Trên đồi xanh chiều đã xuống dần,

“Trên đồi xanh chiều đã xuống dần,”
Mặt trời lấp ló sau đồi chiều vang.
Riêng mình ta ngồi ngắm quanh trời,
lạnh lùng nghe tiếng chim chiều gọi đàn…
(Nguyễn Văn Khánh – Chiều Vàng)

Trần Ngọc Mười Hai

Hát bài “Chiều vàng”, phải chăng người nghệ sĩ khi xưa muốn diễn-tả tình-cảnh có câu chuyện lình-xình với mối tình da diết của mùa thu? Không. Không phải thế đâu! Theo lời người dẫn nhập bản hát là đàn-sĩ Lê Văn Thụ Nhân trong chương trình “Hát Cho Nhau Nghe” ở Sydney hôm ấy, 05/7/2015 có bảo rằng:

“Tác-giả bài “Chiều Vàng” cũng là tác-giả bài “Nỗi Lòng” diễn-tả cuộc tình đầy đau thương của mình qua bài hát. Tình-tự được diễn-tả là: mới chỉ xa cách nhau có 3 tuần, nhưng khi đến thăm lần đó ông được biết là người tình của ông nay đã chết. Trong tâm trạng buồn bã ấy, tác-giả đã viết lên nỗi buồn mênh mang, nhè nhẹ này bằng giòng chảy rất “Chiều Vàng.” (Trích lời phát biểu của người trẻ tên Thụ Nhân cùng với người điều-khiển chương trình là Uông Thế Công)

Chẳng biết người dẫn chương-trình hôm ấy nói có theo sách mách có dẫn-chứng hay không, nhưng nay vẫn cứ mời bạn và mời tôi ta nghe thêm đôi lời kể về buổi “chiều vàng” vẫn “buồn xa vắng buồn” như sau đây:

“Buồn xa vắng buồn lòng thầm nhớ tới người.

Chiều xưa cũng trên đồi cùng ta.

Người đã ước nguyền rằng đời riêng có ta,

Lời đó còn đâu?

Đường về lòng người tha phưuơng nhớ.

Chiều dần dần mờ cô thôn vắng.

Người yêu dấu ngàn đời thấu chăng?

Ta nén đau thương gắng bước hoài,

Thuyền chèo tới đâu chưa ngừng bến.

Lời thề nguyền ngờ đâu xa vắng.

Tình tràn đầy sầu chung non nước,

Hồn em có cùng người chứng minh.

Anh bước ra đi luyến tiếc hoài,

Đời còn có em nay mà thôi.

(Nguyễn Văn Khánh – bđd)

“Chiều vàng”, ở đời nào cũng có thể là như thế! Còn, chiều rất “vàng” ở nhà Đạo thì sao?

Với nhà Đạo, làm gì có “Chiều vàng”, hoặc “sáng trắng”, đâu cơ chứ! Sáng hay chiều, với người nhà Đạo, vẫn là chuỗi ngày dài trước sau như một, đầy yên vui, tâm tịnh cũng rất “thiền”.

Nói cách khác, sáng hoặc chiều nơi nhà Đạo, lại là những ngày tháng dân con Đạo mình vẫn tịnh tâm suy tư về nhiều thứ. Chí ít, là những thứ và những sự được nhiều người áp-dụng cho đời mình, như truyện kể nhẹ ở bên dưới để dẫn nhập, như sau:

“Tới chơi nhà người bạn già, chỉ thấy bà vợ ngồi trước hiên. Tôi bèn hỏi: “Ổng đâu bà chị?”
– Ngồi thiền rồi
Tôi ngạc nhiên: “Ây da, ổng tu hồi nào vậy bà chị?”
– Thì cách đây nửa năm một số người bạn quen biết rủ ổng đi chùa, rồi đi tham gia vào các đạo tràng, rồi tu học chèo thuyền thúng gì đó. Ổng về nói với tôi là ổng và tôi hết duyên, con cái chỉ là đống nợ, ổng muốn giải thoát, muốn được siêu thoát để đến cảnh giới niết bàn ghế gì đó…Tui chán, mặc ổng muốn làm gì thì làm. Cơm no bò cưỡi không muốn, muốn ăn chay, tiệt dục, ngơ ngơ ngẩn ngẩn chuyện tâm phào, đồ điên.
Tôi hỏi: “Thế thấy ổng có vui sướng không?”
Bả nhún vai ái ngại:
– Ái chà, sướng nỗi gì? Mở miệng ra nào thì đời là bể khổ hoặc ta chỉ là xác mượn. Hết biết!
“Khi nào ổng ngồi xong?” Tôi hỏi.
– Không biết, nhưng có lẽ xong rồi, để tui vào xem. Ông ngồi uống nước đợi chút nhé!

Chưa đầy 1 phút, một thân hình còm cõi vụt ra, hô to: “Ôi quý hóa quá, thiện nhân tới thăm”
Tôi mỉm cười: “Ai da, thiền nhân có khác. Tu tập tinh tấn có khác. Thế bác đang tu thiền, bác hiểu và cắt nghĩa cho tôi chữ thiền là gì được không?”
Bác Ba ngập ngừng: “Mới tập, chưa rõ lắm, chỉ biết là pháp môn của nhà Phật, con đường đi của đạo”
“Phương pháp như thế nào?” Tôi hỏi tiếp.
+ À, thì ngồi kiết già, nhắm mắt lại, không nghĩ ngợi. Tập trung nhất niệm: “Nam mô a di đà phật”. Khoảng 1 tiếng là được. Mà phải giữ thân sạch như ăn chay, diệt dục thì tâm mới thanh tịnh được nhé!”
* Vậy à, thế ông đã thanh tịnh chưa? Tôi nghe nói ngồi thiền sẽ bỏ và buông được cái tôi đúng không?
+ Ừ, mình thấy thanh thản lắm.
* À, nãy tôi tới thấy vợ ông nói là ông không cần bả nữa, bả đang làm đơn xin li dị thì phải? Ai dà, tôi lấy làm tiếc cho ông!
+ Hắn sững cồ: “Cái gì? Nó dám bỏ tao sao? Tao phải vào cho nó biết tay mới được!”
* Nhưng ông có nói là không cần vợ con mà, ông muốn đi tu và xa lánh đời
+ Đúng, nhưng… Nó không được bỏ tao!

Tôi thấy tình hình bất ổn nên vội xin phép ra về. Sau đó nghe đâu hai vợ chồng cãi nhau, bà vợ bỏ về nhà mẹ ruột ở.
Một hôm, tôi nhận được điện thoại của bác Ba: “Alô! Rảnh ghé uống trà chơi nghen!” “Ok, chiều mai 5h tôi ghé” Tôi hẹn lại.
Qua hôm sau theo đúng hẹn tôi tới nhà bác Ba. “Sao rồi, khỏe chứ bác Ba?”
Hắn ra đón tiếp với trạng thái mỏi mệt:
+ Ừ, đang bệnh cảm lạnh, mấy hôm bị sốt cao, mệt quá!
* Mấy hôm không thiền nữa à? Tôi hỏi.
+ Thân xác rệu rã, không khỏe nên tâm vọng vớ vọng vẩn. Mình không sao tập trung được. Chán lắm. À, tôi nhờ Dũng đánh lời cho vợ tôi bảo bả về nhà đi, tôi ở một mình chịu hết nổi rồi!
* Ủa, một mình thì càng thanh tịnh chứ sao?
+ Biết vậy, nhưng không tập trung được bạn ạ! Với lại mì tôm hoài ớn quá!
* Hahaha, muốn thoát tục thì phải trả giá chứ? Tôi chọc.
+ Ừ, tôi biết rồi. Cái giá đó đắt quá. Thôi cứ từ từ mà thoát tục cũng được. Dũng giúp giùm tôi nhé.
* Ok, nhưng chỉ một lần này thôi nhé. Thật ra nói cho bác biết, bác hành thiền chưa đúng pháp đâu?
+ ??? Vậy sao cho đúng?
* Thiền là một trạng thái đưa tâm hồn vào miền không buồn, không vui, không có sắc màu, không tranh chấp, không luận bình suy diễn, bình yên an lạc và ung dung tự tại. Thiền có trong việc đi – đứng – nằm – ngồi. Thiền có trong công ăn việc làm. Thiền là hơi thở của cuộc sống. Ông chỉ cần làm theo nguyên tắc sau là được:
– Luôn hài lòng và vui vẻ với tất cả sự việc hiện tại. Kể cả sinh lão bệnh tử, hãy xem đó là quy luật bất biến và tất có. Mở lòng đón nhận nó.
– Sống thật với chính mình
– Làm những chuyện có lợi cho mình, cho người, giúp đỡ khi người gặp khó khăn trong điều kiện của mình một cách tốt nhất
– Nói và làm phải song hành
– Làm cho tất cả những người xung quanh và quen biết mình được an vui và hạnh phúc.
– Nói tóm lại, “Thiền” cũng tương tự như ông đi xe máy. Khi ông đi xe máy ông phải biết mình đang lái xe và tập trung nhìn vào phần đường mình đang đi. Không được vừa lái xe vừa nghĩ về chuyện khác. Nếu nghĩ về chuyện khác, ông mất tập trung tất sẽ bị tai nạn ngay.

Vì vậy, ngoài việc tập trung để lái xe, ông còn phải khéo léo điều khiển xe sao cho không va đụng vào người khác và ông phải thực hiện và tuân thủ đúng một số quy định của luật an toàn giao thông. Điểm xuất phát thì ai cũng đều có, điểm đến thì tùy nơi ta muốn đến. Lộ trình di chuyển gọi là con đường (hay tạm gọi là Đạo). Cái xe ta điều khiển có thể gán cho thân xác. Tâm hồn hoặc sự suy nghĩ có thể gán cho ý thức. Luật giao thông có thể gán cho kinh sách. Ông sẽ thấy trên đường đi có rất nhiều người, bằng các phương tiện khác nhau họ đi với lộ trình khác ông. Vậy, lộ trình ông đi có đến được đích hay không là do ông quyết định. Mọi cái không có điểm dừng. Khi ta kết thúc một lộ trình, điểm dừng lộ trình này chính là điểm khởi đầu cho một lộ trình mới. Cứ vậy chẳng dừng. Khi ta chết, có thể một thế giới mới đang chờ ta.
+ Ôi, sao tôi thấy ông nói đơn giản mà dễ hiểu nhỉ. Không biết đúng hay sai, nhưng tôi cảm nhận được cái xe máy của tôi nó có lộ trình rồi. Thôi, để tôi qua tự đón vợ về. Ít nhất, tôi phải “tự” qua được “bên ấy” và “tự” giải quyết hậu quả do mình gây nên. Ây da, thì ra lâu nay nghĩ cao siêu quá, té ra đi xe máy cũng là “Thiền” rồi.
* Ừ, cứ vận dụng nhé! Khi đón bả về, có thể hiểu thêm “xe máy” cũng có thể là “bà xã” nhé! Vấn đề là lộ trình đi đến hạnh phúc phải tự mình quyết định. Kakakaka.”
(Truyện nhẹ do Hoàng Dũng Nha Trang kể)

Thật ra thì, có thuật truyện nặng/nhẹ về “thiền” hoặc về gì đi nữa, cũng chỉ để dẫn-nhập cho bạn và tôi, ta bước nhẹ vào hành-trình tư-duy có nhiều điều cần suy-nghĩ. Suy và nghĩ về những sự việc hoặc lập-trường/tư-tưởng của đấng bậc nhà Đạo đang diễn-biến trong/ngoài “Nhà Thờ”, cũng là điều rất đáng làm.

Nghĩ thế rồi, nay mời bạn và tôi, ta đi thẳng vào câu chuyện thường ngày, ngay bây giờ. Truyện ở đây, không chỉ là truyện kể cho có lệ hoặc “kể cho qua ngày đoạn tháng”, có thế thôi. Nhưng, là chuyện thời-sự trong Đạo rất nên bàn, những bảo rằng:

“Buổi lễ đầu-tiên tổ chức ngoài trời, hôm ấy, ở Nam Mỹ, Đức Phanxicô đã thúc-giục các giáo-dân tham-dự hãy nguyện cầu cho “phép lạ” xảy đến với Thượng Hội Đông Giám Mục Rôma tháng 10 năm 2015 này. Ngài nói: Hãy cầu nguyện để Hội thánh ta tìm ra giải-pháp hữu-hiệu cho các vấn-đề khó-khăn đang xảy đến với các gia-đình của thời mình…” (X. Mục tin tức trên tờ The Catholic Weekly ngày 12/7/2015 tr.12, Pray for miracle at synod, pope asks massive crowd)

Nếu bạn và tôi, ta hiểu ý/từ “phép lạ” vào thời-đại hiện-tại theo nghĩa hiếm-hoi, ít-ỏi hoặc khó lòng thấy được, thì chả chắc gì ta có được giải-pháp thoả-đáng nào cho các gia-đình đang bị các “cụ Đạo” hoặc đấng bậc cổ hủ vẫn định-nghĩa, định-hình hay định vị gì đi nữa.

Nói thì nói thế, chứ đấng bậc chủ quản giới truyền-thông thuộc Tông toà rất thánh lại nghĩ khác. Khác thế nào ư? Thế thì, mời bạn và mời tôi, ta nghe thêm lời lẽ xác-minh sau đây:

“Lm Federico Lombardi, giám-đốc phụ-trách truyền-thông báo chí Hội thánh Công giáo La Mã, lại đã diễn-giải cho các phóng-viên có mặt ở lễ thánh hôm ấy, ý-nghĩa cũng khác nên mới bảo: “Lời của Đức-Giáo Hoàng phải được hiểu như một tư-duy rất thông-thường về công-việc mà Thượng Hội-Đồng Giám-mục bàn bạc hầu giải-quyết, chứ không phải để qui-chiếu một đề-tài nào mà các Giám-mục có thể bàn đến.” (Xem bài đã dẫn ở trên)

Tuy nhiên, hỏi rằng 500.000 người có mặt hôm ấy có thông-hiểu lời của Đức-Thánh-Là-Cha Phanxicô rất hiền-hoà như thế hay không, đó mới là vấn-đề. Hoặc, vấn-đề có thể là: vẫn còn nhiều ý-kiến rất khác biệt trong/ngoài Thượng Hội-đồng Giám mục, và cả ngoài lẫn trong Hội thánh, đó mới là điều cần-thiết.

Về ý-kiến của các đấng bậc lành thánh trong thánh-hội mỗi khi nhìn vào lập-trường bày-tỏ cho mọi người thấy vấn đề đang bàn lại khác nhau, rất nhiều. Trước nhất, phải kể đến đấng bậc rất “trong luồng” ở Sydney vốn dĩ là đấng-bậc từng giải-đáp nhiều thắc-mắc rất Giáo-luật lẫn giáo-điều, như sau:

“Về những điều được quyết-định, tôi nghĩ phần lớn cuộc sống của nhiều người trong chúng ta cũng sẽ tiếp-tục như những ngày xảy ra khi trước. Người nam cũng vẫn lấy vợ nhiều như họ vẫn từng làm khi trước. Chỉ một phần nhỏ số người cùng phái-tính mới làm chuyện lạ là lấy nhau thành vợ chồng cùng giống. Nhưng từ đó, sẽ có những hậu-quả nào đó, ta cần thận-trọng.

Khác biệt đầu-tiên xảy đến, chắc chắn là ý-niệm về hôn-nhân sẽ có thay-đổi. Cho đến nay, việc này chỉ xảy đến giữa đàn ông và đàn bà mà thôi. Nay, lại sẽ thấy sự việc ấy xảy đến với các cặp đồng phái-tính, nên có thể cũng sẽ có những liên-lụy này khác rày xảy đến…

Mặt khác, lại sẽ có những hậu-quả khó lường cho những ai từng chống-đối hôn-nhân cho người cùng phái tính. Ở Canada, là nước trong đó tôn-giáo dựa trên các dịch-vụ xã-hội, như tư-vấn và dịch-vụ nuôi con nuôi, nay đòi phải thích-hợp với luật lệ về hôn-nhân đồng phái-tính và tình-trạng miễn-trừ thuế xưa nay Giáo-hội được thừa-hưởng nay trở-thành vấn-đề cần xét-duyệt.

Ở trường/lớp, các giáo-chức cũng như cá-nhân buộc phải hỗ-trợ hôn-nhân đồng phái-tính và quần-chúng buộc phải ngưng việc chống đối sự việc này, cách công-khai. Do có sự than-phiền gửi đến Toà Hoà-giải Nhân-quyền British Columbia, chính-quyền ở đây loan-báo rằng giáo-án ở trườg/lớp đây đó từ Mẫu-giáo đến lớp 12 phải được coi lại để thêm vào đó các dẫn-giải tích-cực về hôn-nhân đồng phái-tính nữa…

Nói tóm lại, việc ban-hành đạo-luật hôn-nhân đồng phái-tính không chỉ liên-quan mỗi sự “đồng đều trong hôn-nhân” đối với nhiều người, thôi. Nhưng còn về cả một thế giới mới rất quả-cảm, nhìn về mặt tổng-thể.” (X. Lm John Flader, What difference will same-sex marriage have on our lives, The Catholic Weekly 12/7/2015, tr. 22)

Trong khi đó, có đấng bậc khác từng là chủ-quản Tổng Giáo-phận Sydney, lại có ý-nghĩ hơi khang khác, kèm theo lời dặn dò không giống nhiều vị vẫn theo “lề phải” ở Giáo Hội rất Rô ma, rằng:

“Tôi thật rất tiếc, hỏi rằng: Giả như Thượng Hội Đồng Giám mục Rôma đợt hai diễn ra vào tháng 10 năm 2015 quyết kiếm tìm lời đáp nào khác cho xứng-hợp, chắc các nghị-phụ mình phải nghiêm-túc nhìn vào giáo-huấn Hội-thánh liên-quan đến việc coi xem Hội thánh có cho phép mở “rộng cửa” cho các giải-pháp mục-vụ hay không. Đó là việc tôi đang kiếm tìm ở đây, trong tập sách này, không phải để áp-đặt một hiểu/biết, mà để cho thấy là: ta còn nhiều đề-tài để bàn-luận, chứ không chỉ mỗi hai điều duy-nhất là Gia-đình và chuyện Đồng-tính Luyến Ái chứa trong giáo huấn đầy tính khắc-nghiệt của Hội thánh, bấy lâu nay.” (X. Gm Geoffrey Robinson, The 2015 Synod, The Crucial Questions: Divorce and Homosexuality, ATF Press 2015, tr. 2)

Thôi thì, trước khi đi tìm hiểu ý-kiến của nhiều vị khác, tưởng cũng nên quay lại với nhạc-bản ở trên để bạn và tôi, ta có đôi ba giây phút nhè nhẹ, lâng lâng mà ngẫm nghĩ, như sau:

“Sương chiều buông rơi mờ mờ rừng chiều dần dần tối.
Núi mây bốn phương giang hồ ngơi đi.
Thuyền lênh đênh trên sông Đà sóng, lướt lướt trên sông.
Nhìn chiều vàng đồi thông thưa vắng.
Lòng bùi ngùi buồn trông theo bóng.
Giờ đây viếng thầm hồn cố nhân.
Năm tháng trôi qua sóng gió đời.
Chiều chiều nhớ em khôn lòng nguôi.”

(Nguyễn Văn Khánh – bđd)

Diễn-tả chuyện ở trên theo lời vàng từ các bậc thánh-hiền thường dặn-dò, sẽ phải diễn-tả như sau:

Thật vậy,

chính Người là bình an của chúng ta:

Người đã liên kết đôi bên,

dân Do-thái và dân ngoại, thành một;

Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách

là sự thù ghét;

Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật.

Như vậy, khi thiết lập hoà bình,

Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất

nơi chính bản thân Người.”

(Êphêsô 2: 14-15)

Và để diễn rộng tư-tưởng này, đấng bậc lành thánh khác, lại đã qui về lời lẽ rất như sau:

“Thánh Phaolô nói: Đức Giêsu nối kết người Do Thái với dân ngoại, là để tất cả chúng ta cùng nhau tạo thành gia đình thân thương. Đầm ấm. Thánh nhân quyết bẻ gẫy mọi rào cản gây phân rẽ các thành phần dân Chúa, trong cộng đoàn. Thánh nhân dùng hình ảnh bức tường ngăn cách, của đền thờ.

Quả thật, Đền Thờ là công trình xây cất có nhiều tường. Mỗi bức tường, làm thành rào cản ngăn cách, hạn chế mọi kết đoàn, hoà hợp. Bên ngoài tường, nhiều người không thể đến được. Có tường, chỉ dành cho dân ngoại. Có tường, cho phụ nữ. Có tường cho đàn ông thanh niên. Có tường chỉ để cho các vị mục tử. Thậm chí, có tường còn cản ngăn không để ta đến được với Đấng Thánh ở trên cao. Như nơi  dành cho vị Thượng tế cao vút, mỗi năm chỉ một lần.

Bằng vào cái chết trên thập tự, Đức Giêsu đã phá bỏ mọi tường rào phân chia, ngăn cách. Tường, của hờn căm. Chia rẽ. Bằng vào việc sống lại, Ngài tạo ra Con Người Mới. Và, gia đình mới. Gia đình, không dựa trên máu mủ. Chủng tộc. Cũng không dựa vào dân tộc tính. Giới tính. Giai cấp. Ngài phá huỷ mọi tường thành ngăn cách. Tức, tường rào chỉ nhằm phân cách/rẽ chia nhóm này với nhóm khác.

Giáo huấn của Đức Giêsu nhằm đạt đến cả người Do Thái lẫn dân ngoại. Cả nam lẫn nữ. Cả người công chính, lẫn phạm nhân. Nô lệ lẫn tự do. Người tật bệnh, lẫn kẻ lành lặn. Ngài gọi mời tất cả mọi người chúng ta hãy về cùng một gia đình, gia đình của Ngài. Gia đình của Ngài gồm có Chúa Cha và ở đó, tất cả thành viên đều là anh em, chị em với nhau. Rẽ chia, là tà thần/ác quỷ chỉ chực ngăn chặn mọi người đến với nhau, trong chung sống an bình và hạnh phúc. Rẽ chia, là kẻ thù ngăn chặn ý định của Chúa muốn thu thập mọi người về với gia đình với Thân Mình của Chúa.

Điều mọi người trong gia đình Chúa cần làm, là phải nói tốt cho nhau về các Giám mục/linh mục, cha mẹ hoặc thành viên trong gia đình, tạo bình an. Hãy phá bỏ mọi rào cản rẽ chia đem mọi người về lại với nhau trong tình thương, qua và nhờ Đức Giêsu. Vì, tất cả đều có cùng con đường. Cùng một Thần Khí để đến với Cha, như đoạn cuối bài đọc 2, đã nhắc nhớ.” (Xem Lm Frank Doyle sj, Suy Niệm Lời Ngài năm B, nxb Tôn Giáo 2011, tr. 180-181)

Cuối cùng ra, ta bàn chuyện “các gia-đình có vấn-đề” này khác, tưởng cũng nên quay lại với ý/tứ của Đức Phanxicô hôm ấy, có những lời như sau:

“Trong bài chia-sẻ vào thánh lễ Thứ Hai hôm ấy, Đức Giáo Hoàng Phanxicô có đề-cập đến điều mà ngài gọi là “phép lạ” tại tiệc cưới Cana, ngài có khuyến-khích cộng-đồng dân Chúa hãy theo gương lành của Đức Maria từng làm, rằng: “Mẹ dạy ta hãy đặt gia-đình mình trong tay Chúa, để rồi sẽ hiệp lòng cầu nguyện, nhen nhúm niềm hy-vọng cốt cho ta thấy rằng mọi ưu-tư của ta cũng là quan-ngại của Chúa”. Đức Giáo Hoàng lại cũng nói: “Gia-đình là bệnh-viện, trường/lớp gần cận nhất cho giới trẻ và cũng là mái ấm/cơ ngơi cho bậc cao-niên, nữa.”

Đức Phanxicô còn nhắc mọi người hãy nhớ rằng: Gia-đình là ‘Giáo-hội nội-địa’, nên vẫn cần ta nguyện cầu để có thể gỡ bỏ mọi ưu-tư, quan-ngại trong đời mình. Ngài lại thêm: “Cuộc sống gia-đình, giống như tại Cana, “phép lạ” luôn xảy đến khi ta sở-hữu ít sự vật. Thế nên, là tín-hữu, ta hãy giùm giúp các gia-đình nào đang rối-bời về nhiều thứ, cả những thứ, những sự như “người nhà hết rượu để đãi đằng”, giùm giúp những ai đang uống thứ nước của sự nản lòng, tuyệt vọng. Với gia-đình nào tuân theo hiệu-lệnh hoặc lời khuyên của Đức Maria và làm những gì Đức Giêsu truyền làm, thì chắc chắn rượu ngon sẽ có ngay cho họ, cho mọi người.” (X. Mục tin tức trên tờ The Catholic Weekly ngày 12/7/2015 tr.12, Pray for miracle at synod, pope asks massive crowd)

Nói tóm lại, có bàn gì thì bàn, bàn về gia-đình thánh nho nhỏ của Giáo-hội, tưởng cũng nên hướng về gia-đình rộng lớn là Vương-Quốc-Nước-Trời từng được Đức Giêsu chủ-trương khi Ngài bảo ban dân con mọi người ở Do-thái.

Nói cho cùng, Vương-Quốc-Nước-Trời rất gia-đình ở thánh hội vẫn là và phải là như nhận-định của bậc thày dạy thần-học ở Đại-học De Paul, Chicago Hoa kỳ, như sau:

“Với Đức Giêsu, Vương Quốc Nước Trời được mô-tả bằng ảnh-hình của việc sửa soạn bàn tiệc có chỗ ngồi hẳn-hoi. “Tiệc Bàn Rộng Mở” không phân-biệt một ai, lại đã diễn-tả một xã-hội thu nhỏ không kỳ-thị. Và, quan-niệm cũng như thị-kiến này, trên căn-bản, đã chạm phải giá-trị nền-tảng của nền văn-hoá Địa-Trung-Hải, thời xưa cũ. Cũng không thể bảo: có thể cũng hơi sớm, nếu có ai đề-nghị ta nên nhận ra được sự giận-dữ kéo theo sau việc ‘ngồi cùng bàn’ còn mới mẻ, vào thời ấy. Đó, cũng là một trong các lý-do khiến họ bắt giam và xử trảm Ngài, không cho Ngài được hoạt-động giảng-rao/giùm-giúp người nghèo-khó/cùng quẫn nữa.” (Xem thêm John Dominic Crossan, Who is Jesus WJK 1996, tr.40-59)

Nói cho cùng, bàn về gia-đình mang tính-chất Vương-Quốc-Nước-Trời, trên thực-tế, ta cũng đừng nên quên những truyện kể nhè nhẹ có tính ‘tiếu-lâm-chay’ để mỗi lần nhớ, tôi và bạn, ta sẽ tủm tỉm cười vào buổi tuối, lúc khó ngủ cứ lấy sách “phiếm” ra đọ cho dễ ngũ, như sau:

“Truyện kể gia đình có vợ/chồng thuận-hoà vì luôn giữ bí-kíp sau đây:

Trên đời này, có hai việc khó nhất:

  1. 1. Là, nhét tư-tưởng của người này vào đầu của người khác.
  2. 2. Là, nhét tiền của người khác vào túi của mình.

Nếu:

1. Ai làm được điều số 1 thì ta gọi đó là …Thày

2. Ai làm được điều thứ 2 thành-công thì ta gọi đó là…chủ.

Nhưng, nếu có người làm được cả 2 điều nói trên mà thành-công thì ta gọi đó là…Vợ.”

Gọi gì thì gọi. Làm gì thì làm, hãy cứ làm và cứ gọi nhau trong tình thân thương của người anh người chị trong Vương Quốc Nước Trời, ở nơi đó mọi người vẫn cứ hát lên câu ca nhè nhẹ, rằng:

“Nhìn chiều vàng đồi thông thưa vắng.
Lòng bùi ngùi buồn trông theo bóng.
Giờ đây viếng thầm hồn cố nhân.
Năm tháng trôi qua sóng gió đời.
Chiều chiều nhớ em khôn lòng nguôi.”

(Nguyễn Văn Khánh – bđd)

Hát thế rồi, nay bạn và tôi, ta cứ hiên-ngang nhìn về phía trước rồi “đầu cao mắt sáng” sống xứng-đáng làm thành viên Nước Trời, ở đây, bây giờ.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn tâm-niệmn cuộc sống

Của mình và của người

Nên như thế.

Cô gái Úc gốc Việt thay đổi cả thế giới bằng công nghệ

Cô gái Úc gốc Việt thay đổi cả thế giới bằng công nghệ

Chỉ mới 16 tuổi, Tan Le đã được nhận vào Đại học Monash, rồi tốt nghiệp loại ưu chỉ trong vòng 3 năm ở cả hai ngành Luật và Thương mại.

Năm 1998, lần đầu tiên tại Úc, một nữ sinh viên gốc Việt 18 tuổi đã đạt danh hiệu “The Young Australian of the Year”, giải thưởng thường niên dành cho một cá nhân ưu tú dưới 30 tuổi có ảnh hưởng nhất trong xã hội.

Cô gái ấy tên là Lê Thị Thái Tần (Tan Le), vị Chủ tịch trẻ nhất của Trung tâm Dịch vụ Nhân lực Việt – Úc. Ở tuổi 15, Tần đã lãnh đạo nhiều nhóm thiện nguyện giúp đỡ hàng trăm dân nhập cư tìm việc và ổn định cuộc sống trên đất Úc.

Dù bận rộn với cộng đồng, nhưng cô vẫn hoàn thành xuất sắc chương trình trung học ngay từ tuổi 16, vào thẳng Đại học Monash, giành học bổng toàn phần của KPMG để học 2 ngành Luật và Thương mại.

Đến tuổi đôi mươi, sự nghiệp của Tần đã vững vàng khi cô là một luật sư của hãng luật hàng đầu thế giới FreeHills, vừa đảm nhận nhiều chức vụ trong Chính phủ Úc và liên tục được mời làm đại sứ của nhiều chuyến đi ngoại giao.

Song, kỳ lạ là 12 năm sau, cả thế giới lại dồn sự chú ý cả vào Tần như ngôi sao khởi nghiệp sáng nhất tại Thung lũng Sillicon, Mỹ.

Từ năm 2003, cô đồng sáng lập Emotiv System cùng Ðỗ Hoài Nam, với ý tưởng dùng ý nghĩ và cảm xúc để điều khiển thiết bị điện tử. Đến năm 2010, ý tưởng đó thành hiện thực với chiếc mũ đọc sóng não EPOC của Emotiv System gây sốt toàn cầu, thu về hơn 10 triệu USD.

EPOC hiện được ứng dụng rộng khắp các lĩnh vực như trò chơi điện tử, nghiên cứu khoa học và điều trị bệnh liên quan đến não bộ.

Khát khao được công nhận

Rời Việt Nam từ khi 4 tuổi, Tần cùng gia đình đến Úc bắt đầu cuộc sống mới hệt như nhiều dân nhập cư khác: nghèo khổ và túng thiếu. “Chúng tôi thường mang hai đôi tất. Chủ yếu là chiếc này để bịt lỗ thủng của chiếc kia,” Tần hồi tưởng. Nhưng đói khổ không ám ảnh cô bằng sự ghẻ lạnh của bạn bè cùng lớp. Tần từng chờ đợi giờ học trôi qua nhanh để trốn vào thư viện một mình. “Con bé gầy rộc đi vì nỗi sợ đó,” mẹ Tần nhớ lại.

Hoàn cảnh đó lại nảy sinh trong Tần hai phản ứng thú vị. Một mặt, cô tự nhủ “ta sẽ vượt qua tất cả các người” bằng cách ép mình học. Kết quả là cô học xuất sắc đến mức kết thúc sớm chương trình học hơn so bạn đồng lứa. Chỉ mới 16 tuổi, cô đã được nhận vào Đại học Monash, rồi tốt nghiệp loại ưu chỉ trong vòng 3 năm ở cả hai ngành Luật và Thương mại.

Mặt khác, “Tần quan tâm đặc biệt về tác động của cộng đồng lên mỗi cá nhân,” thầy giáo tiếng Anh Ruth Willis nhận xét. Chính môi trường cô lập ấy đã vô tình nung nấu trong Tần khát vọng kết nối cộng đồng. Cô hạ quyết tâm “thay đổi nước Úc thành một nơi tốt đẹp hơn để sống và làm việc”.

Kể từ lớp 9 (15 tuổi), Tần không còn trốn trong thư viện nữa mà nhiệt tình bước ra giúp đỡ cộng đồng nhập cư tại vùng Footscray (phía tây Melbourne).  Trong vòng 4 năm sau đó, Tần đã được bầu làm Chủ tịch Cộng đồng người Việt tại vùng Footscray và Trung tâm Dịch vụ Nhân lực Việt – Úc, chuyên hỗ trợ dân nhập cư tìm việc và ổn định cuộc sống trên đất khách.

Sau 15 năm, xứ người mà Tần tìm mọi cách hòa nhập ấy cuối cùng đã đón nhận cô. Chính người dân Úc đã bầu cô là gương mặt trẻ tiêu biểu nhất của quốc gia họ vào năm 1987. Cuộc đời và cống hiến của cô gái Việt trở thành phim tư liệu lưu ở Bảo tàng Úc cho thế hệ trẻ noi theo. Riêng cô đã nhận ra rằng, “à một kẻ không được thừa nhận vẫn ổn. Thậm chí tôi xem đó là một món quà. Là kẻ được thừa nhận, bạn dễ dàng chấp nhận thành kiến bao quanh. Riêng tôi lại bị đẩy ra, nhưng đối mặt với chúng không chút sợ hãi”.

“Đứa con” Emotiv System

Qua những chuyến công tác xã hội và hoạt động ngoại giao ở nhiều nước, Tần  gặp gỡ nhiều người sống theo đam mê hơn vì mưu sinh. Nghề luật sư không còn là mảnh ghép khớp với lựa chọn của cô gái đa tài này nữa.

Năm 2003, cô táo bạo rời Úc đến Thung lũng Silicon, Mỹ cùng 3 người bạn mở ra công ty Emotiv System. Tần tin công nghệ là cách nhanh nhất để thay đổi cả thế giới. Emotiv System ấp ủ ý định cho ra đời những thiết bị điều khiển mọi thứ bằng suy nghĩ và cảm xúc của con người.

Đội ngũ Emotiv System mất 7 năm trời nghiên cứu sản phẩm đầu tiên là Emotiv EPOC, nâng cấp từ công nghệ đo điện não (EGG).

Năm 2010 đánh dấu bước ngoặt lớn cho cả Emotiv System và cả nền công nghệ thế giới. Emotiv EPOC ra đời như một chiếc mũ EGG nhỏ gọn, kèm với 16 nút điện cực ghi lại mọi hoạt động trong não và cử chỉ gương mặt.

Giả sử bạn muốn kéo rèm cửa, suy nghĩ này sẽ truyền tín hiệu trong não được ghi vào EPOC. Lần tới, khi ý định kéo rèm xuất hiện trong đầu, đường truyền lần trước ngay lập tức thông qua EPOC ra lệnh cho máy tính kéo rèm từ xa, thay vì kéo tay hay bấm nút.

Ngoài ra, mấu chốt khiến Emotiv EPOC trở nên thông dụng vì nó chỉ tốn khoảng 300 USD, rẻ gấp nhiều lần so với một chiếc máy EGG hàng chục triệu USD ở phòng thí nghiệm. Emotiv EPOC bắt đầu được ứng dụng rộng rãi trong y học (cho phép bệnh nhân điều khiển xe lăn bằng suy nghĩ hoặc giao tiếp dễ dàng hơn với người thân) hay nguồn cảm hứng mới cho trò chơi điện tử.

Trong khi Emotiv EPOC đang thành tâm điểm trên thế giới, Tần vẫn chưa dừng lại.

Năm 2013, sản phẩm thứ hai Emotiv Insight đã gọi vốn thành công hơn 1,6 triệu USD trên Kickstarter, dự kiến ra thị trường vào cuối 2015. Đi kèm tính năng đã có với Emotiv EPOC, Emotiv Insight nghiêng về ứng dụng y học.

Thiết bị này có thể thu thập và phân tích hoạt động trong não từng ngày để phát hiện sớm nhất các dấu hiệu bệnh lý hay chấn thương. Ngoài ra, dữ liệu thu thập từ người dùng trên khắp thế giới sẽ thành nguồn nghiên cứu não bộ lớn nhất từ trước đến nay.

Với Tần, mảnh ghép Emotiv Insight liệu có là miếng ghép cuối cùng? Tần nhìn nhận ứng dụng đã mở ra chân trời mới trong công nghệ: “Những gì chúng tôi làm chỉ mới chạm vào phần nổi của vô vàn ứng dụng khác mà thôi!”.

Việt Trinh/Theo Nhịp cầu đầu tư

KHÔNG. Bài suy niệm

KHÔNG . Bài suy niệm

Không!  Không!  Tôi không còn yêu em nữa.
Không!  Không!  Tôi không còn yêu em nữa.
Không!  Không!  Tôi không còn yêu em nữa em ơi.

Tình đời thay trắng đổi đen.  Tình đời còn lắm bon chen.
Tình đời còn lắm đam mê.  Nên tình còn lắm ê chề.

Tình mình có nghĩa gì đâu.  Tình mình đã lắm thương đau.
Tình mình gian dối cho nhau.  Thôi đành hẹn lại kiếp sau.

Không!  Không!  Tôi không còn, tôi không còn yêu em nữa.
Không!  Không!  Tôi không còn, tôi không còn yêu em nữa.
Không!  Không!  Tôi không còn, tôi không còn yêu em nữa em ơi…..

Nguyễn Ánh 9

****************************************

Có lẽ không người Việt nào sống ở Sài gòn vào những năm 1969-1970 mà không biết đến nhạc phẩm “Không” của nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9.  Bản nhạc ra đời như một câu trả lời cho thắc mắc của Khánh Ly: “Ông có còn thương người ấy?”  Người ấy là mối tình đầu khi nhạc sĩ mới 18 tuổi.  Hai người tình thơ trẻ bị cuốn vào niềm đam mê choáng váng và mãnh liệt.  Nhưng dường như là số phận, những mối tình quá đẹp, thường khó vẹn toàn.  Gia đình cô gái không đồng ý cho con mình yêu anh nhạc sĩ nghèo, sống lang bạt kỳ hồ.  Ngăn không được lòng đôi trẻ, cha mẹ cô dùng kế ly gián, gây nghi ngờ hờn giận cho hai người, rồi đưa cô gái sang Pháp sống, hòng ngăn cản mối tình “rồ dại” với chàng nhạc sĩ.

Năm 1965, người nhạc sĩ lập gia đình và tin tưởng những giông bão của mối tình đầu sẽ ngủ yên.  Nhưng thực tế, trái tim ông đã không còn cảm giác sau mối tình đầu, bởi tình yêu đã vĩnh viễn câm lặng.  Năm 1974, ông gặp lại người tình xưa khi cô về Sài Gòn, cô vẫn một mình, vẫn yêu ông và chẳng oán trách gì.  Đã lỡ làng, có xót xa thì cũng đành sống cho hết bi kịch một kiếp người.  Họ lại xa nhau, lần này là mãi mãi, để vùi chôn những dấu yêu xưa cũ vào đáy lòng mình, nhức buốt, cho tới hơi thở cuối cùng.

Ca khúc “Không” được Khánh Ly thu lần đầu trên đĩa nhựa Tình ca quê hương và cũng chính nhạc phẩm “Không” đã đưa Elvis Phương “lên sao” ở thập kỷ 70, sau đó nổi tiếng đến mức công chúng gọi Nguyễn Ánh 9 là ông “Không”.

****************************************

Ở hải ngoại, tôi thường được nghe bài“Không” đã được hòa âm (remix) lại sau này với điệu nhạc Disco giật gân, nhanh vui và dồn dập.  Trong đĩa video ca nhạc Asia, ca sĩ Mai Lệ Huyền đã lột tả tận chân chữ “không” của bài nhạc với khuôn mặt lạnh lùng, một cái ngoắt đầu qủa quyết, cái khoát tay mạnh mẽ, đôi môi mím chặt, thêm với ánh mắt hờn căm của kẻ bị tình phụ.  Tất cả được phụ họa thêm bằng những pha ánh sáng trắng đen chớp tắt liên hồi, tiếng trống chát chúa từng nhịp một.  “Không”, dứt khoát là không!  Không còn yêu thương, luyến tiếc!  Cũng chẳng tiếc thương chi mối tình đã lắm thương đau.  Dù chẳng biết ai gian dối với ai?  Dù chẳng hiểu mối tình đang đẹp sao trở thành “có nghĩa gì đâu”? Ai là kẻ bon chen và gây ra lắm ê chề?  Chẳng hiểu vì sao, người nghe chỉ cảm nhận được một âm điệu “không” dứt khoát và rõ ràng.  Một tiếng “không” chát chúa chói tai!  Một tiếng “không” lạnh lùng bẽ bàng!  Không là không!  Trăm lần không, ngàn lần không!  Đừng hy vọng đợi chờ!  Đừng năn nỉ luyến lưu….  Nếu có chăng, chỉ là kiếp sau!  Nghe tiếng “không” mạnh mẽ quyết liệt này, thì dù chưa muốn chia tay, dù còn vấn vương, người yêu cũng đành phải ngậm ngùi ra đi…

Trong một dịp tình cờ tôi được đọc một bài phỏng vấn của nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 về tác phẩm “Không” bất hủ này. Thật ngạc nhiên khi khám phá ra cả một tâm tư thầm kín của tác giả gởi gắm trong hồn thơ nốt nhạc.  Đó không phải là một chữ “không” dứt khoát quyết liệt, bẽ bàng như người ta thường được nghe và hiểu sau này.  Bản nhạc nguyên thủy được soạn với điệu Slow Rock lả lướt, tình tứ du dương, tiếng nhạc réo rắt nhẹ nhàng diễn tả một chữ “không” đầy ẩn ý mời gọi.  Hiểu chữ “không” này như thế nào, điều đó tùy thuộc vào độ rung cảm của tâm hồn và nhịp đập của con tim.  Tim tôi và tim em, hai kẻ trong cuộc đã từng một thời yêu thương!  Với tác giả, đó là một chữ “không” giận lẫy, đầy trách móc nhưng không dứt khoát.  Một chữ “không” để hở!  Nói “không” nhưng không phải là “không!”. “Không” đó nhưng đầy hàm ý chờ đợi, đẩy em đi nhưng lại muốn kéo em về.  Mấy nốt cuối cùng của điệp khúc “tôi không còn yêu em nữa, em ơi…..” được kéo dài ra, luyến láy nói lên cái tâm tình xao xuyến chờ đợi, như dằng co, như muốn kéo áo người đừng đi.  Nếu tình đã gian dối, lắm thương đau, nhiều ê chề thì hẹn chi đến kiếp sau?  Mâu thuẫn!  Gian dối một kiếp, một đời chưa đủ hay sao?  Lúc giận nói thế, nhưng không phải thế!  Bởi còn yêu mới giận.  Nói “không” để lòng bớt đau, nói giận để lòng bớt thương, nói hận để lòng bớt nhớ!  Phủ định để tự khẳng định!  Người yêu có hiểu lòng kẻ nói “không”? Người đi có hiểu lòng kẻ ở?  Nghĩa chữ “không” vời vợi đầy đau khổ, tuyệt vọng nhưng vẫn chờ đợi, oán trách nhưng vẫn yêu đậm sâu.  Ai kia nếu có hiểu mới gọi là yêu!

Chữ “không” huyền bí của nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 trong ca khúc “Không” đã được thế hệ sau hòa âm lại, hiểu theo nghĩa trắng đen của thời đại, nhưng lại lệch lạc với tâm tình của tác giả gởi gắm trong đó.  Cả một con tim sôi sục yêu thương được diễn tả bằng giọng hờn giận nhẹ nhàng của điệu nhạc Slow Rock tình tứ, trách đó nhưng yêu đó, giận đấy nhưng vẫn đợi đây đã được chuyển sang nhịp giật gân, dồn dập như hối thúc người ta đi cho lẹ, như muốn thanh toán mối tình cho xong để còn tính chuyện khác.  Cả một trời ẩn ý được che dấu dưới chữ “không” ai oán não nùng, nào có ai thấu hiểu nỗi lòng của kẻ nói chữ “không” nếu không được nghe chính tác giả tâm sự?

****************************************

Chữ “không” huyền bí nhiều ý làm tôi liên tưởng đến chữ “không” của Thiên Chúa.  Thưở ban sơ, Ngài đã nói “không”, con người sẽ phải chết và đuổi ra khỏi vườn địa đàng sau khi loài người phạm tội bất tuân.  Nhưng sau đó, Con Một của Thiên Chúa lại chết để con người được sống.  Quả là một chữ “không” mâu thuẫn!  Một cái chết ô nhục khổ đau trên thập tự đồi Golgotha năm xưa của Chiên Thiên Chúa đã nói lên bao điều.  Không những thế, Người Con Một đó đã đến thế gian truyền rao một thông điệp về tình yêu thâm sâu vô biên của Thiên Chúa Cha.  Rằng Thiên Chúa đã yêu thương loài người đến nỗi đã ban Người Con Duy Nhất cho thế gian.  Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người đã dám thí mạng sống mình vì bằng hữu.  Ôi, một chữ “yêu” nhiệm mầu!  Một Thiên Chúa quyền năng sáng tạo muôn loài muôn vật từ hư không, nhưng lại bó tay “không” thể cứu chuộc con người nếu “không” có sự hợp tác của con người.  Một chữ “không” khó hiểu!

Thật không dễ dàng để đối diện với chữ “không” phũ phàng của Đấng mà mình đã đặt trọn tin yêu!  Đã bao lần, Thiên Chúa nói “không” với tôi trong cuộc sống này, mỗi khi tôi xin nhưng không được, tìm nhưng không thấy, gõ cửa nhưng không được mở.  Tôi phải hiểu nghĩa chữ “không” này như thế nào đây?  Xin thành công chỉ gặp toàn thất bại, xin Chúa chữa lành bịnh tật thì thấy bịnh nặng thêm, xin hạnh phúc lại gặp toàn khổ đau.  Xin cho đường đời êm ả bên những đứa con ngoan hiền thì gia đình tan tác, con cái vô đạo nghĩa.  Tại sao và tại sao?  Ngay cả khi tôi xin những điều tốt lành cho phần hồn mình và của những người thân thương, Thiên Chúa vẫn nói: “Không, chưa phải lúc!”

Thật không dễ dàng để thông hiểu chữ “không” đầy cay đắng của Thượng Đế quyền uy.  Tôi cần phải nhìn lên thập giá Giêsu, ngước mặt lên trời cao để nhìn thẳng vào ánh mắt của Đấng đã nói “không”, để hiểu tâm tình của Ngài đằng sau chữ “không” đáng ghét kia.  Thiên Chúa cũng đã từng nói “không” với Người Con duy nhất của Ngài trong vườn Cây Dầu.  Ngài đã “không” cất chén đắng cho Giêsu nhưng Ngài ban thêm sức mạnh và nguồn an ủi thiêng liêng cho Giêsu.

Trong phút giây đối đầu với sự chết, Giêsu cũng đã từng có tâm tình bị bỏ rơi bởi Người Cha yêu dấu, nhưng Ngài đã không bỏ cuộc và sau cùng Ngài đã chiến thắng.  Trong men cay chua chát của thất bại, lạ thay tôi nhận ra đức khiêm nhường trổ sinh hoa trái.  Trong thể xác ốm yếu bịnh hoạn, tôi thấy linh hồn mình tỉnh thức sống gần Chúa hơn.  Dãy dụa trong bể khổ, tôi thấy mình chán ghét thế gian hào nhoáng, lòng hướng về một hạnh phúc viên miễn hơn.  Đi trên đường đời gập ghềnh sóng gió, người mang đầy thương tích, tôi thấy mình bám chặt vào Chúa hơn và ngỡ ngàng nhận ra đức tin cậy mến của mình sáng rực như bó đuốc trong đêm đen.  Phải chăng qua chén đắng của chữ “không”, Thiên Chúa đang dạy dỗ tôi nhiều điều.  Ngài giúp tôi lớn hơn trong đời sống thiêng liêng và mở mắt tâm hồn tôi để nhìn thấy được những điều cao cả thuộc về thượng giới hơn?

Có lẽ khi chữ “yêu” kết hợp với chữ “không” sẽ giúp người trong cuộc hiểu rõ nghĩa từ thâm sâu huyền nhiệm của chữ “không” hơn.  Tùy theo mức độ “yêu” để hiểu nghĩa chữ “không”.  “Không” đi một mình thì thuần túy chỉ là “không” đúng nghĩa trắng đen, chẳng cần phải“yêu” cũng có thể hiểu.  Nhưng “không” đi với hơi thở của con tim, với ánh mắt tha thiết yêu thương, với độ rung cảm của linh hồn, chữ “không” chắc hẳn không còn là “không” nữa.  Người trong cuộc sẽ hiểu tại sao Thiên Chúa lại nói “không” với mình, khi Thiên Chúa đã dám cho đi cái qúy nhất của Ngài.  Chắc hẳn phải có lý do ẩn khuất đằng sau chữ “không” đắng chát kia.  Nghĩa chữ “không” vời vợi khó hiểu!  Có lẽ cần phải “yêu” nhiều hơn nữa mới có thể hiểu được chữ “không” của Thiên Chúa Tình Yêu.

Phêrô và Giuđa, cả hai cùng theo Thầy ròng rã ba năm trời, trực tiếp nghe những lời giáo huấn từ miệng Thầy, hiểu rõ tấm lòng yêu thương vị tha của trái tim Thầy.  Đến giây phút thử thách, cả hai cùng phản bội tình yêu của người Thầy yêu dấu.  Một người bán Thày cho các tư tế, còn một thì leo lẻo chối Thày giữa đám đông.  Với tình yêu, sự phản bội nào cũng xấu xa như nhau.  Cuối con đường, cả hai đã hoà âm lại chữ “không” theo hai nghĩa khác nhau.  Giuđa hiểu rằng Thầy đã nói “không” với mình.  Thế là hết, là xong mối tình thầy trò ba năm!  Không còn con đường nào khác cho kẻ phản bội, và ông đã đi đến ngõ cụt của chữ “không” lối thoát đó bằng cái chết thắt cổ của mình.  Phêrô thì can đảm hơn để nhìn lên ánh mắt của Thầy và đọc được một sứ điệp trái ngược.  “Không, cho dù con xấu xa phản bội, Thầy vẫn yêu thương con.  Không, đừng bỏ đi, con ơi!  Cho dù con vấp ngã chối Thầy nhưng Tình Yêu chấp nhận cái tốt lẫn cái xấu.  Không, con phải đứng lên bằng chính đôi chân của mình!  Cho dù con phản bội nhưng Thầy vẫn thứ tha và chờ đợi…  Không, con không được bỏ cuộc!  Thầy và anh em vẫn cần con và mong con quay về….” Thế là Phêrô cất bước trở lại với anh em, với sứ mạng Thầy đã giao phó và cuối cùng đã chết vì người Thầy mình đã một thời chối bỏ.  Phải chăng vì Phêrô yêu Thầy hơn Giuđa yêu Thầy, nên ông hiểu nghĩa chữ “không” đúng với tâm tình của Thầy hơn?

Hai cách hiểu chữ “không” khác nhau dẫn đến hai kết cục khác nhau.  Dù hai cách hiểu hay nghìn cách hiểu, ý tưởng của tác giả cũng chỉ có một.  Thiên Chúa là Đấng trung thành với lời hứa, với những gì Ngài đã nói.  Ngài hằng mong muốn nhân loại nhìn lên cái chết ô nhục đau thương của Người Con Một trên thập giá, để hiểu cho đúng ý nghĩa yêu thương của trời cao, để mỗi khi gặp phải chữ “không” lạnh lùng trong cuộc sống thì đừng vội tuyệt vọng chán nản, đừng vội bỏ cuộc và  đừng bao giờ diễn dịch chữ “không” cao siêu nhiệm mầu của Thiên Chúa theo ý phàm tục riêng mình.  Tác giả Nguyễn Ánh 9 trong bài phỏng vấn đã kêu gọi ca sĩ khi trình bày nhạc phẩm “Không”, hãy tôn trọng tâm tình của người viết nhạc và linh hồn bài hát.  Ca sĩ là người dùng nghệ thuật âm nhạc, giọng hát, cách diễn đạt để lột tả cho trọn vẹn ý tưởng của tác giả gởi gắm trong ca khúc đó chứ không phải phiên dịch lại theo ý mình.  Cùng là một thân phận nghệ sĩ, chắc hẳn Thiên Chúa cũng có một tâm tình như nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9.  Mong sao thế nhân hiểu cho đúng, diễn tả cho trọn cái tâm tình của Thiên Chúa gởi gắm trong những tác phẩm nghệ thuật của Ngài, mà đỉnh cao của những tác phẩm nghệ thuật đó chính là cây thánh giá cheo leo trên đồi Golgotha năm xưa và Lời Yêu Thương được gói ghém trong cuốn Thánh Kinh.

Qua tình khúc “Không” của điệu Slock Rock, người nghe cảm nhận được nỗi đau, vị chát, men cay, sự thất bại ê chề của người nói chữ “không”, hơn là kẻ được nghe chữ “không”. Mâu thuẫn thay, tôi lại cảm nhận được nỗi tuyệt vọng cay đắng của người nghe chữ “không”, nhưng chưa bao giờ tôi thử tìm hiểu xem cõi lòng của Thiên Chúa ra sao khi Ngài phải nói chữ “không” với tôi!  Đến bao giờ tôi mới hiểu được tâm sự của người nói chữ “không“?  Chẳng biết tôi có thể hiểu được hay không, khi tôi cứ mãi gục xuống trong cơn đau của mình?

****************************************

Lạy Thiên Chúa là Đấng thấu hiểu mọi sự, con viết bài này cho vơi bớt cơn đau,  cho quên nỗi ưu phiền vì Chúa cũng đang nói “không” với con trong lúc này đây.  Linh hồn con đang bên bờ tuyệt vọng vì không hiểu sao Chúa cứ mãi nói “không”! Con không muốn xin gì thêm nữa vì đã quá mỏi mệt, vì dư âm đắng nghét của chữ “không” vẫn còn đọng nơi đầu môi.  Con chỉ xin một điều duy nhất là cho con biết luôn cậy trông và phó thác vào tình yêu thẳm sâu nhiệm mầu của Chúa.  Gọi là nhiệm mầu vì đôi lúc con không hiểu được tình yêu đó.  Phần còn lại, Chúa muốn cho gì thì cho, vì Chúa đã trao ban Người Con duy nhất của Ngài cho con rồi thì chắc Chúa chẳng tiếc gì những thứ khác nữa.  Amen!

Lang Thang Chiều Tím

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Thời Đại Bịp

Thời Đại Bịp

Nguoi-viet.com

Minh Văn

Lịch sử Việt Nam đã và đang tồn tại một thời đại như vậy, điều mà chúng ta gọi là: Thời Đại Bịp. Mới hay rằng, thế gian này chuyện ngược đời đến mấy cũng có thể xảy ra, sự thể đã 70 năm nay rồi. Có thể nói, dân ta đã chịu đựng nổi bất công nhiều như sao trên trời, dân tộc ta phải hứng chịu một cơn đại hồng thủy phá hủy văn hóa ngàn năm.

Đảng CSVN dùng chế độ ‘công an trị’ để đàn áp những tiếng nói khác mình.
(Hình minh họa: Getty Images)

Nhà nước hiện nay nói rằng, họ đang xây dựng sự nghiệp “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.” Thực tế thì như thế nào?

Họ (nhà nước) lấy của dân 10 đồng, rồi lại chia cho dân 2 đồng. Sau đó hệ thống truyền thông làm rùm beng lên, cho đó là công lao trời biển của đảng. Người dân cho dù nhìn thấy bất công, có phát hiện ra trò bịp thì cũng đành phải im lặng. Đảng sẽ giành một thái độ trìu mến cho những người biết sợ và phục tùng, và đàn áp bất cứ ai dám phản đối. Lâu dần xã hội hình thành một thói quen ứng xử: Nếu người dân chịu để cho đảng bóc lột và lừa dối thì mới được đảng tôn trọng.

Theo họ lý luận, đảng là người đầy tớ trung thành, nhân dân là chủ, nhưng người chủ đó phải chấp nhận các nguyên tắc sau: Đảng nói gì, dân cũng không được cãi lại, đó mới là một công dân tốt. Khi nhà nước ban hành các chủ trương chính sách, dân chỉ việc ngoan ngoãn làm theo, không phản đối và thắc mắc, có như vậy mới không phải là “phản động.” Trung ương bao giờ cũng đúng, chỉ có cấp dưới làm sai và ý thức chấp hành pháp luật của người dân chưa tốt, vì vậy mà đảng không bao giờ phải chịu trách nhiệm. Đảng còn nói rằng, mọi việc người dân không cần phải quan tâm, đã có đảng và nhà nước lo tất cả.

Người dân cúi đầu sợ hãi mà tuân thủ các nguyên tắc do đảng đặt ra, kết quả là dân tình khốn khổ, mất hết nhân quyền, nước mất nhà tan.

Với một sự vô lý to lớn như vậy, đảng biết rằng sẽ có ngày người dân nổi lên để mà đòi tự do đa đảng. Nhằm ngăn chặn quy luật tất yếu đó, đảng tung ra luận điệu “đảng nào cũng giống nhau mà thôi, rồi cũng tham nhũng cả. Thôi thì cứ để cho Đảng Cộng Sản lãnh đạo mãi mãi cho khỏe chuyện. Vả lại, đa đảng thì lộn xộn và phức tạp lắm, khủng bố suốt ngày.” Để minh chứng cho nhận định trên, đảng cho chiếu trên truyền hình nhà nước tin tức khủng bố ở các nước dân chủ, để người dân xem đó thấy sợ mà không dám đòi tự do nữa.

Trong thời đại bịp này, báo chí, truyền hình, phát thanh tư nhân không có, tất cả đều là của nhà nước. Vì vậy mà tiếng nói của người dân vô cùng nhỏ bé, có muốn phản đối cũng không thắng nổi truyền thông của chế độ. Với một hệ thống truyền thông độc quyền hùng hậu như vậy, bao giờ đảng cũng đúng, cũng tốt và vĩ đại, chỉ có nhân dân là có tội. Đảng nắm phần cán dao, nhân dân thì nắm phần lưỡi dao, vì vậy không thể nào mà xoay chuyển tình thế được.

Tình cảnh đó khiến người ta luôn phải sống trong dối trá và bưng bít. Một xã hội không biết đến sự thật thì cũng giống như con người ta bịt mắt cho kẻ khác dắt đi. Dân tộc Việt Nam đã bị Đảng Cộng Sản bịt mắt và dẫn dắt theo ý muốn của họ. Người dân không được biết gì khác ngoài những điều mà đảng cho phép biết, những điều mà đảng tuyên truyền.

Quay lại 70 năm về trước, đó là câu chuyện của những tầng lớp người thấp nhất vùng lên cướp chính quyền và sau đó lãnh đạo toàn bộ xã hội. Một nhà nước “vô sản” được dựng nên, và những người trí thức, bác học, nhà khoa học, kỹ sư, luật sư, giáo viên… phải phục tùng tuyệt đối những người công nhân và nông dân. Đó là một mô hình nhà nước hoang tưởng và ngược đời nhất mà nhân loại từng được chứng kiến, nó hoàn toàn đi ngược lại quy luật tự nhiên. Đó là một chế độ độc tài toàn trị, là kẻ thù không đội trời chung của các giá trị tự do, dân chủ. Là nơi mà con người bị đày đọa và trói buộc một cách có hệ thống nhất, nơi mà cái phí lý trở nên có lý. Rồi những người công nhân và nông dân cũng bị lừa bịp, bị chính chế độ đại diện cho họ phản bội, bị bóc lột và đàn áp hơn xưa. Từ đó mà dẫn đến một thời đại bịp như ngày hôm nay.

Đảng không bao giờ nhận lỗi, mà luôn có những đối tượng chịu trách nhiệm thay, đó là: Các thế lực thù địch, thiên tai, nhận thức yếu kém của người dân, đế quốc Mỹ, bệnh dịch…

Lừa dối nhân dân, biến sai thành đúng, biến trắng thành đen, cho nên nó thật xứng với danh xưng: Thời Đại Bịp.

Không có bất cứ luận điệu nào có thể biện minh cho một chế độ độc tài toàn trị, vì sự tồn tại của nó đã là một tội ác tày trời. Bởi nó tồn tại bằng cách lừa bịp, đàn áp, tham nhũng, và cướp đi các quyền tự do dân chủ của nhân dân.

LỜI TÔI NGUYỆN CẦU

LỜI TÔI NGUYỆN CẦU

Trích EPHATA 652

Mấy năm trước, tình cờ đọc được bài cha Nguyễn Văn Đông, gốc Kontum, giảng tại Nhà Thờ Chính Tòa Sàigòn, tôi thấy hay quá bèn viết lên báo Văn Nghệ Tiến Phong xuất bản ở Hoa Kỳ. Mấy bà làm việc công quả trong một ngôi chùa ở Toronto đọc bài tôi viết, cũng xúc động như tôi. Các bà Phật Tử ngưỡng mộ lòng bác ái của cha Đông và thương mấy người cùi, đã góp tiền trong chùa rồi nhờ tôi chuyển về cho cha Đông. Việc này làm tôi cảm động và suy nghĩ mãi.

Bài tôi viết về người cùi dài dòng, bắt đầu từ chuyện Đức Cha Cassaigne rồi mới dẫn tới chuyện cha Đông, như sau:

( … ) Đức Cha Jean Cassaigne là người con một, sinh ra trong một gia đình quý phái giàu có bên Pháp, nhưng ngài đã từ bỏ mọi sự sang trọng thế gian mà xin vào Tu Hội Thừa Sai Paris. Lãnh chức Linh Mục xong, ngài xin sang Việt nam truyền giáo. Ngài chọn Việt Nam vì sau khi đọc các bài cha Đắc Lộ Alexandre de Rhodes viết trên báo Journal des Voyages về cánh đồng truyền giáo tại Việt Nam, ngài đã bị Việt Nam thu hút.

Cha Cassaigne tới Việt Nam ngày 5.5.1926 và học tiếng Việt ở Cái Mơn. Ngài chọn tên Việt Nam là Gioan Sanh. Sau đó ngài được bề trên sai đi làm cha sở một Họ Đạo ở Di Linh, miền cao nguyên. Nơi đây ngài gặp những người Thượng bị phong cùi lang thang trong rừng. Đây là những người bị cùi vào giai đoạn tuyệt vọng. Gia đình đem bỏ họ vào rừng, để họ ở đó một mình, sống chết ra sao mặc họ. Gia đình và dân làng coi như đã xong bổn phận. Những người phong cùi này sống trong đói khổ và chết dần mòn. Cha Cassaigne đã đưa họ về và lập thành một làng riêng cho họ. Cha vừa coi Họ Đạo, vừa coi luôn làng cùi. Làng có tên là Kala. Ngài kiêm nhiệm vai y tá băng bó vết thương, kiêm nhiệm chức hỏa đầu quân nấu ăn cho họ, đồng thời kiêm luôn chức ngoại giao đi cầu viện khắp nơi.

Chẳng bao lâu sau, ngài nhiễm bệnh sốt rét và lao phổi. Ngài viết thư gửi bạn bè bên Pháp: ‘Một năm 12 tháng, tôi bị sốt rét 10 tháng, nhưng tôi không thể nằm nghỉ vì không có ai thay thế tôi để lo cho bệnh nhân người cùi’. Ngài rất giỏi tiếng Việt và tiếng Thượng K’Hor. Người Thượng nhất là những người cùi đã coi Ngài như cha ruột của mình. Vì ngài đạo đức thánh thiện nổi tiếng như vậy nên năm 1941, Toà Thánh đã đặt ngài làm Giám Mục Sàigòn. Năm 1943, Ngài phát hiện mình bị mắc bịnh cùi, nhưng ngài vẫn cố gắng tiếp tục coi sóc Giáo Phận Sàigòn cho tới năm 1955. Sau đó ngài trao quyền lại cho Đức Cha Nguyễn Văn Hiền. Đức Cha Cassaigne luôn sống trong khó nghèo. Ngài là vị Giám Mục duy nhất đi xe đạp và Vespa khi còn tại chức ở Sàigòn.

Rời Sàigòn, ngài trở về làng cùi Di Linh và tiếp tục phục vụ những người xấu số. Ngài phát triển làng, mở trường học và bệnh xá. Tới năm 1972 thì ngài kiệt sức, liệt giường. Ngài mắc nhiều thứ bệnh: sốt rét rừng từ năm 1942, bệnh cùi năm 1943, lao xương năm 1957, lao phổi năm 1964. Nằm trên giường bệnh, ngài luôn nói: “Tôi là người Việt Nam”.

Ngài qua đời ngày 31.10.1973 tại Di Linh. Cả làng cùi Kala đã khóc một tuần lễ. Lễ an táng có đông đủ các chức sắc cao cấp đạo đời. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã tặng Ngài Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương. Ngài được an táng ở chân tháp làng Kala, trên bia mộ có ghi hàng chữ: “Jean Cassaigne, 1895-1973, Caritas et Amor”. Caritas et Amor là chữ Latinh, khẩu hiệu Giám Mục của ngài, nghĩa là ‘Bác Ái và Yêu Thương’.

Mấy chục năm sau, có một vị đã theo chân Đức Cha Cassaigne, đó là cha Nguyễn Văn Đông. Cha Đông coi sóc Họ Đạo Sa Thầy ở Kontum. Cha Đông là người sống mộc mạc, đơn sơ và nghèo khó. Ngài được mời về Nhà Thờ Chính Tòa Sàigòn, nơi có ngai tòa của Đức Cha Cassaigne, để giảng mở đầu cho Mùa Chay năm 2001. Bài giảng đơn sơ như thế này:

“Kính thưa ông bà anh chị em,

Thật là xúc động khi tôi được mời giảng bài Tin Mừng đầu Mùa Chay tại Nhà Thờ Chính Tòa. Tôi thú thực với anh chị em là đứng trước cảnh tráng lệ đẹp đẽ và sang trọng trong Nhà Thờ này, lòng tôi bị dao động qúa. Tôi so sánh cảnh này với cảnh nghèo nàn trong xứ Sa Thầy ở cao nguyên nơi tôi phụ trách, tôi thấy đây cách biệt một trời một vực. Tôi thấy bị lúng túng.

Quý anh chị em chắc có biết, nói về tỉnh Kontum, tôi xin tự hào khoe rằng, xứ tôi phụ trách cái gì cũng nhất, lớn nhất, có người dân tộc đông nhất, đồng bào khắp nước đổ về đây nhiều nhất, có nhiều rừng núi nhất, và… nghèo nhất.

Tôi làm Linh Mục đã hơn ba chục năm. Năm nay tôi vừa tròn 61 tuổi. Tôi trẻ nhất so với mấy Linh Mục ở chung. Dù có tuổi nhưng được cái tôi chưa phải vào nhà thương hay uống thuốc nên còn có thể gồng mình cáng đáng nhiều việc. Xứ Sa Thầy nơi tôi phụ trách có 4 cha, cha chính xứ đã 77 tuổi, bịnh tiểu đường đã yếu lắm, còn 2 cha kia thì một ông nằm liệt giường vì bệnh cột sống, một ông ung thư giai đoạn cuối, nên chỉ còn mình tôi chạy ra chạy vô. Công việc nhiều lắm, ờ nhiều mà vui.

Tỉnh Kontum, từ thị xã quét một vòng bán kính xung quanh ra toàn tỉnh là 70 cây số, do vậy xứ tôi rộng tha hồ mà đi, đi mệt thôi. Đi mà rất vui, vui vì giúp đỡ được nhiều người. Anh chị em cũng biết là tỉnh Kontum có số lượng người phong cùi nhiều nhất nước. Tại nhà xứ, tôi là người trẻ nhất, có sức khoẻ nhất nên tôi được giao việc phụ trách người cùi, vì vậy mà tôi hay đi thăm họ lắm.

Tôi xin kể anh chị em nghe. Kontum có đến 70% là người dân tộc, sống rải rắc khắp nơi. Nguyên đi từ Giáo Xứ này sang Giáo Xứ khác đã thấy mệt rồi, huống chi bây giờ đi thăm người bịnh, toàn tỉnh chỉ có tôi. Đồng bào Thượng sống ở đây nghèo lắm, có thể nói họ nghèo nhất nước. Họ gọi tôi là Bab. Tôi nhớ có lần vào thăm một buôn làng, già làng nói: Ơ Bab ơi, Bab nói Bab nghèo ha, Bab mới thấy nghèo thôi, chứ chúng tôi nghèo qúa rồi, nghèo riết rồi nên không thấy mình nghèo nữa, khổ quen rồi cho khổ luôn…

Có lần tôi đi bộ 12 cây số vào thăm một buôn người dân tộc. Ở đây họ có phong tục là hễ ai mắc bệnh phong cùi thì làng sẽ cất riêng một mái nhà trong rừng cho người đó ở, người bệnh này không được ở chung trong làng. Mà vì họ nghèo quá, ngay cái nhà họ ở cũng không ra cái nhà thì mái nhà họ cất trong rừng cho người cùi ở đâu có thể gọi là nhà, phải gọi là cái lều hay cái ổ mới đúng, chỉ một mùa mưa là nát.

Lần kia tôi tới thăm những mái lều này, tôi phải cúi rạp người xuống mới vào nhà họ được. Thấy tôi đến thăm, họ mừng qúa anh em à. Họ cứ nhìn tôi rồi họ cười. Họ nói Bab đến thăm thì họ sung sướng lắm, qúy lắm. Họ cười mà tôi khóc, anh chị em ơi. Họ đã nghèo lại cùi. Tôi biếu họ món gì thì họ ôm vào ngực như sợ bỏ ra là mất.

Lần khác tôi vừa vào lều thì có ông già nói : Bab ơi, Bab có nylon không, nếu Bab có thì Bab cho con một miếng đi, một miếng thôi, để con che cái chỗ con nằm. Bab ơi, đêm qua mưa lớn qúa, cả nhà con chỗ nào cũng ướt, cũng lạnh, con không ngủ được, Bab ơi.

Anh chị em đã thấy người Thượng cùi khổ đến mức nào chưa ? Họ vừa nghèo, vừa bệnh, lại không được học hành gì cả. Họ chỉ biết đếm đến số 100 là hết. Các anh chị em có thể tưởng tượng nổi không, họ cầm tờ giấy 20 ngàn, mua chai nước mắm 7 ngàn, họ không biết nhận lại là bao nhiêu, người bán hàng đưa lại bao nhiêu họ cầm bấy nhiêu, vậy đó. Đã nghèo lại không được học, sống chỉ bám vào đất mà sống, nên giàu sao được. Cứ mỗi lần từ thị xã lên thăm họ, tôi cố tìm chỗ nào có thức ăn rẻ nhất mà mua cho họ. Ví dụ ở đây một ký ruốc là 20 ngàn, nhưng ở Phan Thiết chỉ bảy ngàn thôi.

Tôi là người Bình Định, dân miền Trung cũng nghèo đói quá mà tha phương đến tận Kontum, nên tôi rành lắm. Ở Kontum đồng bào mình nghèo quá, khắp bốn phương về sinh sống, Bắc có, Trung có, Nam có. Họ đều nghèo như nhau, nhưng lại tốt bụng, nên tôi xin họ giúp gì, dù nghèo họ cũng giúp tôi ngay. Tôi cứ lang thang khắp tỉnh, có cá vụn, cơm khô, muối hạt, tôi cứ xin. Chỗ nào người ta bán rẻ nhất là tôi tìm đến, vừa mua vừa xin cho họ. Có lần một số bạn bè cho tôi một ít tiền và nói với tôi: “Nhờ Cha mua ít đồ tặng cho họ đi cha”. Tôi liền đi mua nhiều thứ rẻ, gói thành từng gói nhỏ. Như cá khô thì tôi gói theo ký. Tôi đem cho họ, họ mừng lắm. Lần đó đến một xã, khi tôi đã phát hết qùa, còn lại trong giỏ mấy kí cá khô, lại gói trong giấy bóng màu vui mắt, trẻ con cứ theo tôi mà nhìn, ánh mắt của chúng tỏ ra thèm lắm, nhưng chúng không dám nói. Tôi hỏi: các con có thích không ? Chúng gật đầu. Tôi xuống xe ngay và phát hết mấy ký cá khô còn lại, đây con một ký, con một ký. Chúng nhìn tôi chăm chăm, hai tay ôm gói cá khô miệng cứ hỏi tôi hoài: Bab ơi Bab cho con thiệt hả Bab ? Tôi nói: Ừ, Bab cho con thiệt mà. Chúng lại hỏi: Bab cho con thiệt hả Bab, Bab cho con thiệt hả Bab ?

Thưa anh chị em, có đến những vùng này mới thấy hết cái khổ cùng cực của người dân ở đây. Tôi cứ tự hỏi là nếu tôi đem mấy kí cá khô này tặng bà con ở Sàigòn, chắc các anh chị sẽ nói ông cha này khùng. Thế đấy thưa anh chị em.Tôi muốn nói rằng, chúng ta nhớ giúp người nghèo người bịnh, trong khả năng của chúng ta, không cần nhiều, mỗi người một ít thôi.

Thưa anh chị em, một ít thôi, một tấm nylon nhỏ, một ký cá khô, giúp cho họ bớt khổ, họ mừng lắm, thưa anh chị em. Tôi mong rằng tất cả quý ông bà và anh chị em sẽ sống đẹp hơn lên trong Mùa Chay này, để xứng đáng với đức hy sinh quên mình của Chúa Giêsu. Amen.”

Đọc xong bài giảng, tôi có cảm nghĩ này: Ngôn từ bài giảng rất bình dân và đơn sơ. Nó toát ra sự thành thực và thánh thiện, nó toát ra sự vui vẻ tự nhiên. So sánh với nếp sống đầy đủ tiện nghi vật chất của chúng ta hiện nay, tôi thấy người cùi như đang ở trong thời đại hoang sơ ngàn năm trước. Cha Đông đi làm việc bác ái mà khổ cực quá: đi vào làng thượng, chui vào các mái lều lụp xụp và dơ bẩn, tiếp xúc với những người nghèo khổ bệnh tật và dốt nát. Thế nhưng lời nói của cha toát ra sự vui vẻ. Ngài không hề than khổ than cực, không hề nói ra lời nào như đang làm một việc miễn cưỡng. Ngài nói về ngươi Thượng một giọng thân thương, coi những người Thượng này là bà con anh em của mình. Đó là điều làm tôi xúc động.

Việc này làm tôi nhớ tới Mẹ Teresa Calcutta. Mẹ đã từ bỏ nếp sống một giáo sư, một hiệu trưởng, nhà cao cửa rộng, dạy những học sinh con nhà giàu thuộc giai cấp sang trọng ở Ấn Độ, để hạ mình xuống sống với lớp người cùng đinh xã hội. Tôi được may mắn là đã sang sống ở Ấn Độ 2 tháng, cách đây 8 năm. Tôi đã nhìn thấy tận mắt lớp người cùng đinh ở trong giai cấp hèn mạt. Họ không có nhà. Họ sống ở vỉa đường, lấy đất làm giường lấy trời làm màn. Họ che mưa nắng bằng giấy báo. Gia đình nào may mắn lắm mới có một tấm bạt làm mái che. Ở Ấn Độ, con bò được kính trọng. Chúng đi lang thang đầy đường. Người ta hốt phân bò, phơi khô để đun bếp và để sưởi vào những buổi sáng trời lạnh. Họ nghèo mạt rệp mà lại đẻ nhiều. Đẻ con nhưng không có sức nuôi con. Hoặc họ phá thai hoặc họ để đứa bé chết dần mòn.

Mẹ Teresa đã nhìn thấy cảnh nghèo khổ cùng cực này trong suốt 10 năm dạy học. Mẹ không thể rửng rưng được nữa. Mẹ đã xin từ bỏ mọi sự sang trọng, mẹ đã ẵm các hài nhi hữu sinh vô dưỡng này, đã ôm những người bệnh tật đang hấp hối này về chăm sóc. Mẹ làm hết lòng vì Mẹ tin rằng đây chính là con Chúa, là anh chị em của mình. Mẹ đã làm việc này ròng rã 40 năm. Chúng ta có thể làm một vài việc bác ái trong một ngày, hai ngày, một tuần, là đã hết sức rồi. Còn Mẹ Teresa đã làm trong 40 năm.

Mẹ Teresa mất ngày 13.9.1997. Lễ an táng đã được trực tiếp truyền hình đi khắp thế giới. Tại Canada, Linh Mục Philippe Thibodieu đã ngồi trên đài TV ở Toronto để dẫn giải buổi lễ. Chính trong lễ này, ngài đã kể chuyện chính ngài được gặp Mẹ Teresa ở Calcutta trước đó mấy năm. Cha Philippe đã xin Mẹ mấy lời để đem về Canada nói cho bạn bè nghe. Mẹ đã cầm tay cha và nói: Tất cả cuốn Thánh Kinh tóm tắt trong 5 tiếng này “You did it to me”. Mẹ nói từng tiếng và chỉ vào 5 ngón tay của cha. 5 tiếng này lấy từ lời Chúa: Bất cứ việc gì các ngươi làm cho người thấp hèn nhất là đã làm việc đó cho chính Ta ( Mt 25, 40 ). Mẹ Teresa ôm người hấp hối, ẵm trẻ sơ sinh bị bỏ rơi trên lề đường, vì Mẹ đã nhìn thấy Chúa nơi những người nghèo khổ cùng cực này.

Cha Đông vui vẻ đi thăm người Thượng bị phong cùi và nghèo khổ cùng cực vì đã nhìn thấy Chúa nơi những người anh em đáng thương này. Đức Cha Gioan Sanh ( Cassaigne ) mấy chục năm phục vụ người cùi đã nhìn thấy rõ Chúa nơi những anh em xấu số này.

Rồi tôi nghĩ đến tôi. Nhiều lúc tôi sống mà như không nhìn thấy Chúa trong mình, chứ đừng nói tới việc nhìn ra Chúa nơi tha nhân. Nhiều lúc tôi giống như anh Peter trong truyện đăng trên đặc san Le Monde des Religions tháng 7 năm ngoái. Tôi xin tóm lược chuyện này như sau :

Peter là người nước Anh gốc Do Thái. Anh theo đạo Công Giáo. Vợ anh chết đột ngột, anh đau khổ vô cùng. Không gì có thể làm anh quên được niềm đau to lớn này. Anh không tìm thấy nguồn an ủi trong đạo Công Giáo. Anh nghĩ rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma ở Ấn Độ có thể chữa bệnh đau khổ cho anh. Anh sang Ấn Độ và xin gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma. Người ta chỉ cho phép anh được gặp ngài 5 phút. Vừa gặp ngài, anh òa lên khóc. Anh kể cho ngài nghe về việc mất vợ. Đức Lạt Ma ôm lấy anh và ngài cũng khóc. Anh kể tiếp cho ngài là anh theo Công Giáo, rồi lại oà lên khóc. Ngài liền nói mấy lời bằng tiếng Tây Tạng với viên thư ký. Vị này lấy ra ngay một tấm ảnh Chúa Giêsu vào trao cho ngài. Với một  sự cung kính đặc biệt, Đức Lạt Ma trao tấm ảnh cho anh Peter rồi nói: Đức Phật là con đường của tôi, còn Chúa Giêsu là con đường của anh, anh hãy tiếp tục sống đạo Chúa. Rồi ngài lại ôm lấy anh và cùng khóc với anh. Cuộc gặp gỡ này kéo dài trong 2 giờ thay vì 5 phút. Anh Peter chia tay trong nước mắt. Anh tâm sự: “Ngài đã chữa lành vết thương của tôi. Ngài không bảo tôi theo đạo của ngài mà bảo tôi tiếp tục tin vào Chúa.”

Đọc xong chuyện này, tôi nghĩ rằng ban đầu anh Peter hình như muốn bỏ đạo Chúa và sẵn sàng theo đạo Phật với Đức Lạt Ma. Sở dĩ anh có ý định như vậy là anh đã không nhìn thấy Chúa. Tôi nghĩ Đức Lạt Ma đã nhìn thấy Chúa và nghĩ mình là một ngôn sứ đặc biệt của Á Châu đang đi rao giảng lòng yêu thương cho mọi người theo một cung cách đặc biệt nên mới bảo anh thế.

Tôi không biết sau cuộc gặp Đức Lạt Ma anh Peter có nhìn thấy Chúa chưa. Phần tôi, tôi vẫn cầu xin Chúa cho tôi nhìn thấy Chúa hiện diện thực sự trong tôi mọi lúc, và xin cho tôi nhìn thấy Chúa trong mọi người. Xin được một chút xíu của Đức Cha Cassaigne, của Mẹ Teresa Calcutta, của cha Nguyễn Văn Đông. Tôi còn ghét người này, còn nói xấu người kia, thì rõ ràng tôi chưa nhìn thấy Chúa trong tôi và nơi tha nhân. Tôi mới giữ đạo bằng môi bằng miệng, theo thói quen, cho xong.

TRẦN TRUNG LƯƠNG, Toronto, Hè 2007

THIÊN TAI HAY… NHÂN HẠI ?

THIÊN TAI HAY… NHÂN HẠI ?

Trích EPHATA 652

Báo chí mấy ngày qua đưa tin liên tục về “trận mưa lịch sử” tại tỉnh Quảng Ninh. Cho đến hôm nay, thứ tư 29.7.2015, đã có 17 người chết, 9 người mất tích, trên 1.000 căn nhà bị cuốn trôi, thiệt hại lên đến hàng ngàn tỷ đồng.

Những cái chết đột ngột thương tâm như cái chết của một gia đình ba thế hệ, cả ba căn nhà bên cạnh nhau bị lũ bùn đổ ập, cuốn trôi, vùi lấp 9 nhân mạng trong tích tắc, người ta đào bới tìm ra xác một bà mẹ còn đang lom khom trên giường cố gắng che chắn cho đứa con, cả hai đều đã chết. Thật đau lòng !

Nguyên nhân được cho là do mưa quá lớn, đất đá từ các núi đồi kéo xuống theo nước mưa đầu nguồn. Chuyện rừng đầu nguồn bị tàn phá, núi đồi trơ đất nên rất dễ bị phá hoại theo nước mưa kéo xuống đồng bằng là chuyện ai trong chúng ta cũng đều biết. Năm nào cũng vậy, không nơi này thì nơi khác, thiệt hại về của cải đã đành, nhưng mạng sống con người mất đi thì không bao giờ lấy lại được. Đau thương cứ cứa sâu mãi vào trái tim của dân tộc, vậy mà tất cả chỉ là những tiếng thét vô vọng, không mấy ai quan tâm, hô hoán lên rồi bỏ, nhiều phóng sự cụ thể được đưa lên màn hình TV, nhiều thống kê với những hình ảnh cụ thể được cấp báo, nhưng rừng vẫn tiếp tục bị phá, phá một cách thê thảm, lâm tặc hoành hành như chốn không người, một số các bài báo mới đây còn loan tin chính những cán bộ trong ngành lâm nghiệp hoặc bảo vệ rừng lại là những lâm tặc phá rừng hung hăng và tàn hại nhất.

Wikipedia cho biết: “Theo báo cáo số liệu năm 2005 của Tổ Chức Lương Thực và Nông Nghiệp Liên Hiệp Quốc ( FAO ), Việt Nam là nước có tỷ lệ phá rừng nguyên sinh đứng thứ nhì trên thế giới, chỉ sau Nigeria. Tuy nhiên, tổng diện tích rừng tại Việt Nam đã trải qua quá trình chuyển đổi: Sau nhiều thập kỷ xảy ra nạn phá rừng thì độ che phủ của rừng đã tăng lên đáng kể từ đầu những năm 1990. Vào năm 2005, Khoảng 12.931.000 ha ( tương đương với 39,7% diện tích đất của Việt Nam ) đã được trồng rừng, mặc dù chỉ có khoảng 85.000 ha ( 0,7% của độ che phủ đất ) là rừng nguyên sinh, với nhiều hình thức rừng khác nhau.”

Nếu ai có dịp ngồi xe trên các chặng đường xuôi qua miền Trung và miền Bắc, chắc chắn bằng mắt thường chúng ta nhìn thấy trùng điệp núi đồi trơ đất đá, cây mọc lưa thưa như những cọng cỏ sân nhà. Và đó là nguyên nhân của sự tan hoang nhà cửa, mất mát thương vong, đời sống dân lành điêu linh lầm than khốn khó.

Cũng báo Tuổi Trẻ số ra ngày 29.7.2015, một thông tin khác làm đau lòng về thân phận con người: “Chạy biển”, “chạy sông”. Bảng thống kê cho thấy mỗi năm mất trên dưới 10.000 ha đất do nền đất lún sụt, đất lún kéo theo rừng ngập mặn bị tàn phá, các loại cây rừng gãy đổ, nước mặn xâm thực sâu vào đồng bằng, tác động đến nồi cơm của hàng triệu người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nguyên nhân của việc hạ mực nước ngầm là do khai thác nước ngầm vô tội vạ. Nguyên nhân chỉ ra rồi nhưng không làm sao khắc phục, cứ thế cái phá tăng lên, cái tàn kéo đến.

Và cũng báo Tuổi Trẻ nơi trang 18, một phóng sự về việc bảo vệ voi rừng thật vất vả, nạn săn bắn voi để lấy ngà đã tiêu diệt gần cạn kiệt voi rừng tại Việt Nam. Rừng thu hẹp, thú rừng bị săn bắt, tài nguyên của chúng ta chỉ còn là một vùng đất nghèo nàn, rừng vàng biển bạc chỉ còn trong… sách giáo khoa.

Bây giờ cây cổ thụ trong các thành phố đang bị đốn hạ, bao nhiêu giấy bút, cả mồ hôi và nước mắt đã tiêu tốn. Thành phố này, Thảo cầm viên ( Sở Thú ) đang kêu cứu, chẳng phải góp tiếng than để níu kéo kỷ niệm về một vùng cây cối giữa lòng thành phố gắn liền với tuổi niên thiếu của nhiều thế hệ, hay nuối tiếc một bộ sưu tập về thực vật nhiệt đới mà cha ông đã dày công vun trồng chăm sóc, nhưng là tiếng thét của con người trước nguy cơ thiên tai đang đổ sầm sập vào thành phố, mấy tháng qua nhiệt độ đã nóng lên rất nhiều, chưa bao giờ lại nóng kinh khủng như vậy !

Giáo Hội lên tiếng về bảo vệ môi trường thiên nhiên như một lời loan báo Chân Lý…

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 29.7.2015

TÌM KIẾM GIÁ TRỊ TUYỆT ĐỐI

TÌM KIẾM GIÁ TRỊ TUYỆT ĐỐI

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Cách đây khoảng 10 năm, tại bang California bên Mỹ, có hiện tượng thanh niên tự tử hàng loạt. Tất cả đều là những thanh niên trẻ tuổi, con nhà giàu, có học thức. Nguyên nhân tự tử là vì họ mong về Thiên đàng. Năm ấy có sao chổi xuất hiện. Họ cho rằng sao chổi chính là chuyến xe về Thiên đàng. Mấy mươi năm mới có một chuyến, nên họ vội vàng ra đi, sợ nhỡ chuyến.

Tính tỉ lệ những người tự tử, ta thấy thanh niên các nước giàu tự tử nhiều hơn thanh niên các nước nghèo. Hiện nay trong nước ta, tại các thành phố lớn, đang có hiện tượng các thanh niên đua xe gắn máy, liều lĩnh coi thường mạng sống. Kết quả các cuộc điều tra cho thấy đó là những thanh niên con nhà giầu có.

Những hiện tượng đó đáng cho ta suy nghĩ. Những người nghèo đói thật vất vả khổ sở. Họ chỉ mong sao cho có đủ cơm ăn áo mặc. Có cơm ăn áo mặc đã là hạnh phúc. Nhưng khi người ta đã có đủ cơm đủ áo, đủ mọi phương tiện, người ta vẫn không hạnh phúc. Nhìn những thanh niên giầu có chán đời đi tìm cái chết; nhìn những thanh niên chán cảnh nhà cao cửa rộng, chăn êm nệm ấm đeo ba-lô đi du lịch bụi đời, ta thấy rằng vật chất không phải là tất cả. Và những khao khát của con người là vô tận. Hôm nay tôi chưa đủ ăn thì tôi mong cho có đủ ăn. Ngày mai đủ ăn rồi, tôi lại muốn ăn ngon hơn. Hôm nay còn đi bộ, tôi mong được một chiếc xe đạp. Có xe đạp rồi tôi mong có xe máy. Có xe máy rồi tôi mong có ô – tô. Có ô – tô rẻ tiền rồi, lại mong có cái tốt hơn, tiện nghi hơn, chạy nhanh hơn, êm ái hơn. Có tất cả rồi, người ta vẫn chưa hài lòng. Cuộc đời vẫn còn thiếu một cái gì đó. Bao tử hết bị hành hạ, thì lập tức tâm hồn cảm thấy những cơn đói khác dày vò: đói bình an, đói tình yêu, đói hạnh phúc, đói ý nghĩa cuộc đời, đói những điều cao thượng. Những cơn đói khát tinh thần này rất mãnh liệt. Nên con người mãi mãi khắc khoải đi tìm. Mà hạnh phúc dường như luôn luôn ở ngoài tầm tay với.

Hôm nay, đứng trước đoàn người hăm hở đi tìm lương thực, Đức Giêsu đã cảnh báo họ: “Đừng lo tìm những thứ lương thực hay hư nát, nhưng hãy tìm lương thực đem lại hạnh phúc trường sinh”. Vì Người đã rõ giá trị tạm bợ của miếng cơm manh áo. Người cũng thấu rõ tâm hồn con người mau chán những gì đạt được. Người đã tạo dựng tâm hồn con người, nên Người hiểu lòng khao khát của con người là vô biên. Chỉ có những giá trị tuyệt đối mới có thể lấp đầy những khát khao ấy. Người đã mở đường để tâm hồn con người thoát khỏi những ràng buộc của vật chất, vươn lên tìm kiếm những giá trị thiêng liêng cao cả, xứng với tầm vóc con Thiên chúa.

Thế nhưng ta tìm đâu ra những giá trị tuyệt đối để lấp đầy nỗi khao khát vô biên?  Ta tìm đâu ra thứ bánh làm dịu được cơn đói hạnh phúc?  Hôm nay, Đức Giêsu giới thiệu cho ta thứ bánh đó.  Đó là bánh đích thực, vì ăn rồi ta sẽ không bao giờ đói nữa.  Đó là bánh ban sự sống, ai ăn sẽ không chết nữa.  Đó là bánh ban hạnh phúc, ăn vào sẽ không còn khao khát điều gì khác.  Đó là bánh Thiên Chúa ban chứ loài người không ban được.  Đó là bánh từ trời chứ trần gian không sản xuất được.  Tấm bánh đó là chính bản thân Người, Đức Giêsu Kitô.

Những người Do thái đã sai lầm khi đi tìm Đức Giêsu để được ăn bánh.  Đức Giêsu đã cảnh tỉnh họ khi cho họ biết rằng không nên tìm bánh, vì như thế họ sẽ thất vọng.  Bánh ăn rồi sẽ lại đói.  Nhưng phải tìm chính Đức Giêsu.  Ở đây ta nhớ tới bài học Chúa đã dậy tổ phụ Ápraham.  Thoạt tiên, Chúa kêu gọi tổ phụ Ápraham đi theo Chúa và hứa cho ông được một đất nước chảy sữa và mật,  và một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. Nghe theo lời hứa, tổ phụ đã lên đường.  Nhưng khi ông sinh được một người con trai duy nhất trong tuổi già, Chúa lại bảo ông phải sát tế dâng cho Chúa.  Đây là một thử thách lớn lao, nhưng cũng là một lời mời gọi vươn lên.  Ápraham được mời gọi thoát khỏi sự ràng buộc của lợi lộc vật chất.  Theo Chúa chỉ vì Chúa chứ không phải vì lợi lộc vật chất.  Ông hoàn toàn có lý vì ông đã chọn Chúa là sự Thiện tuyệt đối chứ không chỉ lựa chọn một vài sự thiện tương đối.  Ông đã lựa chọn Chúa là nguồn mạch hạnh phúc chứ không đuổi theo những ảo ảnh của hạnh phúc.  Đức tin của ông hoàn toàn trưởng thành, nên ông đã trở thành Cha của những kẻ tin.

Hôm nay, Chúa mời gọi tôi, hãy noi gương tổ phụ Ápraham. Đừng tìm những mảnh vụn hạnh phúc, nhưng hãy đi đến nguồn mạch hạnh phúc.  Đừng lo nắm giữ những của cải phù du, nhưng hãy tìm chiếm giữ kho tàng bền vững mối mọt không đục khoét được.  Đừng đuổi theo những giá trị tương đối, nhưng hãy biết tìm kiếm giá trị tuyệt đối là chính Chúa.  Chính Chúa sẽ làm ta no thoả.  Chính Chúa sẽ lấp đầy những khát vọng của ta.  Chính Chúa ban cho ta hạnh phúc tràn đầy, vĩnh viễn.

Chúng ta hãy cùng cầu nguyện với thánh Âucơtinh: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên tâm hồn con mãi khắc khoải băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Amen.

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Con phải cố gắng để mà giỏi gấp đôi người ta.

Con phải cố gắng để mà giỏi gấp đôi người ta.

Bài Ghi Ngắn của Đoàn Thanh Liêm

*     *     *

Condoleezza Rice sinh năm 1954 tại tiểu bang Alabama là một phụ nữ người Mỹ gốc Phi châu với thành tích xuất sắc trong các chức vụ làm giáo sư về môn bang giao quốc tế tại đại học danh tiếng Stanford California – và nhất là còn làm cố vấn an ninh và làm ngọai trưởng dưới thời của Tổng thống George W Bush từ năm 2001 đến 2009.

Vào năm 2010, bà cho xuất bản cuốn Hồi ký Gia đình (A Family Memoirs) ghi lại rất nhiều chi tiết về sinh họat trong gia đình của bà gồm ba người là cha, mẹ và bản thân bà là người con gái duy nhất mà được gọi với cái tên Condi trong chỗ thân mật riêng tư của gia đình.

Vào các thập niên 1950 – 60, nạn kỳ thị chủng tộc vẫn còn rất khắt khe tàn bạo đối với người da màu (coloured people) tại các tiểu bang thuộc miền Nam nước Mỹ. Vì thế, mà bà mẹ Angelena Rice đã luôn luôn phải căn dặn nhắc nhở con gái Condi rằng : “Con phải cố gắng hết sức mình để mà có thể giỏi giang gấp đôi người khác (twice as good). Vì nếu được như vậy, thì dù người ta có thể không ưa con, nhưng ít nhất họ cũng phải nể trọng con…”

Và đúng theo lời khuyên bảo của bà mẹ như thế, Condoleezza Rice đã hết sức cố gắng trau giồi học tập để trở thanh một phụ nữ chuyên viên với tài năng vượt trội và được mời giữ những chức vụ quan trọng và cao quý nhất trong guồng máy của chánh phủ Liên bang Hoa kỳ vào đầu thế kỷ XXI mới đây thôi. Tên tuổi của Condi Rice đã được tòan thể dân tộc Mỹ và nhiều người khác trên thế giới biết đến và ái mộ.

Sự thành công của Condoleezza Rice có thể được coi như một tấm gương rất tốt đẹp cho lớp người trẻ tuổi là hậu duệ trong các gia đình Việt nam chúng ta hiện di cư tỵ nạn trên đất Mỹ vậy. Quả thật, người Việt chúng ta hiện định cư ở Mỹ cũng là một sắc dân thiểu số (ethnic minority) – nên khó mà tránh khỏi được những chuyện phân biệt kỳ thị thường tình xảy ra trong xã hội ở Mỹ cũng như ở nhiều nơi khác. Vì thế, mà con em chúng ta đều phải cố gắng học tập chuyên cần nghiêm túc – để mà có đủ khả năng chuyên môn hầu vươn lên được trong cái xã hội văn minh vốn đòi hỏi sự tranh đua nhiều khi hết sức gay gắt (extremely tight competition).

Đây cũng là điều mà cha ông chúng ta từ xưa vẫn hay nhắc nhở khuyến khích con cháu trong mỗi gia đình là phải cố gắng để có được tình trạng “Con hơn Cha, Nhà có Phúc”. Và tiền nhân cũng còn luôn khuyên nhủ, đánh giá cao những thành đạt của lớp hậu duệ, cụ thể như câu : “Hậu sinh khả úy”, “Hậu sinh khả ái” v.v… nữa vậy./

Westminster, California Tháng Bảy 2015

Đoàn Thanh Liêm

‘Chân dung quyền lực’ đã chết?

‘Chân dung quyền lực’ đã chết?

‘Chân dung quyền lực’ là trang blog một thời được nhiều người theo dõi, từng đăng tải nhiều bài về các ‘phi vụ làm ăn’ của gia đình Đại tướng Phùng Quang Thanh.

‘Chân dung quyền lực’ là trang blog một thời được nhiều người theo dõi, từng đăng tải nhiều bài về các ‘phi vụ làm ăn’ của gia đình Đại tướng Phùng Quang Thanh.

VOA Tiếng Việt

30.07.2015

Trang blog một thời được nhiều người theo dõi, từng đăng tải nhiều bài về các ‘phi vụ làm ăn’ của gia đình Đại tướng Phùng Quang Thanh, đã hoàn toàn im tiếng, trong khi có nhiều đồn đoán về sự can dự của an ninh quân đội Việt Nam.

Những đồn thổi quanh tình trạng sức khỏe của Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam thời gian qua khiến nhiều người nhớ tới các thông tin cập nhật về lịch trình đi chữa bệnh ông Nguyễn Bá Thanh, nguyên bí thư Thành ủy Đà Nẵng, hồi đầu năm nay trên “Chân dung quyền lực”, các nhà quan sát ở trong nước cho hay.

Tiến sỹ Phạm Chí Dũng, chủ tịch Hội nhà báo Độc lập Việt Nam, nói với VOA Việt Ngữ về sự im tiếng này:

“Sự biến mất của trang ‘Chân dung quyền lực’ là một điều tất yếu. Nhưng đây là một sự biến thể, chứ không phải biến mất hoàn toàn trang ‘Chân dung quyền lực’. Một số người kỳ vọng trang này sẽ tung ra các thông tin về tài sản của các quan chức, nhưng trang này cũng là tâm điểm bị chú ý và bị ‘soi’ của giới an ninh, trong đó có an ninh quân đội. Tôi cho rằng người phụ trách trang này có lẽ họ đã thấy đủ nguy hiểm, và đủ mức độ để đóng trang này lại. Có lẽ họ sẽ chuyển sang một trang khác. Vừa rồi cũng có dư luận về sự xuất hiện trên Facebook liên quan tới sức khỏe của Tướng Phùng Quang Thanh. Tôi cho rằng từ đây tới đại hội 12 của Đảng, sẽ có những trang ‘Chân dung quyền lực’ nháy nháy nào đó xuất hiện và xuất hiện liên tục.”

“Một số người kỳ vọng trang ngày [Chân dung quyền lực] sẽ tung ra các thông tin về tài sản của các quan chức, nhưng trang này cũng là tâm điểm bị chú ý và bị ‘soi’ của giới an ninh, trong đó có an ninh quân đội. Tôi cho rằng người phụ trách trang này có lẽ họ đã thấy đủ nguy hiểm, và đủ mức độ để đóng trang này lại…

Chủ tịch Hội nhà báo Độc lập Việt Nam Nguyễn Chí Dũng.

Tờ Nikkei Asian Review, thuộc sở hữu của một trong những tập đoàn truyền thông lớn nhất của Nhật Bản, từng đăng tải bài viết dài về sự xuất hiện đầy “bí ẩn” của “Chân dung quyền lực”, và nhận định rằng những lời đồn thổi trên mạng có thể gây bất ổn chính trị tại Việt Nam.

Tính từ cuối năm ngoái cho tới nay, theo hệ thống đếm số truy cập, “Chân dung quyền lực” đã thu hút tới gần 26 triệu lượt người truy cập, và có thời điểm, có hàng nghìn người vào đọc trang này cùng một lúc.

Dù trang web này hiện không còn cập nhật, nhưng theo quan sát của phóng viên Việt Ngữ, tối ngày 30/7, vẫn có tới gần 100 người “online” trên đó cùng thời điểm.

Vì sao người dân Việt Nam lại quan tâm tới một trang blog không rõ nguồn gốc với những thông tin giật gân, khó kiểm chứng như vậy? Tiến sỹ Dũng giải thích:

“Thứ nhất là sự tò mò của dân chúng, của xã hội và của dư luận, và thứ hai nữa là dân chúng Việt Nam quen sống trong xã hội thiếu minh bạch thông tin. Vì vậy, bất cứ thông tin nào, dù chưa được kiểm chứng và mơ hồ nhưng nêu ra một số vấn đề của các quan chức thì người dân lập tức đọc. Vừa rồi có những tin đồn, chẳng hạn Tướng Phùng Quang Thanh bị ám sát. Thậm chí là có những câu chuyện giống như là trinh thám, mô tả cách ám sát Tướng Phùng Quang Thanh. Nghe nói là rất nhiều người dân đọc, và tôi gặp một số người và họ kể lại câu chuyện đó như thật, giống như chính họ sáng tác ra câu chuyện đó vậy.”

Tiến sỹ Dũng nói thêm rằng tình trạng úp mở và thiếu minh bạch thông tin đã dẫn tới việc tin đồn lan rộng, và giúp cho các trang tin đăng tải những thông tin chưa kiểm chứng có “đất” để đua nở.

Vừa rồi có những tin đồn, chẳng hạn Tướng Phùng Quang Thanh bị ám sát. Thậm chí là có những câu chuyện giống như là trinh thám, mô tả cách ám sát Tướng Phùng Quang Thanh. Nghe nói là rất nhiều người dân đọc, và tôi gặp một số người và họ kể lại câu chuyện đó như thật, giống như chính họ sáng tác ra câu chuyện đó vậy.

Tiến sỹ Nguyễn Chí Dũng nói.

Cũng giống như vụ ông Nguyễn Bá Thanh, nguyên Trưởng Ban Nội chính Trung ương, đi chữa bệnh ở Mỹ, chính quyền Việt Nam chỉ lên tiếng xác nhận thông tin về bệnh tình của ông Phùng Quang Thanh sau khi các tin đồn về chuyện ông bị ám sát “làm mưa làm gió” trên các trang mạng không chính thống.

Dù chính phủ Việt Nam chưa chính thức lên tiếng bình luận về các thông tin do “Chân dung quyền lực” loan đi, nhưng báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, từng  đăng tải bài viết trong đó ám chỉ tới trang blog này.

Bài viết trong mục “Bình luận – Phê phán” nói rằng “cứ mỗi khi Việt Nam sắp diễn ra một sự kiện chính trị quan trọng là một số tổ chức, cá nhân lại ráo riết triển khai chiến dịch bịa đặt, vu cáo, tung tin thất thiệt”.

Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh về Hà Nội hôm 25/7 sau thời gian chữa bệnh ở Pháp. Một bức ảnh chụp ông ở sân bay từ xa vẫn khiến nhiều người đồn thổi đó là “một người đóng thế”.

Chỉ tới khi người đứng đầu quân đội Việt Nam xuất hiện tại một sự kiện có tên gọi ‘Khát vọng đoàn tụ’ được truyền hình trực tiếp, hôm 27/7, cơn bão tin đồn mới lắng lại.

Phim Ra Rạp: Lễ Là Tảo Mộ Hội Là Đạp Thanh

Phim Ra Rạp: Lễ Là Tảo Mộ Hội Là Đạp Thanh

. Đinh Tấn Lực

Rằng hay thì thật là hay – Nhưng tay đạo diễn phim này là ai?” (Nhại Kiều)

Sự xuất hiện bất ngờ của một đại tướng trên chương trình truyền hình “Khát Vọng Đoàn Tụ”, sau cả tháng thấp thỏm đợi chờ của rất nhiều người, tưởng đâu hoá giải được mọi gút mắc, bỗng dưng lại bật ra hàng loạt câu hỏi hóc búa khác về một kịch bản có tầm Oscar chính trị…

*

Màn 1 – Binh Biến & Phản Đảo Chính

1- Người loan tin chàng bị ám sát là ai, do ai cấp nguồn, nhờ ai chống lưng, với mục đích gì?

2- Lời đồn đãi về một âm mưu binh biến bất thành có bao nhiêu phần trăm sự thật?

3- Có thật âm mưu binh biến này dính dáng tới hai cựu tổng bí từng ký hiệp ước với Tàu năm 1990 và 1999?

4- Âm mưu này có chút nào dính dáng tới chuyến khấu tấu tập thể do chàng hướng dẫn 39 tướng lãnh sang Trung Nam Hải hồi tháng 10/2014, và chuyến khấu kiến mới nhất hồi tháng 5/2015 (với bảng tên viết bằng Hán tự)?

5- Vì sao sự kiện thất tung này xảy ra đúng ngay thời điểm ngài tổng bí đương nhiệm đang chuẩn bị qua Mỹ?

6- Ai xếp đặt để tách chàng ra khỏi phái đoàn tháp tùng ngài tổng bí công du Hoa Kỳ như đã chính thức lên phương án từ bao lâu trước?

7- Thế lực nào đủ mạnh để tung tin hoả mù về cuộc ám sát cả vợ con chàng trên đất Pháp?

8- Áp lực từ đâu và đến mức nào mà khiến vợ con đương sự, dù không bị ám sát, hay không phải qua Pháp thăm nuôi chồng, vẫn phải im lặng suốt thời gian “ém tướng”?

9- Do đâu mà bất chợt có lệnh thay đổi lãnh đạo một cách vội vã (và có chỉ dấu khuất tất trong chữ ký) ở Quân Khu Thủ Đô?

10- Do đâu mà bất chợt có lệnh thay đổi lãnh đạo Quân khu 7, bao gồm Sài Gòn & 8 tỉnh lân cận, 3 sư đoàn cùng 5 lữ đoàn đặc chủng?

11- Khẩu hiệu của QK7 là “Trung thành vô hạn, chủ động sáng tạo, tự lực tự cường, đoàn kết quyết thắng”. Liệu vế 1 vừa nói có điều manh nha gì không đáp ứng đúng mức?

12- Tay chân bộ hạ của chàng bị cắt cụt, có phải cũng đồng nghĩa với việc tỉa cành cắt đọt quyền lực của kẻ bấy giờ đang trên đường công du Hoa Kỳ?

13- Cuộc họp giao ban của chính phủ vào cuối tháng 6, dù thiếu bộ trưởng quốc phòng, vẫn được tiến hành như không có chuyện gì xảy ra và cũng không cần đến, là bởi thế lực nào?

14- Nhằm mục đích gì mà một thượng tướng ngồi cạnh thủ tướng, trám chỗ của chàng (Phó BT Quân uỷ) và ngài tổng bí (BT Quân uỷ), để chủ toạ Đại Hội Thi Đua Quyết Thắng Toàn Quân IX?

15- Ai chỉ đạo cho một phóng viên VN mồi chài cho DPA tung tin chàng đã qua đời để nhồi sóng dư luận “đả đảo thân Tàu” trong thời gian “ém tướng”?

16- Ai cấp nguồn cho tuyên giáo TW chữa cháy bằng một loạt tin hoả mù khác là chàng đi chữa bệnh, với những chi tiết y khoa ly kỳ đến mức khó tin?

17- Phải chăng sự kiện tin tức hoả mù ám sát và chữa bệnh được tung ra hết sức nhịp nhàng là có dụng ý đe doạ tư lệnh các quân khu khác?

18- Thế lực nào đủ mạnh để tin đồn và tin tức báo chí trong luồng tung hứng ăn khớp nhau về việc chàng đi chữa bệnh ở bệnh viện Georges Pompidou, Paris?

19- Ai có đủ uy thế để tung tin chàng “suýt bị sổng qua TQ”, như một thứ đòn phép đo lường phản ứng dư luận về số phận một tay nô lệ?

20- Có bao nhiêu phần trăm sự thật trong các bình luận cho rằng Trương Cao Lệ sang VN và bị tiếp đãi lạnh nhạt, chỉ vì nhằm mục đích “gỡ tội/cứu bồ” cho chàng?

21- Sự chuẩn bị để quốc hội nhất trí thông qua dự luật cho phép thủ tướng được ký giao quyền bộ trưởng hay thủ trưởng cơ quan ngang bộ, là nỗ lực dày công của ai?

22- Kẻ nào ép được Ban bảo vệ sức khoẻ TW phải phát biểu/tuyên bố chính thức đúng như kịch bản linh động từng ngày?

23- Thế thì âm mưu binh biến của 2 quân khu lớn nhất nước bỗng chốc biến thành quy trình phản đảo chính & khoá tay đầu lãnh (cả quân đội lẫn đảng) một cách ngoạn mục là đây chăng?

24- Khi phát biểu rằng “Không để quân đội Bất Ngờ Về Chính Trị trong mọi tình huống”, thượng tướng Ngô Xuân Lịch có ẩn ý gì?

25- Trong suốt tháng qua, thực sự chàng bị ém ở đâu?

*

Màn 2 – Hiển Thị Ngày Thương Binh Liệt Sĩ

26- Ai, hay những ai, có khả năng viết tiểu thuyết phơi-giơ-tông để biến chiêu cốt chuyện xuất quỷ nhập thần từng ngày, từ 2 viên đạn tới cục u phổi, từ ngày “ám sát” sang ngày “nhập viện”, rồi “xuất viện”, với những cú phôn qua lại Pháp-Việt… cho tới “ngày về” ảo diệu?

27- Ý kiến chỉ đạo về sự xuất hiện tầm xa của bộ complet xám, mà không có vợ con cùng tướng tá đi đón, đặc biệt lệnh cấm xài ống kính Zoom, là của ai?

28- Hành khách VN đi khoang thương gia trên chuyến bay VN18 Paris-Nội Bài không có ai khác ngoài chàng với đám tuỳ tùng; hay, còn có thêm một số người không biết mặt chàng; hay, họ biết mặt chàng mà quý thương gia này không đời nào lên Facebook?

29- Có điều gì ám muội đã khiến cho dàn báo trong luồng sử dụng hình ảnh các máy bay khác nhau, với cầu thang lên xuống khác nhau, để chứng thực chuyến về của chàng; thậm chí sử dụng cả hình ảnh chiếc Boeing đã từng xài trong 22 bài báo khác nhau suốt 3 năm trước đây?

30- Vì lý do gì mà báo chí bỏ qua vợ con chàng trong buổi hội ngộ sau đận phẫu thuật u phổi? Mà đón chàng tại nhà để trao hoa là Nguyên tư lệnh, chứ không phải là Tân tư lệnh Bộ tư lệnh thủ đô Hà Nội?

31- BCT, bộ QP và bộ 4T thiếu phối hợp chặt chẽ trong khúc trình diễn màn trình diện ở sân bay, khiến cho dư luận nghi ngờ có kẻ đóng thế vai trong đoạn diễn này chăng?

32- Đại sứ Mỹ đến thăm, chỉ được thứ trưởng bộ QP VN đón tiếp, và chỉ được gián tiếp hỏi thăm sức khoẻ của chàng, vì sao?

33- Cũng thứ trưởng bộ QP VN hoan nghênh và mời Tân tư lệnh Lực lượng Coast Guard của Mỹ sang thăm VN, mà không phải là do chàng mời cho môn đăng hộ đối, là vì sao?

34- Vì lý do gì mà chàng phải định cư dài hạn tại bộ QP, thay vì về nhà với vợ con để dưỡng thương hay dưỡng sức sau một chuyến xa nhà giải phẫu lồng ngực?

35- Vì lý do gì mà Trợ lý của bộ trưởng QP phải rào trước là bản thân chàng: “Sẽ ở lại trụ sở Bộ Quốc phòng chứ không về nhà riêng, kể từ hôm nay… Mọi sinh hoạt và làm việc đều diễn ra bình thường. Riêng làm việc thì …Chỉ Làm Có Mức Độ”; ý nghĩa là thế nào, do ai ngăn cấm/giới hạn (không được tham dự Hội thảo quốc tế về triển khai lực lượng tham gia bảo vệ hoà bình của LHQ, ngày 27/7/2015)?

36- Cả hai yếu tố này có đồng nghĩa với một biện pháp quản thúc hay quản chế sau giai đoạn khống chế hay không?

37- Hay, đó là một kẻ khác, mang mặt nạ silicon gần giống như chàng (sau giải phẫu thẩm mỹ), và vì vậy, không được hoặc không nên đến gần vợ con chàng?

*

Hồi Cảnh (Flashback) – Khúc Quanh Lịch Sử Đảng

38- Động thái khiêu khích của TQ vào tuần cuối tháng 6/2015, trên biển Đông, từ dàn khoan 981, cho tới diễn tập bắn đạn thật, và cả dự luật cho phép TQ sử dụng sức mạnh vũ trang để bảo vệ lợi ích cốt lõi, cùng những biến động ở biên giới Tây Nam… là những áp lực cho điều gì và nhắm vào ai, hay những ai, ở Ba Đình?

39- Thế lực nào đủ mạnh để nhón 1 con cờ Ba Đình có khả năng “xử đẹp” cả hai đối thủ có cùng tên và cùng thủ lãnh thân Tàu?

40- Do đâu có những cuộc thăm viếng dồn dập, từ 2 chiến hạm tối tân USS Fort Worth & USS Fitzgerald cặp cảng Đà Nẵng, đến Bộ trưởng QP Mỹ gặp Tư lệnh quân chủng Hải quân VN và Tư lệnh Cảnh sát biển VN, rồi ghé trụ sở Bộ QP VN ở Hà Nội hồi đầu tháng 6/2015?

41- Bộ trưởng QP Mỹ tặng Bộ QP VN 1 quyển nhật ký và 1 dây thắt lưng của một chiến sĩ bộ đội vượt Trường Sơn thời chiến tranh là có ẩn ý báo trước điều gì bất thường hay bất an không?

42- Hiện tượng cựu Tổng thống Mỹ Bill Cliton sang VN ngay trước khi ngài tổng bí đi Mỹ nói lên điều gì, từ phía Mỹ, rằng “không đi không được, không làm không xong”, phỏng?

43- Điều gì khiến cho ngài Obama cân nhắc hệ quả mích lòng với cả 2 đảng lớn của Mỹ xong tự lấy quyết định phá lệ mà đón tiếp ngài tổng bí CSVN tại Phòng Bầu Dục. Chuyện gặp gỡ này cần thiết đến mức đó sao?

44- Do đâu mà, ngay sau chuyến công du Hoa Kỳ của ngài tổng bí, viên Đại sứ Mỹ có thể mạnh miệng trong cuộc tiếp xúc với Cộng đồng người Việt ở quận Cam rằng VN đang tiến mạnh về phía dân chủ?

45- Điều gì đã khiến cho Đại sứ Mỹ tự tin đến mức vượt qua giới hạn ngoại giao để ghé thăm đài truyền hình người Việt tự do SBTN và Văn phòng II Viện Hoá Đạo ở Nam Cali?

46- Việc gì cần đến mức đệ nhị phu nhân Hoa Kỳ, Tiến sĩ Jill Biden, tức vợ của phó TT Joe Biden, cấp tốc qua VN ngay sau chuyến công du của ngài tổng bí, và cặp kè dung dăng ngoài phố với vợ của CTN VN? Jill đã nói gì với Doan? Với Hạnh? Hay nhắm Hạnh điều gì cần nói với chồng?

47- Thế lực ghê gớm nào bật đèn xanh cho báo chí trong luồng đi bài phóng sự cảm động (có luôn cả video clip) về cuộc thảm sát Gạc Ma?

48- Nên đánh giá như thế nào cho gần với sự thật về sự kiện chủ tịch nước đi thăm 2 sư đoàn từng chiến đấu ở mặt trận biên giới, sau nhiều thập niên bị bỏ quên đến đóng bụi trong lịch sử?

49- Điều gì khiến cho CTN đồng ý với đề nghị thăng hàm thượng tướng CA cho một nhân sự gốc Kiên Giang? Chẳng lý nào ngài CTN có tài ngoại cảm và đang xoay về phía mặt trời đang ló dạng?

50- Thượng tầng đảng đang lên kế hoạch đón tiếp (trọng thị đến mức có thể) vợ chồng ngài Barack Obama thăm viếng Việt Nam trong vài tháng tới, trước đại hội đảng, có khi trước cả hội nghị trù bị cho đại hội đảng… Liệu có ai ngạc nhiên khi ngài ấy nhận một món quà hữu nghị lớn tương đương với …diện tích mặt nước cảng Cam Ranh?

51- Nếu so sánh với nỗ lực viết lại sách giáo khoa môn sử thời 1979, thì, có phải chuỗi sự kiện này là chỉ dấu hiển thị một thay đổi lớn, thậm chí là một khúc quanh, trong lịch sử đảng?

*

Những Câu Hỏi Dành Cho Hồi Kết

52- Có ai dám bảo Xê-i-a với tình báo Trung Nam Hải chưa từng đấu nhau trên đất nước thứ ba?

53- Hồ Ly Vọng (Hollywood) là cái nôi điện ảnh của Mỹ, nhưng, có đúng là không ai ngạc nhiên rằng Hoa Thịnh Đốn (Washington DC) mới là nơi đào tạo diễn viên chính trị của thế giới thứ ba?

54- Nhu cầu chính trị to đến đâu mà thủ tướng VN cần phải điều 1 đệ tử Kiên Giang về nắm thanh tra chính phủ?

55- Lý do, hay những lý do nào khiến một thinktank của Nhật kết luận rằng sau Miến Điện là Việt Nam?

56- Những yếu tố nào khiến thế giới khả dĩ chắc bắp rằng, sau vòng ngoài be bờ từ Nhật đến Hàn đến Phi …đến tận Úc, thì vòng trong, sát sườn đối thủ khổng lồ chính yếu của Mỹ, không ai có thể loại trừ vị trí chiến lược của VN?

57- Bao nhiêu phần trăm sự thật có thể có là Hoa Kỳ đã điều chỉnh và sử dụng một phương thức “tháo cũi” cho VN tương tự như cách đã làm với Miến Điện (ngay cả việc chận đứng dự án đường ống dầu đi tắt & huỷ hợp đồng 1 con đập khủng do Tàu tài trợ)?

58- TPP có phải chỉ là củ cà rốt, còn “thoát trung” mới là cây roi, đối với Mỹ? Ngược lại, có phải đối với 1 bộ phận (gọi là nhóm lợi ích) của Ba Đình thì đây chính là cơ hội nòng nọc rụng đuôi XHCN thành Ếch cộng hoà, và là cái phao cứu sinh cho phe còn lại có đường thoát thân êm thắm?

59- Có ai dám bảo con hổ giấy Hoa Kỳ chỉ xoay trục bằng nước bọt?

60- Còn ai nghi ngờ khả năng bán bảo hiểm tài sản dưới vỏ bọc công ty tư vấn kinh tế của chính quyền Mỹ?

61- Putin đang chuẩn bị gấp rút để nhận anh em họ với 1 gã tóc đen?

62- Có ai đã gạ bán bảo hiểm nhân thọ cho ngài đại tướng vừa mới bị đạp ngã kia chưa?

28/7/2015 – Kỷ niệm tròn 20 năm nước CHXHCNVN gia nhập Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN).

Blogger Đinh Tấn Lực

Giới thiệu sách (10): Hồi ký của Condoleezza Rice

Giới  thiệu  sách (10): Hồi  ký của  Condoleezza  Rice

Đoàn Thanh Liêm

* Nguyên tác bằng Anh ngữ nhan đề :

“ Extraordinary, Ordinary People

A Memoir of Family”

by Condoleezza Rice

* Nhà Xuất bản Crown Archetype ấn hành tại Mỹ năm 2010

*      *      *

Condoleezza Rice sinh năm 1954 là người phụ nữ da đen đầu tiên nắm giữ chức vụ Cố vấn An ninh bên cạnh Tổng thống, rồi lại là Ngọai trưởng Hoa kỳ vào những năm đầu của thế kỷ XXI dưới thời của George W Bush là vị Tổng thống thứ 43 của nước Mỹ. Bà là giáo sư lâu năm về môn Chính trị học và có thời gian còn giữ chức vụ Provost (Phụ tá Hành chính) tại Đại học danh tiếng Stanford ở California.

Năm 2009, sau khi rời khỏi chính trường, bà đã dành thời gian để viết cuốn Hồi ký Gia đình và cho ấn hành vào năm 2010. Sách dầy 342 trang, bìa cứng được in trên giấy trắng – dàn trải trong 38 chương, kèm theo nhiều hình ảnh riêng tư của gia đình, cũng như trích từ kho tư liệu của nhiều cơ sở văn hóa xã hội trong nước Mỹ.

Bằng một giọng văn gọn gàng mạch lạc, bình dị và trong sáng, tác giả đã cống hiến cho người đọc một câu chuyện thật sinh động hấp dẫn về những cố gắng vươn lên của một gia đình người da đen tại tiểu bang Alabama là nơi có nạn kỳ thị chủng tộc cực kỳ nghiệt ngã tàn bạo trong những thập niên 1950 – 60.

Vì là cuốn Hồi ký Gia đình, nên câu chuyện được kể lại xoay quanh ba nhân vật chính yếu, đó là người cha John Rice, người mẹ Angelena Ray và người con gái duy nhất Condoleezza Rice – mà chính là tác giả của cuốn sách này. Tác phẩm có thể coi như là một chứng từ khả tín về tình hình sinh họat chung của xã hội Mỹ trong vòng nửa thế kỷ qua – bắt đầu từ năm 1960 vào lúc cô bé Condi lên 6 tuổi và đã bắt đầu biết quan sát nhận định về những sự việc xảy ra xung quanh gia đình mình tại khu vực ngọai ô thành phố Birmingham thuộc miền Nam nước Mỹ – cho đến nay vào thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI.

Để bạn đọc dễ dàng theo dõi câu chuyện, tôi xin lần lượt trình bày chi tiết trong một số mục đáng chú ý sau đây.

I – Sự đùm bọc gắn bó chặt chẽ trong gia đình và dòng họ nội ngọai.

Đúng theo nhan đề của cuốn sách, tác giả Condoleezza Rice đã kể lại rành rọt về sinh họat trong nội bộ gia đình của “bộ ba” (the threesome) tức là người cha John, người mẹ Angelena và người con gái Condi. Đây là một gia đình vào lọai trung lưu (middle class) với cuộc sống thật ấm cúng hạnh phúc – vì cả hai cha mẹ đều hy sinh hết mực trong việc hướng dẫn chăm sóc và “đầu tư trong việc giáo dục” cho cô con gái cưng của ông bà. Suốt trong cuốn sách, Condi đã thuật lại chi tiết về những cố gắng vươn lên của cha mẹ mình, ngay tại vùng đất Alabama còn nặng nhọc với nạn kỳ thị chủng tộc thời kỳ giữa thế kỷ XX.

Condi ngòai tình thương yêu đậm đà đối với cha mẹ, lại còn có sự ngưỡng mộ thán phục hết mình trước những thành tựu mà hai ông bà đã đạt được, mặc dầu phải trải qua bao nhiêu nghịch cảnh éo le. Nàng coi cha mẹ là thứ gương mẫu (role model) để mình noi theo. Khi lấy nhan đề cho cuốn Hồi ký là : “Extraordinary, Ordinary People”, thì rõ ràng là tác giả muốn nói rằng : Cha mẹ của bà là những người bình thường, nhưng cũng lại là những con người phi thường nữa. Dưới đây, căn cứ trên những mô tả rải rác ở nhiều nơi trong cuốn sách, ta sẽ vẽ lại chân dung của người cha và người mẹ tuyệt vời của tác giả.

A – Người cha : Ông John Rice ( 1923 – 2000)

John Rice là con của một vị mục sư Tin lành trong hệ phái Presbyterian, sinh trưởng ở tiểu bang Louisiana và sau này chính John cũng là một mục sư coi sóc một Hội thánh do cha ông thiết lập ở vùng ngọai ô thành phố Birmingham tiểu bang Alabama. Vốn là người tháo vát năng nổ, mục sư John đã gây dựng được một cộng đòan tín hữu sinh họat rất tấp nập sầm uất, không những về mặt phụng vụ, học hỏi giáo lý thánh kinh, mà đặc biệt về mục vụ cho giới thanh thiếu niên tại địa phương.

Ít lâu sau, thì ông chuyển đi phục vụ trong ngành giáo dục nơi các trường cao đẳng và đại học ở Tuscaloosa Alabama, Denver Colorado và sau cùng tại đại học danh tiếng Stanford California là nơi con gái của ông là Condoleezza làm giáo sư từ lâu. Là người có tài tổ chức, ông lôi cuốn thuyết phục được nhiều người hưởng ứng tham gia các chương trình hành động nhằm phục vụ giới sinh viên, đặc biệt trong lãnh vực thể thao và sinh họat tập thể ở ngòai trời. John có người chị là Theresa có bằng Tiến sĩ và đi dậy về văn chương tại các Đại học.

B – Người mẹ : Bà Angelena Ray (1924 – 1985).

Angelena Ray là một người con giữa trong gia đình có 5 anh chị em. Người anh lớn Albert Ray làm mục sư Tin lành trong hệ phái Presbyterian. Tuy người có tầm vóc nhỏ nhắn, nhưng Angelena lại có sự kiên trì theo đuổi việc học tập để hòan tất chương trình Đại học và theo đuổi nghề dậy học ở các trường trung học trong nhiều năm. Đặc biệt, theo gương thân mẫu bà còn trau dồi riêng về âm nhạc và trong nhiều năm đã phụ trách điều khiển chương trình hát thánh ca tại nhà thờ. Cái tên Condoleezza bà chọn đặt cho con gái chính là một từ ngữ âm nhạc bằng tiếng Ý có nghĩa là “ với sự dịu dàng êm ái” (with sweetness).

Vào thời nạn kỳ thị chủng tộc còn rất tàn bạo hắc ám tại nhiều tiểu bang ở miền Nam, người mẹ như Angelena chỉ còn biết hạn chế sinh họat trong phạm vi gia đình, giữa cộng đồng tín hữu nơi các khu xóm dành riêng cho người da đen. Bà luôn nhắc nhở con gái Condi rằng : “Con phải cố gắng hết sức để mà có thể “giỏi gấp đôi người ta” (twice as good). Vì nếu như vậy, thì dù người ta có thể không ưa con, nhưng ít nhất người ta cũng phải trọng nể con…”

Với cả hai cha mẹ đều là những người đạo hạnh, lương hảo và siêng năng cần cù như vậy, nên ngay từ tấm bé Condi đã được thừa hưởng một nền giáo dục tuyệt vời trong gia đình – với tình yêu thương nồng ấm của cha mẹ cũng như của bà con nội ngọai và cả của cộng đòan tín hữu ở địa phương mà cả cha lẫn mẹ đều góp phần tích cực xây dựng và phát triển.

II – Cố gắng vượt thóat khỏi nghịch cảnh của lớp người bị áp chế.

Cả cho đến thập niên 1950 – 60, thì tại miền Nam nước Mỹ nạn kỳ thị chủng tộc vẫn còn khắc nghiệt gay gắt, cụ thể là nạn khủng bố do nhóm người da trắng cực đoan 3K Ku Klux Klan thường xuyên gây ra. Trong khu vực người da đen cư ngụ, thì cái cảnh bom nổ liên miên, các nhà thờ bị đốt cháy, nhiều thường dân vô tội bị sát hại…là “chuyện thường ngày ở huyện”, đến nỗi mà thành phố Birmingham được gọi trại đi là “Bombingham”. Vị chỉ huy cảnh sát Birmingham tên là Bull Connor là một thứ hung thần ra tay đàn áp người da đen với đủ mọi thủ đọan thâm độc tàn ác.

Condi mô tả lại cái cảnh bom nổ kinh hòang tại một nhà thờ gần kề với gia đình mình vào ngày Chủ nhật 15 tháng 9 năm 1963 sát hại 4 em gái mới ở vào tuổi 11 – 14. Một trong những nạn nhân này là Denise McNair là người bạn vẫn thương chơi trò búp bê với Condi. Cũng trong thời gian đó, phong trào tranh đấu đòi Dân quyền do mục sư Martin Luther King phát động đã gây sôi nổi trong dư luận tòan quốc Hoa kỳ và được sự hỗ trợ của cả một bộ phận khá đông đảo của người Mỹ da trắng tiến bộ nữa.

Mặc dầu phải sinh sống trong môi trường xã hội tồi tệ đến như thế, cha mẹ của Condi vẫn nhẫn nại tìm cách vượt lên được do cố gắng học tập, làm việc và nhất là gắn bó liên đới chặt chẽ với tập thể người da đen đồng cảnh và đồng đạo với mình. Năm 1968, gia đình Rice dọn đến thành phố Denver tiểu bang Colorado, nhờ vậy mà Condi có cơ hội được học tập trong những trường học tốt nhất để hòan thành bậc trung học và đại học. Vào năm 1981 khi vừa đủ 26 tuổi, Condoleezza Rice đã được cấp phát văn bằng Tiến sĩ về ngành chính trị học. Cuộc sống của Condi bắt đầu từ thập niên 1980 đã diễn ra thật tốt đẹp, cả trong môi trường đại học ở Stanford California, cũng như trong hệ thống chính quyền Liên bang Mỹ ở Washington DC. Ta sẽ tìm hiểu chi tiết về sự đóng góp chuyên môn của vị nữ lưu này trong mục sau.

Ông bà Rice đã dồn hết khả năng tài chánh và công sức của mình để cho cô con gái Condi có được cơ hội học tập tốt nhất, kể cả trong lãnh vực nghệ thuật và thể thao. Từ thời thơ ấu 3 – 4 tuổi, Condi đã được học đàn piano và đã trở thành một nhạc sĩ dương cầm điêu luyện, được mời trình diễn hợp tấu trong nhiều dịp trình diễn văn nghệ, cũng như trong các thánh lễ. Condi cũng được cho học tập nhiều năm về môn nhảy múa trên băng (ice skating). Và Condi cũng theo gương người cha để tham gia ủng hộ rất nhiệt thành cho các đội banh Football, Basketball nổi tiếng trên tòan quốc.

III – Sự nghiệp của một chuyên viên cao cấp về bang giao quốc tế.

Mới vào đại học ở Denver vào năm 1971 -72, Condi có cái may được sự hướng dẫn tận tình của một vị giáo sư là chuyên viên  có nhiều kinh nghiệm thực tế về Liên Xô, đó là giáo sư Joseph Korbel thân phụ của Madeleine Albright sau này cũng là một vị Ngọai trưởng của Hoa kỳ.

Cô sinh viên trẻ đã hăng say học tiếng Nga và sau nhiều năm miệt mài trong việc học tập nghiên cứu, Condi đã trở thành một chuyên viên thành thạo trong ngành bang giao quốc tế – đặc biệt về tình hình chính trị quân sự của Liên bang Xô Viết. Và tiếp theo là được mời tham gia giảng dậy và nghiên cứu tại đại học danh tiếng Stanford ở California.

Tác giả thuật lại những khó khăn trong việc được cấp phát quy chế làm giáo sư thực thụ của đại học (tenure) – vì phải thông qua một thủ tục duyệt xét cam go của cả một hội đồng các vị giáo sư đàn anh gọi là “peer review”. Sự đánh giá về năng lực chuyên môn vừa căn cứ trên thành tích giảng dậy, mà nhất là trên những công trình nghiên cứu được phổ biến trong các tập chuyên san có uy tín, hay trong các sách do mình cho xuất bản. Điển hình là cuốn sách đầu tay do nhà xuất bản Đại học Princeton ấn hành, nhan đề là : “Uncertain Allegiance : The Soviet Union and the Czechoslovak Army” – đã được các thức giả đánh giá cao. Nhờ vậy, mà sau mấy năm làm phụ tá giáo sư, thì Condoleezza Rice đã được tuyển nhận vào ngạch giáo sư thực thụ của đại học Stanford.

Cũng tại đại học này, Condoleezza lại còn được mời giữ nhiệm vụ là Provost (Phụ tá hành chánh) trong một thời gian, trong khi vẫn tiếp tục công việc giảng dậy và nghiên cứu. Và trong nhiều năm, chuyên viên nổi danh về Liên Xô là Condoleezza Rice lại còn được mời tham gia cộng tác với chánh quyền Liên bang tại thủ đô Washington DC nữa. Từ năm 1989, bà bắt đầu tham gia trong văn phòng Ban Cố vấn An ninh cho Tổng thống George H Bush (Bush Cha).

Thời kỳ này, hệ thồng do Liên Xô lãnh đạo đang gặp những xáo trộn lớn lao, khiến cho vị lãnh đạo nước Mỹ luôn phải tham khảo với giới chuyên viên về Liên Xô như Condoleezza để có thể kịp thời đối phó với những biến chuyển có tầm vóc quan trọng như thế. Và quả thật ý kiến của Condi luôn được đánh giá cao vì sự cân nhắc thận trọng của một chuyên gia có sự hiểu biết tường tận về nội tình của khối cộng sản. Condi thuật lại những ngày tháng sát cánh với vị Cố vấn trưởng là Brent Scowcroft, đến độ phải làm việc căng thẳng liên miên suốt trên 15 tiếng đồng hồ mỗi ngày trong văn phòng tại Tòa Bạch Ốc.

Rồi dưới thời Tổng thống George W Bush (Bush Con), kể từ năm 2001, Condoleezza Rice lại giữ chức vụ Cố vấn trưởng về an ninh và sau đó thì thay thế Colin Powell để giữ chức vụ Ngọai trưởng Hoa kỳ. Bà đã hòan thành xuất sắc trong cả hai nhiệm vụ cao cấp nhất trong guồng máy của chánh phủ Liên bang – như giới báo chí ở Mỹ cũng như trên thế giới đã từng đánh giá. Nên thiết tưởng không còn phải nhắc lại ở đây nữa.

IV – Để tóm lược lại :

Nói chung, cuốn Hồi ký này được viết với một giọng văn mạch lạc trong sáng. Nhưng lại cung cấp cho chúng ta rất nhiều thông tin về cuộc sống lương hảo, cần cù đạo hạnh trong nội bộ một gia đình người da đen giữa thời kỳ nạn kỳ thị chủng tộc còn rất tàn bạo khắc nghiệt trong khu vực các tiểu bang tại miền Nam nước Mỹ vào thập niên 1950 – 60. Đại khái, ta có thể ghi lại một vài đặc điểm như sau :

1 – Ngòai truyền thống gia đình, thì phải kể đến ảnh hưởng của tôn giáo đối với sự thăng tiến của lớp người da đen trong xã hội nước Mỹ. Có thể nói Tôn giáo đã giúp mỗi đơn vị cộng đòan tín hữu gắn bó liên kết chặt chẽ với nhau hơn hầu đối phó được với sự ngược đãi phũ phàng do người da trắng cực đoan gây ra. Đó chính là cái nguồn vốn xã hội (the social capital) có khả năng nâng cao phẩm chất cuộc sống của mỗi thành viên của cộng đòan. Trong suốt cuốn Hồi ký, tác giả luôn nhắc lại những lời nguyện cầu của mình gửi lên Thiên chúa, mỗi khi gặp một biến cố nào xảy ra cho gia đình hay cho chính bản thân mình.

2 – Là một người đã có một sự nghiệp vững chắc trong môi trường hàn lâm đại học cũng như trong guồng máy chính quyền của một siêu cường, nên Condoleezza Rice luôn có một thái độ bao dung trước vấn nạn kỳ thị chủng tộc vốn là một thực trạng mà tác giả gọi là thứ “khuyết tật bẩm sinh” (birth defect) từ nhiều thế kỷ nay trên đất Mỹ. Noi theo lời khuyên bảo của cha mẹ, bà đã cố gắng hết mức để mà “tài giỏi gấp đôi người khác” – nhờ vậy mà gặt hái được những thành công vượt bậc trên đời như ta đã thấy. Condi đã không chấp nhận thái độ “ bi quan buông xuôi tuyệt vọng”, mà cũng không chấp nhận giải pháp “bạo động nóng nảy quá khích” của một số người là nạn nhân của tình trạng kỳ thị tệ hại này (victimhood). Thái độ tích cực đó đã khiến cho Condi được nhiều người mến phục và trọng nể.

3 – Riêng trong ngành ngọai giao của nước Mỹ, thì từ hai chục năm nay các vị Ngọai trưởng đều là những vị xuất thân từ nguồn gốc di dân, thiểu số da màu và nhất là phụ nữ. Đó là những Madeleine Albright (phụ nữ gốc di dân từ Tiệp khắc), Coli Powell (gốc da đen từ Jamaica), Condoleezza Rice (phụ nữ gốc da đen) và hiện nay là Hillary Clinton (phụ nữ). Các vị Ngọai trưởng này đều đã có những đóng góp tuyệt vời trong việc nâng cao uy tín của nước Mỹ trên trường quốc tế vậy.

Vắn tắt lại, cuốn Hồi ký Gia đình này của Condoleezza Rice quả thật là một tác phẩm rất có giá trị vì chân thực, gọn gàng và lôi cuốn. Người viết xin trân trọng giới thiệu cuốn sách thật quý báu với quý bạn đọc./

Costa Mesa California, Mùa Trung Thu Nhâm Thìn 2012

Đoàn Thanh Liêm

Cứu chuộc phẩm giá

Cứu chuộc phẩm giá

tuankhanh

RFA

Cứ mỗi buổi chiều, người bán bánh mì lại dạo xe quanh nhà tôi. Tiếng rao được thu sẳn vào máy, lặp đi lặp lại một điệp khúc đơn điệu “bánh mì đặc ruột đây”. Thoạt đầu tiếng rao cũng bình thường, nhưng càng nghe càng thấy lạ. Vì sao lại bánh mì đặc ruột? Chuyện một ổ bánh mì hiển nhiên không được rỗng ruột nay bỗng lại trở thành ngôn ngữ tiếp thị chính yếu, cứ nhấn vào tai người nghe.

Nói chuyện với người bán, mới biết rằng nhiều năm nay, bánh mì bị làm hỏng đi rất nhiều. Bột đã kém, ruột cũng bị rút đi, mới có tên gọi là “bánh mì giấy” – loại bánh mì vừa chạm vào là vỏ bánh rơi lả tả, da mỏng và không có chút ruột nào. Bánh mì Sài Gòn từng nổi tiếng với nhiều kiểu, nhiều lò và quen thuộc với mọi con người từ bình dân đến sang trọng đã trãi qua một giai đoạn, mà khốn khó đã bào mòn sự tao nhã và độc đáo của nó. Từ khoảng 2 năm nay, “bánh mì đặc ruột” – như lời rao của những người bán – đã quay trở lại, như một cách âm thầm dựng lại truyền thống đẹp nhất của mình, sự kiêu hãnh của người làm ra miếng bánh. Và quan trọng hơn, như một cách để cứu chuộc lại phẩm giá của đô thị đã bị nát nhàu bởi thời cuộc.

Cầm miếng bánh mì nóng và đẹp trên tay, tôi cứ nghĩ về những người làm nghề chân chính. Họ đã sống suốt một thời gian dài, chấp nhận làm ra những miếng bánh tệ hơn ước muốn của mình, chấp nhận sinh tồn cùng với gian dối trong một bối cảnh mà họ có cưỡng lại cũng không được. Và giờ đây, khi có điều kiện, những miếng bánh đúng và lương thiện đã tìm cách quay lại, tìm về phẩm giá đúng của người. Sự lương thiện được rao lên trong kiêu hãnh.

Con người Việt Nam cũng như những miếng bánh mì lương thiện đó, họ cũng phải chịu đựng nhiều sự thách thức để tồn tại với phẩm giá của mình – như người thợ làm bánh mì Sài Gòn, đau đáu luôn tìm một cơ hội để sống đúng với mình, tìm cách cứu chuộc lại phẩm giá của mình giữa cuộc sống xã hội chủ nghĩa hôm nay đang tràn ngập những điều buộc phải không thật.

Phẩm giá như một lựa chọn mang tính định mệnh. Nó nằm sâu thẳm trong con người, có thể im lặng cam chịu các vết thương chí mạng, nhưng lại sẳn sàng bùng lên và trỗi dậy sáng lòa từ một điều tổn thương nhỏ nhoi cuối cùng nào đó. Tương tự người nông dân mòn mỏi và chịu đựng với cuộc đời bị bóc lột khốn khó của mình, nhưng rồi bất ngờ đứng lên như một người khổng lồ chân đất. Giống như câu chuyện về người đàn bà gầy yếu ở tỉnh Hải Dương quyết đòi đối thoại công bằng về thửa ruộng con của mình bị những tên nhà giàu tư bản đỏ cưỡng đoạt. Bà đã sẳn sàng đứng trước máy xe xúc của chủ thầu đến đổ máu. Phẩm giá của một người nông dân ít chữ đôi khi có thể rực rỡ hơn cả phẩm giá của một kẻ đầy túi tiền và quyền lực lúc này. Mọi thứ có thể được chứng minh trong tích tắc nhìn thấy của định mệnh. Lịch sử Việt Nam hôm qua và hôm nay đã ghi lại không ít những câu chuyện như vậy.

Trên các trang mạng, có rất nhiều những bức ảnh về những cụ già vô danh, những người đàn bà vô danh, những đứa trẻ vô danh… đang đứng với tấm bảng đòi sự minh bạch, đòi giá trị của công lý, đòi sự thật. Những gia đình đang kêu cứu cho con em mình đang bị xét xử oan, về quê nhà bị cưỡng chiếm, những lời kêu gọi sự quan tâm của cộng đồng mạng để mọi thứ được hành xử đúng với luật pháp… Nhìn họ thật yếu đuối và bất lực. Thế nhưng phẩm giá Việt Nam không cho phép họ chấp nhận số phận, không có phép họ thua cuộc trong một đời sống mà họ còn tin vào lẽ phải. Phẩm giá bị vùi vập và cô đơn im lặng đó vĩ đại đó sẽ cứu chuộc nguyên khí của dân tộc này, vượt qua những bài diễn màu mè và dối trá của những nhà lãnh đạo mà ta bị buộc phải nhìn thấy mỗi ngày.

Cũng như những ngư dân Việt trên biển, đối diện bên ngoài khơi đầy những những ngư hạm vũ trang của Trung Quốc giả dạng tàu đánh cá, những con người miền Trung chỉ có lưới và buồm vẫn ngày ngày dong thuyền ra biển. Ngay cả giai đoạn Trung Quốc ra lệnh vô lý cấm đánh cá trên biển Đông, họ vẫn yên lặng giã từ gia đình và ra khơi, không nghĩ ngợi đến bất kỳ một kết cục buồn nào. Bị bắt, bị cướp, bị giết… những ngư dân Việt vô danh đó rồi vẫn lại vay mượn, dành dụm đóng tàu và khởi hành. Dù không tuyên bố, những gương mặt chai sạm đó mang nặng trên vai phẩm giá của tổ quốc, cao quý hơn bất kỳ lời tuyên bố dũng mãnh nào về tình hữu nghị cộng sản trong phòng lạnh và trước ống kính mị dân. Những ổ bánh mì rỗng ruột, rụng rơi, vô giá trị.

Khác với ông Huỳnh Ngọc Sơn, Phó Chủ tịch QH – Thượng Tướng, vẫn hùng hồn kêu gọi người Việt hãy nhẫn nhịn và giao “trách nhiệm đòi Hoàng Sa và Trường Sa cho thế hệ con cháu mai sau”, những ngư dân ít chữ và không chức phận ấy vẫn im lặng ra khơi, như một lời thề xác định phẩm giá của tổ quốc ngay tại làn nước xanh dưới con tàu của mình, bất chấp mọi đe dọa. Thật khác với ông Thượng Tướng đầy nhiệt huyết trong việc chối bỏ trách nhiệm trong cuộc tiếp xúc với đại biểu Đà Nẳng ngày 29/6/2015, những người đi biển quyết không giao phần xương máu và khó khăn đó cho con cháu mình, mà tự gánh lấy. Họ lại ra đi giữa mịt mù những đe dọa và hiểm nghèo. Chỉ có đủ phẩm giá, người ta mới có thể sống cho hiện tại và tương lai như vậy. Những ngư dân ấy, thậm chí đã cứu chuộc linh hồn cho cả những quan chức luôn hô to nhưng không bao giờ dám đặt bàn chân vào mép biển.

Khi bạn đọc những dòng này, vẫn có những ngư dân đang ra khơi, bất chấp mới đây, ngày 16/7, tàu Trung Quốc lại hung dữ tấn công tàu cá Việt Nam ở Quảng Ngãi. May mắn làm sao, người Việt vẫn còn có những con người vô danh giữ gìn phẩm giá của tổ quốc, không cần gọi tên hay chia phần lợi lộc. Những ngư dân ấy không quan tâm chuyện bộ trưởng quốc phòng sống hay chết, tổng bí thư đang chọn con đường nào. Họ không chọn đứng trong một cuộc cờ. Họ chọn ra khơi.

Tôi ăn miếng bánh mì đặc ruột Sài Gòn, và ca ngợi phẩm giá của những con người vô danh ấy.