được chia sẻ cùng dân thánh.”

(Êphêsô 1: 16-18)

Và, những lời bảo ban/dặn dò từ đấng bậc cỡ chóp bu của Hội thánh vào hôm đó, thì sao? Sao lại có những lời như thể bảo:

“Từ buổi họp Thượng Đỉnh vào độ tháng 10 năm 2014 đến giờ, Đức Phanxicô đã cắt bỏ một cách thê-thảm những lời tuyến bố công-khai của ngài về việc ngài hỗ-trợ cho một đổi-thay diễn biến ở Giáo hội Công-giáo trong việc xử thế với các gia-đình nào bị rối rắm.” Đây là nhận-định của Sandro Magister, một Quan-sát-viên khá nổi cộm về các diễn-biến xảy ra ở Vaticăng, ông từng viết nhiều bài cho tờ L’Espresso.

Tác-giả Sandro Magister nhấn mạnh rằng: mặc dù Đức Giáo Hoàng từng đưa nhiều chỉ-dẫn nói là ngài ủng-hộ đề-nghị của Hồng Y Kasper vào độ trước ngày Hội Thượng Đỉnh diễn ra ở Rôma. Tứ lúc ấy đến nay, ngài thôi không nói về đề tài này nữa. Tác-giả Sandro Magister còn ghi chú thêm, là: Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tiếp-tục nói thẳng thừng về nhiều vấn-đề khác trước công-chúng. Nhưng, ông còn tiết-lộ thêm rằng: “ từ dạo cuối năm 2014 đến nay, vẫn chưa có đến một dịp thuận nào để ngài đưa ra dù một yểm-trợ nhẹ-nhàng nhất đối với mô-hình mới do các nhà canh-tân đưa ra.” (xem Bản tin trên tờ The Catholic Weekly ngày 17/5/2015 tr. 3 có đầu đề là: ‘Soft pedal’ on troubled marriage’)

Và một tin khác cũng trên tờ Tuần báo này, lạ đã ghi rằng:

“Một giám-mục người Anh hôm rồi, lại đã hoan-nghênh/cổ võ cho bản tuyên-ngôn của chừng 500 linh-mục ở nước này hối-thúc Thượng Hội Đồng Rôma năm nay hãy cho biết lập-trường của Giáo-hội khẳng-định về giáo-huấn của Giáo hội về hôn-nhân.

Giám mục Mark Davis thuộc giáo-phận Shresbury đã cảm kích các linh-mục từng ký vào bản tuyên-ngôn nói trên ngõ hầu “kiếm tìm một đường lối vui vẻ chưa từng có vào độ trước hầu can-dự vào cuộc bàn-thảo đi dần vào ngày hội của Giáo-quyền Rôma, tháng 10 năm 2015 này. Giám mục Shresbury còn nói thêm, là: các linh-mục đã nhận ra rằng phải luôn có lòng quả cảm rất siêu-nhiên ghê lắm mới có thể đứng trụ về chân-lý của Giáo hội, ở thời buổi có nhiều khủng-hoảng và lẫn lộn hôm nay.

Ý-kiến của Giám mục Davis lại khác hẳn tuyên-bố của Hồng y Vincent Nichols từng khiển-trách các linh-mục nhà mình về việc công-bố cho báo-chí/truyền-thông về một tuyên-ngôn công-khai như thế. Giám mục này cho rằng: cuộc bàn cãi về các vấn-đề này, lâu nay không được nhà báo tường thuật theo cung-cách tốt đẹp nhất.

Ở Hoa kỳ, có đến gần 1000 linh-mục nay từng ký một tuyên-ngôn tương-tự hầu kêu gọi Thượng Hội Đồng Giám mục ở Rôma nên có một thông-báo rõ ràng ngõ hầu làm dịu bớt sự lẫn lộn/ngộ nhận về giáo-huấn của Hội-thánh.” (xem The Catholic Weekly ngày 17/5/20215 tr. 3 có đầu đề là ‘Bishop applauds priest’ call for synod statement’)

Để cho vui cả làng Đạo lẫn đời, nay có bạn bè/người thân vừa gửi cho bần-đạo một truyện kể nghe như chuyện thường ngày ở huyện dân-gian có người bệnh/người lành cứ là thăm viếng nhau một vài lúc, lại cứ hỏi han rồi xin xỏ những chuyện rất khó, như sau:

“Có cô hoa hậu nọ đến bệnh-viện thăm thương binh ở quân y-viện. Đến bên giường một chiến-sĩ, cô ta hỏi:

-Nhiệm-vụ của anh là gì?

-Giao-liên.

-Vậy thì cho em hôn lên ‘đôi hài vạn dặm của anh’. Nàng nói rồi hôn lấy hôn để lên đôi bàn chân của anh lính.

-Còn anh?

-Sĩ-quan tham-mưu.

-Ôi… Cho em hôn lên ‘bổ tổng tham-mưu’ của anh đi!

Hôn lên trán chàng sĩ-quan xong, qua giường kế tiếp, cô hoa-hậu dạn-dĩ nựng yêu:

-Nào, chàng trai dũng-cảm, hãy nói cho em biết binh-chủng của anh đí?

-Cậu lính trẻ hoảng-hốt co đầu gối lên bụng, mặt đỏ bừng đáp:

-Em.. em xin chị …đừng .. Em ở bên Pháo-binh!?!” (Trích truyện kể ở trên mạng, gửi đã lâu).

Truyện kể chỉ có thế. Không nói nhiều. Cũng chẳng diễn chẳng tả được bao nhiêu. Nhưng mọi người cũng đều hiểu ý-nghĩa tóm gọn trong đó. Nhưng có những chuyện về: việc bảo ban trong gia-đình, lại thấy một số nhân-sĩ cũng như đấng-bậc-thày-dạy lại vẫn minh-định và/hoặc chú-giải các đoạn thánh-kinh có liên-quan đến tình-tự gia-đình nhiều khó-khăn/xung khắc, được kể ở trình-thuật mà người đọc mới nghe qua, đã thấy khó.

Nhưng, nếu hiểu đúng ý người viết cũng như tìm-hiểu tình-trạng các gia-đình ở Địa Trung Hải, người đọc sẽ thấy đôi điều ghi ở trình-thuật Tin Mừng này/khác có những câu thật cũng khó nghe, nếu ta không được diễn-nghĩa, cho đúng. Đó, là đoạn viết từ Tin Mừng Gốc, còn gọi là Tin Mừng “Quelle” ở trình-thuật Luca đoạn 12 câu 51-53 đại ý bảo:

“Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà-bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba. Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai, con trai chống lại cha; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng.”

Còn nhớ ý-chính trình-thuật này, khi trước cũng được đấng bậc giải-đáp thắc-mắc trên tờ The Catholic Weekly ở Sydney được trích đăng trên Chuyện Phiếm Đạo Đời có nhan đề Ià ”Ngày nào anh yêu em” NXb Hội Nhà Văn năm 2013, tr. 131-132, như sau:

“Nếu đưa đoạn này ra khỏi bối cảnh lời lẽ của Kinh thánh, ắt là ta sẽ nghĩ rằng Chúa Giêsu đến Ngài chỉ đem đến những bất bình cùng cãi tranh thôi; và như thế,ta cũng sẽ thôi không còn theo chân Chúa nữa.Thế nhưng, như một bạn đồng nghiệp rất khoa bảng chuyên chú giải Thánh Kinh của bổn báo đã từng nói: “Nếu ta lấy bất cứ câu Kinh thánh nào đem ra khỏi bối cảnh Lời Chúa, ắt hẳn còn lại chỉ là những chương đoạn ngớ ngẩn, chẳng nghĩa lý!” Và, đây là một trong những cái-gọi-là vớ vẩn, vẩn vơ ấy.

Bởi thế nên, ta hãy đưa bản văn/câu nói ấy vào với bối cảnh của toàn bộ Sách Tân Ước, mới được. Làm thế, ta sẽ hiểu được rằng Đức Giêsu thực sự đến với trần gian con người là để mang cho họ sự bình an và hiệp nhất…

Trước hết, nên nhớ rằng chính Đức Giêsu là dấu tích của sự “mâu thuẫn, rẽ chia”. Khi Ngài có mặt ở đền thánh Giêrusalem, cụ già Simêon đã tiên đoán về Ngài rằng: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng” (Lc 2: 34)

Nhằm rao giảng sự thật cần nắm vững, Chúa đã gặp biết bao nhiêu là chống đối rất đáng kể trong suốt cuộc đời Ngài và cuối cùng Ngài cũng bị dẫn đến cái chết do chính bàn tay của những người không sẵn sàng chấp nhận giáo huấn của Ngài được.

Đồ đệ theo chân Ngài cũng thế, các vị đều đã gặp nhiều chống đối. Thánh Phaolô liệt kê một loạt những nỗi khổ mà thánh nhân phải chịu khi rao giảng Tin Mừng (2Cr 11: 12-28). Và chính Hội thánh của Chúa cũng bị bách hại trước nhất là từ những người Do thái, rồi sau đó từ đế quốc La Mã suốt 250 năm.

Thế nhưng, tại sao Chúa lại nói về sự rẽ chia ngay trong gia đình? Là bởi vì, cũng thế, điều này thường là kết quả khi thành viên trong gia đình tin vào Lời Chúa, trong khi đó người kia lại không. Chắc hẳn nhiều người trong chúng ta đều biết đến chuyện hễ có ai hồi hướng trở về với niềm tin nơi Đạo Chúa, thường thì người ấy dễ bị thành viên khác trong gia đình hoặc toàn bộ gia đình mình khích bác, cấm cửa không cho về lại với gia đình.

Tin Mừng theo thánh Mátthêu, có nhiều đoạn Chúa cũng ám chỉ chuyện này. Sau khi nói về mẹ chồng sẽ chống lại nàng dâu, Ngài còn bảo: “Kẻ thù của mình chính là người nhà.” (Mt 10: 36) Chúa còn trích dẫn lời của tiên tri Micah, khi ông nói: “Quả thật, con trai khinh thường cha, con gái đứng lên chống lại mẹ, nàng dâu chống mẹ chồng, người trong nhà lại hoá ra thù địch.” (Mc 7: 6)

Và từ đó, Ngài nói tiếp: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy.” (Mt 10: 37)

Thế thì, nếu có ai khám phá ra sự thật ở Tin Mừng rồi đến mà thực thi Lời dạy của Chúa, hẳn nhiên là người đó yêu Chúa hơn gia đình mình và họ sẽ nghe theo tiếng gọi của Chúa, dù cho có phải gặp nhiều chống đối rẽ chia, từ phía gia đình.

Hiển nhiên là, Chúa đâu nào đã mang sự chia rẽ đến với ai bao giờ. Ngài chỉ muốn nói: Ngài biết là đôi lúc những người theo chân Ngài sẽ gặp phải chống đối. Sẽ có sự rẽ chia, và ly cách.

Điều Chúa mang đến, Ngài đã nói rõ điều đó, chính là sự bình an và hiệp nhất: bình an trong tâm hồn cho tất cả những ai theo chân Ngài. Hiệp nhất, tất cả mọi dân con đồ đệ của Ngài.”

Và đây, một cách giaỉ-thích cũng như tầm nhìn về vấn-đề này từ tác-giả John Dominic Crossan, bậc thày thần-học ở Đại học đường De Paul, Chicago Hoa Kỳ từng giải-thích rằng:

“Thông thường thì, mỗi khi các nhà chú-giải trích-dẫn mấy câu này, lại hay bảo: gia-đình, rồi cũng sẽ chia rẽ nhau như tình-trạng của một số người tin-yêu Đức Giêsu, còn người khác lại vẫn khước-từ không tin vào Ngài, chút nào hết.  Theo tôi, vấn-đề đây không liên-quan đến niềm tin của ai hết, mà chỉ nói về quyền uy/sức mạnh của gia-đình, thôi.

Cũng nên để ý đến điều được nói ở dụ-ngôn, về sự phân-cách giữa các thế-hệ. Đức Giêsu vẽ lên hình ảnh tiêu-biểu, về gia-đình ở Địa Trung Hải có 5 thành-viên, là: cha mẹ, con gái còn son sẻ, con trai đã có gia đình và vợ anh, tất cả đều chung sống trong cùng một mái nhà. Đức Giêsu nói: Ngài sẽ chia-cách những người như thế, khiến họ sẽ phải sống cách riêng-rẽ. Ngài công-kích, là về sự sắp xếp sức mạnh/quyền-uy của gia-đình có bậc mẹ cha đầy uy-lực ở bên trên con trai, con gái và dâu con của họ.

Thật ra thì, truyện này lại giúp ta hiểu được các truyện kể và lời Đức Giêsu nói  cốt dạy-dỗ mọi người về cuộc sống gia-đình. Gia-đình, là xã-hội thu nhỏ. Là, khung-cảnh ở trong đó ta học được khuôn-mẫu tình thương, ghen ghét, việc giúp-giùm đùm bọc và cả cung-cách người người cứ xách-nhiễu nhau. Không phải là, gia-đình nào cũng có cảnh sống chung rất ấm-cúng và dung-dưỡng nhau theo kiểu của Norman Rockwell ở trời Tây. Bởi lẽ, đời sống gia-đình dính-líu vào với uy-lực/quyền-bính, nên cũng dính-dự vào cả chuyện lạm-dụng quyền-lực nữa. Và, đó là quan-điểm/lập-trường mà Đức Giêsu muốn đả-phá, công-kích.

Nhóm/hội lý-tưởng của Ngài, trái-nghịch hẳn mọi sắp-xếp xã-hội thông-thường của nhân-loại. Nhóm/hội Ngài thiết-lập, lại mở rộng nên ai cũng có thể tiếp-cận được với nhau dưới trướng của Ngài. Nơi Vương Quốc Nước Trời, không có chuyện lạm-dụng quyền-lực. Tất cả, được chào đón rất vui vẻ. Mọi người đều ngang bằng đồng đều, giống nhau và ngang hàng nhau theo ý-định và mục-đích do Chúa định-đoạt.

Trong xã-hội dân-chủ vào thế-kỷ đương-đại, ta cũng không hề bị rút ra khỏi khuôn-mẫu của thế-giới đầy quyền-năng của Đức Giêsu. Ta cũng biết thế nào là lạm-dụng quyền-uy thế-lực trong đời sống gia-đình. Thành-ngữ “bạo-lực trong gia-đình” ta từng nghe đi nghe lại nhiều lần hơn các thế-hệ trước.

Nay, ta còn biết: lạm-dụng lớn/nhỏ thường nấp ở dưới mặt ngoài nhìn sơ qua thấy êm ả. Thành thử, dù ở thế-kỷ thứ nhất hoặc thứ 20, 21 này, thì việc Đức Giêsu công-kích về gia-đình vẫn có đôi điều để nói, là: không cơ-cấu gia-đình nào, lại trở-thành tuyệt-đối hết. Mọi cấu-trúc hiện-tỏ cho con người là để ta dung-dưỡng/chấp-nhận nhau, mà sống sót.

Đời sống gia-đình, cũng tựa hồ cuộc sống nhân-loại, đều nằm trong phạm-vi ở Vương Quốc Nước Trời, do Chúa định-vị. Đời sống gia-đình, giống mọi hình-thức khác có  liên-đới/kết-hợp với con người. Nó hiện-hữu vì mục-đích công-bằng và tình-thương, mà thôi.” (x. John Dominic Crossan, Who is Jesus, nsb Westminster John Knox Press 1996 tr. 47-48)

Như ở trên, Đức Giêsu từng hô-hào về Vương Quốc Nước Trời, tức xã-hội mà mọi người nam cũng như nữ, nghèo và giàu cũng đồng-đều/như nhau, thì chắc chắn sẽ gây chia-cách mọi người trong cùng gia-đình/xã-hội ấy, mà thôi.

Thành thử ra, có hát hoặc có nói với nhau những lời như: “Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe không nghe”. Vì không nghe, nên mới không hiểu. Thành thử, tưởng cũng nên trở về với Lời Vàng thánh, khi xưa bậc thánh-hiền từng căn-dặn, rằng:

“Bởi thế, một khi đã cởi bỏ sự gian dối,

mỗi người trong anh em hãy nói sự thật với người thân cận,

vì chúng ta là phần thân thể của nhau.

Anh em nổi nóng ư?

Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn.

Đừng để ma quỷ thừa cơ lợi dụng!…

…Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa,

nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp,

để xây dựng và làm ích cho người nghe.”

Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa,

vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc.

Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ,

và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác.

Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau,

như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô.”

(Êphêsô 4: 25-32)

Những lời dặn dò trên đây, tưởng cũng quá đủ để tôi và bạn, hoặc những vị có quyền trong Giáo-triều Rôma, hãy nhớ mà tạo lấy cho riêng mình như lời để đời mà sống cho vui, cho hạnh phúc, suốt đời.

Để làm dịu bớt tình-hình mang tính cách “chuyện phiếm” cả đạo lẫn đời, tưởng cũng nên đi vào vùng trời đầy truyện kể cũng như lời nhắn nhủ đời, như sau:

“-Đến một lúc, chúng ta bỗng thông hiểu tất cả mọi quy luật của đất trời rằng không có gì là trường tồn bất biến, ngược lại chính nhờ sự biến đổi ấy mà chúng ta có những điều mới mẻ tinh khôi.

ến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.

Chúng ta sống quá lâu trong thành kiến và định kiến hẹp hòi cùng với lòng kiêu mạn đứng chen chân trong một ngôi nhà bản ngã; đến một lúc, chúng ta cần phải bước ra khỏi cửa để được ngắm nhìn toàn bộ sự mênh mông và bát ngát của đất trời.

Đến một lúc, chúng ta cảm nhận được niềm vui khi tấm lòng rộng mở và trái tim thắp sáng lên niềm tin yêu cuộc sống.

Đến một lúc, chúng ta nhìn lại và cười nhạo vào những trò hề do chính mình tạo ra và chúng ta trở nên lặng lẽ để thấy rõ sự cần thiết của tĩnh tại tâm hồn.

Chúng ta chợt nhận thấy quy luật sâu xa của cuộc sống hạnh phúc không chỉ là đón nhận mà còn phải là sự cho đi.

ến một lúc, cảm thấy ngập tràn hạnh phúc không phải vì chúng ta vớt lên được cái gì đó từ dòng nước mà chính là quăng bỏ bớt cho dòng nước cuốn trôi.
ến một lúc, chúng ta hiểu được sự thật của niềm vui không phải là ở đỉnh vinh quang hay ngọn núi ngập hoa vàng mà chính là từng bước chân thảnh thơi và được ngắm hoa cỏ dại trên đường.

Chúng ta chợt nhận ra rằng hạnh phúc không phải ở đâu xa mà chính là sự mãn nguyện trong từng phút giây hiện tại.

Khi đã trải qua bao nhiêu buồn vui thương ghét, bao hi vọng chán chường, bao thành công thất bại, đến một lúc chúng ta chợt nhận thấy rằng tất cả mọi sự đời đến và đi, có rồi không dường như chỉ là một tuồng ảo hóa.

Chúng ta cảm thấy mọi lý luận, ngôn từ đều thừa thãi, thay vào đó chỉ cần một nụ cười, một ánh mắt hoặc một tình thương nồng ấm dẫu chỉ là của người khách qua đường cũng đủ làm cho ta ấm lòng và tươi vui hơn trong cuộc sống.

ến một lúc, chúng ta thấy tuổi trẻ của mình chỉ toàn là ước mơ cùng với nỗ lực vào tương lai hun hút, và đến lúc già đi thì luôn hồi ức tiếc thương một dĩ vãng đã xa rồi. Trong một đời người ngắn ngủi chúng ta đã đánh lỡ đi bao sự sống nhiệm mầu trong thực tại giản đơn.

tiếc thương một dĩ vãng đã xa rồi. Trong một đời người ngắn ngủi chúng ta đã đánh lỡ đi bao sự sống nhiệm mầu trong thực tại giản đơn.

Đến một lúc, chúng ta hiểu ra rằng duy chỉ có tình thương, chứ không phải có bất cứ thứ gì khác  giúp con người thiết lập được trật tự mới và hòa bình cho nhân loại.

Mọi dòng sông đều chảy ra biển cả, mọi con đường chân lý đều hướng về nẻo đạo vô biên và mọi yêu thương chung cuộc đều đạt đến chân phúc.

Đến một lúc, chúng ta cần phải dọn đất trồng hoa trên mảnh vườn của mình còn hơn mỏi mòn chờ đợi ai đó mang hương sắc đến dâng cho.

Tất cả mọi hành động của ta chỉ là những đợt sóng lăn tăn trên mặt biển nhưng trong lòng đại dương sâu thẳm vẫn còn đó sự lặng lẽ bình yên.

Đến một lúc, chúng ta cảm thấy những việc làm thường nhật phải là niềm vui cho sự sống hàng ngày không phải là sự bắt buộc hay là một quán tính khô khan, máy móc của đời mình.

Hiểu ra rằng bản ngã ích kỷ thường khiến mình nhìn thấy lỗi lầm, sự xấu xa của người khác hơn là chính bản thân mình. Chúng ta thường che đậy và bảo vệ mình khỏi tổn thương nhưng vô tình điều ấy là tự ôm chất độc và giết chết bản thân mình.

Đến một lúc, chúng ta cảm thấy sự tha thứ, bao dung là món quà tặng vô giá và cầ thiết mà con người có thể trao tặng cho nhau không bao giờ cạn.

Khi chúng ta thấy mình tham vọng quá lớn trong khi đời người thật ngắn ngủi, đó là lúc mình hiểu ra hành trang cho lộ trình vạn dặm không phải là những gì có thể nắm bắt bên ngoài mà đó là yếu tố tâm linh bất diệt bên trong.

Đến một lúc, chúng ta hiểu con đường tâm linh thì tuyệt đối đơn độc, không ai có thể đi theo dẫu đó là người thân yêu nhất.

Chúng ta cảm nhận những khoảnh khắc tĩnh lặng nhỏ bé của tâm hồn còn quý giá hơn cả những tài sản được cất chứa chung quanh là lúc chúng ta định lượng được giá trị chân thật của một kiếp người.

Chúng ta hiểu rằng cần phải thánh hóa đời sống hơn là chạy đi tìm thiên đường ở chốn xa xăm. Đến một lúc, chúng ta cảm thấy không sợ hãi địa ngục hoặc một thế lực tối cao, nhưng bằng trí tuệ tuyệt vời, chúng ta thấy rằng vạn pháp vốn là không và số phận tùy thuộc vào khả năng giác ngộ của chính mình.

Chúng ta cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thản trước những mất mát, đau thương vì dòng nước thanh lương có thể cuốn trôi đi bao hệ lụy và có thể đưa chúng ta bến bờ rạng rỡ của ngày mai.”

Và, lời cuối của bần đạo bầy tôi đây, là: lúc ấy đã đến rồi đó bạn, tôi ạ. Vậy thì, ta hãy mạnh dạn mà hướng thẳng về phía trước để rồi sẽ sống vui, sống mạnh, sống vững vàng, không sợ gì ngăn trở hoặc điều gì sẽ xảy ra rất trái ý ta, trái ý mọi người. Ở đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn một lòng một dạ

ra như thế.

Em hãy ra bờ sông nhìn nắng trải,

Tin Mừng (Mc 6: 7-13)

Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ.  Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. Người bảo các ông:

“Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.”

Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.

“Em hãy ra bờ sông nhìn nắng trải,”

“Nhớ cho mình dáng dấp người yêu.

Lỡ giòng đời tóc điểm muối tiêu,

Còn giây phút chạnh lòng như…mới lớn.”

(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mai Tá, lược dịch

Nhìn nắng trải” ở bờ sông, để “nhớ cho mình dáng dấp người yêu” tuy chỉ là lời nhắn của người đời. “Còn giây phút chạnh lòng, như mới lớn”, có thể là lời nhủ và khuyên, ở nhà Đạo.

Nhiều năm về trước, nhà Đạo mình  lại thấy Đức Giáo Hoàng nọ có quyết định, là: các đạo hữu gốc Do Thái nên rời Rôma, đi nơi khác mà sống đạo. Ngay khi ấy, đã xảy ra làn sóng bất bình giữa cộng đồng sắc tộc nhỏ bé này.

Thành thử lúc bấy giờ, Đức Hồng Y chủ quản đã phải ra tay dàn xếp. Ngài ngỏ ý, cộng đồng đạo hữu nên đề cử một vị đến tham gia tranh luận về tôn giáo với ngài. Nếu cộng đồng người Do thái thắng, họ ở lại. Nếu Ngài thắng, cộng đồng này phải xách gói ra đi.

Cộng đồng tôn giáo bạn thấy không còn chọn lựa nào khác, đành cử người tham dự cuộc tranh luận với Đức Hồng Y Chủ quản. Cuối cùng, người đại diện bên bạn chẳng là ai khác ngoài một lão ông chân phương, đơn độc mang tên Mô-Shê. Lão ông lâu nay giữ chức “ông từ” chuyên mở cửa cho đạo hữu đến cầu nguyện, mỗi thứ sáu.

Thoạt đầu, vào lúc khởi sự tranh luận, lão ông đề nghị: hai bên sẽ không phát biểu bằng lời nói, mà chỉ ra dấu thôi. Hiểu ý hay không, tuỳ tài trí thông minh của mỗi vị.

Ngày “N” đến. Đức Hồng Y và lão ông Môi-shê ngồi trực diện, hỏi đáp tranh luận nhau bằng dấu hiệu. Đức Hồng Y khởi sự trước. Ngài giơ 3 ngón tay ra dấu rất tự tin. Lão ông đáp lại, chỉ đưa duy nhất có một ngón.

Kế đến, Đức Hồng Y dùng tay vẽ đường tròn, ngay trên đầu. Lão ông lại trỏ ngón tay xuống đất, rất bất đồng. Đức Hồng Y bèn rút từ trong túi ra, những bánh và rượu, đầy đủ cả. Đáp lại, lão ông đem trình làng mỗi trái táo xanh, rất đơn giản.

Bất chợt, Đức Hồng Y đứng dậy nói: Thôi được, tôi chào thua. Người này quá giỏi! Được rồi! Các bạn cứ việc ở lại, đừng lo lắng.

Ít lâu sau, có người hỏi ý nghĩa cuộc đối thoại bằng tay vừa rồi là gì, thì Đức Hồng Y giải thích: tôi ra dấu 3 ngón tay tỏ ý: ta tin vào Đức Chúa Trời Ba Ngôi. Thì, ông ta chỉ giơ có một ngón, ra điều nhắc nhở là: chúng ta đều cùng tin vào một Đức Chúa.

Thế rồi, tôi dùng tay để vẽ hào quang trên đầu, ý bảo rằng: Thiên Chúa đang ở quanh ta. Thì, ông ấy phản bác lại bằng cách ra dấu có một ngón, chỉ xuống đất. Ý chừng muốn nói: Đức Chúa của chúng ta đang hiện diện, ở nơi đây. Lúc này.

Kịp đến khi, tôi đem bánh và rượu ra, chứng minh: Chúa ban phép cho anh em mình cử hành Tiệc Thánh, để nhận lãnh Thân Mình Ngài. Thì, lão trự ấy rút ra quả táo xanh, có ý nhắc nhở ta về lỗi lầm muôn thưở; tức, tổ tiên cha ông ta đã phạm lỗi. Cuối cùng, lão ta tinh ranh hơn, giải mã được hết mọi chuyện chúng tôi ra dấu. Tôi còn biết làm gì hơn nữa, bây giờ?

Lúc ấy, lão ông Môi-Shê cũng giải thích cho đám kinh sư cứ nhao lên hỏi kết quả cuộc tranh luận, đối đầu. lão ta nói: Dễ hiểu thôi! Trước nhất, ông ấy bảo với tôi: Người Do thái mình chỉ còn độc nhất có 3 ngày để rời thành này. Tôi đáp ngay: không 1 người nào trong anh em chúng tôi đi đâu, hết.

Sau đó, ông nói: Toàn bộ thành La Mã sẽ biến sạch không còn bóng người Do thái nào hết. Tôi bèn đáp: chúng tôi vẫn cứ ở đây. Bây giờ và mãi mãi. Thiên thu. Bất tận. Thế là, đám kinh sư/thượng tế nhao lên: Ấy thế, kết cuộc ra sao? Lão ông trả lời: Tôi cũng chẳng biết. Có điều lạ, là: sau đó, ông ta đem bữa trưa của mình, ra ăn. Còn tôi, tôi cũng ăn đồ ăn của mình. Đơn giản chỉ có thế!

Xem ra, cuộc sống ở đời tùy vào cách thức ta đọc và hiểu các tín hiệu chỉ dẫn, đơn giản chỉ như thế.

Tin Mừng hôm nay, kể việc Đức Kitô răn dạy môn đệ: hãy biết trân quý 3 tín hiệu của cuộc đời, là: sống giản dị, sống quan tâm đến người khác; và, sống hiếu khách. Việc này xứng hợp đa số các sự việc xảy đến, qua thái độ sống của con người, ngày hôm nay.

Thời buổi này, thiên hạ chỉ thích chuyện giàu sang, phú quý. Người người chỉ muốn sống tách biệt. Chẳng đoái hoài một ai. Dường như, ai cũng muốn làm thủ trưởng, thủ lãnh ngồi trên đầu trên cổ người khác, thôi.

Với Đức Kitô, ai muốn làm môn đệ Ngài, đều phải nhớ: điều cao quý nơi con người, không là chuyện giàu sang, phú quý. Mà là: tư cách và thái độ biết quan tâm đến người khác. Dĩ nhiên, trong cuộc sống, của cải/vật chất đều rất cần.

Nhưng vấn đề là: ta có biết sử dụng của cải/vật chất mình kiếm được, mà phân phát/tặng ban cho những người thiếu thốn, cần hơn mình, không? Nói các khác, ta phải làm chủ đồng tiền, chứ đừng để tiền bạc/vật chất làm chủ, điều động ta.

Với Đức Kitô, dù là đá tảng hay hải đảo cách biệt, đây không là dấu hiệu của sức mạnh của uy quyền; mà chỉ là ưu tư vang vọng. Kéo dài. Tín hữu Đức Kitô có được sức mạnh quyền uy, phải là người biết vui, biết mừng khi hỗ trợ cho nhau. Cậy nhờ, nâng đỡ nhau. Ở mọi nơi. Vào mọi lúc. Thật sự cảm kích, biết ơn nhau vì đã tạo sự hiệp thông, hỗ trợ.

Với Đức Kitô, người tín hữu mang Danh Ngài, là người biết tạo dịp cho người khác không thấy có điều gì trở ngại khi ngỏ ý nhờ mình giúp đỡ. Hỗ trợ. Đặc biệt hơn, là những người có nhu cầu chính đáng, nhưng chưa được đền bù. Đó là tín hiệu giúp ta nhận ra Vương quốc Nước Trời, đang hiện hữu ở quanh đây. Bây giờ.

Sống đúng chức năng của Kitô hữu, điều quan trọng là: biết nhận ra tín hiệu thời đại. Thế nên, tham dự tiệc thánh hôm nay, ta cầu mong cho tiệc Lòng Mến giúp ta nhận ra được tín hiệu: Chúa đang hiện diện nơi ta.

Cầu và mong sao, bánh và rượu ta dâng tiến, giúp ta thay đổi được cuộc sống. Cầu và mong, cho cuộc sống của ta sẽ thích nghi hài hòa với mọi người. Sống giản đơn, vui vẻ, đỡ nâng nhau để sống hân hoan hiếu khách, không câu nệ hoặc ỷ lại. Nhưng an hòa và biết đem thì giờ cùng khả năng và nghị lực của mình ra để xây dựng Nước Trời, ở nơi đây. Lúc này.

Trong suy-tư/niệm tình, ta cùng nhau ngâm tiếp câu thơ đời có nỗi buồn, vẫn bảo rằng:

“Mình hãy trách đời nhau nhiều hư-hỏng,

Rồi giận hờn, cho kỷ-niệm đầu tay.

Thu miên man, không thấy lá vàng bay.

Anh phải nói: buồn chúng ta màu trắng…”

(Nguyễn Tất Nhiên – Sầu khổ Dịu Dàng)

Sầu và khổ, chỉ dịu dàng một mầu trắng khi nhà Đạo mình không nhận ra những điều do đấng thánh hiền-lành từng khuyên-bảo hết mọi người ở Nước Trời, hôm nay và mai ngày, rất như thế.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá, lược dịch

Lễ Độc Lập Hoa Kỳ Và Di Dân Việt Nam

Lễ Độc Lập Hoa Kỳ Và Di Dân Việt Nam

Giao Chỉ, San Jose tháng 7-2015

Lời nói đầu:

Bài này đă viết lần đầu vào cuối thập niên 80, sau đó cứ khoảng 5 năm được nhật tu và sửa chữa. Sống ở Mỹ, mỗi ngày học thêm được bài học công dân và tự điều chỉnh việc suy tư. Năm nay nhân dịp 40 năm định cư tại Hoa Kỳ, đất nước trẻ trung đã già 240 tuổi, tác giả xin cập nhật thêm một lần cùng với những vấn nạn dân sinh tại Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ thi 21. Trải qua 40 năm, di dân Việt nhập cư vào Mỹ đã cùng chia xẻ những đề tài xã hội trên quê hương mới bao gồm các lãnh vực sau đây:Trợ cấp xã hội, bảo hiểm y tế, chuyện đồng tính, chuyện phá thai, chuyện súng đạn, chuyện kỳ thị, chuyện nhập cư…và sau cùng là việc đương đầu với biết bao nhiều khó khăn đối ngoại để bảo vệ an ninh cho đất nước và giữ mãi vai trò lãnh đạo thế giới. Dân Việt bắt đầu từ di tản đến ty nạn cộng sản và sau cùng trở thành các di dân chính thức xây dựng cuộc sống tại Hoa Kỳ, chúng ta đã hưởng phúc lợi và chia xẻ khó khăn của đất nước này, xin một lần nhắc lại trang sử lập quốc của quê hương tạm dung nay đã trở thành vĩnh viễn.

Nation of America – Denny Nguyen

Ngày Quốc Lễ

Ngày 4 tháng 7 hàng năm là ngày lễ trọng đại nhất của Hoa Kỳ. Đó là ngày Mỹ quốc Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 và bắt đầu chiến tranh cách mạng chống lại Anh quốc trong 6 năm. Đến 1782 Anh và Mỹ ký thỏa ước ở Paris và công nhận Hoa Kỳ độc lập. Người Mỹ đã chiến thắng trận chiến tranh đầu tiên của lịch sử Hiệp Chủng Quốc.
Là công dân gốc Việt trong đợt di dân cuối cùng của thế kỷ 20, chúng ta nên tìm hiểu về đất nước mà chúng ta lập nghiệp. Dân tỵ nạn Việt Nam đầu tiên đến Mỹ đã được dự ngày kỷ niệm 200 năm lập quốc vào năm 1976. Đến bây giờ nước Mỹ đã già thêm 40 năm nhưng lịch sử trẻ trung của Hiệp Chủng Quốc vẫn phong phú và cũng rất độc đáo. Hoa Kỳ là quốc gia bao gồm tất cả các sắc dân, các ngôn ngữ, các tập tục văn hóa. Nước Mỹ đã có các kỷ niệm vừa hung bạo vừa nhân từ. Tiêu diệt da đỏ, bắt da đen làm nô lệ, kỳ thị da vàng, đem quân đi làm cảnh sát trên thế giới, đi đến đâu là gây sóng gió ở đó. Hoa Kỳ cũng là quốc gia phát huy tự do dân chủ toàn cầu, viện trợ kinh tế, quân sự, giáo dục, xã hội, văn hóa cho toàn thể các quốc gia chậm tiến trên thế giới. Đặc biệt nhất là vai trò lâu dài của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam đã trở thành một vết thương cay đắng trong thế kỷ 20, nhưng qua thế kỷ 21 Mỹ quốc lại trở thành niềm hy vọng đồng minh giữa cơn sóng gió biển Đông.
Biên cương của Hoa Kỳ trên địa cầu là một vùng đất bao la tiếp giáp với hai đại dương Thái Bình Dương và Đại Tây Dương. Tiểu bang Alaska của Hoa Kỳ là ải địa cầu trấn giữ Bắc Băng Dương. Biên giới không gian của Hoa Kỳ lên đến mặt trăng và Mỹ quốc cũng đã đặt cọc trên đất trên hỏa tinh. Hai ngàn vệ tinh kinh tế thương mại và quân sự của Hoa Kỳ canh gác toàn vùng khí quyển của quả đất. Đế quốc nhân văn của Hiệp Chủng Quốc thống trị thế giới bằng các tòa đại sứ và lãnh sự luôn luôn tấp nập các khách hàng xin visa.
Cơ sơ ngoại vi của các đại sứ quán Hoa Kỳ là những chỗ bán thức ăn Fast Food McDonald, Coke, nhạc Rock và quần Jeans. Mỹ phát thực phẩm cho dân nghèo toàn thế giới nhưng đi đến đâu cũng bị đuổi về nhà: Yankee go home.

Đó là hình ảnh Hoa Kỳ ngày nay, sau 239 năm lập quốc. Đất nước mà chúng ta đang là công dân có đứng lên tuyên thệ bảo vệ và tuyệt đối trung thành.Vì vậy chúng ta cũng nên biết qua lịch sử của quê hương mà phần đông chúng ta sẽ cùng các thế hệ tiếp theo ở lại đời đời.

Ai là người đầu tiên trên đất Mỹ?

Các nhà nhân chủng học cho biết 12 ngàn năm trước lục địa còn dính liền cuối thời băng giá. Á châu và Mỹ châu nối tiếp ở phía Bắc. Con người tiền sử Á Châu đi tìm đường sống đã đi từ Á qua Mỹ. Sau đó quả đất chuyển đổi, hai lục địa tách xa nhau. Người Á châu tiền sử trở thành thủy tổ của các bộ lạc ở Bắc Mỹ. Tuy nhiên, thực ra đây cũng chỉ một là giả thuyết.
Thực tế ghi nhận nhiều nền văn minh đã được kiến tạo, nhiều bộ lạc đã tàn lụi. Sau cùng chỉ còn các bộ lạc da đỏ tồn tại cho đến thời kỳ 1500 các sắc dân Tây phương mới đến Mỹ bằng đường biển. Nổi danh nhất là nhà hàng hải Columbus năm 1492 đi tìm Á châu nhưng tình cờ khám phá ra Mỹ châu. Rồi tiếp theo là Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh Cát Lợi, Pháp, Đức rồi đến Nga và các quốc gia Đông Âu tìm đến châu Mỹ.

Các cuộc chiến đẫm máu, triền miên ở tân lục địa giữa người địa phương và dân giang hồ mới đến. Chiến tranh giữa các thế lực Tây phương. Sau cùng Anh quốc ổn định được phần lớn miền Đông Hoa Kỳ và các di dân Âu châu bắt đầu lên đường. Con tàu Hoa Tháng Năm, May Flower nổi tiếng đến Mỹ năm 1620 vỏn vẹn có 100 người mà một nửa là thủy thủ đoàn đã trở thành biểu tượng của cuộc định cư trên đất mới vì có đem theo gia đình.
Năm 1621 di dân được mùa đã cùng tổ chức Lễ Tạ Ơn và ăn mừng với dân da đỏ trong một lễ Thanksgiving đầu tiên của nhân loại.
Nhưng rồi những ngày vui qua mau. Thổ dân tại Mỹ chết dần vì bị giết, bị đói, bị bệnh, có thể do các mầm bệnh từ tây phương đem đến.
Trong khi đó từ 1620 đến 1732 tức là hơn 100 năm. Một nước Mỹ thuộc Anh đã hình thành với 13 tiểu bang liên hiệp ở miền Đông. Phần lớn làm nghề nông, trồng thuốc lá, trà, và lúa. Các vùng khác thuộc Tây Ban Nha, Pháp vẫn còn tranh chấp.
Cuộc chiến 1754 giữa Pháp và Anh giành đất trong 7 năm, sau cùng Anh thắng và mở rộng biên cương thuộc địa.

Tiếp theo nước Anh cần tiền cho mẫu quốc nên đánh thuế các thuộc địa, thu tiền các nhà sản xuất và các đồn điền tại Hoa Kỳ. Chính sách thuế của Anh ban hành năm 1774 trở thành mầm mống cho cuộc chiến dành độc lập tại Hoa Kỳ. Tướng Washington nhận trách nhiệm lãnh đạo cuộc chiến tranh cách mạng vào năm 1775 và chính thức đứng ra tuyên bố độc lập 1776. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập do Thomas Jefferson đại diện tiểu bang Virginia viết ra lúc ông 33 tuổi được coi là một áng văn tuyệt tác nhất của nhân loại và mở đầu cuộc chiến dành độc lập cho đến chiến thắng cuối cùng bằng hiệp định Paris 1782.

Sau chiến thắng, Hoa Kỳ có 5 năm xây dựng dân chủ từ 1782 đến 1787 để hiến pháp ra đời với 9 tiểu bang chính thức rồi đến 13 tiểu bang thỏa hiệp. Những lá cờ Mỹ đầu tiên có 9 ngôi sao rồi 13 ngôi sao và bây giờ là 50 ngôi sao.
Suốt từ buổi bình minh của Hiệp Chủng Quốc cho đến nay, nước Mỹ đã trải qua biết bao nhiêu là biến động.
Từ hơn 4 triệu dân vào năm 1800 trở thành trên 300 triệu vào năm 2015. Trên giấy tờ có 239 năm lập quốc nhưng thực sự quốc gia này đã nảy mầm từ trên 300 năm.

Ý nghĩa Hiệp Chủng Quốc.

Phải chăng Hoa Kỳ là một đĩa rau trộn gồm đủ mọi sắc thái nhưng tía tô vẫn là tía tô, rau giấp cá vẫn nồng nàn mùi tanh của biển mặn. Hay đây là nồi cháo mà mọi thứ thực phẩm đã được hòa tan thành một hương vị mới. Cái đó còn tùy hoàn cảnh, địa phương và thời gian.
Nước Mỹ đã trải qua các giai đoạn hành động tàn nhẫn với các sắc dân thiểu số. Vào thế kỷ thứ 19, da trắng buộc dân da đỏ phải di cư tập trung vào các khu vực ấn định. Thảm kịch diễn ra trên các con đường mòn được gọi là: Đường mòn nước mắt.
Da đỏ già trẻ lớn bé đều phải ra đi, bỏ nhà cửa, vườn trại để vào các khu đồng khô cỏ cháy xa cách vạn dặm. Hàng chục ngàn người đã chết.

Trong khi đó ở miền Nam Hoa Kỳ, dân da đen bị bắt làm nô lệ đem từ Phi châu qua đã trở thành một lực lượng lao động quan trọng. Những bàn tay đen đủi đã xây dựng nên nền nông nghiệp miền Nam nuôi cả nước Mỹ vào thời kỳ lập quốc với những vườn bông vải trắng xóa cả chân trời. Nhưng cũng chính da đen là vấn nạn cho cuộc chiến tranh tương tàn Nam Bắc. Những người da đen bỏ trốn các nông trại đã bị đánh roi cho đến chết. Câu chuyện Uncle Tom với bài ca da đen lừng danh: Let my people go, Hãy cho dân tôi đi, trích dẫn từ Thánh Kinh đã trở thành một vết thương trong lương tâm Hoa Kỳ.
Da đỏ xin ở lại thì bị đuổi đi. Da đen xin đi thì bị giữ lại. Ngay khi nội chiến chấm dứt, da đen được giải phóng mà vẫn còn bị kỳ thị.

Cuộc chiến đấu vĩ đại của một đàn bà da đen năm 1955 không chịu ngồi phía sau xe bus đã trở thành một cuộc tổng đình công vĩ đại tẩy chay xe bus tại Hoa Kỳ. Từ cuộc đình công này, da đen có được một nhà lãnh đạo đầy huyền thoại là mục sư King mà tên tuổi trở thành một ngày quốc lễ.

Rồi đến lịch sử Tây tiến làm đường xe lửa đem da vàng Nhật Bản và Trung Hoa nhập cuộc. Các tiền nhân di dân châu Á cũng đã ngậm đắng nuốt cay ở miền Tây Hoa Kỳ trong suốt thời lịch sử cận đại.
Sau cùng đến lượt chúng ta. Việt Nam ngày nay có một triệu tám trăm ngàn người tại Hoa Kỳ. Sau đợt di tản 75 tiếp đến là thuyền nhân từ 75 đến 95 rồi là các HO, ODP, con lai nhập cư cho đến cuối thế kỷ thứ 20. Qua thế kỷ 21 hồ sơ đoàn tụ tiếp tục với các gia đình trên 10 năm chờ đợi cùng với các diện hôn nhân gặp gỡ vội vàng. Mười quận hạt có dân số đông đảo nhất là Orange, Santa Clara, Los Angeles, Houston, San Diego, Seattle, Oakland, DC, Dallas và Fort Worth (Texas).

Chúng ta không phải là sắc dân cuối cùng, và chúng ta không phải là sắc dân duy nhất có quê hương cố quốc. Di dân tỵ nạn Việt Nam tùy theo hoàn cảnh và cảm nghĩ, có người mang theo quê hương, có người bỏ lại quê hương. Tuy nhiên chúng ta không thể hành xử khác tập thể di dân trong trách nhiệm xây dựng đất mới.
Sắc dân nào cũng có những niềm tự hào của họ. Ai cũng có các hãnh diện về truyền thống văn hóa, ngôn ngữ cội nguồn. Điều quan trọng là phong cách đối xử và tìm hiểu để hội nhập. Chúng ta phải cảm ơn những người đi trước đã mở đường. Kể cả người xấu lẫn người tốt đã sống và đã qua đi trong công cuộc chinh phục đất nước vĩ đại này.
Một lần nữa, đợt người Việt đầu tiên ở Mỹ sẽ là nhưng cây tràm, cây đước giữ chặt đất cho một cộng đồng tương lai phát triển. Con cháu chúng ta sẽ vừa nhớ ơn ông cha đã đến đất này mà cũng không hổ thẹn về những đóng góp của chúng ta trong những giai đoạn đầu tiên. Bỏ lại phía sau con sông Hồng, sông Hương, sông Cửu Long và dãy Trường Sơn. Bây giờ ta phải làm quen với con sông Sacramento và rặng Rocky Mountain để con cháu ta đứng lên đáp lời sông núi mới.

Xin hãy công bình với hoàn cảnh. Hãy lưu tâm ngày 4 tháng 7 của Hoa Kỳ. Bước ra khỏi cái Ghetto của cộng đồng nhỏ hẹp, tham dự vào cái xã hội vĩ đại đã đem phúc lợi cho chúng ta. Đó là cách hay nhất để xây dựng cùng một lúc cộng đồng tại Mỹ và quê hương bỏ lại ở Việt Nam. Bao gồm cả giấc mơ tự do và dân chủ.

Giao Chỉ, San Jose 2015

Anh chị Thụ Mai gởi

KHI NGƯỜI VÔ THẦN SÁM HỐI

KHI NGƯỜI VÔ THẦN SÁM HỐI

Trầm Thiên Thu

Tôi là người vô thần.  Tôi không tin Thiên Chúa và cố chứng minh rằng người ta thật ngu xuẩn khi tin vào Thiên Chúa!

Nếu bạn hỏi tôi rằng tôi có nghĩ “tội lỗi” hiện hữu hoặc tôi có bao giờ phạm tội hay không, tôi sẽ cười thật to. “Tội lỗi là khái niệm của Kitô giáo muốn quy kết các cảm giác tội lỗi về những sự tưởng tượng là xúc phạm ra tới một Thiên Chúa cũng do tưởng tượng mà thôi”, và thậm chí tôi còn có thể nói điều gì đó để châm biếm bạn.

Không, tôi chưa bao giờ phạm tội.  Nhưng, cũng như mọi người, đôi khi tôi biết mình làm những điều khiến người khác bị tổn thương.  Và sau đó, nếu tôi ngĩ về điều đó, tôi sẽ cảm thấy không ổn và thậm chí còn phải xin lỗi họ.  Có thể những cảm giác tội lỗi đó do di truyền từ nguồn gốc, hoặc được xây dựng mang tính xã hội, nhưng tôi không cố giải thích để biện minh hành vi xấu của tôi với cách duy lý hóa như vậy.  Cho dù tôi là người vô thần, tôi vẫn cảm thấy ý chí tự do hiện hữu và có các tiêu chuẩn luân lý khách quan rằng vượt quá giới hạn cho phép là sai trái.

Sau khi thua cuộc đối với sự rối loạn lo âu về xã hội, hoang mang, và trầm cảm, lần đầu tiên trong đời tôi nhìn Kitô giáo bằng cách nhìn chân thật.  Tôi bỏ qua sự phản ứng với chữ “tội lỗi”, và cố gắng hiểu những gì mà Đức Tin Kitô giáo nói về nguyên nhân tội lỗi… và cách chữa trị.  Nhờ tôi cầu nguyện, và nhờ Đức Tin Thiên Chúa ban cho tôi, tôi nhận thấy điều xấu mà tôi đã làm không chỉ làm tổn thương người khác, mà còn chống lại Thiên Chúa tốt lành, Đâng yêu thương tôi và đáng được tôi yêu mến.

Chúng ta không ai lại muốn làm tổn thương người mà mình yêu thương.  Rất ít người yêu chúng ta trọn vẹn, vẫn có sự ích kỷ.  Khi tôi tin vào Đức Kitô, tôi nhận thấy rằng tôi đã làm tổn thương Ngài bằng tội lỗi, và làm Ngài đau khổ quá đỗi.  Nhưng liệu pháp còn lớn hơn: Lòng Chúa Thương Xót. Khám phá được Đức Kitô là tình yêu và lòng thương xót sẽ khiến người ta rơi lệ vì đau buồn và biết ơn.  Khi người ta có được “kinh nghiệm hoán cải” thì sẽ ăn năn và vui mừng đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa.

Suốt những năm sống vô vọng và vắng bóng Thiên Chúa, tội lỗi đè nặng trên tôi.  Nước rửa tội đổ trên tôi, và Hồng Ân Thiên Chúa đầy tràn trong tôi.  Bây giờ tôi mới hiểu dụ ngôn Chúa Giêsu nói về người đầy tớ không tha thứ cho người đã làm điều chống lại anh ta.  Tôi mong cho mọi người, nhất là bạn bè và gia đình tôi – những người chưa nhận biết Đức Kitô, sẽ trở về tin vào Ngài và đón nhận lòng thương xót mà Ngài luôn mong muốn trao ban cho họ.

Devin Rose (*)
Trầm Thiên Thu

(chuyển ngữ từ IgnitumToday.com)

(*) Devin Rose là kỹ sư phần mềm, vô thần, rồi theo Tin Lành Baptist, cuối cùng lại gia nhập Công giáo.

Ý hướng Xây Đời Mới

 

Ý  hướng  Xây  Đời  Mới

Trong Chương Trình Phát Triển Quận 6, 7, 8 Saigon (1965 – 1971)

Hồi tưởng của Đoàn Thanh Liêm

*     *     *

Vào khỏang tháng 6 năm 1965, một số thanh niên chúng tôi đang ở lứa tuổi 25 – 30 cùng hội họp bàn thảo với nhau liên tục trong nhiều ngày và cuối cùng chúng tôi đã đúc kết cuộc thảo luận thành một tài liệu lấy tên là Dự Án về một chương trình họat động xã hội, tài liệu này dài chừng 30 trang có nhan đề là :

“Phong Trào Xây Đời Mới

Chương Trình Phát triển Quận 8 Saigon”

Bản Dự Án này liền được đệ trình lên văn phòng của vị Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung ương (tức là Thủ tướng Chính phủ) lúc đó do Tướng Nguyễn Cao Kỳ đảm trách.

Sau khi xem xét ít lâu, Tướng Kỳ đồng ý chấp thuận trên nguyên tắc mấy đề nghị của chúng tôi và chỉ thị cho Bô Thanh niên và Tòa Đô chính Saigon cùng đứng ra bảo trợ cho công việc thực hiện Chương Trình Phát Triển này.

Thế là vào khỏang trung tuần tháng 8 năm 1965 đó, anh em thiện nguyện chúng tôi bắt đầu cùng “xuất quân” xuống quận 8 là một địa phương tương đối nghèo túng và kém mở mang nhất tại Saigon thời ấy.

Sau một năm họat động, chương trình này đã mở rộng phạm vị họat động sang hai quận lân cận là quận 6 và quận 7. Và trong suốt 6 năm hăng say họat động (1965 – 1971), chương trình đã thực hiện được một số công trình xây dựng cụ thể đem lại sự thay đổi cải tiến rõ rệt trong nếp sống vật chất và tinh thần của người dân trong cả ba quận ở về phía Tây Nam thành phố Saigon.

Trong mấy năm gần đây, tôi đã có dịp tường thuật chi tiết về chương trình xây dựng này trong nhiều bài viết, nên trong bài này tôi khỏi cần nhắc lại những điều đã ghi ra trước đây nữa. Mà tôi chỉ xin nhắc lại cho rõ hơn về cái ý hướng tích cực góp phần vào công cuộc xây dựng Đời Sống Mới của lớp thanh niên thiện nguyện chúng tôi vào cái thời kỳ đất nước mình còn đang sôi động với cuộc chiến tranh tàn khốc cách nay đã gần 50 năm. Xin thật ngắn gọn trong vài mục như sau :

I – Không phải “Phong trào Xây Đời Mới” – mà là “Kế Hoạch Xây Đời Mới”

Mặc dầu như đã ghi ở trên, bản Dự Án đệ trình lên văn phòng Thủ tướng có viết rõ là “Phong trào Xây Đời Mới” như là một tổ chức thực hiện “Chương trình Phát triển Quận 8” – thì đến khi tra tay vào giai đọan hành động cụ thể tại địa phương, anh em chúng tôi lại không bao giờ nhắc đến danh xưng “Phong trào Xây Đời Mới” nữa.

Lý do là vì các anh em trong ban điều hành cho rằng danh xưng “Phong trào Xây Đời Mới” này dễ gây hiểu lầm nơi nhiều người coi như đây là một thứ tổ chức chính trị – chứ không phải là một chương trình thuần túy họat động xã hội nữa. Vì thế mà mọi họat động của nhóm anh em thiện nguyện chúng tôi – ngay kể từ lúc khởi đầu vào tháng 8 năm 1965 – thì đều được đặt trong khuôn khổ của một chương trình phát triển cộng đồng tại địa phương quận 8 mà thôi. Và chỉ sau một thời gian ngắn, qua những việc làm cụ thể có ích lợi rõ rệt cho đồng bào địa phương, thì chương trình đã bắt đầu tạo ra được sự tin tưởng của số đông người dân – để rồi từ đó mà tiến lên thêm bước nữa với những công tác có quy mô lớn lao rộng rãi hơn mãi.

Vì thế mà qua năm 1966, khi được phép mở rộng phạm vi họat động sang các quận 6 và 7, thì cơ cấu tổ chức cũng phải được nới rộng ra. Cụ thể là, ngòai Chương trình Phát triển Quận 8 rồi, thì lại có thêm hai đơn vị nữa, đó là : Chương trình Phát triển Quận 6 và Chương trình Phát triển Quận 7. Và ở trên cả ba Chương trình này là một cơ quan để phối hợp điều khiển – được anh em cho khai sinh dưới cái tên chính thức là: “Kế Hoạch Xây Đời Mới”.

Qua danh hiệu Kế hoạch Xây Đời Mới này, ta có thể thấy ngay được cái ý hướng Xây Đời Mới vẫn được duy trì như từ lúc ban đầu. Tức là mọi họat động nhằm cải thiện về gia cư, chỉnh trang các ngõ hẻm, đặt hệ thống thóat nước cho đến việc mở mang thêm trường học, tổ chức các lớp dậy nghề, chăm sóc về y tế vệ sinh công cộng v.v…- thì tất cả những công tác đó đều nhằm mục tiêu duy nhất là : Góp phần xây dựng cuộc sống mới tại địa phương sao cho mỗi ngày một thêm tốt đẹp, thoải mái tươi vui hơn mà thôi.

II – Vai trò làm “chất men, chất xúc tác” nhằm khơi động quần chúng tham gia vào công cuộc xây dựng ở địa phương.

Vì chủ trương theo đuổi công cuộc phát triển lâu bền tại hạ tầng cơ sở ở địa phương (at the grassroots), nên anh em chúng tôi phải kiên trì bám sát địa bàn họat động qua những cuộc tiếp súc tham khảo thường ngày với các vị thân hào nhân sĩ là những nhân vật có uy tín đối với đồng bào trong khu vực. Các vị này thường là giới giáo chức, giới tu sĩ của các tôn giáo, giới công tư chức đã về hưu và cả giới tiểu thương tiểu chủ của các cơ sở kinh doanh nhỏ v.v… Qua những cuộc tham khảo bàn luận với quý vị tôn trưởng như vậy, chúng tôi lần hồi mới đề ra được những công tác có ích lợi cụ thể thiết thực  để mời gọi bà con trong cộng đồng cùng ra tay chung sức với nhau – người góp công, kẻ góp của – mà thực hiện cho có kết quả tốt đẹp, đem lại sự cải tiến cho môi trường sinh họat của địa phương sở tại.

Làm việc sát cánh với bà con trong các xóm hẻm trong thời gian lâu dài, chúng tôi nhận ra được là nơi đâu, lúc nào thì cũng đều có những người có tấm lòng tốt luôn quan tâm đến việc giúp đỡ những người kém may mắn hơn mình – cũng như lưu tâm đến sự an vui của tập thể dân chúng ở địa phương nơi gia đình mình cùng sinh sống. Những người có thiện chí như thế chính là những nhân tố thiết yếu cho sự thay đổi của xã hội (essential agent for social change). Họ khôn ngoan tìm cách khuyến dụ lôi kéo thêm những bà con khác cùng tham gia vào công việc đem lại ích lợi chung cho cả tập thể cộng đồng. Và chỉ khi nào mà số đông bà con ở địa phương cảm nhận được cái nhu cầu cần phải cải thiện xã hội như thế nào đó (felt need), thì chính khối quần chúng nhân dân đông đảo đó họ mới hăng hái đem hết công sức ra mà thực hiện những công việc có ích lợi chung cho tòan thể cộng đồng.

Như vậy, vai trò chính yếu của mỗi thanh niên thiện nguyện chúng tôi là làm chất men, chất xúc tác (catalyst) được vùi trong môi trường quần chúng nhân dân – nhằm khơi động mọi người ý thức được cái nhu cầu cải tiến xã hội – và rồi tiếp theo là họ sẽ nhập cuộc tham gia vào công việc xây dựng cộng đồng cho thêm phần tốt đẹp hơn. Một anh bạn khi đến thăm và thấy công chuyện chúng tôi làm ở quận 8, thì anh đã phát biểu như thế này: “Các bạn đích thực là những người đang khơi động công trình phát triển cộng đồng ở địa phương này đấy” (nguyên văn tiếng Pháp :  Animateurs de développement communautaire).

Nói khác đi, điều chúng tôi thực hiện lúc đó, thì chính là khai mở ra cái quá trình gây lên men, gây ý thức và vận động quần chúng dấn thân tham gia vào công cuộc phát triển tòan diện ngay tại địa phương sở tại (mass fermentation, mass conscientisation, mass mobilization).

Linh mục Bernard Pineau có lần nói với tôi như sau : “ Luật sư Trần Văn Tuyên trong dịp gặp gỡ gần đây, có trao đổi với tôi về chuyện công tác xã hội các em đang làm ở Quận 8 – thì cả hai chúng tôi đều coi đó là một việc làm thật sự có ích. Rõ ràng đây là một thứ “micro-réalisation” (nguyên văn) rất thích hợp trong hòan cảnh chiến tranh hiện nay…”

III – Một số công trình xây dựng điển hình với giá trị lâu bền.

Trong những năm tháng họat động hăng say nhiệt thành sát cánh với bà con tại địa phương các quận 6,7 và 8 Saigon thời ấy, chương trình đã thực hiện được hàng mấy trăm những công trình xây dựng lớn nhỏ trong các lãnh vực chỉnh trang tái thiết gia cư, cải thiện hạ tầng cơ sở nơi các khu ổ chuột (slum areas), mở mang thêm trường học, tổ chức các lớp dậy nghề v.v… Anh chị em thiện nguyện viên phải chia nhau đến tham dự các phiên họp của ủy ban công tác nơi các xóm hẻm – hầu hết là hội họp vào ban đêm hay các ngày nghỉ thứ bảy, chủ nhật – vì chỉ lúc đó bà con mới có thời gian rảnh rỗi để tham gia sinh họat cộng đồng, sau khi đã làm xong công việc buôn bán hay ở sở làm.

Xin đơn cử một số công trình xây dựng điển hình mà hiện vẫn còn có giá trị thiết thực ở địa phương như sau.

1 – Trường Trung học Lương Văn Can khởi sự từ năm 1966 tại Quận 8.

Trường này được thành lập do sự vận động của số đông thân hào nhân sĩ trong quận 8 và được Bộ Giáo dục chấp thuận cho họat động với điều kiện địa phương phải lo xây dựng sao cho đày đủ cơ sở vật chất và trang bị bàn ghế cho các lớp học – trong khi Bộ cử giáo sư về lo việc giảng dậy. Như thế, đây là một thứ trường công lập để học sinh khỏi phải đóng học phí – nhờ vậy mà con em các gia đình nghèo túng ở địa phương mới có cơ hội học tiếp lên bậc trung học.

Vì thế mà ban đầu, trường có tên là “Trung học Cộng đồng Quận 8” – đây là lọai trường trung học đầu tiên ở miền Nam mà do người dân địa phương đứng ra xây dựng và thành lập, rồi được Bộ Giáo dục chấp thuận và cử thày giáo đến chăm lo phụ trách việc dậy dỗ. Sau này, trường đổi tên là “Trung học Lương Văn Can” và hiện vẫn còn họat động cho đến ngày nay. Và sau 47 năm họat động, thì tính ra đã có đến hàng vạn học sinh đã hòan tất chương trình học tập tại cơ sở này, và nhiều cựu học sinh Lương Văn Can nay đã trở thành ông nội, bà ngọai với tuổi đời trên dưới 60 nữa rồi.

2 – Cây cầu “Phát Triển” ngang qua rạch Ụ Cây, sau chợ Xóm Củi.

Rạch Ụ Cây là một con rạch nhỏ bề ngang chừng 40 mét, ngăn cách khu vực Xóm Đầm thuộc phường Hưng Phú với phường Xóm Củi là nơi thị tứ sầm uất nhất ở quận 8. Hằng ngày, có đến hàng ngàn người dân ở Xóm Đầm phải băng qua con rạch này để đến mua bán ở chợ Xóm Củi và học sinh thì qua học tại trường Tiểu học Xóm Củi. Mà họ phải trả tiền cho người chủ con đò nổi trên con rạch – chủ đò mỗi năm phải đấu thầu nơi Sở Tài chính của đô thành Saigon để được độc quyền khai thác dịch vụ chuyên chở ngang qua con rạch. Có gia đình vì nhu cầu mua bán ở chợ và con cái đi học, thì phải trả rất nhiều tiền cho việc đi qua con đò nổi này. Vì thế mà bà con bày tỏ sự mong ước có được một cây cầu bác ngang qua con rạch để vừa đi lại cho an tòan, thuận tiện, mà cũng vừa đỡ tốn tiền nữa.

Về phương diện kỹ thuật, việc xây cất một cây cầu nho nhỏ với bề rộng cỡ 2 mét và chiều dài chừng 50 – 60 mét, thì tương đối không phải là chuyện quá khó khăn. Nhưng cái khó là làm sao vận động để chánh quyền tại Tòa Đô chánh chấp thuận cho xây dựng cây cầu đó – và như vậy thì phải bãi bỏ chuyện đấu thầu – khiến cho ngân sách hàng năm của nhà nước mất đi một khỏan thu nhập đáng kể. Đó là chưa kể sự chống đối rất mạnh mẽ quyết liệt của người chủ con đò – vì họ không muốn mất đi một số lợi khá lớn cho cả gia đình, nói gì đến quyền lợi của giới có chức có quyền mà vẫn được người chủ con đò mua chuộc lấy lòng bằng đủ thứ lọai quà cáp này nọ.

Nhưng vì cần phải bảo vệ quyền lợi chính đáng của số đông bà con lao động như vậy, nên chương trình chúng tôi đã phát động một chiến dịch vận động rất mạnh mẽ rộng lớn để giới chức chính quyền thể theo nguyện vọng của đồng bào mà chấp thuận việc xây dựng cây cầu này. Và kết cục chính quyền đã đồng ý và dự án xây dựng cây cầu được thực hiện trong một thời gian thật ngắn. Và đó là căn nguyên của công trình được mang tên là Cầu Phát Triển như nhiều bà con tại khu Xóm Đầm ngày nay vẫn còn nhớ đến vậy.

3 – Khu tái thiết 1,200 căn nhà tại phường Cầu Tre Bình Thới, quận 6.

Trong vụ tấn công xâm nhập vào thành phố của quân đội cộng sản hồi Tết Mậu Thân năm 1968, thì có đến mấy chục ngàn căn nhà tại 3 quận 6,7, 8 bị phá hủy. Vì thế mà chương trình phát triển chúng tôi phải ưu tiên dồn mọi cố gắng vào công cuộc tái thiết thật quy mô mà được dàn trải ra đến trên 20 khu chỉnh trang tái thiết – do các gia đình nạn nhân cùng hợp nhau thành lập thành các Ban Tái thiết cho từng khu vực để điều hành công việc xây dựng thật khó khăn mệt nhọc này.

Khu tái thiết lớn nhất nằm trong địa hạt phường Cầu Tre thuộc quận 6, giáp ranh với quận Tân Bình Gia Định, phía sau ngôi chùa cổ Giác Viên, thì có đến trên 1,200 đơn vị gia cư. Cái khó trong việc này là khu vực đó không bị tàn phá bình địa, mà vẫn còn lại nhiều căn nhà còn nguyên vẹn hay chị bị hư hại nhẹ – thế nhưng vì cần phải mở rộng đường xá cho ngay ngắn tại khu tái thiết rộng lớn này, thì cần phải hy sinh đập bỏ hết số căn nhà đó đi, để mà xây dựng lại thành những lô nhà theo họa đồ chỉnh trang hòan tòan mới. Việc này, nếu chính các chủ nhân không tự nguyện cho đập bỏ, thì chương trình chúng tôi cũng không có phương cách nào mà bó buộc cưỡng ép họ được. Do đó mà chúng tôi chỉ có thể gợi ý cho Ban Tái thiết trong khu ráng tìm cách thuyết phục các vị chủ nhân đó thỏa thuận cho phá bỏ căn nhà của mình đi – với điều kiện họ được quyền ưu tiên chọn căn nhà ở lô mặt tiền hay căn bìa.

Và kết cục, sau chừng vài năm khu tái thiết Cầu Tre Bình Thới này đã được hòan tất tốt đẹp như ta còn có thể thấy ngày nay vậy.

*     *     *

Bài viết đã dài rồi, tôi chỉ xin ghi tóm tắt thêm một vài chi tiết thật ngắn gọn như sau :

*  Trong lòng khối quần chúng nhân dân, thì bất kỳ ở đâu, lúc nào cũng đều có sẵn một tiềm năng thật quý báu dồi dào phong phú – để có thể sử dụng vào công cuộc xây dựng và cải tiến xã hội về mọi mặt tại mỗi địa phương. Như vậy, vấn đề là người cán bộ xây dựng xã hội phải tìm ra đúng cái phương pháp để khơi động khai thác được cái kho tàng năng lựợng vô biên đó. Có làm được như vậy, thì mới mong phát huy được cái sức mạnh tổng hợp của quần chúng hầu thực hiện được những công trình có quy mô rộng lớn.

*  Chương trình phát triển ở các quận 6,7,8 Saigon mới chỉ là một thí điểm trong thời gian ngắn ngủi có 6 năm đó (1965 – 1971) – mà lại giữa cái thời chiến tranh ác liệt – thì cũng chỉ mới gặt hái được một số thành quả tương đối còn khiêm tốn hạn chế mà thôi.

*  Tuy nhiên, chương trình này cũng đã có thể coi như là một chứng minh cho cái phương thức vận động quần chúng phấn khởi hăng hái tham gia nhập cuộc vào những dự án phát triển cụ thể thiết thực ở mỗi địa phương. Điểm đáng ghi nhớ tại đây là ở chỗ chương trình đã tìm cách đáp ứng đúng với nguyện vọng sâu xa cuả quần chúng là được sống an vui trong một xã hội trong đó phẩm giá của mỗi con người đều được tôn trọng đúng mức.

*  Cụ thể là cái ý hướng “Xây dựng Đời Sống Mới” đã được thể hiện thông qua nhiều công trình xây dựng cải tiến thiết thực – ngay tại nơi những xóm hẻm khuất nẻo nghèo túng, trong các khu nhà ổ chuột của tầng lớp người dân lao động cần cù lương hảo.

Và đây cũng là một minh họa cho vai trò của các đơn vị thuộc khu vực Xã hội Dân sự trong công cuộc xây dựng một cuộc sống tươi vui tốt đẹp cho chính khối quần chúng nơi những khu vực kém may mắn trong xã hội chúng ta vậy (the most underpriviledged areas)./

Costa Mesa California, trung tuần tháng Bảy năm 2013

Đoàn Thanh Liêm

Phụ   Lục

*           *           *

Vào giữa năm 1990, lúc tôi bị giam giữ tại trại B34 trong khu Tổng Nha Cảnh Sát cũ ở Saigon, thì nhân kỷ niệm năm thứ 25 ngày khởi sự của Chương trình Phát triển Quận 8 (1965 – 1990), tôi có làm mấy câu thơ để tặng các bạn cùng làm việc chung với nhau tại Chương trình này trong khuôn khổ của Kế Hoạch Xây Đời Mới (1965 – 1971).

Bài thơ gồm có 4 câu như sau đây. Xin được ghi lại để đính kèm bài viết có nhan đề “Ý hướng Xây Đời Mới trong Chương trình Phát triển Quận 6,7,8 Saigon (1965 – 1971)

Tặng các bạn Xây Đời Mới

Quận Tám năm xưa cùng Phát Triển

Ngày đêm lặn lội – vai sánh vai

Đời Mới ước mơ thời trai trẻ

Vẫn còn tươi nét – chẳng phôi phai.

Trại B34 Saigon

Tháng 8 năm 1990

Đoàn Thanh Liêm

Vẫn Đỏ nhưng bớt giáo điều?

Vẫn Đỏ nhưng bớt giáo điều?

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2015-07-03

Vẫn Đỏ nhưng bớt giáo điều? Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Tranh cổ động chào mừng ngày 2/9 tại Hà Nội, ảnh chụp hôm 28/8/2014.

Tranh cổ động chào mừng ngày 2/9 tại Hà Nội, ảnh chụp hôm 28/8/2014.

AFP PHOTO / HOANG DINH Nam

Your browser does not support the audio element.

Đảng sau Tổ quốc, dân tộc và Hiến pháp?

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có vẻ thể hiện điều gọi là mới mẻ bớt giáo điều hơn các nhà lãnh đạo khác của chế độ, khi ông là người đầu tiên xếp vị trí của Đảng đi phía sau Tổ quốc, dân tộc và Hiến pháp.

Báo chí Việt Nam trong đó có Thanh Niên Online đưa tin, trong dịp tham dự Đại hội thi đua quyết thắng toàn quân lần thứ IX tổ chức ngày 1/7/2015 tại Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bày tỏ mong muốn quân đội tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Dân tộc, với Hiến pháp. Lâu nay, tất cả các nhà lãnh đạo của nhà nước cộng sản Việt Nam khi phát biểu chính trị đều rập khuôn công thức quân đội tuyệt đối trung thành với Đảng sau đó mới tới Tổ quốc và Nhân dân.

Khái niệm quân đội phải trung thành với Đảng sau đó mới đến Tổ quốc và Nhân dân là một sự quen thuộc đến hiển nhiên ở Việt Nam và chỉ từ khi mạng xã hội bùng nổ, các nhà báo tự do, giới blogger mới có nhiều bài viết châm biếm về khái niệm gọi là không giống ai này. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thể hiện một sự điều chỉnh đáng chú ý, dù rằng ở vế thứ hai ông vẫn xác định quân đội phải nghiêm túc chấp hành sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước….

” Ông ấy cũng không coi nhẹ chuyện trung thành với Đảng đâu ạ, đến câu sau thì ông ấy nói rất kỹ về điều đó… những ai mà nghĩ rằng có một sự thay đổi gì lớn… thì họ nên đọc kỹ lời phát biểu của ông Thủ tướng.
-TS Nguyễn Quang A”

Phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có hàm chứa sự thay đổi nào hay không trong khái niệm quân đội Việt Nam trước tiên là phải trung thành với Đảng. TS Nguyễn Quang A, nhà phản biện độc lập từ Hà Nội nhận định:

“Không có gì là mới cả, bởi vì ông ấy nói trung thành với Tổ quốc, với Nhân dân rồi với Hiến pháp. Thực sự thứ tự đó cũng giống như ở trong Hiến pháp là Tổ quốc Nhân dân rồi Đảng. Tôi nghĩ có thể ông ấy hơn những người khác có những đầu óc cũ kỹ của thời xưa đặt Đảng lên trên đầu, còn ông Thủ tướng tuân thủ đúng như lời văn của Hiến pháp vừa rồi. Nhưng ông ấy cũng không coi nhẹ chuyện trung thành với Đảng đâu ạ, đến câu sau thì ông ấy nói rất kỹ về điều đó… những ai mà nghĩ rằng có một sự thay đổi gì lớn… thì họ nên đọc kỹ lời phát biểu của ông Thủ tướng.”

Giáo sư Tiến sĩ Vũ Minh Giang Ủy viên Hội đồng lý luận Trung ương Khóa 10 từ Hà Nội nói với chúng tôi, là ông không thấy có sự thay đổi gì trong phát biểu của Thủ tướng vì khái niệm Quân đội trung thành với Đảng không xa lạ với Việt Nam. Theo ông, dư luận bên ngoài chú ý nhiều tới thứ tự câu chữ khi nói về sự trung thành của quân đội, vì thực sự có sự khác biệt giữa các quốc gia. GSTS Vũ Minh Giang nhận định:

“Nếu mà nói về sự khác biệt giữa Việt Nam và các nước thì có vấn đề ấy thật là bởi vì ngay cả trong những qui định có tính chất pháp luật thì quân đội là tổ chức chịu sự lãnh đạo toàn diện tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy cho nên trung thành với Đảng là cách ở Việt Nam nghe cũng quen rồi và cũng bình thường.”

Đối với các ý kiến trên mạng xã hội cho rằng, quân đội ở bất kỳ quốc gia nào cũng có lời thề trung thành và bảo vệ tổ quốc, còn ở Việt Nam thì quân đội có lời thề theo trình tự là trung thành với Đảng sau mới đến Tổ quốc và nhân dân. Sự kiện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là người đầu tiên đã thay đổi trình tự gần hơn với quan niệm chung trên thế giới được nhìn nhận như thế nào. GSTS Vũ Minh Giang nhận định:

“Tôi cũng nghĩ rằng, một quân đội thì trước hết phải vì lợi ích của dân tộc, lợi ích của quốc gia. Tất cả những giá trị khác theo tôi nó cũng xoay quanh giá trị cốt lõi ấy. Một đất nước nào thì dân tộc và quốc gia cũng được coi là giá trị trung tâm, tất cả những giá trị khác kể cả chính trị …đều phải xoay quanh giá trị này thôi. Vì vậy Thủ tướng có nói phải trung thành với Tổ quốc thì cũng là quan niệm bình thường thôi.”

000_DV1889379.jpg

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị thượng đỉnh Á Âu (ASEM) tổ chức tại Milan, Ý vào ngày 16 tháng 10 năm 2014.

Trong bài nói chuyện tại Đại hội Thi đua quyết thắng toàn quân lần thứ IX Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đảo ngược trình tự về nhiệm vụ của quân đội, ông mong muốn quân đội một lòng xây dựng quân đội ngày cảng vững mạnh về mọi mặt; kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc; bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân; bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ.

GSTS Vũ Minh Giang nhận định:

“Trong những văn kiện đưa ra lấy ý kiến rộng rãi và đây có lẽ cũng là điểm mới của Đại hội 12, nêu rất cao lợi ích dân tộc và lợi ích quốc gia, coi đó là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Tôi coi xác định như thế là đúng, thế còn các hệ thống chính trị, lực lượng chính trị hay tất cả những cái khác thì phải coi đó là cốt lõi lợi ích dân tộc của một quốc gia là hàng đầu. Vì vậy quân đội là quân đội nhân dân được nhân dân nuôi nấng, được trang bị bằng tiền thuế của người dân thì trước nhất phải bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc. Thế còn đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chính trị theo qui định Điều 4 Hiến pháp là lãnh đạo toàn diện đối với hệ thống chính trị thì quân đội có trách nhiệm bảo vệ Đảng. Tôi nghĩ Thủ tướng nói như thế là đúng.

Cần minh bạch thông tin

Đọc các báo trên mạng tuần này, như Tuổi Trẻ, Tiền Phong, VnExpress chúng tôi ghi nhận tin Đại tướng Phùng Quang Thanh Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam được giải phẫu cắt khối u ở phối ở Pháp và sắp trở về Việt Nam. Tuy vậy những thông tin chính thức xuất hiện ngày 2/7/2015 chậm một tuần sau khi ông Phùng Quang Thanh đã rời Việt Nam và trên các trang facebook râm ran tin đồn ông bị ám sát chết.

GSTS Vũ Minh Giang nhận định:

“Cũng có thể do thói quen mang tính truyền thống, cũng có thể do tính nguyên tắc của mỗi nước. Xưa nay cán bộ cao cấp đi chữa bệnh điều trị thì không bao giờ loan báo, hình thành lệ thường như thế. Vài ngày qua có những tin tức như vậy nên cũng cần có thông báo như cách để cải chính lại những tin không đúng. Bình thường nếu không có những tin đồn đoán thì chắc cũng chẳng đưa. Tôi nghĩ đưa tin đó ra bởi vì có tin trên mạng nói ông ấy gặp nạn ở Paris thì việc đưa tin là một cách cải chính.”

” Tôi được bạn bè cho biết ông Phùng Quang Thanh sang Pháp chữa bệnh, ông được mổ cũng năm ba ngày rồi. Những thông tin như thế họ phải có nghĩa vụ đưa ra để cho dư luận được biết nhưng mà họ không đưa ra.
-TS Nguyễn Quang A”

Ở những quốc gia văn minh dân chủ, chính phủ công khai thông tin về tình trạng sức khỏe của các giới chức cao cấp kể cả thủ tướng, tổng thống để người dân được biết. Có ý kiến cho rằng Đảng và Nhà nước Việt Nam cần thay đổi tư duy về vấn đề này. TS Nguyễn Quang A nhận định:

“Đấy là một sự thiếu khôn ngoan của họ về vấn đề bí mật thông tin. Bởi vì họ càng giấu bao nhiêu, càng bí mật bao nhiêu thì càng làm cho dư luận nghi ngờ. Bản thân tôi được bạn bè cho biết ông Phùng Quang Thanh sang Pháp chữa bệnh, ông được mổ cũng năm ba ngày rồi. Những thông tin như thế họ phải có nghĩa vụ đưa ra để cho dư luận được biết nhưng mà họ không đưa ra và đến sáng nay thì Tuổi Trẻ mới đưa và vừa rồi ở trong buổi chiêu đãi quốc khánh Mỹ tôi gặp một vài người, họ cho biết Tuổi Trẻ đang bị kiểm điểm. Tôi nghĩ rằng đấy là một cách rất là không khôn ngoan về việc minh bạch thông tin và chính việc không minh bạch thông tin đã làm cho sự chính danh của chế độ cộng sản này bị xói mòn đi. Điều này họ phải tự trách mình vì chính họ làm hỏng cho họ.”

Theo Infonet và Tiền Phong Online, chiều 2/7 GS Phạm Gia Khải, thành viên Ban bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ Trung ương cho biết Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh sang Paris Pháp chữa bệnh từ ngày 24/6/2015 vừa qua. Ông Thanh đã được giải phẫu cắt bỏ khối u xơ ở phổi. Tình trạng sức khỏe của Đại tường Phùng Quang Thanh là ổn định không có diễn biến xấu và tới đây sẽ về Việt Nam. Tuy vậy bản tin không xác định bao giờ ông Bộ trưởng trở về nước.

Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh 66 tuổi là Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng và được dự báo ở trong danh sách ứng cử các chức vụ lãnh đạo chủ chốt trong kỳ Đại hội Đảng khóa 12 năm 2016. Ông Phùng Quang Thanh nổi tiếng về những phát biểu thân Trung Quốc trong thời gian vừa qua. Hiện chưa rõ tình trạng sức khỏe của ông Phùng Quang Thanh có ngăn trở bước đường công danh của ông hay không.

Chuyện Của Đám Con Sen & Thằng Ở

Chuyện Của Đám Con Sen & Thằng Ở

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến

RFA

Những đứa bé trai và gái bưng thức ăn cho khách vẫn là những đứa bé đã được mô tả trong tiểu thuyết Nam Cao hay Trương Tửu cách đây năm sáu thập niên, còm cõi, nhọc nhằn, cơ cực, chỉ biết cúi đầu vâng dạ và sống quen với lo âu, sợ hãi….

Bùi Bích Hà

Qua đến mùa mưa thứ hai ở Cambodia thì tôi đủ tự tín để nghĩ rằng: chỉ cần vài ba trăm đô la là mình có thể sống “ung dung” cả tháng ở cái xứ sở (dễ thương) này.

Ăn sáng rẻ rề hà. Cà phê pha vợt thêm một cái bánh tiêu hay bánh quẩy chỉ 60 xu, nếu tính theo Mỹ Kim bản vị. Cháo lòng và hủ tíu thì mắc hơn chút xíu, giá cả “dao động” từ 80 xu đến 90 xu thôi.

Cơm trưa hoặc chiều [canh chua cá (đủ loại) canh khổ qua nhồi thịt, giá xào đậu hũ, sườn ram, cá lóc nướng (cỡ cườm tay), trứng chiên, thịt heo kho tầu, mắm chưng, bò xào khóm …] đồng gía 4.000 riel, tương đương với một dollar. Thêm phần cơm trắng một quarter nữa là xong bữa.

Nhớ thử canh chua nấu theo kiểu Khmer nha, mấy cha. Bất cứ loại cá, hay loại rau nào mà lọt vô tay người dân xứ này là họ đều bỏ vô nồi canh chua tuốt luốt. Bởi vậy, thực khách có thể thưởng thức mười bốn tô canh chua liên tiếp trong một tuần, với mùi vị hoàn toàn khác nhau, và tô nào cũng ngon hết biết luôn.

Chỉ có điều phải phàn nàn là khứa cá thường nhỏ xíu, và mỏng tanh hà, nhứt là cá lóc. Nói là mỏng như tờ giấy thì hơi quá đáng nhưng nói khác đi thì thiệt tình là tôi không biết nói làm sao cho đúng. Nhưng nói tóm lại thì chỉ cần một đồng rưỡi, và đừng bầy đặt bia bốc hay rượu chè gì ráo, là sẽ được một bữa ăn bảo đảm là no bụng tuy hơi có phần đạm bạc.

Muốn cho tươm tất và bảnh bao thì phải ra khỏi những con hẻm nhỏ (“hắt hiu vàng ánh điện câu”) ở ngoại ô Phnom Penh, rồi “giả dạng” làm du khách, hiên ngang kêu Taxi ra trung tâm thủ đô cho nó ngon lành.

Trên đại lộ Shihanouk có Ngon Restaurant. Không phải món nào ở đây cũng “ngon” nhưng phần lớn đều ăn được. Thử kêu một ơ cá rô kho tiêu với một tô cơm trắng coi, chắc chắn là sẽ quên đường về luôn – nhứt là khi mình (lại) chưa biết là sẽ về đâu.

Còn muốn đổi không khí cho nó có vẻ Tây chút xíu thì ghé quán Cái Muỗm (The Spoon Restaurant) nằm trên Tchecoslovaquie Blvd. Thực khách chỗ này, ngó bộ, đều hơi snobbish. Nghe nói phần lớn họ đều là giới chức hành chánh hay quân sự cao cấp của xứ Chùa Tháp. Cả hai loại người này tôi đều rất ghét (vì cái hối lộ hay thói tham nhũng vô độ của họ) nên ghét luôn …cái quán, dù các em tiếp viên nam/nữ đều rất dễ thương và nước mắm (để ăn với cơm gà Hải Nam) ở đây ngon tuyệt̉.

Có bữa, tôi và cả đám cộng tác viên – tân cũng như cựu – của RFA (ở Nam Vang) được ông Mặc Lâm mời ăn trưa tại Khmer Surin Restaurant, trên đường 57. Tiệm ăn nhiều tầng, có luôn khách sạn, rất sạch sẽ, rất đẹp đẽ và giá cả – tất nhiên – không nhân nhượng xíu nào ráo trọi. Bù lại là thức ăn không dở, với khung cảnh thiên nhiên và tình tứ.

Từ trái: Quốc Việt, Danh Hồng, Mặc Lâm. Ảnh: Sơn Trung

Tui uống rất tiết độ, nếu uống một mình. Còn khi được “mời” (nghĩa là uống free) thì khác. Tôi uống tì tì. Đang săm soi tìm rượu, tính kiếm một chai gì đó thiệt mắc cho có cha đứt ruột chơi thì chợt nghe tiếng đám đông lào xào trong quán.

Tôi ngẩng nhìn và thấy hàng trăm thực khách, phần lớn đều là phụ nữ, mặc đồng phục, có in đậm ba chữ ILO (International Labour Organization) đang xếp hàng đi qua trước mặt.

  • Ủa, chuyện gì vậy cà?

Sơn Trung, thổ công của Phom Penh, đáp liền:

  • Ồ, bữa nay là ngày hội của “domestic worker” mà anh. Hội của những người giúp việc. Chắc họ họp ở tầng trên bây giờ xuống ăn trưa đó.
  • Trời, ô sin mà cũng họp hành ở khách sạn nữa sao? Em nói thiệt không vậy?
  • Dạ, thiệt chớ. Đây là Phnom Penh, chớ đâu phải Sài Gòn hay Hà Nội.

Những người giúp việc nhà ở Phnom Penh đang dùng cơm trưa tại Khmer Surin Restaurant. Ảnh: Quốc Việt.

Tôi bán tin bán nghi cho đến khi đọc được bản tin (“Domestic Workers Push for Protections”) của ký giả Pech Sotheary trên  The Phnom Penh Post:

“Những Người Giúp Việc Nội Trợ Thúc Đẩy Việc Bảo Vệ Quyền Lợi”

Ngày hôm qua, bốn mươi tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế đã kêu gọi Chính phủ Căm Bốt phê chuẩn Hiệp định năm 2011 về NNGVNT của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), nhằm bảo vệ tốt hơn quyền của NNGVNT Căm Bốt, cả ở bên trong lẫn bên ngoài đất nước.

Bức thư, trong đó nói rõ NNGVNT của Vương quốc hiện nay không được luật pháp bảo vệ, đã được các nhóm đấu tranh cho nhân quyền đồng ký tên, như “Licadho”, “Trung tâm hướng dẫn luật pháp Căm Bốt”, “Mạng lưới NNGVNT Căm Bốt” (CDWN), cùng nhiều nhóm khác.

Theo Hiệp định của ILO, NNGVNT phải được hưởng những điều kiện sống và làm việc xứng đáng, có ngày nghỉ, có quyền thương lượng tập thể và “được bảo vệ chống lại mọi hình thức hành hạ, sách nhiễu và bạo lực.

Phó Giám đốc CDWN, bà Yem Sothy cho biết, 240000 NNGVNT trong nước và nhiều nghìn người ở nước ngoài sẽ được hưởng lợi nhờ sự tham gia của Căm Bốt vào Hiệp định. “Nếu có được sự đồng thuận, những công nhân này sẽ được trả lương đúng mức… và được hưởng những ngày lễ để họ về thăm nhà”, bà nói.

Hai Somaly, 20 tuổi, quê ở Kandal, đã đến Phnom Penh làm người giúp việc, khi cô mới chỉ có mười tuổi. Theo cô, những người giúp việc phải đứng ở một địa vị thấp kém trong xã hội Căm Bốt, và thường bị bóc lột.

“Tôi muốn luật pháp bảo vệ chúng tôi và tôi cũng muốn được hưởng mức lương tối thiểu như những công nhân ngành khác”.

(“Domestic Workers Push for Protections, The Phnom Penh Post, 11 Dec. 2014. Trans. Bùi Xuân Bách”).

Cái thứ con sen và thằng ở (ở) Việt Nam mà cũng ăn nói kiểu đó thì có mà bỏ mẹ, hay … bỏ mạng. Tất cả có bao giờ  dám nói năng gì đâu mà vẫn cứ bị roi vọt đều đều:

VNEXPRESS :

“Sau khi bị tra tấn bằng kìm, chọc que sắt nóng vào vùng kín đến ngất xỉu, một nữ nhân viên nhà hàng đặc sản thú rừng Thanh Loan (huyện Lương Sơn, Hòa Bình) đã bị vứt ra đường.”

Tiền Phong:

“Nguyễn Thị Bình quê ở huyện Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc) được mẹ đưa ra Hà Nội làm tại quán phở của ông Chu Minh Đức và vợ là Trịnh Hạnh Phương …  từ năm em 10 tuổi.

Suốt hơn 10 năm qua, Bình phải làm việc quần quật suốt từ 3 giờ sáng đến tận đêm khuya. Sau khi làm xong việc trong nhà, em phải ra quán phở xách nước, thu dọn bát đũa, chuyên chở nước dùng, bánh phở, đưa thịt đi thái, quét dọn… nhưng vẫn bị hành hạ, đối xử như một nô lệ.

Theo lời Bình kể, em bị đánh thường xuyên, lúc thì do làm mất lòng chủ, lúc thì do sơ suất để vỡ một cái bát hoặc làm đổ nước ra nhà. Ông, bà chủ dùng dây điện thắt nút quất liên tiếp vào mặt, lưng; dùng kìm kẹp vào mạng sườn; bắt em quỳ ngoài sân giữa đêm khuya, trời lạnh nhiều tiếng đồng hồ…”

Trong khi Nguyễn Thị Bình bị hành hạ ở Việt Nam thì “đồng nghiệp” của cô cũng đồng loạt bị ngược đãi ở xứ người –  theo tin tức được phổ biến bởi Ban Điều Hợp VNSN (Những Cuộc Đời Bất Hạnh) vào hôm 15 tháng 5 năm 2015:

1. Lấy Chồng Nước Ngoài: 1 Phụ Nữ Việt Nam Chết sau một ngày làm dâu
http://www.youtube.com/watch?v=OCk8YlOORTw

2. Lời cầu cứu của nô lệ xứ người !
http://www.youtube.com/watch?v=8FN3QRcJ6Ac

3. Tiếng kêu than của công nhân Xuất Khẩu Lao Động
http://www.youtube.com/watch?v=SvRnaD_1YA8

4. Nạn Buôn Người Ở Việt Nam 2 – Nữ công nhân Việt xuất khẩu qua Malaysia
https://www.youtube.com/watch?v=vEo9tXIFxpM

5. Nạn Buôn Người Ở Việt Nam 1 – Những Nữ công nhân Việt Ở Jordan Bị Bóc Lột
https://www.youtube.com/watch?v=7we6ZMhH84k

6. Nạn Buôn Người Ở Việt Nam 3 – Nữ Osin Việt Nam ở Malaysia bị bóc lột
https://www.youtube.com/watch?v=jN5jQRpjqvE

7. Tệ Nạn Buôn Bán Phụ Nữ và Trẻ Em tại Việt Nam
https://www.youtube.com/watch?v=L8jyWiq2lWQ

Ngoài ra, trên tạp chí Bốn Phương (phát hành tại Đài Loan) người ta đọc được một lá thư – song ngữ, Việt/Hoa – của linh mục Nguyễn Văn Hùng, kêu gọi giúp đỡ cho một nam công nhân vừa bị tai nạn. Xin chỉ ghi lại nguyên văn (phần tiếng Việt) để rộng đường dư luận:

“Kính thưa anh chị em công nhân, cô dâu Việt Nam tại Đài Loan!

Tôi xin quý anh chị em công nhân và cô dâu người Việt hãy rộng tay giúp đỡ cho trường hợp của chị Dương Thị Toàn.”

“Sau khi người thân của anh Hùng, chồng chị Toàn, liên lạc với Văn Phòng nhờ giúp đỡ, Văn phòng đã cho nhân viên xã hội lên bệnh viện thăm anh Hùng. Nếu anh Hùng không phải trả một số tiền khổng lồ cho môi giới Việt Nam, thì có lẽ anh đã không phải trốn ra ngoài để đi làm kiếm tiền trả nợ mà đã về đoàn tụ với vợ con gia đình. Vì số tiền môi giới quá lớn đã trói chặt anh vào số phận lao động nô lệ, biến anh thành nạn nhân của tệ nạn bóc lôt và buôn bán con người.”

“Chính phủ Việt Nam vẫn làm ngơ trước những hành vi bóc lột công nhân qua số tiền môi giới phải trả trước khi rời Việt Nam! Bao lâu chính phủ Việt Nam chưa có luật pháp chế tài đối với các trung tâm môi giới hút máu người qua việc thu tiền lệ phí quá cao thì những trường hợp thương tâm như anh Hùng vẫn còn xảy ra hàng ngày.”

Mười năm sau, “Chính phủ Việt Nam vẫn tiếp tục làm ngơ,” cứ y như chưa bao giờ có chuyện gì đáng tiếc xẩy ra – theo tường thuật của ký giả Anh Tuấn, báo Lao Động, số ra ngày 18 tháng 4 năm 2015:

“Hơn tháng qua, hai lao động do chi nhánh Cty CP Việt Hà – Hà Tĩnh (VIHATICO, ngõ Anh Sơn, đường Đỗ Đức Dục, phường Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội) đưa đi làm việc tại Qatar đang sống vật vờ do không được bố trí việc làm, phải đi xin ăn từng bữa nơi đất khách.”

Những Người Giúp Việc Nhà biểu dương lực lượng trước Bộ Lao Động, ở thủ đô Phnom Penh. Ảnh: Sen David. Nguồn: The Phnom Penh Post

Bao giờ thì ở cái nước Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc của chúng ta sẽ có Trung Tâm Hướng Dẫn Luật Pháp (Legal Education Center) và Mạng Lưới Người Nội Trợ (Domestic Worker Network) để bảo vệ quyên lợi của những người giúp việc nhà trong, cũng như ngoài nước – để họ “phải đi xin ăn từng bữa nơi đất khách”?

Khi nào thì giới ô sin Việt Nam được quyền đòi hỏi nhận tiền lương tối thiểu, ngày nghỉ cuối tuần, và những ngày nghỉ lễ được về thăm nhà – như đồng nghiệp của họ ở bên Cambodia?