2016: Chu Kỳ Suy Thoái Kinh Tế Bắt Đầu

2016: Chu Kỳ Suy Thoái Kinh Tế Bắt Đầu

Alan Phan

image

Trung Quốc đối diện với biến động xã hội – VN Đồng mất hơn 10% giá trị – Suy thoái toàn cầu làm các dòng tiền lưu thông chậm lại.

(GNA: Sau đây là bản gốc của bài viết. Nhiều tờ báo khác đăng tải, nhưng đã biên tập kiểm duyệt nhiều ý chính)

Đầu năm nay, một người bạn cũ từ Thượng Hải ghé qua California thăm. Anh là đại gia có tiếng, liên quan đến nhiều dự án rầm rộ,  từ công nghệ cao, sản xuất hàng gia công đến bất động sản, chứng khoán. Dĩ nhiên, sự thành công của anh giống như các tư bản đỏ khác đều dựa vào một mạng lưới quan hệ rất chặt chẽ với chính quyền địa phương. Trong khi đó, chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” của Tập Cận Bình đang lan rộng khắp nước, nhất là từ khi Bạc Hy Lai và Chu Vĩnh Khang bị bắt.

Trong bữa ăn, hai vợ chồng tỏ vẻ lo âu, thiếu thần sắc. Dù tôi cũng đang bị cái bệnh suy thận hành hạ, nhưng ngoài việc sụt cân, tôi vẫn nghĩ mình may mắn hơn khi so với cặp tỷ phú đô la này. Sau những cập nhật về tin tức, bạn bè, cùng thời sự nóng bỏng của Trung Quốc, anh đi thẳng vào vấn đề…Anh đã chuyển ra khỏi Trung Quốc gần 40 triệu USD nhưng các tài sản khác còn kẹt lại trong nước vẫn lên đến cả chục tỷ (dĩ nhiên phải trừ đi số nợ nần và vốn góp từ nhiều người khác). Anh hỏi có cách gì để “internationalize” (quốc tế hóa) các tài sản này để đặt chúng ngoài tầm tay của chính quyền. Niêm yết sàn chứng khoán Âu, Mỹ…có khả thi?

Tôi không thể tiết lộ chi tiết những chiến lược và chiến thuật tái cấu trúc của một khách hàng; nhưng nói về vĩ mô, tôi nói với anh là “time is running out” cho anh, trong một bối cảnh Trung Quốc sẽ gặp nhiều hỗn loạn kinh tế và xã hội trong vài năm tới. Tôi nói đây chỉ là cảm nhận (perception) của một doanh nhân; không phải là một dự đoán (prediction) chính xác về bất cứ kịch bản nào. Nhưng chắc “thánh nhân đãi kẻ khù khờ” nên cái miệng ăn mắm muối, nói bậy bạ của tôi, lại thể hiện một tiên tri “chó ngáp phải ruồi”, khá hiện thực, nhất là trong vài tháng qua, với sự sụp đổ của sàn chứng khoán Trung Quốc và sự phá giá của đồng nhân dân tệ.

Trước hết, xin nói rõ hơn về khác biệt giữa “dự đoán” và “cảm nhận”. Dự đoán từ các chuyên gia, giới hàn lâm…thường dựa vào số liệu, sự kiện, phân tích rồi dự phóng theo nguyên tắc khoa học (định lượng hay định phẩm- quantitative or qualitative). Cảm nhận cũng dựa trên vài yếu tố đó, nhưng pha trộn khá nhiều cái trực giác mà người làm ăn gọi là “gut feeling”, một may mắn hay rủi ro có thể đẩy bạn lên cao hay chôn bạn xuống bùn.

Và tôi giải thích với người bạn Thượng Hải của tôi những nguyên nhân tôi cho rằng time is running out cho anh ta và có lẽ cho khá nhiều nền kinh tế trên thế giới. Hôm nay, cập nhật thêm tình hình kinh tế Trung Quốc hiện nay, tôi có thể kết luận hơi “shocking” với cảm nhận của mình.

a. Tôi nghĩ rằng cái gọi là “cuộc chiến tiền tệ” chỉ là một thủ thuật mà các lãnh đạo kinh tế thế giới vẫn dùng hàng ngày, dưới nhiều hình thức khác nhau. Âu Mỹ Nhật…thường kết tội Trung Quốc là cố tình giữ tỷ giá nhân dân tệ quá thấp, rồi quá cao… để thu lợi cho cán cân thương mại. Nhưng chính các quốc gia này cũng đã hành xử tương tự khi cần.

Sự phá giá của tiền Trung Quốc trong tuần qua chỉ là một cú đánh bắt buộc của chính quyền để cứu những công ty xuất khẩu và tạo thế cạnh tranh về giá cả. Tuy vậy, tôi nghĩ là chính sách này sẽ bị giới hạn nhiều về hiệu quả vì các nước có mặt hàng xuất khẩu tương tự cũng biết phá giá bản tệ của mình để giữ thị phần.

Sự can thiệp của chính quyền Trung Quốc trong việc tỷ giá cũng giống như những can thiệp vào thị trường chứng khoán…nó có thể giúp ổn định trong một thời gian ngắn, không thể áp dụng lâu dài. Một hậu quả nghiêm trọng mà lãnh đạo Trung Quốc chịu hy sinh là niềm tin của nhà đầu tư, đối tác nước ngoài…về dài hạn. Đây sẽ là một “tử huyệt” , khó hồi phục, khi so với bong bóng tài sản (chứng khoán, bất động sản, hàng tồn kho…) hay so với nợ công địa phương, nợ xấu, tín dụng đen…

b. Ảnh hưởng lớn hơn có thể làm phần lớn dân số trên thế giới “nghèo” đi một chút là đồng USD sẽ tăng giá mà cơ quan Fed không cần phải hạ lãi suất. Tôi nghĩ rằng tỷ giá nhân dân tệ với Mỹ kim sẽ “xuống” thêm khoảng 12% cho đến cuối 2016. Các bản tệ khác của Châu Á cũng sẽ mất khoảng 7% giá trị trong thời gian này (so với USD). Riêng Việt Nam, vì một nền kinh tế quá buộc chặt vào Trung Quốc, VN đồng sẽ lao dốc xuống hơn 10%, mặc cho nỗ lực hay lời cam kết của Ngân Hàng Nhà Nước. Những số nợ thanh toán bằng USD sẽ chịu thêm phí tổn và nhiều doanh nghiệp sẽ lao đao với tình huống mới.

c. Có thể nói lần này Trung Quốc sẽ xuất khẩu “giảm phát” toàn cầu. Nhu cầu tiêu dùng hàng hóa sẽ không tăng trưởng dù giá có rẻ hơn chút đỉnh, vì người dân đã bị giảm thu nhập và nạn thất nghiệp sẽ gia tăng. Kỳ vọng vào đầu tàu Mỹ cũng sẽ không hiện thực vì hiện nay, kinh tế Mỹ đã có nhiều dấu hiệu mệt mỏi. Dow Jones và S&P indices đang chờ một điều chỉnh mạnh, có thể đến với việc “nổ bong bóng IT” của Silicon Valley.

Tuy không tệ hại và sâu đậm như cuộc khủng hoảng kinh tế của Châu Á năm 1997 hay thế giới năm 2007, kinh tế toàn cầu sẽ chuyển qua một chu kỳ suy thoái, rất khác biệt với những năm go-go của thập niên vừa rồi. Giống như các cuộc khủng khoảng trước đây, các dự án FDI và dòng tiền IDI sẽ ngưng chảy về các kinh tế mới nổi; mà tìm chỗ trú ẩn an toàn ở Âu, Mỹ, Nhật.

d. Khó tiên đoán hơn là những biến động xã hội và chính trị có thể xẩy ra ở Trung Quốc. Khế ước xã hội của Mỹ với người dân là một hệ thống pháp trị, tự do, bình đẳng với cơ hội thăng tiến cho mọi người, không kỳ thị chủng tộc, mầu da hay giàu nghèo. Khế ước xã hội của Trung Quốc (đảng cầm quyền) với người dân là nếu bạn được no cơm ấm cật thì phải tuyệt đối nghe lời chính quyền, cấm phê phán hay đòi hỏi dân chủ.

Nếu bây giờ chính quyền không có khả năng cung cấp phần cam kết của họ, thì việc gì sẽ xẩy ra? Chỉ những vụ cướp đất, ô nhiễm, thực phẩm độc hại, khoảng cách giàu nghèo… đã tạo nên những biểu tình phản kháng khắp nơi, thì chuyện mưu sinh đủ ăn đủ chơi…có thể là một ngòi thuốc súng để thay đổi toàn diện xã hội.

&&&&&

Sau bữa ăn tối đó, tôi và người bạn Thượng Hải tình cờ gặp một quản lý quỹ đầu tư Mỹ khi ra về. Sau phần nắng mưa rồi giới thiệu , ông Mỹ hỏi tôi,” hai anh thấy các khoản đầu tư ở Trung Quốc của tôi có an toàn không?” Tôi cười, nửa đùa nửa thật,” Stay out of China”….rồi nhớ là anh bạn Mỹ này có một cô bồ người Nga rất quyến rũ, tôi tiếp,” and Russia, too…”

Rồi quay lại anh bạn Trung Quốc,” Tiền chỉ là một công cụ. Nó sẽ đưa bạn đến chỗ nào bạn ước muốn; nhưng nó không thể thay bạn để lái xe ( Money is only a tool. It will take you wherever you wish, but it will not replace you as the driver – Ayn Rand) ….

Alan Phan

“We Are Here” – Tự truyện của thế hệ người Việt thứ hai

“We Are Here” – Tự truyện của thế hệ người Việt thứ hai

Thanh Trúc, phóng viên RFA
2015-08-21

“We Are Here” – Tự truyện của thế hệ tị nạn thứ hai Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

site_197_Vietnamese_424689-700.jpg

Nguyễn Cát Thảo và tự truyện We Are Here ra mắt tại Úc năm 2015

Photo courtesy of sbs.com.au

Your browser does not support the audio element.

Nguyễn Cát Thảo, luật sư trẻ Australia gốc Việt, ra đời trong trại tị nạn Sikiew ở Thái Lan sau  khi ba mẹ cô vượt đường bộ từ Việt Nam sang Kampuchia rồi đến được Thái Lan năm 1979.

Ba tháng sau khi cô chào đời, gia đình Nguyễn Cát Thảo được Australia nhận cho định cư. Năm 2004, khi đang còn học Trung Học, Nguyễn Cát Thảo là người đầu tiên gốc tị nạn được chọn làm đại diện giới trẻ Australia đến diễn đàn Liên Hiệp Quốc ở New York.

Năm 2015, kỷ niệm 40 năm người Việt bỏ xứ đi tị nạn, Nguyễn Cát Thảo ra mắt cuốn tự truyện We Are Here mà cô ấp ủ bao năm:

Đó là giọng đọc của Nguyễn Cát Thảo với đoạn văn mở đầu mà cô nghĩ có thể nói lên lý do thôi thúc cô phải viết tập truyện We Are Here bằng Anh ngữ này:

Gia đình Thảo định cư ở Sydney, tiểu bang  New South Wales. Hiện Thảo là một luật sư. Từ nhỏ tới lớn Thảo đã chứng kiến sự hy sinh của cha mẹ. Những khó khăn không phải thuộc  về gia đình Thảo thôi nhưng mà thuộc về rất nhiều gia đình Việt Nam ở bên Úc và  cả cộng đồng Việt Nam mình ở khắp nơi trên thế giới.

Thảo đã chứng kiến sự đau khổ của những người phải rời khỏi quê hương mình và đến một xứ lạ mà mình không biết ngôn ngữ. Thảo thấy cha mẹ lớn tuổi mà phải nhờ một đứa trẻ 6 tuổi như Thảo phải dịch cho cha mẹ phải làm  đầy đủ cho cha mẹ, và sự khó khăn là mình phải hòa nhập vào xã  hội của một nước khác.

Lúc Thảo lớn lên rồi, tốt nghiệp cử nhân luật và cử nhân thương mại thì Thảo không biết bây giờ phải trả ơn cha mẹ như thế nào. Thế hệ sau này sinh ra  lớn lên ở Úc thì cách nào để duy trì lại câu chuyện của cha mẹ và câu chuyện cộng đồng Việt Nam của mình, cái sức sống và sự can đảm của dân tộc mình? Thảo viết cuốn sách We Are Here,  dịch ra tiếng Việt là Chúng Ta Đã Đến, để giữ lại cho thế hệ sau.

Thanh Trúc: Thảo có thể nói rõ hơn không, vì Thanh Trúc nhận thấy sau chương đầu trở đi  hình như Thảo chú trọng khá nhiều  đến tâm trạng của người trẻ lớn lên giữa nền văn hóa Việt trong gia đình và văn hóa Úc ở học đường cũng như xã hội?

Thảo thấy cha mẹ lớn tuổi mà phải nhờ một đứa trẻ 6 tuổi như Thảo phải dịch cho cha mẹ phải làm  đầy đủ cho cha mẹ, và sự khó khăn là mình phải hòa nhập vào xã hội của một nước khác.
Nguyễn Cát Thảo

Nguyễn Cát Thảo: Chương đầu tiên kể lại hành trình của cha mẹ Thảo đi vượt biên khỏi Việt Nam. Nhưng mà chủ để chính của cuốn sách We Are Here là về một thế hệ sau này chính là thế hệ của Thảo. Lớn lên ở Úc, ngôn ngữ Việt không rành bằng tiếng Anh, cái khó khăn cho thế hệ này là những giây phút cô đơn, là mình thấy tuy rằng mình đang lớn lên ở một môi trường rất tây phương nhưng mà những sự mâu thuẫn về văn hóa, những đòi hỏi bởi xã hội bởi gia đình, những giây phút mình không biết bản thân mình như thế nào. Thảo muốn chia sẻ với độc giả sự khó khăn của một đứa em là Thảo và lớn lên trong môi trường như vậy là như thế nào. Thảo hy vọng cuốn sách We Are Here có thể chia sẻ và là nguồn thảo luận thêm với gia đình mình.

Thanh Trúc: Năm 2007 Nguyễn Cát Thảo khởi sự cuốn tự truyện We Are Here, mãi đến 2014 mới hoàn tất, có thể cho biết vì sao phải mất những 7 năm như thế?

Nguyễn Cát Thảo: Tại vì thứ nhất viết lại tất cả, nói chung là những khó khăn của một gia đình, là có nhiều ký ức mà cha mẹ Thảo đã bỏ quên, đã không muốn nhớ, vì nó quá đau khổ. Cho nên, để tìm những ký ức đó, Thảo phải đi hỏi không những cha mẹ không nhưng cũng hỏi bà con, ông ngoại, bà nội và những người còn sống. Cái đó cũng mất rất nhiều thời gian.

Hình ảnh của cha mẹ, lúc mẹ may đồ đến 3 giờ sáng, những cái kim đâm vào ngón tay mẹ, mẹ ngủ gục tại máy may vì làm quá sức. Ba thì về từ nhà máy lúc 2, 3 giờ sáng, thì cũng rất khó  khăn cho Thảo để sống lại những hình ảnh đó trong quá trình viết cuốn sách này.

Nếu mà những ký ức đó đơn giản thì Thảo nghĩ Thảo có thể viết trong một thời gian  ngắn, nhưng vì phải sống lại là quá đau khổ đi nên nó mới kéo dài bảy năm trời.

Thanh Trúc: Trong cuốn We Are Here, viết lại cuộc sống của những người Việt Nam đến định cư bên Australia có khó như là đào bới trong ký ức của gia đình mình hay không?

Nguyễn Cát Thảo: Thảo nghĩ kinh nghiệm của gia đình Thảo cũng là kinh nghiệm của rất nhiều gia đình Việt Nam ở Úc nói riêng và cộng đồng Việt hải ngoại nói chung. Tuy rằng có nhiều khó khăn, như vậy mà ba mẹ Thảo và những gia đình Việt Nam lúc nào cũng giữ tư cách, tự trọng và minh bạch. Thảo thấy những quan điểm sống về  trách nhiệm bản thân, gia đình và xã hội,  hành động của mình là đại diện cho dân tộc của mình, thì Thảo thấy phải ghi lại. Thảo viết cuốn sách Chúng Ta Đã Đến là chúng ta đã đến nơi có tự do và mình có thể được yên bình.

site_197_Vietnamese_412363-400.jpg

Nguyễn Cát Thảo và tự truyện We Are Here

Thanh Trúc: Trong lúc viết tập tự truyện này, như Thảo nói, Thảo cũng phải nghiên cứu tìm tòi số liệu phải không?

Nguyễn Cát Thảo: Xem lại thống kê của những người được sống sau hành trình vượt biên là không có nhiều, nhất là những người đi đường bộ. Sau khi nghiên cứu Thảo người đi vượt biên bằng thuyền cỡ 50% sống, vượt biên bằng đường bộ như cha mẹ Thảo là 10% sống, vậy là 90%  đã chết, Thảo  mới thấy  10% sống này mới là phép lạ, cái phép lạ là chúng ta đã đến nơi này.

Thanh Trúc: Cuốn sách We Are Here, Chúng Ta Đã Đến, được nhà xuất bản nào ở Australia phát hành cho Thảo?

Nguyễn Cát Thảo: Nhà xuất bản ALLEN&UNWIN,  cũng là nhà xuất bản rất uy tín đã xuất bản cuốn sách Harry Potter rất nổi tiếng. ALLEN&UNWIN   hợp tác với Thảo vì họ nhận xét câu chuyện này đáng để  kể và chia sẻ.

Thanh Trúc: Tập  truyện Anh ngữ về đời tị nạn và hội nhập của thế hệ thứ nhất, dưới ngòi bút của người thuộc thế hệ thứ hai như Thảo, được những bạn đồng trang lứa đón nhận ra sao?

Thế hệ sau này sinh ra lớn lên ở Úc thì cách nào để duy trì lại câu chuyện của cha mẹ và câu chuyện cộng đồng Việt Nam của mình, cái sức sống và sự can đảm của dân tộc mình?
– Nguyễn Cát Thảo

Nguyễn Cát Thảo: Rất là nhiệt tình, Thảo thấy rất xúc động là những người thế hệ thứ nhì, thế hệ như Thảo, đã đọc đã viết email cho Thảo. Những email đầy cảm xúc nói với Thảo là sự khó khăn về ngôn ngữ đã tạo ra một bức tường giữa cha mẹ và con cái, và mối quan hệ  giữa cha mẹ với con cái trở thành một quan hệ về giao dịch, không có chiều sâu. Ví dụ “ăn  cơm chưa”, “đi học thế nào”  vậy thôi. Họ cũng chẳng hỏi cha mẹ về cái lai lịch của mình, về câu chuyện của mình ở Việt Nam, hồi thời trẻ cha  mẹ mình như thế nào như là Thảo kể trong cuốn sách We Are Here.

Thanh Trúc: Vậy là We Are Here đã đóng góp phần nào trong việc đưa hai thế hệ thứ nhất và thứ nhì lại gần nhau, hiểu nhau hơn, phải không?

Nguyễn Cát Thảo: Thì sự đóng góp nhỏ của Thảo thông qua cuốn sách này là mới là đầy ý nghĩa và Thảo cũng rất là xúc động. Ở Úc thì Thảo đã nhận được rất nhiều email từ những người trẻ, sinh ra  và lớn lên ở Úc, nói với Thảo rằng  cuốn sách của Thảo thúc đẩy họ mong muốn, thúc đẩy họ tìm hiểu chính cái lịch sử của gia đình họ, tạo cách có thể gần gủi và hiểu cha mẹ của họ hơn.

Thanh Trúc: Thảo sinh ra trong trại tị nạn Thái Lan, lớn lên rồi đi học ở Úc, làm cách nào mà Thảo nói tiếng Việt giỏi như vậy?

Nguyễn Cát Thảo: Thứ nhất Thảo vô cùng cám ơn ba mẹ vì ba mẹ giáo dục Thảo là Uống Nước Nhớ Nguồn, tuy rằng sống ở hải ngoại mà luôn luôn mình phải nhớ nguồn của mình ở đâu. Mình là người Việt Nam nhưng cũng phải biết là mình đang sống ở Úc. Thảo là người Úc nhưng Thảo cũng là người Việt Nam, ba mẹ đã hướng dẫn cho Thảo biết những cái tốt đẹp của văn hóa Việt Nam như thế nào để mình luôn luôn tự hào về dân tộc Việt Nam của mình. Thảo giữ được ngôn ngữ và phong tục Việt Nam vì cha mẹ của Thảo.

Thanh Trúc: Hãy kể lại một chút về chuyện Nguyễn Cát Thảo từng đại diện giới trẻ Australia đến Diễn Đàn Liên Hiệp Quốc ở New York 11 năm về trước, khi đó Thanh Trúc đã phỏng vấn em rồi, nhớ không?

Nguyễn Cát Thảo: Năm 2004 Thảo được chọn là người đại diện cho tuổi trẻ người Úc ở diễn đàn Liên Hiệp Quốc tại New York. Năm đó Thảo là người đầu tiên gốc tị nạn và người Việt Nam đầu tiên được bổ nhiệm vào vị trí này. Đó cũng là cơ hội rất đặc biệt và Thảo đã học hỏi  được rất nhiều lúc làm việc cho Liên Hiệp Quốc ở New York.

Thanh Trúc: Bây giờ Thảo là luật sư, Thảo có nghĩ mình đã thành công trong cuộc sống hay chưa, những chuyện gì Thảo sẽ làm trong những ngày tới?

Nguyễn Cát Thảo: Hiện tại Thảo cũng là thành viên tư vấn hoặc là giám đốc vài tổ chức từ thiện hoặc tổ chức phát triển cộng đồng. Nhưng cái điều ba mẹ dạy cho Thảo và Thảo muốn nhấn mạnh rằng một cuộc sống ý nghĩa và sự thành công là một cuộc sống mình có thể đóng góp cho xã hội.

Thảo nghĩ Thảo có tham vọng làm những chuyện lớn nhưng mà thật ra những việc Thảo muốn thực tập hàng ngày là phải luôn luôn có một tư tưởng giúp người khác, đóng góp cho xã hội và sống không phải cho riêng mình. Có thể một chuyện rất nhỏ nhưng mình phải thường xuyên làm, giống như cái consciousness (ý thức) cái practice (tập luyện) hàng ngày. Điều quan trọng là cách sống hàng ngày có trách nhiệm cho bản thân, cho  cộng đồng, cho xã hội hay không.

Thanh Trúc: Cảm ơn Nguyễn Cát Thảo về bài phỏng vấn nhân đề cập đến tập truyện We Are Here Chúng Ta Đã Đến mà Thảo mất 7 năm để viết xong.

Liên lạc góp ý với Thanh Trúc: nguyent@rfa.org

NGHE TIẾNG CHÚA NÓI

NGHE TIẾNG CHÚA NÓI

Tĩnh tâm là những ngày nhìn lại linh hồn mình, xét xem tôi đang đi về đâu, ý nghĩa cuộc đời, để rồi chìm sâu hơn nữa trong đời sống tìm kiếm ơn thánh.  Trong những ngày này, người tĩnh tâm thường đặt câu hỏi làm sao tôi có thể nghe tiếng Chúa nói.

Trong cuộc sống, người ta rất thường phân vân, đâu là tiếng Chúa, đâu là tiếng của chính mình.  Khi phải quyết định một vấn đề gì đó hệ trọng, họ tới nhà thờ cầu nguyện, mong nghe được tiếng Chúa dạy.  Họ cầu nguyện nhưng phân vân, rồi vẫn không biết làm sao quyết định.

Nghe là một nghệ thuật không dễ.  Học một ngôn ngữ bao giờ cũng cần có thời gian.  Phải nghe nhiều lần mới quen.  Nghe trong định nghĩa bình thường là âm thanh vật lý vang lên, rồi truyền qua những làn sóng mà đến các thần kinh của tai.  Thần kinh ghi những ký hiệu này, cất trong ngăn kéo của máy tính não bộ.  Khi gặp lại âm thanh ấy thì não bộ cho nó một nhận định và một giá trị.  Việc nhận định càng dễ nếu bão bộ càng quen âm thanh này.  Nghĩa là âm thanh ấy được lập đi lập lại nhiều lần.

Tập nghe để phân biệt âm thanh này với âm thanh khác cũng đã khó.  Nhưng nghe âm thanh là tiếng nói của lòng thì bước sang một chiều sâu hơn nữa rồi.  Vì tiếng nói của lòng không là âm thanh vật lý, nó thiêng liêng, vô hình.  Cũng tiếng cười, nhưng ý của nó có thể không làm vui, mà là mỉa mai, riễu cợt.  Hiểu tâm hồn nhau là một tiếng nghe đòi nghệ thuật trong đó có yêu, có hy sinh, có tế nhị, có mình muốn thuộc về người đó.  Vì thế mà có khi sống bên nhau chẳng hiểu ngôn ngữ của nhau.

Mẩu đối thoại giữa ba người, Đức Kitô, ông Tôma và Philipphê cho thấy sự lúng túng về loại ngôn ngữ này.

Chúa nói: “Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi”

Ông Tôma thưa: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết được đường?”

Đức Kitô đáp: “Thầy là đường, là sự thật, là sự sống.  Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.”

Ông Philipphê đáp: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chũng con mãn nguyện.”

Đức Kitô đáp: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philipphê, anh chưa biết Thầy ư?” (Yn 14:1-9).

Chúa nói là Chúa đi đâu thì các ông ấy biết đường rồi.  Nhưng tôma lại thưa các ông ấy không biết Chúa đi đâu.  Các ông muốn biết Chúa Cha, Chúa Yêsu lại bảo ở với nhau lâu vậy rồi mà chưa biết được ư.

Cuộc đối thoại cứ như mỗi người nói một nẻo.

Đọc lại mẩu chuyện đối thoại ấy để thấy nghe là một công trình phải luyện tập, phải có thời gian, phải quen nhau nhiều.  Nghe người nói với người đã không dễ, bây giờ nghe Chúa nói là tiếng nói vô âm thanh thì làm sao nghe.

Khó, nhưng không có nghĩa là không nghe được.  Tiếng nói tình yêu thường là tiếng nói bằng con tim hơn bằng ngôn ngữ.  Khi hai người thương nhau, họ nói một thứ ngôn ngữ riêng, không theo định nghĩa của tự điển nữa.  Họ nói bằng ánh mắt.  Họ hiểu bằng tâm tư.  Họ ngỏ ý bằng một chút hờn.  Họ muốn người khác bắt ý bằng một chút giận.  Đó cũng là một thứ ngôn ngữ không có âm thanh.  Như vậy, ngôn ngữ của Chúa cũng có thể nghe, cũng có thể hiểu.  Một biến cố đau khổ xẩy đến có thể như cái trách của Chúa gởi cho ta một nhắc nhở.  Một chút cắn rứt lương tâm có thể so sánh như một sự dỗi hờn của hai người đang thương nhau.

Trở lại vấn đề nghe là một nghệ thuật phải luyện tập, ta thấy yếu tố quan trọng nhất là phải quen với ngôn ngữ ấy.  Vì thế, cứ đợi khi có một vấn đề gì đó rồi mới hỏi Chúa thì e rằng khó hiểu được ngôn ngữ của Ngài.  Dụ ngôn người chăn chiên và đàn chiên cho ta hình ảnh khá rõ về nghệ thuật nghe này. Ta có thể chia đàn chiên làm ba loại: Một loại không quen ngôn ngữ của chủ, một loại chỉ nghi ngờ tiếng nói của chủ, một loại nhận ra tiếng chủ ngay.

Không Quen Ngôn Ngữ

Tiếng gọi trong đêm là tiếng gọi gian nan.  Không biết ai gọi.  Không biết từ đâu đến.  Một lúc nào đó bất ngờ có tiếng gọi tên mình.  Trong đêm tối, con chiên này bừng dậy.  Kẻ cắp giấu mặt cho khỏi bị nhìn.  Tên trộm nào cũng ưa bóng tối.  Bầy chiên đang ngủ ngon, bỗng có tiếng gọi.  Hạng chiên không quen ngôn ngữ của người chăn là loại không khi nào gần chủ, không nói chuyện với chủ.  Trong đàn chiên, chúng là những con chạy ở cuối đàn.

Đúng ra, nó không phải là những con chiên theo chủ mà là chỉ lẽo đẽo theo đàn chiên để sống nhờ.  Bởi đó, trong đêm, khi kẻ trộm giả vờ tiếng người chăn mà gọi thì chúng không thể phân biệt được.

Một người không có đời sống cầu nguyện nhiều cũng giống như vậy.  Trong đêm tối của xã hội, họ không phân biệt được đâu là tiếng nói của sự thật, đâu là ngôn ngữ nguỵ biện đánh lừa lương tâm.  Hạng chiên không bao giờ gần chủ thì khi gặp thử thách trong tiếng gọi giữa đêm khuya chúng sẽ bị kẻ cắp đánh lừa.  Một linh hồn thiếu đời sống nội tâm kết hiệp qua cầu nguyện, họ cũng dễ bị lừa như thế trong những phán quyết của tiếng nói lương tâm.  Loại lương tâm này khi thấy một lời mời quyến rũ, say mê là hành động ngay, không phân biệt được phải trái.

Nghi Ngờ Tiếng Người Chăn

Loại thứ hai này khá hơn.  Những con chiên này phân vân nhiều khi nghe tiếng gọi.  Chúng sẽ suy nghĩ chứ không vội chạy theo, nhưng rất khó mà quyết định.  Loại chiên này đôi khi gần chủ nên cũng nghe tiếng chủ, nhưng vì không gần chủ nhiều, nên lúc nghe, lúc không.  Có nói chuyện với chủ, nhưng ít thôi.  Không quen tiếng chủ lắm nên trong đêm khuya chúng phân vân, lưỡng lự, khó phân biệt nổi.  Giống người mới bắt đầu học một ngôn ngữ, hiểu lầm, hiểu không hết ý của người nói là chuyện thường.  Nếu con chiên này nghe tiếng gọi trong đêm mà vẫn ở lại trong đàn cũng là cầu may, chứ không có một thái độ tri thức dứt khoát.

Người lâu lâu mới cầu nguyện, có việc mới chạy tới Chúa cũng giống như vậy.  Có nghe tiếng Chúa mà không rõ lắm.  Họ phân vân không biết có phải tiếng Chúa hay là mình nói mà thôi.  Vì thế, những quyết định của họ rất nửa chừng.  Tâm hồn họ không hẳn là muốn ở lại trong tội, nhưng cũng chẳng hân hoan lên đường.  Một khi không dứt khoát thì không đủ năng lực hành động, nên đời sống thiêng liêng mệt mỏi.

Nhận Ra Tiếng Chủ

Không tên trộm nào lừa được loại chiên sau cùng này.  Tiếng gọi bất chợt vang lên trong đêm.  Nó giật mình dậy, nghe xong, nó nhận định rồi tiếp tục giấc ngủ bình an.  Nó biết ngay tiếng giả đó là của bóng tối.  Loại chiên này ngày nào cũng nói chuyện với chủ, ngày nào cũng nghe âm thanh người dẫn mình đi, nên chúng quá quen rồi.  Không tiếng nói nào bắt chước tiếng chủ được.  một tiếng gọi vang lên, nó phân biệt ngay đấy là tiếng chủ hay tiếng người lạ.

Ma quỷ cũng như những tên trộm chiên, chúng đợi đêm tối là lúc lương tâm phải lựa chọn những hướng đi mà đến xúi giục ta.  Bóng tối có những luận cứ tinh vi, những lý do xem ra rất chính đáng. Người có đời sống kết hiệp với Chúa thì nhận ra ngay đâu là con đường phải đi.  Họ có những quyết định chính xác, đúng.  Bóng tối khó mà lừa được những tâm hồn này.

Để nghe tiếng Chúa, yếu tố đầu tiên phải lưu tâm là một trái tim sạch tội.  Điều này ta cảm nghiệm rõ là sau mỗi lần nhận bí tích hoà giải, ta thấy tâm hồn thanh thản, vui tươi.  Vì thế, nếu một tâm hồn muốn hỏi Chúa, muốn nghe tiếng Ngài, linh hồn đó cần phải thanh tẩy linh hồn, đến gặp gỡ Chúa trong bí tích hoà giải trước đã.  Giữ một trái tim sạch tội, rồi sau đó mới hy vọng dễ nhận định tiếng Chúa nói qua lương tâm.

Trước một quyết định quan trong trong đời sống, như ngày truyền chức, ngày nhận một sứ vụ quan trọng, Giáo Hội khuyên những người này phải tĩnh tâm.  Các tu sĩ theo luật, hàng năm phải tĩnh tâm.

Tĩnh tâm là những ngày cầu nguyện đặc biệt hơn, nhiều hơn.  Cứ hàng tháng, hàng năm lập đi lập lại nhiều lân tĩnh tâm như thế để tâm hồn ấy quen cách nói chuyện.  Khi quen rồi, lúc phải quyết định một điều gì trong đời sống, tâm hồn này dễ vững tâm, bình an.  Khi cuộc sống đi sai đường sẽ dễ nhận ra.

Tĩnh tâm là phương pháp sư phạm học nghe ngôn ngữ thiêng liêng, vì thế ai cũng cần.  Nhiều người không nhận định rõ nên đếm xem mình đã tĩnh tâm bao nhiêu lần để so sánh với người khác và tự cho mình một thứ “tốt nghiệp” qua những lần tĩnh tâm ấy.

Có người đi tĩnh tâm để cho biết là gì rồi sau đó thôi không tĩnh tâm nữa.

Tĩnh tâm không phải là chỉ để giải quyết một vấn đề mà là hành trình tập nghe.  Tiếng Chúa có sức mạnh.  Chẳng ai nghe đủ và nghe hết, bởi đó, không thể có vấn đề tĩnh tâm như một thứ “tốt nghiệp”, một thứ chứng chỉ là tôi đã đi tĩnh tâm rồi, tôi biết rồi, tôi không cần đi nữa.

Chúa dành một thời gian rất dài, 40 ngày trong sa mạc để cầu nguyện.  Trong đời sống hoạt động, Chúa tiếp tục tìm nơi thinh lặng để cẩu nguyện.

“Sau khi giải tán đám đông, Người đi riêng lên núi mà cầu nguyện” (Mt 14:23).

“Trong những ngày ấy, Đức Yêsu đi ra núi cầu nguyện, Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (Lc 6:12).

Chúa cũng bảo các tông đồ phải cầu nguyện.

“Anh em phải tỉnh thức và cầu nguyện, hầu đủ sức thoát khỏi điều sắp xẩy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21:36)

Nghe là một nghệ thuật không thể qua một buổi sớm, đến một buổi chiều mà quen.  Vấn nạn con không cầu nguyện, chỉ khi cần đến Chúa, con mới đên hỏi Chúa đôi câu.  Không quen ngôn ngữ của Chúa nên con cho rằng Chúa không nói.

Lạy Chúa, vấn đề là con phải học nghe, chứ không phải là Chúa có nói hay không?

LM Nguyễn Tầm Thường, S.J

Tại sao chúng ta nghèo?

Tại sao chúng ta nghèo?

Nguyễn Hưng Quốc

Trong cuộc gặp gỡ với 40 doanh nhân trẻ vào chiều 12 tháng 8 vừa qua, sau khi nghe những lời than thở về những bất cập trong các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tại Việt Nam của họ, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đặt câu hỏi: “Tại sao chúng ta tốt mà vẫn cứ nghèo?” Rồi ông nhấn mạnh: “Nhất định phải đổi mới mạnh mẽ hơn.”

Trong câu hỏi của Vũ Đức Đam có một nhận định chính xác: Việt Nam nghèo. Chúng ta không những nghèo hơn các nước phát triển trên thế giới mà còn nghèo hơn hầu hết các quốc gia trong khu vực. Trong khu vực, chỉ giới hạn trong khối ASEAN, chúng ta nghèo hơn Singapore, Brunei, Malaysia, Indonesia, Philippines, Miến Điện và Thái Lan, đã đành. Chúng ta còn có nguy cơ bị hai nước láng giềng vốn thường bị xem là nghèo hơn và yếu hơn, Campuchia và Lào, qua mặt.

Nhưng toàn bộ câu hỏi của Vũ Đức Đam, “Tại sao chúng ta tốt mà vẫn cứ nghèo?” lại sai.

Sai ở nhiều điểm.

Thứ nhất, cách đặt vấn đề sai. Chuyện tốt hay xấu không có quan hệ gì đến chuyện giàu nghèo. Để giàu, người ta cần óc sáng kiến, năng lực lao động, sự cần cù cùng với một số điều kiện thuận lợi và may mắn nữa chứ không dính líu gì đến tính cách hay đạo đức. Trên thế giới, không ai đặt vấn đề như vậy với các tỉ phú hay với các cường quốc kinh tế.

Thứ hai, sai ở mệnh đề “chúng ta tốt”. Cái gọi “chúng ta” ở đây là ai? Là những người tham dự cuộc hội thảo ư? Căn cứ vào đâu để khẳng định họ tốt? Rộng hơn, “chúng ta” đây là người Việt Nam nói chung chăng? Lại càng mơ hồ. Không có dân tộc nào là tốt cũng như không có dân tộc nào là xấu. Dân tộc nào cũng bao gồm những người tốt và những kẻ xấu. Một sự khái quát hoá, cho dân tộc này tốt hơn những dân tộc kia không những sai lầm về logic và thực tế mà còn dễ có nguy cơ dẫn đến những thái độ kỳ thị chủng tộc, điều mà giới học thuật Tây phương cho là cấm kỵ.

“Chúng ta” ở đây là đảng Cộng sản hiện đang cầm quyền chăng? Khẳng định như thế không những sai mà còn là sai lầm một cách lố bịch. Từ sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu, khi những sự tàn ác của các đảng Cộng sản ở những nơi ấy bị vạch trần, người ta thấy rõ là không có chế độ cộng sản nào là tốt cả. Tất cả đều giả dối, độc tài và tàn bạo. Số nạn nhân bị giết chết hoặc đoạ đày cho đến chết dưới tay của Stalin và Mao Trạch Đông còn nhiều hơn tổng số người bị giết chết dưới tay phát xít Đức trong chiến tranh thế giới lần thứ hai. Riêng ở Việt Nam, chế độ cộng sản cũng đã gây ra biết bao nhiêu tang thương, từ các chiến dịch cải cách ruộng đất ở miền Bắc đến các phong trào đánh tư sản mại bản và xua người dân đi kinh tế mới ở miền Nam, từ các vụ thảm sát ở Huế trong Tết Mậu thân đến các trại cải tạo sau năm 1975. Đó là chưa kể đến cuộc chiến tranh kéo dài cả hai mươi năm mà họ gây ra đã khiến cho ít nhất ba triệu người bị mất mạng ở cả hai miền. Như vậy là tốt ư?

Nếu cái nghèo của Việt Nam hiện nay không xuất phát từ chuyện tốt hay xấu, nó xuất phát từ đâu? Câu trả lời, thật ra, với đa số người dân Việt Nam, khá hiển nhiên: do chế độ Cộng sản. Điều này đúng không những chỉ ở Việt Nam mà còn ở phạm vi toàn thế giới: Có quốc gia cộng sản nào thực sự giàu có? Rõ nhất là ở những quốc gia bị chia đôi: Đông Đức nghèo hơn hẳn Tây Đức; Bắc Hàn thua xa Nam Hàn. Riêng tại Việt Nam, trước năm 1975, điều kiện sinh sống ở miền Nam cũng bỏ xa miền Bắc.

Nhưng điều gì khiến chế độ Cộng sản làm kiềm hãm sự phát triển đất nước? Có ba lý do chính: các chính sách sai lầm, tham nhũng và độc tài.

Trước phong trào đổi mới, các chính sách sai lầm về kinh tế và xã hội, đặc biệt cái gọi là chính sách giá – lương – tiền, đã biến Việt Nam thành một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới. Lạm phát tăng cao. Dân chúng bị ngập chìm trong đói khổ, không có đủ cơm ăn; trong nhiều năm liền, phải ăn bột mì và bo bo do Nga viện trợ. Sau thời đổi mới, được ít nhiều cởi trói, kinh tế phát triển khá nhanh, nhưng không nhanh đủ để giúp Việt Nam tiến bộ so với các quốc gia láng giềng. Các đại công ty hay tập đoàn kinh tế quốc doanh liên tục thua lỗ, có khi bị phá sản, để lại những gánh nợ nặng nề kéo dài tận đến các thế hệ mai sau. Ngay trong cuộc gặp gỡ với các doanh nhân trẻ ngày 12 tháng 8 vừa qua, trước mặt Vũ Đức Đam, nhiều người cũng lên tiếng phê phán các chính sách sai lầm của chính phủ khiến công việc làm ăn của họ gặp rất nhiều khó khăn. Những sự sai lầm trong chính sách này khiến các nỗ lực gọi là đổi mới tại Việt Nam chỉ là những sự vá víu, lẩn quẩn, từ cái sai này đến cái sai khác theo kiểu tổng kết của dân gian: “Sửa sai rồi lại sửa sai / Sửa thì cứ sửa, sai thì cứ sai.”

Nguyên nhân thứ hai làm kiềm hãm sự phát triển kinh tế tại Việt Nam là tham nhũng. Tham nhũng thể hiện ở hai khía cạnh: Một là, mọi quyết định về kinh tế đều không xuất phát từ lợi ích chung mà chỉ tập trung vào quyền lợi của một số cá nhân. Phong trào xây tượng đài hoặc các công trình kiến trúc ào ạt ở Việt Nam là một ví dụ: Người ta xây dựng như vậy không phải vì công việc ấy thực sự cần thiết mà chỉ vì, với những công trình xây dựng ấy, người ta có thể kiếm chác để bỏ tiền vào túi mình. Lớn hơn, chính sách đề cao vai trò của các công ty quốc doanh mặc dù hiệu quả kinh tế của chúng rất kém cũng xuất phát từ cùng một lý do: để dễ chia chác quyền lợi. Hai là, với tệ nạn tham nhũng, người ta khai khống và rút ruột các công trình xây dựng để cuối cùng, tất cả các công trình xây dựng đều có kết quả cực kém: Nhiều con đường mới xây xong đã lún; nhiều công trình mới dựng xong đã bị đổ, v.v… Hậu quả của nạn tham nhũng tràn lan này là cán bộ càng lúc càng giàu trong khi đất nước thì càng lúc càng nghèo nàn và kiệt quệ.

Nguyên nhân thứ ba và cũng là nguyên nhân quan trọng nhất là độc tài. Giành độc quyền lãnh đạo, chế độ Cộng sản loại trừ hai yếu tố quan trọng nhất cho sự phát triển. Một là, loại trừ những trí tuệ và tài năng không nằm trong hệ thống đảng trị. Hai là, nó cũng loại trừ sự minh bạch và cùng với nó, sự phản biện của các trí thức độc lập. Hậu quả của cả hai sự loại trừ này là, một, chính quyền chỉ quy tụ được những kẻ bất tài, hoặc phần lớn là những kẻ bất tài; và hai là, nó mất khả năng tự điều chỉnh và đổi mới thực sự.

Nói một cách tóm tắt, để trả lời cho câu hỏi của ông Vũ Đức Đam, “tại sao chúng ta nghèo?”, chúng ta có thể khẳng định dứt khoát: Chúng ta nghèo, cứ nghèo mãi là vì sự thống trị độc tài và độc đoán của đảng Cộng sản. Biện pháp khắc phục, do đó, không phải là “đổi mới” mà là dân chủ hoá.

Một bài học hiển nhiên trên thế giới: Không có quốc gia dân chủ thực sự nào mà nghèo cả.

Một cuộc cách mạng vô nghĩa

Một cuộc cách mạng vô nghĩa

Blog RFA

Lê Diễn Đức

19-08-2015

H1

Vào ngày 17 tháng 8 năm 1945, công chức Hà Nội được lệnh của Khâm Sai Phan Kế Toại tổ chức một cuộc mít tinh ở trước Nhà Hát Lớn Hà Nội.

Hàng ngàn người với lá cờ vàng ba sọc đỏ (có sọc giữa dứt quãng, cờ Quẻ Ly) xuống đường mừng ngày độc lập, sau khi Đế quốc Nhật Bản tuyên bố “trao trả độc lập cho Việt Nam”.

Hoàng đế Bảo Đại trong ngày 11 ttháng 3 năm 1945 đã tuyên bố độc lập và thành lập chính quyền mới, với chính thể quân chủ lập hiến do Trần Trọng Kim làm Thủ tướng. Tên nước được gọi là Đế quốc Việt Nam.

Bỗng nhiên một lá cờ đỏ sao vàng rất lớn được thả từ ban công của nhà hát xuống, một người leo lên khán đài cướp micro để hô khẩu hiệu ủng hộ Việt Minh và hát bài Tiến Quân Ca. Cuộc biểu tình của công chức biến thành cuộc biểu tình của Mặt Trận Việt Minh.

Nhạc sĩ Tô Hải, một người còn sống ở Sài Gòn, nhân chứng sống cho sự kiện ấy, mô tả lại, như thế.

Hai ngày sau, tức là 19 tháng 8, Việt Minh đứng ra tổ chức một cuộc mít-tinh lớn, cũng ở trước nhà hát Lớn Hà Nội. Sau đó, đoàn người đến chiếm phủ Khâm sai đại thần. Khâm Sai Phan Kế Toại đầu hàng, cờ quẻ Ly bị hạ xuống, cờ đỏ sao vàng được kéo lên.

Sau khi Việt Minh cướp được chính quyền tại Hà Nội và nhiều nơi khác, Thủ tướng Đế quốc Việt Nam Trần Trọng Kim ở Huế nộp đơn xin từ chức.

Ngày 22 tháng 8, Việt Minh gửi công điện yêu cầu Bảo Đại thoái vị. Bảo Đại chấp nhận và tuyên bố “Đáp ứng lời kêu gọi của Ủy ban cách mạng, tôi sẵn sàng thoái vị. Trước giờ quyết định này của lịch sử quốc gia, đoàn kết là sống, chia rẽ là chết. Tôi sẵn sàng hy sinh tất cả mọi quyền lợi, để cho sự đoàn kết được thành tựu, và yêu cầu đại diện của Ủy ban (Việt Minh) sớm tới Huế, để nhận bàn giao”.

Hoàng đế Bảo Đại lúc bấy giờ đã nói một câu nổi tiếng: “Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị”.

Thế là cách mạng tháng 8 thành công! Một cuộc cách mạng không có xung đột vũ trang, chẳng có tên thực dân Pháp hay phát xít Nhật nào trên đường phố Hà Nội, không một người chết. Việt Minh đã cướp chính quyền dễ như trở bàn tay, bằng lợi dụng được tình thế giao thời hỗn loạn của lịch sử khi phát xít Nhật đã đầu hàng đồng minh vô điều kiện và đang lúng túng chờ quân đồng minh tới giải giáp.

Và chỉ sau khi Hoàng đế Bảo Đại thoái vị, Hồ Chí Minh cùng với các nhà lãnh đạo khác của Đảng Cộng Sản Việt Nam mới từ Tân Trào trở về Hà Nội và ngày 2 tháng 9 độc tuyên ngôn độc lập. Nhà nuớc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ra đời.

Mặc dù tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi, mang tiếng là Chính phủ thân Nhật, bù nhìn, nội các của Thủ tướng Trần Trọng Kim đã làm được những quan trọng như :

– Thả hàng ngàn tù chính trị bị Pháp giam giữ trước đó bao gồm đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương và các đảng phái quốc gia, đồng thời cho phép các tổ chức, hội đoàn chính trị được hoạt động công khai.

– Tuyên bố nước Việt Nam đôc lập, và hủy bỏ Hiệp ước Bảo hộ 1884 (Hòa ước Patenôtre).

–  Thống nhất về mặt danh nghĩa, đưa đất Nam Kỳ trở lại với nguồn cội Việt Nam.

– Thay chương trình học bằng tiếng Pháp chuyển sang học bằng tiếng Việt. Hành chánh được cải tổ với việc dùng chữ Việt trong tất cả các giao dịch của chính phủ…

Việt Minh là tên gọi tắt của Việt Nam Độc lập Đồng minh, liên minh chính trị do Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập ngày 19 tháng 5 năm 1941 với mục đích “Liên hiệp tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đang cùng nhau đánh đuổi Nhật – Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập”.

Ngày 11 tháng 11 năm 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán để đối phó với chủ trương tiêu diệt đảng của Pháp, Trung Hoa Dân Quốc và các đồng minh của họ, nhưng thực chất vẫn nắm vai trò lãnh đạo. Đến tháng 3 năm 1951 khi Việt Minh bị giải tán và Đảng Cộng Sản trở lại đúng với vị trí của họ.

Mục đích của Việt Minh trong sáng, rõ ràng đã đánh đúng vào lòng yêu nước, tinh thần chống Pháp, Nhật, nên tập hợp được lực lượng quần chúng đông đảo. Khi Pháp trở lại Đông Dương, Việt Minh tiếp tục cuộc vận động, lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc kháng chiến 9 năm và làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ.

Theo Hiệp định Geneva 1954, Việt Nam bị chia thành hai phần, từ vĩ tuyến 17 trở ra thuộc miền Bắc Cộng Sản, từ vĩ tuyến 17 trở vào thuộc Việt Nam Cộng Hoà.

Đảng Cộng Sản Việt Nam giành độc quyền cai quản trên toàn miền Bắc, thực hiện Cải cách Ruộng đất vô nhân đạo làm chết oan hàng trăm ngàn người, bắt nông dân vào hợp tác xã nông nghiệp, thực thi chính sách kiểm duyệt, quản lý hộ khẩu, phân phối lương thực, chất đốt, cải tạo công thương, v.v… Một nhà nước không được dân bầu ra thông qua bầu cử tự do như Cương lĩnh của Việt Minh đã xác định.

Một chế độ bạo lực và khủng bố ngự trị trên toàn miền Bắc. Tất cả những tiếng nói bất đồng chính kiến hay phản kháng chế độ đều bị vùi dập và đàn áp dã man. Một bộ máy tuyên truyền, giáo dục khổng lồ của chế độ sử dụng hết công suất nhồi sọ con người ngay từ khi còn bé.

Giờ đây người ta mới hiểu ra rằng, tại sao ngay từ cuộc cách mạng tháng Tám, Việt Minh đã lấy cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ. Rõ ràng đây một cuộc khởi nghĩa cướp đoạt quyền lực và tiếm quyền có ý thức nhằm áp đặt hệ thống chinh trị cộng sản chuyên quyền.

Cũng với chế độ này, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Đảng Cộng Sản Việt Nam nhuộm đỏ toàn quốc. Với chiêu bài đánh đuổi ngoại xâm, họ đã đưa dân tộc vào một cuộc chiến đẫm máu và dai dẳng và cưỡng chiếm miền Nam.

Cụ Lê Hiền Ðức, một người đi theo cách mạng từ lúc còn nhỏ, một công dân chống tham nhũng nổi tiếng, đã viết bài “Phản cách mạng đã rõ ràng” sau khi chứng kiến vụ cưỡng chế đất đai của nông dân Văn Giang, Hưng Yên:

“Cuộc cách mạng mà lớp người chúng tôi đã tham gia 60-70 năm trước nay đã bị phản bội một cách trắng trợn, triệt để. Công hữu, sở hữu toàn dân chỉ là chiêu bài để tư hữu hoá, tư nhân hoá, biến của chung thành của riêng”.

“Ðảng Cộng Sản và Nhà nước CHXHCN Việt Nam thừa nhận ở Việt Nam, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đất đai rất tròng tréo, rắc rối, có nhiều thiếu sót và mâu thuẫn nhau. Nhưng ai là tác giả của chúng? Chính là họ. Ai được hưởng lợi từ chúng? Cũng chính là họ”.

Ông Huỳnh Nhật Tấn, cựu Phó giám đốc Trường Đảng tỉnh Lâm Đồng, đã phải cay đắng nói: “Tôi có lỗi với dân tộc. Chính cái hăng hái, nhiệt huyết của tôi đã góp phần dựng nên chế độ độc tài hiện nay, đã vô tình đem lại sự đau khổ hiện nay“.

Công nhân, giai cấp mà ĐCSVN gọi là đội quân tiên phong, trở thành lực lượng bần cùng của xã hội, bị các ông chủ tư bản bóc lột nặng nề, đồng lương không đủ sống, điều kiện làm việc khắc khổ.

Cuộc cách mạng tháng Tám trở nên vô nghĩa và mục đich của nó bị đảo ngược. Những kẻ cầm quyền mặc sức tham nhũng, ăn chặn. Bằng đồng tiền ăn cắp và ăn cướp, họ sống xa hoa trên sự nghèo đói của người lao động. Bất công, bất bình đẳng và suy thoái đạo đức xã hội nghiêm trọng, tệ hại còn hơn chế độ thực dân cũ.

Giống như đất nước Ba Lan sau Chiến tranh Thế giới II, thoát hiểm hoạ phát xít Đức thì bị hoạ cộng sản chụp xuống. Chế độ cộng sản dối trá, tàn nhẫn, tước đoạt quyền tự do của con người đến mức sau khi lật đổ nó vào năm 1989, Hiến pháp dân chủ cấm mọi hình thức tuyên truyền và hoạt động của chủ nghĩa Cộng sản.

Tất cả những điều tôi phân tích trên đây tương tự như nhận định của luật sư Nguyễn Văn Đài (trên trang Facebook), một nhà hoạt động dân chủ, đang sống ở Hà Nội:

“Làm cách mạng để xây dựng lên chế độ độc đảng toàn trị, không có tự do, dân chủ và nhân quyền. Đó là một cuộc cách mạng vô nghĩa và thất bại. Bởi chúng ta đã thay thế sự cai trị văn minh của giặc ngoại xâm bằng sự cai trị độc ác, tàn bạo, tham lam của giặc nội xâm”.

19/08/1991: Đảo chính tại Liên Xô

19/08/1991: Đảo chính tại Liên Xô

Nghiên cứu Quốc tế

19-08-2015

Nguồn:Soviet hard-liners launch coup against Gorbachev,” History.com (truy cập ngày 18/8/2015).

Biên dịch & Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng

Ảnh: Một chiếc xe tăng T-80 đứng trước Quảng trường Đỏ, đằng sau là Tháp Nabatnaya của Điện Kremlin. Nguồn: Wikimedia Commons.

Vào ngày này năm 1991, Tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev bị đặt dưới sự quản thúc tại gia trong một cuộc đảo chính do các thành viên cấp cao trong chính phủ cùng lực lượng quân đội và cảnh sát tiến hành.

Kể từ khi trở thành Tổng Bí thư Đảng Cộng sản năm 1985 và Tổng thống Liên Xô năm 1988, Gorbachev đã theo đuổi nhiều cải cách toàn diện trong hệ thống Xô viết. Kết hợp perestroika (cải tổ) nền kinh tế – trong đó chú trọng hơn vào các chính sách thị trường tự do – và glasnost (cởi mở hay công khai hóa) trong ngoại giao, ông đã cải thiện đáng kể quan hệ với nhiều nền dân chủ phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ.

Nhưng trong khi đó, trong nội bộ Liên Xô, Gorbachev phải đối mặt với nhiều chỉ trích mạnh mẽ, trong đó có các chính trị gia thủ cựu theo đường lối cứng rắn và các quan chức quân sự, những người cho rằng Gorbachev đang đưa Liên Xô đến bờ vực sụp đổ và đánh mất quyền lực của đất nước. Mặt khác, những nhà cải cách thậm chí còn cấp tiến hơn – đặc biệt là Boris Yeltsin, tổng thống của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa quyền lực nhất là Nga – cũng chê trách rằng Gorbachev hành động không đủ nhanh.

Cuộc đảo chính tháng 8 năm 1991 được tiến hành bởi những người có đường lối cứng rắn trong chính quyền Gorbachev, cũng như các lãnh đạo quân đội Liên Xô và Ủy ban An ninh Quốc gia (KGB), hay cảnh sát mật. Trong căn nhà nghỉ dưỡng của mình ở Crimea, Gorbachev bị quản thúc và ép phải tuyên bố từ chức, nhưng ông đã từ chối. Tuyên bố rằng Gorbachev bị bệnh, các lãnh đạo cuộc đảo chính, đứng đầu là cựu Phó Chủ tịch Gennady Yanayev, ban bố tình trạng khẩn cấp và cố gắng kiểm soát chính phủ.

Sau đó Yeltsin và những người ủng hộ ông trong Quốc hội đã can thiệp, kêu gọi người dân Nga tấn công và phản đối cuộc đảo chính. Khi quân đội cố gắng bắt giữ Yeltsin, họ đã vấp phải sự phản kháng của người dân có và không có vũ trang đang phong tỏa các con đường dẫn tới Quốc hội. Yeltsin leo lên một chiếc xe tăng và nói qua loa phóng thanh, đề nghị quân đội không quay lưng chống lại người dân và lên án cuộc đảo chính là “triều đại khủng bố mới.” Quân đội đã rút lui, một số người lính chọn tham gia phe phản đối đảo chính. Sau khi hàng ngàn người tràn lên các đường phố để phản đối, cuộc đảo chính sụp đổ chỉ trong ba ngày.

Gorbachev được thả và bay về Moskva, nhưng chế độ của ông đã bị giáng một đòn chết người. Trong ít tháng sau đó, ông giải tán Đảng Cộng sản, cho phép các nước Baltic độc lập, và đề xuất một chế độ liên bang lỏng lẻo hơn, dựa nhiều hơn vào cơ sở kinh tế giữa các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa còn lại. Tháng 12 năm 1991, Gorbachev từ chức. Tranh thủ sự ủng hộ sau khi đập tan cuộc đảo chính, Yeltsin nổi lên từ đống đổ nát của Liên Xô cũ như một nhân vật quyền lực nhất ở Moskva và trở thành lãnh đạo của Cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS) mới được thành lập.

CÂU CHUYỆN CÁI TÂM CỦA CON NGƯỜI

CÂU CHUYỆN CÁI TÂM CỦA CON NGƯỜI

Buổi trưa, tại sân ga của một thành phố lớn, một người phụ nữ tầm ngoài 30 tuổi đang mướt mồ hôi để vác lên vai túi hành lý lỉnh kỉnh của mình. Trên khuôn mặt của người phụ nữ ấy hằn lên sự vất vả, cực nhọc của một người lao động thấp kém. Chị đang đưa ánh mắt dường như vô vọng của mình khắp sân ga như để tìm kiếm một thứ gì đấy nhưng sau đấy lại tỏ vẻ thất vọng. Trông chị rất đáng thương.

Trên sân ga, người qua lại tấp nập. Ai đi qua người phụ nữ ấy đều ném về phía chị những cái nhìn ái ngại và thương cảm. Không ai có ý định dừng lại để giúp đỡ chị. Ðặc biệt là những người ăn mặc sang trọng, họ đều đi qua chị với tốc độ rất nhanh, dường như là họ nghĩ nếu đi chậm lại thì chắc chắn người đàn bà đó cũng kéo họ lại để lạy lục, nhờ vả việc gì đó.

– Anh để ý đấy nhé, không biết chừng chị ta sẽ nài nỉ xin tiền hoặc sẽ tìm cách kết bạn với mình để bị chị ta tra tấn trên suốt chuyến đi bằng những câu chuyện vừa dài vừa vô duyên, hoặc như chị ta sẽ mượn mình chiếc khăn mùi xoa để lau mồ hôi mà lau xong thì mình không dám xin lại hay như mượn bình nước uống rồi tu ừng ực thì vài ngụm đã hết veo. Ðúng là người nhà quê.  Một người phụ nữ ăn mặc trông có vẻ sang trọng bĩu môi và nói với người đàn ông cũng có vẻ sang trọng bên cạnh mình.

– Xin chào… xin…

Quả nhiên người phụ nữ tiến lại gần đám đông đang đứng đợi tàu. Nhưng dường như không đợi chị nói hết câu, mọi người đều xua tay và lắc đầu và nhanh chóng lảng ra chỗ khác. Không nản chí, người phụ nữ này lại men theo các cánh cửa sổ của các toa tàu rồi nhảy hẳn lên các toa chưa đến giờ xuất phát. Ði đến toa nào chị cũng mang một khuôn mặt như muốn cầu cứu, trông thật đáng thương và câu duy nhất thốt ra từ miệng người phụ nữ đáng thương này là: “Xin mọi người giúp đỡ cho tôi.”

Những người ngồi trên tàu tỏ ra rất khó chịu với người phụ nữ này. Có người thì xua tay ra hiệu xua đuổi, có người vừa thấy bóng dáng chị ở đầu toa vội lấy tờ báo che mặt giả vờ ngủ. Trên khuôn mặt của người đàn bà ấy lộ rõ vẻ thất vọng, chán nản.

“Mình đâu phải là thằng ăn trộm mà sao mọi người lại xử sự như thế nhỉ?” Người phụ nữ xót xa nghĩ.

Chị ta lại đi qua các toa tàu nhưng không ai muốn nghe chị trình bày hoàn cảnh của mình. Ðúng lúc đó, chị nhìn thấy một chàng trai có dáng vẻ rất thư sinh đang ngồi đọc báo. Chàng trai đang đọc báo rất chăm chú và dường như cậu ta không để ý đến mọi thứ xung quanh.

Nhẹ nhàng đi về phía chàng thanh niên, người phụ nữ cất tiếng nói:

– Xin lỗi cậu, cậu có thể giúp đỡ tôi được không?

Chàng trai bỏ tờ báo xuống, nhìn quanh một lúc rồi nhìn người phụ nữ nông thôn nọ:

– Xin lỗi, chị đang hỏi tôi ạ?

Người phụ nữ gật đầu.

– Xin anh giúp đỡ tôi với, tôi lên thành phố để tìm người bà con, nhưng tìm không ra, tiền bạc lại bị kẻ gian móc hết rồi. Muốn về quê nhưng không biết làm thế nào, cậu có thể mua giúp một tấm vé để tôi về quê không?

Sau khi nghe người phụ nữ đáng thương nói xong, nét mặt chàng thanh niên trông rất lưỡng lự. Dường như anh ta vừa muốn giúp vừa lại không muốn giúp người đàn bà đáng thương đó. Sau một thời gian im lặng, chàng trai bèn đưa tay vào túi quần của mình, khó khăn lắm mới móc ra được một đống tiền lẻ, ngại ngùng đưa cho người phụ nữ.

– Chị cầm lấy đi. Tôi… tôi chỉ còn có chừng này, không biết đủ hay không. Tôi cũng vừa mua vé để về quê nên không còn nhiều. Tôi lên thành phố này để kiếm việc, hy vọng tìm được một công việc kiếm được kha khá, nhưng khi lên thành phố, với tấm bằng trung cấp trong tay thì tôi không thể tìm ra được một việc gì để làm. Chị cầm tạm vậy.

Người phụ nữ rưng rưng cầm lấy những đồng tiền lẻ của chàng trai, khó khăn lắm chị mới thốt lên được hai tiếng “Cám ơn”.

Vừa quay gót đi về phía cuối toa thì chị nghe tiếng gọi với theo của chàng thanh niên nọ. Cậu ta hớt hải đi về phía chị và nói:

– Như thế này vậy, chị cùng quê với em, hay chị lấy tấm vé của em đi vậy.

– Thế còn cậu thì sao? Người phụ nữ ngạc nhiên hỏi.

– Số tiền em vừa đưa cho chị chỉ có thể mua đủ tấm vé xuống ga thứ ba xuất phát từ ga này, như vậy cách nhà em cũng không xa lắm, em có thể đi bộ mà. Chị cứ cầm lấy vé đi, em là con trai, thế nào mà chẳng được. Còn phụ nữ như chị thì không thể đi bộ về nhà trong đêm tối được. Thôi, chúc chị thuận buồm xuôi gió. Nào, đưa cho em đống tiền lẻ nào!

Nói xong, không kịp để người phụ nữ phản ứng gì, chàng trai vội cầm lại số tiền lẻ trong tay người phụ nữ và đưa lại cho chị tấm vé của mình. Sau đấy anh vội vàng đi ra khỏi tàu và đến quầy bán vé. Rất nhanh sau đó, chàng thanh niên lại lên tàu.

Người phụ nữ tiến lại gần phía chàng trai và cất tiếng hỏi:

– Sao cậu lại làm như thế, cậu không hối hận à?

Chàng trai lắc đầu:

– Không, chị ạ.

Trong ánh mắt của người phụ nữ đáng thương nọ ánh lên một niềm vui khôn xiết. Chị cầm tay chàng trai và nói:

– Anh bạn trẻ, xuống đây với tôi một lát.

Người phụ nữ kéo chàng trai ra khỏi nhà ga, vẫy một chiếc taxi, tự động mở cửa xe và quay lại nhìn chàng trai:

– Cậu lên xe đi. Hôm nay cậu chính thức là nhân viên của tôi.

Hoá ra, người phụ nữ này là con gái của một ông chủ tập đoàn sản xuất đồ chơi nổi tiếng. Ðể đi tìm một người trợ lý đáng tin cậy, chị đã phải hoá trang và đứng ở sân ga suốt 3 ngày qua.

Chị nói rằng: “Các bạn cho rằng tôi thật ngốc nghếch khi phải làm khổ mình như thế, nhưng thật ra nó thật sự xứng đáng. Khi đứng ở sân ga trong 3 ngày đó, tôi mới nhận ra rằng: Tìm được một người thực sự tốt trong cuộc sống xô bồ này quả là khó. Có thể, chàng thanh niên đó không có trình độ, hiểu biết nhiều như những người tốt nghiệp đại học hoặc cao hơn nữa. Nhưng điều đáng quý nhất và đáng trân trọng nhất là cậu ấy có cái ‘tâm’. Có cái ‘tâm’ trong cuộc sống thì mới có cái ‘tâm’ trong công việc được. Ðấy là thứ mà công ty tôi cần”.

Các bạn thấy đấy, một tấm vé để đổi lấy cả một sự nghiệp sáng lạn. Có thể nhiều người nghĩ đây chỉ là việc ngẫu nhiên, nhưng thực ra trong sự ngẫu nhiên đó lại có tính tất yếu của nó. Rất nhiều người đã có mặt ở trên sân ga, nhưng chỉ có chàng trai đó mới nhận được niềm hạnh phúc bất ngờ như vậy. Không phải ngẫu nhiên mà anh ta có được một cơ hội tốt đẹp đến như thế mà điều quan trọng là anh đã biết chia sẻ chữ ‘tâm’ của mình cho mọi người xung quanh.

Ðây là một câu chuyện hoàn toàn có thật mà tôi đã nghe được từ giám đốc của tôi.

Quang Ngọc

BỎ “ TIÊN HỌC LỄ” THÌ ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI SẼ RA SAO?

BỎ “ TIÊN HỌC LỄ” THÌ ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI SẼ RA SAO?

Nguyễn Văn Nghệ

Trước ngày “giải phóng” 30/04/1975 ở các phòng học của Trường Tiểu học Tư thục Cây Vông ( nằm cạnh nhà thờ giáo xứ Cây Vông, xã Diên Sơn, quận Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa) đều treo câu “Tiên học lễ, hậu học văn”. Lễ và Văn là nền tảng đào tạo nên một con người tốt cho xã hội. Sách Luận ngữ có viết: “bác ngã dĩ văn, ước ngã dĩ lễ” (dùng văn chương mở rộng kiến thức của ta, dùng lễ để ước thúc hành vi bản thân ta).

Sau “giải phóng” câu khẩu hiệu “Tiên học lễ ,hậu học văn” biến mất trong tất cả các trường học và mãi đến những năm cuối của thập kỷ 80 và đầu những năm của thập kỷ 90 của thế kỷ trước mới thấy xuất hiện lại trong tất cả các trường học trên cả hai miền Nam và Bắc của đất nước ta. Biển hiệu “Tiên học lễ hậu học văn” được ngành giáo dục cho sơn phết thật to được treo ở mặt trước của mỗi trường học.

Bổng dưng vào năm 2014 Trường Trung học cơ sở Tô Hoàng (Hà Nội) đã đi tiên phong bỏ biển hiệu “Tiên học lễ hậu học văn”. Bài viết: “ Đại học,học…đại và yêu nước có học” được đăng trên Vietnam.net ngày 18/05/2014 đã đăng tải sự kiện ấy: “…Không chỉ tổ chức chào cờ, xếp nghi thức, Trường Trung học cơ sở Tô Hoàng ở Hà Nội đã có cách biểu thị tinh thần tự tôn dân tộc “dài hơi” khi thể hiện tư tưởng thoát khỏi cái bóng ám ảnh của Khổng giáo trong trường học. Từ năm học này, trường đã thay biển hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” (của Khổng tử), bằng các câu của người Việt ( “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”) và UNESCO (“Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”)” (vietnamnet.vn/vn/giao-duc/175887/dai-hoc–hoc—-dai-va-yeu-nuoc-co-hoc.htlm).

Giữa các quốc gia trên thế giới luôn có sự tiếp thu văn hóa lẫn nhau không phân biệt Tây hoặc Tàu. Văn hóa hay chúng ta tiếp thu, văn hóa đồi bại thì chúng ta chối từ. Để có câu nói “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, ông Thân Nhân Trung cũng phải miệt mài tiếp thu những tinh túy từ Tứ thư, Ngũ kinh của Nho giáo mới đúc kết ra như vậy.

Bỏ “Tiên học lễ” thì đạo đức xã hội sẽ ra sao? Để trở thành một con người có văn hóa , thì phải có “Lễ”. Lễ là trật tự là khuôn phép. Lễ là cốt để giữ chừng mực cho sự hành vi của người ta : “ Đạo đức nhân nghĩa, phi lễ bất thành; giáo huấn chính tục, phi lễ bất bị; phân tranh biện tụng, phi lễ bất quyết; quân thần , thượng hạ, phụ tử ,huynh đệ, phi lễ bất định; hoạn học sự sư, phi lễ bất thân; ban triều , trị quân, lỵ quan, hành pháp, phi lễ uy nghiêm bất hành; đảo từ, tế tự, cung cấp quỷ thần, phi lễ bất thành, bất trang thị dĩ quân tử cung kính tổn tiết, thoái nhượng dĩ minh lễ” ( Đạo đức nhân nghĩa, không có lễ không thành; dạy bảo sửa đổi phong tục, không có lễ không đủ; xử việc phân tranh kiện tụng, không có lễ không quyết; vua tôi, trên dưới, cha con, anh em, không có lễ không định; học làm quan, thờ thầy, không có lễ không thân; xếp đặt vị thứ trong triều, cia trị quân lính, đi làm quan, thi hành pháp lệnh, không có lễ, không uy nghiêm; cầu khẩn ,tế tự, cung cấp quỷ thần, không có lễ không thành kính, không trang chính. Bởi thế cho nên quân tử dung mạo phải cung, trong bụng phải kính, giữ gìn pháp độ, thoái nhượng để làm sáng rõ lễ – Lễ kí: Khúc lễ thượng).

Lễ khiến cho hành vi của người ta hợp với đạo Trung dung : “ Cung nhi vô lễ tắc lao; thận nhi vô lễ tắc tỷ; dũng nhi vô lễ tắc loạn; trực nhi vô lễ tắc giảo” (Cung kính mà không có lễ thì phiền; cẩn thận mà không có lễ thành ra sợ hãi; dũng mà không có lễ thì loạn;trực mà không có lễ thành ra vội vã – Luận ngữ: Thái Bá VIII , 2).

Sự giáo hóa của lễ tinh vi lắm và có hiệu quả rất sâu xa: “Lễ chi giáo hóa dã vi, kỳ chỉ tà dã ư vị hình, sử nhân nhật tỷ thiện, viễn tội, nhi bất tự tri dã” (Sự giáo hóa của Lễ rất cơ mầu, ngăn cấm điều bậy ngay lúc chưa hình ra, khiến người ta ngày càng đến gần điều thiện, tránh xa điều tội, mà tự mình không hay biết – Lễ kí: Kinh giải, XXVI).

Sách Quản tử viết: “ Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ thị vi tứ duy” (Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ là bốn giềng mối chính). Không có Lễ thì không có Nghĩa, Liêm, Sỉ.

Đầu năm 2008, báo động tình trạng nhiều học sinh trên cả nước bỏ học. Nhân sự kiện này tác giả Bút Bi có đăng mẩu chuyện “Vì sao con bỏ học?” trên báo Tuổi trẻ ra ngày 12/03/2008. Mẩu chuyện như sau:

“ Con là Nguyễn Văn Tèo. Nay con rấm rứt viết thơ này để bày tỏ nỗi niềm vì sao con nghỉ học, cái việc mà hổm rày người lớn bàn tán tùm lum.

Vì sao con nghỉ học? Mấy cô chú nói đúng rồi đó: Nhà con nghèo, con phải đi làm kiếm ăn; con học yếu,con nản… Nhưng đâu chỉ có vậy. Con nghỉ học còn vì nhiều chuyện phát ớn…

Hồi con học lớp 2, thầy dạy vẽ cho cả lớp chủ đề “ Vẽ về quyền thiếu nhi”. Nhà con nghèo, con thèm được ăn no nên con vẽ hai bát cơm to. Thầy nói con vẽ sai, phải vẽ trẻ em vui chơi, có chim bồ câu và trái địa cầu mới đúng. Con bị 1 điểm.

Lên lớp 3, con được dự thi “vở sạch chữ đẹp”. con mừng lắm nhưng té ra lại khổ cái thân: con không được đưa cuốn vở mình đang học để đi thi mà trường bắt mua một cuốn vở mới, chép lại y chang cuốn vở đã học để đi thi cho nó sạch và đẹp. con thấy thi thố kiểu này chẳng sạch và đẹp chút nào!

Mới đây trường chúng con có đoàn thanh tra dự giờ. Trường gom hết học sinh xịn nhứt khối về một lớp, tụi con giải toán rẹt rẹt, đọc bài re re làm mấy thầy thanh tra khen quá trời đất! Tụi con mắc cười bể bụng luôn…Và nhiều chuyện nữa mắc cười lắm.

Con kể mấy chuyện này với ngoại. Ngoại buồn lắm. ngoại nói học hành kiểu đó thì khó thành người. Con sợ quá, chẳng thà con làm con người không biết chữ chớ biết chữ mà thành con khác thì con không chịu.

Vì vậy mà con nghỉ học!”

Câu kết của mẩu chuyện rất là thâm thúy!

Mấy năm gần đây ngành giáo dục luôn ra rả “ nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”. Bệnh thành tích là bệnh trầm kha dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Trên các phương tiện thông tin đại chúng luôn xuất hiện câu: “ Lập thành tích chào mừng ngày lễ…” cho nên làm sao có thể “nói không” được!

Do không quan tâm đến việc học Lễ nên “nạn mất dạy” đang trong tình trạng báo động ở thủ đô Hà Nội: “một bộ phận các bạn trẻ là học sinh trung học, các ca sĩ, người dẫn chương trình…có những lời nói thô tục, những ứng xử không có văn hóa nơi công cộng làm ảnh hưởng đến nếp sống văn minh của thành phố”. UBND Thành phố Hà Nội có công văn số 3802/VP-VX do Phó Chủ tịch Thành phố Hà Nội Lê Hồng Sơn chỉ đạo gửi đến Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp cùng Sở Giáo dục và Đào tạo, UBND quận,huyện, thị xã kiểm tra, xem xét có biện pháp xử lí‎ cụ thể, nhằm hạn chế cao nhất những hành vi thiếu văn hóa trong nhà trường và ngoài xã hội. Trước đó nhiều tờ báo và trang tin đã có phản ánh về nạn “mất dạy” tràn lan ở Thành phố Hà Nội- trái tim, Thủ đô của cả nước khiến dư luận bất xúc (petrotimes.vn/news/vn/xa-hoi/pho-chu-tich-ha-noi-yeu-cau-xu-ly-nan-mat-day-o-thu-do.htlm).

Nạn “mất dạy” ở Thủ đô Hà Nội hiện nay là không phải một sớm một tối mà có như Kinh Dịch từng viết: “Thần thí kỳ quân, tử thí kỳ phụ, phi nhất triêu, nhất tịch chi cố, kỳ sở do lai giả tiệm hỹ, do biện chi bất tảo biện dã” (Tôi giết vua, con giết cha không phải là cớ một sớm một tối, cái mà nó đã bởi đó mà đến vẫn là dần dần[tiệm tiến], vì kẻ phân biệt ,không phân biệt sớm đó thôi).

Cô giáo Nguyễn Thị Thuận- Hiệu trưởng Trường Trung học cơ sở Tô Hoàng (từ năm 2008)- cho biết khi trường quyết định bỏ khẩu hiệu “Tiên học lễ ,hậu học văn” : “ ở mình có những cái đã quá lâu, quá cũ nhưng nhiều người vẫn ngại thay đổi khi đã cần phải thay đổi”.

Những ai cho rằng câu khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” là cũ, là lỗi thời cần phải thay đổi thì cũng giống như “ Người nào cho những bờ đê cũ là vô ích và phá bỏ đi thì một ngày kia sẽ bị tai hại của nạn lụt lội” (Will Durant, Lịch sử văn minh Trung Hoa, Nxb Văn hóa Thông tin, trang 342)

Người xưa có nói: “ Bất học lễ , vô dĩ lập” (không học lễ , không thể đứng thẳng với đời ) hoặc “ Bất tri lễ ,vô dĩ lập” (không biết lễ, không thể đứng thẳng với đời ).

Nguyễn Văn Nghệ

Tổ dân phố Phú Lộc Tây I ,Thị trấn Diên Khánh –Khánh Hòa

SỰ THĂNG TRẦM CỦA TUỔI GIÀ

SỰ THĂNG TRẦM CỦA TUỔI GIÀ

Tác giả: Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.

Ước vọng sống lâu đã là điều mong muốn của con người từ ngàn xưa. Nó đứng trên cả tiền tài, danh vọng, đông con nhiều cháu. Chả thế mà thứ dân khi gặp nhau thì trang trọng chúc bách niên giai lão là thỏa mãn rồi. Còn vị quyền cao phủ chùm đất nước thì không bằng lòng với bách niên, mà đòi dân đen phải tung hô vạn tuế! vạn tuế ! hoặc muôn năm! muôn năm!

Nhưng trăm người trăm ý, cho nên Á Đông ta có quan niệm “đa thọ, đa nhục”. Chateaubriand ví tuổi già như con tầu đắm.

Horace than phiền: tuổi già buồn nản đang đến, giã từ những nụ cười vui, những tình yêu nồng nàn và những giấc ngủ an lành.

Còn Hippocrate thì so sánh tuổi với bốn mùa mà già là mùa đông băng giá.

Có lẽ là khi về già, con người, giống như mọi sinh vật khác, đều chịu những thay đổi về cấu tạo, về chức năng, đưa tới đau yếu, bệnh hoạn, mất sinh lực và ý chí. Vì vậy, người già cho rằng sống lâu mà suy yếu, thiếu thốn, chẳng qua cũng chỉ như cây tầm gửi, là gánh nặng cho gia đình và xã hội rồi chuốc cái nhục vào thân.

Rõ thực là:

“Khi vui thì muốn sống lâu,

Khi buồn lại muốn thác mau cho rồi”.

Nhân dịp tuổi thọ sắp tăng thêm một đơn vị, chẳng biết mình nên buồn hay nên vui. Thôi thì để biết người, biết mình, chúng tôi xin cùng quý vị ôn lại vài nét thăng trầm tuổi thọ của con người, lướt qua một phần phong tục tập quán của vài thời đại đã qua.

Người Già Việt Nam

Phong tục Việt Nam vốn trọng người già. Ta thường có câu nói:

“Triều đình thượng tước, Hương đảng thượng xỉ”

có ý nói là ở nơi triều đình thì chức tước cao được ngồi trên, còn tại chốn đình trung hương đảng thì người cao tuổi được coi trọng hơn. Vì được quý trọng nên dân ta đã có nhiều tục lệ tốt đối với người già.

Trong gia đình, Tết đến, con cháu tụ họp trước là để cúng bái gia tiên, sau là chúc tuổi thọ ông bà cha mẹ.Tăng thêm một tuổi là thêm thọ, một điều mà ai cũng mừng, cũng nhắc nhở chờ đợi:

“ Bà lão nằm tính tuổi sắp thêm năm” Anh Thơ.

Trẻ con cũng sốt ruột chờ đợi để được mừng tuổi, bằng tiền mặt phong bao, bằng những lời khen tặng hay ăn, chóng lớn.

Ngoài xã hội, nhất là nơi thôn ấp, các vị cao niên từ 50 tuổi trở lên thì được xếp vào hạng bô lão, trên cả các hương chức quyền thế tại địa phương.

Trong số bô lão, cụ nào cao tuổi hơn cả thì được tôn vinh là các Cụ Thượng, thường là trên 80.

Tuổi 40 được mở tiệc tứ tuần đại khánh; 60 tuổi trở lên thì các cụ đã ăn mừng thọ, từ tiểu thọ, trung thọ rồi đại thọ ở tuổi ngoài 80.

Vì quan niệm tuổi thọ là tuổi Trời ban cho, nên các vị cao tuổi đều được kính trọng.

Ra đường, gặp người già là mọi người phải cúi đầu chào hỏi cho lễ phép, phải nhường bước, phải nhường chỗ ngồi, phải đứng lên khi bô lão xuất hiện, không được ngắt lời bô lão khi thảo luận. Chương trình giáo dục từ lớp Đồng Ấu đã có những bài học Luân Lý chỉ dậy học trò cung cách đối xử với người lớn tuổi.

Trong làng xã thì có những tục rước lão, tiệc yến lão. Người già mặc quần áo đẹp, con cháu ôm cơi trầu, điếu ống theo hầu, được dân làng mang cờ quạt, võng cáng với trống chiêng tới đón mời lên Đình để hương chức và dân chúng chiêm ngưỡng, chúc tụng rồi dự yến tiệc. Mà yến tiệc thì các cụ chỉ dùng một ít, còn lại lấy phần về chia cho người trong tộc họ, hàng xóm để cùng hưởng lộc nhân dân.

Các cụ Ông cụ Bà đều được rước đón, nhưng tại nhiều địa phương, cụ bà không tham dự vì các cụ vẫn theo lời dậy từ ngàn xưa là đàn bà con gái không dính líu vào việc làng, việc nước. Các bà mẹ Việt Nam bao giờ cũng khéo lo xa.

Ngoài ra các cụ còn được làng xã dành cho một số quyền lợi về công điền, địa thổ, được miễn trừ hết sưu dịch. Quan niệm “ kính già , già để tuổi cho ” rất phổ biến. Vả lại, kính lão đắc thọ, mọi người cũng mong là khi mình đạt tới tuổi thọ đó sẽ được hưởng những vinh dự tương tự.

Cũng như người Trung Hoa, xã hội ta vẫn coi gia đình là một đơn vị nền tảng với tôn ti trật tự rõ rệt.

Chủ gia đình là người cao tuổi nhất, có toàn quyền quyết định về mọi sinh hoạt của thành viên. Con phải tuân theo lời bố, vợ phục tùng chồng, em phải nghe lời anh, và nàng dâu mới về là người chịu nhiều thiệt thòi, hành hạ từ nhà chồng. Nhưng khi đã tới tuổi cao thì uy quyền của bà ta cũng tăng đối với con cháu và có cơ hội hành hạ nàng dâu như bà đã từng bị đối xử khắt khe khi xưa.

Việc dựng vợ gả chồng hoàn toàn do người cao tuổi sắp đặt: cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Khi bố mẹ thất lộc thì người trai trưởng nắm quyền hành: quyền huynh thế phụ.

Nhờ con cái thấm nhuần tư tưởng

“ Công Cha như núi Thái Sơn,

Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chẩy ra”,

Cho nên người già Việt Nam đều sống với gia đình và được thân nhân chăm sóc, phụng dưỡng cho tơí khi mãn phần. Chỉ khi nào vì quá nghèo lại không có thân nhân thì họ mới phải vào trong các nhà dưỡng lão do chính quyền hay các hội từ thiện tư nhân tài trợ.

Hiện Trạng Người Già

Trong thế kỷ vừa qua, vấn đề người già đã là mối ưu tư lớn của mọi người. Sự gia tăng dân số kèm theo nhiều khó khăn của lớp người này trên thế giới đã được các quốc gia và tổ chức Liên Hiệp Quốc đặc biệt lưu tâm tìm biện pháp giải quyết giúp đỡ. Số người trên 60 tuổi đã mau chóng chiếm tỷ lệ cao trong tổng số dân cư trên thế giới, mà nhóm người trên 80 tuổi lại tăng lên mau nhất. Điều đáng ngại là sự gia tăng này lại xẩy ra nhiều hơn ở các quốc gia đang mở mang, chưa đủ phương tiện ứng phó.

Hiên nay số người cao tuổi trên toàn thế giới là gần sáu trăm triệu. Tới năm 2020, số này ước lượng có thể sẽ tăng lên một tỷ. Lý do sự gia tăng này gồm có việc giảm số tử vong do các bệnh truyền nhiễm, cải thiện điều kiện vệ sinh, dinh dưỡng, nhà ở, các phương pháp phòng ngừa bệnh, khám phá ra thuốc kháng sinh. Sự gia tăng tuổi thọ là dấu hiệu của sự tiến bộ cũng như sự hoàn tất sinh học quan trọng trong thế kỷ 20.

Người cao tuổi phải được coi như một nguồn lợi quý giá chứ không phải là gánh nặng cho xã hội, vì họ sẽ còn đóng góp nhiều cho đất nước bằng những kiến thức, kinh nghiệm của họ. Căn cứ trên quan niệm đó, Liên Hiệp Quốc đã kêu gọi toàn thế giới lưu tâm tới những khó khăn đang ám ảnh người cao tuổi, đồng thời cũng đề nghị nhiều chương trình để bảo đảm sự an toàn về kinh tế, xã hội của khối người quan trọng và cần thiết này, cũng như tạo cơ hội cho họ đóng góp vào sự phát triển của mỗi quốc gia.

Liên Hiệp Quốc đề nghị một số nguyên tắc để giúp đỡ người cao tuổi như: Họ phải có cơ hội được xử dụng dễ dàng về thực phẩm, nước uống, nhà ở, chăm sóc y tế, việc làm và có một đời sống an toàn; họ phải được xử dụng các dịch vụ pháp lý, các phương tiện giáo dục, văn hóa, giải trí để phát triển mọi tiềm lực; phải được sống trong vinh dự, không bị khai thác, lợi dụng và được đối xử bình đẳng.

Ngoài ra, các quốc gia cũng cần tạo môi trường thuận lợi để khích lệ dân chúng dành dụm tiền cho tuổi về già; khuyến khích mọi lứa tuổi tham dự vào các chương trình, cũng như các cơ cấu đầu não có quyền quyết định chính sách chung; tăng cường các biện pháp và cơ chế để bảo đảm là người về hưu không rơi vào tình trạng nghèo khó, vì họ đã có công đóng góp nhiều cho sự phát triển quốc gia khi trước.

Về phần mình, người cao tuổi có lẽ cũng cần hành xử làm sao để sống cuộc đời cuối với nhiều tích cực hơn.

 

Kết Luận

Trong một dịp luận đàm với vị Thượng Bô Lão 86 tuổi ở thành phố Houston, người viết có hỏi thăm cụ là với bí quyết gì mà cụ nom vẫn phong độ cả về thể xác lẫn tâm hồn; lại mỗi ngày vẫn lái xe đưa người này người khác đi công việc, vẫn tham dự các sinh hoạt chung, đôi khi lại còn đi múa đôi mỗi cuối tuần.

Thì cụ trả lời: “ Nào có bí quyết gì đâu. Ông cứ chịu khó về dở lại những trang sách của cuốn Luân Lý Giáo Khoa Thư, in cách đây nửa thế kỷ, đọc hết chương “Bổn phận đối với bổn thân” là có hết. Nào là các bài học về biết trọng linh hồn, phải quý thân thể, về vệ sinh cơ thể, gìn giữ sức khỏe, ăn uống điều độ, vận động cơ thể, tới những cách đối xử với nhân quần xã hội để sao cho có tâm thân an lạc. Nếu có thiếu họa chăng chỉ thiếu những chỉ dẫn thực tế về nhu cầu sinh lý, tình dục”

Người viết vội vàng vâng lời, tìm đọc sách Luân Lý Giáo Khoa Thư. Rồi thắc mắc: chả lẽ ngày xưa thiên hạ không có nhu cầu sinh lý. Hay là các cụ biết cả rồi, nên chẳng cần viết ra.

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

www.bsnguyenyduc.com

http://www.youtube.com/user/Drnguyenyduc/videos

Tác giả: Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.

KINH – TẾ – HỌC PHẬT – GIÁO

KINH – TẾ – HỌC   PHẬT – GIÁO

Đoàn Thanh Liêm

‘Chánh Nghiệp’ là một trong tám ‘con đường tu’ rất căn bản và quan trọng của ‘Bát Chánh Đạo’ nhằm giúp người tu dứt được những nguyên nhân xa gần của mọi khổ đau trong đời sống thường ngày. Đức Phật đã thuyết giảng đề tài này ngay sau khi Ngài thành đạo, rồi tiếp tục suốt 45 năm hoằng pháp, kể cả những ngày cuối đời                                                    

“Chánh nghiệp”  là những nghề nghiệp, việc làm chân chính, ngay thẳng, dựa vào chính sức lực của tim óc và bắp thịt của mình để mưu cầu cuộc sống. Vì thế, ta có thể nói rằng đạo Phật đã có một hướng đi đúng đắn làm nền tảng cho bộ môn Kinh-Tế-Học Phật-Giáo.

Tại những quốc gia mà đa số dân chúng tin theo đạo Phật thường bảo rằng họ muốn gìn giữ đức tin theo chánh pháp của Phật giáo. Ở Miến Điện, người dân thường nói rằng “Chúng tôi không thấy có sự đối nghịch nào giữa giá trị tôn giáo và sự tiến bộ của kinh tế cả. Sự an lạc của ‘thân’ và sự thanh tịnh của ‘tâm’ vẫn thường trợ duyên cho nhau mà không hề có tương phản nào” hoặc là “Chúng tôi có thể kết hợp những giá trị tôn giáo và truyền thống tâm linh với những lợi ích có được từ  kỹ thuật tân kỳ rất thành công.” hay là “Người dân Miến Điện chúng tôi có bổn phận phải biết dung hợp một cách hài hòa giữa ‘mộng’ và ‘thực’ trong đức tin của mình, và suy nghĩ đó vẫn luôn luôn mang lại kết quả viên mãn.

Cũng thế, có những  quốc gia khác lại cho rằng họ có thể theo mẫu mực thiết lập kế hoạch phát triển kinh tế hiện đại, và rồi sẽ mời gọi các kinh tế gia từ những quốc gia tân tiến đến hướng dẫn họ phác họa chương trình có tầm cỡ để phát triển kinh tế theo những loại như ‘Kế Hoạch Ngũ Niên’ chẳng  hạn. Và không ai có thể ngờ rằng phương cách sống theo đạo Phật, mà ta có thể gọi là kinh tế học Phật giáo, giống như nếp sống duy vật chất hiện đại, lại có thể mang đến sự thăng tiến như thế.

Ngay cả những kinh tế gia, cũng như hầu hết mọi chuyên gia khác, vẫn thường loay hoay trong cái mù quáng có tính siêu hình của mình mà cứ  cho đó là khoa học của sự thật tuyệt đối cố định, và không được định hình từ trước. Có một số vị lại cho rằng những  luật kinh tế đều không mang ‘tính siêu hình’ hay ‘tính giá trị’ như định luật của trọng lực. Tuy vậy, chúng ta cũng không nên bận tâm đến những cuộc tranh cãi về phương pháp luận mà chỉ nên suy gẫm về một số điều căn bản nhất rồi thử nhìn sự việc bằng cặp mắt của một kinh tế gia hiện đại và một kinh tế gia phật giáo để xem sự thể như thế nào.

Gần như ai cũng đồng ý rằng sức lao động của con người chính là cội nguồn căn bản của mọi sự giàu có trên đời. Trong khi đó thì những  kinh tế gia lại cho rằng ‘sức lao động’ hay việc làm lao công chỉ đáp ứng phần nào nhu cầu rất bình thường của con người. Còn đối với một chủ nhân ông của thời kỳ hiện-đại-hóa thì phải giảm đến mức tối thiểu sức lao động này, và nếu cần thì làm triệt tiêu luôn, để làm giảm giá thành sản phẩm. Nhưng với cách nhìn của người công nhân thì đó là sự bất công, vì khi lao động , con người đã hy sinh thời gian rảnh rỗi và sự thoải mái của đời mình để đổi lấy đồng lương, coi như là một đền bù cho sự hy sinh, mất mát đó.

2

Vì thế nên người chủ chỉ muốn có sản phẩm ra khỏi nhà máy mà chỉ phải sử dụng thật ít sức lao động của thợ thuyền, còn giới công nhân thì mong được làm việc để lãnh lương và không phải lo bị thất nghiệp.

Trong thực tế, không dễ gì áp dụng một trong hai phương cách trên và phải loại bỏ phương cách kia, mà nên dung hòa bằng cách biết sử dụng  máy móc ở một mức độ thích hợp nhằm giảm bớt công việc nặng nhọc cho người lao động, như thế năng suất lao động sẽ tăng lên và sản phẩm sẽ xuất xưởng nhiều hơn. Đồng thời cũng nên áp dụng chế độ khen thưởng để khích lệ tinh thần làm việc. Phương pháp chia việc ra từng phần nhỏ để tăng thêm việc, và tạo thêm công ăn việc làm cho nhiều người có ít tay nghề. Sự thật thì cách vận hành này cũng đã được áp dụng từ thời xa xưa.

Khi sắp xếp lao động , người phật tử thường nhìn đến ba phương diện : trước tiên là tạo cơ hội cho công nhân thi thố tài năng, thứ đến là giúp cho mỗi người cùng cộng tác với  các đồng nghiệp để tự xóa dần tính vị kỷ,(chấp ngã), và sau cùng là mang đến nhiều phúc lợi để cuộc sống được an lạc trong tự tại. Và như thế, phương cách này nên được áp dụng liên tục và mãi mãi.

Nếu sự tổ chức công việc mà luộm thuộm, không hợp lý, không gây được hứng khởi, mà chỉ tạo căng thẳng tinh thần, dễ gây ra bất đồng, mất đoàn kết và đưa đến bạo động, nghĩa là chỉ tạo điều kiện cho tội lỗi phát sinh. Nếu người chủ thiếu lòng từ bi, chỉ quan tâm đến sản  lượng mà không để ý gì đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của người thợ là đã cố ý hay vô tình làm thui chột ý thức muốn hướng về chân, thiện, mỹ của họ. Mọi cố gắng  đem sự thoải mái vào việc làm sẽ giúp cho người thợ thấy cuộc sống có ý nghĩa hơn. Đó là những yếu tố rất cần thiết cho thực tế cuộc sống có đạo lý.

Cũng từ nhận thức đó, người phật tử đã thấy rõ sự khác biệt giữa việc sử dụng máy móc như công cụ phục vụ con người, làm thăng hoa cuộc sống,  và việc dùng con người làm nô lệ cho máy móc. Để làm sáng tỏ ý nghĩa này, Ananda Coomaraswamy , một người rất am tường về nét đặc thù của nét hiện đại phương Tây và nét cổ truyền phương Đông đã phân tích : “Một người thợ thủ công giỏi bao giờ cũng thấy được sự khác biệt giữa một chiếc máy và một dụng cụ cầm tay. Cái khung cửi dệt thảm được chuẩn bị một cách cẩn thận, giúp cho người thợ khéo tay, sử dụng thật tài tình các ngón tay của mình đê luồn lách đưa từng sợi chỉ màu khác nhau  với con thoi tay để có thể dệt một tấm thảm đạt đến tuyệt đỉnh của nghệ thuật, diễn tả hết nét đẹp tuyệt vời của văn hóa dân tộc anh, mà chiếc máy dệt tân kỳ thì không làm sao diễn đạt được nét tuyệt mỹ ấy.” Từ cách suy nghĩ này ta có thể phân biệt được kinh tế học Phật giáo và kinh tế học hiện đại. Người phật tử thấy được cái tinh túy của  văn minh nhân loại trong sản phẩm hơn là chấp chặt vào sản lượng trong văn minh cơ khí hóa. Tính cách nhân bản này, thực sự đã hình thành từ khi con người đã biết sản xuất. xác định được nhân cách và nhận thức chuộng sự tự do muốn chọn cho mình một phương cách sản xuất. Một triết gia, cũng là một nhà kinh tế người Ấn Độ Ông J.C.Kumarappa đã đúc kết rằng :

3

“Nếu mọi người biết quí trọng đúng mức đặc tính của việc làm, thì sẽ thấy  ra giá trị cao hơn trong tương quan nhân quả của việc và sản phẩm, giống như sự liên hệ giữa sức khỏe của cơ thể con người và thực phẩm được hấp thụ. Nhận thức đó sẽ nuôi dưỡng và tạo duyên cho con người sáng suốt hơn, thăng tiến khả năng sản xuất của mình, hun đúc thêm tinh thần cầu tiến và cũng biết tự chế lòng ham muốn thấp hèn để luôn luôn có chỗ đứng xứng đáng trong mọi giai tầng của công việc. Đồng thời, khả năng thi thố cũng được nâng cao để thể hiện tư cách, phẩm giá của mình.”

Nếu một người bị mất việc, thì anh ta sẽ rất lo lắng và thất vọng, vì không những chỉ mất đồng lương, mà còn thiếu cả nguồn sống từ vật chất đến tinh thần là những giá trị khó có gì thay thế được. Một kinh tế gia thời nay có thể tính toán hết sức chuẩn xác làm sao để mọi người đều có việc làm cố định và được hưởng lương, hoặc một cách kinh tế hơn, là  bảo đảm được đồng lương trong khi việc làm có thể thay đổi, biến động theo tình thế, v.v.. Tiêu chuẩn căn bản của sự thành công trong kinh doanh hiện nay vẫn là tổng sản lượng hàng hóa phải xuất xưởng trong một thời gian qui định.

“Nếu mức độ tiêu thụ hàng hóa bị giảm sút nghiêm trọng, thì sẽ khó tránh được tình trạng phải sa thải công nhân ở những mức độ khác nhau, hoặc vừa phải hoặc ào ạt” như giáo sư Gaibraith đã viết trong tạp chí The Affluent Society, và hơn thế nữa: “Nếu vì sự ổn định của lợi nhuận mà phải chấp nhận sa thải công nhân thì phải cung cấp đủ nhu yếu phẩm cho những người bị mất việc, để họ có thể giữ được mức sống bình thường, như một biện pháp cần thiết không thối thoát được”.

Theo cách nhìn của người phật tử thì họ cũng thấy được trong thực tế thì còn nhiều người vẫn coi trọng sản phẩm hơn giá trị con người, và số lượng hàng hóa được tiêu thụ vẫn quan trọng hơn phẩm chất của sản phẩm mang tính sáng tạo. Nghĩa là đã xem nhẹ cái tài hoa khéo léo của người thợ, hay nói một cách khác, là hạ thấp giá trị nghệ thuật của người thợ đi, để tôn vinh cái gì ô uế, xấu xa theo thị hiếu thường tình. Điều quan trọng hơn hết trong quan niệm kinh tế của phật giáo là làm sao cho mọi người đều có công ăn việc làm ổn định để kiếm sống. Đó không phải là một cường điệu trong sự tạo việc làm, hoặc sự gia tăng tối đa sản lượng. Khi những  người phụ nữ của gia đình phải đi tìm việc ở các văn phòng hay những nhà máy thì đó là chỉ dấu thất bại nghiêm trọng của kinh tế. Cụ thể như là phải nhìn thấy các bà mẹ đang làm việc trong xưởng máy và bỏ các đứa con của mình  chạy chơi rong ngoài đường phố là không hợp lý một chút nào trong ánh mắt của nhà kinh tế phật giáo. Còn đối với các kinh tế gia thời hiện đại thì bất kỳ ai là người thợ giỏi thì đó là người chiến sĩ can trường của mặt trận sản xuất.

4  Trong khi những người ham sống xa hoa, mong muốn có nhiều  hàng hóa để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng, thì người phật tử chân chính chỉ nghĩ đến sự giải thoát khỏi những vướng mắc vật chất thường tình. Dựa vào con đường “Trung Đạo” của Phật giáo, người phật tử sẽ không thấy có gì là khúc mắc trong sự an lạc của tự thân . Sự giàu có không có chỗ đứng trong sự giải thoát, mà đó chỉ là vướng víu trở ngại mà thôi. Họ không cho hưởng thụ vật chất là thú vui, mà đó chỉ là những thèm muốn của dục vọng thấp hèn. Nét căn bản của kinh tế  phật giáo là tính giản dị và tinh thần bất bạo động. Từ cách nhìn của một  người làm kinh tế  phật giáo thì tính mầu nhiệm trong cách sống đạo hạnh có thể làm toát ra sự hợp lý của từng mẫu mực – có khi với những phương tiện bé nhỏ đến bất ngờ lại có thể mang đến các kết quả mỹ mãn thật tuyệt vời.

Đối với một kinh tế gia hiện đại thì điều này thật là khó hiểu. Ông ta thường đo lường mức sống thường ngày bằng số lượng hàng hóa tiêu thụ hằng năm của một người, và cho rằng bao giờ một người biết tiêu thụ nhiều thì đời sống của anh ta phải tốt hơn so với một người ít biết tiêu thụ.

Một kinh tế gia phật giáo thì nghĩ khác, và cho rằng sự tiêu dùng phung phí là không hợp lý, vì như thế là trái với sự quân bình của con người. Mục tiêu mà người phật tử phải đạt được chính là sự an lạc tối thượng của thân tâm, và đó phải là kết quả của sự hưởng thụ có chừng mực. Vì thế, nếu ta chỉ cần quần áo để mặc đủ ấm đối với thời tiết và đủ đẹp khi được nhìn thì hà tất phải chạy theo thời trang để phải vứt bỏ đi một cách uổng phí những quần áo không còn hợp thời nữa. Như thế, ta sẽ có đủ thời gian, sức khỏe và phương tiện để chăm sóc làm đẹp cuộc sống tinh thần, nghệ thuật và tâm linh. Thật là không kinh tế chút nào khi chúng ta phải mất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc để nuôi dưỡng những kỹ nghệ may mặc tây phương trong khi còn quá nhiều người nghèo trên khắp địa cầu không có đủ mảnh vải để che thân và cần sự giúp đỡ, chia xẻ của chúng ta.  Kinh tế học phật giáo đã nghiên cứu một cách có hệ thống nhằm chấm dứt mọi nhu cầu xa xỉ bằng ý thức “tri túc “ và “thiểu dục”.

Một mặt khác thì kinh tế học hiện đại lại quan niệm rằng sự tiêu thụ là cứu cánh tối thượng và cũng là mục tiêu chính của mọi sinh hoạt xã hội, nên phải sử dụng nhiều đất đai,cũng như sức lao động và vốn liếng để làm phương tiện phát triển sản xuất.

Nói tóm lại, tùy vào cách nhìn của hai nền kinh tế phật giáo và hiện đại, ta thấy được sự dị biệt tùy thuộc ở giá trị tinh thần và vật chất của hai quan niệm này về sự tiêu thụ hàng hóa. Từ đó, ta cũng biết được áp lực đè nặng trên vai của người dân tại hai nước Miến Điện và Hoa Kỳ khác biệt như thế nào. Một nơi thì mọi người được sống thanh thản, còn nơi kia thì sự  căng thẳng cứ triền miên, mặc dù ở Miến Điện tỉ lệ sử dụng máy móc thay cho sức người lao động so với Hoa Kỳ thì thật là khiêm tốn.

Ai cũng biết rằng tính bất bạo động có liên hệ rất mật thiết với cách sống giản dị, nên khi nhu cầu tiêu dùng ở mức độ vừa phải thì ta sẽ thấy tinh thần được thảnh thơi, bớt được nhiều nỗi lo toan, chạy vạy cho có đủ phương tiện tiền bạc nhằm thỏa mãn ý thích.  Như thế là đáp ứng được ý lời Phật dạy: “luôn tránh điều xấu ác, làm nhiều điều thiện lành,

và giữ tâm thanh tịnh “

5

Củng vì tài nguyên thiên nhiên ở khắp mọi nơi đang cạn dần, và nếu mọi người đều tự bớt nhu cầu tiêu dùng thì sẽ giúp làm giảm thiểu được những tranh giành, cướp giật đầy tính bạo hành mà ta thường thấy xảy ra ở những quốc gia, dân chúng đang sống dựa vào nền kinh tế  toàn cầu.

Mọi nền sản xuất khởi đi từ tài nguyên của địa phương nhằm thỏa mãn nhu cầu của dân chúng cùng sống trong vùng, thì đó là phương cách rất thích hợp với quan điểm kinh tế Phật giáo. Nếu phải tùy thuộc vào nguồn hàng hóa nhập từ một nơi xa xôi, và được sản xuất bởi những người xa lạ thì đó là những trường hợp ngoại lệ và chỉ được áp dụng  rất giới hạn trong  cộng đồng phật giáo.

Chính vì kinh tế gia hiện đại chấp nhận một sự tốn kém khi để một người phải di chuyển thật xa từ nhà đến nơi làm việc, và cũng không hợp với tiêu chuẩn của nếp sống cao, nên kinh tế gia phật giáo đã thấy ra đó là một sự thất bại khi phải dùng nhân sự đến từ một nơi xa xôi để thỏa mãn theo ước muốn của họ, thay vì sử dụng những người sống trong vùng lân cận.

Thống kê kinh tế hiện đại thường dựa vào sự tăng trưởng của các con số ‘tấn hàng hóa’ hoặc ‘dặm đường vận chuyển’ tính trên đầu người của dân số mỗi quốc gia. Phương pháp này được xem như là tiêu chuẩn của sự phát triển kinh tế, thì những số liệu thống kê này lại trở thành chỉ dấu của sự tàn hại các mẫu mực nhận thức về nhu trong cuộc sống của người có đức tin Phật giáo .

Một nhận định rất nổi cộm về sự khác biệt giữa hai nền kinh tế này đối với việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên của trái đất. Bertrand de Jouvenel, một triết gia về chính trị rất nổi tiếng người Pháp đã định hình “Con người Tây phương” theo lời mô tả rõ ràng của một kinh tế gia hiện đại là:

Ông ta có khuynh hướng không kể bất kỳ thứ gì là phí tổn,  mà chỉ chú tâm vào sự nỗ lực của con người, ông ta có vẻ như không màng đến tài nguyên mà mình đã phí phạm, và tệ hại hơn nữa, là có bao nhiêu sinh linh mà ông ta đã hủy diệt. Ông ta tỏ vẻ như không cần biết rằng nếp sống của con người  là một phần lệ thuộc vào một hệ thống kinh tế gồm nhiều hình thái của đời sống. Vì thế giới này như bị chi phối bởi những thành phố mà ở đó người ta bị tách ra từ hình thái nào đó của đời sống không phải là tính người, và cảm giác về những gì là sở hữu của hệ thống kinh tế coi như là đã mất hẳn. Điều này đưa đến những hệ quả rất tệ hại không lường trước được trong cách hành xử đối với những thứ mà con người phải rất cần đến, giống như đối với nước uống và cây rừng vậy .

6

Hơn nữa, đức Phật cũng truyền dạy  mọi người nên đối xử từ bi  không những chỉ đối các sinh vật như loài người và động vật mà  cả với cây cỏ nữa. Mỗi phật tử nên phát tâm thường xuyên trồng thêm cây và chăm bón  cho  đến khi cây có đủ sức tự lớn mạnh. Nhìn vào sự kiện này, người phật tử có thể xác định tính độc lập của nền kinh tế, nghĩa là không cần sự trợ giúp nào từ bên ngoài mà vẫn có thể tự phát triển. Có nhiều  quốc gia ở vùng đông nam Á châu (và cả một số các vùng khác trên thế giới) vẫn bị chậm tiến một cách tủi hổ vì coi thường việc trồng cây gây rừng.

Còn kinh tế học hiện đại thì không để ý vào sự dị biệt giữa những vật liệu tái sinh được và không tái sinh được, mà chỉ lo tính cho quân bình và đủ số lượng của những vật liệu ấy bằng cách dùng trị giá của đồng tiền để chi trả. Vì thế, khi phải sử dụng những loại nhiên loại có thể thay thế cho  nhau như than đá, dầu hỏa, cây rừng, hoặc sức nước, thì các kinh tế gia hiện đại chỉ nói đến trị giá tương đương của từng loại để phân biệt. Và dĩ nhiên loại nào rẻ nhất sẽ được ưu tiên dùng đến, vì nếu không là như thế thì chẳng hợp lý và kinh tế chút nào! Theo quan điểm của kinh tế gia phật giáo thì dĩ nhiên không phải là như thế, vì  sự khác biệt giữa hai loại nhiên liệu không tái sinh được như dầu hỏa hay than đá và tái sinh được như cây rừng hay sức nước thì không thể được xem xét quá giản dị như thế. Đối với loại nhiên liệu không tái sinh được thì chỉ nên dùng khi thực sự cần thiết, và phải hết sức cẩn trọng vì lý do cần được bảo tồn. Sử dụng bừa bãi và lãng phí loại nhiên liệu này là một hành động mang tính bạo động. và để chu toàn việc gìn giữ tính bất bạo động trên trái đất này là điều khó  đạt được. Bổn phận của mỗi con người là phải hướng đến mục đích lý tưởng là làm bất cứ việc gì cũng không được bạo động.

Chính như một kinh tế gia hiện đại ở Âu châu có thể không nghĩ rằng nếu tất cả tài sản nghệ thuật đã bán sang Mỹ với giá hấp dẫn thì không phải là một động thái thành công về kinh tế. Còn kinh tế gia phật giáo thì nhấn mạnh rằng nếu dân chúng chỉ sống dựa vào những loại nhiên liệu không tái sinh được như dầu hỏa hay than đá thì cũng như là sống bám vào tư bản thay vì dựa vào thu nhập của chính mình. Nếp sống ấy sẽ không bao giờ được thường xuyên ổn định mà phải được điều chỉnh sao cho được thích hợp một cách tạm thời. Vì nếu những nguồn nhiên liệu như than đá, dầu hỏa và khí đốt được khai thác quá đáng và phân bố không đều đặn trên toàn cầu, thì ắt hẳn đó là một hành động có tính  bạo  lực đối với thiên nhiên và sẽ không tránh đưa tới sự bạo động giữa con người.

Riêng sự kiện này thôi cũng là chất liệu cho những quốc gia phật giáo phải suy nghĩ. Cho dù họ không quan tâm gì đến những giá trị tôn giáo và tâm linh trong truyền thống của  mình, họ vẫn rất mong được ôm cả chủ nghĩa duy vật của kinh tế học hiện đại càng nhanh càng tốt. Trước khi cởi bỏ được quan niệm kinh tế học phật giáo, vì đó chỉ là một giấc mơ muốn ‘trở về cố hương’ không hơn không kém, thì họ cũng rất muốn sẽ đi được trên  con đường phát triển của nền kinh tế hiện đại, và rồi sẽ dẫn họ đến một nơi mà họ muốn tới.

Dẫn chứng ở phần cuối của tác phẩm đáng khích lệ của mình là quyển ‘The Challenge of Man’s Future ‘giáo sư Harrison Brown ở viện kỹ thuật California đã đánh giá rằng:

7

Như chúng ta thấy một cách căn bản rằng xã hội công nghiệp thì không còn ổn định nữa, mà phải bị biến dạng thành một hình thái mang tính nông nghiệp, và trong  đó,  những điều kiện cho tự do cá nhân cũng không còn chỗ đứng với khả năng tránh được những tình trạng bị áp bức bởi một hình thái tổ chức chặt chẽ với sự kiểm soát độc đoán. Thật vậy, khi  chúng ta quan sát tất cả những khó khăn có thể hăm dọa sự sống còn của nền văn minh công nghiệp, mà ta đã biết từ trước, thì thật là không dễ gì tìm ra phương cách để vẫn giữ được sự ổn định của nó cho đến cuối và bảo toàn được sự tự do cá nhân như một dung hợp hài hòa.

Cho dù hiện tượng này đã không còn nữa trong cách nhìn dài hạn, nhưng ta vẫn phải đối diện với vấn đề tức thời là liệu “sự hiện đại hóa”- vẫn đang tồn tại bất chấp những giá trị tôn giáo và tâm linh- có còn thực sự sản sinh được những hệ quả chấp nhận được hay không. Những khối lượng được thấy được thì thật là kếch xù, nhưng hậu quả thì cũng thật là khủng khiếp – nền kinh tế nông thôn thì đã sụp đổ, tình trạng thất nghiêp thì lan tràn khắp mọi thành phố và quốc gia, còn sự tăng trưởng tính vô sản thành phố thì không có khả năng nuôi dưỡng được con người cả phần thể chất lẫn cả tâm hồn nữa.

Dù cho ai còn tin tưởng rằng sự tăng trưởng kinh tế là quan trọng hơn những giá trị tôn giáo và tâm linh, thì dưới ánh sáng của cả kinh nghiệm thực tiễn trong hiện tại và viễn ảnh tương lai dài hạn, việc nghiên cứu kinh tế học phật giáo vẫn rất cần được quan tâm. Vì đó không phải là việc chọn lựa giữa “sự lớn mạnh hiện đại” và “sự trì trệ cổ điển”, mà là vấn đề tìm ra một con đường đúng cho sự phát triển. Đó chính là con đường “Trung Đạo” giữa sự thờ ơ của các “sứ giả duy vật” và sự bất động của các “nhà tồn cổ”. Hay nói một cách ngắn gọn là tìm cho ra con đường của“Chánh Nghiệp”.

Bài 2 – Giới thiệu sách “Small is Beautiful”

Bài 2  –  Giới  thiệu  sách  “Small  is  Beautiful”

Tác  giả  : E F Schumacher

( xuất bản lần đầu : Năm 1973)

Đòan Thanh Liêm.

Như đã có dịp trình bày nơi bài 1 trước đây, cuốn sách “Small is Beautiful” đã được tờ New York Times xếp vào lọai “100 cuốn sách có ảnh hưởng nhất” kể từ sau thế chiến hai ( the most influential books). Và sau 30 năm kể từ khi ra mắt độc giả, thì đã lưu hành được tới trên một triệu cuốn riêng về ấn bản tiếng Anh; đó là chưa kể đến các bản dịch ra nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới. Tác giả Schumacher là một kinh tế gia đã từng làm việc lâu năm trong ngành quản lý về than đá tại Anh quốc, đặc biệt trong lãnh vực thống kê, nên ông đã đưa ra những số liệu khá vững chắc và khả tín để minh họa cho lý luận của mình. Xuyên suốt qua gần 300 trang sách, tác giả đã lần lượt trình bày suy nghĩ và tìm kiếm của mình trong suốt 40 năm vừa học tập, làm việc, trao đổi và nghiên cứu của mình về những vấn đề căn bản của nhân sinh trên phạm vi tòan cầu. Người đọc có thể thấy tác giả đã gửi gấm vào tác phẩm tất cả tài năng trí tuệ và tấm lòng tha thiết nóng bỏng đối với cuộc sống của con người, mà phần đông đang là nạn nhân khốn khổ của cái đường lối sai lầm vì coi nhẹ giá trị đạo đức nhân bản và nhân ái của giới điều hành guồng máy kinh tế tại chính các quốc gia tiền tiến trong thế giới hiện đại. Có thể coi cuốn sách là “lời cảnh báo” về mối nguy cơ trầm trọng đang đe dọa cuộc sống của nhân lọai ngày nay, và đồng thời tác giả cũng khơi mào cho việc tìm kiếm một lối thóat khả dĩ cho con người, đặc biệt là cho hàng tỉ con người kém may mắn (underpriviledged) trong các quốc gia được liệt kê vào lọai “ đang phát triển” ( developing countries)

Nhan đề chính của cuốn sách là “Small is Beautiful” lại được kèm theo câu phụ diễn cho thêm rõ ý nghĩa nữa : “ Economics as if People Mattered”, xin tạm dịch là “Kinh tế học Dân Vi Quý”. Và riêng trong ấn bản năm 1999, thì lại còn kèm theo nhiều bình luận của các thức giả đương thời được in bên lề các trang sách nữa. Bài giới thiệu này chủ yếu dựa vào ấn bản năm 1999, nhân kỷ niệm 25 năm ngày ra mắt ấn bản đầu tiên năm 1973.

Sách được trình bày thành 4 phần trong 19 chương như sau  :

Phần 1  :  Thế giới hịên đại      (Chương 1-5)

Phần 2  :  Tài nguyên               (Chương 6-10)

Phần 3  :  Thế giới thứ ba         (Chương 11-14)

Phần 4  :  Tổ chức và Sở hữu   (Chương  15-19).

Nói chung thì sau trên 30 năm, các luận đề do Schumacher nêu ra trong cuốn sách vẫn còn giữ được tính cách thực tiễn khách quan và được coi như những gợi ý rất sâu sắc cho sự thảo luận và tìm kiếm của giới hàn lâm, cũng như của công chúng có sự quan tâm đến vấn đề sinh tử của con người trong bối cảnh văn hóa xã hội của thế kỷ XXI hiện nay.     Nhằm trình bày sáng sủa, gọn gàng tư tưởng của tác giả, người viết xin được tóm gọn trong mấy luận điểm chính yếu được lựa chọn như sau đây :

1/  Hai triệu ngôi làng trong thế giới thứ ba  :  Làm sao mà phát triển?

Schumacher đưa ra con số hai triệu ngôi làng trong thế giới thứ ba mà gồm các quốc gia đang phát triển, với bình quân mỗi làng có 1000 người. Như vậy là trong 2 triệu ngôi làng, thì có đến 2000 triệu người (2 tỉ), tức là tương đương với dân số ở mức nghèo túng trên thế giới vào thập niên 1960 lúc tác giả viết cuốn sách này. Tình trạng sinh sống của người dân tại các vùng quê như ở Ấn độ đã được Schumacher rất lưu tâm quan sát, tìm hiểu và cố gắng đưa ra một phương thức kiến hiệu và hợp lý, hợp tình nhất để gây ra được một “khí thế phát triển” (development mood) thật là sinh động tại hạ tầng cơ sở các địa phương đó.

Từ sau thế chiến 2, các quốc gia Âu Mỹ giàu có đã đề ra các chương trình viện trợ khi thì đa phương thông qua Liên Hiệp Quốc, khi thì song phương nhằm giúp đỡ các nước nghèo thóat được cảnh bần hàn khốn khổ. Nhưng Schumacher đã chỉ ra là hầu hết cái lối viện trợ kiểu này không đem lại kết quả bao nhiêu, bởi lẽ là những chuyên gia viện trợ đã không nắm bắt được tâm lý và hòan cảnh phức tạp của đa số quần chúng nông dân vừa ít học, vừa bị giới trung gian khai thác lợi dụng. Và hơn nữa, các kỹ thuật áp dụng lại không thích hợp với hòan cảnh văn hóa xã hội và tâm linh truyền thống tại miền nông thôn địa phương. Vì thế mà Schumacher đã mạnh dạn đưa ra những đường hướng quyết liệt là : “ Viện trợ tốt nhất là thứ viện trợ trí tuệ (Intellectual aid), viện trợ kỹ năng hữu ích (gift of useful knowledge), chứ không phải là quà tặng vật chất. “ Lối viện trợ như vậy mới làm cho người nhận sớm trở thành tự lập và không còn bị lệ thuộc vào nguồn cung cấp mãi của thứ “con bò sữa” như vẫn thường xảy ra. Phương thức này vừa ít tốn phí, mà vừa kích thích được cái mầm mống tự cường, tự túc vẫn có sẵn trong tiềm thức của lớp người dân vốn có lòng tự trọng, tự tin ở khả năng của bản thân mình. Đây mới đích thực là cách thức hay nhất để thực hiện được chủ trương “Giúp dân để người dân có thể tự giúp bản thân họ” ( Helping the people to help themselves).

Muốn đảy mạnh phong trào như vậy, thì phải lôi cuốn được các tổ chức thiện nguyện phi-chánh phủ (non-governmental voluntary agencies) ở cả hai phía quốc gia bên viện trợ cũng như bên nhận lãnh (donor/recipient countries); chứ không thể hòan tòan do hai bên chánh phủ độc quyền đứng ra hành động bao biện như từ bao lâu nay. Phương thức này, nói theo ngôn ngữ hiện nay, thì là : “Phải vận động Xã hội Dân sự từ cả hai nước cùng dấn thân nhập cuộc vào tiến trình phát triển và xây dựng tòan diện và điều hòa này” (total and harmonized development). Nhờ vậy mà cả một tập thể cộng đồng như được kích thích gây men ngay trong nội tâm sâu kín của mình (Mass fermentation and mobilization), để tạo ra được một thứ “năng động nhóm” (group dynamics) nhằm tiến hành được một sự phát triển bền vững lâu dài tại địa phương (self-sustaining community development).

Xin trích nguyên văn một đọan cuối của “ Chương 13 : Two million villages ” như sau :  “Phát triển kinh tế chỉ có thể thành công nếu nó được tiến hành như một phong trào quần chúng rộng rãi dấn thân vào công cuộc tái thiết (a broad, popular movement of reconstruction), tập trung chủ yếu vào việc tận dụng sự hăng say phấn khởi, sự tài trí và sức lao động của tất cả mọi người trong công đồng…Sự thành công chỉ có thể đạt tới là do quá trình phát triển bao gồm cả trình độ giáo dục, tính tổ chức và cả tính kỷ luật của tòan thể các thành viên trong cộng đồng. Thiếu một yếu tố nào kể trên, thì chỉ là gặt hái sự thất bại mà thôi “ ( trang 171).

2/   Đi tìm lọai kỹ thuật thích hợp nhất (Appropriate Technology AT)

Với tinh thần thực dụng, Schumacher chủ trương cần phải phát triển lọai “kỹ thuật trung gian” để thích hợp với hòan cảnh kinh tế xã hội tại các nước đang phát triển. Ông dành hẳn Chương 12 cho đề tài này với nhan đề như sau :   “ Social and Economic Problems Calling For The Development Of Intermediate Technology ” (Những Vấn Đề Xã Hội và Kinh Tế Đòi Hỏi Phải Phát Triển Lọai Kỹ Thuật Trung Gian). Tác giả viện dẫn hai lý do chính yếu sau đây  :  Thứ nhất là kỹ thuật quá tân tiến thì lại tốn phí, nên các nước nghèo không thể áp dụng phổ biến rộng rãi khắp nơi được. Thứ hai là trình độ văn hóa kỹ thuật của dân chúng miền quê không thể dễ dàng thích nghi với cái kỹ thuật quá tinh vi, phức tạp do các nước phát triển đề xuất ra. Do đó mà cần phải tìm kiếm cho ra được lọai “kỹ thuật thích hợp” mà thường cũng được gọi là “kỹ thuật trung gian” (Intermediate Technology), tức là thứ kỹ thuật đứng giữa lọai kỹ thuật lạc hậu cổ truyền  (mà rất rẻ tiền) với kỹ thuật hiện đại (mà rất là đắt tiền).

Tác giả lại có kinh nghiệm thực tiễn về chủ trương này, khi ông cùng với một số bạn hữu thành lập hẳn một Nhóm riêng biệt để nghiên cứu và thử nghiệm lọai kỹ thuật này tại Luân Đôn vào năm 1965 gọi là “The Intermediate Technology Development Group” ( ITDG). Cụ thể như : Nếu dùng kỹ thuật cao cấp như máy gặt liên hợp (combine harvester), thì phải tốn phí hết 70,000 dollar cho một người làm việc (workplace); như vậy thì các nước nghèo khó mà có thể tạo ra đủ công ăn việc làm cho cả triệu người được. Nhưng nếu sử dụng lọai kỹ thuật trung gian chỉ tốn kém có 700 dollar cho một người lao động, thì với số tiền 70,000 nói trên ta có thể tạo ra việc làm cho cả 1000 người. Và rõ ràng đây là thứ kỹ thuật thích hợp nhất cho các nước nghèo của thế giới thứ ba vậy. Cho đến nay ITDG đã phát triển và phổ biến khá rộng rãi tại nhiều nước trên thế giới, cả ở khu vực tiền tiến cũng như khu vực đang phát triển.

Cũng vì nhằm tạo ra thật nhiều công ăn việc làm ổn định hầu đáp ứng nhu cầu rất lớn cho nhiều khu vực nông thôn và các thị trấn nhỏ bé, mà việc nghiên cứu kỹ thuật trung gian này phải được thực hiện trong quy mô của một miền bao gồm nhiều cộng đồng nông thôn và đô thị nhỏ, chứ không thể làm theo cái lối khép kín, hạn hẹp trong môi trường quá hạn chế được. Do đó Schumacher đã khẳng định rằng “ Nếu mục tiêu của sự phát triển là giúp đỡ cho những người cần được giúp đỡ nhất, thì “ Mỗi một Miền hay Quận hạt trong một quốc gia phải có riêng một chương trình phát triển cơ hữu của mình.” Cụ thể như tại nướcThụy sĩ chỉ có chưa đày 6 triệu dân số, mà họ lại chia ra thành 20 quận hạt (cantons), mà mỗi đơn vị lại là một quận hạt phát triển riêng thích hợp với điều kiện đặc thù của mình (development district). Và chính nhờ vào sự “Phân quyền” (Decentralisation) như vậy, mà cả quốc gia này luôn giữ được sự phát triển điều hòa, ổn định trong một nền dân chủ mà mọi người dân đều có cơ hội tham gia vào công việc điều hành của cộng đồng nơi mình sinh sống (Participatory Democracy).

3/  Vấn đề Cạn kiệt Tài nguyên Thiên nhiên ( Depletion of Natural Resources)

Là người làm việc lâu năm trong ngành than đá, nên Schumacher rất chú trọng đến tình trạng sự dụng bừa bãi phí phạm về tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt trong các nước văn minh tiền tiến Âu Mỹ. Cụ thể là về dầu khí, than đá và nhất là rừng cây. Bằng những con số thống kê chính xác, tác giả đã nêu lên các sự thao túng, lạm dụng và ích kỷ của các nước giàu có trong việc xài hoang phí các tài nguyên thiên nhiên. Schumacher phân biệt rất rõ rệt hai lọai tài nguyên : lọai tái tạo được và lọai không tái tạo được (renewable/non-renewable resources). Ông còn chỉ rõ ra là :  Thiên nhiên luôn luôn hào phóng trong việc cung cấp cho con người những tài nguyên dồi dào phong phú, để mà khai thác đáp ứng nhu cầu sinh họat của nhân lọai. Nhưng thật  đáng buồn là con người trong mấy thế kỷ gần đây đã dùng khoa học kỹ thuật để mà khai phá quá mức đến độ tàn phá thiên nhiên một cách vô tội vạ, tạo ra cảnh cạn kiệt mau chóng các tài nguyên thiên nhiên (rapid depletion/exhaustion), tạo ra một sự mất quân bình giữa con người với thiên nhiên, cũng như giữa hiện tại với tương lai, và cả giữa con người với con người nữa. Ông còn nói rõ là : Phải coi thiên nhiên như một “ nguồn vốn” (Capital) và nhờ biết khai thác khôn khéo, chừng mực đối với thiên nhiên mà con người kiếm ra được các “ lợi tức” (Income). Và như vậy, thì chỉ được quyền sử dụng lợi tức trong việc thanh thỏa các nhu cầu chính đáng của mình; chứ không được tiêu xài vào cái nguồn vốn chỉ có giới hạn nhất định nào đó mà thôi. Schumacher đã rất nghiêm khắc phê phán cái sự kiêu căng, tham lam quá độ và nhất là cái thái độ bạo hành của con người đối với thiên nhiên, cũng như giữa con người đối với nhau nữa. Ông đề cao chủ trương “Bất bạo động, Bất hại “ (Non-violence, Ahimsa) của thánh Gandhi cũng như của Đức Phật, mà ông có dịp khảo sát tại Ấn Độ và Miến Điện. Những suy ngẫm này ông đã ghi rõ ràng trong Chương 4 nhan đề là  : “Buddhist Economics” ( Kinh tế học Phật giáo) mà chúng tôi sẽ dịch nguyên văn ra Việt ngữ được trình bày với đày đủ chi tiết trong một bài sau.

Cũng trong dòng chảy suy nghĩ đó mà Schumacher đã dành hẳn một Chương 9 với nhan đề : “ Nuclear Energy – Salvation or Damnation ?” (Năng lượng Hạt nhân – Sự Cứu Rỗi hay là Án Phạt?) để bàn về cái lợi hay cái hại của năng lượng hạt nhân. Tác giả kiên quyết chống lại việc sử dụng lọai máy phát điện nguyên tử vì lý do chất thải của lọai máy này chứa nhiều chất phóng xạ rất nguy hiểm lâu dài cho nhiều thế hệ sau này. Và may thay, do các biến cố “rò rỉ tại nhà máy điện hạt nhân Three Miles Island” ở Mỹ và nhất là tai nạn thảm khốc Chernobyl ở Liên Xô, mà việc xây dựng bừa bãi các nhà máy hạt nhân này mới bị kìm hãm lại. Rõ rệt là Schumacher là một vị tiền phong đóng góp rất lớn cho phong trào bảo vệ môi sinh trên khắp thế giới từ mấy chục năm gần đây.

4/   Phải Định Hướng lại cho Khoa Học và Kỹ Thuật ( The Re – Orientation of Science and Technology).

Hơn ai hết, Schumacher là người luôn luôn cảnh giác về tính kiêu căng ngạo mạn và ngoan cố của giới khoa học ngày nay, nhất là trong ngành kinh tế học là lãnh vực họat động chuyên môn suốt cả cuộc đời của ông. Bàng bạc trong cuốn sách này, ta thấy tác giả luôn đề cao sự khiêm tốn, tinh thần nhân ái và nhân bản trong việc đề ra đường lối họat động cụ thể mà thiết thực, nhằm vào việc “Cải thiện thế giới” (World Improvement). Ta có thể thấy lời cảnh giác này đã có từ mấy trăm năm trước qua nhà hiền triết Rabelais ở Pháp mà dịch ra tiếng Anh là : “ Science without conscience is the ruin of the soul” (Khoa học mà không có lương tâm thì chỉ là sự suy đồi của tâm hồn).

Tác giả đề cao tinh thần bao dung, đơn sơ, hòa ái của thánh Gandhi và nhất là của Phật Tổ, mà ông rất say mê nghiên cứu học hỏi trong thời gian làm việc ở Ấn Độ và Miến Điện. Nếu ta chú ý đến môi trường tôn giáo mà ông vẫn sinh họat tại nước Đức cũng như ở nước Anh, nhất là khi về già ông đã gia nhập đạo công giáo nữa, thì ta lại càng khâm phục cái thái độ thành tâm cầu thị, khiêm nhu và quý trọng của ông đối với Phật giáo và Thánh Gandhi ở Á châu. Ông đặc biệt đem thêm khía cạnh phẩm chất (qualitative aspects) và đạo đức (ethics) vào trong môn Kinh tế học là môn học mà các chuyên viên kinh tế thường chỉ chú trọng đến khía cạnh định lượng mà thôi (quantification). Tác giả luôn nhắc nhủ các nhà khoa học là phải tìm kiếm sự minh triết (wisdom) vốn đã ăn rễ sâu trong truyền thống đạo đức văn hóa trong các xã hội phương đông, mà thường bị người phương tây vì quá say mê và kiêu hãnh với tiến bộ khoa học, kỹ thuật vất chất nên đã xem thường. Vì thế ông mới gọi đó là môn “Siêu kinh tế học” (Meta-Economics).

Nói vắn tắt lại, các luận đề Schumacher đưa ra trong cuốn sách “Small is Beautiful” này hiện vẫn còn được thảo luận, khai thác rộng rãi trên tòan thế giới. Lọat bài viết ngắn ngủi này chỉ nhằm giới thiệu sơ lược về tư tưởng độc đáo, can đảm, mà lại rất táo bạo dứt khóat của Fritz Schumacher. Cuốn sách này là đúc kết kinh nghiệm họat động và suy nghĩ tìm kiếm trong suốt cuộc đời của tác giả, với tấm lòng tha thiết phục vụ cho nhân quần xã hội, đặc biệt đối với lớp đa số quần chúng kém may mắn nhất trên thế giới ngày nay. Bạn đọc có thể tham khảo thêm trên internet, để có số liệu cập nhật hóa rất đày đủ và phong phú về các đề tài mà Schumacher đã gợi ra trong cuốn sách thời danh này.

Người viết mong ước giới trẻ Việt nam, ở trong cũng như ở ngòai đất nước, để tâm theo dõi sự phát triển của lọai tư tưởng đày tính nhân bản và nhân ái tương tự như thế này, mà hiện đang có sức rất thuyết phục, quyến rũ cho cao trào tranh đấu bảo vệ nhân phẩm, nhân quyền và cả bảo vệ môi sinh đang dâng cao khắp thế giới ngày nay trong thế kỷ XXI. Và cũng mong được sự tiếp tay trong việc đào sâu và phổ biến trào lưu tư tưởng tiến bộ này từ nơi các bậc thức giả trong những tổ chức chuyên về văn hóa khoa học, cụ thể như : Viện Việt Học, Lê Văn Duyệt Foundation, Hội Khoa Học Kỹ Thuật, Hội Chuyên Gia Việt nam, Các Viện Nghiên Cứu thuộc các Tôn Giáo Việt nam v.v…

California, Mùa Phật Đản Kỷ Sửu 2009

Đòan Thanh Liêm

( Bài 3  :  Kinh Tế Học Phật Giáo – Buddhist Economics)

(bản dịch tòan bộ Chương 4)

Nhỏ bé thì mới đẹp đẽ .

Nhỏ bé thì mới đẹp đẽ .

( Small is beautiful )

Đòan Thanh Liêm

is beautiful”, đó là nhan đề của một cuốn sách xuất bản năm 1973. Tác giả là một kinh tế gia đã từng làm việc lâu năm tại Cơ quan quản lý về ngành than đá của nước Anh (National Coal Board NCB), tên là E F Schumacher. Ngay khi ra mắt công chúng, cuốn sách đã gây được tiếng vang lớn khắp thế giới, và cho đến nay sau trên 30 năm thì đã lưu hành được đến trên một triệu đơn vị, đó là chưa kể các ấn bản được dich ra nhiều thứ tiếng khác nữa.

Vào năm 1973 đó, tôi chỉ mới được đọc có một bài giới thiệu về cuốn sách này, trong đó có câu nguyên văn như sau khiến tôi nhớ mãi : “Small is beautiful, Simple is beautiful, Non-violent is beautiful too”. Mãi đến năm 1979-80, thì cụ Nguyễn Hiến Lê mới được ngưới cháu làm ở Liên Hiệp Quốc tại Geneva về thăm và mang cho bản dịch tiếng Pháp mà vẫn để nguyên nhan đề bằng tiếng Anh theo như nguyên tác, chứ lại không dịch ra tiếng Pháp : “Small is beautiful”. Cụ Nguyễn xem xong và cho tôi mượn đọc cuốn sách thật là hiếm mà có được ở Việt nam vào thời gian đó. Không những tôi đã say mê đọc, mà còn chuyển cho một vài người bạn thân thiết khác cùng đọc nữa. Rồi tôi lại có dịp đến trao đổi với cụ Nguyễn về nội dung cuốn sách này; nhờ vậy mà tôi vỡ lẽ ra được nhiều điều mới lạ mà tác giả đã gợi ra cho người đọc nào có sự chú tâm và đồng cảm với quan điểm của mình.

Đáng chú ý nhất là trong cuốn sách có một chương dài chừng 10 trang nhan đề là “Buddhist Economics” (Kinh tế học Phật giáo). Tác giả Schumacher viết rất gọn gàng khúc chiết, diễn giải một cái nhìn rất khác lạ đối với công chúng ở các nước Âu Mỹ.

Từ mấy tháng nay trước sự hỏang lọan cực kỳ rối ren đen tối phát sinh từ cuộc khủng hỏang kinh tế tài chánh của nước Mỹ và nhiều nơi trên thế giới, tôi đã tìm đọc lại cuốn sách này nơi ấn bản năm 1999 kỷ niệm 25 năm ngày xuất bản đầu tiên năm 1973 như đã ghi ở trên. Và với thêm nhiều tài liệu được cập nhật hóa liên quan đến tác giả và tác phẩm, tôi bèn nảy ra ý nghĩ là phải trình bày với chi tiết thật sáng sủa, mà gọn gàng về tư tưởng của tác giả Schumacher với các bạn đọc người Việt nam chúng ta.

Để cho vấn đề trình bày được thêm mạch lạc sáng tỏ, người viết xin chia ra thành 3 phần được diễn trình trong 3 bài như sau :

Bài 1/  Thân thế và sự nghiệp tác giả E F Schumacher

Bài 2/  Giới thiệu cuốn sách “Small is beautiful”

Bài 3/   Kinh tế học Phật giáo (dịch nguyên văn từ chương “Buddhist Economics”)

Nhân tiện người viết cũng xin ghi lời tưởng nhớ với niềm ngưỡng mộ chân thành và lòng biết ơn sâu sắc đối với cụ Nguyễn Hiến Lê, là một học giả đã góp phần rất lớn lao trong công trình xây dựng văn hóa nước nhà, dưới chế độ tự do ở miền Nam Việt nam hồi trước năm 1975. Cụ sinh năm 1912 (suýt soát với tuổi của E F Schumacher) ở Hanoi, và đã từ trần vào năm 1984 ở Saigon. Và năm 2009 này là kỷ niệm 25 năm kể từ ngày Cụ từ giã chúng ta.

Bài 1  —   Ernst  Friedrich  Schumacher  (1911 – 1977)

Thân thế và Sự nghiệp

1/  Sơ Lược Tiểu sử

E F Schumacher sinh tại thành phố Bonn, nước Đức năm 1911 (cùng năm xảy ra cuộc Cách Mạng năm Tân Hợi ở Trung quốc, lật đổ vương triều nhà Mãn Thanh). Thân phụ là Giáo sư Hermann Schumacher chuyên dậy về môn Kinh tế học tại nhiều trường Đại học ở Đức, kể cả tại thủ đô Berlin vào hồi đầu thế kỷ XX. Thân mẫu là Bà Edith Zitelmann, một tài năng về tóan học. Trong chỗ thân mật E F thường được gọi là Fritz. Với cha mẹ như vậy, nên người ta không ai ngạc nhiên về sự thông minh xuất chúng của Fritz là một học sinh luôn luôn đứng vào hàng đầu trong các lớp học. Lại nữa, Fritz còn được thụ giáo với các bậc đại sư nổi danh khắp thế giới như Joseph Schumpeter gốc Áo quốc, như John Maynard Keynes bên Anh quốc v.v…

Là một sinh viên xuất sắc, nên Fritz đã được học bổng Rhodes Scholar để theo học tại Đại học Oxford hồi đầu thập niên 1930, và lại được tiếp tục theo học tại Mỹ trong ngành kinh tế tài chánh. Sau thời gian ngắn làm việc tại Đức, Fritz không thể chấp nhận đường lối độc tài phát xít của Hitler, nên đã sang làm việc bên Anh quốc ít lâu trước khi thế chiến thứ hai xảy ra năm 1939. Lúc đầu khi mới nổ ra cuộc chiến, vì là công dân Đức nên Fritz cũng bị đối xử rất ngặt nghèo như là kẻ thù địch và bị xếp vào lọai người bị cô lập  trong một trại tập trung rất khắc nghiệt. Nhưng sau ít lâu, thì cũng được các bạn hữu giải thóat ra khỏi tình trạng quản chế này và được trao phó cho công viêc thích hợp với khả năng chuyên môn của một kinh tế gia.

Chiến tranh chấm dứt, Fritz nhờ đã có quốc tịch Anh, nên được phái sang Đức với nhiệm vụ làm cố vấn kinh tế cho phái bộ Anh đặc trách về vấn đề bình định và tái thiết trong khu vực thuộc quyền quản lý của quân đội nước Anh tại Đức. Vì được chứng kiến tận mắt những tàn phá mất mát của bà con ruột thịt với mình, nên Fritz đã ngày đêm miệt mài tìm cách xây dựng lại hệ thống quản lý và phân phối ngành năng lượng, chủ yếu là than đá vốn là huyết mạch của sự phục hồi kỹ nghệ tại nước Đức, cũng như tại tòan bộ các nước thuộc miền Tây Âu châu. Sau đó ông trở về lại nước Anh và nhận chức vụ cố vấn kinh tế cho cơ quan National Coal Board (NCB), đây là công việc ông làm trong nhiều năm nhất (gần 20 năm) cho đến khi về hưu vào năm 1970.

Về đời sống gia đình, Fritz  đầu tiên cưới bà vợ người Đức là Anna Maria Petersen vào năm 1936. Anna Maria thường được gọi là Muschi trong chỗ thân mật gia đình và bạn hữu. Hai vợ chồng rất gắn bó với nhau và đã trải qua những năm khốn khó giữa thời chiến tranh bên nước Anh. Họ có với nhau 5 người con. Nhưng không may, Muschi bị bệnh ung thư và mất sớm vào năm 1960, lúc chưa đày 50 tuổi. Sau đó, thì Fritz tục huyền với bà Vreni Rosenberger, người Thụy sĩ. Cuộc hôn nhân thứ hai này đem lại cho Fritz thêm 3 người con nữa. Bà Vreni là người chăm sóc tận tình cho Fritz vào thời cuối đời, đặc biệt là cho lũ con riêng của Fritz mà còn rất nhỏ tuổi, khi người mẹ của chúng là bà Muschi qua đời. Và rốt cuộc, chính Fritz Schumacher cũng đã kiệt sức vì làm việc quá nhiều, và đã qua đời trên chuyến đi diễn thuyết tại Thụy sĩ vào năm 1977 lúc mới có 66 tuổi.

Chi tiết về cuộc đời và họat động của Fritz Schumacher đã được người con gái lớn là Barbara Schumacher Wood ghi lại khá đày đủ trong cuốn tiểu sử xuất bản năm 1984, với nhan đề là  :   “ E F Schumacher , His Life and Thought “. Nhờ tham khảo cuốn sách này, mà người viết có thể cống hiến cho bạn đọc những chi tiết lý thú.

2/  Hành trình tư tưởng của Fritz Schumacher.

Có thể nói Fritz là một nhân vật xuất chúng cả trong hành động cụ thể, cũng như trong công cuộc tìm kiếm giải pháp tốt đẹp có tầm vóc tòan cầu trước những khó khăn bế tắc của thế giới hiện đại. Như đã trình bày ở phần trên, thông qua việc học hỏi và làm việc tại các quốc gia tiền tiến như Đức, Anh và Mỹ trong hơn 60 năm, ông đã được tiếp cận với các luồng tư tưởng, với các nhân vật ngoại hạng, cũng như tham gia vào các hoạt động ở tầm mức cao nhất trên thế giới. Và cùng với một trí tuệ thông minh vượt trội và sức làm việc cần mẫn, say sưa miêt mài trong nhiều năm, ông đã đạt tới tình trạng “ngộ ra được’ một đường lối phải noi theo để góp phần xây dựng tốt đẹp nhất cho thời đại ngày nay. Ông đã đi khắp năm châu, bốn biển, nhất là Phi châu, châu Mỹ la tinh , Ấn độ, Miến điện để nhận diện được sự phức tạp của hòan cảnh sinh họat văn hóa xã hội và cả mặt tâm linh của nhiều sắc dân với truyền thống lịch sử rất khác biệt với nhau.

Lúc còn trẻ, vì hăng say làm việc và nghiên cứu với tinh thần lạc quan khoa học, ông như người vô thần, không chú tâm gì đến khía cạnh tâm linh của con người. Nhưng sau này, nhờ quan sát tại chỗ ở nhiều quốc gia trên thế giới, ông đã chú trọng đến ảnh hưởng của tôn giáo trong các nền văn hóa. Đặc biệt ông rất khâm phục chủ trương “Bất bạo động” của Thánh Gandhi bên Ấn độ và lối sống thanh thóat của người Phật tử tại Miến điện. Và đến cuối đời, thì ông gia nhập đạo công giáo.

Bởi vậy mà suy nghĩ của Schumacher càng thêm chín mùi hơn với khía cạnh nhân bản và nhân ái, vượt thóat được thái độ kênh kiệu, tự cao tự đại và tự mãn thường thấy nơi những người quá say mê với thành tựu khoa học kỹ thuật, cũng như về kinh tế của các nước Âu Mỹ. Càng tìm hiểu nơi các nền văn hóa cổ truyền bên ngoài thế giới Tây phương, ông càng có thái độ khiêm tốn, phục thiện và mở rộng tâm hồn để đón nhận những luồng tư tưởng khác lạ mà lại rất phong phú của nhân lọai. Có thể nói Schumacher luôn luôn nhất quán trong việc đề cao khía cạnh đạo đức nhân bản trong lề lối tổ chức sinh họat kinh tế xã hội cho con người trong thế giới ngày nay. Ông luôn nhắc nhủ, cảnh giác cái thái độ tự phụ của các nhà lãnh đạo các cường quốc chỉ biết đến khoa học, đến năng suất kinh tế thương mại, mà sao lãng vấn đề lương tâm và trách nhiệm liên đới của các quốc gia là thành viên trong cộng đồng nhân lọai.

Cụ thể Schumacher phê phán nhà bác học Einstein rằng : Vì ông ta quá mức đề cao thuyết tương đối (Relativity), thì đâm ra chối bỏ cái tiêu chuẩn đạo đức vốn có giá trị tuyệt đối. Cũng vậy, lý thuyết của Freud coi rằng con người hành động là do sự ẩn ức của sinh lý bị dồn ép, thì không còn phải chịu trách nhiệm gì về việc làm xằng bậy của mình nữa. Như vây là sự vô trách nhiệm. Schumacher cũng phê phán Karl Marx về lý thuyết định mệnh lịch sử, thì con người cũng không còn chịu trách nhiệm cá nhân của riêng bản thân nữa. Ông cũng cực lực lên án chủ trương gieo rắc hận thù của người macxít, vì đó là nguyên nhân của các vụ tàn sát kinh hòang trong thế giới cộng sản. Ta sẽ có dịp xem xét chi tiết hơn về tư tưởng của Schumacher khi đọc tác phẩm chính yếu “Small is beautiful” là đề tài sẽ được trình bày trong bài sau.

3/  Ảnh hưởng của tư tưởng Schumacher

Báo New York Times đã xếp cuốn “Small is beautiful” là một trong 100 cuốn sách có ảnh hưởng nhất trên thế giới (the most influential books) kể từ sau thế chiến 2. Tác giả đã được mời đi diễn thuyết tại nhiều nơi trên thế giới và được nhiều vị nguyên thủ quốc gia tham khảo ý kiến, trong đó có cả Tổng Thống Jimmy Carter của nước Mỹ. Tại nhiều nước, đặc biệt là ở Anh và Mỹ, các thân hữu ái mộ ông đã lần hồi thành lập “Hiệp hội E F Schumacher” (E F Schumacher Society) nhằm nghiên cứu, khai triển và phổ biến tư tưởng của ông. Và còn rất nhiều các tổ chức và các nhóm khác đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng của ông, mà điển hình như “ Institute for Community Economics”, “Council on Economic Priorities”, “Friends of the Earth”, “Greenpeace”, “Worldwatch Institute”, “Soil Remineralization Network”, “Global Warming Network” v.v…

Ta có thể lược kê ra các đề tài được Schumacher nêu ra ngay từ thập niên 1960 và hiện nay vào thế kỷ XXI vẫn còn tính cách thời sự cấp bách, mà được quần chúng cũng như giới trí thức hàn lâm rất quan tâm.  Điển hình một số các đề tài đó như sau  :

  • Phê phán các hệ thống tổ chức quá mức (overorganised systems) làm phá họai tinh thần con người, cũng như cả hành tinh trái đất.
  • Đề cao sự quan trọng của “mức thang nhân sinh” (human scale) trong việc tổ chức sinh họat kinh tế xã hội.
  • Ý niệm về “kỹ thuật với bộ mặt nhân bản” (technology with human face), về “kỹ thuật thích hợp” (appropriate technology) cho từng quốc gia, có tính cách đơn giản, bất bạo động và có thể kiểm sóat được (controllable).
  • Ưu tư về sự mau cạn kiệt (rapid depletion) các tài nguyên thiên nhiên, khiến đưa tới sự phá hủy môi sinh.Cần cảnh giác về việc sử dụng quá mức các lọai tài nguyên không thể tái tạo (non-renewable resources) như than đá, dầu khí, gas…
  • Sự quan trọng của việc phục hồi lại cái hệ thống giá trị về một lối sống tốt đẹp, một xã hội an hòa (good life, good society) thay vì cứ để bị mê hoặc bởi các lọai lợi ích ngắn hạn nhất thời.
  • Sự cần thiết phải trở về với “Bốn Nhân Đức Nền Tảng” (Four Cardinal Virtues), đó là : Sự Khôn ngoan, Công lý, Dũng cảm và Tiết chế ( tiếng latin : Prudentia, Justitia, Fortitudo, Temperantia)  …

Đại khái các đề tài này đã luôn luôn được đưa ra thảo luận trong các cuộc hôi thảo, các buổi nói chuyện trao đổi giữa nhiều nhóm, nhất là giới sinh viên Đại học, các tổ chức tôn giáo… Và các lọai ý kiến xuất phát từ các cuộc gặp gỡ này hiện vẫn được chuyển tải thường xuyên trên các phương tiện truyền thông đại chúng, nhất là trên internet.

Sức thu hút của tư tưởng Schumacher đối với nhiều người, đó là do sự chính xác của lý luận và phân tích tình hình xã hội của ông được thể hiện rõ ràng qua sự kiểm chứng đối chiếu với thực tiễn sinh động tại nhiều nơi trên thế giới ngày nay. Cụ thể như : Các nhà máy phát điện với kích thước quá lớn đã lần hồi bị thay thế bởi các đơn vị nhỏ bé hơn, bởi lẽ các nhà máy với quy mô vừa phải thì mới có hiệu quả chắc chắn, vũng bền hơn. Cũng như các nhà máy điện nguyên tử không còn được xây dựng ào ạt sau các vụ rì rỏ tại “Three Miles Island” ở Mỹ và nhất là sau tai nạn thảm khốc Chernobyl ở Liên Xô vào thập niên 1980, sau khi Schumacher đã qua đời năm 1977.

Nhân tiện cũng nên ghi nhận chủ trương của tác giả “Small is beautiful” cũng có nhiều nét tương đồng với quan điểm của nhà tư tưởng đương thời và cũng nổi danh khác, đó là Karl Popper gốc từ Áo quốc (1905-1994), là một vị giáo sư lâu năm của Đại học London School of Economics cũng ở nước Anh. Đó là chủ trương “Piecemeal Social Engineering” ( “Xây dụng xã hội từng mảnh một “, như đã được trình bày khá chi tiết trong tác phẩm nổi danh của ông với nhan đề là : “The Open Society and Its enemies “), mà nhà tỉ phú George Soros là một môn đệ hiện đang theo đuổi áp dụng thông qua tổ chức “Open Society Institute OSI” do ông sáng lập, có trụ sở chính tại New York, và chuyên chú về công cuộc phục hồi tại các nước Đông Âu trong giai đọan hậu cộng sản từ 20 năm nay. Người viết mong sẽ có dịp trình bày chi tiết hơn về cặp đại sư Karl Popper và môn sinh George Soros này trong một dịp khác, cũng như đã viết về vị đại sư cũng rất nổi danh khác của nước Pháp là Raymond Aron (1905-1983) vào đầu năm 2008 vừa qua./

California, Tháng Tư 2009

Đòan Thanh Liêm

( Bài 2   : Giới thiệu tác phẩm “Small is beautiful”). (tiêp theo)