Công việc bảo vệ sự sống tại Việt Nam

Công việc bảo vệ sự sống tại Việt Nam

Hoàng Dung, thông tín viên RFA

08092015-life-protct-activites.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Tổ chức Y tế Thế giới-WHO, Việt Nam là một trong 3 nước có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới.

Tổ chức Y tế Thế giới-WHO, Việt Nam là một trong 3 nước có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới.

AFP

Hoạt động của một số các bạn trẻ tại Việt Nam với danh xưng ‘bảo vệ sự sống’ được tiến hành lâu nay; khi mà theo Tổ chức Y tế Thế giới-WHO, Việt Nam là một trong 3 nước có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới.
Công tác đó tiến triển ra sao và mục tiêu giúp giảm bớt nạn phá thai trong nước đạt được mức nào?

Tiến triển của hoạt động ‘bảo vệ sự sống’.

Phong trào ‘bảo vệ sự sống’ phát triển mạnh mẽ trên thế giới và đã có từ lâu. Ở Việt Nam phong trào này mới được xây dựng và phát triển khoảng hơn 20 năm nay và khởi đi từ thành phố Huế và hiện nay thì đã có khắp cả nước.

Còn một bạn trẻ trong nhóm bảo vệ sự sống ở giáo xứ Thái Hà, thành phố Hà Nội cho biết.

“Nhóm bảo vệ sự sống tại Thái Hà thì từ năm 2009 đến nay các hoạt động về bảo vệ sự sống gồm có: truyền thông, tư vấn thuyết phục và các hoạt động an táng thai nhi vẫn duy trì đều đặn, trong đó gồm ¼ là người già và trung tuổi còn là lại các bạn trẻ. Hoạt động bảo vệ sự sống ở Hà Nội thì gồm có truyền thông, trong truyền thông thì có các hoạt động như thuyết trình ở các giáo xứ, giáo họ về bảo vệ sự sống chống phá thai, ngoài ra còn có các hoạt động quần chúng như các ngày lễ ngày 8 – 3, ngày Valentina ..tổ chức đi xe đạp phát tờ rơi. Ngoài ra có trang Web và Facebook. Còn có văn phòng tư vấn ở nhà xứ Thái Hà, do cha Quỳnh trực tiếp tư vấn hoặc cũng có thể qua Fanpage của nhóm, bên cạnh đó còn có các tình nguyện viên đến trực tiếp các bệnh viện để gặp gỡ các trường hợp nạo phá thai để tư vấn mong họ giữ lại các thai nhi. Còn có các ngôi nhà mở để các thai phụ để các bạn gần sinh đến đó để chăm sóc. Hoạt động cuối cùng là mỗi buổi tối có các bạn trẻ đến các bệnh viện xin các thai nhi về tắm rửa, khâm liện cho các em và an các thai nhi. Nhờ có những hoạt động”

” Nhóm bảo vệ sự sống tại Thái Hà thì từ năm 2009 đến nay các hoạt động về bảo vệ sự sống gồm có: truyền thông, tư vấn thuyết phục và các hoạt động an táng thai nhi vẫn duy trì đều đặn, trong đó gồm ¼ là người già và trung tuổi còn là lại các bạn trẻ

Một bạn trẻ trong nhóm BVSS”

Anh Trịnh Nguyễn một người trong nhóm bảo vệ sự sống Gioan Phaolo II ở Nghệ An nhớ lại.

“Em tham gia trung tâm BVSS Gioan Phaolo II từ năm 2008 khi đó em còn là sinh viên trường CĐSP Nghệ An, lúc đó phong trào đang trên đà phát triển mạnh, tuy nhiên đến năm 2011 khi một số thành viên nòng cốt của nhóm bị bắt như anh Fx Đặng Xuân Diệu, Pet Trần Hữu Đức, Ant Đậu Văn Dương, Jb Hoàng Phong…và bị quy chụp là tuyên truyền chống phá nhà nước cũng như hoạt động chống phá nhà nước, lúc đó nhà cầm quyền CS Nghệ An cũng quy chụp trung tâm BVSS Gioan Phaolo II là phản động và dùng nhiều cách để phá hoại nên trung tâm sau đó không lâu đã tan rã.”

Sự tan rã của nhóm bảo vệ sự sống Gioan Phaolo II đối với anh Trịnh Nguyễn như là một sự mất mát tinh thần vô cùng lớn.

Nhóm Bảo vệ sự sống ở Hà Nội tuần hành kêu gọi bảo vệ sự sống và chống phá thai

Nhóm Bảo vệ sự sống ở Hà Nội tuần hành kêu gọi bảo vệ sự sống và chống phá thai

“Sự tan rã của trung tâm đối với em, nó như là một sự mất mát rất lớn vì đó cũng là bao tâm huyết mà em và mọi người đã xây dựng, thực sự khi nghe tin đó em đã không cầm được nước mắt.”

Thành quả

Công việc bảo vệ sự sống là một việc cần sự dấn thân, tuy nó không lớn lao gì, nhưng việc đó cũng đã mang lại sự sống cho các em bé được cứu từ tay tử thần hoặc cũng giúp cho các em được chết như một con người.
Tuy thời gian trung tâm bảo vệ sự sống Gioan Phaolo II chỉ hoạt động trong một thời gian ngắn, nhưng những việc mà các thành viên trong nhóm làm được cụ thể như lời anh Trịnh Nguyễn sau đây.

“Thời gian em tham gia cũng được 3 năm từ năm 2008 – 2011, trong thời gian đó em cũng là thành viên như bao thành viên khác, nhưng em cũng đã cộng tác với mọi người để giúp cho nhóm đã cứu sống được hơn 30 em bé dưới bàn tay của tử thần và chôn cất được hơn 50.000 thai nhi bé bỏng bị bố mẹ của họ từ chối sự hiện diện của họ trên cõi đời này.”

Bạn trẻ trong nhóm bảo vệ sự sống ở Hà Nội tiếp lời.

” Thời gian em tham gia cũng được 3 năm từ năm 2008 – 2011, trong thời gian đó em cũng là thành viên như bao thành viên khác, nhưng em cũng đã cộng tác với mọi người để giúp cho nhóm đã cứu sống được hơn 30 em bé dưới bàn tay của tử thần và chôn cất được hơn 50.000 thai nhi

anh Trịnh Nguyễn”

“Từ năm 2009 đến nay Từ năm 2009 đến nay nhóm bảo vệ sự sống Thái Hà Hà Nội đã an táng cho khoảng 14.000 thai nhi tại nghĩa trang Thạch Bích và khoảng 33.000 thai nhi tại nghĩa trang Từ Châu. Nhóm cũng đang cưu mang và chăm sóc cho khoảng gần 200 em nhỏ ở các nhà mở.”

Tác động.

Phong trào bảo vệ sự sống ở Việt Nam còn non trẻ nên hiệu quả của nó có thể chưa cao, nhưng không thể phủ nhận được những công việc được thực hiện giúp cho thêm nhiều người đã quan tâm hơn đến việc bảo vệ các thai nhi, không phá thai bừa bãi.

Bạn trẻ trong nhóm bảo vệ sự sống ở Hà Nội cho biết.

“Tôi nghĩ là từ năm 2009 đến nay, thì hiệu quả của chúng tôi đạt chưa cao, nhưng trong phạm vi thành phố Hà Nội nó cũng góp một tiếng nói trong thảm trạng nạo phá thai để giúp bảo vệ sự sống cho các thai nhi”.

Tuy hiện nay trung tâm mẹ là trung tâm bảo vệ sự sống Gioan Phaolo II đã tan rã, nhưng bên cạnh đó lại còn đang có nhiều trung tâm khác đã được thành lập và hiện đang hoạt động rất mạnh ở Nghệ An.
Anh Trịnh Nguyễn cho biết thêm.

“Trong thời gian tham gia bảo vệ sự sống, ngoài việc đi đến các bệnh xin xin các thai nhi về chôn cất, đi tư vấn các thai phụ bỏ ý định phá thai, nuôi dạy các thai phụ cũng như chăm sóc các em nhỏ thì chúng em còn tổ chức các buổi thắp nến cầu nguyện cho BVSS ở các giáo xứ để giúp mọi người thức tình, từ đó nhiều nhóm BVSS  thành lập ở một giáo xứ ở GP Vinh, như nhóm ở GX Bột Đà, ở xứ Yên Lý, xứ Chân Thành và có một sự kiện đáng nhớ là vào tháng 7 năm 2009 nhóm chúng em đã tổ chức đi bộ 2 ngày với hơn 70km để cầu nguyện cho phong trào BVSS cũng như thức tỉnh mọi người cùng chung tay góp sức để BVSS, từ đó mọi người đã chú ý đến hơn đến chúng em và công việc bảo vệ sự sống”.

Theo Chi cục Dân số – Kế hoạch hóa gia đình, tỉ lệ nạo phá thai ở Việt Nam là khoảng 300.000 ca mỗi năm. Trong đó có khoảng 20% ở độ tuổi vị thành niên. Trung bình cứ mỗi một đứa bé được sinh ra thì có một bào thai bị phá bỏ. Việt Nam là nước đứng thứ 3 trên thế giới và đứng thứ nhất ở Đông Nam Á về tình trạng nạo phá thai.

Một Tấm Huân Chương Cho Sâu & Chuột

Một Tấm Huân Chương Cho Sâu & Chuột

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Còn nói đến Tạp Chí Cộng Sản thì càng tệ hại hơn. Ít ra anh báo Nhân Dân không ai đọc nhưng còn sử dụng được vào một số việc “tế nhị” khác. Còn anh cơ quan ný nuận của đảng thì chẳng dùng được vào việc gì…

Nguyễn Dương

Thông Tấn Xã Việt Nam vừa hân hoan loan một tin vui:

“Sáng 4-8, tại Hà Nội, Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản đã tổ chức trọng thể Lễ kỷ niệm 85 năm Ngày Tạp chí ra số đầu tiên (5-8-1930 / 5-8-2015) và đón nhận phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước – Huân chương Hồ Chí Minh lần thứ hai.”

Giữa thời đại internet, báo bổ ở khắp mọi nơi – trên toàn thế giới – đang dẫy chết hàng loạt mà Tạp Chí Cộng Sản vẫn sống hùng, sống mạnh để  “đón nhận phần thưởng cao qúi” thì quả là một kỳ tích vô cùng đáng kể, và đáng nể.

Cả làng báo Việt Nam đều xuýt xoa chia mừng, và râm ran tán thưởng, chỉ riêng có mỗi ông Nguyễn Dương (nghe đâu là bạn bè của Trương Duy Nhất, hay chính thằng chả không chừng) là không biểu đồng tình. Ổng chê cái tạp chí này “là cơ quan đánh bóng lư đồng” và “chả có ma nào đọc” cả!

Châm chọc và mỉa mai đến vậy mà (chắc) vẫn chưa đã miệng nên đương sự còn viết cả một bài báo dài thòng (“Những Chiếc Lồng Son”) với rất nhiều lời lẽ cay đắng, cùng dè bỉu. Bài này tuy dài thiệt nhưng vì trang S.T.T.D bữa nay còn trống (hoàn toàn) nên xin được “ịn” lại toàn văn, nghĩa là “copy & paste” nguyên con,” để đọc … cho nó đã:

Sáng nay gặp mấy thằng bạn dân báo lề đảng “khạnh khẹ” nhau: Mày làm báo TW sướng thật, đi đến đâu cũng được ở nhà to, hưởng lộc lớn, chẳng bù cho bọn tao suốt ngày phải cắp cặp chạy theo. Tay kia không phải vừa: Bọn ông cũng đâu thua gì, cũng ăn trên ngồi trước thiên hạ.

Hỏi ra mới biết các chú báo đảng địa phương Sài Gòn đang phân bì thiệt hơn với mấy bác báo đảng TW vì các anh í  vừa được về ở nhà to, được trang bi xe cộ, phương tiện tác nghiệp tân thời hơn.

Nhà Khách Báo Nhân Dân Ở Tam Đảo. Nguồn ảnh: toa-soan-bao-nhan-dan-tam-dao-hotel

Số là tạp chí Cộng sản (TCCS), cơ quan lý luận và chính trị của TW đảng CSVN (cơ quan thường trực miền Nam, số 19 Phạm Ngọc Thạch, P6, Q3, Tp HCM) và báo Nhân dân (ND), cơ quan TW của đảng CSVN (cơ quan thường trú tại Tp HCM, số 40 Phạm Ngọc Thạch, P6, Q3, Tp HCM) vừa được dọn về nhà mới.

Đúng là không hẹn mà gặp, cả hai anh phát ngôn của đảng cùng chọn một con đường khá đẹp nằm ở trung tâm Sài Gòn để đặt bản doanh của mình. Tuy chỉ là cơ quan thường trực ở Tp HCM nhưng cả hai đều tọa lạc trong tòa nhà cao hơn chục tầng, mới xây dựng khang trang khiến người qua lại phải choáng ngợp.

Khi tôi đứng chụp hình trước cơ quan thường trú báo ND, một anh mặc áo quần tươm tắt chạy ra cự nự đầy vẻ nghiệp vụ báo chí “ông chụp hình đây làm gì?”

Ảnh: Nguyễn Dương

Tôi nói xạo: Thấy tòa nhà đẹp quá em chụp về in lịch. Hắn ta khoái chí cười hè hè. Mặc dù không được các ảnh mời “nhân dân” vào chơi xem nhà mới, nhưng tôi đoán chắc rằng trong đó là những căn phòng sang trọng với máy lạnh mở suốt ngày, bàn ghế bóng ngời, các bộ máy vi tính, laptop đời mới trưng bày la liệt.

Đúng là những con họa mi ở đây cả phần hồn lẫn phần xác được chăm lo nơi đến chốn, “nắng không đến đầu, mưa không đến tóc”. Thảo nào các chú chim trống, các ả chim mái ở đây lại “hót” hay đến thế.

Trong làng báo chí mọi người vẫn khẳng định: Làm báo ND là sướng nhất. Quanh năm suốt tháng chỉ việc đi dự hội nghị, khai trương, động thổ, trao huân chương… Đi đến đâu các anh báo ND đều được trọng vọng, ăn trên ngồi trước.

Các cơ quan từ TW đến địa phương họp hành, khai trương gì báo nào cũng có thể bỏ qua nhưng báo ND thì không bao giờ dám thất lễ.  Tôi có anh bạn trước đây chỉ làm báo địa phương làng nhàng, thế nhưng từ khi được chuyển qua làm phóng viên thường trú của báo ND là khác hẳn; ăn nói cũng khệ nệ, cha chú hơn, nhưng đổi lại chẳng còn bài viết nào ra hồn, tay nghề cũng lụn bại từ  ấy.

Thế nhưng, nếu cho đọc giả bình chọn thì có lẽ tờ ND là báo tào lao nhất, tẻ nhạt và… xạo nhất. Hầu như trên tất cả các sạp bán báo đều không thấy bóng dáng anh ND.

Nói không ngoa, báo chí cách mạng thời hoạt động bí mật còn kiếm dể hơn kiếm một tờ báo ND ngày nay. Viết đến đây tôi chợt nhớ đến một bài viết ngắn trên blog có tên laothayboigia, trong đó có câu: Từ khi các gia đình Việt dùng quen giấy vệ sinh cuộn, báo Nhân dân càng trở nên khó tiếp cận với quần chúng.

Còn ông hàng xóm của tôi đã gần 30 năm tuổi Đảng nói một câu rất “thiệt tình”: Bọn tau bây giờ đọc báo ND chỉ đọc mục… cáo phó.

Thử hỏi bao nhiều vụ tham ô, tham nhũng lớn có anh phóng viên báo ND nào mò ra đâu, bao nhiêu chuyện bức xúc, khẩn thiết của người dân các anh có lên tiếng đâu. Các anh chỉ nói theo kiểu “định hướng”, vuốt đuôi. Các anh chỉ giỏi lo chuyện trên trời, bận phân tích bao giờ kinh tế Mỹ sụp đổ, tỷ lệ thất nghiệp của châu Âu tăng cao so với cùng kỳ năm trước, lo Gaddafi còn trụ lại được bao lâu nữa…

Thực tế là ngày nay báo ND chỉ được “lưu hành” trong các cơ quan nhà nước, các chi bộ mà phần lớn là  moi tiền của ngân sách ra mua, đa số người ta đọc báo ND là đọc chùa, chứ chẳng mấy ai  bỏ tiền túi ra mua cả. Nực cười là báo làm ra không bán được nhưng bộ sậu báo ND vẫn sống khỏe, hưởng mọi bổng lộc của đảng ban phát, sống trên đầu trên cổ người khác. Tiền đó ở đâu ra??

Còn nói đến TCCS thì càng tệ hại hơn. Ít ra anh báo ND không ai đọc nhưng còn sử dụng được vào một số việc “tế nhị” khác. Còn anh cơ quan ný nuận của đảng thì chẳng dùng được vào việc gì vì ở đây chỉ toàn là những cây bút cỡ đại tá, tiến sĩ Nguyễn Văn Quang.

Phối cảnh Tòa nhà Tạp chí Cộng sản. Tọa lạc tại số 19 đường Phạm Ngọc Thạch,

phường 6, quận 3, TP HCM. Ảnh: PVV.COM

Những chuyện đơn giản mấy ảnh làm cho phức tạp lên với mớ lý luận chỉ để hù dọa mấy anh các bộ chưa xóa mù chính trị. Các anh cứ nhai đi nhai lại mớ tín điều cũ rích, ngồi mơ mộng bao giờ thì chủ nghĩa tư bản giãy chết.

Không quá khi nói rằng đây là cơ quan đánh bóng lư đồng, chân đèn. Các anh suốt ngày ca ngợi sự ưu việt, bách chiến bách thắng của CN Mác – Lê Nin, các anh tô son, vẽ thêm râu cho ông Mác, ông Hồ mà ngay các ông ấy có sống dậy cũng không nhận ra mình.

Xin thưa các anh TCCS. Sản phẩm các anh làm ra chẳng ma nào đọc đâu, từ Bộ chính trị cho đến mấy anh đảng viên quèn đều biết tỏng các anh nói xạo, là đồ ba trợn nhưng họ buộc phải nuôi các anh, vỗ béo các anh vì các anh là những con vẹt đầu đàn, các anh có nhiệm vụ là người lĩnh xướng cho dàn đồng ca của hàng triệu con vẹt khác.

Thú thật tự thâm tâm tôi các anh làm gì thì mặc xác các anh, hôm nay các anh cưỡi voi thì rồi ngày mai các anh cũng xuống chó. Thế nhưng thằng dân đen tôi không thể nào không uất khi đối lập với hình ảnh ăn trơn mặc trắng, nhà cao cửa rộng của các anh là cảnh bần cùng của người dân. Trong những chiếc lồng son của các anh các anh có thấy được nỗi cơ cực của người dân nghèo như thế này không:

– Bệnh viện quá tải, 7 bệnh nhân/giường: Thông tin này được ông Lương Ngọc Khuê – Cục    trưởng Cục Khám chữa bệnh (Bộ Y tế) đưa ra tại Hội nghị sơ kết công tác y tế 6 tháng đầu năm của khu vực phía Bắc, tổ chức ở Hà Nội ngày 13.9.2011 (Dân Việt).

– Quá tải bệnh viện, bệnh nhân nằm gầm giường, hành lang: Hầu hết bệnh viện tại TP HCM đều  trong tình trạng quá tải, bệnh nhân nằm kín các hành lang. Ở các bệnh viện nhi, trẻ em nằm một giường 4-5 cháu, thậm chí người nhà phải giành nhau một chỗ ở gầm giường để trải chiếu cho bé nghỉ (Vnexpress).

– Quá tải bệnh viện lên đến con số “khủng” 364% (Lao Động).

– Bệnh viện Báo động xuống cấp, quá tải. Bệnh nhân… mặc áo mưa truyền nước biển (ykhoanet.com).

– 30 HS nghỉ học chăn bò do… trường xuống cấp: Hơn 30 em học sinh đã tốt nghiệp tiểu học ở thôn Mai Hạ (xã Mai Đình, Hiệp Hòa, Bắc Giang) không được nhận vào trường huyện bạn – THCS Đông Tiến, với lí do cơ sở vật chất của trường đã xuống cấp (Tiền Phong).

– Một trường học đã hết chỗ để xuống cấp: Đó là trường Tiểu học Liên Trì, xã Bình Hiệp, huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi). Ngôi trường này có 6 phòng học cấp 4 được xây dựng từ hơn 40 năm trước nên hiện đã hết chỗ để… xuống cấp. Trong số 6 phòng học thì đã có 3 phòng bị mưa lũ làm sập hoàn toàn, các phòng còn lại thì tường bị nứt toác, cửa sổ chắp vá đủ loại ván, nhiều thanh gỗ trên trần bị mối gặm gần hết làm mái ngói cong vẹo có nguy cơ chờ… sập. Hằng ngày 200 học sinh phải “bám trường, bám lớp” dù tính mạng luôn bị rình rập (Thanh Niên).

– Vừa học vừa lo… trường sập: Hơn 400 học sinh và giáo viên trường Tiểu học số 1 Triệu Phước (xã Triệu Phước, Triệu Phong, Quảng Trị) ngày ngày vừa học vừa nơm nớp lo sợ khi phải ngồi bên những chiếc bàn mục ruỗng chỉ chờ gãy, những tấm ngói thủng lỗ chỗ nhìn thấu mặt trời (Dân Trí).

– Một trường mầm non 40 tuổi xuống cấp trầm trọng (Đất Việt).

Nói vậy thôi chứ có bao giờ các anh chị gặp những “cảnh đời” như thế. Các anh chi có đau ốm gì thì đã có bệnh viện tư nhân, bệnh viện quốc tế lo, con cái của anh chị đều được “cơ cấu” vào các trường điểm, trường chuẩn quốc gia, quốc tế. Các anh chị cứ yên tâm mà luyện thanh, luyện giọng để cất cao tiếng hót ca ngợi đảng, ca ngợi chế độ.

Chào thân ái và sẽ quyết toán!

Người Cùng Khổ NGUYỄN DƯƠNG

(Nguồn: Trương Duy Nhất blog)

Trương Duy Nhất blog đã bị đóng từ lâu nhưng bài viết thượng dẫn thì có thể tìm thấy nơi nhiều trang mạng khác. Thiệt là một bài báo thấm thía. Chỉ tiếc là cách dùng từ, đôi chỗ (“những con họa mi” –  “những chiếc lồng son”) có hơi bị … cliché!

Ông Trương Tấn Sang chơi chữ tân kỳ hơn thấy rõ. Chủ Tịch Nước gọi những người làm báo – kiểu như báo Nhân Dân và Tạp Chí Cộng Sản – là một “bầy sâu,” chớ không phảì là “bầy chim họa mi.”

Tương tự, ông Nguyễn Phú Trọng cũng “tân kỳ” không kém. Ông mô tả đây là một … bầy chuột. Tuy thế, vì bầy chuột này có công trạng làm loa tuyên truyền cho chế độ nên không bị “ném” mà còn được tuyên dương – vẫn theo như bản tin (thượng dẫn) của TTXVN:

“Thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đến trao Huân chương Hồ Chí Minh lần thứ hai tặng tập thể cán bộ, công chức, viên chức người lao động của Tạp chí Cộng sản.”

Thỉnh thoảng lại mang huân chương đem trao cho cả bầy sâu hay lũ chuột, rồi kêu gọi chúng phải là “lực lượng đi đầu trong đấu tranh phòng chống tham nhũng” thì quả là một chuyện khôi hài – một kiểu giễu dai, và diễu dở!

Cầm tay em anh hỏi

“Cầm tay em anh hỏi
Đường nào lên Thiên Thai,
Đường nào lên Thiên Thai,
Đường nào lên Thiên Thai?
Nơi hoa xuân không hề tàn,
Nơi bướm xuân không hề nhạt,
Nơi tình xuân không úa màu bao giờ.”

(Nhạc: Hoàng Nguyên/Lời: Hồ Hoàng Phương – Đường Nào Lên Thiên Thai)

(Mt 14: 5-8/17: 3-4)

Trần Ngọc Mười Hai

Cầm gì thì cầm, tay hoặc chân của ai đó cũng chẳng sao. Thế nhưng, chớ có “cầm nhầm” thứ gì khác, kẻo không những chỉ mình em, mà cả thế giới đều lên tiếng.

Hỏi gì thì hỏi, hỏi-han hay han-hỏi điều gì, cũng đừng nên hỏi các đấng bậc nhà Đạo những câu như thế! Bởi, chưa cần nghe anh hỏi, Đấng bậc tôi tớ của các bầy tôi đây sẽ tranh nhau mà trả lời. Ngoại trừ các chi tiết về Lưu Nguyễn, rượu Đào, suối Ngọc ở đâu đó, như câu hát cứ liên hồi, rằng:

“Ngày xưa sao Lưu Nguyễn,

gặp đường lên Thiên Thai,

Nhạc vàng ai mê say,

Rượu Đào ai ngây ngây

Suối Ngọc reo dưới bước chân đi,

Tiếng Nhạc tiên quyến luyến xiêm y,

ôi làm sao lạc vào được Thiên Thai.”

(Hoàng Nguyên/Hồ Hoàng Phương – bđd)

Bởi, như lời bọn tôi vừa nói, anh hoặc em có hỏi cho nhiều, thì nghệ-sĩ ở đời cũng chỉ có thể bảo ban với em hoặc anh những điều rằng:

“Anh nào biết đường lên Thiên Thai,

khi trời đất còn vương thương đau,

khi hồn anh chưa biết sẽ về đâu

Anh nào biết đường lên Thiên Thai,

khi lòng còn như băng buốt giá

Và tình còn e ấp, nói không thành lời.”

(Hoàng Nguyên/Hồ Hoàng Phương – bđd)

Thế đó, là chuyện ngày xưa. Còn, hôm nay và mai ngày, chỉ cần anh cất tiếng hoặc ầm ừ đôi ba chữ, chứ chẳng cần biết anh có cầm tay hay cầm chân ai đó không, cũng sẽ có đấng bậc này nọ ví von Thiên Thai với Nước Trời, ngay tức thì.

Thế nhưng, trước khi đi vào chi tiết những gì chưa hỏi đã trả lời một “chia sẻ”; nay, mời bạn và mời tôi, ta nghe sơ những chuyện “chưa hỏi đã có đáp án” như sau:

“Hai chàng trai nọ cầm tờ giấy xét nghiệm ở bệnh viện ra cửa đọc mà chẳng hiểu, bèn ngơ ngác đầy chất hỏi han, như sau:

-Tình-hình cậu thế nào? Có khả-quan không thế?

-Không dám “khả quan” đâu! Bác-sĩ khám tớ xong bèn kết luận bằng chữ BT tức “bó tay” to đùng thế này làm sao khả với quan được cơ chứ!

-Không bằng tớ đâu! Tình-hình của tớ còn tệ lậu hơn nữa.

-Ấy chết! Cậu nói gì mà “lậu” với tệ? Thế, ỗng nói là cậu bị lậu sao?

-Lại cũng không dám đâu! Chả lậu liếc gì đâu. Chả là, ngài phê cho tớ mấy chữ RLTH có nghĩa “Ruột lòi tới háng”, thế có chết không cơ chứ!

Than vãn ỉu xìu xìu một hồi, hai chàng trai gặp cô y-tá đầy chữ nghĩa bèn ráp tới hỏi và han thêm lần nữa, bèn được câu “đáp án” rất sáng tỏ như thế vầy:

-Các anh “cầm nhầm” kết-quả rồi! Đâu nào “cho em xin”… Anh đây Bác-sĩ phê hai chữ BT có nghĩa là “Bình thường” chứ chẳng phải bó tay bó chân gì hết đó! Còn, anh đây mấy chữ RLTH có nghĩa là “Rối loạn tiêu hoá”, chứ chẳng có gì hết đó. Uống viết thuốc xôi là xong ngay…”

Quả là đáp-án của dân “chuyên-nghiệp” khi thấy thiên-hạ những hỏi han như thế. Riêng nghệ-sĩ xưa, hay đưa ra câu hỏi không rõ có tính chuyên-nghiệp không mà sao cứ hát mãi những lời rằng:

“Nhìn trong đôi mắt đẹp,
lòng chợt vui như say;
kìa đường lên Thiên Thai,
kìa đường lên Thiên Thai
Ấy đường qua ngõ mắt thơ ngây,
tiếng nhạc êm lẫn tiếng thơ say,
Đưa hồn anh lạc vào tận tim ai.”

(Hoàng Nguyên/Hồ Hoàng Phương – bđd)

Nghe hát rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta đi thẳng vào vấn-đề về hỏi-han “Đường Nào Lên Thiên Thai” hay “đường nào dẫn đến Nước Trời, ở đâu đó?

Hễ cứ hỏi, là có thưa. Những thưa cùng hỏi rất tận-tình như bao giờ. Thế nên, hôm nay đây, thay vì trả-lời câu: “Đường nào lên Nước Trời hoặc Thiên Thai? Thì, đấng bậc ở chốn chóp bu nhà Đạo lại nói về đức tính đích-thực của các kẻ tin đang sống ở chốn Nước Trời, như sau:

“Đức Phanxicô nói rằng muốn nên chứng nhân đích thực trong đời sống Kitô hữu đòi phải có 3 đặc tính.

Trong bài giảng thánh lễ sáng hôm qua 11.06 tại nguyện đường Santa Marta, Đức Giáo Hoàng nói đến 3 đặc tính đó là: “Hành trình, phục vụ, lãnh nhận nhưng không.

Hành trình.

Đức Giáo Hoàng nhắc đến bài đọc Tin Mừng trong ngày nói về việc Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi loan báo Tin Mừng. Là một môn đệ của Chúa đòi hỏi phải mang lấy sứ mạng ra đi loan báo Tin Mừng.

Nếu người môn đệ không đi ra và không làm cho người khác lãnh nhận bí tích Rửa tội thì người ấy chưa phải là môn đệ đích thực của Chúa Giêsu. Người ấy thiếu sinh khí truyền giáo. Anh ta không thể ra khỏi chính mình để mang lại những điều gì tốt lành cho người khác.

Các môn đồ của Chúa Kitô cần phải lên đường mang lấy Tin Mừng, cần có một hành trình nội tâm không ngừng tìm kiếm Chúa, qua đời sống cầu nguyện và suy niệm. Nếu người môn đệ không theo đuổi cách thức này, công cuộc rao giảng Tin Mừng sẽ nên suy yếu.

Phục vụ.

Đức Giáo Hoàng nói đến đặc tính thứ hai nơi người kitô hữu đó là phục vụ. Không phục vụ không phải là Kitô hữu. Một người môn đệ không biết phục vụ người khác thì không phải là Kitô hữu. Người môn đệ cần phải theo những gì Chúa Giêsu rao giảng như được mời gọi nơi hai trụ cột của Kitô giáo: 8 Mối Phúc Thật và ‘Chứng thư’ như được liệt kê trong Tin Mừng theo thánh Mát-thêu chương 25.”

Nếu cuộc sống của chúng ta không biết phục vụ thì không có giá trị gì trong đời sống Kitô hữu. Người môn đệ đích phải biết phục vụ người khác đặc biệt là những người bị bỏ rơi.

Lãnh nhận Nhưng-không.

Đức Giáo Hoàng nói đến đặc-tính thứ 3 cần phải có nơi đời sống Kitô hữu đó là ‘nhưng không’. Đức Giáo Hoàng nhắc lại những lời của Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng “anh em đã được nhận nhưng không thì cũng hãy trao ban nhưng-không”.

“Thật buồn khi thấy có những Kitô hữu đã quên đi Lời này của Chúa Giêsu. Thật buồn khi thấy trong các cộng đoàn, giáo xứ, các dòng tu, giáo phận đã quên đi điều này. Vì như thế hóa ra ơn cứu độ đến từ sự giàu có, từ sức mạnh của con người.”

“Niềm hy vọng của ta đặt nơi Chúa Giêsu Kitô. Ngài ban cho ta niềm hy vọng để không bao giờ thất vọng. Niềm hy vọng giúp chúng ta vững mạnh lên đường; niềm hy vọng giúp chúng ta ra khỏi cái tôi ích kỷ của mình để phục vụ người khác; niềm hy vọng làm cho chúng ta nên giàu có chứ không bó hẹp nơi thế giới vật chất chóng qua này”. (theo zenit)

Thế đấy, là cuộc sống ở Nước Trời rất như thế. Như thế và như vậy, giống hệt một khẳng- định của thánh-nhân hiền-lành nhà Đạo từng lập đi lập lại rằng:

Sau khi đã loan Tin Mừng cho thành ấy

và nhận khá nhiều người làm môn đệ,

hai ông trở lại LýtRa, Icôniô và Antiôkia.

Hai ông củng cố tinh thần các môn đệ,

và khuyên nhủ họ giữ vững đức tin.

Hai ông nói:

“Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa.”

Trong mỗi Hội Thánh,

hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục,

và sau khi ăn chay cầu nguyện,

hai ông phó thác những người đó cho Chúa,

Đấng họ đã tin.”

(Cv 14: 22-23)

Sống ở chốn Thiên-Thai/Nước Trời, thì như thế. Còn, đường lên Thiên-Thai/Nước Trời thì sao? Và đây, mời bạn và mời tôi, ta nghe tiếp đoạn khác ở trình-thuật Tin Mừng thánh Mát-thêu như sau:

Bấy giờ Đức Giêsu nói với các môn đệ của Người:

“Thầy bảo thật anh em,

người giàu có khó vào Nước Trời.

Thầy còn nói cho anh em biết:

con lạc đà chui qua lỗ kim

còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.”

Nghe nói vậy,

các môn đệ vô cùng sửng sốt và nói:

“Thế thì ai có thể được cứu?”

Đức Giêsu nhìn thẳng vào các ông và nói:

“Đối với loài người thì điều đó không thể được,

nhưng đối với Thiên Chúa,

thì mọi sự đều có thể được.”

(Mt 19: 23-26)

Hỏi rằng: ta hiểu câu trên như thế nào? Phải chăng người muốn nói: muốn vào chốn Thiên-Thai/Nước Trời, phải trở nên nghèo khó, bé nhỏ, sống túng-thiếu chứ không sang giàu hoặc dư dật? Bởi, nếu đã giàu sang/dư dật rồi, lại sẽ khác.

Sống ở chốn Thiên-thai/Nước Trời, là sống tình-trạng thanh-thoát, trống-trải để rồi sẽ không có gì và sẽ chẳng còn gì để sợ mất và cũng chẳng có gì để phải lo “con bò trắng răng”. Dù, mối lo đó lại sẽ là mối lo và sợ những người giàu-có đến chiếm hữu/rút rỉa những gì mình có.

Sống tình-huống Thiên-Thai/Nước Trời, là có sống rất thật nhưng không chỉ cho mình mà cho người khác. Là, như thánh Phaolô khi xưa từng bảo: “Tôi sống nhưng không phải tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.

Sống tình-huống Thiên-Thai/Nước Trời là sống giống như câu ca vẫn tiếp-tục hát:

“Nhìn trong đôi mắt đẹp,
lòng chợt vui như say;
kìa đường lên Thiên Thai,
kìa đường lên Thiên Thai.

Ấy đường qua ngõ mắt thơ ngây,
tiếng nhạc êm lẫn tiếng thơ say,
Đưa hồn anh lạc vào tận tim ai.”

(Hoàng Nguyên/Hồ Hoàng Phương – bđd)

À thì ra, cả trong Đạo lẫn ngoài đời đều công-nhận: “Hồn anh lạc vào tận tim ai”, thế mới là Thiên-Thai/Nước Trời ở phía trước. Có vào tận “tim anh” hay “tim em” cũng sẽ không khó như “Lạc đà chui qua lỗ kim” đâu. Cái khó, là lòng người chẳng muốn “đưa hồn lạc” vào đâu đó, dù chốn đó có là Thiên Thai hay Nước Trời, nhiều con tim rất vang hoặc rất ngọc.

Bởi lẽ, Thiên Thai/Nước Trời, vẫn cứ là và sẽ là chốn miền ta cùng sống trong và sống với cộng-đoàn dân con Đức Chúa ở xã hội. Bởi lẽ, Thiên-Thai/Nước Trời ở đây, lúc này, chính là cộng-đoàn ta chung sống, trong đó có giúp giùm, đùm bọc, không ngại ngần.

Cộng-đoàn Thiên-Thai/Nước Trời, lại chính là Thánh-hội ở trần-gian, trong đó không còn ai chỉ mỗi lo-toan, tranh giành, kèn-cựa đạp nhau mà tiến chức, lên lương hoặc nắm trọn quyền. Ở chốn Thiên Thai/Nước Trời hôm nay hay mai ngày, là ở với cộng-đoàn có Thánh Thần Chúa soi sáng, ngự trị.

Cộng-đoàn Thiên-Thai/Nước Trời, vẫn là và sẽ là chốn thánh-thiêng, trong đó có vị thánh Đá Tảng rất Phêrô, từng kêu lên vui sướng, những câu nói rất trung-thực như:

Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay!

Nếu Ngài muốn,

con xin dựng tại đây ba cái lều,

một cho Ngài, một cho ông Môsê,

và một cho ông Êlia.”

(Mt 17: 3-4)

“Thật là hay! nếu Người muốn mà sao người người nay chẳng nhớ đến ai để rồi người người cùng tôi sẽ đóng lều để ở, mà chỉ nhớ có Môsê hoặc Êlya thôi? Thế đó là vấn đề. Chính đó, là nỗi chết. Bởi thế nên, Đức Giêsu lại đã phản-hồi bằng câu nói rất đáng nhớ, mà rằng:

Ông còn đang nói,

chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông,

và có tiếng từ đám mây phán rằng:

“Đây là Con yêu dấu của Ta,

Ta hài lòng về Người.

Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”

Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng,

ngã sấp mặt xuống đất.

Bấy giờ Đức Giêsu lại gần, chạm vào các ông và bảo:

“Trỗi dậy đi, đừng sợ!”

Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa,

chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi.”

(Mt 14: 5-8)

Xem như thế, tức như thể bảo: Thiên-Thai/Nước Trời không ở đâu khác, ngoài Đức Giêsu, là Con Thiên Chúa. Bởi, Ngài là tất cả trong mọi sự. Có nghe và làm theo lời Ngài dạy, tôi và người rồi ra, ai ai cũng đạt chốn Thiên Thai Nước Trời, vẫn mong muốn.

Để minh-chứng và minh-hoạ điều này, tức: chỉ một điều rằng: Thiên-Thai/Nước Trời là chốn miền ta đang sống hiện-tạiở đây, ngay lúc này không gồm tóm chỉ mỗi chuyện tốt đẹp mà thôi, nhưng vẫn có những chuyện không hay ho, thực-tế như trang nhật-ký của vị y-sĩ thuộc loại thượng-thừa, như sau:

“Đêm trực lúc 0 giờ

Một người đàn ông đến cấp cứu vì đau quặn bụng. Khi mình đến khám, ông ta cứ luôn miệng nói: Tôi quen anh giám đốc A. Tôi có làm ăn với chị trưởng phòng B. Có lẽ do ông ta nghĩ rằng, khi nói ra những mối quan hệ ấy, mình sẽ làm việc chu đáo hơn. Mình đã đáp lời rằng :

-Anh có thể thôi nói tên và chức vụ của người khác. Anh hãy nói về chính anh đi, tên, chức vụ và bệnh của anh.

Ông ta trố mắt ra nhìn mình, phải mất vài phút sau ông ta mới có thể bắt đầu khai bệnh.

Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta cũng hay như vậy, bạn nhỉ? Cứ vỗ ngực tự hào chứng tỏ với nhau rằng : tôi là con ông D, cháu bà C, tôi quen biết ông E và có mối quan hệ thân thiết với bà F, thay vì chúng ta nói về chính mình. Nhưng một người trưởng thành thật sự lại là người luôn tự đứng vững trên đôi chân mình, can đảm chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình, không dựa vào ai cả, không đổ thừa ai cả.

0 giờ 30 phút

Một người phụ nữ 70 tuổi, được đưa đến phòng cấp cứu trong tình trạng suy kiệt nặng, da xanh niêm nhạt, thở ngáp cá, toàn thân khai mùi phân dãi. Khi mình xử trí cấp cứu xong, mình hỏi hai người con gái ăn bận rất bảnh bao và thơm tho : Bệnh nhân bị bệnh gì trước đây, điều trị ở đâu, và diễn tiến nặng bao lâu rồi?

Mình đã ngỡ ngàng khi nhận được một câu trả lời : Bệnh tim mạch và u hạch gì đó không rõ, mẹ tôi đã khó thở cả tháng nay rồi, nhưng tôi nghĩ không sao nên không đưa đi khám bệnh.

– Hai chị là con ruột?

– Ừ con ruột.

Mình im lặng thở dài khi kết quả xét nghiệm và MSCT trả về là bệnh Lymphoma ác tính di căn não, di căn phổi, đái tháo đường, suy thận… Làm sao mà cứu chữa? Mẹ thì chỉ có một trên đời.

Tuần trước mình có đi dự đám tang của một bệnh nhân rất thân. Và đã chứng kiến những giọt nước mắt ăn năn của người con út.

– Bác sĩ biết sao không, cả bốn tháng nay tôi chưa gặp mẹ, dù nhà tôi và nhà mẹ cách có vài bước chân. Ai ngờ trưa hôm thứ 7, nhận điện thoại báo mẹ đã mất rồi… Giá như tôi …

Thật, càng lớn tuổi, mình càng sợ trực cấp cứu. Không phải vì sức khoẻ vì chuyên môn hay vì áp lực phải tiếp xúc phơi nhiễm với những bệnh lây nhiễm hay vì có thể bị hành hung bất cứ lúc nào. Mà vì cứ phải chạm vào thật sâu bên sau mỗi con người dù mình không muốn…

1 giờ sáng

Bệnh nhân nam 23 tuổi, cơ thể gầy teo, nấm trắng đầy miệng đến cấp cứu vì tiêu chảy. Khi mình giải thích tình hình bệnh và đề nghị nhập viện thì bệnh nhân không chịu vì không có tiền.

– Em điện thoại kêu ba mẹ vào viện đi.

– Ba mẹ em li dị hồi em còn nhỏ xíu. Em sống với bà, mà bà ở tuốt dưới Vĩnh Long, em nói thiệt, em bị nghiện ma tuý đá và bị nhiễm HIV.

– Nhưng nếu em không nằm viện thì phải làm sao?

– Em cũng không biết nữa.

Nhìn cơ thể bệnh nhân chi chít những hình xăm, mái tóc nhuộm vàng khè … sao mà khác quá với cách bệnh nhân trả lời.

– Em chỉ nghĩ mình đau đến đây để bác sĩ cấp cứu…

Mình lại thở dài, dù tiếng thở dài chẳng làm đêm ngắn lại. Phần lớn những người sa ngã và lầm lạc thường được lớn lên trong gia đình không có hạnh phúc, cha mẹ ly dị, hay nghiện rượu, cờ bạc và thuốc lá. Có bao giờ mỗi bước chân đi, mỗi quyết định trong cuộc đời, chúng ta đều cẩn trọng? Sinh con rất dễ, nhưng nuôi dưỡng con lại rất khó! Khó vô cùng.

2 giờ sáng

Một thanh niên sỉn rượu đến để may những vết thương vùng mặt và lưng do bị chém. Khi điều dưỡng hỏi phần hành chính, thì anh ta nạt nộ đập bàn : Sao không khâu liền đi, cứ hỏi mấy cái vớ vẩn làm gì?

– Muốn khâu thì phải làm hồ sơ khai tên tuổi bị đánh ở đâu chứ, rồi còn phải kí tên yêu cầu khâu chứ.

– Tao (cóc) khai. Bây giờ tao hỏi tụi mày có khâu không thì bảo? Tụi mày có tin tao chém tụi mày bây giờ không?

Mấy anh bảo vệ nghe ồn ào, báo ngay cho công an. Và thanh niên sỉn rượu vừa thấy bóng công an lập tức bỏ chạy. Mới đó còn hùng hổ đòi đâm đòi chém …Thật, những người có xu hướng hung bạo và dễ kích động thường là những người sống trong sự sợ hãi và yếu đuối.

Vì sao khi đi trên phố mấy thanh niên trẻ hay nẹt bô rồ ga? Vì sao giữa đám đông mấy người trung niên kia ăn bận diêm dúa trang điểm cầu kì? Bởi vì trong sâu thẳm họ khát khao được chú ý, khát khao được công nhận… nhưng họ chẳng có gì đặc biệt, buộc họ phải hành động như thế. Họ lạc loài!

3 giờ sáng

Một người đàn ông, 50 tuổi được đưa vào cấp cứu vì đau đớn vùng hạ sườn phải. Ông ta la hét inh ỏi:

– Bác sĩ đâu rồi? Tụi bây chết hết rồi hả? Tao vào bệnh viện cả tiếng rồi mà chẳng thấy tụi bây đâu…

– Bác sĩ đây, anh mới vào mà, y tá còn chưa kịp lấy dấu hiệu sinh tồn…

Người nhà vội nói bệnh nhân và quay qua nói với mình : Bác sĩ thông cảm, tại ảnh bệnh ung thư đường mật di căn gan, di căn hạch giai đoạn cuối rồi nên đau đớn và hay la hết. Bệnh Viện C đã cho về, khuyên gia đình, bệnh nhân muốn ăn gì thì cứ cho…

Đêm dường như sâu hơn với tiếng thở dài.

Nỗi đau niềm thống khổ là có thật, luôn hiện diện bên trong mỗi con người. Ai cũng đau cũng khổ, có người nhờ nỗi đau mà vượt lên được chính mình, tìm ra được con đường giải thoát và an lạc, nhưng cũng có người bị chết chìm trong đó. Lẽ thường, khi người ta gần đến bên kia con dốc cuộc đời, cận kề cái chết, người ta sẽ buông bỏ hết những sân si, người ta sẽ chấp nhận và mỉm cười… Đằng này …

Bốn giờ sáng

Một người phụ nữ đến cấp cứu vì đau đầu ngủ không được. Trong khi mình đang viết bệnh án thì nghe bà ta kêu lên: Chú bác sĩ và cô y tá kia, mau trả điện thoại lại cho tôi.

– Bà coi lại cẩn thận đi, tụi con đâu có lấy điện thoại của bà.

– Cô nói gì? Chỉ có cô và chú bác sĩ kia lại gần tôi… Không cô thì chú kia lấy. Báo bảo vệ hay công an ngay đi.

Bệnh nhân ngồi bật dậy, khác với lúc mới vào nhăn nhó khó chịu mệt mỏi.

– Ôi mẹ ơi, mẹ nói cái gì kì lạ vậy? Con giữ điện thoại của mẹ đây. Tại con đi đóng tiền tạm ứng nhập viện nên mẹ không biết.

– Vậy hả? Tao tưởng hai đứa này nó ăn cắp.

Bé Khánh vừa định lên tiếng, mình vội ngăn lại và thì thầm: Thôi bỏ đi em.

Mình nhớ một câu chuyện trong Phúc Âm, có người đến hỏi: Nếu ai đó tát vào má con thì sao? Chúa Giêsu đã trả lời : Con hãy đưa luôn má còn lại cho người ta tát. Và nếu có ai xin con cái áo khoác bên ngoài, con cũng hãy cởi luôn cái áo khoác bên trong mà cho.

Thường chúng ta chỉ đến với Thượng Đế khi bị đau khổ, mất mát, muốn mà chưa được…Và khi chúng ta bị ức hiếp bị bắt nạt, chúng ta mong là luật công bằng, luật nhân quả được thực thi.

Nhưng Thượng Đế luôn im lặng. Ngài dạy: Hãy tha thứ, hãy cho đi nhiều hơn. Bởi chỉ những người yếu đuối, thiếu thốn, bị bỏ rơi … mới dùng đến bạo lực và đi xin. Ngài Đạt Lai Lạt Ma từng nói: Cây lúa nào hạt non hạt lép thì nó đứng thẳng vươn cao. Còn những cây lúa nặng trĩu hạt luôn oằn mình xuống dưới thấp. Cái Tôi của ai nhỏ bé thì tâm-lượng người đó mênh mông! (trích Nhật-ký của Giáo sư Tôn Thất Tùng)

Nghe kể chuyện thực-tế ở chốn Thiên-Thai/Nước Trời rồi, giờ đây mời bạn và mời tôi, ta đi vào vườn hoa văn-nghệ có những câu hát không xa vời thực-tế như câu ca do nghệ-sĩ trích ở trên cứ hát đi hát lại mãi rằng:

“Nhìn trong đôi mắt đẹp, lòng chợt vui như say;
kìa đường lên Thiên Thai, kìa đường lên Thiên Thai
Ấy đường qua ngõ mắt thơ ngây, tiếng nhạc êm lẫn tiếng thơ say,
Đưa hồn anh lạc vào tận tim ai.”

(Hoàng Nguyên/Hồ Hoàng Phương – bđd)

Hát thế rồi, hẳn bạn và tôi, ta đã tìm ra con đường lên Thên-Thai nay cứ sống sự thật cuộc đời, với đời và trong đời, giữa mọi người.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ sống một đời rất thực;

Nhưng ít khi hỏi người, hỏi mình

tự bao giờ.

Em còn nhỏ làm sao mà biết được

“Em còn nhỏ làm sao mà biết được”

Áo cơm hành bủn rủn thiên tài.”

(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mai Tá, lược dịch

Áo cơm hành bủn rủn thiên tài, vẫn là Tình Yêu tuyệt vời, Lời Chúa phán. Áo cơm ấy, Tình-Yêu này, lại vẫn được diễn-tả theo kiểu cung cách rất thời thượng mà bậc thánh-hiền còn viết mãi đến hôm này.

Hồi đầu thập niên bẩy mươi, một trong các ấn bản của nhà sách Readers Digest thời bấy giờ đã thuật lại sự kiện về chiếc phản lực cơ lâm nạn rơi xuống vùng núi Andes, chỉ một ít người còn sống và họ phải ăn thịt lẫn nhau để tồn tại.

Trong buổi thảo luận về khía cạnh luân lý đặt ra với hiện tượng “khác thường này, các nhà thần học đã bàn về tư thế của Giáo hội bên sau hiện tượng ‘người ăn thịt người, để sống còn’. Câu hỏi mà tác giả bài viết lúc ấy đưa ra, là: Giáo hội quan niệm thế nào về luân thường đạo lý khi gặp trường hợp ‘người ăn thịt người’?

Dù có ai đưa ra luận cứ vững chắc nào để bênh vực cho tục ‘ăn thịt người để sống sốt’, thì cảnh tượng đứng đứng ngồi ngồi gắp từng miếng thịt của người đồng hành, đưa lên miệng, cũng đủ khiến ta lợm giọng, rất ghê tởm. Cũng như vậy, khi ta rước Mình Máu Cha, người ngoài Đạo có thể nghĩ và gán cho ta mũ chụp là “tội đồ, mọi rợ chuyên ăn thịt người khác”. Tức, tội đồ đi Đạo dám ăn cả thịt và uống cả máu Đức Chúa của mình.

Có lẽ, người ngoài Đạo cũng cho rằng: ta còn mừng kính việc ăn Mình và Máu Đức Giê-su, là ta còn mang tiếng trở thành kẻ ‘ăn thịt người’. Truyền thống Giáo hội xưa nay vẫn luôn thận trọng khi sử dụng ngôn từ chỉ việc Đức Giê-su hiện diện nơi Thánh Thể.

Dẫu có thế nào đi nữa, dứt khoát ta vẫn không phải là ‘kẻ ăn thịt người’. Trăm ngàn lần như thế. Bởi, có bao giờ ta ăn tim gan, phèo phổi hoặc xương, óc của Đức Chúa, bao giờ đâu. Giáo lý trong Đạo, tuy đề cập đến sự hiện diện đích thực, bằng xương bằng thịt, của Đức Chúa nơi Thánh Thể, rất thật.

Nhưng, ta có qui về Đức Giêsu đâu! Tín lý trong Đạo chỉ nói về Đức Kitô, Đấng đã hiến trọn con người của Ngài cho ta. Điều ấy có thật. Nhưng, Ngài muốn ta ăn thịt Ngài như cơm bánh hằng sống, thức ăn miên trường chủ yếu tháp nhập con người của ta vào với bản thể của Ngài. Hiển nhiên là như thế.

Ở đây, sự phân biệt danh phận và tên gọi của Đức Chúa là điều rất cần. Thánh Thể là Bí tích thánh thiêng về mầu nhiệm Phục sinh. Khi cử hành Tiệc Thánh Thể, ta vinh danh Đức Kitô đã sống lại, và hiện Ngài đang thực sự có mặt với ta, ở trong ta. Đây là sự có mặt trọn vẹn dưới dạng thức bánh và rượu. Hai chất thể phàm tục đã trở thành Mình thánh và Máu thánh của Ngài trong buổi Tiệc của Lòng Mến.

Truyền thống đạo giáo vẫn công khai tuyên xưng đặc tính chất loại của Mình Thánh. Như thế, không có nghĩa là đã giúp ta suy tư đầy cảm tính. Là Công giáo, ta tin Đức Kitô được Đức Chúa cất nhắc khỏi sự chết và Ngài đã sống lại thật và đang thực sự hiện diện với ta, bằng xương bằng thịt, ở đây, trong Tiệc Lòng Mến này.

Thế còn, vấn đề ý nghĩa ‘quà tặng’ của Thánh Thể, thì sao?

Nói cụ thể, chương 6 Tin Mừng thánh Gioan là thiên nghị luận bàn nhiều về Thánh Thể. Đằng khác, cũng trong chương này, thiên nghị luận của thánh sử là để đề cao sự thống khổ, cái chết của Đức Giê-su và sứ mạng của ta biết noi theo con đường Ngài đã đi.

Đức Giêsu, trong cương vị một Môsê mới, không chỉ ban tặng cơm bánh hằng sống cho con người, mà thôi. Ngài còn trao ban chính Thân mình của Ngài, qua sự thống khổ, cái chết và sự sống lại vinh hiển, nữa. Chính vì lý do này, Hội thánh Cha vẫn nối kết sự kiện Vượt Qua với việc cử hành Tiệc Thánh Thể. Đây là Tiệc của Lòng Mến, nơi đó ta ăn mừng và tôn kính Thân Mình rất thánh của Đức Chúa.

Vấn đề đặt thêm hôm nay, là: tại sao ta lại được trao ban cho quà tặng có một không hai ấy? Tiệc Thân Mình rất thánh của Đức Chúa không mang dáng dấp của một lễ hội dành cho một nhóm người nào đó, rất ưu đãi. Đây cũng không phải là việc sùng kính riêng tư, rất trầm buốn. Đây chẳng có nghĩa của một thứ gì đó nhằm đảm bảo cho ta ơn cứu rỗi riêng lẻ, của từng người.

Tiệc Thánh Thể mang ý nghĩa đích thực là ở chỗ: tiệc ta nhận lãnh Thân Mình Đức Chúa để bổ sức giúp cho kẻ tin vào Đức Kitô biết dấn bước ra đi, theo con đường khổ hạnh của Ngài. Ra đi, để biến đổi thế giới đương đại. Ra đi, luôn mang theo tình thương yêu dâng trào và sự công chính Chúa ban, vì Đức Kitô, nhân Danh Đức Kitô, cho Đức Kitô.

Hội thánh, người của Đức Chúa, vẫn luôn nối kết những gì ta sẽ hành động sau tiệc Thánh Thể với những gì ta cử hành việc ăn uống trong buổi Tiệc mừng. Điều này có nghĩa, là: người dự tiệc sẽ hối hả ra đi chăm lo nuôi sống những người đang đói thức ăn. Đang thiếu nước uống, trên thế giới.

Điều này còn có nghĩa: đa số chúng ta quyết giúp đỡ các người anh người chị khác, những nhóm người vẫn thực hiện công tác thiện nguyện, rất âm thầm. Điều này cũng có nghĩa, là: khi nghĩ đến các ứng viên ta sẽ bầu làm lãnh đạo hay thủ trưởng, ta buộc họ phải bận tâm lo toan cho nhiều người đau khổ, phiền muộn tại xứ sở, địa phương, và cả ở xã hội.

Trước đây, cố bề trên tổng quyền Dòng Tên, linh mục Pedro Arupe đã có lần bộc bạch rằng: Bao lâu, ở đâu đó trên thế giới, còn có người đói thức ăn, thèm khát nước uống, thì việc cử hành tiệc Thánh Thể của ta ở bất cứ nơi nào trên quả đất này, vẫn như còn thiếu thứ gì đó, theo một cách nào đó. Bởi, đôi lúc, ta vẫn cứ ảo tưởng cho rằng: Tiệc Thánh Thể có phép mầu thần thông của một ảo thuật gia, biến đổi được tất cả.

Đấy cũng là điểm nhấn mà Giê-su Đức Chúa đặt nặng trong Tin Mừng hôm nay, khi quả quyết: Ngài tặng ban Thân Mình Ngài cho sự sống của thế giới, đang tồn tại. Tiệc Thánh không biến ta thành những tay “tội đồ” ăn thịt người. Dứt khoát, không phải thế. Ngàn lần không là như thế. Tiệc Thánh còn có nghĩa thực tế, là: biến ta trở nên triệt để hơn. Triệt để, trong quyết tâm tiếp tục hiên ngang tồn tại làm con dân của Đức Chúa khắp nơi, trên địa cầu này.

Trong cảm-nghiệm tình thương-yêu rất như thế, ta lại sẽ ngâm tiếp lời thơ, rằng:

“Em còn nhỏ làm sao mà biết được,

Áo cơm hành bủn rủn thiên-tài.

Học thói người xưa ta cạo đầu bán tóc,

Chưa đủ tặng em nửa chiếc áo dài.”

(Nguyễn Tất Nhiên – Vài Đoạn Viết Ở Đinh Tiên Hoàng)

Cuối cùng thì, có cạo đầu bán tóc nhiều chăng nữa, cũng chỉ để chứng-tỏ tình thương yêu anh tặng cho em, cho mọi người. Cả một đời.

Lm Richard Leonard sj biên soạn –

Mai Tá, lược dịch

Tin Mừng (Ga 6: 51-58)

Khi ấy, Đức Giêsu nói với người Do Thái rằng: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”

Người Do-thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” Đức Giêsu nói với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”

Tôi lên tiếng để bảo vệ đất nước tôi và thực thi quyền làm chủ của tôi!

Tôi lên tiếng để bảo vệ đất nước tôi và thực thi quyền làm chủ của tôi!

FB Xuân Sơn Võ

07-08-2015

Cách đây 15 năm, khi đang học ở Mỹ, tôi ở nhà của GS Yeung. Bố mẹ vợ của GS Yeung thường chở tôi đi chơi. Tôi hết sức ngạc nhiên khi đi hoài trên những con đường cao tốc mà không thấy trạm thu phí nào. Khi tôi hỏi về điều đó, ông bố vợ GS Yeung nói: chúng tôi đóng thuế, chính phủ phải có trách nhiệm xây dựng đường sá.

Một lần, GS Yeung đi công tác vắng 1 tuần. Tôi xin ông cho tôi vào bệnh viện ở. Bệnh viện của GS Yeung là bệnh viện trong ngày, không có phòng lưu bệnh. Tối tối, không còn ai ở đó, bệnh viện lại không có hàng rào. Mọi người hướng dẫn tôi cách sử dụng hệ thống an ninh, và đặc biệt, hướng dẫn tôi cách gọi cảnh sát khi có trường hợp khẩn cấp.

Họ bắt tôi thực tập, và đặt giả thiết là cảnh sát sẽ đến sau 5 phút, họ hướng dẫn tôi phải làm gì trong 5 phút ấy. Tôi hỏi lại: vậy lỡ họ không đến thì sao, lỡ sau 1 giờ họ mới đến thì sao? Tôi nhớ mãi câu trả lời của một nhân viên của GS Yeung: Họ ăn lương từ tiền thuế của chúng tôi, họ phải có mặt khi chúng tôi cần họ. Nếu họ không đến, nếu họ chậm trễ, chúng tôi sẽ kiện họ.

Sinh ra và lớn lên trong một chế độ mà tôi luôn được dậy, tôi chính là người chủ của đất nước. Tôi nhận thức rằng, đất nước này như một ngôi nhà. Đảng, Chính phủ là cha, là mẹ. Bổn phận làm con, tôi luôn phải biết ơn Đảng, ơn Chính phủ khi mình vẫn còn tồn tại, khi mình có cơm ăn, áo mặc, khi mình biết đọc chữ… Câu nói “ơn Đảng, ơn Chính phủ” là câu cửa miệng của nhiều người. Bổn phận làm con, tôi không được phán xét cha mẹ. “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung, phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu”.

Tương tự vậy, cái gì xấu xa, cái gì gây thiệt hại, đích thị đó là tàn dư của phong kiến, thực dân, sau này là đế quốc, phản động, và gần đây là các thế lực thù địch, là diễn tiến hòa bình… Khái niệm làm chủ đất nước dần được hiểu theo nghĩa đóng thuế, đóng phí, đóng tiền lao động công ích, đóng góp cái gì bảo đóng, họp tổ dân phố là luôn phải đồng ý, tới ngày lễ là phải treo cờ, đến ngày bầu cử, cán bộ phường gọi là phải đi bầu sớm, cán bộ gợi ý bầu cho ai thì bầu cho người đó, chủ trương chính sách đưa ra thì phải nhiệt liệt hưởng ứng… Nếu khác đi, nếu nghi ngờ, lăn tăn thì không phải là làm chủ.

Và, cái tinh thần làm chủ đất nước ấy dậy tôi rằng, ngân sách là tiền của Đảng, của Nhà nước. Lãnh đạo sử dụng tiền đó để xây dựng và bảo vệ đất nước này. Đừng nghi ngờ, đừng thắc mắc, đừng hỏi tại sao. Đó không phải là việc của tôi. Việc của tôi là đọc những gì lãnh đạo cho đọc, nói những những gì lãnh đạo cho nói, làm những gì lãnh đạo bảo làm, hi sinh cho lí tưởng mà lãnh đạo ca ngợi.

Trở lại câu chuyện tôi đi học ở Mỹ. Với tôi khi ấy, chuyện kiện cảnh sát, chuyện nói các quan chức phải làm thế này thế khác, rồi tiền ngân sách là tiền đóng thuế của người dân… là những tư tưởng rất phản động.

Nhưng rồi, tôi để ý, cứ mỗi khi các quan chức của chúng ta lên TV, nói rằng dứt khoát không có chuyện tăng giá, là y như rằng giá sẽ tăng ngay sau đó, khi họ nói, rằng không có tham nhũng, là y như rằng bao nhiêu tiền, tài sản bị mất… Dần dần, cứ như là qui luật, khi lãnh đạo khẳng định điều gì, thì sự thật ngược lại, khi lãnh đạo phủ nhận chuyện gì, chuyện đó đúng. Do vậy, tôi không thể không đặt câu hỏi.

Thì ra, đất nước này thực sự là của tôi, của những người dân như tôi, nó không thể là của riêng ai cả. Ngoài cha mẹ đẻ ra tôi, chẳng có ai khác làm cho tôi tồn tại trên cõi đời này. Để cho tôi có thể kiếm cái ăn, cái mặc, người đầu tiên giúp tôi là cha mẹ tôi, sau đó là thầy cô tôi, các đàn anh, đàn chị, các đồng nghiệp. Tôi cần biết ơn những người đó, chứ không phải ơn cái gì đó xa vời vợi.

Thì ra tiền ngân sách thực sự là tiền của tôi, của đồng bào tôi đóng góp vào. Đồng tiền ấy phải phục vụ cho lợi ích của tôi, của đồng bào tôi. Mọi hành động nhắm chiếm riêng những đồng tiền đó đều là ăn cắp, ăn cướp tiền của tôi và đồng bào tôi. Những kẻ ăn cắp, ăn cướp ấy phải bị vạch mặt và trừng trị.

Rồi tôi nhận thức được rằng, nếu tôi cứ im lặng, nếu tôi không cùng mọi người lên tiếng chống lại bọn ăn cắp, bọn đục khoét, có nghĩa là tôi góp phần đưa đất nước này đến sự diệt vong. Nếu tôi không chống lại cái xấu, có nghĩa là tôi nuôi dưỡng cái xấu.

Khi nhận thức được như vậy, tôi lên tiếng. Tôi lên tiếng để bảo vệ đất nước tôi, để thực thi quyền làm chủ đất nước của tôi. Nhưng một số kẻ bảo rằng, tôi phản động.

Ai mới là người yêu nước, và ai là kẻ phản động?

Thăm dò dư luận: Chỉ có Việt Nam ưa Putin

Thăm dò dư luận: Chỉ có Việt Nam ưa Putin

Nguoi-viet.com

WASHINGTON (NV)  – Một tổ chức thăm dò dư luận đưa ra kết quả cho thấy chỉ còn có người Việt Nam là có vẻ ưa được tổng thống Nga Vladimir Putin, ngược hẳn với người dân khắp thế giới.

Tổng Thống Vladimir Putin. (Hình: Mikhail Klimentyev/AFP/Getty Images)

Ngày Thứ Tư vừa qua, tổ chức thăm dò dư luận PEW, trụ sở tại Hoa Thịnh Đốn, công bố kết quả thăm dò dư luận qua phỏng vấn tất cả 45,435 người tại 39 quốc gia trên thế giới khắp 5 châu lục để tổng kết ý kiến mọi người về tổng thống Nga  Vladimir Putin.

Nhìn chung, kết quả không mấy ai ngạc nhiên vì ông này đang có những hành động bá quyền bành trướng, cướp một phần nước Ukraine làm các nước Đông Âu rúng động, nhớ lại thời kỳ nằm trong gông cùm đỏ. Nền kinh tế của Nga và khu vực Âu châu đang bị ảnh hưởng nặng vì các biện pháp trừng phạt hành động của Nga.

Câu hỏi được PEW đặt ra là “Quý vị tin tưởng được bao nhiêu về việc tổng thống Nga Putin hành động đúng trong các vấn đề quốc tế?”

Theo kết quả thăm dò của PEW, nếu kể điểm trung bình thì câu trả lời tốt cho ông Putin là 24%, tức là khá thấp. Đa số người dân tại nhiều nước rất không ưa cách hành xử của ông Putin. Nước ghét nhất là Tây Ban Nha chỉ có 6%. Dân Ba Lan từng bị Nga cắm đầu chính trị dưới thời Cộng Sản ở Đông Âu chỉ có 9% trả lời thuận lợi cho ông.

Chỉ có người dân Nga với 88% là tin ông Putin đúng. Bên cạnh đó, tới 70% người Việt Nam cũng nghĩ như vậy trong khi nước có tỉ lệ cao thứ ba là Trung Quốc với 54%. Còn lại, vài nước có tỉ lệ dưới 50% và đa số dưới 30% hay thấp hơn.

Bị Tây phương cô lập, Matxcơva tìm đến các đồng minh cũ. Ngày 29 tháng 5, 2015, Liên Bang Nga và các nước trong Liên Hiệp Kinh tế Á-Âu ký một hiệp ước trao đổi mậu dịch tự do với Việt Nam trong bối cảnh quan hệ căng thẳng giữa Nga với Tây phương.

Vốn là một chư hầu cũ của Nga Xô, có rất nhiều người được gửi sang Nga du học về đủ mọi ngành. Võ khí các ngành của Việt Nam phần lớn do Nga cung cấp từ máy bay, tàu chiến đến trang bị bộ binh.

Trong bản thăm dò dư luận của PEW,  cũng đáng để ý là sự nhìn nhận tích cực của người Mỹ về Nga cũng giảm đi đáng kể. Trong khi năm 2011 có 49% người Mỹ tỏ thái độ thiện cảm với điện Kremlin, thì con số này đã giảm xuống chỉ còn 22% trong thăm dò mới nhất.

Ngược lại, niềm tin của người Nga đối với Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama cũng xuống thấp kỷ lục. Chỉ có 11% người Nga tin ông Obama đã giải quyết đúng đắn các vấn đề thế giới. Người tiền nhiệm của ông là Tổng thống George W. Bush cũng chịu số phận tương tự với chỉ 8%.

Hồi cuối năm ngoái, PEW đưa ra kết quả cuộc nghiên cứu về các vấn đề kinh tế tại gần 45 quốc gia cho thấy Việt Nam là một trong những quốc gia “mê” tư bản nhất trên thế giới, với 95% người Việt trong nước yêu chuộng chủ nghĩa tư bản.

Không một nước nào trong số các quốc gia được khảo sát vượt quá tỷ lệ 90%. Ngay cả Hoa Kỳ, nơi khái niệm xã hội chủ nghĩa có thể được dùng như một sự sỉ nhục, chỉ 70% số người được hỏi đồng ý rằng kinh tế thị trường tự do là mô hình kinh tế tốt nhất. (TN)

HOANG ĐỊA – THAO TRƯỜNG CỦA NHÂN ĐỨC

HOANG ĐỊA – THAO TRƯỜNG CỦA NHÂN ĐỨC

Quân Trần, SJ

Có một lần được đến, sống và làm việc tại một nhà tĩnh tâm ngay giữa sa mạc của nhà Dòng trong suốt mùa hè, tôi chợt nhận ra một thói quen vô thức của mình: cứ tìm đến một góc vắng vẻ nhất và ngồi đó trong thinh lặng.  Nhiều khi tôi dùng thời gian ấy như là một giờ tâm sự với Chúa, nhưng cũng lắm khi chỉ để hồn phiêu lãng với những chùm tư tưởng khác nhau.  Điểm lạ là nơi tôi đến chẳng có dáng của hoa thơm, cũng không có bóng của cỏ lạ.  Có chăng chỉ là cái nắng chói chang chiếu rọi trên những gốc xương rồng cằn cỗi.  May lắm thì được yên vị trong một căn chòi nho nhỏ đủ làm dịu đi đôi chút cái gay gắt của trưa hè.  Ấy vậy mà cứ ngày này qua tháng nọ, nó dường như trở thành một chốn rất đỗi thân quen.  Và muôn lần như một, câu nói trong sách Luca cứ vọng về: “Đức Giêsu thường lui vào một nơi hoang vắng mà cầu nguyện” (Luca 5:16).  Ừ nhỉ, có gì hấp dẫn hay lãng mạn nơi hoang địa cơ chứ?  Nhìn quanh nhìn quất chỉ toàn một màu của cỏ úa, ban ngày thì nóng cháy thịt da, về đêm thì lạnh buốt tận xương tuỷ.  Người đã tìm gì trong hoang địa?  Thế đó tôi bắt đầu một cuộc tìm tòi.

Hoang địa, nơi tôi luyện đức khiên nhường.  Một ngày lang thang qua khắp nẻo đường.  Một ngày rộng tay với muôn vàn ân phúc.  Thành công có, thất bại có.  Giữa sự ồn ào của lời khen tiếng chê, thật khó mà nhận ra tiếng nói âm thầm của con tạo, của trái tim.  Đi hay ở, làm hay không, có dễ đâu mà nhận định ý Ngài?  Ấy là chưa kể cái êm đềm của đời thường sẽ làm lòng người mau quên và đôi chân chợt mỏi, chỉ muốn dừng lại bám rễ, chỉ muốn hài lòng với một chút vinh vang mờ nhạt.  Vào hoang địa thôi!  Bởi nơi ấy sẽ chẳng vang vọng những lời khen tiếng chê, sẽ chẳng bị âm thanh hỗn tạp của cuộc sống bao phủ.  Nơi ấy, thành công sẽ chẳng có cơ hội tạo hào quang và thất bại sẽ không còn cơ may làm nên những làn mây ảm đạm.  Tất cả chỉ là hư vô, là trống rỗng.  Trong im lặng tuyệt đối đó, liệu có cần không cho bao vất vả hầu đạt được những hứa hẹn hão huyền?  Khi trước mặt ta, sau lưng ta, bên phải, bên trái, bên trên, và bên dưới ta chẳng còn ai khác hơn là chính mình, trốn đâu cho được.  Mà khổ nỗi khi phải đối diện với chính mình, ta mới nhận ra được một sự thật phũ phàng nhất: ta chỉ là hư vô trước mặt Chúa.  Ta chỉ là một công cụ không hơn không kém.  Những tràng pháo tay không dứt hay những lời rủa xả lê thê của hôm qua không nói lên được con người thật của ta.  Rồi ta chợt thấu hiểu lời mời gọi tuyệt vời của hoang địa: hãy trở nên khiêm hạ; hãy nhận ra nguồn gốc của mọi sự vốn chẳng xuất phát hoặc chấm dứt nơi ta.  Có lẽ vì thế mà Đức Giêsu mê không khí của sa mạc.  Quả vậy, nơi đó đã nhắc nhở Ngài một sứ vụ to lớn hơn: tất cả vì sự cả sáng của Danh Cha.

Hoang địa, nơi hình thành và nung nấu niềm tin.  Dẫu nắng có gay gắt cỡ nào đi nữa thì từng khóm xương rồng vẫn còn đó.  Dẫu muôn vàn ngọn cỏ có nhuốm màu của lá úa, thì bên dưới vẫn hàm chứa cái khao khát của mầm sống, của ý chí muốn tồn tại.  Có ai đi giữa sa mạc mênh mông mà lòng không thèm khát một vạt nước vọt lên từ giữa những dải cát vô tình?  Hẳn ta còn nhớ một đoạn của Thánh Vịnh: “Người xẻ đá giữa sa mạc hoang vu, khiến nước tuôn tràn cho dân được uống” (TV 78:15).  Có ai vật vờ giữa cơn lạnh cắt da của trời đêm mà không mong muốn một ánh lửa bập bùng sưởi ấm?  Cái khao khát được uống nước của ân sủng, được sưởi ấm với tình yêu sẽ trổi mạnh hơn bao giờ khi ta đi vào sa mạc của tâm hồn.  Và đằng sau cõi thinh không, đằng sau sự đối đầu với những giới hạn của bản thân, lòng ta chợt bừng lên một niềm tin, một thao thức, một ước muốn theo Ngài.  Ta biết ta đã không lẻ loi.  Ta tin Ngài đang cùng ta dấn bước.  Và niềm tin ấy được nung nấu qua bao thử thách của trời trưa và bao cô quạnh của đêm dài.  Nếu không bước vào hoang địa, nếu lòng vẫn bị phủ tràn với muôn ngàn tín hiệu, thì e rằng cơ hội để hình thành và tôi luyện đức tin sẽ bị nhiễu đi.  Ra vậy, Đức Kitô đã rất có lý khi tìm đến nơi hoang vắng.

Hoang địa, nơi hun đúc lòng trông cậy.  Nhiều hôm ngồi tư lự ở góc vắng của nhà tĩnh tâm, tôi chợt thấy áo mình đẫm ướt mồ hôi.  Nắng và nóng quá đỗi.  Những cơn gió nhẹ thoảng qua bỗng nhiên trở thành một món quà quý giá.  Thoảng hoặc một vài giọt nước của một cơn mưa hiếm hoi biến thành báu vật.  Gió và mưa tuy hiếm nhưng vẫn đến đấy thôi.  Thiết nghĩ người lữ khách giữa hoang địa không vì sự hiếm hoi của chúng mà trở nên thất vọng.  Rất có thể họ còn đón nhận chúng cách trân quý hơn, tri ân hơn.  Cũng vậy, khi gặp gỡ nội tâm và Thiên Chúa giữa sa mạc khô cằn, lòng người lữ thứ luôn nung nấu những khát khao.  Chúng giống như quân canh mong chờ hừng đông đến hoặc như cái đấu ao ước được đong đầy, được lèn chặt.  Rồi hồn họ chợt vút cao ngong ngóng chờ trông con tạo.  Cái ‘kết hiệp’ tưởng như rất thường đã trở nên linh thánh hơn bao giờ.  Phải chăng Đức Kitô vào hoang địa ngày nào để nuôi dưỡng lòng trông cậy tuyệt đối vào Đấng mà Ngài hằng tuân phục tin yêu?

Hoang địa, chốn xuất phát của tình yêu, của hiến mình.  Lúc thanh vắng là lúc ta có thể đối thoại với chính mình.  Quả thế, khi thành công không là áp lực và thất bại chẳng là điều làm ta bận tâm, thì đấy là lúc ta trở nên chân thành nhất.  Ta sẽ tự hỏi chính mình xem ta có muốn tái đầu tư cho những gì ta đang đeo đuổi?  Ta sẽ tự vấn lương tâm xem hồn ta có thanh thản, tim ta có khao khát, có muốn tiếp tục yêu và sẵn sàng xả thân vì tình yêu?  Câu trả lời vào giây phút đó sẽ không mang hơi hướm của những lời chúc tụng bề ngoài hoặc những sợ hãi của bao thất bại ngập tràn.  Trong thinh lặng ta có cơ hội nhìn lại và chọn lựa cách kỹ lưỡng, để rồi khi trở về đời thường ta có một lời đáp rõ ràng hơn, mạch lạc hơn.  Hẳn ta còn nhớ, ta chỉ là một loài thụ tạo rất tầm thường.  Tình yêu ta dành cho nhau không phải lúc nào cũng ướm đượm hương thơm.  Trái lại, cũng có những phút giây ta ngậm phải những trái đắng và lòng ta thoáng xôn xao.  Thế nên lâu lâu có cơ hội nghiềm ngẫm về mối tình ta dành cho nhau cũng là một điều kỳ thú.  Đức Giêsu khi xưa đã yêu và yêu thật nhiều.  Nhưng tình yêu ‘nhân tính’ của Ngài không phải không gặp nhiều thử thách.  Và để đáp trả lời mời gọi tiếp tục yêu, để tìm lại cái đơn sơ, tinh tuyền và chân chất của con tim, hơn một lần Ngài đã vào hoang địa để suy nghĩ, để nguyện cầu.  Cũng chính qua những phút giây thần thánh đó, Ngài đã lựa chọn con đường yêu thương một cách tự do và mãnh liệt.  Bởi từ đáy thẳm tâm hồn, Ngài hiểu rõ Giêsu sẽ không còn là Giêsu nếu nơi Ngài thiếu vắng sự cho đi của trái tim.  Ngài đi vào sa mạc để rồi khi trở về lòng Ngài lại chân chất những ước mơ và thân xác Ngài lại một lần biến thành của lễ.

Hoang địa, nơi ẩn náu một kho tàng vô tận.  Bất chấp nắng hay mưa, nóng hay lạnh, từng đàn ong mật cứ vần vũ quanh đám cỏ hoang.  Những cánh chuồn, cánh bướm vẫn ưỡn lượn nhịp nhàng.  Về đêm tiếng dế rả rích tỉ tê như một điệu luân vũ tuyệt vời.  Cha giám đốc nhà tĩnh tâm cho biết bên dưới sự khô cằn của hoang địa lại là một cõi mênh mông trù phú của nguồn nước dồi dào cho bao thế hệ. Những làn nước mát trong mà tôi cùng bao người thao luyện viên tận hưởng đến từ một mạch ngầm quý giá.  Từng ngụm từng ngụm đi vào lòng mát lạnh.  Chưa bao giờ tôi lại quý nước hơn những ngày này.  Hỏi liệu có khi nào nguồn nước ấy vơi đi, cha cho biết có thể lắm, nhưng đã có bao chục ngàn con người dừng chân và nhà tĩnh tâm này đã đi vào năm hoạt động thứ 50 mà chưa ai phải vất vả kiếm tìm một nguồn nước mới.  Còn nữa cứ mải mê với cõi riêng của mình, hơn một lần tôi thấy bóng dáng của những chú nai tơ tuyệt đẹp, hay vẻ dềng dàng của mẹ con gấu đen hóm hỉnh, hoặc cái giả dạng tuyệt tác của các nàng rắn đất.  Chúng luẩn quẩn quanh tôi, chợt dừng lại ngõ sững rồi lại lững thững bước đi cứ như thể thế giới này lớn đủ, rộng đủ và hòa bình đủ cho mọi loài.  Xem ra cõi hoang vu đã dạy cho tôi những bài học mà chưa trường lớp nào từng dạy.  Nó cho tôi thấy một thế giới thật mà Thiên Chúa muốn tạo nên: một loại thế giới yêu thương nhau, chấp nhận lẫn nhau, vui vẻ chung sống và chia cho nhau những gì có thể.  Thế nên khi đi vào sa mạc của tâm hồn, tôi thấy lòng mình bừng lên những ước mơ.  Bởi bên dưới cái tưởng chừng khô cằn và nặng nề nhất lại là nơi tôi học hỏi nhiều nhất.  Có lẽ Đức Giêsu cũng có một tâm trạng giống tôi khi Ngài tìm vào nơi hoang vắng.

Nhà tĩnh tâm này, đã có bao con người đến rồi đi, đã có bao trái tim trở về, và đã có bao tâm hồn biến đổi.  Nếu nói đó là do công của các Cha linh hướng của trung tâm cũng chưa hẳn sai.  Nhưng sẽ không hoàn thiện khi ta không nhắc đến bối cảnh tuyệt vời của hoang địa, nơi mà mỗi thao luyện viên có dịp sống và lắng nghe tiếng thầm thì của tạo hoá qua những giây phút trầm mặc linh thánh.  Để rồi khi trở về với thế giới vội vã, họ biết đâu là con đường mà Thiên Chúa muốn họ đi, họ hiểu ý nghĩa của những vui buồn sướng khổ trong cuộc sống.  Họ đã được Thiên Chúa, qua thinh lặng của hoang địa biến đổi.  Họ không còn là họ của hôm qua, nhưng là của những lớp người mãi bước tới theo tiếng gọi của tình yêu.  Sa mạc cũng có lắm loại nhiều thứ.  Có loại là một thứ sa mạc nóng bỏng như tôi đã sống và làm việc trong mùa hè qua.  Nhưng cũng có thứ sa mạc lặng lẽ hơn, tinh tế hơn: thứ sa mạc của tâm hồn.  Thế nhưng dẫu ở đâu hay loại nào, chúng cũng đều là thao trường tuyệt vời cho bao nhân đức.

Bạn mến, có bao giờ bạn tìm đến với sa mạc nội tâm?  Có bao giờ bạn bắt chước Đức Giêsu dành một phần trong ngày để vào nơi hoang vắng?  Có bao giờ bạn ước ao được lớn dậy trong tình yêu và đời mình được nuôi dưỡng với bao nhân đức?  Nếu có thì đừng ngại đi vào hoang địa bạn nhé.  Vào đi, đừng sợ.  Chắc chắn khi vào rồi, bạn sẽ phát hiện ra nhiều điều mới lạ.  Khi ấy thói quen tìm nơi vắng vẻ mà tâm sự với Thượng Đế và trở về với lòng mình sẽ không bao giờ rời xa bạn nữa.  Và như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong, hồn bạn cũng sẽ trông mong được gần Chúa và tha nhân hơn bao giờ.

Quân Trần, SJ

http://www.donghanh.or

Cả hai “đồng chí, anh em” đóng kịch với nhau

Cả hai “đồng chí, anh em” đóng kịch với nhau

GS Nguyễn Văn Tuấn

Thỉnh thoảng tôi tự hỏi chính giới Tàu nghĩ gì về đồng nghiệp họ ở Việt Nam. Dù biết rằng qua báo chí chúng ta có thể hiểu là họ không đánh giá cao, nhưng tôi vẫn muốn biết xem họ nghĩ gì. Tình cờ đọc được một đoạn văn được xem là “tối mật” của Mao Trạch Đông viết về Việt Nam làm tôi suy nghĩ về mối quan hệ Việt – Tàu hết sức thú vị. Tôi nghĩ bất cứ ai đang phấn đấu làm bạn với Tàu cộng có lẽ phải ngượng ngùng khi đọc câu của họ Mao.

Họ Mao nói “Nước ta và nhân dân Việt Nam có mối hận thù dân tộc hàng nghìn năm nay. Chúng ta không được coi họ là đồng chí chân chính của mình, đem tất cả vốn liếng của ta trao cho họ.Ngược lại chúng ta phải tìm mọi cách làm cho nước họ ở trong tình trạng không mạnh, không yếu mới có thể buộc họ ở trong tình trạng hiện nay. Về bề ngoài chúng ta đối xử với họ như đồng chí của mình, nhưng trên tinh thần ta phải chuẩn bị họ trở thành kẻ thù của chúng ta.” Đọan văn đó được trích từ văn kiện “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua” của Bộ Ngoại giao Việt Nam, và được công bố 4/10/1979 (1).

Có lẽ những ai từng theo dõi Tàu không ngạc nhiên về câu nói trên, vì trong cái nhìn của giới chính khách Tàu, Việt Nam là một kẻ phản bội, không thể tin tưởng. Trước khi phát động chiến tranh chống VN, Đặng Tiểu Bình tuyên bố với báo chí quốc tế rằng “Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học”. Thật hiếm thấy một nguyên thủ quốc gia nào mà ăn nói du côn như Đặng, nhưng rất có thể y quá giận nên không kiềm chế được ngôn ngữ trước phóng viên quốc tế. (Trớ trêu một điều là tên này vẫn còn được khá nhiều người VN hâm mộ và thần tượng.)

Ngay cả thường dân Tàu dường như cũng không có thiện cảm với VN. Báo chí Tàu (nhất là tờ Hoàn cầu Thời báo) ra rả chửi Việt Nam, và đòi gây chiến tranh chống Việt Nam. Trước đây, trong một cuộc thăm dò ý kiến người dân Tàu bên China, kết quả cho thấy phần lớn dân Tàu nghĩ người Việt là phản bội, xảo quyệt, không đáng tin cậy. Trong cái nhìn của họ, Tàu là đại ân nhân của VN, vì Tàu từng giúp Bắc VN đánh Tây, đánh Mĩ. Chưa nói giúp vì động cơ gì, nhưng đó là cái nhìn của họ. Họ cũng nghĩ rằng khi thành công thì VN trở mặt. Họ lấy thái độ của ông Lê Duẩn là một ca tiêu biểu. Trước kia, khi cần vũ khí và tiền bạc của Tàu, thì ông Duẩn tỏ ra thân Tàu; đến khi thấy Liên Xô khá hơn, thì lại chạy theo Liên Xô và quay sang chửi Tàu thậm tệ. Có tài liệu còn cho thấy ông chửi thẳng vào mặt Mao (mà nhiều người xem là dũng cảm, nhưng tôi thì nghĩ thái độ đó không khéo chút nào). Tài liệu trên (1) được công bố dưới thời ông Duẩn. Nhìn như thế thì rõ ràng người Tàu có lí do để ghét Việt Nam.

Ngày nay thì lịch sử có vẻ tái lập. Chỉ cách đây vài tháng, trước ngày kỉ niệm cuộc chiến 1979, một lãnh đạo của đảng CSVN đã tuyên bố rằng VN vẫn chung thủy với Tàu trong cái “truyền thống đoàn kết quốc tế thủy chung” (2). Rồi mới đây nhất là một phát ngôn trung thành khác từ một tướng lãnh VN: “Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng thân thiện và điều đó không bao giờ thay đổi. Nhiều thế hệ đã qua, nhân dân hai nước đã thiết lập và duy trì mối quan hệ, cùng tồn tại, hình thành rất nhiều điểm tương đồng về văn hóa” (3).

Đặt quan điểm chung thuỷ này với nhận định “Chúng ta không được coi họ là đồng chí chân chính của mình, đem tất cả vốn liếng của ta trao cho họ … Về bề ngoài chúng ta đối xử với họ như đồng chí của mình, nhưng trên tinh thần ta phải chuẩn bị họ trở thành kẻ thù của chúng ta” trên đây, ai cũng có thể thấy có gì đó không “add up” (nói theo tiếng Anh), hay không ăn khớp. Câu nói của Mao còn sờ sờ ra đó, ngay trên báo chí “chính thống”. Câu nói của Đặng Tiểu Bình cũng còn đó trên giấy trắng mực đen. Những câu nói xách mé và xấc xược của các tướng lãnh Tàu cộng và bỉnh bút của Hoàn cầu Thời báo vẫn còn lưu lại đó. Trước những lời nói xấc xược và khinh bỉ của Tàu như thế mà những người ở vị trí lãnh đạo quốc gia lại thề thốt “thuỷ chung” với họ! Thật không thể nào hiểu nổi.

Chỉ có một cách giải thích là cả hai phía, Tàu và Việt Nam, đều đóng kịch. Chẳng ai tin ai cả, Tàu chẳng bao giờ tin Việt Nam, và Việt Nam lúc nào cũng nghi ngờ Tàu. Những ngôn từ hoa mĩ là chỉ nói cho có, chứ trong thâm tâm thì người nói nghĩ ngược lại. Thật ra, đó cũng chính là tình nghĩa đồng chí của những người cộng sản, ngay cả trong cùng một nước và cùng cộng đồng dân tộc. Bề ngoài thì cười cười, tay bắt, tay ôm, hôn hít (ghê ghê), nhưng trong bụng thì một bồ dao găm, muốn thanh trừng lúc nào cũng được. Đúng như Nguyễn Du từng tả: “Bề ngoài thơn thớt nói cười / Mà trong nham hiểm giết người không dao”.

___

(1) Mao Trạch Đông qua sách báo Trung Quốc ngày nay – Kỳ 43: Từ văn kiện tuyệt mật chống VN đến 600 ngày tăm tối của Mao (MTG).

(2) Tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng, tính tiên phong của Ðảng, xây dựng Ðảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh(*) (ND).

(3) Tướng Vịnh: Quan hệ hữu nghị Việt-Trung không bao giờ thay đổi (VOA/ BS).

Truyền thông dưới các chế độ độc tài

Truyền thông dưới các chế độ độc tài

Blog Nguyễn Hưng Quốc

Nguyễn Hưng Quốc

Có hai mục tiêu chính mà tất cả các chế độ độc tài và độc tài toàn trị nhắm tới là: nhồi sọ và lừa dối. Nguyên tắc ở đây là, nói theo Hitler, cứ nói dối, nói dối đi nói dối lại mãi, một cách thật giản dị, đến lúc nào đó, người ta sẽ tin là thật…

Một trong những khác biệt lớn nhất giữa dân chủ và độc tài là ở phương diện truyền thông. Nói một cách vắn tắt, khác với các chế độ dân chủ, dưới các chế độ độc tài, truyền thông có hai đặc điểm chính: độc quyền và kiểm duyệt. Mức độ độc quyền và kiểm duyệt tuỳ thuộc vào mức độ độc tài. Tất cả các chế độ độc tài đều áp dụng, dưới những hình thức khác nhau, chính sách kiểm duyệt đối với các phương tiện truyền thông đại chúng. Nhưng chỉ có các chế độ độc tài toàn trị (totalitarianism) mới áp dụng chính sách độc quyền một cách triệt để.

Việt Nam là một chế độ độc tài toàn trị như thế: Với truyền thông, họ áp dụng cả phương thức độc quyền lẫn phương thức kiểm duyệt.

Ở miền Bắc, trong những năm đầu sau Hiệp định Geneva, ngoài báo chí nhà nước còn có báo chí tư nhân. Nhờ sự tồn tại của báo chí và nhà xuất bản tư nhân ấy, phong trào Nhân Văn Giải Phẩm mới được hình thành. Nhưng khi phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bị đánh, tất cả các tờ báo và nhà xuất bản tư nhân đều bị bóp chết. Từ đó về sau, nhà nước hoàn toàn độc quyền trong lãnh vực truyền thông. Đến giữa thập niên 1980, với phong trào đổi mới, nhà nước cho phép tư nhân hoá kinh tế, nhưng cho đến tận bây giờ, họ vẫn từ khước việc tư nhân hoá báo chí và xuất bản. Tất cả các tờ báo, các đài phát thanh và truyền hình, cũng như tất cả các nhà xuất bản tại Việt Nam hiện nay đều hoàn toàn nằm trong tay nhà nước.

Độc quyền báo chí và xuất bản, giới lãnh đạo vẫn chưa an tâm. Cả báo chí lẫn xuất bản đều bị kiểm duyệt ngặt nghèo. Mọi bài báo cũng như mọi cuốn sách đều được dò xét từng câu từng chữ. Nhưng kiểm duyệt không vẫn chưa đủ. Bên cạnh việc kiểm duyệt chính thức, ở Việt Nam cũng như ở dưới mọi chế độ độc tài khác, đều có hai hình thức kiểm duyệt khác: hậu kiểm duyệt và tự kiểm duyệt. Hậu kiểm duyệt là hình thức kiểm duyệt sau khi tờ báo hay cuốn sách đã được in và được phát hành. Khi phát hiện ra một chi tiết có vấn đề về chính trị, người ta áp dụng biện pháp thu hồi ấn phẩm và trừng phạt tác giả. Ghê sợ trước những biện pháp trừng phạt như thế, hầu hết các tác giả đều tự đặt mình ở thế tự kiểm duyệt, nghĩa là tự mình cắt bỏ những chỗ gai góc, có thể bị xem như có vấn đề trong quá trình sáng tác. Trong bài “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ” viết năm 1987, nhà văn Nguyễn Minh Châu có nói đến cái thảm cảnh tự kiểm duyệt ấy: lúc nào cũng giấu giếm, cũng rào đón, cũng che chắn, vừa viết một câu trung đã phải vội vã chêm ngay vào một câu nịnh cho… an toàn dù phải trả giá bằng chính tác phẩm của mình, những tác phẩm chỉ có giá trị minh hoạ nhất thời.

Nhưng độc quyền và kiểm duyệt như vậy để làm gì?

Có hai mục tiêu chính mà tất cả các chế độ độc tài và độc tài toàn trị nhắm tới là: nhồi sọ và lừa dối. Nguyên tắc ở đây là, nói theo Hitler, cứ nói dối, nói dối đi nói dối lại mãi, một cách thật giản dị, đến lúc nào đó, người ta sẽ tin là thật. Và khi đã tin rồi thì mọi người dần dần trở thành những con chó của Ivan Pavlov: Cả tư tưởng lẫn cảm xúc, hành vi và mọi phản ứng của họ đều bị điều kiện hoá. Trong bài “Authoritarian regimes retool their media-control strategy”, Robert Orttung và Christopher Walker cho trong cái gọi là “mọi người” ở đây, có bốn đối tượng chính: Một là những thành phần “ưu tú” trong chế độ, tức các đảng viên và cán bộ các cấp trong hệ thống cầm quyền, để họ tiếp tục trung thành với chế độ. Hai là dân chúng nói chung để họ vừa kính trọng lại vừa sợ hãi, không dám chống lại chế độ. Ba là các thành phần đối lập cũng như các tổ chức dân sự: Với cả hai, hệ thống truyền thông độc quyền của nhà nước luôn luôn tìm cách bôi nhọ và cô lập, để dưới mắt dân chúng, họ hiện hình như những thế lực đen tối đe doạ đến sự ổn định và phát triển kinh tế. Bốn là với những người thường xuyên sử dụng internet, chính quyền sẽ sử dụng nhiều cách khác nhau để hoặc dựng tường lửa và/hoặc kiểm duyệt để không phải ai cũng có thể tiếp cận được với những thông tin bất lợi cho chế độ.

Tuy nhiên, ngoài mục tiêu lừa dối và nhồi sọ, bất cứ hệ thống truyền thông nào của các chế độ độc tài cũng đều nhắm tới một mục tiêu khác nữa: định hướng dư luận. Công việc định hướng này bao gồm hai khía cạnh chính: Một là “giáo hoá” và hai là làm lạc hướng.

Tạo nên những con người sùng bái một cách mê tín đối với giới lãnh đạo cũng như đảng lãnh đạo cũng là một cách “giáo hoá”. Tuy nhiên, đối với dân chúng nói chung, hình thức “giáo hoá” phổ biến nhất, nói theo Robert Orttung và Christopher Walker trong bài dẫn trên, là làm cho mọi người trở thành thụ động và vô cảm, không quan tâm đến chính trị cũng như đến số phận của đất nước nói chung: “Để duy trì quyền lực, các chế độ độc tài đều giữ đại đa số quần chúng ở ngoài chính trị.”

Một khía cạnh khác của truyền thông dưới các chế độ độc tài mà người ta dễ quên lãng là đánh lạc hướng sự quan tâm của quần chúng. Áp dụng cách thức này, khi chính quyền gặp vấn đề rắc rối, người ta bèn tung ra một sự kiện hay một tin đồn vu vơ nào đó nhằm khêu gợi sự tò mò của mọi người khiến mọi người đuổi theo sự kiện hoặc tin đồn ấy mà quên bẵng đi vấn đề chính của chính quyền.

Nhớ, cách đây mấy năm, khi kinh tế gặp khó khăn với hiện tượng nhiều đại công ty nhà nước, nổi bật nhất là tập đoàn doanh nghiệp Vinashin, bị phá sản để lại những món nợ khổng lồ, dẫn đến các cuộc tranh luận gay gắt về vấn đề trách nhiệm không những của cá nhân mà còn của các cơ quan nhà nước. Mấy tháng sau, khi không khí vẫn còn nóng hổi, các cơ quan truyền thông xúm vào loan tải tin tức về bệnh tình của “cụ” rùa ở hồ Hoàn Kiếm. Chính quyền lập “khu điều dưỡng” cho rùa. Các nhà “rùa học” ở Hà Nội liên tục lên ti vi nói chuyện về rùa. Dân chúng rình rập quanh hồ Hoàn Kiếm để cố chụp hình rùa. Mọi người đều quan tâm đến rùa và quên phắt đi chuyện kinh tế của đất nước.

Những chuyện như thế chắc đã, đang và sẽ lặp đi lặp lại nhiều lần…

THẾ NÀO LÀ GIÁ TRỊ CUỘC SỐNG

THẾ NÀO LÀ GIÁ TRỊ CUỘC SỐNG

Có một chú tiểu khá thông minh, chú luôn đặt những câu hỏi xung quanh cuộc sống. Một ngày nọ, chú hỏi sư thầy của mình:

– Thưa thầy, giá trị cuộc sống của một con người là gì ạ? Con hỏi vậy vì thường ngày thấy mọi người lên chùa đều cầu mong cuộc sống có giá trị.

Người thầy đi vào phòng rồi mang ra cho chú tiểu một hòn đá xấu xí và bảo:

– Con hãy mang hòn đá này ra chợ bán và hãy nhớ là dù có ai mua thì cũng không được bán và mang về cho ta.

– Tại sao lại phải vậy thưa sư phụ?

– Nếu con muốn biết giá trị cuộc sống là gì thì hãy làm như ta bảo.

Vì sự tò mò nên chú tiểu đã làm theo. Chú mang hòn đá ra chợ ngồi bán và trong suy nghĩ thì không hiểu tại sao nó lại liên quan đến giá trị của cuộc sống.

Chú ngồi bán hòn đá ở chợ cả ngày mà không hề có ai hỏi, mọi người còn thấy làm kỳ lạ không hiểu tại sao chú lại ngồi bán một hòn đá xấu xí mà không có giá trị gì. Ngồi cả một ngày, một người bán rong thấy vậy thương tình đã đến hỏi và trả giá hòn đá 1 đô la. Chú tiểu nhớ lời sư phụ dặn dù bất kỳ ai hỏi mua cũng không được bán. Mang hòn đá về, chú hỏi sư phụ:

– Hòn đá này có gì đặc biệt mà thầy lại bảo con mang bán. Cũng may đã có người hỏi mua với giá 1 đô la. Vậy giá trị cuộc sống là gì thưa thầy?

Sư thầy cười và nói:

– Tốt lắm, ngày mai con hãy mang hòn đá vào cửa hàng bán vàng và bán cho chủ cửa hàng vàng, nhớ là dù chủ cửa hàng vàng có mua thì cũng không được bán, rồi còn sẽ hiểu thế nào là giá trị cuộc sống.

Vì tò mò, chú tiểu lại làm theo lời sư thầy. Hôm sau, chú mang hòn đá đi vào một cửa hàng vàng, vừa đi vừa nghĩ, tại sao sư phụ lại bảo mình mang hòn đá này vào bán trong cửa hàng vàng trong khi cả ngày qua chú ngồi ngoài chợ bán mà không ai mua, dù mua cũng không đáng giá. Dù rất ái ngại nhưng vì tò mò nên chú quyết định làm theo lời sư phụ.

Và thật bất ngờ, khi chú mang vào bán trong một cửa hàng vàng, chủ tiệm đã trả giá hòn đá là 500 đô la. Rất bất ngờ vì một hòn đá qua một ngày từ chỗ bán không ai mua giờ lại có giá như vậy, nhớ lời sư phụ dặn chú tiểu đã không bán và mang về.

Chú vội vàng hỏi tại sao lại như vậy và giá trị cuộc sống là gì mà tại sao một hòn đá từ không giá trị qua một ngày lại có giá trị rất lớn như vậy

Sư phụ cười và nói:

– Nếu con muốn hiểu giá trị cuộc sống là gì thì ngày mai con hãy mang hòn đá này tới một tiệm đồ cổ và bán, nhớ là dù với bất kỳ giá nào thì con cũng không được bán và mang về cho ta. Con sẽ hiểu giá trị cuộc sống là gì.

Chú tiểu càng tò mò hơn. Hôm sau, chú mang hòn đá tới một tiệm đồ cổ. Sau một hồi xem xét thì chú tiểu vô cùng ngạc nhiên khi chủ hiệu trả giá hòn đá là cả gia sản hiện có. Chú nhất quyết không bán và vội về kể lại với sư phụ:

– Vậy hòn đá này là gì, mà từ một thứ không giá trị không ai mua giờ nó có giá cả một gia tài.

– Đó chính là giá trị cuộc sống – Sư thầy nói.

Giá trị cuộc sống của mỗi con người đều do chính chúng ta quyết định, cũng giống như chú tiểu do dự khi mang một hòn đá không có giá đi bán. Giá trị cuộc sống là do chính chúng ta tạo dựng và đặt ra. Vậy hãy tự đặt mình vào nơi mà mọi người hiểu ta và đó là nơi giá trị sống được tôn trọng.

Cuộc sống ở trong tất cả mọi sự việc, từ những điều to lớn cho đến điều đơn giản, thậm chí là ở trong những điều mà chúng ta không hề quan tâm đến. Cuộc sống luôn “nói chuyện” với chúng ta thông qua những điều giản dị nhất và không ngờ đến nhất. Đừng bỏ lỡ bất kỳ khoảnh khắc nào trong cuộc sống của bạn!

Mint
(Dịch từ Fructuous)

Thần kinh khốn nạn.

Thần kinh khốn nạn.

canhco

RFA

Đó là hệ thống thần kinh mới, vừa được Giáo sư Ngô Bảo Châu, một nhà khoa học của Việt Nam tìm ra sau khi ông Vũ Đức Đam, trên cương vị Phó thủ tướng ký thế cho Thủ tướng chính phủ quyết định chấp thuận cho UBND thành phố Sơn La kinh phí 1.400 tỷ để xây dựng tượng đài Hồ Chí Minh trong thành phố.

GS Ngô Bảo Châu viết trên Facebook của ông: “Trẻ con ăn không đủ no, áo không đủ ấm, sinh hoạt như lũ thú hoang, mà bỏ ra 1400 tỷ để xây tượng đài thì hoặc là khốn nạn, hoặc là thần kinh”.

Rõ ràng là GS Châu chơi chữ. Không thể nào một ông Phó Thủ tướng lại mắc bệnh thần kinh, có nghĩa là tâm thần không bình thường, ký những quyết định đi ngược lại với nhân văn, với đạo lý dân tộc. Ông chỉ có thể “khốn nạn” trong ý thức. Ông không xem trẻ em lê lết trong các mái trường không thua chuồng trại súc vật đầy dẫy tại các tỉnh biên giới mà Sơn La là một điển hình của sự nghèo túng cùng cực. Ông không hề nghĩ tới hàng chục ngàn hộ thiếu ăn quanh năm và đối với họ chỉ cần đủ ăn đã là hạnh phúc. Đối với họ Hồ Chí Minh chỉ là một cục đá được dẽo gọt chỉ để đứng nhìn sự thống khổ, kiệt quệ của họ, những người quanh năm không biết tới một mẩu thịt là gì.

Họ túng đói và lê lết như những con thú hoang trong khi chính phủ của ông Vũ Đức Đam đang phải đối phó với nợ công, phải ăn xin tứ phương từ Mỹ với miếng bánh TPP, từ Trung Quốc với những khoản vay thắt cổ, từ Nhật với ODA dễ nuốt và ngay cả từ Việt kiều hải ngoại với câu chữ không biết hổ thẹn là gì, lại bỏ ra 1.400 tỷ xây một hình tượng đang mục nát trong trái tim quần chúng.

Với những sự thật không thể chối cãi ấy câu hỏi đặt ra tại sao chính phủ lại tiếp tục ký những quyết định trái với lòng dân, trái với lương tri của con người mà bất cứ một chính phủ, một nhà độc tài nào cũng đều tránh né?

Chỉ có thể xem đó là những thái độ khốn nạn. Sự khốn nạn lâu ngày thành nếp nghĩ, thành cách hành xử quen thuộc. Việc coi thường luân thường đạo lý trong huyết quản đã tạo nên một loại gene mới trong cơ chế cộng sản. Loại gene ấy biến thành hệ thần kinh chủ đạo, từ tư duy cho tới phản ứng, nó nằm song song với các hệ thần kinh khác như buồn, vui, giận, ghét. . . hệ thần kinh khốn nạn chỉ khác ở chỗ, nó tự đứng riêng và tự đánh bóng hay tôn tạo chính mình. Nó phản ứng với hệ thần kinh bình thường một cách bất bình thường. Khi nhân dân đói nó cho là nhân dân đủ ăn và GDP của họ ngày một cao hơn. Khi trẻ em thiếu trường, thiếu lớp nó cho đấy chỉ là một bộ phận rất nhỏ trong tổng thể phát triển của đất nước. Khi người dân phản ứng vì bị đẩy vào đường cùng nó cho là sự xúi giục của bọn phản động và phản ứng của nó không kém bất cứ cách hành xử côn đồ nào.

Thần kinh khốn nạn tự nghĩ ra những kịch bản chỉ có trong giấc mơ của những kẻ sở hữu nó. Nhân dân vẫn yêu thương Hồ chủ tịch và họ có như cầu nhìn tượng của ông thay cơm. Nhân dân hãnh diện khẳng định ông là ánh sáng dẫn họ trên con đường….vạn dặm! Nhân dân sáng suốt tin rằng ông là ngôi sao không hể tắt và có ông thì người dân sẽ thấy đời đáng sống biết dường nào.

Một trong những người sở hữu thần kinh khốn nạn, Trần Bảo Quyến, Phó Giám đốc Sở VH-TT-DL tỉnh Sơn La cả quyết rằng: “sau khi xây dựng tượng đài, Sơn La sẽ có cơ hội quảng bá về du lịch. Đây sẽ là điểm đến thú vị cho người dân đến tham quan và tìm hiểu về lịch sử Tây Bắc nói chung và Sơn La nói riêng. Hiện, Sở cũng đang nâng cấp nhà tù Sơn La và một số địa danh văn hóa khác”.

Nếu chú ý người dân sẽ lo sợ vô cùng khi tượng đài được xây dựng song song với việc nâng cấp nhà tù. Tham quan hay vào đó nằm nếu chống đối đề án thì có gì khác nhau?

Trần Bảo Quyến cho rằng: “Đã là tình cảm của nhân dân Tây Bắc không thể cân đong đo đếm được. Do đó, cá nhân nào nói lãng phí là chưa đúng”.

Đúng, nó không hề là một đề án lãng phí. Nó không lãng phí mà là phá hoại. Phá hoại tới tận đáy cái nền của nhân bản. Tiêu diệt những gì ít ỏi còn lại trong lòng người dân đối với hình ảnh Hồ Chí Minh. Người miền núi vốn không được học hành tử tế họ chỉ biết ông Hồ là người cha già dân tộc theo tuyên truyền của bộ máy Đảng. Sau gần một thế kỷ người cha ấy chia cho đám con ruột là quan lại triều đình xây dựng những công trình để tư túi trên các đề án khốn nạn. Chỉ cần thông minh một chút là họ biết mình bị bóc lột, bị chà đạp tới xương khi con cái họ quần không có mà mặc, gia đình họ không có gạo đủ ăn phải lê lết trên những con ruộng bậc thang, đẹp thì có đẹp nhưng leo trèo trên ấy để kiếm từng hạt lúa thì người Kinh đã bỏ chạy từ xưa.

Chỉ tiếc một điều đồng bào miền Tây Bắc không mấy người có hệ thần kinh khốn nạn như quan đầu tỉnh Trần Bảo Quyến và do đó họ không thể tự bào chữa cho mình lý do họ quá yêu bác Hồ nên nhà nước cần phải dựng tượng của ông cho họ ngắm thay cơm.

Con cá gỗ còn tạm dùng để đánh lừa mình chứ tượng ông Hồ to quá mà lại làm bằng đá thì làm sao đem vào mâm cơm của họ để mà chấm, mà mút cho chén bắp trong bữa ăn thường nhật đậm đà hơn một chút?

tintuchangngayonline.com

http://thanhnientudo.com/2015/08/07/than-kinh-khon-nan/

NHỮNG ĐIÊU CHƯA BIÊT VỀ MAO TRẠCH ĐÔNG

NHỮNG ĐIÊU CHƯA BIÊT VỀ MAO TRẠCH ĐÔNG
“Mao: The Untold Story”
Hình ảnh

Bùi Tín – Phỏng dịch và tóm tắt

Phần XIII: Chân dung con người thật của Mao

1-. Nhìn chung con người thật của Mao là thế nào. Chân dung tinh thần của nhân vật lịch sử này ra sao? Jung và Jon để gần 10 năm trời, đi hàng chục vạn dặm, hỏi chuyện hàng nghìn nhân chứng sống, tra khảo hàng mấy nghìn trang tư liệu hiếm, trong hàng chục kho lữu trữ cực quý để vẽ nên chân dung tinh thần của Mao. Có gì quý hơn là những trang ghi tốc ký và ghi âm những buổi đối thoại của Staline, Dimitrov, Khrouchtchev…với các nhân vật Trung Quốc như Vương Minh, Chu Ân Lai, Mao, Lưu Thiếu Kỳ… Có gì thú vị hơn là những mẩu chuyện sống động Jung và Jon thu được từ miệng cô bán đậu phụ bên đầu cầu sông Đại độ hơn 60 năm trước nay là bà cụ hơn 90 tuổi, hay cuộc trò chuyện với nhân vật Trương Học Lương hay Trương Quốc Đào khi đã trên dưới một trăm tuổi.

2-. Mao Trạch Đông đã có hàng tỷ cuốn Mao tuyển, hàng tỷ tỷ cuốn sách đủ thứ tiếng, tranh truyện, bài thơ, vở ca kịch, luận văn lịch sử, chính trị viết về mình. Ngoài dân Trung quốc lại con bao nhiêu đảng phái, nhóm vũ trang Mao-ít ở rừng rậm hay thành phố Á Phi Mỹ la-tinh sùng bái Mao như thần như thánh. Nhân vật vĩ đại, đại cứu tinh, anh hùng dân tộc, siêu nhân, nhà chính trị khổng lồ. Thế mà Jung và Jon cho ta một chân dung khác lạ, một Mao chưa từng biết rõ, từng chân tơ kẽ tóc, như ta thường nói, một Mao như là bằng xương bằng thịt, làm cho tỷ tỷ tài liệu và nhận thức cũ chỉ là cái bóng mờ ảo của Mao, chỉ là tấm ảnh bị lóa lòa méo mó hoàn toàn giả tạo, không thật. Khối người sẽ giật mình. Ta đã bị lừa. Khối người sảng khoái, vỗ đùi đen đét: à ra thế, sự thật đây rồi. Mà có gì thích hơn, mừng hơn, sướng hơn là tìm ra sự thật, sự thật đúng như có thật, sự thật bướng bỉnh và trần trụi.

3-. Sự thật Mao là con người ra sao. Có thể nhìn, ngắm Mao trên nhiều góc độ khác nhau. Mao như là một con người bình thường, với những tình cảm yêu ghét buồn vui. Mao như một nhà lãnh đạo cộng sản, như một lãnh tụ, đòi hỏi tài năng lãnh đạo, đạo đức gương mẫu, quan hệ với đồng chí, đồng bào. Mao như một nhà lý luận với những trước tác và quan điểm, tư tưởng, sáng tạo của mình. Mao trong cuộc sống gia đình riêng, với cha mẹ, vợ con, cháu, anh em họ hàng gần xa của mình.

Vậy thì qua hơn 800 trang sách ”Những điều chưa biết về Mao”, tác giả vẽ nên cho ta thấy một chân dung Mao ra sao? Tất nhiên chỉ trong khuôn khổ cuốn sách này. Không nên thêm thắt tô vẽ thêm điều gì khác.

4-. Về con người. Mao hiền lành hay ác độc. Mao vì người, vì nhân dân, vì giai cấp vô sản cùng cực hay vì ta, vì bản thân mình? Mao luôn có ước vọng và mưu đồ cho Trung Quốc phát triển nhanh, thật nhanh, trở thành một siêu cường rồi thành cường quốc vô địch của thế giới. Nhưng đi sâu vào ý đồ ấy vẫn nổi lên tham vọng cá nhân là động lực chính, quyền lực cá nhân Mao vẫn là mục tiêu chính. Cái ác ngự trị trong con người Mao rật đậm đặc. Trong chiến tranh Triều tiên, Mao tính đến cái chết của hàng chục vạn binh lính trong bom đạn như một bài tính giữa phiên chợ đầy hàng hóa. Thật đáng sợ.

Mao còn tính đó là dịp đẩy hàng triệu binh lính cũ của Quốc dân đảng vào chỗ chết, mình khỏi mất công thủ tiêu; rồi vấn đề trao đổi tù binh, Mao đòi đối phương trả về không thiếu một binh sỹ từng bị bắt và đầu hàng để Mao trị tội bằng hết. Thật may mà đòi hỏi của Mao không được chấp nhận.Các cuộc khủng bố trắng ở Giang Tây, Hồ Nam, rồi ở Diên An, rồi trong Đại nhảy vọt và Cách mạng Văn hóa đều được Mao trực tiếp chỉ đạo, từ treo người, xẻo tai, cắt gân chân, cho đến đầu độc Vương Minh, hành hạ vợ chồng Lưu Thiếu Kỳ, tra tấn Bành Đức Hoài, Hạ Long đều được thực hiện bởi mối thù cá nhân tàn ác nhất. Mao tỏ ra dửng dưng khi số người chết do đói kém lan tràn ở nông thôn những năm 1960, 1961 và 1962 lên đến gần 30 triệu đồng bào mình, tất cả chỉ vì những chính sách phiêu lưu nhảy vọt, làm lò cao, công xã nhân dân của Mao gây nên.

5-. Mao không ngớt nói đến nhân dân, buộc đảng viên luôn tự phê bình, cán bộ luôn kiểm thảo tìm ra tội lỗi để sửa chữa, dạy đảng viên về tinh thần hy sinh cao độ, vì dân vì tập thể, vì vô sản toàn thế giới, nhưng Mao lại sống một cuộc sống hoàn toàn vì cá nhân mình, cho cá nhân mình, một cuộc sống ích kỷ cao độ, hoàn toàn đạo đức giả. Nói một đằng làm một nẻo đã thành nếp sống của Mao. Mao bảo người khác, dạy người khác làm điều hay, điều phải nhưng bản thân thì không làm, còn làm trái lại. Mao không bao giờ tự phê bình, nhận ra sai lầm của mình để sửa chữa. Như Đại nhảy vọt, cách mạng văn hóa sai rành rành rõ ràng nhưng Mao vẫn sỹ diện kéo dài. Trong cuộc trường chinh, Mao chuyên nằm trên võng gần như suốt cả năm. Nơi Mao ở được thiết kế công phu theo sở thích riêng của Mao. Mao chuyên ăn cơm riêng trong phòng riêng của mình, với hàng chục người đứng phục vụ, với những cao lương mỹ vị quý hiếm nhất. Mao sống cuộc sống như một hoàng đế xưa. Xung quanh phải diệt hết chó mèo, ếch nhái, gà qué để không ảnh hưởng giấc ngủ. Đoàn tàu đặc biệt của Mao đến đâu là cấm xe cộ ở quanh hàng buổi. Mao ưa thức đêm, ngủ ngày, buộc cận thần phải theo thời gian biểu của mình. Nửa đêm Mao triệu tập bộ chính trị đến ngồi quanh ghế đệm Mao ngồi hay quanh giường Mao nằm.

6-. Đặc tính của Mao là đa nghi, vì biết mình làm nhiều điều bất công, thất đức, quái ác nên luôn sợ bị trả thù ám hại. Do đa nghi nên Mao trừng trị tra khảo oan ức biết bao đồng chí của mình. Vì nghi Hạ Long có âm mưu cùng Liên xô hãm hại Mao hành hạ tra tấn Hạ long và hàng trăm người từng quen thân Hạ Long. Mao nhiều lần nghi Đặng Tiểu Bình lật đổ mình nên loại bỏ Đặng khi bắt đầu cách mạng văn hóa, sau còn quản chế và giam lỏng Đặng 2 lần nữa, mà thật ra Đặng không có âm mưu lật Mao. Mao còn nghi Liên xô có ý định kéo quân sang bằng bộ binh, xe tăng, cả ném bom bằng không quân, cho đến cả bom nguyên tử, để bắt dựng hàng hàng ”núi nhân tạo”, nhiều lúc xuống hầm sâu, đi tránh về phía Nam. Càng về già Mao lo sợ bị ám sát, hay giật mình khi nghe tiếng động lạ, thấy người lạ, cho nên quy định ai đến gần phải nói to vừa phải – to quá hay thầm thì đều làm Mao hoảng sợ, – phải báo trước, có người dẫn vào.

7-. Đặc tính khác rất sâu đậm ở Mao là giữ thù riêng, thù cá nhân rất dai dẳng. Ta thường gọi là thù dai. Mao quyết trả thù cá nhân đến cùng. Chu Ân Lai phục vụ Mao hết mình, như một kẻ nô lệ, thế mà Mao nhớ mãi chuyện từ những năm 1930 Mao đã bị Chu thi hành kỷ luật vì Mao để quân lính cướp phá dân như thổ phỉ, để hành hạ Chu, không cho Chu mổ, bắt Chu phải chết trước mình và bắt Chu kiểm điểm về một bài báo từ năm 1932. Mao còn thâm thù Vương Minh, Bành Đức Hoài và Lưu Thiếu Kỳ và tìm cách hành hạ 3 người này cho đến chết với những cực hình rùng rợn nhất mới hả dạ.

8-. Ở Mao cũng nổi lên sự dối trá, dối trá có hệ thống, có nghệ thuật. Tất cả những chuyện Mao kể cho Edgar Snow về cuộc đời hoạt động của mình và về cuộc trường chinh thì phần lớn là thêu dệt và bịa đặt. Trái với điều Mao kể, Hồng quân không hề có chuyện có nhiều chiến công đánh Nhật hơn là quân Quốc dân đảng. Trong cuộc trường chinh việc đánh quân Quốc dân đảng cũng rất ít vì chính Tưởng Giới Thạch gián tiếp quy định hành trình và khu vực dành cho Hồng quân. Trận đánh oai hùng Mao kể diễn ra rực lửa ở cầu Đại độ là chuyện hoang đường do Mao bịa đặt trăm phần trăm, bị nhân chứng còn sống là bà cụ bán đậu phụ ở quán hàng ngay đầu cầu ngày xưa bác bỏ.

9-. Trong cuộc sống gia đình, Mao tỏ ra rất ít tình cảm. Mao tỏ ra tự thương mình nhất, tự yêu mình nhất. Bà vợ thứ nhất là ”cô La” (họ La) cưới khi Mao 15 tuổi cô La gần 20 tuổi, đến khi 22 tuổi thì cô La chết. Bà vợ thứ hai là Dương Khai Tuệ, sinh năm 1901, con thày giáo của Mao ở Trường Sa (Hồ Nam), có học, sanh với Mao 3 con trai là Mao Ngạn Anh, Mao Ngạn Thanh và Mao Ngạn Long; Ngạn Anh sang Nga học về làm phiên dịch cho Bành Đức Hoài ở Triều tiên, chết trong một trận ném bom của Mỹ. Ngạn Thanh bị bệnh tâm thần bẩm sinh, sang Nga cùng Ngạn Anh rồi ở lại trong trại tâm thần (mới chết gần đây theo báo Nga, thọ gần 80 tuổi); con út là Ngạn Long chết khi 4 tuổi ở Thượng Hải.

Dương Khai Tuệ bị Quốc dân đảng bắt ở Trường Sa rồi bi giết ngày 14-11-1930. Năm 1990 ở Trường Sa phát hiện 8 lá thư của Dương Khai Tuệ viết trước khi chết được giấu và bảo quản kỹ gói trong giấy dầu gắn trong tường, lời rất tình cảm, thương nhớ Mao và 3 con, mong Mao từ bỏ chủ nghĩa cộng sản hung bạo.

Vợ thứ ba của Mao là Hạ Tử Trân, bí danh là Quế Viên, xuất thân gia đình tiểu thương tiểu chủ, lấy Mao năm 1928 khi 18 tuổi, có với Mao 7 con, kể cả 2 lần xẩy thai trên đường hành quân, đến mức có lần Mao bảo vợ mình sinh đẻ như gà. Hạ cùng dự cuộc trường chinh với Mao, đi ngựa, đi bộ, nằm võng, mặc quân phục hồng quân, mũ két có sao đỏ, cầm súng, có lần bị thương nặng ở vai. Hạ sống với Mao ở Diên An. Khi Mao có tình ý với Giang Thanh là diễn viên ca kịch từ Thượbg hải mới đến Diên An vào năm 1937, Mao liền cho Hạ đi sang Nga để dưỡng bệnh khi Hạ vừa có mang, để lại con gái nhỏ tên là Li Mẫn (Ly Min) sinh năm 1936, còn gọi là ”Kiều – Kiều” – ”Chiao Chiao”.

Ở Moscow năm 1938 Hạ sinh con trai, rất giống Mao, đặt tên là Lyova, được 6 tháng thì chết vì sưng phổi. Năm 1939 Hạ biết Mao lấy vợ khác khi tình cờ xem phim thời sự do Karmen quay từ Diên An gửi về trong đó Giang Thanh được giới thiệu là ”Bà Mao”, Hạ lên cơn tâm thần rồi sức khỏe suy sụp. Năm 1940 Mao cho ”Chiao Chiao” sang Moscow ở với mẹ. Chiao Chiao mừng nhưng bệnh mẹ cô ngày càng nặng, hay đánh mắng con khi lên cơn. Về sau hai mẹ con về Trung quốc, Mao không gặp Hạ, không cho Hạ đến Bắc kinh, bà sống cô đơn ốm yếu cho đến chết (1984) khi 74 tuổi. Chiao Chiao có hồi đến Bắc kinh gặp Mao, Mao muốn cô quan tâm đến chính trị nhưng cô không theo ý muốn ấy, thế là Mao cấm cửa, không cho cô đến gặp nữa. Vợ thứ tư là Giang Thanh, trên đã nói về con người này. Giang ở với Mao lâu nhất, gần 40 năm. Mê mệt nhau rất sâu sắc rồi cay đắng vì nhau cũng nhiều, làm hại nhau cũng lắm, đi đến ghét bỏ và thù hận nhau cho đến chết. Giang là công cụ chính của Mao trong cách mạng văn hóa, Mao cho Giang vào bộ chính trị, đứng đầu Tiểu tổ cách mạng văn hóa với quyền sinh quyền sát kinh người, để rồi Mao không thèm nhìn mặt Giang và đồng tình triệt hạ trừng phạt Giang sau khi mình chết yên ổn. Đầu năm 1977, Giang cùng ”lũ 4 tên ” bị bắt, khai trừ khỏi đảng, ra trước vành móng ngựa, Giang bị tội tử hình rồi chuyển xuống chung thân; bà tự sát trong tù, thắt cổ vào năm 1991.

Giang có với Mao một con gái, đẻ ở Diên An ngày 3-8-1940, đặt tên là Lý Nạp (Li Na). Li Na được nuông chiều, kiêu ngạo, trong cách mạng văn hóa Giang và Mao cho Li Na làm chủ bút báo quân đội. Li Na tự phụ hống hách, có lần bắt tướng tá lớn tuổi dơ tay chào mình kiểu nhà binh. Li Na khó lấy chồng, 31 tuổi đành lấy một anh hầu hạ Mao, cả Mao và Giang không đồng tình, không dự đám cưới, cho là anh ta thuộc loại hèn kém; khi Li Na sanh con trai, Giang không bao giờ bế, Mao cũng không ưa gì cháu ngoại.

10-. Về bạn bè hầu như cả cuộc đời Mao không có bạn, chưa nói gì đến thân thiết. Bạn theo đúng nghĩa, hợp với mình, để tâm sự, trao đổi tâm tình. Mao như chẳng viết thư cho ai. Việc gì cũng tự mình giải quyết. Mao chỉ có ”bạn” theo mưu đồ riêng, kết liên minh với kẻ này để cô lập, hãm hại kẻ khác, ”bạn” theo từng thời kỳ, giai đoạn. Tin cậy Bành Đức Hoài cử Bành làm tư lệnh quân tình nguyện rồi quay lại coi Bành là tử thù. Gắn với Lưu Thiếu Kỳ, cử Lưu làm chủ tịch nước rồi quay lại dùng cực hình với Lưu. Liên minh với Lâm Bưu, đề cao Lâm, nâng Lâm thành người kế thừa mình, rồi quay sang đe dọa trừng trị Lâm đẩy Lâm phải chạy trốn. Không một ai là bạn dài lâu của Mao. Đây cũng là một nét khác thường trong chân dung tinh thần của Mao.

11-. Về mặt hoạt động sinh lý Mao có những nét độc đáo. Bành đã nhân xét Mao có cung tần mỹ nữ quanh mình như những hoàng đế Trung hoa dâm dật nhất. Trong hàng ngũ cán bộ quan chức cộng sản thời nay, không ai có hoạt động sinh lý gấp gáp, vô độ, bất kể đạo đức, bất cần dư luận như Mao. Mao cho tuyển những cô văn công quân đội, văn công binh chủng không quân, 17, 18 tuổi, bằng con bằng cháu mình, ít hơn Mao đến 35, 40 tuổi cũng không từ.

Mao còn cho thiết kế ngay trong Đại lễ đường Nhân dân một phòng riêng của mình để giữa những cuộc họp trung ương, giữa đại hội đảng vẫn có thể hú hí với gái trẻ khi muốn, Mao còn hướng dẫn đóng giường gỗ quý dài rộng, lót nệm lông quý, có độ nghiêng, để cùng một lúc làm tình với 2, 3 cô, với các loại tư thế khóai cảm nhất. Về mặt này, có thể coi Mao là quán quân quốc tế của mọi thời đại. Cá nhân ích kỷ về sinh lý của Mao càng thêm nặng khi dưới chế độ Mao, việc quan hệ nam nữ cực kỳ nghiêm khắc, một vợ một chồng là triệt để, cán bộ viên chức phần lớn chỉ được gần nhau 12 ngày đêm mỗi năm.

12-. Cũng không thể bỏ qua một nét nữa không giống ai của Mao, đó là một số nét hủ lậu kiểu nông dân cổ lỗ. Mao không đánh răng bằng bàn chải và xà phòng đánh răng; chỉ xỉa răng và lấy bã chè xúc miệng. Mao hầu như không tắm chỉ lấy khăn nhúng nước ấm lau mình. Mao không quen ngồi bệ vệ sinh để đi cầu, mà chuyên ngồi xổm như khi còn ỉa ngoài đồng. Mao không muốn học một ngoại ngữ nào, hoàn toàn mù ngoại ngữ giữa thời toàn cầu hóa; ngay tiếng bạch thoại đúng kiểu Bắc kinh Mao cũng ngọng, nói theo giọng Hồ nam. Mao không hề đi một nước nào khác ngoài 2 lần đến Moscow gặp Staline và họp các đảng cộng sản năm 1949 và năm 1957.

Có lẽ do sự hủ lậu, khép kín, tự mãn như thế mà tư tưởng của Mao cũng cổ lỗ tăm tối, thiển cận theo, như chủ trương dựng lò cao ở sân nhà nông dân và đánh trống chiêng phèng la và hò hét để diệt chim sẻ, nhằm vượt nước Anh và vượt Nhật bản sau đó.

13-. Nhưng nét trội nhất trong con người của Mao mà ít người biết đến là gì? Ngay từ trang mở đầu và đến trang bìa sau cùng của cuốn sách, Jung và Jon đều đưa ra con số 70 triệu người chết mà Mao đã trực tiếp và gián tiếp gây nên, mà Mao phải chịu trách nhiệm trước lịch sử Trung quốc và lịch sử loài người.

Tác giả không đưa ra con số ấy một cách tùy tiện, phỏng đoán. Trong cuốn sách, mỗi sự kiện, mỗi nhận định, mỗi con số đều được cân nhắc, thẩm tra, có bằng chứng, nhân chứng hẳn hoi, như trong một công trình lịch sử và khoa học chính xác. Tác giả đã thống kê và cộng lại vô vàn nạn nhân của thanh trừng và chiến tranh, khủng bố trắng và cải cách ruộng đất, đại nhảy vọt và cách mạng văn hóa, chiến tranh Triều tiên, biên giới Trung – Xô và chiến tranh Trung – Việt năm 1979, nạn nhân của nạn đói hoành hành triền miên hàng chục năm, mấy triệu nạn nhân diệt chủng của Pôn Pôt theo học thuyết của Mao, và vô vàn nạn nhân của các đảng, các nhóm từng suy tôn Mao là bậc thày, từ châu Á sang châu Phi và Mỹ la tinh, áp dụng học thuyết đấu tranh giai cấp là động lực cơ bản của xã hội loài người, chính quyền từ đầu ngọn súng…

Cuộc sống con người là của quý nhất. Một mạng sống là vô giá. Riêng Mao chịu trách nhiệm về 70 triệu mạng sống bị hủy diệt. Có ai trên cuộc đời này, cổ kim đông tây, có ai tham gia giết người nhiều đến vậy, kinh khủng đến vậy. Hit-le thua xa. Staline kém xa. Tần thủy hoàng như bé lại.

Lời kết của cuốn sách chỉ có 2 câu ngắn, chưa đến 3 dòng rưỡi:

”Ảnh và thi hài của Mao vẫn ngự trị tại quảng trường Thiên An Môn, giữa trái tim của thủ đô Trung Quốc. Chế độ cộng sản hiện tại vẫn tự nhận kế thừa Mao, và vẫn ra sức kéo dài huyền thoại về Mao”.

Một lời kết luận tra vấn sự mụ mị của mỗi người bất cứ ở đâu đến nay vẫn còn mù quáng lầm lẫn và hoang tưởng về Mao.